Cậu bé nông dân (Bộ sách “Ngôi nhà nhỏ”)

Bộ sách Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên

 Tập 2: Cậu bé nông dân
(The farmer boy)

 

Đây là tập thứ hai trong bộ sách 9 tập Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Little house on the prairie), được gọi tắt là Bộ sách Ngôi nhà nhỏ (Little house series). Tác giả là người Mỹ, bà Laura Ingalls Wilder (1867-1957).

Bộ sách này thuật lại những kỷ niệm trong cuộc đời của chính tác giả. Riêng tập 2 này, Cậu bé nông dân (The farmer boy), kể về cậu bé Almanzo lúc lên 9-10 tuổi, trong giai đoạn 1866-1867. (Tác giả và Almanzo sau này nên vợ nên chồng.) Gia đình cậu bé Almanzo sống trong một trang trại gần thị trấn Malone, ở cực bắc Bang New York. Trong truyện này, Almanzo Almanzo có anh tên Royal, và hai chị tên Alice và Eliza.

So với cảnh sống giản dị của gia đình bé Laura như miêu tả trong Tập 1: Ngôi nhà nhỏ trong Rừng Đại Ngàn (Little house in the Big Woods), gia đình cậu Almanzo tương đối bề thế hơn: cơ ngơi lớn hơn, nuôi nhiều gia súc hơn. Qua đó, Tập 2: Cậu bé nông dân đưa ra những sắc thái mới lạ trong đời sống của một trang trại Mỹ. Trong khi Tập 1 trình bày chủ yếu bức tranh đời sống của các bé gái thơ ấu, Tập 2 này cho thấy những nét khác biệt trong đời sống các cậu con trai. Hai tập trình bày đường hướng tương tự nhau: bậc cha mẹ muốn chuẩn bị con gái thành phụ nữ đảm đang biết chăm lo gia đình, và con trai thành đàn ông có đủ kỹ năng cần thiết để quản lý trang trại.

Tập 2 đưa ra toàn cảnh một năm tròn của một gia đình làm chủ một trang trại rộng lớn, với những hoạt động nối tiếp nhau cho thích hợp với nông lịch. Mỗi hoạt động không thể bắt đầu sớm quá và cũng không được muộn quá. Cậu bé Almanzo lên mười “là một chiến sĩ nhỏ trong cuộc chiến lớn lao này.” Thể hiện xuyên suốt tác phẩm là tinh thần lao động: lao động cật lực, lao động để làm giàu lương thiện.

Đồng thời bậc cha mẹ giúp cho con cái hiểu được giá trị của đồng tiền. Nói theo cách bây giờ, Bố của Almanzo cho biết cứ một trăm đô la gửi ở ngân hàng sinh lãi bốn đô la sau một năm, và bảo cậu trước khi muốn tiêu chỉ dăm ba đô la thì cần tính ra phải mất công sức lao động bao nhiêu để tạo ra khoản tiền nhỏ nhoi ấy.

Tên riêng và từ đặc biệt

(Bổ sung của người dịch)

Áo đỏ (nguyên tác: Redcoat) – tiếng bình dân chỉ binh sĩ Vương quốc Anh, vì vào thời này họ mặc quân phục chủ yếu có mầu đỏ.

bánh bông lan bơ (nguyên tác: pound-cake) – loại bánh ngọt trong đó bột, mỡ, trứng, đường có trọng lượng ngang nhau, người phương Tây thường cân 1 pound (gần nửa ki-lô-gam) cho mỗi thành phần để làm một ổ bánh.

bánh mỳ lúa mạch đen (nguyên tác: rye’n’injun) – loại bánh mỳ chủ yếu làm bằng bột lúa mạch đen từ hạt lúa mạch đen không xay xát, và bột ngô, có vị hơi ngọt.

bánh vòng (nguyên tác: doughnut) – loại bánh vị ngọt, bề mặt thường được tẩm đường hoặc sô cô la, được rán hoặc nướng bằng bột nở, có nhiều hương vị tùy vật liệu cho thêm: va ni, dâu, dừa, chuối, quế… Bánh vòng thường có hình vòng xuyến, nhưng có thể có hình cầu đặc hoặc hình sợi, có thể có nhân là kem hoặc mứt hoặc chỉ toàn là bột.

bàn kẹp hoặc ê tô (nguyên tác: vice) – dụng cụ gồm có hai phiến nhỏ đặt đối diện với nhau, được di chuyển cách xa nhau hoặc tiến gần nhau bằng một tay quay (ngày nay có thể là bằng điện). Vật cần kẹp được đặt ở giữa hai phiến, rồi hai phiến này được di chuyến tiến gần nhau, kẹp chặt. Mục đích của bàn kẹp là kẹp chặt lấy một vật mà không cho rung động, lắc lư trong những thao tác như dũa, mài, cắt… cần đạt độ chính xác.

bò rừng (nguyên tác: buffalo, còn được gọi là bison) – loài thú sống trên cạn lớn nhất ở Bắc Mỹ, (con đực nặng 850-1100 kí-lô-gam và con cái nhỏ hơn), có bướu ở trên và phía trước vai; có bộ lông dầy, dài, mầu nâu sậm; cả con đực và con cái đều có sừng ngắn, nhọn, cong lên phía trên và về phía trước. Trong thời gian diễn ra câu chuyện ở tập sách này, nước Mỹ có hàng chục triệu bò rừng sống trên các vùng thảo nguyên, sống thành đàn đông có thể đến vài nghìn con mỗi đàn, được con người (đặc biệt là người Da đỏ) khai thác làm nguồn thực phẩm, lông và da.

Cách mạng – trong Chương “Ngày Độc lập”, có ý nói đến cuộc Cách mạng Mỹ, diễn ra trong giai đoạn 1775-1783, với cuộc chiến giành độc lập giữa một bên là mười ba thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và bên kia là Vương quốc Anh. Đến năm 1783, Vương quốc Anh công nhận nền độc lập của mười ba thuộc địa, dẫn đến việc thành lập nhà nước Hoa Kỳ.

chồn hôi (nguyên tác: skunk) – chỉ chung một số loài chồn nhỏ sống ở Bắc Mỹ, loại phổ biến nhất có bộ lông đen với một hoặc hai vệt lông trắng chạy từ đỉnh đầu xuống dọc lưng, có tuyến xạ cho mùi rất hôi. Khi gặp nguy cấp, chồn hôi xịt ra xạ khiến cho thú dữ không thể chịu nổi, phải bỏ chạy.

Comanche – tên do người da trắng gọi một dân tộc của người Da đỏ. Người Comanche chủ yếu sống ở vùng Trung-Tây nước Mỹ. Vào giữa thế kỷ 19, giữa người Comanche và người da trắng đi khai phá thường diễn ra xung đột.

Timothy2

cỏ đuôi mèo (nguyên tác: timothy) – loài cỏ có thân cao, chắc khỏe, được trồng phổ biến ở Mỹ để nuôi gia súc, được xem là loài cỏ có giá trị vì cho đủ chất dinh dưỡng cho gia súc.

Da đỏ – còn được gọi là người Mỹ Bản địa (Anh ngữ: Native Americans), chỉ chung những dân tộc đã sinh sống từ lâu ở Châu Mỹ, rất lâu trước khi những người từ Châu Âu đi cư qua Mỹ lập nghiệp (tiếng Việt thường gọi là “người da trắng”) bắt đầu từ cuối thế kỷ 15. Vào thời của câu truyện này, nhiều dân tộc người Mỹ Bản địa sinh sống bằng cách săn thú, bắt cá, hái lượm tài nguyên rừng… Nhiều bộ tộc thường không ở hẳn một chỗ mà dời lều trại đi nơi này nơi khác, mỗi nơi ở trong một thời gian ngắn. Từng dân tộc của họ có ngôn ngữ và tập quán khác biệt. Nhà thám hiểm Christopher Columbus (1451-1506) lên tàu định đi khám phá thêm Ấn Độ, khi đến Châu Mỹ lại cho rằng mình đã đến nước Ấn Độ. Vì sự ngộ nhận này mà ông gọi những người Mỹ Bản địa ông gặp là người Ấn Độ (tiếng Anh: Indian). Tên Indian tuy do ngộ nhận vẫn còn được dùng để chỉ người Mỹ Bản địa.[A]

du (nguyên tác: elm) – trong sách này là cây du Mỹ, cây gỗ to, cao hơn 30 mét, mọc phổ biến vùng ôn đới.

dục tốc bất đạt hoặc nhanh nhẩu đoảng (nguyên tác: haste makes waste) – thành ngữ có ý nói: khi muốn làm nhanh thì khó làm cho có kết quả tốt.

“Đạp!”“Họ!” – trong nguyên bản, từ tiếng Anh “Geddit!” dùng để ra lệnh cho con bò đi, và tiếng Anh “Whoa!” dùng để ra lệnh cho con bò đứng yên. Hai mệnh lệnh tương đương mà một số nông dân Việt Nam dùng để điều khiển trâu cày là “Đạp!” có nghĩa là đi và “Họ!” có nghĩa là đứng.

đậu ba lá (nguyên tác: clover) – chỉ chung các loài cây thân thảo thuộc họ đậu, mỗi lá phân làm bản lá riêng rẽ, mọc phổ biến trên thảo nguyên và cũng thường được trồng làm thức ăn giàu chất đạm cho gia súc.

đô la – một đô la vào thời gian của câu chuyện này có trị giá trên dưới 50 đô la hiện thời, tùy loại hàng hóa và dịch vụ.

giày da đanh (nguyên tác: moccasin) – loại giày làm bằng da thú, cả đế giày và hai thành bên liền lạc nhau bằng một miếng da duy nhất, được may nối lại ở phần trên. Đế giày mềm và dẻo, dễ thích ứng với mặt đất gập ghềnh. Khởi thủy đây là loại giày của người Da đỏ, về sau nhiều người da trắng cũng thích sử dụng.

giạ (nguyên tác: bushel) – trong sách này là đơn vị đo lường ở Mỹ (nên được gọi là “giạ Mỹ” thì đúng hơn), có dung tích khoảng 35 lít, để đong lúa mỳ, bắp, khoai tây… Giạ ở Việt Nam có dung tích bằng khoảng 40 lít, để đong thóc, gạo…

gié – cọng cây mang chùm hạt lúa, lúa mỳ, yến mạch… Khi gặt, người ta không chỉ gặt gié mà còn gặt xuống cọng phía dưới, nhưng phần gặt được vẫn gọi chung là gié.

giêlatin (nguyên tác: gelatine) – chất nhờn hiện diện chủ yếu trong xương, khớp và da. Khi luộc nhừ thịt có da và xương, giêlatin bám quanh thịt và một phần tan vào trong nước luộc. Khi để thịt nguội đi ở nhiệt độ thấp, giêlatin đông lại trông giống như thạch, kết dính các mảnh thịt với nhau, tạo ra món giò thủ.

hạt (nguyên tác: county) – đơn vị hành chính cấp địa phương, dưới cấp bang của nhiều bang ở Mỹ. (Một số bang chia thành những đơn vị hành chính có tên gọi khác.)

hỏa mai (nguyên tác: musket) – loại súng cá nhân có nòng dài, được dùng từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, để bắn mỗi phát đạn binh sĩ phải thực hiện nhiều thao tác.

Học viện (nguyên tác: Academy) – trong sách này, chỉ trường tư thục cấp hai và cấp ba.

la (nguyên tác: mule) – con thú lai, có cha là lừa và mẹ là ngựa, được nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng dùng làm thú chuyên chở. Đầu, vành tai và đuôi con la tương tự lừa, thân hình giống ngựa, nhưng vượt trội cả lừa lẫn ngựa vì thông minh hơn, chịu đựng sức nặng giỏi hơn, chân vững vàng hơn để đi trên đồi núi, và tuổi thọ dài hơn.

lanh (nguyên tác: linen) – sợi lanh được rút ra từ cây lanh, và được dệt thành vải lanh. Cây lanh là một loài cỏ nhất niên cao đến một mét, cọng mảnh mai, lá hẹp, hoa mọc đối có năm cánh, mầu từ trắng đến lam nhạt và lam đậm. Cây lanh đã được trồng từ mười nghìn năm trước để cho sợi quý vì vải lanh rất được ưa chuộng, do tính chất tạo sự mát mẻ cho người mặc trong mùa nóng.

len co (nguyên tác: fullcloth) – loại len (dệt từ lông cừu) đã được ngâm trong nước để sợi len co lại, trở nên dầy hơn, thích hợp để dệt thành loại hàng len dầy dùng may trang phục chống lạnh.

Lễ Tạ ơn (nguyên tác: Thanksgiving) – ngày lễ truyền thống của nước Mỹ, nhằm vào ngày Thứ Năm lần thứ tư của Tháng Mười một. Lễ Tạ ơn đầu tiên do Tín đồ Di cư ở khu định cư Plymouth tổ chức để cảm ơn thổ dân địa phương đã giúp đỡ họ vượt qua mùa đông khắc nghiệt đầu tiên trên đất Mỹ. Dần dà, Lễ Tạ ơn có ý nghĩa tôn giáo là tạ ơn Thượng Đế, và gà tây luôn là món chính trong bữa ăn Lễ Tạ ơn.

Wintergreen_largelộc đề (nguyên tác: wintergreen) – loại cây bụi, cao nhất chỉ khoảng 40 cen-ti-mét; lá láng, dầy, xanh tươi quanh năm. Cây mọc hoang ở vùng ôn đới Bắc Mỹ và Châu Âu nhưng cũng được trồng. Hoa hình chuông mầu trắng; quả tròn, mọng, vỏ đỏ tươi. Lá có tinh dầu thơm, có thể được hãm nước sôi để uống như trà; tinh dầu trong lá được chiết xuất làm dược phẩm (trị đau nhức khớp, nhức đầu…), làm nước hoa, mỹ phẩm, kem đánh răng…, và dùng làm các loại bánh để tạo hương vị.

lúa mạch đen (nguyên tác: rye) – cây thân thảo tương tự lúa mỳ, cho hạt làm thực phẩm cho người (chủ yếu làm bánh mỳ, thường được trộn với các loại bột khác), làm thức ăn gia súc, và nấu rượu huýt ky.

Meadow buttercup (Ranunculus acris)mao cấn (nguyên tác: buttercup) – chỉ chung một số loài cây thân thảo chủ yếu ở vùng ôn đới, vào mùa xuân một số loài phổ biến nở hoa mầu vàng tươi.

máy quạt ngũ cốc – loại quạt thổi khí để thổi bay đi trấu, mảnh rơm, bụi…, chừa lại hạt ngũ cốc sạch.

mại châu hoặc mạy (nguyên tác: hickory) – một số loài cây to thuộc họ cây óc chó, phổ biến ở các vùng miền đông và miền nam nước Mỹ, ở Việt Nam cũng có vài loài. Mại châu cho quả cứng có nhân ăn được, gỗ có vân đẹp dùng đóng bàn ghế, tủ, dụng cụ thể thao…

Merino – dòng cừu xuất xứ ở Tây Ban Nha, cho loại len có sợi dài, chất lượng tốt. Len của dòng cừu này cũng được gọi là Merino.

Morgan – dòng ngựa có thân hình rắn chắc, bộ lông thường có mầu đỏ nhạt hay nâu nhạt, được lai giống từ đầu thế kỷ mười chín ở Mỹ, là thủy tổ của những dòng ngựa quan trọng ở Mỹ sau này.

muối diêm (nguyên tác: saltpeter) – chất hóa học có tên ni-trát kali, thể rắn, hạt nhỏ có mầu trắng trông giống muối ăn, dùng để ướp thịt để thịt có mầu hồng trông đẹp. Ở Việt Nam cũng có dùng muối diêm để ướp lạp xưởng, thịt quay… với mục đích tương tự. Sau này việc dùng muối diêm ướp thịt không được khuyến khích vì thịt được ướp muối diêm có thể gây ung thư cho người dùng.

Mũi Hảo Vọng (nguyên tác: Cape of Good Hope) – mũi ở đây là phần đất kéo dài ra biển thành hình tam giác mà một góc hướng ra ngoài biển, hai góc còn lại vẫn nối với đất liền. Mũi Hảo Vọng nằm ở cực nam Châu Phi, hướng ra Đại Tây Dương.

Crankberry4nan việt quất (nguyên tác: crankberry) – một nhóm những cây bụi thấp hoặc cây nhỏ trườn, thường mọc gần bờ nước; có cành thanh mảnh, lá nhỏ; cho quả mọng to hơn lá, có mầu hồng sậm, vị chua ngọt. Quả nan việt quất tươi có thể được dùng trong món rau trộn dấm, nhưng thường được chế biến thành quả khô, nước giải khát, mứt, hoặc nước sốt để nấu nướng.

ngọc hồng lựu (nguyên tác: garnet) – chỉ chung một nhóm đá quý thường có mầu nâu, nâu-đỏ, đen…, có độ cứng 6 đến 7.5 (độ cứng cao nhất là 10, của kim cương). Trong các loại đá quý, ngọc hồng lựu có giá trị tương đối thấp.

ngô đậu (nguyên tác: succotash) – món ăn chủ yếu dùng đậu ngự và bắp hạt, thường được hầm với bơ, muối, tiêu…, sau đó có thể cho vào món rau trộn dấm.

nhai lại – một số loài thú như bò, cừu và dê thuộc nhóm thú nhai lại: chúng ăn cỏ và nuốt vội vào hai ngăn đầu của dạ dầy gồm có bốn ngăn, sau đó khi về chuồng hoặc nằm nghỉ trên đồng cỏ thì ợ cỏ lên miệng để nhai lại.

nhục đậu khấu (nguyên tác: nutmeg) – phần thịt quả bao bên ngoài hột của cây đậu khấu, một loài cây nhỡ cao 10-15 mét, cũng được trồng ở Đông Nam Á kể cả Việt Nam, để lấy thịt của quả làm dược liệu hoặc làm thức ăn tráng miệng.

óc chó trắng (nguyên tác: butternut) – loài cây cao trung bình 15-20m, thay lá hàng năm; có hạt ăn ngon và được dùng trong các loại kẹo bánh; gỗ đẹp để đóng đồ nội thất. Vào thời gia câu truyện trong sách này, các gia đình Mỹ dùng vỏ thân cây hoặc vỏ quả óc chó trắng để nhuộm sợi, tạo ra mầu từ vàng nhạt đến nâu sậm. Để nhuộm mầu sậm, họ nấu vỏ cây cho cô đặc lại.

phong hay thích hay tích thụ (nguyên tác: maple) – chỉ chung một số loài cây gỗ to, phổ biến vùng ôn đới, thường mọc thành rừng thuần chủng, có lá xẻ làm 3 hoặc 5 phiến lá phụ (được gọi là thùy), vào mùa thu lá đổi mầu thành vàng, cam, đỏ theo nhiều sắc độ khác nhau. Vì thế, rừng phong vào mùa thu có những mầu sắc rất đẹp, đã đi vào thơ văn cổ. Canada dùng hình lá phong mầu đỏ làm biểu tượng trên quốc kỳ Canada. Riêng có một loài phong cho nhựa được thu hoạch để chế biến thành xi rô phong (trông giống mật ong) hoặc đường phong (trông giống đường thẻ).

phong nai (nguyên tác: moosewood) – loài cây phong thích mọc dưới bóng râm, thường mọc chụm lại thành bụi thấp trước khi một số cây trong bụi vươn lên cao, cho đọt non được nai ưa thích tìm ăn, có lá rộng chia làm ba phiến lá phụ.

pút-đinh (nguyên tác: pudding) – ở Mỹ chỉ những loại bánh đa dạng, được làm từ sữa trộn với bơ, bột ngũ cốc hoặc trái cây, hoặc trứng, thịt… rồi được nướng hoặc hấp để dùng làm một món mặn ăn chính hoặc món ngọt tráng miệng.

quả hạch (nguyên tác: nut) – loại quả có vỏ cứng như lớp gỗ mỏng, có thể được tách ra dễ dàng khỏi phần thịt quả bên trong. Các quả sồi và quả dẻ thuộc loại quả hạch.

“Rì!”“Tắc!” – trong nguyên bản, từ tiếng Anh “Haw!” dùng để ra lệnh cho con bò rẽ trái, và tiếng Anh “Gee!” dùng để ra lệnh cho con bò rẽ phải. Hai mệnh lệnh tương đương mà một số nông dân Việt Nam dùng để điều khiển trâu cày là “Rì!” có nghĩa là rẽ trái và “Tắc!” có nghĩa là rẽ phải.[B]

rượu táo (nguyên tác: cider) – trong sách này, chỉ nước táo lên men rượu có hàm lượng rượu tương đương rượu vang, và có loại nhẹ hơn nhiều nên gia đình Mỹ có thể cho phép trẻ con uống một ít.

sơn trâm (nguyên tác: blueberry) – một số loài cây bụi hoặc cây nhỏ cho quả tròn, ngọt, thường có mầu lam hoặc tím, mọc hoang phổ biến vùng ôn đới và cũng được trồng đại trà. Một số loài sơn trâm hiện diện trong rừng Việt Nam nhưng khác với những loài mọc hoang ở Mỹ.

St. Lawrence – Sông St. Lawrence ở miền đông-bắc nước Mỹ, dài 1300 cây số, từ Hồ Ontario chảy ra Đại Tây Dương, tạo thành một phần đường ranh giới giữa hai nước Mỹ và Canada.

sữa bơ (nguyên tác: buttermilk) – trong sách này chỉ sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất bơ từ sữa. Sau khi khuấy sữa, chất béo của sữa (gọi là kem) quánh lại tạo thành bơ, phần còn lại là sữa bơ có hàm lượng đạm cao vì chất béo đã được lấy đi, và có vị chua do quá trình lên men trong sữa.

thúng giạ (nguyên tác: bushel basket) – thúng được đan bằng sợi vỏ cây hoặc được đóng bằng gỗ, ở Mỹ có dung tích khoảng 35 lít, để đong lúa mỳ, bắp, khoai tây… Thúng giạ ở Việt Nam thường được đan bằng tre, có dung tích khoảng 40 lít, để đong thóc, gạo…

Tín đồ Di cư (nguyên tác: Pilgrim Fathers, có nghĩa “Những người cha Hành hương”) – một nhóm tín đồ Thanh giáo ở Anh quốc vì bất mãn với Giáo hội Anh có hành động kỳ thị đàn áp họ nên di cư qua Mỹ. Vì thế, chủ đích chính của việc di cư này là muốn có cuộc sống mới trong tự do tín ngưỡng. Vào năm 1620, họ lập nên khu định cư riêng biệt của họ tại Plymouth, thuộc Bang Massachusetts. Câu chuyện di cư của nhóm tín đồ này đã trở thành một sự kiện tâm điểm trong lịch sử và văn hóa nước Mỹ.

trại dưỡng (nguyên tác: livery) – cơ sở dịch vụ nhận ngựa để chăm sóc và cũng nuôi ngựa để cho thuê, vì lẽ nhiều gia đình có ngựa nhưng không có điều kiện hoặc thời gian chăm sóc, hoặc không dễ mua thức ăn cho ngựa…

Tuyên ngôn Độc lập (nguyên tác: Declaration of Independence) – trong Chương “Ngày Độc lập”, là bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ chính thức tuyên cáo nền độc lập của Hoa Kỳ, thoát ra khỏi sự thống trị của Vương quốc Anh. Ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập là những đại diện cho 13 tiểu bang của nước Hoa Kỳ sơ khai. Ngày 4 Tháng Bảy năm 1776, Quốc hội Hoa Kỳ chính thức phê chuẩn Bản Tuyên ngôn Độc lập. Từ đó về sau, người Mỹ gọi ngày 4 Tháng Bảy là ngày Độc lập (Anh ngữ: Independence Day), tức là ngày Quốc khánh của nước Mỹ.

Snowball

tú cầu (nguyên tác: snowball, có nghĩa hòn tuyết) – chỉ chung các loài cây bụi vùng ôn đới, hoa nở thành cụm tròn làm cho người phương Tây liên tưởng đến hòn tuyết, thường được trồng làm hàng rào hoặc bụi hoa cảnh. Hoa có nhiều mầu khác nhau tùy loài, thường là tím và hồng, nở thành nhiều chùm dày đặc, tỏa mùi rất thơm. Ở Việt Nam thường trồng loài cẩm tú cầu, chùm hoa tròn, to, hồng hoặc tím.

tử đinh hương (nguyên tác: lilac) – chỉ chung các loài cây nhỏ vùng ôn đới, cao 1-3 mét, thường được trồng làm hàng rào hoặc bụi hoa cảnh. Hoa có nhiều mầu khác nhau tùy loài, thường là tím và hồng, nở thành nhiều chùm dày đặc, tỏa mùi rất thơm.

vải chéo go (nguyên tác: bombazine) – loại vải bền chắc, có những đường chéo chạy suốt bề mặt, được dệt từ tơ tằm, sợi bông hoặc len cừu.

Huckleberry2

việt quất (nguyên tác: huckleberry) – loại cây bụi, thường mọc dại vùng ôn đới và cũng được trồng nhiều nơi, có quả mọng tròn, nhỏ, vị ngọt, màu đen hay xanh lam.

vòng gỗ – vào mỗi mùa hè cây mọc mạnh, tạo ra một vòng gỗ mới. Nếu cưa ngang thân gỗ, mắt thường có thể nhận ra những vòng gỗ này cách biệt nhau bằng một vòng đậm, mỗi vòng gỗ là kết quả của một năm tăng trưởng của cây.

Washington – George Washington (1732-1799), tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789-1797). Ông đã thành lập quân đội Mỹ nhằm chiến đấu chống Vương quốc Anh trong cuộc Cách mạng Mỹ và giành chiến thắng. Ông được xem là cha đẻ của nước Mỹ. Thủ đô của Mỹ và một bang nước Mỹ bên bờ Thái Bình Dương mang tên ông.

Những ngày đi học

Sáu mươi bảy năm về trước[C], lúc này là Tháng Giêng ở miền bắc Bang New York. Tuyết phủ một lớp dầy khắp nơi. Tuyết chất sức nặng lên cành trơ trụi của các cây sồi và cây phong. Tuyết làm cho cành non của các cây tuyết tùng và vân sam cong oằn xuống đến đụn tuyết trên mặt đất. Những luống tuyết dài bao phủ các cánh đồng và hàng rào.

Dọc theo một con đường mòn xuyên qua khu rừng, một cậu bé nhỏ đang lê bước đến trường cùng với Anh Royal và hai chị, Eliza Jane và Alice. Royal đã tròn mười ba tuổi[D], Eliza Jane tròn mười hai, và Alice tròn mười. Almanzo là em út trong gia đình, và hôm nay là ngày đầu tiên cậu đi đến trường, bởi vì cậu đã gần tròn chín tuổi.

Almanzo phải bước nhanh để bắt kịp ba anh chị, thế mà cậu lại phải mang hộp thức ăn. Cậu nói:

“Anh Royal phải mang nó. Anh lớn hơn em.”

Royal vẫn bước nhanh phía trước, người to cao, dáng vẻ trông như đàn ông khi mang đôi ủng.

Eliza Jane đáp: “Không, ‘Manzo à. Đến phiên em phải mang, bởi vì em nhỏ nhất.”

Eliza Jane ra vẻ làm sếp. Cô luôn tỏ ra mình biết phải làm gì là tốt nhất, và cứ muốn bắt Alice và Almanzo phải làm theo.

Almanzo cố bước theo Royal, và Alice cố bước theo Eliza Jane, trên hai vệt tuyết lún sâu do xe trượt tuyết.[E] Tuyết mềm vun cao hai bên vệt lún. Con đường đi xuống một triền dốc, băng qua một cây cầu nhỏ, đi tiếp một cây số rưỡi qua một khu rừng phủ tuyết rồi mới đến trường học.

Cái lạnh cấu lấy mi mắt Almanzo và làm cho mũi cậu tê đi, nhưng bên trong lớp trang phục bằng len dầy cậu vẫn được ấm áp. Tất cả các loại hàng len đều được dệt bằng lông hớt từ đàn cừu của Bố. Nội y của cậu có mầu trắng ngà, nhưng Mẹ đã nhuộm hàng len cho bộ trang phục mặc ngoài.

Vỏ quả óc chó trắng đã được dùng để nhuộm sợi len cho áo choàng và quần dài của cậu. Rồi Mẹ cậu đã dệt loại len này, ngâm vào nước cho sợi len nặng và dầy thêm, trở thành len co. Gió, cái lạnh hoặc thậm chí mưa nặng hạt vẫn không thể xâm nhập qua trang phục may bằng len co của Mẹ.

Để may phần eo của Almanzo, Mẹ nhuộm các sợi len mịn thành mầu đỏ như quả anh đào, rồi dệt thành loại hàng len mỏng và mềm mại. Loại len này nhẹ, giữ ấm tốt mà lại có mầu đỏ trông đẹp mắt.

Quần dài mầu nâu của Almanzo được cài cúc ở phần eo mầu đỏ với một hàng cúc đồng thau sáng ánh, tất cả vòng quanh phần giữa thân người. Chiếc áo ngoài được cài cúc kín cho đến cằm, và chiếc áo choàng may bằng len co mầu nâu cũng thế. Mẹ đã may chiếc mũ bằng cùng loại len co mầu nâu, với hai nắp vành tai được cột dưới cằm. Đôi găng liền bốn ngón mầu đỏ của cậu được đeo vào một sợi dây may vào cánh tay áo ngang phía sau cổ. Làm như thế để cậu không đánh mất găng tay.

Cậu mang đôi bít tất cao bó sát vào hai ống quần trong, và thêm một đôi phủ lấy hai ống quần ngoài mầu nâu. Đôi giầy của cậu thuộc loại da đanh, giống y như loại giầy da đanh của người Da đỏ.

Các cô gái mang khăn trùm mặt khi đi ra ngoài trong mùa đông. Nhưng Almanzo là con trai, thế nên khuôn mặt cậu phơi ra không khí giá lạnh. Đôi má cậu đỏ như da quả táo đỏ, và mũi còn đỏ hơn quả anh đào. Sau khi đã đi bộ được hơn hai cây số, cậu vui mừng khi trông thấy ngôi trường.

Trường nằm lẻ loi giữa khu rừng lạnh giá, ở chân Đồi Hardscrabble. Khói đang tỏa lên từ ống khói, và thầy giáo đã xúc quyết qua hai bên thành một đường mòn dẫn đến cửa ra vào. Năm cậu con trai lớn đang vật lộn với nhau trên lớp tuyết dầy kế bên đường đi.

Khi trông thấy họ, Almanzo hãi sợ. Royal giả vờ tỏ ra can đảm, nhưng thật sự cũng sợ. Chúng là những đứa con trai lớn ở Khu Định cư[F] Hardscrabble, và các trẻ khác đều sợ chúng.

Chúng thích phá phách xe trượt tuyết của các trẻ khác, chỉ để vui đùa. Chúng thích nắm lấy hai chân một cậu con trai nhỏ rồi quay vòng và ném cậu này ngã chúi đầu xuống lớp tuyết dầy. Đôi lúc chúng bắt buộc hai cậu con trai nhỏ phải đánh nhau cho dù hai cậu này không muốn đánh và van xin được tha.

Các cậu con trai lớn này lên mười sáu hoặc mười bảy tuổi, chỉ đến trường trong học kỳ giữa mùa đông. Chúng đi học để quấy phá thầy giáo và trường học. Chúng huênh hoang rằng không thầy giáo nào có thể kết thúc được học kỳ mùa đông ở trường này, và đúng như thế.

Trong học kỳ này, thầy giáo là một thanh niên trẻ, thân hình thanh mảnh, nước da nhợt nhạt. Tên thầy là Corse. Tính thầy hiền từ và nhẫn nại. Thầy chưa từng rọt voi các cậu học trò nhỏ chỉ vì tội đánh vần sai. Almanzo cảm thấy se lòng khi nghĩ đến việc các cậu học trò lớn quấy phá thầy Corse. Thầy có vóc người nhỏ nên khó mà chống lại chúng nó.

Trong lớp học có tiếng suỵt kêu gọi im lặng, và người ta có thể nghe tiếng bọn con trai lớn gây huyên náo bên ngoài. Các học trò khác đứng thầm thì với nhau bên lò sưởi lớn đặt ở giữa phòng. Thầy Corse ngồi ở bàn giáo viên. Một bên má gầy gò tựa lên bàn tay ốm yếu trong khi thầy đọc sách. Rồi thầy ngẩng lên và dịu dàng nói:

“Chào các em.”

Royal, Eliza Jane và Alice lễ độ đáp lời thầy, nhưng Almanzo không nói gì cả. Cậu đứng bên bàn giáo viên, nhìn thầy Corse. Thầy mỉm cười hỏi:

“Em có biết là tối nay thầy sẽ về nhà với em không?” Almanzo quá bối rối nên không trả lời được.

Thầy Corse nói: “Đúng vậy, đã đến phiên cha em.”

Mọi gia đình trong hạt cho thầy ở trọ hai tuần. Thầy đi từ trang trại này qua trang trại khác cho đến lúc thầy đã ở trọ hai tuần mỗi nơi. Rồi thầy đóng cửa trường, chấm dứt học kỳ.

Khi nói với Almanzo câu ấy, thầy Corse lấy cây thước gõ xuống mặt bàn; đã đến lúc trường bắt đầu. Tất cả các cô các cậu học trò đi đến chỗ ngồi. Các cô ngồi ở bên trái phòng học, còn các cậu ngồi ở bên phải phòng học, lò sưởi to và thùng củi ngăn cách hai bên. Học trò lớn ngồi ở các hàng ghế sau, học trò có tầm vóc trung bình ngồi ở các hàng ghế giữa, còn học trò nhỏ nhất ngồi hàng đầu. Tất cả các ghế đều có cùng kích thước. Các cậu con trai lớn khó mà để hai đầu gối dưới bàn, trong khi các cậu nhỏ khó mà đặt hai bàn chân trên sàn.

Lop hoc

Almanzo và Miles Lewis đang học lớp vỡ lòng, vì thế hai đứa ngồi ở hàng ghế đầu mà không có bàn. Hai đứa phải giữ quyển sách vỡ lòng trên tay.

Rồi thầy Corse đi đến cửa sổ và gõ lên cánh cửa. Các cậu con trai lớn nói huyên thuyên khi đi đến, cười cợt ồn ào. Bọn chúng mở toang cánh cửa phòng học với tiếng đánh ầm và ngổ ngáo đi vào phòng học. Cái anh đầu têu tên là Bill Ritchie Lớn. Anh ta to cao gần bằng Bố của Almanzo; nắm tay to bằng nắm tay Bố của Almanzo. Anh ta dậm chân cho tuyết rơi từ đôi giầy rồi đi phình phịch đến ghế ngồi ở hàng cuối. Bốn đứa con trai kia cũng cố tình gây tiếng ồn.

Thầy Corse không nói gì cả.

Lớp học không cho phép nói chuyện thầm thì hoặc xoay trở lộn xộn. Tất cả học trò phải ngồi thật yên và chăm chú vào bài học. Almanzo và Miles giơ cao quyển vỡ lòng và cố giữ cho hai chân không đung đưa. Chân hai đứa mỏi nhừ đến đau nhức, lơ lửng từ mép ghế. Đôi lúc một chân bất chợt đá lên, trước khi Almanzo kịp kìm lại. Rồi cậu giả tảng như không có chuyện gì xảy ra, nhưng cậu có thể nhận ra thầy Corse đang nhìn mình.

Ở các hàng ghế cuối, đám con trai lớn xầm xì to nhỏ với nhau, xô đẩy nhau và dộng mạnh các quyển sách xuống mặt bàn. Thầy Corse nghiêm khắc nói:

“Yêu cầu bớt làm náo loạn.”

Bọn chúng chỉ giữ yên lặng được một phút, rồi lại bắt đầu giở trò. Bọn chúng muốn thầy trừng phạt chúng. Khi ấy cả năm đứa sẽ nhảy xổ đến thầy.

Cuối cùng, thầy gọi lớp vỡ lòng lên trả bài. Almanzo luồn ra từ ghế ngồi, cùng với Miles bước đến bàn thầy giáo. Thầy Corse cầm lấy cuốn sách vỡ lòng của Almanzo và đọc từng chữ cho hai đứa đánh vần.

Khi Royal còn học lớp vỡ lòng, anh thường về nhà với bàn tay cứng nhắc và sưng to. Thầy giáo dạy lớp của anh đã dùng thước bản khẻ lòng bàn tay Royal vì tội không thuộc bài. Rồi Bố bảo:

“Này Royal, nếu thầy đánh con lần nữa thì Bố sẽ đánh đòn con cho con nhớ đời đấy.”

Nhưng thầy Corse không bao giờ dùng thước bản khẻ bàn tay một học sinh nhỏ. Khi Almanzo không thể đánh vần một chữ, thầy Corse bảo:

“Giờ ra chơi phải ở lại trong lớp để ôn bài.”

Đến giờ ra chơi, học trò gái được đi ra trước. Các cô mang khăn quàng đầu lên, mặc áo khoác vào rồi im lặng đi ra. Sau mười lăm phút, thầy Corse khỏ lên cánh cửa sổ và học trò gái đi vào, treo khăn và áo gần khung cửa, lại cầm sách lên. Rồi học trò trai được ra chơi mười lăm phút.

Các cậu học trò chạy nhảy, la ó trong trời lạnh. Mấy đứa chạy ra đầu tiên bắt đầu lấy tuyết vo tròn ném các đứa kia. Đứa nào có xe trượt tuyết thì mang xe chạy lên Đồi Hardscrabble. Chúng nhảy lên xe trượt tuyết, nằm úp xuống, rồi trượt xuống theo triền dốc dài. Chúng lăn lộn trên nền tuyết; chúng chạy nhảy, vật lộn nhau, bốc tuyết ném nhau, đứa này lấy tuyết chà sát mặt đứa kia, cả bọn không ngừng gân cổ lên mà la hét ầm ĩ.

Khi Almanzo phải ngồi trong lớp học trong giờ ra chơi, cậu cảm thấy xấu hổ vì ngồi trong lớp cùng với đám con gái.

Đến giữa trưa, tất cả học sinh được phép đi lại trong phòng học và nói chuyện khe khẽ. Eliza Jane mở chiếc hộp thức ăn trên bàn học. Các món gồm có bánh mỳ dùng với bơ và xúc xích, bánh vòng, táo, bốn chiếc bánh kẹp nhân táo ngon lành, vỏ bánh đầy đặn bọc lấy những miếng táo mềm và nước táo mầu nâu đậm đà.

Ngồi trên băng ghế ở một góc phòng, sau khi ăn hết tất cả các mảnh vụn của chiếc bánh kẹp nhân táo và còn liếm các ngón tay, Almanzo dùng một cái muôi nhỏ múc nước từ một cái xô ra uống. Rồi cậu đội mũ, khoác áo, mang găng tay để đi ra ngoài chơi đùa.

Mặt trời gần như ở đỉnh đầu, đang chiếu chói lọi. Cả mặt tuyết toàn là những điểm sáng lấp lánh, và những người đi chở gỗ đang đổ xuống Đồi Hardscrabble. Ngồi trên các xe trượt tuyết chất đầy những súc gỗ, những người đàn ông vụt cây roi, la thét thúc giục các con ngựa, và những chiếc chuông của đàn ngựa phát ra âm thanh leng keng vui tai.

Các cậu con trai vừa chạy vừa la hét, cố cột xe trượt tuyết của chúng vào xe trượt tuyết của người chở gỗ, còn các cậu không có xe trượt tuyết thì leo lên đống gỗ súc trên các xe trượt tuyết chở gỗ.

Bọn học trò hồ hởi trượt ngang qua ngôi trường và lao xuống con đường. Những quả cầu tuyết bay tung lên dầy đặc. Bên trên các súc gỗ, bọn con trai vật lộn nhau, đứa này cố đẩy đứa kia cho lăn xuống nền tuyết. Almanzo và Miles đang hò hét trên xe trượt tuyết của Miles.

Bọn học trò cảm thấy có vẻ như chỉ mới ra chơi được một phút. Nhưng trở vào lớp học thì mất nhiều thời gian hơn. Ban đầu bọn chúng đi chầm chậm, rồi chạy lúp xúp, rồi chạy nhanh lên, vừa chạy vừa thở dốc. Chúng e sợ sẽ bị chậm trễ. Rồi thì chúng biết mình đã thật sự chậm trễ. Thầy Corse sẽ vọt roi tất cả bọn chúng.

Cả ngôi trường im lìm. Bọn học trò không muốn quay lại, nhưng bắt buộc phải quay lại. Chúng rón rén bước vào. Thầy Corse ngồi ở bàn giáo viên, còn tất cả đám học trò gái đã ngồi vào vị trí, giả vờ đang xem bài học. Các hàng ghế học trò trai đều trống.

Almanzo lẻn đến ghế ngồi của mình trong sự im lặng đến nghẹt thở. Cậu giơ quyển vở lòng lên và cố gắng không thở mạnh. Thầy Corse không nói gì.

Bill Ritchie và đám con trai lớn không màng. Chúng cố tình tạo ra mọi tiếng động ồn ào trong khi đi về chỗ ngồi. Thầy Corse chờ cho đến khi chúng trả lại sự im lặng. Cuối cùng thầy nói:

“Tôi bỏ qua việc các trò chậm trễ lần này. Nhưng đừng tái phạm.”

Ai nấy đều biết đám con trai lớn sẽ lại chậm trễ. Thầy Corse không thể trừng phạt chúng vì bọn chúng có thể đè bẹp thầy, và bọn chúng chủ định sẽ làm thế.

Buổi tối mùa đông

Bầu không khí thì im ắng trong khi các thỏi băng và các cành cây gãy gập trong cái lạnh. Có ánh sáng xám hắt ra từ tuyết, nhưng đã có nhiều bóng tối trong khu rừng. Khi Almanzo lê bước dọc con dốc dài cuối cùng về đến trang trại thì trời đã tối.

Cậu cố đi theo kịp phía sau Anh Royal, và Anh Royal cố bắt kịp thầy Corse. Alice đi nhanh bên cạnh Eliza Jane trên vệt xe trượt tuyết bên kia. Tất cả đều có khăn quấn che miệng để tránh cái lạnh, và không ai nói câu nào.

Tuyết lấp đầy trên mái nhà cao sơn mầu đỏ, và những thỏi băng lớn treo lơ lửng dưới mọi mái hiên. Phía trước ngôi nhà đã tối, nhưng một vệt xe trượt tuyết dẫn đến chuồng gia súc và lối đi đến cửa bên đã được dọn sạch tuyết. Ánh sáng đèn nến chiếu qua các khung cửa sổ của nhà bếp.

Almanzo không đi vào nhà. Cậu đưa hộp đựng thức ăn cho Chị Alice, rồi cùng Anh Royal đi đến khu chuồng trại.

Có ba chuồng gia súc dài và thật rộng, quây lấy ba mặt của sân chuồng hình vuông. Đấy là cơ ngơi chuồng trại lớn nhất trong vùng này.

Trước tiên Almanzo đi đến Trại-Ngựa. Trại này đối diện với ngôi nhà, và dài hơn ba mươi mét. Dãy ô chuồng cho ngựa chạy dọc ở giữa; ở một đầu là chuồng bê và chuồng gà; đầu kia là Nhà-Xe. Nhà này rộng đến mức có thể chứa hai xe ngựa và một xe trượt tuyết, còn thêm khoảng trống để tháo ngựa ra khỏi xe. Từ nhà để xe này, lũ ngựa được dẫn thẳng đến chuồng ngựa mà không phải đi vòng lại bên ngoài trong tiết trời giá lạnh.

Trại-Lớn chạy dài từ đầu phía tây của Trại-Ngựa, và tạo thành mặt phía tây của sân chuồng. Ở giữa Trại-Lớn là Nền Trại-Lớn. Hai cánh cổng lớn mở ra đồng cỏ bên ngoài để xe goòng chở cỏ ra vào. Ở một bên là kho lớn chứa cỏ khô, dài năm mét và rộng bảy mét, chất đầy cỏ khô cao đến mái cao ngất khỏi đầu người.

Tiếp theo Nền Trại-Lớn là mười bốn ô chuồng cho bò trưởng thành. Kế tiếp là kho máy móc, và tiếp theo là kho dụng cụ. Đến đây, người ta rẽ theo góc sân để đi đến Trại-Nam.

Trong Trại-Nam là kho thực phẩm, rồi là chuồng lợn, rồi là chuồng bê, tiếp theo là Nền Trại-Nam. Đây là nền đập ngũ cốc. Nó còn rộng hơn Nền Trại-Lớn, và máy quạt ngũ cốc được đặt ở đây.

Kế tiếp Nền Trại-Nam là chuồng nuôi bò tơ, tiếp theo đó là chuồng cừu. Đến đây là hết Trại-Nam.

Một hàng rào gỗ ván cao bốn mét chạy dọc phía đông của sân chuồng. Ba khu chuồng mênh mông và hàng rào bao kín kẽ sân chuồng. Gió gầm thét và tuyết đập mạnh bên ngoài, nhưng không thể xâm nhập vào bên trong. Dù cho bão tuyết mạnh đến đâu trong mùa đông, trên sân chuồng tuyết chỉ dầy cùng lắm khoảng nửa mét.

Khi Almanzo đi vào khu chuồng trại rộng lớn này, cậu luôn đi qua cánh cửa nhỏ của Trại-Ngựa. Cậu thích ngựa. Ở đây, mỗi con ngựa đứng trong một ô chuồng. Chúng đều sạch sẽ, bộ lông bóng mượt mầu nâu, với lông bờm và lông đuôi dài. Các con ngựa làm việc khôn ngoan thì bình thản, im lìm gặm cỏ. Các con ngựa ba tuổi hếch mũi với nhau qua các chấn song, có vẻ như thầm thì với nhau. Rồi đầu mũi con này cọ phớt dọc theo cổ con kia; một con giả vờ cắn, và chúng rít lên, xoay vòng, chân đá lên trong kiểu đùa giỡn. Các con ngựa già hơn quay đầu nhìn như là bà ngoại nhìn đàn cháu yêu. Nhưng các con ngựa non phấn khích chạy vòng, chân lóng ngóng, mắt láo liên và ngơ ngác.

Cả đàn ngựa đều biết mặt Almanzo. Khi nhìn thấy cậu, chúng vểnh tai, cặp mắt sáng dịu. Các con ngựa ba tuổi đi đến, thò đầu ra, dí mũi đến cậu. Mũi chúng lơ thơ vài cọng lông cứng, làn da mềm như nhung, trên trán có chòm lông mịn và ngắn, mượt mà như tơ. Cổ bọn chúng vươn lên một cách ngạo nghễ, chắc khỏe và tròn trịa, lông bờm mầu đen rủ xuống như một tấm khăn quàng dầy. Bạn có thể lấy bàn tay vuốt dọc những cái cổ rắn chắc, uốn cong ấy, cảm nhận ấm áp dưới bộ lông bờm.

Nhưng Almanzo không dám làm thế. Cậu không được phép chạm đến những con ngựa ba tuổi đẹp đẽ này. Cậu không thể đi vào ô chuồng của chúng, thậm chí để tắm rửa cho chúng cũng không được. Bố không cho phép cậu chăm sóc ngựa non. Bố chưa tin tưởng nơi cậu, bởi vì ngựa non chưa tập luyện thì dễ hư hỏng.

Một cậu con trai chưa đủ hiểu biết thì có thể làm cho một con ngựa non hoảng sợ, còn nếu trêu chọc hoặc đánh nó thì có thể làm con ngựa hư hỏng. Nó có thể sinh tật cắn, đá và thù ghét người, và rồi nó chẳng bao giờ trở thành ngựa hiền nữa.

Almanzo thì có chút ít hiểu biết; cậu sẽ chẳng bao giờ làm những con ngựa non đẹp này kinh sợ hoặc đau đớn. Cậu luôn tỏ ra nhỏ nhẹ, dịu dàng và nhẫn nại; cậu sẽ chẳng bao giờ làm cho một con ngựa non giật mình và cũng chẳng lớn tiếng với nó, thậm chí khi nó dẫm lên chân cậu. Nhưng Bố không tin như thế.

Thế là Almanzo chỉ có thể khát khao ngắm nhìn đàn ngựa ba tuổi. Cậu chỉ ve vuốt đầu mũi mịn như nhung của chúng rồi rời xa khỏi chúng, và mặc thêm chiếc áo choàng nông trại bên ngoài bộ áo đi học.

Bố đã xịt nước cho cả đàn, và cậu chuẩn bị cho chúng ăn ngũ cốc. Royal và Almanzo nhấc lấy cây chĩa rồi đi từ chuồng này qua chuồng kia, dọn dẹp cỏ đã lấm bẩn dưới chân, trải cỏ mới từ máng ăn để làm thành ổ lót sạch sẽ cho các con bò, bê và cừu nằm ngủ.

Hai cậu con trai không cần phải lót ổ cho lợn, bởi vì lợn tự lót ổ và biết giữ sạch sẽ.

Trong Trại-Nam, hai con bê nhỏ của riêng Almanzo ở trong một ô chuồng. Khi nhìn thấy cậu, chúng chen nhau đến đứng ở chấn song. Cả hai con bê đều có mầu lông đỏ, một con có một đốm trắng trên trán. Almanzo đặt tên cho con này là Star. Con kia có bộ lông toàn mầu đỏ nhạt, và Almanzo gọi nó là Bright.

Star và Bright là bê nhỏ, chưa tròn một tuổi. Cặp sừng nhỏ chỉ mới lú lên giữa đám lông mềm gần vành tai. Almanzo gãi chung quanh gốc hai sừng nhỏ, bởi vì lũ bê thích như thế. Hai con nghếch đầu mũi cùn và ẩm ướt giữa hai chấn song, thè cái lưỡi thô ráp.

Almanzo lấy hai củ cà rốt từ hộc thức ăn cho bò, bẻ thành mảnh nhỏ, rồi đút từng mảnh cho Star và Bright.

Rồi cậu lại cầm lấy cây chĩa và leo vào thùng chứa cỏ khô phía trên đầu. Royal và Almanzo không được phép mang đèn lồng vào thùng chứa cỏ, vì sợ gây cháy. Nhưng vào lúc này, hai cậu con trai có thể nhìn thấy trong ánh sáng chạng vạng.

Hai anh em làm việc nhanh nhẹn, cầm cây chĩa vít cỏ khô xuống các máng ăn phía dưới. Almanzo có thể nghe tiếng lạo xạo khi đàn gia súc ăn cỏ. Thùng chứa cỏ khô được ấm nhờ hơi ấm của các con vật bên dưới, và cỏ khô tỏa mùi nồng nồng ngòn ngọt. Cũng có mùi từ các con ngựa và bò, lẫn mùi len của cừu. Và trước khi hai cậu bé hoàn tất làm đầy các máng ăn, có mùi thơm của sữa ấm sủi bọt đổ vào chậu sữa của Bố.

Vat sua bo

Almanzo nhấc lấy chiếc ghế ngồi để vắt sữa của cậu, cùng với cái chậu, rồi ngồi trong ô chuồng của con bò tên Blossom để vắt sữa con này. Hai bàn tay của cậu chưa đủ mạnh để vắt sữa những con bò khó cho sữa, nhưng cậu có thể vắt sữa từ con Blossom và con Bossy. Đây là hai con bò đã lớn tuổi, hiền lành, cho sữa dễ dàng, hầu như không bao giờ đập cái đuôi gây nhức nhối vào mắt cậu, hoặc lấy chân sau đá đổ chậu sữa.

Almanzo đặt cái chậu giữa hai chân, và vắt nhịp nhàng. Trái, phải! phụt! phụt! dòng sữa xịt nghiêng vào cái chậu, trong khi các con bò ăn ngũ cốc và nhai cà rốt.

Các con mèo của trang trại co mình ở các góc chuồng, phát ra tiếng khò khè. Bộ lông của chúng bóng mượt, thân hình mập mạp nhờ bắt được nhiều chuột. Mèo của trang trại đều có vành tai to, đuôi dài, cho thấy chúng thuộc dòng bắt chuột giỏi. Chúng đi tuần tra các chuồng trại cả ngày lẫn đêm, khiến cho lũ chuột nhắt và chuột cống không tài nào léo hánh tới các kho thức ăn gia súc, rồi đến giờ vắt sữa chúng được phép liếm các đĩa đựng sữa ấm.

Khi xong việc vắt sữa bò, Almanzo rót sữa ra những chiếc đĩa cho lũ mèo. Bố của cậu, tay cầm chậu và ghế của ông, đi vào ô chuồng của Blossom. Ông ngồi xuống, định vắt những giọt sữa béo ngậy cuối cùng của con Blossom. Nhưng Almanzo đã vắt hết rồi. Bố lại đi vào ô chuồng của Bossy. Ông trở ra ngay, nói:

“Con trai à, con vắt sữa giỏi lắm.”

Almanzo chỉ quay người, đá cọng rơm trên sàn. Cậu quá vui nên không biết nói gì. Bây giờ cậu có thể một mình vắt sữa bò; Bố không cần phải kiểm tra sau khi cậu xong công việc. Chẳng bao lâu, cậu có thể vắt sữa từ những con bò cho sữa khó nhất.

Bố của Almanzo có đôi mắt mầu lam, hay nhấp nháy. Thân người ông to cao, với hàm râu nâu dài và mái tóc nâu mềm. Bộ áo choàng bằng len mầu nâu kéo dài xuống đến đầu đôi ủng, hai vạt trên vắt chéo qua lồng ngực rộng và được thắt chặt bằng dây lưng ở eo, rồi vạt tạp dề bao lấy hai ống quần may bằng len co.

Bố là nhân vật quan trọng. Ông có một cơ ngơi trang trại hoàn chỉnh. Ông đánh xe với đôi ngựa tốt nhất trong vùng. Lời nói của ông có giá trị như là giao kèo, và mỗi năm ông đều mang tiền gửi ở ngân hàng. Khi Bố đánh xe đến Malone, cư dân ở thị trấn này đều đối xử với ông một cách kính trọng.

Royal đi đến với cái chậu sữa và chiếc đèn lồng. Cậu nói nhỏ:

“Bố ạ, hôm nay Bill Ritchie Lớn đi học.”

Qua những lỗ đục bên ngoài vỏ thiếc, chiếc đèn lồng tạo ra những đốm sáng tối mập mờ trên mọi vật. Almanzo có thể thấy Bố ra vẻ nghiêm nghị; ông vuốt bộ râu và khẽ lắc đầu. Almanzo nóng lòng chờ đợi, nhưng Bố chỉ cầm lấy chiếc đèn lồng và đi một vòng cuối quanh các chuồng trại để an tâm là mọi việc đều ổn thỏa trong đêm. Rồi ba bố con đi vào nhà.

Tiết trời lạnh tàn bạo. Đêm tối đen và tĩnh lặng, các vì sao lấp lánh thành những điểm sáng li ti trên bầu trời. Almanzo thấy vui khi đi vào gian bếp rộng, được sưởi ấm nhờ lửa và ánh sáng đèn nến. Cậu cảm thấy đói mềm người.

Nước mưa trong thùng đang ấm lên trên bếp. Khởi đầu là Bố, rồi đến Royal, rồi đến Almanzo thay phiên nhau rửa ráy ở cái chậu trên ngăn kệ gần cánh cửa. Almanzo dùng khăn vải lanh vắt trên một trục để lau khô, rồi đứng trước tấm gương treo trên tường cậu rẽ mái tóc và lấy lược chải xuống cho bóng mượt.

Gian bếp đầy những chiếc váy phồng đung đưa và xoay tròn. Hai chị Eliza Jane và Alice đang vội vã dọn bữa ăn chiều. Mùi đùi lợn rán nâu dòn làm cho dạ dày của Almanzo kêu réo.

Cậu dừng lại chỉ một phút ở cửa gian bếp. Mẹ đang gạn sữa ở đầu kia của gian bếp dài và quay lưng về phía cậu. Các ngăn kệ hai bên chứa đầy những món ngon lành. Những bánh phô mai to mầu vàng được chất ở đây, thêm những bánh đường phong mầu nâu, những ổ bánh mỳ mới nướng với lớp vỏ dòn tan, bốn ổ bánh ngọt to, và nguyên một ngăn kệ chất đầy bánh hấp trái cây. Một trong những chiếc bánh hấp này đã được cắt ra, những mảnh vỏ dòn rơi ra ngoài như mời mọc; không nên bỏ lỡ cơ hội này.

Almanzo chưa kịp có động thái gì cả thì Chị Eliza Jane đã kêu lên:

“Almanzo, em dừng lại! Mẹ ơi!”

Mẹ không quay lại. Bà nói:

“Almanzo, cứ để đấy. Nếu ăn bây giờ thì con không ăn được bữa chiều.”

Điều này là phi lý đến mức làm cho Almanzo gần phát điên. Một ít bánh không thể nào khiến cho cậu không ăn được bữa chiều. Cậu đang đói mềm người, nhưng người lớn lại không cho cậu ăn bất kỳ thứ gì, mà chỉ cho dùng các món bày trên bàn ăn. Chẳng có lý chút nào cả. Nhưng tất nhiên là cậu không thể nói ra ý nghĩ của mình; cậu phải vâng lời Mẹ chứ không được cất tiếng nào để phản đối.

Cậu le lưỡi ra về phía Eliza Jane. Cô chị không thể làm được gì: hai tay cô đều bận rộn. Rồi cậu đi nhanh vào phòng ăn.

Chiếc đèn dầu rực sáng. Bố đang bàn chuyện chính trị với thầy Corse kế bên lò sưởi hình vuông xây tựa vào tường. Bố đang quay mặt về phía bàn ăn, nên Almanzo không dám rớ tới món gì trên bàn này.

Có những lát phô mai đầy khiêu gợi, có một đĩa giò thủ đang run rẩy; lại có những đĩa thủy tinh đựng mứt, thạch, thêm những loại mứt khô, một chiếc vại cao đựng sữa, và một xoong đựng đậu bỏ lò đang bốc hơi cùng với mẩu mỡ lợn dòn trong lớp vỏ vụn mầu nâu.

Almanzo nhìn qua tất cả các món, bụng cồn cào. Cậu nuốt ực nước bọt, rồi chầm chậm rời đi.

Phòng ăn trông đẹp. Trên giấy dán tường mầu nâu sô cô la có những dải mầu lục và những nụ hoa li ti mầu đỏ xếp thành hàng. Mẹ đã thu những tấm vải vụn để dệt thành tấm thảm cho hợp với tường. Mẹ đã nhuộm các tấm vải thành mầu lục và nâu sô cô la, rồi dệt thành từng dải, ở giữa các dải này là một dải nhỏ xíu gồm những tấm vải đỏ và trắng xoắn nhau. Chiếc tủ búp phê cao ở góc phòng chứa đầy những vật trang trí lạ lẫm – vỏ sò, gỗ hóa thạch, các mảnh đá kỳ dị, và sách. Và phía trên chiếc bàn trung tâm, treo một mẫu hình lâu đài trên không[G]. Alice đã bện những cọng rơm lúa mỳ sạch mầu vàng, kết nhau một cách mỏng nhẹ, với những mảnh vải sáng mầu ở các góc. Chỉ một cơn gió thoảng đủ làm cho lâu đài đong đưa và rung rinh, ánh đèn chiếu sáng dọc theo những cọng rơm vàng óng.

Nhưng đối với Almanzo, cảnh tượng đẹp nhất vẫn là Mẹ, khi bà mang vào một chiếc đĩa sứ to có hoa văn cây liễu, đựng đầy món đùi lợn kêu xèo xèo.

Mẹ có thân người thấp, mũm mĩm và xinh xắn. Mắt Mẹ mầu lam, mái tóc nâu trông giống như những cánh chim bóng mượt. Một hàng cúc nhỏ mầu đỏ chạy dọc thân trước của chiếc áo len mầu rượu vang, bắt đầu từ cổ áo trắng xuống đến chiếc tạp dề buộc quanh vòng eo. Hai cánh tay áo rộng đong đưa như hai vành chuông. Mẹ đi qua khung cửa rồi bị kéo và dừng lại một thoáng chốc, bởi vì chiếc váy phồng của bà rộng hơn cánh cửa.

Mùi thơm của món đùi lợn khiến cho Almanzo hầu như không chịu đựng được nữa.

Mẹ đặt đĩa đùi lợn lên bàn ăn. Bà nhìn quanh để biết chắc mọi thứ đã sẵn sàng và bàn ăn được dọn đúng cách. Mẹ cởi tấm tạp dề ra và treo trong gian bếp. Mẹ chờ cho đến khi Bố dứt câu nói với thầy Corse. Nhưng cuối cùng Mẹ kêu:

“James à, bữa ăn đã sẵn sàng.”

Có vẻ như phải mất thời giờ lâu lắm mọi người mới ngồi vào chỗ. Bố ngồi ở đầu bàn. Mẹ ngồi ở cuối bàn. Rồi mọi người phải cúi đầu trong khi Bố cầu nguyện Thượng Đế ban phúc cho thức ăn. Sau đó, phải chờ một lúc rồi Bố mới mở tấm khăn ăn và cài vào cổ áo.

Bố bắt đầu lấy thức ăn vào đĩa. Bố tiếp cho thầy Corse trước. Rồi lấy thức ăn vào đĩa của Mẹ. Tiếp theo là đĩa của Royal, của Eliza Jane và của Alice. Cuối cùng, Bố tiếp thức ăn vào đĩa của Almanzo.

Almanzo nói: “Cảm ơn Bố.” Đấy là lời duy nhất mà cậu được phép cất tiếng ở bàn ăn. Con trẻ được người lớn nhìn chứ không được người lớn nghe. Bố, Mẹ và thầy Corse có thể nói chuyện, nhưng Royal, Eliza Jane, Alice và Almanzo không được nói tiếng nào.

Almanzo ăn món đậu bỏ lò ngọt ngào, mềm mại. Cậu ăn một miếng thịt lợn muối, tan như kem trong miệng. Cậu ăn khoai tây luộc chín nhừ như bột, cùng với nước sốt mầu nâu. Cậu ăn món đùi lợn. Cậu cắn sâu vào mẩu bánh mỳ mềm như nhung được thoa bơ óng mượt, nhai phần vỏ bánh mỳ vàng ánh và dòn rụm. Cậu ngốn ngấu tưởng chừng như cả một đống món củ cải nghiền và một núi bí đỏ hầm. Rồi cậu thở dài, gấp khăn ăn sâu hơn vào cổ áo. Rồi cậu ăn mứt mận và mứt dâu, đến thạch nho, và vỏ dưa hấu muối. Cậu thấy thật thỏa dạ. Cậu ăn chầm chậm một miếng bánh nướng bí đỏ to.

Cậu nghe Bố nói với thầy Corse:

“Royal cho tôi biết hôm nay đám con trai Hardscrabble đi học.”

Thầy Corse nói: “Vâng.”

“Tôi nghe nói bọn chúng bảo sẽ tống thầy ra ngoài.”

Thầy Corse nói:

“Tôi nghĩ bọn chúng đang cố làm thế.”

Bố thổi trà đựng trong chiếc đĩa lót cho chóng nguội. Ông nếm thử, rồi uống cạn đĩa và rót thêm trà vào đĩa. Bố nói:

“Trước đây chúng đã tống hai thầy giáo ra ngoài. Năm rồi bọn chúng làm cho Jonas Lane bị thương nặng đến nỗi ông ấy đã qua đời vì vết thương.”

Thầy Corse nói: “Tôi biết. Jonas Lane đã cùng học với tôi. Anh ấy là bạn tôi.”

Bố không nói gì thêm.

Đêm mùa đông

Sau bữa ăn tối, Almanzo chăm sóc đôi giầy da đanh của mình. Mỗi đêm cậu đều ngồi bên bếp lò để thoa mỡ cho đôi giầy. Cậu huơ đôi giầy gần bếp lửa và chà miếng mỡ đang tan chảy trong lòng bàn tay lên mặt da giầy. Đôi giầy da đanh luôn làm cho cậu thoải mái và giữ hai bàn chân cậu được khô nếu lớp da được thoa mỡ đầy đủ, thế nên cậu tiếp tục thoa mỡ cho đến khi da không thấm thêm mỡ được nữa.

Royal cũng ngồi gần bếp lò để thoa mỡ lên đôi ủng của mình. Almanzo không thể mang ủng; cậu phải mang giầy da đanh bởi vì cậu còn bé.

Mẹ và các chị rửa tô đĩa, sau đó quét dọn gian bếp. Dưới tầng hầm rộng, Bố lo cắt cà rốt và khoai tây cho đàn bò ăn ngày hôm sau.

Khi công việc xong xuôi, Bố đi lên cầu thang tầng hầm, mang theo một vại to chứa nước táo ngọt lên men và một xoong đựng đầy táo. Royal cầm lấy nồi rang bắp và một chén nhỏ đựng bắp hạt. Mẹ gạt tro trong bếp lò để giữ lửa qua đêm, và khi mọi người đã đi ra khỏi gian bếp, Mẹ thổi tắt những ngọn nến.

Cả gia đình ấm cúng ngồi quây quần gần lò sưởi lớn tựa vào tường của phòng ăn. Lưng của lò sưởi là tường phòng khách, nơi mà gia đình chỉ ra ngồi khi có khách. Lò sưởi tỏ ra rất hữu dụng; nó sưởi ấm phòng ăn lẫn phòng khách, ống khói của nó sưởi ấm các phòng ngủ tầng trên, và cả phần nóc được dùng như là lò nướng.

Royal mở cánh cửa lò sưởi bằng sắt, dùng cây gạt than đập các mảnh gỗ cháy đen thành lớp than cháy đỏ âm ỉ. Cậu lấy ba vốc bắp hạt cho vào nồi rang bắp, và lắc cái nồi trên lớp than. Trong chốc lát, một hạt bắp nổ bốp, rồi một hạt khác, rồi ba hoặc bốn hạt nổ cùng lúc, và rồi tất cả hàng trăm hạt bắp cùng nổ bôm bốp liên hồi trong nồi rang.

Khi chiếc đĩa to đã đựng đầy bỏng ngô trắng nõn như lông tơ, Alice rót bơ lỏng lên trên, vừa cho thêm muối vừa trộn đều. Bỏng ngô nóng hổi và dòn tan, thêm thơm ngon nhờ vị béo của bơ và vị mằn mặn của muối. Mọi người tha hồ ăn tùy thích.

Mẹ vừa đan vừa đung đưa trên ghế xích đu có lưng tựa cao. Bố thận trọng dùng một mảnh thủy tinh để chuốc một cán rìu. Royal đẽo gọt một xâu chuỗi gồm những vòng xích li ti từ một nhánh thông láng bóng, còn Alice ngồi trên chiếc gối đệm của cô mà thêu một món đồ len. Mọi người ăn bỏng ngô cùng táo và uống nước táo ngọt lên men, ngoại trừ Eliza Jane. Cô này đang đọc to lên những tin tức trong tờ tuần báo xuất bản ở New York.

Almanzo ngồi trên một chiếc ghế kê chân gần lò sưởi, tay cầm một quả táo, một tô bỏng ngô kề bên, cốc nước táo trên nền lò sưởi kế bên chân. Cậu cắn một miếng táo mọng nước, ăn một ít bỏng ngô, rồi uống một ngụm nước táo lên men. Cậu suy nghĩ về bỏng ngô.

Bỏng ngô là món ăn thuần Mỹ. Trước khi Tín đồ Di cư đến Mỹ, chỉ có người Da đỏ biết đến món bỏng ngô. Vào ngày Lễ Tạ ơn đầu tiên, người Da đỏ được mời đến dự bữa ăn chính. Họ đến, và họ rải xuống mặt bàn bỏng ngô đựng đầy trong một bao. Các Tín đồ Di cư không biết đấy là món gì. Các Bà mẹ Di cư[H] cũng chẳng biết. Người Da đỏ đã biết rang bắp, nhưng có lẽ bỏng ngô của họ không ngon lắm. Có lẽ họ không cho bơ và muối vào, nó đã nguội đi và dai lại sau khi họ mang nó trong một bao da qua quãng đường dài.

Almanzo nhìn kỹ mỗi hạt bắp trước khi ăn. Các hạt bắp đều có hình dạng khác nhau. Cậu đã ăn hàng nghìn vốc bỏng ngô và chưa từng thấy hai hạt bắp nào giống nhau. Rồi cậu nghĩ nếu có sữa, cậu sẽ ăn bỏng ngô trộn sữa.

Bạn thử rót sữa vào đầy một ly, rồi đổ bỏng ngô vào đầy một ly khác giống y như ly trước, sau đó bạn cho từng hạt bỏng ngô vào ly sữa. Khi bạn cho tất cả bỏng ngô vào rồi, sữa vẫn không trào ra khỏi ly. Bạn không thể làm được như thế với bánh mỳ. Chỉ có bỏng ngô và sữa là hai thứ đi vào cùng một chỗ.

Và rồi, bỏng ngô và sữa quả là món ngon. Nhưng Almanzo không đói lắm. Và cậu biết Mẹ không muốn ai quấy phá các xoong sữa. Nếu bạn quấy phá sữa khi kem đang nổi lên, thì kem sẽ không được béo. Thế là Almanzo ăn thêm một quả táo và uống nước táo lên men với bỏng ngô mà không nói gì đến bỏng ngô pha sữa.

Khi đồng hồ gõ chín tiếng là đến giờ đi ngủ. Royal bỏ xuống xâu chuỗi gồm những vòng xích nhỏ và Alice buông món đồ len ra. Mẹ cắm các cây kim vào cuộn chỉ, và Bố lên dây cót cái đồng hồ cao dựng đứng. Ông cho thêm một khúc củi vào lò và đóng van khói lại.

Thầy Corse nói: “Đêm nay lạnh đấy.”

Bố nói: “Âm bốn mươi độ[I], trước khi mặt trời mọc sẽ còn lạnh hơn nữa.”

Royal thắp một cây nến, và Almanzo ngái ngủ đi theo anh đến cửa cầu thang. Khí lạnh trên các bậc thang khiến cho cậu tỉnh ngủ lập tức. Cậu lập cập chạy lên tầng trên. Phòng ngủ lạnh đến nỗi cậu khó mà cởi các cúc áo để thay vào áo ngủ dài bằng len và mũ trùm đầu. Đáng lẽ cậu phải quỳ xuống mà đọc kinh cầu nguyện, nhưng cậu không làm. Sống mũi cậu đau nhức vì lạnh và răng cậu đang đánh lập cập. Cậu nhoài người xuống mặt giường độn lông ngỗng mềm, chui vào giữa hai tấm chăn và kéo tấm chăn bông đến tận mũi.

Việc kế tiếp mà cậu nhận ra là đồng hồ gõ mười hai tiếng. Bóng tối ập lên đôi mắt và trán cậu, có vẻ như nó chứa đầy những mũi kim bằng băng tuyết nhỏ. Cậu nghe tiếng ai đấy đi xuống cầu thang, rồi tiếng cánh cửa nhà bếp mở ra và đóng lại. Cậu biết Bố đang đi ra các chuồng gia súc.

Ngay cả các chuồng trại rộng lớn như thế vẫn không đủ chỗ chứa tất cả các con bò, ngựa, lợn, bê và cừu. Hai mươi lăm con bò phải ngủ trong một lán ngoài sân chuồng. Nếu chúng nằm im lìm suốt đêm vào đêm lạnh giá như đêm này, thì chúng sẽ chết cóng trong giấc ngủ. Vì thế mà lúc giữa đêm, trong cái lạnh cắt da, Bố phải rời chiếc giường ấm áp của mình mà đi đánh thức lũ bò.

Bên ngoài trời tối trong một đêm lạnh giá, Bố đang đánh thức đám bò tơ. Bố vừa vung cây roi vừa rượt đuổi theo chúng, bắt chúng chạy lòng vòng trên sân chuồng. Bố cứ chạy khiến cho lũ bò phải chạy cho đến khi cơ thể chúng ấm lên nhờ được vận động. Almanzo lại mở mắt ra, và ngọn nến đang lập lòe trên bàn viết. Anh Royal đang mặc quần áo. Hơi thở của cậu đông trắng lại trong không khí. Ngọn nến tỏa ánh sáng lờ mờ, như thể màn đêm đang cố dập tắt nó.

Thình lình Anh Royal đã đi ra ngoài, ngọn nến không còn ở đấy nữa, và Mẹ đang gọi lên từ chân cầu thang:

“Almanzo! Chuyện gì thế? Con bệnh hay sao? Năm giờ rồi!”

Almanzo bò ra, run rẩy. Cậu mặc quần dài và áo chẽn vào, rồi chạy xuống cầu thang để cài cúc bên bếp lò. Bố và Royal đã đi ra khu chuồng trại. Almanzo cầm lấy chậu sữa rồi vội vã bước ra. Màn đêm trông mênh mông và tĩnh lặng, các vì sao lấp lánh như băng giá trên nền trời tối đen.

Sau khi đã xong công việc trang trại, cậu cùng Bố và Royal trở vào gian bếp ấm áp, bữa ăn sáng đã gần sẵn sàng. Mùi thức ăn thơm làm sao! Mẹ đang rán bánh rán; chiếc đĩa lam to, đặt gần bếp lò để giữ ấm, đựng đầy những bánh xúc xích no tròn mầu nâu trong nước sốt cũng mầu nâu.

Almanzo vội vàng rửa ráy và chải đầu. Ngay sau khi Mẹ đã gạn sữa xong, mọi người ngồi xuống, và Bố cầu nguyện được ban phúc cho bữa sáng.

Có món cháo yến mạch dùng với kem béo ngậy và đường phong. Có món khoai tây rán và bánh kiều mạch vàng óng, để Almanzo tha hồ ăn với xúc xích cùng nước sốt, hoặc với bơ và xi rô phong. Lại thêm các thứ mứt, thạch và bánh vòng. Nhưng Almanzo thích nhất là bánh táo, với nước táo sánh đặc và lớp vỏ dòn. Cậu ăn hai miếng bánh táo to.

Rồi, với hai mảnh che tai của chiếc mũ phủ lên hai vành tai, tấm khăn quàng che đến sống mũi và hộp thức ăn trên tay mang găng, cậu bắt đầu đi theo con đường dài để thêm một ngày đến trường.

Cậu chẳng muốn đi học. Cậu không muốn hiện diện ở đó khi các cậu con trai lớn hành hạ thầy Corse. Nhưng cậu phải đi học bởi vì cậu gần tròn chín tuổi.

Sự ngạc nhiên

Giữa trưa mỗi ngày, những người chuyển vận gỗ đi xuống Đồi Hardscrabble. Thế là bọn học trò cột xe trượt tuyết của chúng để bám theo xe trượt tuyết của họ mà lướt xuống con đường. Nhưng bọn chúng chỉ bám theo một quãng ngắn, rồi thì phải đi bộ trở về cho kịp giờ học. Chỉ có Bill Ritchie Lớn và đám bạn của anh ta là không màng biết bao lâu nữa thầy Corse sẽ phạt bọn chúng.

Một ngày nọ, bọn chúng trở về muộn sau giờ chơi. Khi đi rầm rập vào sân trường, bọn chúng nhìn thầy Corse mà cười toe toét, xem ra chẳng nể nang thầy gì cả. Thầy chờ cho bọn chúng đi đến chỗ ngồi. Rồi thầy đứng dậy, mặt tái đi, và thầy nói:

“Nếu việc này còn diễn ra nữa, thì tôi sẽ phạt các em.”

Mọi người đều biết chuyện gì sẽ xảy ra ngày hôm sau.

Khi Royal và Almanzo về nhà tối hôm ấy, hai cậu kể cho Bố nghe vụ việc. Almanzo nói như thế là không công bằng. Thầy Corse có vóc người nhỏ nên không thể chống lại một đứa nào trong bọn chúng, huống chi bọn chúng sẽ lao vào thầy một lượt.

Almanzo nói: “Con ước gì đủ lớn để chống lại bọn nó!”

Bố đáp: “Con trai à, thầy Corse lĩnh lương để dạy ở trường. Ban giám hiệu trường đã tỏ ra công bằng và thẳng thắn với thầy; họ đã cho thầy biết phải đảm nhận nhiệm vụ ra sao. Thầy đã đảm nhận. Đấy là công việc của thầy, không phải của con.”

Almanzo nói: “Nhưng có lẽ bọn chúng sẽ làm hại thầy!”

Bố nói: “Đấy là việc của thầy. Khi một người đảm nhận công việc thì người này phải hoàn tất công việc ấy. Nếu thầy Corse là người như Bố hằng tin tưởng, thì thầy sẽ không muốn ai chen vào.”

Almanzo chẳng đặng đừng nói thêm: “Không công bằng. Thầy không thể chống lại cả năm đứa nó.”

Bố đáp: “Con trai à, Bố sẽ không lạ gì nếu con lấy làm ngạc nhiên. Bây giờ các con phải gấp rút; các công việc trang trại này không thể chờ suốt đêm được.”

Thế là Almanzo đi làm việc mà không nói gì nữa.

Cả buổi sáng ngày hôm sau, trong khi cầm quyển sách vỡ lòng, cậu không học được gì cả. Cậu cứ lo sợ nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy đến cho thầy Corse. Khi thầy kêu lớp vỡ lòng lên trả bài, cậu không thể trả lời. Cậu phải ở lại trong lớp với học trò gái trong giờ ra chơi, và cậu ước gì mình có thể chống lại được Bill Ritchie.

Đến giữa trưa cậu ra ngoài chơi, và trông thấy Ông Ritchie, cha của Bill, đang ngồi trên xe trượt tuyết lướt xuống triền đồi. Tất cả các cậu học trò đều ngừng chơi đùa mà nhìn Ông Ritchie. Ông có khổ người to lớn và rắn rỏi, nói lớn tiếng và cười lớn tiếng. Ông hãnh diện về Bill bởi vì Bill có thể hạ gục các thầy giáo và phá tan trường học.

Không đứa học trò nào muốn cột xe trượt tuyết của mình phía sau xe trượt tuyết của Ông Ritchie; chỉ có Bill và những cậu con trai lớn leo lên trên đống gỗ của ông. Bọn chúng cười nói ồn ào, rồi xe trượt tuyết lao xuống quanh khúc cua của con đường và biến mất khỏi tầm mắt. Các cậu con trai khác không chơi đùa nữa; chúng chỉ đứng một chỗ mà bàn tán về chuyện gì sẽ diễn ra.

Khi thầy Corse gõ lên cánh cửa sổ, đám học trò nghiêm trang đi vào và nghiêm trang ngồi xuống.

Buổi xế chiều hôm ấy, không đứa học trò nào thuộc bài. Thầy Corse kêu lên từng lớp này đến lớp kia, bọn học trò đứng sắp hàng với ngón chân dí lên một rãnh nứt trên sàn, và không đứa nào trả lời đúng câu hỏi kiểm tra. Thầy Corse không phạt đứa nào cả. Thầy nói:

“Ngày mai chúng ta sẽ ôn lại bài học.”

Cả đám học trò đều nghĩ ngày mai thầy sẽ không có mặt ở đây nữa. Một trong số các học trò gái bắt đầu khóc, rồi ba hoặc bốn cô cúi đầu xuống mặt bàn mà khóc rấm rứt. Almanzo phải ngồi yên trên ghế và nhìn vào quyển vỡ lòng.

Sau một lúc lâu, thầy Corse kêu Almanzo lên bàn giáo viên, để xem cậu có thể đọc bài được không. Almanzo thuộc lòng từng chữ bài này, nhưng có cái gì đấy chặn ngang cổ họng khiến cho cậu không thể thốt nên lời. Cậu đứng đấy nhìn xuống trang sách trong khi thầy Corse chờ đợi. Rồi họ nghe tiếng ồn ào của đám học trò lớn đi vào.

Thầy Corse đứng lên, đặt nhẹ bàn tay gầy lên vai Almanzo. Thầy xoay người cậu và nói:

“Almanzo, em về chỗ ngồi đi.”

Phòng học im phăng phắc. Cả đám học trò nín thở chờ đợi. Bọn học trò lớn đi đến, cười nói huyên thuyên, la ó với nhau và xô đẩy nhau. Cánh cửa mở đánh rầm, và Bill Ritchie Lớn vênh váo đi vào. Mấy đứa con trai lớn kia đi theo.

Thầy Corse nhìn bọn chúng mà không nói lời nào. Bill Ritchie cười vào mặt thầy, và thầy vẫn không nói gì. Mấy đứa con trai lớn xô đẩy Bill, và hắn lại chế nhạo thầy Corse. Rồi hắn dẫn cả bọn rầm rập theo lối đi giữa hai hàng ghế tiến đến ghế ngồi của bọn chúng.

Thầy Corse nhấc tấm ván đậy bàn giáo viên lên và thả một bàn tay xuống phía sau tấm ván, khuất tầm mắt mọi người. Thầy gọi:

“Bill Ritchie, đi lên đây.”

Tên Bill Lớn nhảy dựng lên, mở banh vạt áo của hắn, gào to:

“Tiến lên, tụi bay!” Anh ta chạy lên theo lối đi giữa hai hàng ghế. Almanzo cảm thấy nhộn nhạo trong người; cậu không muốn nhìn nhưng chẳng đặng đừng phải nhìn.

Thầy Corse bước lùi khỏi bàn giáo viên. Bàn tay thầy rút ra từ phía sau tấm ván, và một vệt đen dài, mảnh, rít qua không khí.

Đấy là cuộn roi da dài hơn bốn mét dùng để đánh bò. Thầy Corse nắm lấy cái cán ngắn, bọc sắt, vốn có thể hạ gục một con bò mộng. Cuộn roi mảnh, dài quấn quanh hai chân của Bill, và thầy Corse giật mạnh một cái. Bill loạng choạng, suýt ngã xuống. Nhanh như tia chớp đen, cuộn roi lại xoay vòng, quấn quanh rồi lại xoay vòng, và thầy Corse lại giật mạnh.

Thầy kêu lên: “Lên đây, Bill Ritchie,” lại giật mạnh Bill về phía thầy, rồi thầy lùi lại.

Bill không tài nào tiến đến gần thầy. Cuộn roi kêu vun vút và đen đét càng lúc càng nhanh, cuộn vòng rồi lại giật mạnh, và thầy Corse lùi càng lúc càng xa, giật cho Bill gần ngã xuống. Hai thầy trò di chuyển lên xuống trên khoảng trống trước bàn giáo viên. Cuộn roi vẫn xoay vòng rồi đánh vào Bill, thầy Corse vẫn chạy lùi và tiếp tục đánh.

Thay Corse danh Bill

Hai ống quần của Bill bị đánh rách ra, chiếc áo bị cắt ngang, hai cánh tay rỉ máu từ các cú đánh. Cuộn roi vẫn lượn tới lui, kêu vun vút, quá nhanh khiến không ai dõi mắt theo kịp. Bill xông tới, và nền nhà rung chuyển khi cuộn roi đánh hắn bật ra phía sau. Bill đứng dậy, chửi bới và cố tiến đến chiếc ghế của giáo viên, định ném nó đi. Cuộn roi lại đánh hắn bật vòng quanh. Bill bắt đầu kêu rống như con bê. Hắn bù lu bù loa van xin.

Cuộn roi vẫn tiếp tục rít lên vun vút, xoay vòng, giật mạnh. Dần dần cuộn roi dồn Bill đến gần khung cửa. Thầy Corse vụt roi để ném anh ta cho chúi đầu xuống bên ngoài, rồi đóng cánh cửa và khóa lại. Quay người nhanh, thầy nói:

“Bây giờ, John, đi lên đây.”

John đang đứng ở lối đi giữa hai hàng ghế, nhìn trân trối. Cậu ta lượn vòng quanh và định trốn thoát, nhưng thầy Corse đã bước nhanh đến, vung roi cuốn lấy cậu rồi giật mạnh về phía trước.

John van xin: “Ối, em xin thầy, cho em xin, xin thầy!” Thầy Corse không trả lời. Thầy đang thở hổn hển, mồ hôi chảy dọc xuống gò má. Cuộn roi vẫn xoay vòng và rít vun vút, dồn John đến khung cửa. Thầy Corse ném John ra ngoài, đóng sầm cánh cửa, rồi quay lại.

Các cậu học trò lớn kia đã mở cánh cửa sổ. Một, hai, ba, cả bọn nhảy ra ngoài lớp tuyết dầy rồi loạng choạng chạy đi.

Thầy Corse cuốn lại roi cho gọn gàng rồi để lên mặt bàn giáo viên. Thầy lấy khăn tay lau mặt, sửa lại cổ áo, rồi nói:

“Royal, em đóng dùm cửa sổ.”

Royal rón rén đi đến cửa sổ và đóng cánh cửa. Rồi thầy Corse bắt đầu lớp số học. Không học trò nào thuộc bài. Cả buổi chiều còn lại, không đứa nào thuộc bài. Và buổi chiều hôm ấy không có giờ ra chơi. Ai nấy đều đã quên bẵng.

Almanzo nôn nóng chờ đến giờ tan học để cùng với các học trò trai chạy ra ngoài mà la hét. Đám học trò lớn đã bị trừng phạt! Thầy Corse đã trị được bọn Bill Ritchie từ Khu định cư Hardscrabble!

Nhưng phải đợi cho đến khi nghe Bố nói chuyện với thầy Corse vào giờ ăn chiều, Almanzo mới biết được phần thú vị nhất của câu chuyện.

Bố nói: “Royal cho tôi biết bọn con trai đã không ném thầy ra ngoài.”

Thầy Corse nói: “Đúng thế. Cảm ơn về cuộn roi của anh.”

Almanzo ngừng ăn. Cậu nhìn Bố. Hóa ra Bố đã biết chuyện ngay từ đầu. Chính cuộn roi của Bố đã trị được Bill Ritchie Lớn. Almanzo tin chắc Bố là người khôn ngoan nhất trần đời, cũng là người to tát nhất và mạnh mẽ nhất.

Bố đang trò chuyện. Bố cho biết trong khi bọn con trai lớn đang lướt trên xe trượt tuyết của Ông Ritchie, chúng nói với Ông Ritchie rằng chiều hôm ấy chúng sẽ hành hạ người thầy. Ông Ritchie nghĩ đấy là trò đùa hay ho. Ông tin chắc bọn chúng sẽ làm thế, đến nỗi ông kể cho mọi người trong thị trấn bọn chúng đã làm thế, và trên đường về nhà ông đã ghé lại để nói cho Bố biết rằng Bill đã hạ được người thầy và một lần nữa đã phá phách ngôi trường.

Almanzo nghĩ Ông Ritchie hẳn sẽ ngạc nhiên đến đâu khi ông về đến nhà và nhìn thấy Bill.

Sinh nhật

Sáng hôm sau, trong khi Almanzo đang ăn cháo yến mạch, Bố bảo hôm nay là sinh nhật của cậu. Almanzo đã quên bẵng điều này. Buổi sáng mùa đông lạnh lẽo ấy, Almanzo vừa tròn chín tuổi.

Bố bảo: “Có một món dành cho con trong vựa củi.”

Almanzo muốn đi xem lập tức. Nhưng Mẹ bảo nếu cậu không ăn xong bữa sáng thì cậu sẽ ốm đau, và phải dùng thuốc. Thế là cậu cố ăn nhanh, và Mẹ nói:

“Đừng ăn ngồm ngoàm như thế.”

Các bà mẹ lúc nào cũng khắt khe về cách thức con cái ăn uống. Khó mà làm vui lòng các bà dù ăn uống theo cách nào chăng nữa.

Ach bo_GR

Nhưng cuối cùng thì bữa ăn sáng đã chấm dứt, và Almanzo chạy đến vựa củi. Có một cái ách nhỏ cho bò! Bố đã làm ra cái ách này từ gỗ tuyết tùng đỏ, nên cái ách cứng chắc nhưng lại nhẹ. Đấy là cái ách cho riêng Almanzo sử dụng, và Bố nói:

“Đúng thế, con trai à, bây giờ con đã đủ lớn nên lo tập luyện bê được rồi.”

Ngày hôm ấy, Almanzo không đi học. Cậu không phải đi học khi có công việc ở nhà quan trọng hơn phải làm. Cậu mang cái ách nhỏ đến khu chuồng trại, và Bố đi cùng. Almanzo nghĩ nếu cậu tập luyện bê được hoàn hảo, có lẽ năm sau Bố sẽ cho phép cậu phụ giúp tập luyện ngựa non.

Hai con bê Star và Bright đang ở trong ô chuồng ấm áp của khu Trại-Nam. Bộ lông đỏ của chúng bóng mượt như tơ nhờ cậu đã chải chuốt cho chúng. Khi cậu đi vào ô chuồng, chúng xúm xít quanh cậu, thè lưỡi ẩm ướt và thô ráp mà liếm cậu. Chúng nghĩ cậu mang đến cà rốt. Chúng không biết rằng cậu sắp dạy dỗ cho chúng biết cách hành xử như là bò trưởng thành.

Bố chỉ cho cậu cách thức đặt ách lên cái cổ mềm mại của chúng một cách thận trọng. Cậu đã phải dùng một mảnh kính vỡ để nạo mặt lõm bên trong, cho đến khi ách thật vừa vặn và mặt gỗ nhẵn bóng. Rồi Almanzo hạ các thanh ngang của ô chuồng xuống, và hai con bê ngơ ngác đi theo cậu ra sân chuồng chói lọi, lạnh lẽo, phủ đầy tuyết.

Bố nhấc một đầu của cái ách lên trong khi Almanzo đặt đầu kia lên cổ con Bright. Rồi Almanzo nhấc chiếc vòng hình cánh cung lên phía dưới họng con Bright và luồn hai đầu cuối qua hai lỗ trên cái ách dành cho vòng này. Cậu gài một chốt gỗ qua mỗi đầu của chiếc vòng, phía trên cái ách, để giữ chiếc vòng vào đúng vị trí.

Con Bright luôn vặn vẹo đầu và cố tìm xem món vật kỳ lạ đặt trên cổ của nó. Nhưng Almanzo đã làm việc thật nhẹ nhàng nên con vật đứng lặng im, và Almanzo cho nó một miếng cà rốt.

Con Star nghe tiếng nhai dòn tan và tiến đến đòi ăn. Bố đẩy nó vòng qua đến bên cạnh con Bright, dưới đầu kia của cái ách, và luồn chiếc vòng kia dưới họng nó và gài chốt gỗ. Thế là cậu đã có cái ách đặt lên cổ hai con bê.

2 con boRồi Bố cột một sợi dây thừng chung quanh phần u của hai sừng, và Almanzo cầm lấy sợi dây thừng. Bố đứng trước hai con bê và la lên hiệu lệnh:

“Đạp!”

Khi Almanzo kéo sợi dây thừng, cổ của con Star kéo dài và dài ra thêm rồi cuối cùng nó phải bước tới. Con Bright khụt khịt mũi và kéo trở lại. Cái ách xoắn lấy đầu của con Star khiến cho con bê này dừng lại. Hai con bê đứng mà tự hỏi chuyện gì đang xảy ra.

Bố giúp Almanzo đẩy hai con bê, cho đến lúc chúng lại đứng bên nhau. Rồi Bố nói:

“Này, con trai, Bố để cho con tự nghĩ ra cách thức.” Và Bố đi vào trong chuồng trại.

Thế là Almanzo biết rằng cậu đã thật sự đủ lớn để tự mình đảm nhận những công việc quan trọng.

Cậu đứng trên tuyết nhìn hai con bê, và chúng trân trân nhìn cậu với vẻ ngây thơ. Cậu băn khoăn nghĩ làm thế nào dạy cho chúng biết “Đạp!” có nghĩa là gì. Không có cách nào nói cho chúng biết. Nhưng cậu phải tìm cách nào đấy cho chúng hiểu:

“Khi ta nói ‘Đạp!’ thì hai con phải đi thẳng tới trước.”

Almanzo suy nghĩ một hồi, rồi rời xa hai con bê, đi đến thùng đựng thức ăn cho bò, lấy cà rốt cho vào đầy túi quần. Cậu quay lại, nắm lấy sợi dây thừng trên tay, đứng phía trước hai con bê cách khoảng xa nhất có thể được theo chiều dài dây thừng. Cậu cho bàn tay phải vào túi của chiếc áo choàng nông trại. Rồi cậu hô to “Đạp!” cùng lúc nhử cho hai con Star và Bright thấy củ cà rốt trong tay mình.

Hai con vật hăng hái đi tới.

Khi chúng đến gần, Almanzo hô “Họ!”, và chúng dừng lại trước củ cà rốt. Cậu đút cho mỗi con ăn một miếng. Khi chúng ăn xong, cậu lại lùi ra xa, đặt bàn tay trong túi áo và hô lên:

“Đạp!”

Quả là đáng ngạc nhiên khi thấy hai con vật đã nhanh chóng học được rằng “Đạp!” có nghĩa là bước tới và “Họ!” có nghĩa là dừng lại. Chúng đang hành xử như bò trưởng thành.

Đúng lúc ấy Bố bước đến cửa khu chuồng trại và nói:

“Con trai à, như thế đủ rồi.”

Almanzo không nghĩ như thế là đủ rồi, nhưng tất nhiên cậu không thể cãi lời Bố.

Bố nói: “Lần đầu nếu con tập luyện cho chúng quá lâu thì chúng sẽ bực bội và không nghe lời con nữa. Cũng vì đã đến giờ ăn rồi.”

Almanzo thấy khó mà tin được. Có vẻ như cả buổi sáng đã trôi qua trong một phút.

Cậu tháo các chốt gỗ ra, rút hai chiếc vòng xuống rồi nhấc cái ách khỏi cổ hai con bê. Cậu dẫn Star và Bright đi vào ô chuồng ấm áp của chúng. Rồi Bố chỉ cho cậu cách dùng một nùi cỏ sạch để lau hai chiếc vòng và cái ách, và treo lên ở mấy cái móc. Lúc nào cậu cũng phải giữ hai chiếc vòng và cái ách được sạch sẽ và khô ráo, kẻo hai con bê sẽ bị lở da cổ.

Trong Trại-Ngựa, Almanzo dừng lại một phút để ngắm nhìn đàn ngựa non. Cậu mến hai con Star và Bright, nhưng bê thì vụng về và chậm chạp so với lũ ngựa non thanh mảnh, oai dũng và nhanh nhẹn. Khi ngựa thở, lỗ mũi chúng phập phồng, vành tai vẩy vẩy như chim. Chúng hay lúc lắc đầu với lông bờm xù ra dập dềnh, các chân mảnh mai và bộ móng xinh xắn cào trên mặt đất, và đôi mắt đầy sức sống.

Almanzo đề nghị: “Con muốn phụ giúp tập luyện ngựa non.”

Bố đáp: “Con trai à, đấy là công việc dành cho người lớn. Chỉ một lỗi lầm nhỏ đủ khiến cho một con ngựa non mạnh khỏe hư hỏng cả đời.”

Almanzo không nói gì nữa. Cậu rầu rĩ đi vào trong nhà.

Cậu có cảm giác lạ kỳ khi ngồi ăn một mình cùng với Bố và Mẹ. Ba người ngồi ở chiếc bàn trong gian bếp, bởi vì ngày hôm nay không có khách. Gian bếp sáng rỡ với ánh lấp lánh của tuyết bên ngoài. Sàn và bàn ghế đã được cọ rửa sạch bong bằng nước kiềm và cát. Các xoong thiếc lóe ánh bạc, các nồi đồng tỏa ánh vàng trên tường, ấm trà phát tiếng vo ve, và những nụ hoa phong lữ khoe sắc đỏ còn rực rỡ hơn chiếc áo đỏ của Mẹ.

Almanzo đói cồn cào. Cậu im lìm ăn uống, bận rộn lấp đầy khoảng trống trong dạ dầy, trong khi Bố và Mẹ trò chuyện. Khi ba người ăn xong, Mẹ đứng lên và bắt đầu cho tô đĩa vào chậu rửa.

Mẹ nói: “Almanzo, con lấy củi cho vào thùng củi. Và còn có những việc khác mà con có thể làm được.”

Almanzo mở cánh cửa vựa củi kế bên gian bếp. Ở đấy, trước mắt cậu, là một chiếc xe trượt tuyết.

Dong xe truot tuyet

Cậu thấy khó mà tin được chiếc xe trượt tuyết này dành cho mình. Cậu đã có quà sinh nhật là cái ách bò. Cậu hỏi:

“Bố ạ, xe trượt tuyết này của ai thế? Nó là – có phải nó là của con không?”

Mẹ phá lên cười, còn Bố nheo mắt hỏi: “Con có biết đứa trẻ chín tuổi nào khác muốn có nó không?”

Đấy là chiếc xe trượt tuyết xinh đẹp mà Bố đã đóng bằng gỗ mại châu. Nó có hình dáng thon dài, trông chừng có thể lướt nhanh; hai tấm trượt bằng gỗ mại châu đã được tẩm và uốn thành những đường cong dài và sắc cạnh như thể sẵn sàng bay lượn. Almanzo vuốt ve mặt gỗ láng bóng. Nó được bào nhẵn hoàn hảo đến mức cậu không thể nhận ra những chốt gỗ nối các mảnh với nhau. Có một thanh ngang giữa hai tấm trượt để cậu đặt chân.

Mẹ tươi cười bảo cậu: “Hợp với con đấy! Mang nó ra ngoài trời, là chỗ của nó.”

Khí trời vẫn lạnh ở mức âm bốn mươi độ, nhưng mặt trời đang chói sáng. Cả buổi chiều Almanzo chơi với xe trượt tuyết. Tất nhiên là chiếc xe không trượt được trên lớp tuyết mềm và dầy, nhưng trên con đường các xe trượt tuyết đã tạo ra hai đường rãnh sắc cạnh, cứng. Từ trên đỉnh đồi, Almanzo đẩy xe trượt tuyết xuống rồi nhảy lên, thế là cậu trượt dài xuống.

Chỉ có điều đường trượt thì uốn cong và hẹp, thế nên chẳng bao lâu cậu lao vào những đụn tuyết. Ván trượt lao một hướng còn Almanzo đâm đầu xuống một hướng khác. Nhưng cậu loạng choạng đứng lên, rồi lại mang xe trượt tuyết lên đỉnh đồi.

Một đôi lần cậu đi vào nhà để tìm táo, bánh vòng và bánh quy lót dạ. Tầng trệt vẫn còn ấm nhưng trống vắng. Tầng trên có tiếng thình thịch phát ra từ khung cửi của Mẹ và tiếng lách cách của con thoi. Almanzo mở cánh cửa vựa củi và nghe tiếng sồn sột nho nhỏ của dao bào và tiếng một tấm ván lợp đập bốp.

Cậu đi lên cầu thang dẫn đến phòng gác mái của Bố. Đôi găng tay dính tuyết của cậu treo qua cổ bằng một sợi dây; tay phải cậu cầm một bánh vòng, và trên tay trái là hai bánh quy. Cậu cắn một miếng bánh vòng rồi cắn một miếng bánh quy.

Bố đang ngồi gác qua đầu băng ghế bào, kế bên cửa sổ. Băng ghế dốc lên về phía Bố, và hai cái chốt gắn ở đầu dốc của băng ghế. Bên tay phải là một đống những tấm ván lợp mà Bố đã dùng rìu chẻ ra từ những đoạn gỗ sồi ngắn.

Bố nhấc lấy một tấm ván lợp, đặt một đầu cho khớp vào hai chốt, rồi kéo dao bào trên một mặt của tấm ván. Chỉ bào một đường là mặt váng đã nhẵn. Thêm một đường nữa để bào đầu trên mỏng hơn đầu dưới. Chỉ hai đường bào cho mặt ấy, thế là xong. Bố đặt tấm ván xuống đống ván đã bào xong, rồi nhặt một tấm ván thô khác gắn vào hai chốt.

Hai bàn tay Bố chuyển động nhịp nhàng và nhanh chóng. Thậm chí khi Bố nhìn lên và nháy mắt với Almanzo, hai bàn tay vẫn làm việc.

Bố hỏi: “Con trai, có vui không?”

Almanzo hỏi lại: “Bố ạ, con làm được không?”

Bo bao van go

Bố ngồi lùi lại trên băng ghế để nhường chỗ cho cậu ngồi phía trước ông. Cậu ngồi lên, tọng phần còn lại của chiếc bánh vòng vào miệng. Cậu nắm lấy hai cán của cái bào và cẩn thận bào dọc theo tấm ván. Công việc không dễ dàng như khi cậu mới nhìn qua. Thế nên Bố đặt bàn tay to của Bố lên bàn tay cậu, và hai bố con cùng bào tấm ván cho nhẵn.

Sau đó Almanzo lật tấm ván lại, và hai bố con cùng bào mặt kia. Cậu chỉ muốn làm có thế. Cậu bước xuống khỏi băng ghế rồi đi xem Mẹ làm việc.

Hai bàn tay Mẹ đang bay lượn, bàn chân phải đang đạp trên bàn đạp của khung cửi. Con thoi chạy tới lui từ tay phải đến tay trái của Mẹ rồi trở lại, giữa những sợi chỉ dọc, và những sợi chỉ dọc chạy chéo ngang nhau, bắt lấy sợi chỉ do con thoi để lại phía sau.

Bàn đạp phát tiếng Phịch! Con thoi kêu lên Cách-ti-Cách! Thanh ngang phát tiếng Thụp!, và con thoi chạy trở lại.

Me det len

Mẹ có phòng làm việc rộng rãi và sáng sủa, cũng ấm áp nhờ ống khói của lò sưởi. Chiếc ghế xích đu của Mẹ được đặt gần cửa sổ, kế bên là một rổ đựng những mảnh thảm vụn để may vá. Guồng se sợi dựng ở một góc phòng. Dọc theo một chân tường là những kệ chứa đầy những nùi sợi mầu đỏ, nâu, lam và vàng, mà Mẹ đã nhuộm mùa hè vừa rồi.

Nhưng mảnh vải trên khung cửi là từ lông cừu có mầu xám. Mẹ đang dệt lông cừu chưa nhuộm từ cừu lông trắng và cừu lông đen, các sợi len xoắn lại với nhau.

Almanzo hỏi: “Cái này để làm gì hở Mẹ?”

Mẹ nói: “Almanzo, đừng lấy tay chỉ. Như thế là thiếu lịch sự.” Mẹ nói lớn tiếng, át cả tiếng ồn của khung cửi.

Almanzo lại hỏi: “Cái này cho ai hở Mẹ?” Lần này cậu không lấy tay chỉ.

Mẹ đáp: “Cho Royal. Đây là bộ đồ Học viện cho anh ấy.”

Mùa đông năm sau, Royal sẽ đi học ở Học viện, và Mẹ đang dệt tấm len để may bộ quần áo mới cho anh.

Thế là mọi thứ đều ấm cúng và thoải mái trong ngôi nhà. Almanzo đi xuống cầu thang, lấy thêm hai chiếc bánh vòng trong lọ bánh, rồi lại đi ra ngoài chơi với chiếc xe trượt tuyết.

Chẳng bao lâu, những cái bóng đã đổ nghiêng dọc theo triền dốc về hướng đông. Almanzo phải mang chiếc xe trượt tuyết đi cất và giúp mang nước cho đàn gia súc vì đã đến giờ làm công việc trang trại.

Giếng nước ở cách các chuồng trại một quãng khá xa. Một nhà nhỏ được dựng phía trên giếng, nước chảy trên một máng xối xuyên qua tường rồi chảy vào một máng nước lớn bên ngoài. Các máng nước đều có băng bao phủ, và cần bơm nước lạnh buốt đến nỗi nếu bạn sờ nó bằng tay trần thì bạn sẽ có cảm giác như là bị bỏng lửa.

Các cậu con trai thỉnh thoảng thách nhau xem cậu nào dám thè lưỡi liếm cần bơm nước khi trời lạnh. Almanzo thừa biết không nên chấp nhận lời thánh thức. Nếu bạn làm thế, lưỡi bạn sẽ đông cứng lại như sắt, thế là bạn hoặc phải chịu đói cho đến chết hoặc để lại một khúc lưỡi ở đấy.

Almanzo đứng trong nhà bơm lạnh giá mà cố sức bơm nước trong khi Bố dẫn các con ngựa đến máng nước bên ngoài. Đầu tiên, Bố dẫn ra từng bầy, với những ngựa non đi theo mẹ của chúng. Rồi Bố dẫn ra ngựa lớn tuổi hơn, từng con một. Lũ ngựa này chưa được tập luyện, nên chúng hay nhảy dựng lên hoặc trì kéo sợi dây thừng, vì trời lạnh. Nhưng Bố ghì chúng lại và không cho chúng làm rối.

Trong lúc ấy, Almanzo cố sức liên tục bơm nước càng nhanh càng tốt. Nước phụt ra từ vòi bơm với âm thanh nghe lạnh lùng, và các con ngựa chúi chiếc mũi run rẩy của chúng vào làn nước mà uống nhanh.

Rồi Bố nắm lấy cần bơm. Ông bơm cho đến khi máng to đầy nước, rồi đi đến các chuồng trại mà thả tất cả đàn bò ra.

Không cần phải dẫn bò đến máng nước. Chúng nô nức đi đến máng mà uống nước trong khi Almanzo vẫn tiếp tục bơm, rồi chúng vội vã quay về chuồng ấm áp, mỗi con trở lại đúng chỗ của mình. Mỗi con bò đi vào ô chuồng của riêng mình và thò đầu giữa hai thanh cột. Chúng không bao giờ nhầm lẫn.

Bố không biết được đấy là do bò có cảm quan tốt hơn ngựa, hoặc chúng có cảm quan kém hơn nên chỉ làm mọi việc theo thói quen.

Bây giờ Almanzo nắm lấy cây chĩa để thu dọn chuồng trại, trong khi Bố đong yến mạch và đậu để đổ vào các hộc thức ăn. Royal đã đi học về, và cả ba bố con cùng làm công việc trang trại như ngày thường. Sinh nhật của Almanzo đã qua đi.

Almanzo nghĩ mình phải đi học ngày hôm sau. Nhưng đêm ấy, Bố cho biết đã đến lúc đi cắt băng. Almanzo có thể ở nhà để phụ giúp, Royal cũng thế.

Chất đầy nhà trữ nước đá

Thời tiết lạnh đến nỗi tuyết dưới chân kết hạt cứng giống như cát. Khi ném một ít nước lên không khí, nước đông lại thành những hạt băng li ti khi rơi xuống. Thậm chí dọc theo mặt nam của ngôi nhà vào giữa trưa, tuyết vẫn không tan. Đây là thời tiết hoàn hảo để đi cắt nước đá, bởi vì khi nhấc các khối lên khỏi mặt ao, nước sẽ không chảy vì đông lại ngay trong không khí.

Ba bố con lên đường đi đến một ao nước nằm bên Sông Trout [Cá Hương]. Trong khi Almanzo rúc vào các lớp lông thú giữa Bố và Royal trên xe trượt tuyết thì mặt trời đang lên cao, tất cả triền dốc hướng đông của các đụn tuyết phản chiếu mầu hồng dưới ánh nắng.

Đôi ngựa phi nước kiệu nhanh nhẹn, tạo âm thanh leng keng từ chuông đeo trên cổ, và hơi thở của chúng tỏa sương từ lỗ mũi. Các tấm trượt của xe trượt tuyết kêu lạo xạo trên mặt tuyết cứng. Không khí lạnh khiến cho mũi của Almanzo như đông cứng lại bên trong, nhưng mặt trời chiếu sáng hơn từng phút, tỏa những ánh lấp lánh li ti mầu đỏ và lục từ mặt tuyết, và cả khu rừng đầy những điểm nhấp nháy trắng và sắc cạnh phát ra từ những trụ băng.

Còn cách ao một dặm, và có một lần Bố phải bước xuống, đặt hai bàn tay trên lỗ mũi hai con ngựa. Hơi thở của chúng đã đóng băng ở vành mũi khiến cho chúng khó thở. Bàn tay ấm của Bố làm tan băng giá, rồi chúng lại tiếp tục phi nhanh.

Khi chiếc xe trượt tuyết đến nơi, French Joe và Lazy John đang chờ sẵn. Đấy là hai người Pháp sống ở một ngôi nhà gỗ nhỏ trong rừng. Họ không có nông trại. Hai người sinh sống bằng cách săn thú, đặt bẫy, bắt cá. Họ thích ca hát, đùa cợt và nhảy múa; họ uống rượu vang đỏ thay vì nước táo lên men. Khi Bố cần người phụ giúp, họ làm việc cho Bố rồi Bố trả công cho họ bằng thịt lợn muối chứa trong các thùng ở tầng hầm.

Hai người đứng trên mặt ao phủ tuyết, mang giầy ủng cao, áo khoác len sọc vuông và đội mũ lông thú với hai miếng che tai. Hơi thở tạo thành băng giá đọng trên bộ ria dài. Mỗi người có một chiếc rìu trên vai, và cũng mang theo những cái cưa lưỡi ngang.

Cưa lưỡi ngang có lưỡi cưa dài và hẹp, với một cán gỗ ở mỗi đầu. Hai người phải kéo tới kéo lui ngang rìa của bất kỳ vật gì họ muốn cưa làm đôi. Nhưng họ không tài nào cưa lớp băng trên mặt ao theo cách này, bởi vì băng rắn chắc phía dưới chân, giống như sàn nhà. Băng không có rìa để cưa ngang.

Khi nhìn thấy họ, Bố cười và kêu lên:

“Hai anh tung đồng xu chưa?”

Mọi người đều cười lớn ngoại trừ Almanzo. Cậu không hiểu ý nghĩa của lời đùa cợt. Thế nên French Joe kể cho cậu nghe:

“ Lần nọ, có hai người Ai-len được phái cưa lớp băng với cái cưa lưỡi ngang. Trước đây họ chưa từng cưa băng bao giờ. Họ nhìn lớp băng rồi nhìn cái cưa, cuối cùng Pat lấy một đồng xu ra từ túi áo và nói:

“ ‘Này Jamie, ta cần công bằng. Xấp hoặc ngửa, xem ai phải lặn xuống phía dưới?’”

Lúc ấy Almanzo mới cười, nghĩ đến người lặn xuống làn nước tối tăm, lạnh buốt dưới lớp băng, để đẩy tới kéo lui một đầu của cái cưa lưỡi ngang. Quả là buồn cười khi thấy có những người không biết cưa băng như thế nào.

Cậu lê bước theo những người khác đi trên lớp băng đến giữa mặt ao. Một cơn gió sắc lạnh thổi tung lên những lọn tuyết. Phía trên làn nước sâu, lớp băng láng mịn và tối tăm, gió đã thổi tuyết đi gần hết. Almanzo ngắm nhìn trong khi Joe và John đào xuống lớp băng thành một hố rộng ba góc. Hai người nhặt những mảnh băng vỡ lên và mang ra ngoài, để lại cái hố chứa đầy nước.

Lazy John nói: “Nó dầy khoảng nửa mét.”

Bố nói: “Thế thì cưa băng xuống đến nửa mét.”

Lazy John và French Joe quỳ xuống gần miệng hố. Hai người hạ cái cưa lưỡi ngang xuống nước rồi bắt đầu cưa. Không ai phải kéo lưỡi cưa dưới nước.

Hai người ngồi bên nhau cưa hai đường thẳng qua lớp băng, cách nhau nửa mét và dài sáu mét. Rồi John dùng rìu để chặt lớp băng theo chiều ngang, thế là một tảng băng rộng nửa mét, dầy nửa mét và dài sáu mét nâng lên một chút và nổi tự do.

Cat bang tren hoJohn dùng một cây sào để đẩy tảng băng về phía cái hố ba góc, và vì đầu cuối được đẩy ra làm nứt lớp băng mỏng đông trên nước, Joe cưa được theo những chiều dài nửa mét, thành những khối nước đá hình lập phương. Bố dùng cái kẹp băng to bằng sắt để nhấc lên từng khối nước đá và chất lên chiếc xe trượt tuyết.

Almanzo chạy đến rìa miệng hố, xem hai người cưa băng. Thình lình, ngay trên rìa miệng hố, cậu trượt ngã.

Cậu cảm thấy mình ngã chúc đầu xuống lớp nước tối đen. Tay cậu không thể bấu víu được cái gì cả. Cậu biết mình sẽ chìm và bị kéo dưới lớp băng cứng. Luồng nước mạnh sẽ kéo Almanzo dưới lớp băng mà không ai tìm ra được cậu. Almanzo sẽ chết chìm, bị kẹt dưới lớp băng trong tăm tối.

French Joe níu lấy cậu kịp thời. Cậu nghe một tiếng kêu và cảm thấy một bàn tay nhám nắm lấy một chân mình, cậu cảm thấy một tiếng vỡ kinh khủng, và rồi cậu nằm sấp trên mặt băng dầy, chắc chắn. Cậu đứng lên. Bố đang chạy đến.

Thân hình to cao của Bố đứng vượt phía trên cậu trông kinh khủng.

Bố nói: “Con đáng bị đánh một trận đòn nặng nhất trong đời.”

Almanzo nói thì thào: “Vâng, thưa Bố.” Cậu biết mình có lỗi. Cậu biết đáng lẽ mình phải cẩn thận hơn. Một đứa trẻ lên chín tuổi là đã đủ lớn nên đừng làm chuyện ngu xuẩn chỉ vì thiếu suy nghĩ. Almanzo biết thế, và cảm thấy xấu hổ. Cậu thu mình nhỏ lại bên trong lớp trang phục, hai chân run rẩy vì sợ hãi sẽ bị đòn roi. Đòn roi của Bố rất đau. Nhưng cậu biết mình đáng bị đòn. Cây roi đang nằm trên chiếc xe trượt tuyết.

Bố quyết định: “Lần này Bố sẽ không phạt con. Nhưng nhớ tránh xa miệng hố ấy.”

Almanzo nói thì thào: “Vâng, thưa Bố.” Cậu đi tránh xa cái hố, và chẳng bao giờ đến gần nữa.

Bố đã chất xong các khối nước đá lên chiếc xe trượt tuyết. Rồi Bố lấy một tấm bạt phủ lên các khối nước đá, và Almanzo ngồi trên đó cùng với Bố và Royal trở về ngôi nhà trữ nước đá gần khu chuồng trại.

Nhà trữ nước đá được xây bằng những tấm ván gỗ có khe hở rộng ở giữa. Đấy là loại nhà sàn được xây trên những tảng gỗ, trông giống như một lồng chim to. Chỉ có sàn và mái là không có khe hở. Trên mặt sàn là một đống mạt cưa vun đầy mà Bố đã chở về từ xưởng cưa.

Bố dùng xẻng trải đều lớp mạt cưa trên sàn cho dầy khoảng bảy phân. Trên lớp mạt cưa này, Bố đặt các khối nước đá cách nhau bảy phân. Rồi Bố đi trở lại cái ao, và Almanzo cùng với Anh Royal làm việc trong nhà trữ nước đá.

Hai anh em xúc mạt cưa lấp vào tất cả các khe hở giữa các khối nước đá, và lấy gậy lèn chặt xuống. Rồi hai cậu xúc cả đống mạt cưa đổ lên phía trên các khối nước đá ở một góc nhà. Ở vị trí đống mạt cưa cũ, hai cậu chất các khối nước đá trên sàn rồi lèn với mạt cưa. Rồi hai cậu phủ lên tất cả một lớp mạt cưa dầy bảy phân.

Hai cậu tận lực làm thật nhanh, nhưng trước khi xong xuôi thì Bố đã trở lại mang thêm nước đá. Bố đặt thêm một lớp những khối nước đá cách nhau bảy phân, rồi lại ra đi. Hai cậu lại lấp tất cả các khe hở, xúc mạt cưa đổ lên phía trên, và dồn đống mạt cưa còn lại vào một góc.

Hai cậu làm tất bật nên nhờ vận động mà cơ thể được ấm, nhưng chẳng bao lâu trước giữa trưa Almanzo đã cảm thấy đói còn hơn cả lũ chó sói trong mùa đông. Cậu không có thời giờ dừng công việc để chạy về nhà tìm một chiếc bánh vòng lót dạ.

Cậu quỳ trên khối băng, lấy hai bàn tay mang găng đùn mạt cưa vào những khe hở, rồi dùng một cây gậy lèn xuống. Cậu hỏi Anh Royal:

“Anh thích ăn món gì nhất?”

Hai anh em bàn về sườn lợn, thịt gà tây với nước sốt, đậu bỏ lò, bánh mỳ bắp dòn, và những món ngon khác. Nhưng Almanzo cho biết món cậu thích nhất trên đời là khoai tây rán với củ hành.

Cuối cùng, khi hai anh em về đến nhà, trên bàn ăn là một đĩa to khoai tây rán với củ hành! Mẹ biết Almanzo thích món gì nhất, và đã làm món ấy cho cậu.

Almanzo ăn hết bốn phần khoai tây rán với củ hành. Cậu cũng ăn thịt bò nướng dùng với nước sốt nâu, khoai tây nghiền, cà rốt xay thành kem, củ cải tía luộc, và vô số miếng bánh mỳ bơ phết mứt táo tây dại.

Mẹ bảo: “Phải mất nhiều công lao để nuôi ăn một đứa con trai đang lớn.” Mẹ sớt cho cậu một miếng pút-đinh tổ yến, và trao cho cậu cái vại chứa sữa pha đường có cho thêm nhục đậu khấu.

Almanzo rót kem béo ngậy lên các miếng táo được bọc giữa lớp vỏ phồng rộp. Nước táo mầu nâu sánh đặc như xi rô chảy quanh rìa của kem. Almanzo nhấc chiếc muỗng múc ăn không để sót lại chút gì.

Rồi trước khi đến giờ làm công việc trang trại, Royal và Almanzo lại làm việc trong nhà trữ nước đá. Hai cậu làm việc nguyên ngày kế tiếp, rồi lại nguyên ngày kế tiếp. Chỉ vào lúc hoàng hôn ngày thứ ba, Bố giúp hai anh em trải lớp mạt cưa cuối cùng lên những khối nước đá trên cùng. Thế là xong xuôi công việc.

Được vùi giữa mạt cưa, các khối nước đá sẽ không tan dù là trong thời tiết mùa hè nóng nhất. Thỉnh thoảng nhà đào lên lớp mạt cưa để lấy nước đá cho Mẹ làm kem lạnh, nước chanh pha đá và rượu đánh trứng pha đá.

Tối Thứ Bảy

Tối hôm ấy là tối Thứ Bảy. Mẹ bận rộn nướng bánh cả ngày, và khi Almanzo vào bếp tìm bình sữa, Mẹ vẫn còn đang rán bánh vòng. Gian bếp đầy mùi thơm nóng của bánh vòng, mùi lúa mỳ của bánh mỳ mới, mùa hương liệu của bánh ngọt, và mùi mật của bánh trái cây.

Almanzo bốc lấy một chiếc bánh vòng lớn nhất từ cái chảo và cắn lớp vỏ dòn. Mẹ đang nhồi loại bột nở mầu vàng, đánh bột ra thành những sợi dài mà Mẹ lăn, xoay và xoắn. Những ngón tay của Mẹ bay lượn mà bạn khó nhận ra. Dưới bàn tay Mẹ, trông các sợi bột như xoắn lấy nhau, và nhảy vào trong chiếc chảo đồng to chứa mỡ đang nóng cuồn cuộn.

Bum! các sợi bột chìm xuống đáy chảo, tạo ra những bong bóng. Rồi các sợi bột nhanh chóng nổi lên, nở phồng, cho đến khi đảo vòng, phần lưng vàng nhạt hướng xuống làn mỡ và phần bụng nâu hướng lên trên mặt.

Mẹ bảo các sợi bột đảo vòng vì chúng xoắn với nhau. Có phụ nữ tạo ra dạng mới lạ là hình vòng xuyến, với lỗ khuyết ở giữa. Nhưng bột hình vòng xuyến không đảo vòng. Mẹ không muốn mất thời giờ đảo bánh; xoắn các sợi bột thì nhanh hơn.

Almanzo thích ngày nướng bánh. Nhưng cậu không thích tối Thứ Bảy. Vào Thứ Bảy không có buổi tối êm đềm bên lò sưởi với táo, bỏng ngô và nước táo lên men. Tối Thứ Bảy là tối tắm rửa.

Sau khi ăn chiều, Royal và Almanzo lại mặc áo choàng, mang mũ trùm đầu, mũ che tai và găng tay. Hai cậu mang một cái chậu từ bồn tắm ở ngoài trời đi đến thùng chứa nước mưa.

Mọi vật trông ma quái vì tuyết. Các ngôi sao đông giá trên bầu trời, chỉ có tí ánh sáng phát ra từ ngọn nến trong nhà bếp.

Băng phủ dầy bên trong thùng chứa nước mưa, và hàng ngày băng đã được đánh tan ở giữa để thùng không bị vỡ[J] nhưng lỗ hổng càng ngày càng nhỏ lại. Royal chặt mặt băng, và khi chiếc rìu nhỏ đánh xuống nghe tiếng phụp, nước nhanh chóng dâng lên, bởi vì băng đang ép nước lỏng lại từ mọi bên.

Điều kỳ lạ là nước dâng lên khi đóng băng. Mọi thứ khác đều thu nhỏ lại trong cái lạnh.

Almanzo bắt đầu đổ nước cùng những mảnh băng nhỏ trôi nổi vào chậu. Công việc ngoài trời lạnh, lại chậm chạp, phải nhúng qua cái lỗ nhỏ, và cậu nảy ra một ý tưởng.

Có những thỏi băng dài rủ xuống từ mái hiên nhà bếp. Ở phần trên là một khối băng cứng, rồi những mũi nhọn thòng xuống gần chạm đến lớp tuyết. Almanzo nắm lấy một thỏi băng giật mạnh, nhưng chỉ có phần mũi gãy ra.

Chiếc rìu nhỏ đã dính cứng trong lớp tuyết ở cửa hành lang nơi Royal bỏ lại, nhưng Almanzo kéo lên được. Cậu nắm cán rìu bằng hai tay rồi chặt thỏi băng. Một loạt dồn dập những mảnh băng rơi xuống tạo thành tiếng loảng xoảng. Đấy là một âm thanh hết sức thú vị.

Royal kêu lên: “Này, đưa cho anh!” Nhưng Almanzo lại chặt thêm thỏi băng; âm thanh càng rõ to hơn lúc trước.

Almanzo nói: “Anh lớn hơn em; anh nắm tay lại mà đấm.”

Thế là Royal dùng hai nắm tay đấm các thỏi băng; Almanzo dùng rìu chặt thêm. Âm thanh nghe vang dội.

Almanzo la hét, Royal la hét, và cả hai đánh vỡ thêm băng. Các mảnh băng lớn bay tung tóe quanh khung cửa hành lang, các mảnh nhỏ cắm lỗ chỗ khắp mặt tuyết. Dọc mái hiên có một khoảnh lõm vào như thể mái nhà đã rụng đi vài chiếc răng.

Mẹ mở rộng cánh cửa gian bếp.

Mẹ thét lên: “Trời ơi! Royal, Almanzo! Hai con có hề gì không?”

Almanzo nhỏ nhẹ nói: “Không, Mẹ ạ.”

“Chuyện gì thế? Hai con đang làm gì?”

Almanzo cảm thấy mình có lỗi. Chỉ vì sau khi làm việc vất vả, hai cậu con trai thật sự không có thời gian vui đùa.

Almanzo đáp: “Mẹ ạ, chúng con lấy băng để làm nước tắm.”

“Ối trời! Mẹ chưa từng nghe qua mánh lới này! Hai con phải gào lên như người Comanche hay sao?”

Almanzo nói: “Không, Mẹ ạ.”

Răng Mẹ đánh lập cập trong khí lạnh, và Mẹ đóng cánh cửa lại. Royal và Almanzo im lặng nhặt những mảnh băng và im lặng cho vào chậu. Hai cậu loạng choạng giúp nhau xách cái chậu nặng, và Bố phải giúp nhấc nó đặt lên lò lửa.

Băng tan trong khi Almanzo lau mỡ đôi giầy da đanh của cậu và Royal lau mỡ đôi ủng của anh. Trong gian bếp Mẹ đang cho đậu luộc vào một xoong to, thêm củ hành, tiêu và một miếng mỡ lợn, rót mật đường lên trên. Rồi Almanzo thấy Mẹ mở các thùng bột. Mẹ rắc bột lúa mạch đen và bột bắp, khuấy sữa, trứng và những thứ khác, và trút bột nhồi yến mạch ra đầy một xoong, để đem đi nướng thành bánh mỳ lúa mạch đen.

Mẹ nói: “Almanzo, con mang hộ bột nhồi; đừng làm đổ.” Mẹ nhấc lấy xoong đậu và Almanzo mang xoong bột nhồi đi theo chậm hơn. Bố mở hai cánh cửa lò nướng ra, và Mẹ đẩy xoong đậu và xoong bánh mỳ vào bên trong. Hai món được nướng chậm, cho đến bữa chiều ngày Chủ Nhật.

Rồi Almanzo được ở lại một mình trong gian bếp, để tắm rửa. Nội y sạch của cậu được máng qua lưng tựa của chiếc ghế để được thoáng và ấm. Khăn lau, khăn tắm và chiếc chén nhỏ bằng gỗ đựng xà phòng ở trên một ghế khác. Cậu mang một cái chậu khác từ vựa củi đặt trên sàn, phía trước cửa lò nướng đang mở.

Tam truong

Cậu cởi áo quần và một đôi bít tất ra. Rồi cậu đổ ít nước ấm từ cái chậu trên lò nướng xuống cái chậu đặt trên sàn. Cậu cởi đôi bít tất kia ra cùng nội y, làn da trần cảm thấy dễ chịu trong hơi ấm tỏa ra từ lò nướng. Almanzo có cảm tưởng như mình được nướng trong hơi nóng, và cậu có ý nghĩ chỉ việc mặc nội y sạch vào mà chẳng cần tắm rửa gì cả. Nhưng Mẹ sẽ nhìn ra, khi cậu đi vào phòng ăn.

Thế là Almanzo bước vào chậu nước. Cậu lấy các ngón tay nhúng vào chén xà phòng rồi sát lên khăn lau. Rồi cậu kỳ cọ khắp người.

Nước chung quanh các ngón chân thì ấm, nhưng nước trên người lại lạnh. Làn da bụng ướt tỏa hơi do sức nóng từ lò nướng, nhưng tấm lưng ướt run rẩy. Khi cậu xoay người lại, lưng có cảm giác như phỏng rộp nhưng trước người lại lạnh cóng. Thế là cậu cố tắm rửa càng nhanh càng tốt, lau khô người, mặc nội y rồi mặc chiếc áo ngủ dài bằng len bên ngoài.

Rồi Almanzo nhớ đến tai. Cậu lại cầm lấy tấm khăn lau, chà sát hai tai và phía sau cổ. Rồi cậu đội chiếc mũ ấm.

Cậu cảm thấy rất sạch sẽ và thoải mái, làn da cảm thấy mượt mà dưới lớp quần áo sạch và ấm. Đấy là cảm giác của tối Thứ Bảy.

Đúng là dễ chịu, nhưng Almanzo không thích lắm cách tắm rửa như thế. Nếu được làm theo ý mình thì cậu hẳn đã chờ cho đến mùa xuân mới chịu tắm rửa.

Cậu không phải đổ nước trong chậu tắm, bởi vì nếu đi ra ngoài trời sau khi tắm thì cậu sẽ bị cảm lạnh. Alice sẽ đổ nước đi và rửa cái chậu trước khi tắm. Rồi Eliza Jane sẽ đổ chậu của Alice, đến phiên Royal sẽ đổ chậu của Eliza Jane, và Mẹ sẽ đổ chậu của Royal. Sau đó, Bố sẽ đổ chậu của Mẹ để tắm rửa, và buổi sáng hôm sau Bố sẽ mang chậu đi đổ lần cuối cùng.

Almanzo đi vào phòng ăn trong bộ nội y sạch sẽ mầu kem cùng bít tất, áo mặc ngủ và mũ đi ngủ. Mẹ nhìn cậu, và cậu bước đến cho Mẹ kiểm tra.

Mẹ đặt đồ đan xuống, nhìn hai bên tai cậu rồi đến phía sau cổ, nhìn khuôn mặt sạch sẽ, ôm lấy cậu siết chặt rồi nói: “Được! Con lên giường ngủ đi!”

Cậu thắp một cây nến, nhanh nhẹn bước lên các bậc cầu thang lạnh lẽo, thổi tắt cây nến rồi nhảy lên chiếc giường độn lông ngỗng mềm mại nhưng còn lạnh toát. Cậu bắt đầu đọc kinh cầu nguyện, nhưng chưa hết lời kinh thì đã ngủ thiếp đi.

Ngày Chủ Nhật

Sáng hôm sau, khi Almanzo lê bước vào gian bếp với hai xoong sữa đang bốc hơi, Mẹ đang làm bánh ráng chồng, bởi vì hôm nay là ngày Chủ Nhật.

Chiếc đĩa lam to trong lò đựng đầy bánh kẹp xúc xích phổng phao; Chị Eliza Jane đang cắt các bánh nhân táo, còn Chị Alice đang múc cháo yến mạch ra, như thường lệ. Nhưng chiếc đĩa lam nhỏ đã nóng lên phía sau lò nướng, đựng mười lớp bánh nướng chồng cao lên nhau.

Mười chiếc bánh nướng đã chín trên chiếc vỉ bốc khói, và ngay khi bánh vừa chín tới Mẹ để chồng lên thêm một chiếc bánh, phết đầy bơ và đường phong. Bơ và đường tan vào nhau, thấm vào chiếc bánh phồng rộp và chảy xuống dọc các rìa dòn rụm.

Đấy là loại bánh ráng chồng mà Almanzo thích hơn bất kỳ loại bánh rán nào khác.

Mẹ tiếp tục nướng cho đến khi mọi người ăn xong món cháo yến mạch. Mẹ không bao giờ nướng quá nhiều bánh rán chồng. Mọi người ăn từ chồng này qua chồng khác, và Almanzo vẫn còn đang ăn khi Mẹ kéo chiếc ghế của bà ra sau và nói:

“Ôi trời! tám giờ rồi! Mẹ phải bay mới được!”

Mẹ luôn bay. Đôi chân bà thoăn thoắt, đôi tay nhoay nhoáy khiến cho không ai dõi mắt theo kịp. Ban ngày Mẹ không thích ngồi một chỗ ngoại trừ ở guồng quay sợi hoặc khung cửi, và rồi hai bàn tay Mẹ bay lượn, hai bàn chân đập đập, guồng quay chỉ còn là cái bóng mờ hoặc khung cửi vang lên những tiếng Phịch! Thụp! và Cách-ti-Cách! Nhưng mỗi Chủ Nhật Mẹ làm cho mọi người phải vội vã theo.

Bố chải chuốt cho đôi ngựa kéo cho đến khi chúng bóng mượt. Almanzo lau chiếc xe trượt tuyết, Royal chùi bộ yên cương nạm bạc. Họ thắng hai con ngựa vào xe trượt tuyết, rồi đi vào nhà để mặc bộ y phục Chủ Nhật.

Mẹ đang ở trong gian bếp, chuẩn bị lớp vỏ trên cùng của bánh nhân thịt gà ngày Chủ Nhật. Thịt của ba con gà mái béo nằm trong bánh, dưới nước sốt sôi sục. Mẹ trải lớp vỏ ra và rạch khía theo vòng rìa, nước sốt hiện ra giữa hình hai cây thông mà Mẹ đã cắt trong bột bánh. Mẹ đặt bánh trong lò nướng, cùng với các món đậu và bánh mỳ lúa mạch đen. Bố bỏ những thanh gỗ mại châu vào lò rồi đóng lại van khói, trong khi Mẹ bay đi để thay đổi trang phục.

Vào những ngày Chủ Nhật, người nghèo phải mặc quần áo do họ tự dệt; Royal và Almanzo mặc hàng len co. Nhưng Bố và Mẹ cùng các cô con gái ăn mặc đẹp hơn, do Mẹ may từ vật liệu mua ở cửa hàng, dệt bằng máy.

Mẹ đã may cho Bố bộ đồ vét hàng đen loại tốt. Chiếc áo vét có cổ bằng nhung, và áo sơ mi làm bằng vải trúc bâu của Pháp. Đôi bít tất cao may bằng lụa đen, và vào những ngày Chủ Nhật Bố không mang ủng mà mang giầy làm bằng da bò mỏng.

Mẹ mặc bộ áo may bằng len Merino, với cổ bằng đăng ten trắng, riềm đăng ten trắng ở cổ tay, dưới tay áo rộng hình chuông. Mẹ đã đan đăng ten bằng loại chỉ tốt nhất, trông giống như mạng nhện. Vật liệu nhung mầu nâu được may thành hàng dọc cánh tay áo và xuống phía trước áo ngực dài. Mẹ đã đan chiếc mũ cũng bằng nhung nâu, với hai dải nhung nâu cột lại dưới cằm.

Almanzo cảm thấy hãnh diện về Mẹ trong bộ áo Chủ Nhật đẹp. Hai chị cũng ăn mặc đẹp, nhưng cậu không có cùng cảm nghĩ như đối với Mẹ.

Bộ váy phồng của hai chị quá to đến nỗi Royal và Almanzo khó leo lên ngồi trên chiếc xe trượt tuyết. Hai chị phải ngồi nép xuống và để cho tà váy phồng dưới hai đầu gối. Nếu hai cậu con trai chỉ cần nhúc nhích thì Eliza Jane kêu lên ngay: “Cẩn thận, vụng về quá!”

Còn Alice thì than van:

“Ôi thôi, dải ruy băng bị rối rồi!”

Nhưng khi tất cả được tấn dưới tấm da bò rừng, với những viên gạch nung nóng ở chân, Bố đánh cho hai con ngựa chạy đi, thì Almanzo quên tất cả.

Chiếc xe trượt tuyết chạy như gió thổi. Hai con ngựa đẹp sáng ánh dưới tia nắng; cổ vươn cong, đầu ngẩng cao, vó chân thon làm tuyết bay tung. Chúng trông như thể đang bay, bờm dài bóng loáng và đuôi lượn trong gió.

Bố ngồi thẳng trông hãnh diện, cầm hờ dây cương để cho đôi ngựa thỏa sức tung vó. Bố không bao giờ dùng roi; ngựa của Bố đều hiền hòa và được tập luyện hoàn hảo. Bố chỉ cần gò lại hoặc buông thả dây cương, thế là đôi ngựa tuân theo. Ngựa của Bố thuộc dòng tốt nhất trong Bang New York, hoặc có lẽ tốt nhất cả thế giới. Thị trấn cách tám cây số, nhưng Bố không bao giờ khởi hành ba mươi phút trước giờ hành lễ. Đôi ngựa phi nước kiệu trọn tám cây số, rồi ông đưa chúng vào chuồng, phủ vải ấm cho chúng và có mặt ở thềm nhà thờ khi chuông ngân.

Almanzo khó mà chịu đựng với ý nghĩ rằng sẽ còn phải nhiều năm cậu mới được cầm cương điều khiển đôi ngựa như thế.

Nha tho

Chẳng bao lâu, Bố đánh xe đi vào chuồng ngựa nhà thờ ở Thị trấn Malone. Chuồng ngựa là một tòa nhà dài và thấp, chạy dọc theo bốn bề của một quảng trường. Người ta đánh ngựa vào quảng trường qua một cánh cổng. Mỗi gia đình giáo dân trả tiền thuê một ô chuồng tùy theo điều kiện kinh tế, và Bố có ô chuồng tốt nhất. Ô chuồng rộng rãi đến mức Bố có thể đánh cả chiếc xe vào để tháo ngựa ra, có một máng ăn với hộc thức ăn chứa đầy đủ cỏ khô và yến mạch.

Bố để cho Royal phụ giúp mang các tấm chăn phủ cho đôi ngựa, trong khi Mẹ và hai chị rũ tà váy vào nếp và vuốt lại các dải ruy băng. Rồi mọi người từ tốn bước vào nhà thờ. Khi họ đi lên các bậc thang thì hồi chuông thứ nhất vừa ngân lên.

Sau đấy không cần phải làm gì cả, chỉ đợi cho bài giảng chấm dứt. Buổi lễ kéo dài hai tiếng đồng hồ. Hai chân Almanzo tê nhức, hàm muốn ngáp, nhưng cậu không dám ngáp hoặc cục cựa. Cậu phải ngồi thật im, mắt không bao giờ được rời khỏi gương mặt trang nghiêm và bộ râu lúc lắc của cha cố. Almanzo không thể hiểu nổi làm thế nào Bố biết cậu không nhìn cha cố nếu chính Bố đang nhìn cha cố. Nhưng Bố lúc nào cũng biết.

Cuối cùng, buổi lễ chấm dứt. Trong ánh nắng bên ngoài nhà thờ, Almanzo cảm thấy thoải mái hơn. Vào ngày Chủ Nhật, con trai không được chạy hoặc cười cợt hoặc nói lớn tiếng, nhưng chúng có thể trò chuyện nhỏ nhẹ, và em cô cậu của Almanzo tên Frank cũng đến đây.

Cha của Frank là Cậu Wesley; ông làm chủ một nhà máy xay bột khoai tây và sống trong thị trấn. Ông không có trang trại. Vì thế Frank chỉ là cậu bé thị trấn và chơi với các cậu con trai thị trấn. Nhưng buổi sáng Chủ Nhật này cậu đội một chiếc mũ hàng hiệu.

Chiếc mũ được may bằng vải sọc vuông dệt bằng máy, có hai vành mũ che tai được cài cúc dưới cằm. Frank mở các chiếc cúc để chỉ cho Almanzo thấy hai vành mũ che tai quay lên và được đóng cúc qua chóp mũ. Frank bảo chiếc mũ được may ở Thành phố New York. Bố cậu đã mua chiếc mũ này ở cửa hiệu của Ông Case.

Almanzo chưa từng thấy chiếc mũ như thế. Cậu ước ao mình cũng có một chiếc.

Royal nói chiếc mũ trông kỳ cục. Cậu bảo Frank:

“Có lý gì khi hai vành mũ che tai đóng cúc qua chóp mũ? Không ai có hai tai trên đỉnh đầu.” Thế là Almanzo biết Anh Royal cũng ước ao chiếc mũ này.

Almanzo hỏi: “Nó giá bao nhiêu?”

Frank nói một cách hãnh diện: “Năm mươi cent.”

Almanzo biết mình không thể nào có được một chiếc mũ này. Những chiếc mũ mà Mẹ may đều vừa vặn và ấm áp, và quả là điên rồ khi tốn tiền để mua một chiếc mũ mới. Năm mươi cent là số tiền lớn.

Almanzo nói với Frank: “Em phải đi xem bầy ngựa của bọn anh.”

Frank nói: “Hứ! Đấy không phải là ngựa của anh. Đấy là ngựa của Bố anh. Anh chẳng có con ngựa nào cả, thậm chí một con ngựa non cũng không có.”

Almanzo nói: “Anh sẽ có một con ngựa non.”

Frank hỏi: “Khi nào?”

Ngay lúc ấy, Chị Eliza Jane ngoái đầu lại gọi:

“Đi này, Almanzo! Bố đang thắng ngựa!”

Almanzo vội chạy theo Chị Eliza Jane, nhưng Frank nói theo, nhỏ nhẹ:

“Anh sẽ không có ngựa non đâu!”

Almanzo buồn rầu bước lên xe trượt tuyết. Cậu tự hỏi liệu khi nào mình sẽ đủ lớn để có bất kỳ thứ gì mình muốn hay không. Khi cậu còn bé, đôi lúc Bố cho cậu cầm sợi dây cương trong khi Bố đánh xe, nhưng bây giờ cậu không còn là em bé nữa. Cậu muốn tự mình cầm cương điều khiển các con ngựa. Bố chỉ cho phép Almanzo chải lông và vuốt ve mấy con ngựa làm việc già hiền từ, và dắt chúng đi với cái bừa. Nhưng thậm chí cậu không thể đi vào ô chuồng của ngựa kéo xe hoặc của các chú ngựa non đầy khí thế. Cậu không dám thò tay qua chấn song vuốt ve đầu mũi mềm mại của chúng, và khẽ gãi trán chúng dưới chùm lông trán. Bố đã nói:

“Các con trai không được đến gần ngựa non. Trong năm phút, các con có thể tập tính xấu cho một con ngựa non mà Bố phải mất nhiều tháng để chỉnh đốn.”

Almanzo cảm thấy vui hơn một chút khi thưởng thức các món ăn Chủ Nhật ngon lành. Mẹ cắt một miếng bánh mỳ lúa mạch đen trên kệ đựng bánh mỳ rồi cho vào chiếc đĩa đặt kế bên. Bố dùng dao cắt sâu vào bánh nhân thịt gà; ông múc lấy một muỗng to những miếng vỏ bánh dầy, dòn tan và đảo mặt dưới mịn có mầu vàng lên trên. Bố rưới nước sốt, múc những miếng thịt gà mềm; thịt sẫm và thịt trắng cùng trượt ra khỏi các ống xương. Bố thêm đậu bỏ lò, rưới một ít mỡ lợn. Ở phần vành đĩa, Bố đặt những miếng dưa củ cải đỏ sậm mầu. Rồi Bố trao đĩa thức ăn này cho Almanzo.

Cậu im lìm ăn tất cả thức ăn trong đĩa. Rồi cậu ăn thêm một miếng bánh nhân bí đỏ, cảm thấy bụng căng đầy. Nhưng cậu còn ăn thêm được một miếng bánh táo cùng với phô mai.

Sau bữa ăn, hai chị Eliza Jane và Alice rửa tô đĩa, nhưng Bố, Mẹ, Royal và Almanzo không làm gì cả. Cả buổi chiều gia đình ngồi ở phòng ăn ấm áp, trong không khí dễ gây buồn ngủ. Mẹ đọc Kinh Thánh, Eliza Jane đọc một quyển sách khác, còn đầu của Bố cứ gật gù cho đến khi ông giật mình tỉnh dậy, rồi lại tiếp tục gật gù. Royal mân mê xâu chuỗi những vòng xích nhỏ mà cậu không được phép đẽo gọt, còn Alice nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ hồi lâu. Nhưng Almanzo chỉ ngồi đấy. Cậu phải ngồi đấy. Cậu không được phép làm việc gì khác, bởi vì không được làm việc hoặc chơi đùa trong ngày Chủ Nhật. Đấy là ngày phải đi lễ nhà thờ và ngồi im.

Almanzo cảm thấy vui khi đến giờ làm công việc trang trại.

Tập luyện bê

Almanzo đã quá bận rộn làm việc trong nhà trữ nước đá nên cậu không có thời gian cho hai con bê một bài học khác. Thế là đến buổi sáng Thứ Hai, cậu hỏi:

“Bố ạ, hôm nay con nghỉ học được không? Nếu con không tập luyện hai con bê ấy, chúng sẽ quên mất phải làm gì.”

Bố lấy tay vuốt chòm râu lại và nháy mắt. Ông nói:

“Có vẻ như một cậu học trò cũng có thể quên bài vở.”

Almanzo đã không nghĩ đến điều này. Cậu suy nghĩ một chốc rồi nói:

“À, con đã học được nhiều hơn là lũ bê, và hơn nữa, chúng nhỏ tuổi hơn con.”

Trông Bố có vẻ nghiêm nghị nhưng bộ râu Bố che giấu một nụ cười. Rồi Mẹ nói:

“Này, để cho cậu bé ở nhà nếu cậu ấy muốn. Nghỉ đi học một ngày thì không hại gì, trong khi đúng như cậu ấy nói, hai con bê cần được tập luyện.”

Thế là Almanzo đi đến khu chuồng trại và kêu hai con bê đi ra bầu không khí lạnh giá. Cậu đặt cái ách lên cổ hai con, nhấc chiếc vòng hình cánh cung lên, gài hai chốt gỗ, cột sợi dây thừng chung quanh phần u của hai sừng con Star. Cậu tự mình làm tất cả việc này.

Suốt buổi sáng, mỗi lúc cậu lùi xa hơn chung quanh sân chuồng, kêu lên “Đạp!” và sau đó “Họ!” Hai con Star và Bright hăng hái đi tới khi cậu kêu “Đạp!”, và dừng lại khi cậu kêu “Họ!” để thè lưỡi đón lấy những miếng cà rốt trong bàn tay mang găng của cậu.

Đôi lúc chính cậu cũng ăn một miếng cà rốt sống. Phần bên ngoài là ngon nhất, nó rời ra thành một vòng cứng, ngọt dịu. Phần lõi có nhiều nước hơn và trong trẻo như nước đá pha mầu vàng, nhưng có vị hăng hăng.

Đến giữa trưa, Bố bảo hai con bê làm việc trong một ngày như thế là đủ rồi, và buổi chiều Bố sẽ chỉ cho Almanzo cách làm một cuộn roi.

Hai bố con đi vào rừng để Bố cắt lấy một số nhánh của cây phong nai. Almanzo mang các nhánh cây này về đến xưởng làm việc của Bố bên trên vựa củi. Bố chỉ cho cậu cách lột vỏ nhánh cây thành những dải, và cách bện những dải vỏ cây này thành cuộn roi. Đầu tiên, Bố cột phần cuối của năm dải vỏ cây với nhau, rồi bện thành một sợi dây tròn, cứng chắc.

Suốt buổi xế chiều hôm ấy, Almanzo ngồi cạnh băng ghế làm việc của Bố. Bố bào các tấm ván lợp và Almanzo cẩn thận bện cuộn roi của mình, giống như cách Bố bện cuộn roi da to của ông. Trong khi cậu xoay và xoắn các dải vỏ cây, lớp màng mỏng ngoài cùng rơi ra thành từng mảnh vụn, để lại phần vỏ bên trong mềm, mầu trắng. Đáng lẽ cuộn roi có toàn mầu trắng, nhưng bàn tay của Almanzo để lại một ít vết lấm lem.

Đến giờ làm công việc trang trại Almanzo vẫn bện chưa xong, và ngày kế tiếp cậu phải đi học. Thế nên mỗi tối cậu ngồi bên lò sưởi để bện tiếp, cho đến khi cuộn roi dài khoảng một mét rưỡi. Rồi Bố cho cậu mượn con dao để Almanzo gọt cái cán bằng gỗ, và dùng vỏ cây phong nai để buộc cán vào cuộn roi. Thế là cuộn roi hoàn thành.

Đấy sẽ là một cuộn roi hoàn hảo cho đến khi nó khô dòn trong không khí nóng mùa hè. Almanzo có thể vung roi nghe tiếng rít lớn như khi Bố vung roi da của ông. Và cậu đã hoàn tất cuộn roi kịp thời, bởi vì cậu cần nó để cho hai con bê bài học kế tiếp.

Bây giờ cậu phải dạy cho chúng biết rẽ trái khi cậu hô “Rì!” và rẽ phải khi cậu hô “Tắc!”

Ngay khi cuộn roi đã sẵn sàng là Almanzo bắt đầu. Mỗi buổi sáng Thứ Bảy cậu dạy hai con Star và Bright trên sân chuồng. Cậu không bao giờ đánh trúng chúng; cậu chỉ vung roi thành tiếng rít.

Almanzo biết người ta chẳng bao giờ dạy được con thú điều gì nếu đánh chúng, hoặc thậm chí giận dữ la mắng chúng. Lúc nào cậu cũng phải tỏ ra dịu dàng, nhỏ nhẹ và kiên nhẫn dù là khi chúng mắc lỗi. Phải làm cho hai con Star và Bright mến cậu, tin tưởng nơi cậu và biết cậu không bao giờ làm chúng đau, vì nếu chúng sợ cậu thì chúng sẽ chẳng bao giờ vâng lời và chịu làm việc.

Bây giờ hai con vật luôn vâng lời khi cậu hô lên “Đạp!” và “Họ!” Vì thế, cậu không cần phải đứng trước chúng nữa. Cậu đứng bên trái con Star. Con Star kế bên cậu, vì thế Star là con bò gần. Bright ở phía bên kia của Star, vì thế Bright là con bò xa.

Almanzo hô lên “Tắc!” và lấy hết sức vung cuộn roi kế bên đầu con Star. Star né tránh cuộn roi, thế là hai con rẽ qua phải. Sau đó Almanzo hô “Đạp!” để cho hai con vật đi một đoạn ngắn, im lìm.

Almanzo lại vung cuộn roi cho nó kêu rít vang, phía bên kia của con Bright, cùng lúc hô lên “Rì!”

Bright né tránh cuộn roi, và thế là hai con vật rẽ qua trái.

Đôi lúc chúng lồng lên và bắt đầu chạy. Lúc ấy, Almanzo ra lệnh “Họ!” với giọng trầm, nghiêm nghị giống như giọng của Bố. Còn nếu chúng không dừng lại, cậu chạy theo chặn đầu chúng. Rồi cậu lại dạy cho chúng tuân theo hai mệnh lệnh “Đạp!” và “Họ!” trong một lúc lâu. Cậu phải hết sức nhẫn nại.

Một buổi sáng Thứ Bảy rất lạnh, hai con bê nổi cơn nô đùa, chúng chạy đi khi Almanzo vung ngọn roi lần đầu tiên. Chúng chạy ồn ào vòng quanh sân chuồng, và khi cậu cố tìm cách dừng chúng lại, chúng chạy lồng lên người cậu, làm cho cậu ngã nhào trên tuyết. Chúng tiếp tục chạy bởi vì chúng thích chạy. Sáng hôm ấy, Almanzo chẳng làm gì được với chúng. Cậu tức giận đến nỗi toàn thân run rẩy, và đôi giòng lệ lăn trên hai gò má.

Cậu muốn la mắng hai con vật kém cỏi ấy, đá chúng, lấy roi đánh trên đầu chúng. Nhưng cậu không làm. Cậu giơ roi lên, lại cột sợi dây thừng quanh hai sừng của con Star, ra lệnh cho chúng đi hai vòng trên sân chuồng, kêu lên “Đạp!” để chúng đi và “Họ!” để chúng đứng lại.

Sau đó, Almanzo kể cho Bố về chuyện này, bởi vì cậu nghĩ ai kiên nhẫn với bê thì đã đủ kiên nhẫn để ít nhất được phép chải lông cho ngựa non. Nhưng có vẻ như Bố không nghĩ thế. Bố chỉ nói:

“Được rồi, con trai à. Từ tốn và kiên nhẫn là tốt. Cứ làm như thế đi, rồi con sẽ có một cái ách tốt cho bò trưởng thành.”

Ngày Thứ Bảy kế tiếp, hai con Star và Bright răm rắp làm theo mệnh lệnh của Almanzo. Cậu không cần thiết phải vung roi, bởi vì hai con vật nghe theo tiếng kêu của cậu. Nhưng cậu vẫn vung roi; cậu thích thế.

Ngày Thứ Bảy ấy, hai cậu con trai người Pháp, Pierre và Louise, đến chơi với Almanzo. Cha của Pierre là Lazy John, còn cha của Louis là French Joe. Hai cậu sống với nhiều anh chị em trong những ngôi nhà nhỏ trong rừng, đi đánh bắt cá, đi săn và hái dâu rừng; chúng không bao giờ đi học. Nhưng chúng thường đến làm việc hoặc chơi với Almanzo.

Hai cậu đứng xem trong khi Almanzo dẫn hai con bê ra khoe ở sân chuồng. Star và Bright đáp ứng giỏi đến nỗi Almanzo nảy sinh một ý tưởng thần kỳ. Cậu mang chiếc xe trượt tuyết làm quà sinh nhật ra, và dùng dùi đục một lỗ qua thanh ngang giữa hai tấm ván trượt phía trước. Rồi cậu lấy dây xích của Bố và một cái chốt khóa bánh xe từ chiếc xe trượt tuyết to của Bố để cột hai con bê vào.

Có một khoen sắt nhỏ ở phần giữa phía dưới cái ách, giống như những chiếc vòng trên những cái ách lớn. Almanzo luồn tay nắm của xe trượt tuyết qua khoen này cho đến tận thanh ngang nhỏ của tay nắm. Thanh ngang giữ cho nó không đi quá xa qua khoen. Rồi cậu buộc một đầu cuối của dây xích vào khoen, và đầu kia cậu cuốn vòng quanh cái chốt khóa bánh xe trong lỗ thanh ngang, rồi buộc chặt.

Khi hai con Star và Bright kéo, chúng sẽ kéo chiếc xe trượt tuyết qua sợi xích. Khi chúng dừng lại, tay nắm cứng của xe trượt tuyết sẽ giữ cho chiếc xe dừng theo.

Almanzo nói: “Bây giờ, Louis, cậu lên ngồi trước đi.”

Đẩy Louis trở lại, Pierre nói: “Không, tớ lớn nhất, để tớ ngồi trước.”

Almanzo nói: “Cậu không nên ngồi trước. Khi hai con bê cảm thấy sức nặng trì lại, chúng có thể chạy lồng lên. Nên để cho Louis ngồi đầu bởi vì cậu ấy nhẹ hơn.”

Louis nói: “Không, tớ không muốn thế.”

Almanzo bảo Louis: “Tớ nghĩ cậu nên nghe theo tớ.”

Louis nói: “Không.”

Almanzo hỏi: “Cậu sợ hả?”

Pierre nói: “Đúng, hắn sợ.”

Louis nói: “Tớ không sợ. Tớ chỉ không muốn ngồi trước.”

Pierre nhạo báng: “Hắn sợ.”

Almanzo nói: “Đúng mà, cậu ấy sợ.”

Louis nói mình không sợ.

Almanzo và Pierre cùng nói: “Đúng là cậu sợ.” Hai cậu chế nhạo Louis là kẻ chết nhát. Hai cậu chế nhạo Louis cứ như là em bé. Pierre bảo em trai nên về nhà với mẹ. Thế là cuối cùng Louis thận trọng leo lên ngồi trên chiếc xe trượt tuyết.

Almanzo vung cuộn roi và hô lớn: “Đạp!”

Star và Bright khởi động, rồi dừng lại. Chúng cố ngoái nhìn lại để xem cái gì ở phía sau. Nhưng Almanzo nghiêm khắc lặp lại: “Đạp!”, và lần này hai con bò khởi động và tiếp tục đi tới. Almanzo đi phía sau hai con vật, vung cuộn roi và hô to “Tắc!” để điều khiển chúng đi vòng qua sân chuồng. Pierre chạy theo sau chiếc xe trượt tuyết rồi cũng nhảy lên, và hai con bê vẫn vâng lời răm rắp. Thế là Almanzo mở cánh cổng sân chuồng.

Pierre cùng Louis nhanh chóng nhảy ra khỏi chiếc xe trượt tuyết. Pierre nói:

“Chúng sẽ phóng đi mất!”

Almanzo nói: “Tớ biết cách điều khiển bê của tớ mà.”

Cậu chạy trở lại vị trí của mình bên con Star. Cậu vung roi lên và hô lớn: “Đạp!”, rồi lái Star và Bright chạy ngay ra cổng, ra bên ngoài thế giới rộng lớn và lấp lánh.

Cậu hét lên “Rì!” rồi hô lớn “Tắc!” và lùa chúng chạy qua ngôi nhà. Cậu lùa chúng chạy ra con đường. Chúng dừng lại khi cậu hô “Họ!”

Bây giờ Pierre và Louis cảm thấy hào hứng. Hai cậu nhảy lên chiếc xe trượt tuyết, nhưng Almanzo bắt hai đứa phải lùi về phía sau. Cậu cũng muốn đi trên xe trượt tuyết. Cậu ngồi phía trước, Pierre níu lấy cậu và Louis níu lấy Pierre. Chân của ba cậu con trai dạng ra ngoài, và ba cậu giữ chân cứng nhắc khỏi mặt tuyết. Almanzo hãnh diện vung cuộn roi và hô: “Đạp!”

Đuôi con Star uốn cong lên, đuôi con Bright uốn cong lên, các gót chân của chúng nhấc cao lên. Chiếc xe trượt tuyết phóng lên không trung, và rồi mọi việc diễn ra cùng một lúc.

Con Star rống lên: “Bo-o-o!” Con Bright rống lên: “Bo-o-o!” Ngay trước mặt Almanzo, tám bộ móng đang bay, hai khúc đuôi đang lượn, và sát trên đầu là hai vòng mông đang lắc lư. Almanzo hét lên: “Họ! Họ!”

Con Bright rống lên: “Bo-o-o!” Con Star rống lên: “Bo-o-o!” Tốc độ còn nhanh hơn là khi lướt xuống triền đồi. Cây cối, tuyết và chân sau của bò nháo nhào với nhau. Mỗi khi chiếc xe trượt tuyết dập xuống là hai hàm răng của Almanzo va vào nhau.3 cau be te nga

Con Bright đang chạy nhanh hơn con Star. Chúng đang tách khỏi con đường. Chiếc xe trượt tuyết đang lộn vòng. Almanzo hét lên: “Rì! Rì” Cậu cắm đầu xuống lớp tuyết dầy, vẫn còn hét lên: “Rì!”

Miệng mồm Almanzo bị tọng đầy tuyết. Cậu phun tuyết ra khỏi miệng, người lóp ngóp, rồi cậu lồm cồm đứng dậy.

Tất cả đều tĩnh lặng. Con đường trống trơn. Hai con bê phóng đâu mất tiêu, chiếc xe trượt tuyết cũng biến mất. Pierre và Louis đang chui ra khỏi lớp tuyết. Louis đang càu nhàu bằng tiếng Pháp, nhưng Almanzo không ngó ngàng gì tới bạn mình. Pierre lập cà lập cập phủi tuyết trên mặt mũi và nói:

Sacre bleu[K]! Tớ còn nhớ cậu nói cậu biết điều khiển bê của cậu. Chúng không phóng chạy mất, hả?”

Cuối con đường về phía xa xa, Almanzo nhìn thấy hai tấm lưng mầu đỏ của hai con bê, hầu như bị vùi lấp hẳn dưới đụn tuyết trên bức tường đá.

Almanzo nói với Pierre:

“Chúng không phóng mất. Chúng chỉ chạy thôi. Ở đàng kia.”

Almanzo đi đến để xem xét. Đầu và lưng chúng nhô lên khỏi lớp tuyết. Cái ách bị cong, cổ chúng lệch sang một bên trong vòng sắt hình cung. Hai đầu mũi chạm vào nhau, hai đôi mắt mở to bần thần. Có vẻ như chúng đang hỏi nhau: “Chuyện gì xảy ra vậy?”

Pierre và Louis giúp bới tuyết ra khỏi hai con bê và khỏi chiếc xe trượt tuyết. Almanzo chỉnh sửa lại cái ách và sợi dây xích. Rồi cậu đứng phía trước hai con vật và nói “Đạp!” trong khi Pierre và Louis giúp đẩy chiếc xe trượt tuyết từ phía sau. Hai con bê leo lên mặt đường, và Almanzo điều khiển chúng đi trở lại khu chuồng trại. Chúng ngoan ngoãn đi. Almanzo đi bên cạnh con Star, vụt cuộn roi và hô lớn. Mỗi lần cậu ra hiệu lệnh gì, hai con vật đều làm đúng. Pierre và Louis đi theo phía sau. Cả ba đứa trẻ đều không cưỡi trên xe trượt tuyết.

Almanzo dẫn hai con bê vào ô chuồng của chúng và cho mỗi con một trái bắp non. Cậu cẩn thận lau chùi cái ách rồi treo lên; cậu móc cuộn roi lên chiếc đinh, lau sợi xích và chốt khóa bánh xe rồi đặt lại nơi Bố cất giữ. Rồi cậu bảo Pierre và Louis có thể ngồi phía sau mình, và cả ba đứa trẻ trượt xuống triền đồi trên chiếc xe trượt tuyết cho đến giờ làm công việc trang trại.

Tối hôm ấy, Bố cậu hỏi:

“Này con trai, chiều nay con có chuyện lộn xộn gì phải không?”

Almanzo đáp: “Không có, Bố ạ. Con chỉ thấy rằng con phải huấn luyện cho Star và Bright biết cách kéo xe khi con điều khiển.”

Cậu đã làm như thế, trong sân chuồng.

Gần cuối năm

Ngày đang dài hơn, nhưng tiết trời lại lạnh hơn. Bố đọc hai câu thơ:
      Khi ngày bắt đầu dài
Da ta càng tê tái.

Ít nhất tuyết đã mềm đi một ít ở các triền dốc hướng nam và hướng đông. Đến giữa trưa, các thỏi băng tan chảy thành giọt. Nhựa đang lưu thông trong mạch cây, và đã đến lúc làm đường.

Những buổi sáng giá lạnh trước khi mặt trời mọc, Bố và Almanzo lên đường đi đến khu rừng phong. Bố mang một đòn gánh to bằng gỗ, và Almanzo mang một đòn gánh nhỏ. Từ mỗi đầu đòn gánh treo một dải vỏ cây phong nai được cột với một chiếc móc sắt to, và một thùng bằng gỗ to đong đưa từ mỗi chiếc móc.

Tại mỗi cây phong, Bố đã khoan một lỗ nhỏ rồi đặt một máng nhỏ bằng gỗ vào. Nhựa phong ngọt bây giờ đang nhỏ giọt từ máng vào chậu nhỏ.

Đi từ cây này qua cây khác, Almanzo trút nhựa phong từ chậu vào thùng. Sức nặng tì dưới đôi vai, nhưng cậu lấy tay giữ cho hai thùng thăng bằng mà không lung lay. Khi hai thùng đã đầy, cậu đi đến cái nồi to để trút nhựa vào.

Cái nồi khổng lồ được treo từ một cây sào gác qua hai cành cây. Bố luôn giữ một đống lửa cháy phía dưới nồi, để đun nhựa.

Almanzo cảm thấy thích thú khi bước lê qua khoảnh rừng hoang giá lạnh. Cậu bước trên lớp tuyết chưa ai từng đặt chân lên, chỉ có các dấu chân của cậu ở phía sau. Cậu tất bật trút từng chậu mật phong vào thùng, và mỗi khi cảm thấy khát cậu uống một ít mật phong lỏng, ngọt ngào, mát lạnh.

Almanzo lấy làm dễ chịu khi trở lại đống lửa đang cháy bùng. Cậu xới lên đống lửa để ngắm những tàn lửa bay bổng. Cậu sưởi ấm mặt và hai bàn tay trong hơi nóng nung người và ngửi được mùi sáp phong đang sôi. Rồi cậu lại đi vào khu rừng.

Đến giữa trưa, tất cả sáp phong đang sôi trong cái nồi to. Bố mở hộp thức ăn ra, và Almanzo ngồi trên một khúc gỗ bên cạnh ông. Hai bố con vừa ăn vừa trò chuyện. Hai chân mỗi người duỗi ra về phía đống lửa, và lưng tựa vào một đống củi. Chung quanh toàn là tuyết và băng giá cùng rừng cây hoang dã, nhưng hai người cảm thấy thoải mái và ấm cúng.

Sau khi ăn xong, Bố ở kế bên đống lửa để trông chừng sáp, nhưng Almanzo muốn đi tìm quả lộc đề.

Dưới lớp tuyết trên triền dốc hướng nam, các quả lộc đề có mầu đỏ tươi đang chín giữa những lớp lá dầy mầu lục. Almanzo cởi đôi găng ra và dùng tay không cào tuyết lên. Cậu tìm được một chùm quả đỏ cho vào miệng. Quả lộc đề mát lạnh vỡ ra giữa hai hàm răng, tuôn ra chất nước có mùi thơm.

Không có gì ngon hơn quả lộc đề được bới lên dưới lớp tuyết.

Quần áo của Almanzo phủ đầy tuyết, các ngón tay của cậu tê cứng và đỏ hồng vì lạnh, nhưng cậu vẫn muốn lùng sục cả triền dốc hướng nam rồi mới quay về.

Khi mặt trời xuống thấp phía sau các cây phong, Bố ném tuyết vào đống lửa tạo thành những tiếng xèo xèo rồi lửa từ từ tắt ngấm. Sau đó Bố rót xi rô nóng vào các thùng. Hai bố con lại đặt đòn gánh lên vai, và gánh các thùng xi rô về nhà.

Hai người rót xi rô vào cái nồi to bằng đồng thau của Mẹ được đặt trên bếp lò. Rồi Almanzo bắt đầu làm công việc trang trại trong khi Bố lại đi vào rừng mang về nốt phần xi rô còn lại.

Sau bữa ăn chiều, xi rô đã sẵn sàng để kết tinh thành đường. Mẹ rót xi rô vào những xoong sữa sáu lít và để cho nó nguội. Đến sáng hôm sau, mỗi xoong chứa một bánh đường phong đặc cứng. Mẹ trút ra các bánh đường hình tròn, mầu nâu-vàng để trữ trên các ngăn kệ trong gian bếp.

Ngày này qua ngày khác, nhựa phong vẫn chảy ra. Mỗi sáng Almanzo đi cùng với Bố thu hoạch và nấu nhựa phong thành xi rô; mỗi tối Mẹ lo nấu xi rô thành đường. Nhà làm nhiều đường phong để dùng cho cả năm sau. Khi nấu phần xi rô cuối cùng không thành đường, Mẹ trữ xi rô này trong những vại ở dưới tầng hầm, và đấy là tất cả xi rô được thu hoạch trong năm.

Khi Alice đi học về, cô bé đánh hơi Almanzo rồi kêu lên: “Này, em đã ăn lộc đề!”

Cô nghĩ đấy là không công bằng vì mình phải đi học trong khi Almanzo đi lấy nhựa và ăn các thứ dâu dại. Cô nói:

“Con trai có đủ mọi thú vui.”

Chị Alice bắt Almanzo phải hứa không được đụng đến các triền dốc hướng nam dọc Sông Cá Hương, bên ngoài đồng cỏ chăn cừu.

Thế là vào những ngày Thứ Bảy, hai chị em đi với nhau để bới lên các triền dốc. Khi Almanzo tìm được một chùm quả đỏ thì cậu la lên, và khi Chị Alice tìm được thì cô kêu thét. Đôi lúc hai chị em chia cho nhau, có lúc chẳng chia gì cả. Nhưng hai chị em tiếp tục bò hai tay hai chân mà lùng sục khắp các triền dốc hướng nam ấy, và suốt buổi chiều được ngốn lộc đề thỏa thích.

Almanzo mang về nhà một xô đựng đầy những lá lộc đề xanh dầy, rồi Alice nhét vào một cái chai to. Mẹ rót rượu huýt ky vào chai rồi mang đi cất. Mẹ sẽ có dầu lộc đề để dùng làm hương liệu cho bánh ngọt và bánh quy.

Mỗi ngày tuyết tan đi một ít. Những cây tuyết tùng và vân sam lay động làm cho tuyết rơi thành từng mảng xuống các cành trơ trụi của những cây sồi và phong. Dọc bờ tường của chuồng trại và ngôi nhà, nước chảy từ những thỏi băng rơi xuống tạo thành những hốc lỗ chỗ trên mặt tuyết, và cuối cùng các thỏi băng nứt ra và rơi xuống.

Mặt đất đầy những vũng nước đen xỉn đây đó. Những vũng này lan rộng ra thêm. Chỉ có những đường mòn có người dẫm lên là còn trắng, và một ít tuyết còn sót dọc theo mặt hướng nam của các tòa nhà và vựa gỗ. Rồi học kỳ mùa hè của ngôi trường chấm dứt, mùa xuân đã đến.

Một buổi sáng, Bố đánh xe đi Malone. Trước giữa trưa, Bố vội vã quay về, vẫn còn ngồi trên cỗ xe ngựa mà hô báo tin. Thương lái khoai tây ở New York đã đến thị trấn!

Royal vội chạy đi thắng đôi ngựa vào cỗ xe goòng, Chị Alice cùng Almanzo chạy đi lấy các thúng giạ ở vựa củi. Hai chị em lăn thúng kêu thùm thụp trên các bậc cầu thang dẫn xuống tầng hầm, rồi hối hả cho khoai tây vào thúng. Hai chị em đã cho vào đầy được hai thúng trước khi Bố lái cỗ xe goòng đến thềm cửa nhà bếp.

3 tre chat khoai tay

Rồi cuộc đua bắt đầu. Bố và Royal hộc tốc mang các thúng đi lên cầu thang rồi chất lên xe goòng, trong khi Chị Alice và Almanzo cật lực cho khoai tây vào đầy các thúng nhanh hơn là các thúng đầy được mang đi.

Almanzo cố sức làm nhanh hơn Chị Alice, nhưng vẫn không kịp. Cô làm nhanh đến nỗi khi cô quay lưng lại thúng khoai tây, tà váy cô vẫn đang lượn vòng theo chiều ngược lại. Khi vén mái tóc, đôi bàn tay của cô để lại những vết bẩn trên hai gò má. Almanzo nhìn gương mặt chị mà phá lên cười, và cô cười lại cậu:

“Em đi soi gương xem! Em càng lấm bẩn hơn chị nữa!”

Hai chị em liên tục cho khoai tây vào các thúng; Bố và Royal chẳng bao giờ phải chờ. Khi cỗ xe goòng đã đầy, Bố vội vã lên đường.

Đến giữa xế chiều Bố quay về; Royal, Alice và Almanzo lại chất khoai tây lên xe goòng trong khi Bố dùng ít thức ăn nguội. Rồi Bố lại chở đi một chuyến khoai tây nữa. Tối hôm ấy, Alice giúp Royal và Almanzo làm công việc trang trại. Bố chưa về kịp để dùng bữa tối; phải đến giờ đi ngủ Bố mới về đến nhà. Royal ngồi chờ Bố. Đến đêm tối, Almanzo nghe tiếng xe goòng, Royal đi ra để giúp Bố chăm sóc đôi ngựa đã chạy thồ khoai tây hơn ba mươi cây số ngày hôm ấy.

Sáng hôm sau, và hôm sau nữa, tất cả phải chất khoai tây dưới ánh sáng đèn nến, và Bố lên đường cho chuyến đầu tiên trước khi mặt trời mọc. Ngày thứ ba, chuyến xe chở khoai tây rời thị trấn để đi Thành phố New York. Nhưng tất cả khoai tây của Bố đều đã được chất lên chuyến xe này.

Đến bữa ăn tối, Bố nói với Mẹ: “Năm trăm giạ với giá một đô la một giạ. Mùa thu rồi khi khoai tây có giá rẻ, anh đã nói với em khoai tây sẽ lên giá trong mùa xuân.”

Thế là có năm trăm đô la trong tài khoản ngân hàng. Cả nhà đều hãnh diện vì Bố, người đã trồng được khoai tây tốt và biết rõ lúc nào cần dự trữ và lúc nào nên bán ra.

Mẹ rạng rỡ nói: “Thế là hay lắm.” Mọi người đều vui. Nhưng sau đó Mẹ bảo:

“À, bây giờ rảnh tay rồi, ngày mai chúng ta sẽ quét dọn nhà cửa, bắt đầu từ sáng sớm.”

Almanzo ghét công việc quét dọn nhà cửa. Cậu phải nhổ những cây đinh đóng dọc theo rìa các tấm thảm dài tưởng chừng như cả hàng cây số. Rồi khi các tấm thảm được treo lên sào phơi quần áo ngoài trời, cậu phải dùng một cây gậy đập thảm cho sạch bụi. Hồi còn nhỏ, cậu thích chui dưới các tấm thảm, trong trò chơi xem đấy là căn lều. Nhưng bây giờ đã tròn chín tuổi, cậu phải đập thảm liên hồi cho đến khi không còn bụi bay ra nữa.

Phải di chuyển mọi thứ trong nhà; phải cọ rửa, lau chùi và đánh bóng mọi thứ. Phải kéo tất cả các tấm rèm xuống rồi đem ra ngoài trời mà phơi phóng cùng tất cả các nệm giường độn lông ngỗng. Lại còn phải giặt rũ tất cả các tấm chăn mỏng và chăn bông dầy. Từ tảng sáng đến chập tối Almanzo chạy tới chạy lui, bơm nước, lấy củi, trải lớp rơm sạch trên sàn nhà đã được cọ rửa, căng lại các tấm thảm, và đóng lại đinh dọc các rìa thảm.

Từ ngày này qua ngày khác cậu làm việc dưới căn hầm. Cậu giúp Anh Royal trút các thùng rau cải ra. Hai anh em loại ra từng quả táo, củ cà rốt và củ cải đỏ bị thối, rồi lại cho các quả và củ còn tốt vào một ít thùng mà Mẹ đã cọ rửa. Hai anh em mang những thùng khác xuống và đem đi trữ trong vựa củi. Hai anh em mang các bình, lọ và vại ra cho đến khi căn hầm hầu như trống rỗng. Rồi Mẹ cọ rửa các bức tường và sàn. Royal đổ nước vào những chậu vôi, và Almanzo quậy vôi cho đến khi vôi không còn sôi nữa, trở thành nước vôi trắng. Rồi hai anh em quét vôi toàn bộ căn hầm. Công việc thật lý thú.

Khi hai anh em trở lên tầng trên, Mẹ nói: “Trời đất! Hai con có quét vôi căn hầm kỹ như quét vôi lên người không hả?”

Khi nước vôi khô, toàn bộ căn hầm trở nên mát mẻ, sạch sẽ, trắng tinh như tuyết. Mẹ dời các xoong sữa xuống đến các ngăn kệ đã được cọ rửa. Các chậu bơ được cọ trắng bằng cát và được phơi ngoài nắng. Rồi Almanzo sắp các chậu này thành một hàng trên sàn căn hầm sạch, để đựng bơ trong mùa hè.

Bên ngoài ngôi nhà, các khóm tử đinh hương và tú cầu đang trổ hoa. Hoa tím và mao cấn nở rộ trên những đồng cỏ xanh, chim chóc đang làm tổ, và đã đến lúc làm việc ngoài đồng.

Mùa xuân

Bây giờ phải dùng bữa sáng trước bình minh, và khi Almanzo đưa đôi ngựa của mình ra khỏi ô chuồng thì mặt trời đang lên trên những cánh đồng mù sương.

Almanzo phải đứng trên một cái thùng để nhấc các vòng cổ nặng lên trên vai đôi ngựa và luồn dây cương trên tai chúng, nhưng cậu biết cách điều khiển. Cậu đã học từ hồi còn bé. Bố không cho cậu chạm đến ngựa non hoặc điều khiển ngựa trưởng thành luôn háo hức, nhưng bây giờ cậu đã đủ lớn để làm việc nên cậu có thể điều khiển đôi ngựa già, hiền hòa, có tên là Bess và Beauty.

Chúng là hai con ngựa cái thông minh, từ tốn. Khi đi ra ngoài đồng cỏ, chúng không hí hoặc phi nước đại như ngựa non; chúng chỉ nhìn quanh, nằm xuống và lăn một hai vòng, rồi chỉ lo ăn cỏ. Sau khi được thắng yên cương, chúng bình thản đi theo nhau qua ngưỡng cửa chuồng, hít lấy không khí mùa xuân, và kiên nhẫn chờ cho dây nối với chiếc cày được căng ra. Cả hai con ngựa đều già hơn Almanzo, và cậu sắp tròn mười tuổi.

Hai con vật biết làm thế nào kéo cày mà không dẫm lên các gốc bắp, hoặc biết kéo luống cày cho thẳng. Chúng còn biết cách kéo bừa, và quay đầu lại khi đến đoạn cuối của cánh đồng. Nếu chúng không biết quá rành rọt như thế thì có lẽ Almanzo sẽ thích điều khiển chúng hơn.

Cậu thắng đôi ngựa vào cái bừa. Mùa thu năm rồi cánh đồng đã được cày và rải phân chuồng, bây giờ phải bừa đất đóng cục cho tơi ra.

Bess và Beauty tự ý bước ra ngoài, không nhanh lắm, nhưng đủ nhanh để bừa cho tốt. Chúng thích làm việc trong mùa xuân, sau một mùa đông dài bị gò bó trong ô chuồng. Bây giờ chúng kéo cái bừa đi tới đi lui, trong khi Almanzo đi theo sau, tay nắm lấy sợi dây cương. Đến cuối luống bừa, cậu điều khiển cho hai con vật quay lại, đặt cái bừa sao cho răng bừa chỉ trùng lặp một ít trên rãnh đã bừa xong. Rồi cậu đập dây cương lên mông hai con vật, hô “Đạp!”, thế là chúng lại kéo cái bừa đi.

Khắp cả vùng đồng quê, có những cậu con trai khác cũng đang điều khiển súc vật đi bừa, lật lớp đất ẩm lên cho phơi ra dưới ánh mặt trời. Xa hơn về hướng bắc, Sông St. Lawrence là một dải mầu bạc chạy dọc theo chân trời. Khu rừng đầy những tán lá mỏng manh mầu xanh. Chim chóc đang nhảy nhót trên các hàng rào xây bằng đá, và những con sóc đang nô đùa. Almanzo vừa đi vừa huýt sáo phía sau đôi ngựa của mình.

Sau khi đã bừa cả cánh đồng theo một chiều ngang, cậu bừa theo chiều dọc. Răng bừa sắc nhọn chải qua lớp đất một lần nữa, đánh cho tơi những cụm đất. Cả lớp đất phải được bừa cho thật tơi.

Dần dà Almanzo quá đói nên không còn sức để huýt sáo nữa. Mỗi lúc trôi qua cậu càng đói cồn cào thêm. Có vẻ như thời khắc giữa trưa chẳng bao giờ tới. Cậu tự hỏi mình đã đi tới đi lui được bao nhiêu dặm rồi. Thế mà mặt trời có vẻ như đứng yên, các bóng trên mặt đất có vẻ như chẳng hề thay đổi. Cậu đang đói nhừ.

Cuối cùng mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, các bóng râm hầu như không còn nữa. Almanzo bừa thêm một luống, và một luống nữa. Rồi sau rốt cậu nghe những tiếng tù và thổi lên, xa lẫn gần.

Nghe rõ ràng và vui tai nhất là tiếng tù và to bằng thiếc của Mẹ báo tin giờ ăn.

Bess và Beauty vểnh hai vành tai lên và bước đi nhanh nhẹn hơn. Đến rìa cánh đồng hướng về phía ngôi nhà, chúng dừng lại. Almanzo tháo dây kéo bừa ra, cuộn lại, đi ra khỏi luống bừa rồi nhảy lên tấm lưng rộng của Beauty.

Cậu phi đến nhà bơm và để cho hai con ngựa uống nước. Rồi cậu dẫn hai con vật vào ô chuồng của chúng, tháo dây cương ra, và cho chúng ăn ngũ cốc. Người chăn ngựa giỏi luôn chăm sóc ngựa của mình trước khi anh ta ăn uống hoặc nghỉ ngơi. Nhưng Almanzo đang vội vã.

Thức ăn ngon quá! Cậu ăn đã thèm làm sao! Bố liên tục tiếp thức ăn cho cậu, còn Mẹ mỉm cười và tiếp cho cậu hai miếng bánh táo.

Almanzo cảm thấy dễ chịu hơn khi quay lại với công việc ngoài đồng, nhưng có vẻ như buổi chiều còn kéo dài hơn buổi sáng. Cậu đã mệt mỏi khi phi ngựa về nhà lúc mặt trời lặn, để rồi còn làm công việc trang trại. Cậu cảm thấy buồn ngủ trong bữa ăn chiều, và ngay sau khi ăn xong cậu leo lên lầu và nằm xuống giường. Trước khi kịp kéo lên tấm chăn, cậu đã thiếp đi nhanh chóng.

Có vẻ như chỉ thoáng qua trong một phút thì ngọn nến của Mẹ đã chiếu sáng cầu thang và Mẹ đang gọi lên. Một ngày nữa lại bắt đầu.

Không có thời giờ để mất, không có thời giờ để uổng phí mà nghỉ ngơi hoặc chơi đùa. Mầm sống trong đất đã hối hả vươn lên trong mùa xuân. Tất cả hạt của những loài cỏ dại, dây leo, cây bụi và cây gỗ đang cố xâm chiếm lấy cánh đồng. Nông dân phải chống lại chúng bằng lưỡi bừa, lưỡi cày và cuốc xẻng; họ phải nhanh chóng gieo hạt hoa mầu.

Almanzo là một chiến sĩ nhỏ trong cuộc chiến lớn lao này. Cậu làm việc từ hừng đông đến chiều tà, đi ngủ từ lúc trời vừa sụp tối đến sáng tinh sương, rồi lại thức dậy để làm việc tiếp.

Almanzo bừa cánh đồng khoai tây cho đến khi đất tơi nhuyễn và tất cả cỏ dại mới mọc mầm đều bị xới nát. Rồi cậu phụ giúp Anh Royal mang củ khoai tây giống từ thùng chứa dưới tầng hầm ra, cắt thành từng mảnh, để lại hai hoặc ba mắt trên lớp vỏ củ.

Các cây khoai tây mùa trước nở hoa và tạo hạt, nhưng không ai biết từng hạt sẽ mọc lên thành loại khoai tây gì. Tất cả cây khoai tây cùng loại mọc lên đều từ một củ khoai tây mà ra. Củ khoai tây không phải là hạt giống; nó là một phần của rễ cây khoai tây. Cắt củ giống ra làm nhiều mảnh rồi mang đi trồng thì nó luôn cho ra nhiều củ khoai tây có tính chất y như củ giống.

Mọi củ khoai tây đều có những lỗ hõm trên vỏ, trông như những hốc mắt. Từ những hốc mắt này mà rễ mọc xuống đất, và những chiếc lá nhỏ vươn lên ánh nắng. Khi còn là búp non, những lá này tiêu thụ dưỡng chất trong mảnh củ khoai tây, và khi đủ mạnh chúng sẽ dùng thức ăn từ đất và từ không khí.

Bố đang đánh dấu luống trên cánh đồng. Cây đánh dấu là một thanh gỗ có một hàng những chốt gỗ được đóng xuyên qua, cách nhau khoảng một mét. Một con ngựa kéo cây đánh dấu nằm ngang theo thân người nó phía sau, và các chốt tạo ra những luống nhỏ. Bố đánh dấu luống theo chiều dài và theo chiều dọc, vì thế các luống tạo nên những ô vuông nhỏ. Rồi công việc trồng khoai tây bắt đầu.

Bố và Royal cầm lấy cuốc, còn Chị Alice và Almanzo mang xô đựng đầy những mảnh củ khoai tây giống. Almanzo đi phía trước Anh Royal, còn Chị Alice đi phía trước Bố, dọc theo các hàng.

Ở góc của mỗi ô vuông, nơi hai luống giao cắt nhau, Almanzo đặt một mảnh củ khoai tây. Cậu phải đặt chính xác ở góc, để các hàng được thẳng và sau đó có thể cày giữa hai luống mà không phạm đến cây. Royal lấy đất phủ lên mảnh củ khoai tây rồi dùng cuốc đầm chặt. Phía sau Alice, Bố đầm đất trên mảnh củ khoai tây cô vừa đặt xuống.

Trồng khoai tây là công việc đầy thích thú. Một mùi hương dễ chịu tỏa ra từ đất mới và từ những cánh đồng đậu ba lá. Alice trông xinh xắn và vui tươi, với làn gió thoảng mơn man những lọn tóc rối và thổi tà váy tung bay. Bố tỏ ra hồ hởi, và mọi người đều cười nói trong khi làm việc.

Chị Alice và Almanzo cố đặt những mảnh củ khoai tây thật nhanh để khi đến đoạn cuối của mỗi hàng còn có một phút ngóng tìm tổ chim hoặc đuổi một con kỳ nhông chạy đến bức tường đá. Nhưng Bố và Royal không bao giờ cách xa phía sau. Bố nói:

“Nhanh lên con trai, nhanh lên!”

Thế là bọn trẻ nhanh lên, và khi đã khá xa phía trước Almanzo ngắt lấy một cọng cỏ làm một cái kèn giữa hai ngón tay cái. Alice cố làm theo, nhưng không làm được. Cô có thể chu miệng mà huýt sáo. Royal trêu cô:

“Con gái huýt sáo và gà mái gáy
Luôn mang đến chuyện tầm bậy”

Bốn người đi dọc rồi lại đi ngang, cả buổi sáng, cả buổi chiều, suốt ba ngày. Lúc này thì trồng xong cả cánh đồng khoai tây.

Tiếp đến Bố gieo hạt ngũ cốc. Bố gieo một cánh đồng lúa mỳ để làm bánh mỳ trắng, một cánh đồng lúa mạch đen để làm bánh mỳ lúa mạch đen, và một cánh đồng yến mạch cùng với đậu Canada để nuôi ngựa và bò mùa đông tới.

Trong khi Bố gieo hạt ngũ cốc, Almanzo đi theo ông khắp các cánh đồng cùng với hai con ngựa Bess và Beauty để bừa các hạt giống xuống sâu trong đất. Almanzo chưa thể gieo hạt; cậu phải thực hành một thời gian dài trước khi có thể gieo hạt cho đều. Việc này là khó.

Gieo hat

Túi hạt giống nặng nề treo trên một dây vắt qua vai trái của Bố. Bố vừa đi vừa bốc lấy một nắm hạt giống từ cái túi. Chỉ cần vung cánh tay và uốn cổ tay là Bố có thể tung hạt bay ra từ các ngón tay. Cánh tay vung ra cùng với bước đi, và khi Bố gieo hạt xong trên một cánh đồng thì hạt rơi đều trên toàn bộ mặt đất, không có nơi nào quá dày hoặc quá thưa.

Các hạt giống đều nhỏ nên khó nhận thấy, và phải đợi cho đến khi hạt nẩy mầm thì bạn mới biết được người gieo hạt đã khéo tay đến đâu. Bố kể cho Almanzo nghe câu chuyện về một anh con trai lười biếng, vô dụng, được giao công việc gieo hạt trên một cánh đồng. Anh con trai này không thích làm việc, nên anh cứ trút hết hạt từ cái túi ra rồi đi bơi. Không ai nhìn thấy anh ta làm ra sao. Sau đó, anh ta bừa cánh đồng, và không ai biết anh làm gì. Nhưng hạt giống thì biết, đất thì biết, và khi anh con trai đã quên việc làm sai trái của mình thì hạt giống và đất kể ra câu chuyện. Cỏ dại phủ lan ra toàn bộ cánh đồng.

Sau khi đã gieo hạt ngũ cốc xong xuôi, Chị Alice và Almanzo lo trồng cà rốt. Hai chị em mang trên vai một cái túi tương tự túi hạt giống của Bố, chứa đầy những hạt cà rốt nhỏ, mầu đỏ, tròn tròn. Bố đã đánh dấu luống trên đồng cà rốt theo chiều dài, với cây đánh dấu mang các răng chỉ cách nhau gần nửa mét. Với các hạt cà rốt, Chị Alice và Almanzo đi lên đi xuống cánh đồng dài, dạng chân giữa những luống hẹp.

Tiết trời bây giờ đã ấm nên hai đứa trẻ có thể đi chân trần. Đôi chân trần cảm thấy dễ chịu trong không khí và trên nền đất mềm. Hai chị em rải hạt cà rốt vào luống, rồi dùng chân gạt đất lấp lên và nén xuống.

Almanzo có thể trông thấy hai bàn chân của mình, nhưng tất nhiên là hai bàn chân của Chị Alice bị che lấp dưới tà váy. Những vòng váy phồng của cô xoay tròn mà cô phải kéo lại và cúi xuống để đặt hạt giống cho đúng vào luống.

Almanzo hỏi chị có muốn là một đứa con trai không. Cô đáp vâng, cô muốn. Rồi cô nói không, cô không muốn.

“Con trai không được đẹp như con gái, và không thể mang ruy băng.”

Almanzo nói: “Em không màng mình phải đẹp ra sao. Và dù sao em không muốn mang ruy băng.”

“À, chị muốn làm bơ và chị thích ghép vải may chăn bông. Lại còn nấu ăn, may vá, và se sợi nữa. Con trai không làm được mấy việc này. Nhưng cho dù chị là con gái, chị gieo củ khoai tây, gieo hạt cà rốt và điều khiển ngựa cũng giỏi như em vậy.”

Almanzo nói: “Chị không thể thổi cọng cỏ cho ra tiếng.”

Đến cuối luống, cậu nhìn đến những chiếc lá nhăn nhúm của cây tần bì, và hỏi Chị Alice có biết lúc nào phải trồng bắp không. Cô đáp mình không biết, nên cậu nói cho cô biết. Khi lá tần bì lớn như vành tai các con sóc thì đến lúc trồng bắp.

Chị Alice hỏi: “Con sóc lớn cỡ nào?”

“Chỉ là con sóc bình thường.”

“À, mấy chiếc lá này nhỏ như là vành tai của sóc con. Thế là chưa đến lúc trồng bắp.”

Trong một phút, Almanzo không biết nghĩ sao. Rồi cậu nói:

“Sóc con thì không phải là sóc; phải gọi nó là kitten.”

“Nhưng nó vẫn là sóc.”

“Không, không phải. Nó là kitten. Mèo con là kitten, chồn con là kitten, và sóc con là kitten. Kitten không phải là mèo, và kitten cũng không phải là sóc.[L]

Chị Alice nói: “À ra thế.”

Khi lá tần bì đã đủ lớn, Almanzo phụ giúp gieo hạt bắp. Cánh đồng đã được đánh dấu bằng cây đánh dấu cho khoai tây, rồi Bố, Royal và Almanzo cùng nhau gieo hạt.

Ba bố con mang bao hạt giống bắp cột chung quanh vòng eo trông như tạp dề, tay cầm cuốc. Ở góc mỗi ô vuông nơi hai luống giao cắt nhau, họ lấy cuốc cào đất lên rồi đào một lỗ cạn, bỏ vào đấy hai hạt bắp, rồi lấp đất và nén lại.

Bố và Almanzo làm việc nhanh nhẹn. Bàn tay và cuốc của mỗi người cùng hoạt động nhịp nhàng với nhau. Lưỡi cuốc rạch nhanh xuống đất ba lần, xúc đất lên một lần, đập nhẹ trên mặt đất hai lần, thế là gieo xong hạt bắp xuống đất. Rồi hai cha con bước nhanh tới trước, và lại hoạt động như thế.

Nhưng từ trước đến giờ Almanzo chưa bao giờ gieo hạt bắp. Cậu không thành thạo sử dụng cuốc. Cậu phải đi hai bước trong khi Bố hoặc Royal chỉ đi một bước, vì chân cậu ngắn hơn. Bố và Anh Royal luôn đi trước; cậu không thể theo kịp. Một trong hai người gieo hạt xong trên luống trước, thế nên cậu có thể bắt đầu ngang bằng trở lại. Cậu biết khi chân mình dài hơn thì cậu có thể gieo hạt bắp giỏi như bất kỳ ai khác.

Ông bán dạo hàng thiếc

Một buổi tối sau khi mặt trời lặn, Almanzo trông thấy trên con đường một con ngựa trắng kéo một cỗ xe lớn mầu đỏ tươi, rồi cậu reo lên:

“Ông bán dạo hàng thiếc đến! Ông bán dạo hàng thiếc đã đến!”

Alice chạy ra khỏi khu chuồng gà với mảnh tạp dề đựng đầy trứng. Mẹ và Eliza Jane đi đến cửa nhà bếp. Royal thò đầu ra từ nhà bơm. Các con ngựa trẻ nhô đầu qua khung cửa sổ của ô chuồng và cất lên tiếng hí với con ngựa trắng to.

Người bán dạo hàng thiếc tên Nick Brown. Ông có thân hình mập mạp, tính tình vui vẻ, thích kể chuyện và ca hát. Vào mùa xuân, ông đánh xe đi khắp các nẻo đường đồng quê, kể cho mọi người nghe những mẩu tin tức xa gần.

Cỗ xe của ông như là một ngôi nhà nhỏ, lắc lư trên những sợi dây da cứng giữa bốn bánh xe cao lêu nghêu. Cỗ xe có một cánh cửa mở ra ở mỗi bên, và từ phía sau có một cái bệ dốc lên như một đuôi chim, được cột bằng những sợi dây neo ở nóc xe. Có một rào chắn trông lạ kỳ chạy chung quanh nóc xe. Cả cỗ xe, các bệ và bốn bánh xe đều được sơn mầu đỏ tươi, với những đường uốn lượn đẹp đẽ mầu vàng tươi. Ông Nick Brown ngồi cao ngất ngưởng phía trước cỗ xe, trên một băng ghế đỏ để điều khiển con ngựa trắng.

Royal, Alice, Almanzo và ngay cả Eliza Jane đang chờ đợi khi cỗ xe dừng lại trước thềm cửa nhà bếp, và Mẹ đang mỉm cười ở khung cửa.

Mẹ cất tiếng chào hỏi: “Ông Brown vẫn khỏe chứ? Ông cho ngựa nghỉ rồi vào đây, bữa ăn gần sẵn sàng.”

Và Bố mời chào từ chuồng trại: “Nick, đánh xe vào Nhà-Xe đi, có nhiều chỗ trống.”

Almanzo tháo con ngựa bóng mượt ra, dẫn đến máng nước, rồi đưa đến một ô chuồng, cho nó ăn hai phần yến mạch và thêm nhiều cỏ. Ông Brown cẩn thận chải lông cho con ngựa, rồi lau bằng khăn sạch. Ông là người giỏi chăm sóc ngựa. Sau đó, ông nhìn qua cả đàn gia súc và cho ý kiến. Ông thích hai con Star và Bright, và ca ngợi các con ngựa non của Bố.

Ông nói với Bố: “Chắc là ông sẽ bán được mấy con sắp bốn tuổi với giá cao. Ở Saranac, có lái buôn ngựa đến từ New York đang tìm ngựa kéo xe. Tuần rồi có một người trả hai trăm đô la mỗi con cho một đôi còn kém xa các con ngựa ở đây.”

Tất nhiên là Almanzo không thể nói chen vào trong khi người lớn trò chuyện. Nhưng cậu có thể lắng nghe. Cậu không bỏ sót lời nào của Ông Brown đã nói. Và cậu biết thời khắc tốt nhất sẽ đến sau bữa ăn chiều.

Nick Brown có thể kể nhiều chuyện vui và hát nhiều bài hát hơn bất cứ người nào khác. Ông nói về mình như thế, và đó là sự thật.

Ông nói: “Vâng, thưa ông. Tôi sẽ đối đầu không phải với bất kỳ người nào, mà với bất kỳ đám đông nào. Tôi sẽ kể từ câu chuyện này qua câu chuyện khác và hát từ bài này qua bài khác trong khi ông dẫn hết người này qua người khác đến để thi đua với tôi, rồi tôi sẽ kể câu chuyện cuối cùng và hát bài hát cuối cùng.”

Bố biết đấy là sự thật. Bố đã nghe Nick Brown kể chuyện và ca hát, trong cửa hàng của Ông Case ở Malone.

Thế là sau bữa ăn chiều tất cả quây quần quanh lò sưởi, và Ông Brown bắt đầu. Đến sau chín giờ tối mọi người mới đi ngủ, và hai bên hông Almanzo nhức mỏi vì cười quá nhiều.

Sáng hôm sau, khi dùng điểm tâm xong, Ông Brown thắng con ngựa vào cỗ xe và đánh xe đến thềm cửa nhà bếp, rồi mở các cánh cửa mầu đỏ ra.

Bên trong cỗ xe là nhiều thứ làm toàn bằng thiếc. Trên các ngăn kệ dọc thân xe là các xô, chảo, chậu, chảo nướng bánh ngọt, chảo nướng bánh táo, chảo nướng bánh mỳ, và chậu rửa tô đĩa. Lủng lẳng phía trên đầu là các loại cốc, muôi, muỗng gạn kem, lọc, nồi hấp, chao, bàn nạo. Có những kèn thiếc, còi thiếc, đĩa thiếc làm đồ chơi, chảo nướng; có đủ mọi loài thú làm bằng thiếc và được sơn mầu sáng.

Ông Brown đã tự làm lấy tất cả các món này trong mùa đông, mỗi món được làm ra từ loại thiếc dầy và tốt, với kỹ năng khéo léo và được hàn chắc chắn.

Mẹ lên gác mái mang xuống một túi to đựng tất cả vải mảnh Mẹ đã để dành trong năm vừa qua, rồi trút ra ở bậc thềm. Ông Brown lựa ra những mảnh len và vải lanh còn tốt và sạch sẽ, trong khi Mẹ xem xét các món hàng thiếc sáng bóng, và hai người bắt đầu việc trao đổi bằng hiện vật.

Hai người trao đổi và tranh luận với nhau một hồi lâu. Các món hàng thiếc sáng ánh và các chồng vải nằm khắp cả thềm. Khi Ông Brown chọn thêm vải thì Mẹ cũng đòi thêm hàng thiếc mà ông thấy là quá nhiều. Hai vừa cười đùa vừa trao đổi qua lại các món. Cuối cùng, Ông Brown nói:

“ Này, bà ạ, tôi thuận đổi các chảo sữa và các xô, cái muỗng gạn kem và cái chao, thêm ba đĩa nướng, nhưng thêm cái chậu rửa thì không được. Tôi nói chắc như vậy.”

Mẹ đáp: “Được rồi, Ông Brown.” Câu trả lời của Mẹ là bất ngờ, nhưng Mẹ đã có được những gì mình muốn. Almanzo biết Mẹ không cần chậu rửa; Mẹ chỉ đòi hỏi như thế để mặc cả. Bây giờ Ông Brown cũng biết thế. Ông lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn Mẹ một cách kính trọng. Mẹ là người mặc cả khôn ngoan, đã lấn lướt Ông Brown. Nhưng ông cũng vui lòng, bởi vì ông đã đổi hàng thiếc của mình để lấy được nhiều vải tốt.

Ông thu dọn các mảnh vải, cột với nhau thành một cái bành, rồi chất bành vải lên cái bệ phía sau cỗ xe. Cái bệ và rào chắn chung quanh nóc xe đã được làm để giữ các mảnh vải ông đổi được.

Sau đó Ông Brown xoa hai tay, mỉm cười. Ông nói:

“Thế là xong. Tôi tự hỏi những bạn trẻ này ưa thích cái gì.”

Ông tặng Eliza Jane sáu chảo nướng nhỏ hình ngôi sao để cô nướng những chiếc bánh nhỏ, và cho Almanzo một chiếc còi thiếc sơn đỏ.

Rồi hai đứa trẻ nói: “Cảm ơn Ông Brown!”

Ông Brown leo lên băng ghế đặt trên cao, cầm lấy dây cương. Con ngựa trắng to hồ hởi cất vó, sau khi đã được ăn no, được chải lông, và được nghỉ ngơi đầy đủ. Cỗ xe mầu đỏ chạy ngang ngôi nhà, lắc lư trên con đường, và Ông Brown bắt đầu huýt sáo.

Mẹ đã có đủ các món hàng thiếc để dùng trong năm ấy, và Almanzo đã có chiếc còi thổi vang tiếng toe toe, còn Nick Brown vừa đánh xe vừa huýt sáo giữa những cội cây xanh và những cánh đồng. Cho đến khi ông quay lại lần sau, mọi người vẫn nhớ mãi những mẩu tin và vẫn còn cười với những câu chuyện vui của ông. Và đi sau đôi ngựa trên cánh đồng, Almanzo sẽ huýt sáo những bài hát mà ông đã hát.

Chú chó kỳ lạ

Nick Brown đã cho biết những người lái buôn ngựa từ New York đang có mặt trong vùng, nên mỗi tối Bố lo chăm sóc đặc biệt cẩn thận đàn ngựa bốn tuổi. Đàn ngựa này đã được tập luyện hoàn hảo, và Almanzo thiết tha muốn phụ giúp chải lông cho chúng nếu Bố cho phép. Nhưng cậu chỉ được phép đi vào ô chuồng của chúng khi Bố có mặt ở đấy.

Almanzo cầm bàn chải tròn cẩn thận chà sát và chải hai bên hông nâu bóng loáng, trên mông tròn và các chân mảnh mai. Rồi cậu dùng vải sạch lau xuống. Cậu chải và tết chòm lông bờm đen, rồi đến lông đuôi đen và dài. Cậu lấy một bàn chải nhỏ thoa mỡ lên các móng cong, cho đến lúc móng bóng loáng như lò nướng của Mẹ đã được lau chùi.

Cậu thận trọng không gây cử động bất chợt khiến cho con ngựa giật mình. Trong khi chăm sóc chúng, cậu nói với chúng bằng giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ. Ngựa non thích há miệng gặm cánh tay áo cậu, dụi đầu vào túi áo chứa các quả táo mà cậu mang đến thưởng cho chúng. Cổ chúng vươn lên cao khi cậu xoa nắn đầu mũi chúng mượt mà như nhung, và hai con mắt hiền lành của chúng ánh sắc long lanh.

Almanzo biết trên cả cõi đời này không có gì đẹp đẽ, lạ lẫm như đàn ngựa đẹp. Cậu quá sốt ruột khi nghĩ đến việc phải chờ đợi năm này qua năm khác để có một con ngựa non cho tự cậu tập luyện và chăm sóc.

Một buổi tối, có một lái buôn ngựa phi vào bên trong sân chuồng. Anh này là lái buôn ngựa lạ mặt; trước đây Bố chưa từng gặp. Anh khách ăn mặc theo kiểu dân thành thị, bộ đồ may bằng hàng dệt máy, và anh cầm một cây gậy nhỏ mầu đỏ để đập vào đôi ủng cao bóng loáng. Đôi mắt anh sát với sóng mũi mảnh mai; bộ râu đen được tỉa tót mỏng, chót hai hàng ria được thoa sáp và xoắn lại.

Anh trông thật lạ lẫm khi đứng ở sân chuồng, suy tư lấy tay xoắn lấy một chót ria thành nhọn hoắc.

Bố dẫn đàn ngựa trẻ ra. Chúng hoàn toàn khớp với dòng Morgan, có cùng kích thước và hình dáng, toàn bộ lông mầu nâu nhạt với những đốm trắng hình sao trên trán. Chúng vểnh cao cổ, bộ vó xinh xắn cất bước trông thanh cảnh.

Bố nói: “Đến Tháng Năm là tròn bốn tuổi, khỏe mạnh, không tỳ vết. Bọn nó sinh động, hăng hái nhưng hiền như mèo con. Đến phụ nữ cũng điều khiển được.”

Almanzo lắng nghe. Cậu cảm thấy hào hứng nhưng cố nhập tâm tất cả những gì Bố và anh lái buôn ngựa trao đổi với nhau. Một ngày nào đấy, chính cậu sẽ lo việc buôn bán ngựa.

Anh lái buôn nắn chân các con ngựa, mở miệng chúng để nhìn vào bên trong. Bố không có gì phải e sợ việc này; ông đã nói tuổi thật của đàn ngựa trẻ. Rồi anh lái buôn bước lui và ngắm nhìn, trong khi Bố cầm sợi dây dài điều khiển từng con ngựa cho nó đi chậm, phi nước kiệu và rồi nước đại theo vòng tròn quanh ông.

Bố nói: “Nhìn xem động tác của chúng kìa.”

Lông bờm và lông đuôi đen bóng gợn sóng lăn tăn trong không khí. Những ánh nâu óng ả trên thân hình mượt mà, bộ vó gọn nhẹ trông dường luôn tung lên khỏi mặt đất. Chúng chạy vòng quanh và vòng quanh, như là theo một sự hòa điệu.

Anh lái buôn ngắm nhìn. Anh cố tìm ra khuyết tật của từng con ngựa, nhưng không tìm được. Rồi bầy ngựa đứng im, và Bố chờ đợi. Cuối cùng, anh lái buôn ra giá 175 đô la mỗi con.

Bố nói không thể nhận ít hơn 225 đô la. Almanzo biết Bố sẽ nói thế, bởi vì ông muốn giá 200 đô la. Nick Brown đã nói cho Bố biết rằng các lái buôn ngựa đang trả giá ấy.

Bố thắng hai con ngựa non vào cỗ xe. Ông và anh lái buôn leo lên, rồi hai người đánh xe chạy dọc con đường. Hai con ngựa ưỡn cao đầu, mũi vươn ra; lông bờm và lông đuôi tung bay trong gió theo nhịp phi, các đôi vó cất bước cùng nhịp như thể đôi ngựa hòa nhập nhau làm một. Trong thoáng chốc, chiếc xe chạy khuất tầm mắt.

Almanzo biết mình phải tiếp tục làm công việc trang trại. Cậu đi vào ô chuồng, cầm lấy cái chĩa, rồi lại đặt xuống, đi ra để nhìn đôi ngựa quay trở về.

Khi họ trở về, Bố và anh lái buôn vẫn chưa thỏa thuận về giá cả. Bố vuốt bộ râu của ông; anh lái xoắn nhánh ria của mình. Anh lái buôn ngựa kể lể về chi phí để đưa các con ngựa về New York, mà giá ở thành phố ấy lại thấp. Anh phải cân nhắc cho lợi nhuận. Anh chỉ có thể trả giá cao nhất là 175 đô la.

Bố nói: “Chúng ta chia nhau phần sai biệt. Hai trăm đô la, đấy là giá cuối cùng.”

Anh lái buôn suy nghĩ rồi trả lời: “Tôi thấy không có cách nào để chịu giá đó.”

Bố nói: “Không sao. Không phiền hà gì cả. Chúng tôi vẫn vui mà đãi anh bữa tối.”

Bố bắt đầu tháo đôi ngựa ra khỏi xe.

Anh lái buôn nói: “Ở Saranac người ta đang bán những con ngựa còn tốt hơn mà giá chỉ có một trăm bảy mươi lăm đô la.”

Bố không trả lời. Bố dẫn đôi ngựa trở vào ô chuồng.

Rồi anh lái buôn nói: “Được rồi, hai trăm. Tôi sẽ bị lỗ với giá đó, nhưng đây này.” Anh rút từ túi áo một chiếc ví dầy cộm, trao cho Bố 200 đô la để đặt cọc. “Ngày mai ông dẫn chúng đến thị trấn, rồi nhận phần còn lại.”

Đôi ngựa đã được bán theo giá Bố mong muốn.

Anh lái buôn không ở lại để dùng bữa. Anh phi ngựa đi, và trong nhà bếp Bố đưa tiền cho Mẹ. Bà kêu lên:

“Ý anh là mình phải giữ qua đêm tất cả khoản tiền này trong nhà!”

Bố nói: “Đã muộn quá nên không đi gửi ở ngân hàng được. Chúng ta được an toàn mà. Chỉ có mình biết số tiền ấy ở đây.”

“Em dám nói đêm nay em sẽ không chợp mắt được chút nào!”

Bố nói: “Thượng Đế sẽ phù hộ cho chúng ta.”

“Thượng Đế lo cho mọi người để mọi người tự lo. Em cầu mong tiền được an toàn trong ngân hàng.”

Đã quá giờ làm công việc trang trại, và Almanzo phải vội đi ra khu chuồng trại với chiếc xô vắt sữa. Nếu không vắt sữa đúng giờ, dù là ban đêm hay ban ngày, thì bò sẽ cho sữa ít đi. Rồi lại phải lau dọn các máng ăn và các ô chuồng, và cho đàn gia súc ăn. Gần tám giờ mọi việc mới xong xuôi, và Mẹ đang hâm nóng thức ăn cho bữa chiều.

Giờ ăn chiều không được vui vẻ như mọi khi. Có ý nghĩ lo lắng nặng nề về khoản tiền ấy. Mẹ đã đem giấu tiền trên ngăn kệ gian bếp, rồi lại đem giấu trong tủ áo. Sau bữa ăn, Mẹ bắt đầu chuẩn bị bột bánh xốp để nướng ngày hôm sau, và vẫn lo lắng về khoản tiền. Đôi tay Mẹ thoăn thoắt, bột bánh phát ra những tiếp lộp bộp dưới chiếc muỗng của Mẹ, và bà đang lẩm bẩm:

“Chắc không ai lại nghĩ phải đi lục lạo giữa các tấm vải trong tủ áo, nhưng mình dám chắc mình¾ Cái gì thế?

Mọi người đều giật thót mình. Tất cả nín thở nghe ngóng.

Mẹ nói hào hển: “Có con gì đấy hoặc ai đấy đang rình rập quanh nhà!

Khi bạn nhìn qua các cửa sổ thì bạn thì chỉ thấy màn đêm đen kịt bên ngoài.

Bố nói: “Ôi dào! Chả có gì cả!”

“Em dám chắc đã nghe tiếng gì đấy.”

Bố nói: “Anh chẳng nghe gì cả.”

Mẹ nói: “Royal, con đi ra xem.”

Royal mở cánh cửa bếp, nhìn quanh quất bên ngoài. Sau một phút, cậu nói:

“Đấy chỉ là một con chó đi lạc.”

Mẹ bảo: “Đuổi nó đi đi!”

Royal đi ra đuổi con chó.

Almanzo mong ước mình có một chú chó. Nhưng một chú chó nhỏ thích cào đất trong vườn rau, đuổi đàn gà và lén ăn trứng, còn chó lớn có thể cắn chết cừu. Mẹ vẫn luôn nói đã có đủ các con gia súc mà không cần đến một con chó dơ bẩn.

Mẹ để bột bánh qua một bên. Almanzo đi rửa chân. Sau khi đã đi chân trần ban ngày, mỗi tối cậu phải rửa chân. Cậu đang rửa chân thì mọi người nghe tiếng động rón rén ngoài thềm cửa sau.

Đôi mắt Mẹ mở to lên.

Royal nói: “Chỉ là con chó ấy.”

Chu cho ky la

Cậu mở cánh cửa. Ban đầu, không ai thấy gì cả, và đôi mắt Mẹ càng mở to hơn. Rồi mọi người thấy một chú chó to, ốm yếu, đang co rúm trên cái bóng của nó. Bộ xương sườn lộ rõ dưới lớp lông.

Alice thốt lên: “Ôi, Mẹ ơi, con chó tội nghiệp quá! Làm ơn Mẹ ạ, con cho nó ít thức ăn được không?”

Mẹ đáp: “Ôi trời, con à, được! Royal, đến sáng con có thể đuổi nó đi.”

Alice đặt một xoong thức ăn cho chú chó. Nó không dám đến gần khi cánh cửa còn mở, nhưng khi Almanzo đóng cửa lại họ nghe tiếng nó nhai rào rạo. Hai lần Mẹ thử cánh cửa để biết chắc cửa đã được khóa kỹ.

Khi mọi người cầm nến đi ra khỏi gian bếp, bóng tối luồn vào thế chỗ họ, và bóng tối săm soi nhìn vào phòng ăn qua các khung cửa sổ. Mẹ khóa cả hai cánh cửa phòng ăn, rồi thậm chí đi vào hành lang và thử cánh cửa hành lang cho dù cửa này lúc nào cũng được khóa.

Một lúc lâu, Almanzo nằm trên giường lắng nghe và dõi nhìn ra bóng tối. Nhưng cuối cùng cậu thiếp đi, và đến sáng mới được nghe Mẹ kể chuyện gì đã xảy ra trong đêm.

Mẹ đã giấu số tiền trong đôi bít tất của Bố đặt trong ngăn kéo bàn viết. Nhưng sau khi đã lên giường, Mẹ lại trở dậy lấy món tiền đặt dưới gối của mình. Mẹ đã nghĩ mình sẽ không ngủ nghê được gì, nhưng hẳn Mẹ đã thiếp đi bởi vì trong đêm khuya có cái gì đấy đánh thức Mẹ. Bà ngồi thẳng người lên trên giường. Bố vẫn ngủ say.

Ánh trăng đang chiếu vằng vặc; Mẹ có thể nhìn thấy bụi tử đinh hương trong khu vườn. Rồi Mẹ lạnh toát người: bà nghe một tiếng gầm gừ nhỏ, hoang dại.

Mẹ bước ra khỏi giường, đi đến cửa sổ. Chú chó lạ đứng phía dưới, lông xù lên, hai hàm răng nhe ra. Nó hành động như thể có người nào đấy đang lảng vảng trong khu rừng.

Mẹ đứng nghe ngóng và dòm ngó. Dưới các tán cây toàn là bóng tối, và Mẹ không nhìn thấy có người nào cả. Nhưng con chó vẫn gầm gừ nghe dữ tợn về phía bóng tối.

Mẹ dõi mắt nhìn. Mẹ nghe đồng hồ gõ mười hai tiếng, rồi một lúc lâu sau gõ một tiếng. Chú chó đi tới đi lui dọc hàng rào giậu, vẫn gầm gừ. Cuối cùng nó nằm xuống nhưng vẫn nghe ngóng, đầu ngẩng cao, hai vành tai dựng đứng. Mẹ khẽ khàng đi trở lại giường.

Đến sáng, chú chó đã bỏ đi. Cả nhà đi tìm mà không thấy nó ở đâu. Nhưng lại thấy các dấu chân của nó trên sân nhà. Và phía bên kia hàng rào giậu, trong khu rừng, Bố tìm thấy những dấu vết của đôi giầy ủng.

Không kịp ăn sáng, Bố vội vã thắng ngựa vào chiếc xe, cột đôi ngựa non phía sau rồi đánh xe đi Malone. Bố gửi 200 đô la vào tài khoản ngân hàng. Bố giao đôi ngựa cho anh lái buôn và nhận 200 đô la phần còn lại, rồi cũng gửi ngân hàng.

Khi trở về, Bố nói với Mẹ:

“Em đã đúng. Đêm hôm qua mình suýt bị cướp.”

Tuần trước, một nông dân sống gần Malone đã bán một đôi ngựa rồi giữ tiền trong nhà. Đêm hôm ấy, bọn cướp lẻn vào nhà trong khi ông đang say ngủ. Chúng trói vợ ông và bầy trẻ rồi đánh đập ông gần chết, để bắt ông khai ra chỗ giấu tiền. Chúng cướp được tiền rồi tẩu thoát. Cảnh sát vẫn còn đang truy nã chúng.

Bố nói: “Anh không lấy làm ngạc nhiên nếu cái anh lái buôn ngựa ấy dính dáng vào chuyện này. Có ai khác biết được ta có khoản tiền ấy kia chứ? Nhưng mà không có chứng cứ. Anh đã dọ hỏi, được biết đêm hôm qua anh kia ở trong khách sạn tại Malone.”

Mẹ nói bà hằng tin rằng Ơn Trên đã phái chú chó lạ đến trông chừng cho nhà. Almanzo nghĩ có lẽ chú chó đã ở lại vì Chị Alice đã cho nó ăn.

Mẹ nói: “Có lẽ con chó được phái đến đây để thử lòng ta. Có lẽ Thượng Đế đã tỏ lòng nhân từ với ta vì ta nhân từ với con chó.”

Gia đình không bao giờ thấy lại chú chó. Có lẽ nó là chú chó đi lạc tội nghiệp, và thức ăn Alice cho nó giúp nó khỏe mạnh lên mà tìm đường về nhà.

Hớt lông cừu

Các cánh đồng trồng cỏ và các khu đồng cỏ thả nuôi gia súc bây giờ đang phủ một lớp mầu lục dầy mịn như nhung, và thời tiết đang ấm áp. Đã đến lúc hớt lông cừu.

Một buổi sáng đầy nắng, Pierre và Louis cùng với Almanzo đi ra khu đồng cỏ thả nuôi gia súc để lùa đàn cừu về các chuồng tắm. Dãy chuồng chạy dài từ khu chăn thả gia súc cho ăn cỏ đến nơi nước sâu và trong vắt của  Sông Cá Hương. Trại có hai cánh cửa mở ra khu thả nuôi, và giữa hai cánh cửa là hàng rào ngắn chạy xuống bờ nước.

Pierre và Louis giữ cho đàn cừu không chạy lạc, trong khi Almanzo lùa được một con cừu có bộ lông dầy và đẩy nó đi qua một cổng. Bên trong chuồng, Bố và Lazy John tóm lấy con cừu. Rồi Almanzo lại đẩy một con cừu khác đi vào để Royal và French Joe tóm lấy. Những con cừu khác nhìn ngơ ngác và kêu lên be be, trong khi hai con bị tóm thì vùng vẫy thân người, quẫy đạp bốn chân, thét to lên. Nhưng cánh đàn ông con trai cứ lấy cục xà phòng mềm mầu nâu sát lên bộ lông của chúng rồi kéo chúng đi xuống làn nước sâu.

Đến đây thì cừu phải bơi. Các ông đứng dưới nước chảy xiết ngập đến eo, giữ chặt lấy con cừu để chà sát bộ lông. Tất cả bụi đất đều rơi ra khỏi lông, nổi lềnh bềnh trên dòng nước giữa những đám bọt xà phòng.

Khi những con cừu khác thấy thế, chúng đồng loạt kêu lên “Bee-ee-ee, bee-ee-ee!” và cố chạy thoát. Nhưng Almanzo cùng Pierre và Louis vừa chạy vừa la hét quanh đàn cừu rồi lùa chúng trở lại hai cánh cổng.

Ngay sau khi một con cừu đã được tắm rửa sạch sẽ, các ông dẫn nó bơi vòng qua đầu cuối của hàng rào ngăn, rồi họ đẩy nó lên khỏi bờ nước, đi vào bên kia dãy chuồng. Con vật tội nghiệp sũng nước vẫn kêu be be, nhưng chẳng bao lâu ánh mặt trời sẽ làm cho bộ lông xù lên, trắng muốt.

Ngay khi các ông thả một con cừu ra, Almanzo đẩy một con cừu khác vào chuồng, họ lại tóm lấy nó, chà sát xà phòng rồi kéo nó xuống sông.

Tắm rửa cho cừu là công việc đầy thích thú đối với mọi người, nhưng đám cừu chẳng thích tí nào. Các ông đứng dưới nước mà té nước lên, la lối, cười cợt, trong khi đám trẻ chạy tới chạy lui giữa khu thả nuôi mà la thét. Mặt trời nóng ấm trên lưng mọi người, cỏ mát lạnh dưới chân trần, và tất cả tiếng cười vẫn còn trầm lắng so với không gian bao la, dễ chịu và im lìm của vùng đồng xanh và khu thả nuôi.

Một con cừu húc phải John; anh ngồi xuống làn nước và nước chảy qua đầu anh.

Joe kêu lên: “Này John, bây giờ nếu anh đã chà xà phòng lên tóc thì anh sẵn sàng để được hớt tóc đấy!”

Khi chiều xuống, tất cả đàn cừu đều đã được tắm rửa xong xuôi. Sạch sẽ và trắng muốt, bọn chúng tản ra trên triền đồi, nhấm nháp các ngọn cỏ, và khu thả nuôi trông giống một cánh đồng tuyết đang nở hoa.

Sáng hôm sau, John đến trước giờ điểm tâm, và Bố thúc giục Almanzo rời khỏi bàn ăn. Cậu cầm lấy một miếng bánh nhân táo rồi đi ra ngoài khu đồng cỏ thả nuôi, vừa ngửi mùi hương của đậu ba lá vừa ăn nhồm nhoàm các miếng táo tươm nước và lớp vỏ bánh dòn tan. Cậu liếm các ngón tay, rồi lùa bầy cừu qua lớp cỏ còn đọng sương mai, đi vào bãi nhốt cừu ở khu Trại-Nam.

Hot long cuu2

Bố đã dọn dẹp sạch sẽ bãi nhốt cừu và đặt một tấm bục ở cuối bãi này. Bố và Lazy John mỗi người tóm lấy một con cừu, đặt lên bục rồi bắt đầu hớt lông với một cái kéo to và dài. Một tấm thảm lông cừu dầy mầu trắng bóc ra, tất cả trong một tấm, và thân hình con cừu còn lại trần trụi với lớp da mầu hồng.

Khi cái kéo cắt phập lần cuối, cả bộ lông rơi trên bục, con cừu trần trụi nhảy xuống, kêu lên “Bee-ee-ee!” Khi thấy thế, cả đám cừu kêu lên đáp lời, nhưng Bố và John không hớt nữa.

Royal cuộn tấm lông chặt lại và lấy dây bện cột hai lần, rồi Almanzo mang tấm lông lên tầng trên và đặt trên sàn gác mái. Cậu cố sức chạy xuống chạy lên thật nhanh, nhưng mỗi khi chạy xuống thì đã có một tấm lông chờ sẵn.

Bố và Lazy John là hai người hớt lông cừu giỏi. Cái kéo dài dưới bàn tay họ phập qua lớp lông dầy như chớp: cắt sát con cừu, nhưng không bao giờ cắt phạm phải làn da hồng của chúng. Làm như thế là khó, bởi vì cừu của Bố thuộc dòng Merino có giá. Cừu Merino cho loại len tốt nhất, nhưng da của chúng nằm dưới những vết nhăn sâu, nên khó cắt cho hết lông mà không phạm phải da.

Almanzo đang làm việc nhanh nhẹn, mang từng bộ lông cừu chạy lên tầng trên. Lông cừu nặng đến nỗi cậu chỉ mang được một bộ mỗi lượt. Cậu không muốn lười biếng, nhưng khi trông thấy con mèo mướp của chuồng trại đang chạy nhanh qua, tha theo một con chuột nhắt, cậu biết nó đang mang mồi về cho lũ mèo con.

Cậu chạy theo con mèo, và dưới mái hiên ở cuối Trại-Lớn cậu tìm thấy cái ổ nhỏ trong đống cỏ khô, với bốn mèo con trong đó. Con mèo mướp cuộn mình quanh đám con, kêu khe khẽ những tiếng gừ gừ, đồng tử đen trong tròng mắt mở tròn rồi thu hẹp và lại mở tròn lần nữa. Đàn con há mõm tí hon mầu hồng kêu lên những tiếng meo-meo thật khẽ, những móng nhỏ trần trụi mang những vuốt trắng, và mắt vẫn còn nhắm.

Khi Almanzo trở lại chuồng nhốt cừu thì thấy sáu bộ lông đang chờ cậu mang đi, và Bố nghiêm khắc nói với cậu:

“Con trai, phải liệu mà bắt kịp với mấy bộ lông này.”

Almanzo đáp: “Vâng, thưa Bố.” Rồi cậu vội vã làm việc tiếp. Nhưng cậu nghe Lazy John nói:

“Cậu ấy không làm kịp đâu. Chúng ta sẽ xong trước.”

Rồi Bố cười lớn và nói:

“Đúng vậy, John ạ. Hắn không tài nào theo kịp chúng ta.”

Almanzo quyết chí sẽ cho họ thấy. Nếu làm nhanh thì cậu sẽ bắt kịp. Trước khi đến giữa trưa, cậu đã bắt kịp theo Anh Royal, và phải chờ cho anh cột một bộ lông. Thế là cậu nói:

“Anh thấy đó, em đã bắt kịp theo anh.”

John nói: “Không đâu, cậu không bắt kịp được. Chúng tôi sẽ thắng cậu. Chúng tôi sẽ xong trước cậu. Để rồi xem.”

Mọi người đều cười chế giễu Almanzo.

Khi họ đang cười thì nghe tiếng tù và báo hiệu bữa ăn trưa. Bố và John chấm dứt với con cừu hai người đang hớt lông. Royal cột bộ lông cuối cùng rồi rời đi, và Almanzo vẫn còn phải mang bộ lông này lên tầng trên. Bây giờ cậu hiểu họ đã có ý nói gì. Nhưng cậu nghĩ:

“Mình sẽ không để cho họ thắng mình.”

Cậu tìm một sợi dây thừng ngắn cột quanh cổ một con cừu chưa được hớt lông. Cậu dắt con cừu đi đến cầu thang, rồi theo từng bậc thang cậu kéo và nâng cho nó đi lên. Con cừu luôn kêu bee-ee, nhưng cuối cùng cậu cũng mang nó lên được đến gác mái. Cậu cột con cừu gần các bộ lông và cho nó ít cỏ khô để nó im lặng. Rồi cậu đi đến bàn ăn.

Suốt buổi chiều hôm ấy, Lazy John và Royal cứ thúc hối cậu phải làm cho nhanh kẻo họ sẽ thắng cậu. Almanzo trả lời:

“Không, hai anh không thắng được. Em có thể theo kịp hai anh.”

Rồi hai người cười lớn với cậu.

Cậu giật lấy từng bộ lông cừu mỗi khi Anh Royal cột xong, rồi vội chạy mang lên và chạy xuống trở lại. Họ cười lớn khi thấy cậu hối hả, và vẫn nói:

“Ôi, không, cậu không theo kịp đâu! Bọn tôi sẽ xong trước!”

Ngay trước giờ làm công việc trang trại, Bố và John thi nhau hớt lông hai con cừu cuối cùng. Bố thắng. Almanzo hộc tốc chạy với bộ lông, rồi chạy xuống trước khi bộ lông cuối cùng sẵn sàng. Royal cột xong bộ lông này, rồi nói:

“Chúng tôi đã xong! Almanzo, chúng tôi đã thắng cậu! Thắng được cậu rồi!”

Royal và John phá lên cười lớn, ngay cả Bố cũng cười.

Rồi Almanzo đáp:

“Không đâu, em không thua. Còn có một con cừu ở tầng trên chưa được hớt lông.”

Họ ngưng tràng cười, kinh ngạc. Đúng ngay lúc ấy, con cừu trên gác xép kêu lên “Bee-ee-ee!” khi nghe tất cả những con cừu khác được thả ra đồng cỏ.

Almanzo la lớn: “Đó là bộ lông! Em đưa nó lên lầu mà chưa được hớt lông! Em đã thắng! Em thắng rồi!”

John và Anh Royal lộ nét mặt khôi hài đến nỗi Almanzo cứ cười mãi.

Bố la lên: “Này John ơi, bị trả đũa rồi! Cười người hôm trước, hôm sau người cười!”

Đợt rét

Trời trở lạnh vào cuối xuân. Tiết trời giá buốt lúc rạng sáng, cho đến giữa trưa ánh mặt trời vẫn mát lạnh. Cây cối chậm chạp mở ra các tán lá; các loại cây đậu, cà rốt và bắp không lớn thêm, đứng chờ cho hơi ấm trở về. Khi các công việc tất bật mùa xuân đã xong, Almanzo phải lo đi học. Chỉ có trẻ em nhỏ đi học trong học kỳ mùa xuân, nên cậu ước gì mình đủ lớn để được ở nhà. Cậu không thích ngồi học bài vở trong khi có nhiều việc lý thú phải làm.

Bố mang các bộ lông cừu đến máy chải len ở Malone, và mang về những cuộn len mềm, sợi dài, được chải thẳng thớm. Mẹ không còn tự chải len ở nhà vì đã có máy chải len làm thuê. Nhưng Mẹ lo việc nhuộm len.

Eliza Jane và Alice đang lo thu hoạch những loại rễ và vỏ cây trong rừng, còn Royal đang đốt những đống lửa to trong sân vườn. Ba anh em nấu các loại rễ và vỏ cây trong những nồi to đặt trên ngọn lửa, nhúng từng cuộn len mà Mẹ đã se, rồi dùng gậy nhấc ra, tất cả đã được nhuộm mầu nâu, đỏ và xanh lam. Khi Almanzo đi học trở về thì thấy các dây phơi đang treo đầy những cuộn len mầu.

Mẹ cũng đang làm loại xà phòng mềm. Suốt mùa đông, Mẹ thu gom tro rồi trữ trong một cái thùng. Bây giờ Mẹ đổ nước vào thùng này, và nước kiềm nhỉ ra qua một lỗ nhỏ ở đáy thùng. Mẹ đong nước kiềm vào một cái nồi, rồi thêm mỡ lợn và những mảnh mỡ vụn mà Mẹ để dành khi nấu thịt lợn và thịt bò trong mùa đông. Nồi sôi lên, nước kiềm và mỡ làm thành xà phòng.

Almanzo đáng lẽ đã có thể giúp trông nom củi lửa, có thể múc ra loại xà phòng mầu nâu, nhớt nhớt từ cái nồi rồi cho vào những chậu nhỏ. Nhưng cậu phải quay lại mái trường.

Cậu nóng lòng xem trăng, bởi vì khi trăng khuyết vào Tháng Năm, cậu có thể nghỉ học để phụ giúp trồng bí đỏ.

Rồi vào một buổi sáng sớm giá lạnh, cậu cột quanh eo một bọc chứa đầy hạt bí đỏ rồi đi ra đồng bắp. Bây giờ cỏ dại đang phủ một mầu lục mỏng khắp cánh đồng sẫm mầu. Những phiến lá bắp nhỏ không được tươi tốt vì thời tiết lạnh.

Cứ cách mỗi hàng bắp bỏ một hàng và cứ cách một gốc bắp bỏ một gốc, Almanzo quỳ xuống, nhặt một hạt bí đỏ mỏng, dẹt giữa ngón cái và ngón trỏ. Cậu đẩy hạt bí dưới mặt đất, đầu nhọn xuống trước.

Ban đầu cậu cảm thấy lạnh, nhưng chẳng bao lâu mặt trời lên cao hơn. Không khí và đất tỏa mùi dễ chịu, và quả là thích thú khi chọc ngón cái và ngón trỏ xuống đất rồi để lại một hạt giống cho nó nẩy mầm vươn lên.

Cậu làm việc từ ngày này qua ngày khác cho đến khi đã gieo tất cả các hạt bí đỏ, rồi cậu nài nỉ được giẫy cỏ và tỉa cà rốt. Cậu cuốc để giẫy cỏ dọc theo từng luống dài, rồi kéo những cây cà rốt mỏng manh lên, cho đến khi còn lại các cây khỏe cách nhau năm phân.

Cậu không muốn vội vã gì. Không ai chịu khó làm việc với rẫy cà rốt như cậu, bởi vì cậu không muốn quay lại trường học. Cậu kéo dài công việc cho đến khi học kỳ chỉ còn ba ngày; rồi mùa xuân chấm dứt và cậu có thể làm việc suốt mùa hè.

Đầu tiên cậu giúp cuốc giẫy cỏ đồng bắp. Bố bừa giữa các luống, Royal và Almanzo cầm cuốc giẫy cho hết cỏ còn lại, và cuốc quanh mỗi gốc bắp. Lưỡi cuốc bổ xoẹt xoẹt cả ngày, làm bắn tung đất quanh các cây bắp non và hai lá mầm dẹt của bí đỏ.

Almanzo giẫy cỏ tám nghìn mét vuông đồng bắp, rồi giẫy cỏ tám nghìn mét vuông đồng khoai tây. Thế là chấm dứt công việc giẫy cỏ một thời gian, và bây giờ đến mùa dâu tây.

Năm ấy dâu tây dại trở nên hiếm hoi và ra quả chậm, bởi vì sương giá hủy diệt đợt ra hoa đầu tiên. Almanzo phải đi xa trong vùng rừng mới hái được một xô những quả dâu nhỏ, ngọt ngào, thơm ngát.

Khi tìm thấy những chùm quả dưới đám lá xanh, cậu chẳng đặng đừng ăn một ít. Cậu cũng ngắt những cành lộc đề xanh mà ăn. Cậu cũng gặm giữa hai hàm răng những cành me đất vừa ngọt vừa chua, gặm cho đến những nụ hoa mềm mầu tím. Cậu dừng lại để nhặt những hòn đá nhỏ ném mấy con sóc đang nhảy nhót, và để cái xô bên bờ suối rồi đi xuống nước săn đuổi đàn cá nhỏ. Nhưng chỉ đến khi cái xô đầy cậu mới quay về nhà.

Thế là bữa ăn chiều có món dâu dại ăn với kem sữa, và ngày hôm sau Mẹ sẽ làm mứt dâu.

Bố lo lắng nói: “Bố chưa từng thấy bắp mọc chậm như thế.” Bố lại cày cánh đồng, và lần nữa Almanzo giúp Anh Royal giẫy cỏ đồng bắp. Nhưng các chồi bắp vẫn quá nhỏ. Đến ngày đầu Tháng Bảy mà chồi bắp chỉ lên được một tấc.

Còn ba ngày nữa là đến Ngày Độc lập, ngày bốn Tháng Bảy. Rồi còn hai ngày. Rồi còn một ngày, và đêm ấy Almanzo phải đi tắm cho dù đấy không phải là ngày Thứ Bảy. Sáng hôm sau cả nhà sẽ đi dự lễ ăn mừng ở Malone. Almanzo nôn nóng mong mau đến sáng. Sẽ có ban nhạc diễu hành, và những bài diễn văn, rồi họ sẽ bắn khẩu đại bác đồng thau.

Đêm ấy, bầu trời tĩnh lặng và lạnh giá, các vì sao trông như là vào mùa đông. Sau bữa ăn chiều, Bố lại đi ra khu chuồng trại. Bố đóng các cánh cửa ra vào và các cửa sổ bằng gỗ ở khu chuồng ngựa, và dẫn các con cừu cái cùng đám cừu non vào bãi nhốt cừu.

Khi Bố trở vào, Mẹ hỏi liệu thời tiết sẽ ấm lên chút nào không. Bố lắc đầu.

Bố nói: “Anh tin chắc trời sẽ lạnh cóng.”

Mẹ đáp: “Ôi giào! chắc chắn là không!” Nhưng Mẹ lộ vẻ lo lắng.

Vào lúc nào đấy trong đêm Almanzo cảm thấy lạnh, nhưng cậu quá ngái ngủ nên không làm gì được. Rồi cậu nghe Mẹ gọi:

“Royal! Almanzo!” Cậu quá ngái ngủ nên không mở mắt được.

Mẹ lại gọi: “Các con trai, thức dậy! Nhanh lên! Bắp bị đóng băng!”

Cậu mò mẫm chui ra khỏi giường, mang giầy vào. Cậu không thể mở mắt, hai tay lụp chụp, cậu há miệng rộng ra ngáp gần sái quai hàm. Cậu loạng choạng theo sau Anh Royal đi xuống cầu thang.

Mẹ, hai chị Eliza Jane và Alice đang đội mũ trùm đầu và khăn quàng. Gian bếp lạnh toát, lò đã tắt lửa. Mọi thứ bên ngoài ngôi nhà trông lạ kỳ. Đám cỏ trắng toát vì sương giá, một vệt mây lạnh mầu lục vắt ngang bầu trời hướng đông, nhưng bầu không khí lại tối đen.

Bố thắng hai con Bess và Beauty vào chiếc xe goòng. Royal bơm nước cho đầy máng nước. Almanzo giúp Mẹ và các chị mang xô chậu, và Bố đặt những chiếc thùng lên xe goòng. Mọi người đổ nước vào đầy các chậu và thùng, rồi đi sau xe goòng ra đồng bắp.

Tất cả cây bắp đã bị đóng băng. Những chiếc lá nhỏ dòn rụm, dễ gẫy nếu bị chạm vào. Chỉ nước lạnh mới cứu vãn được đồng bắp. Phải tưới nước cho từng gốc bắp trước khi mặt trời lên, nếu không các cây bắp non này sẽ chết, rồi năm ấy sẽ mất trắng cả mùa bắp.

Chiếc xe goòng dừng ở rìa đồng bắp. Bố, Mẹ, Royal, Eliza Jane, Alice và Almanzo cùng đổ đầy nước vào các xô rồi bắt đầu công việc. Phải làm càng nhanh càng tốt.

Tuoi nuoc bap

Almanzo cố làm nhanh, nhưng cái xô nước quá nặng và đôi chân cậu lại quá ngắn. Mười ngón tay ướt lạnh ngắt, nước sóng sánh xuống đùi, và cậu buồn ngủ kinh khủng. Almanzo đi khật khưỡng theo các luống, ở mỗi gốc bắp cậu đổ một ít nước qua những chiếc lá đã đóng băng. Cánh đồng trông dường rộng bao la. Có hàng nghìn và hàng nghìn gốc bắp. Almanzo bắt đầu cảm thấy đói. Nhưng cậu không thể dừng công việc mà than van. Cậu phải làm gấp, gấp, gấp, để cứu lấy đồng bắp.

Mầu lục trên bầu trời hướng đông đã chuyển thành hồng. Bất cứ lúc nào vầng đông sẽ ló dạng. Lúc đầu, bóng đen đã giống như màn sương bao trùm lấy cánh đồng bất tận, bây giờ Almanzo có thể nhận ra phần cuối của những luống dài. Cậu cố làm việc nhanh thêm.

Trong chốc lát, mặt đất đổi từ đen sang xám. Mặt trời sắp hủy hoại các cây bắp chưa được tưới nước.

Almanzo chạy đi lấy nước, rồi chạy trở lại. Cậu chạy dọc theo các luống, té nước xuống các gốc bắp. Hai vai cậu đau nhức, cánh tay đau nhức, bên hông cậu cũng thấy đau. Đất mềm bám lấy hai bàn chân. Cậu cảm thấy đói cồn cào. Nhưng mỗi cái té nước sẽ cứu được một gốc bắp.

Trong ánh sáng xám hiện tại, các cây bắp cho bóng đổ lờ mờ. Thình lình ánh mặt trời nhợt nhạt chiếu khắp cánh đồng.

Bố kêu to: “Tiếp tục!” Thế là mọi người tiếp tục; không ai dừng lại.

Nhưng chỉ trong chốc lát, Bố đành bỏ cuộc. Ông kêu lên: “Vô ích!” Không gì cứu được cây bắp sau khi ánh mặt trời chiếu xuống.

Almanzo đặt cái xô xuống, vươn người thẳng lên để lưng đỡ đau nhức. Những người khác đứng và nhìn, không ai nói gì. Cả gia đình đã tưới được ba phần tư cánh đồng. Còn lại một phần tư không tưới được là phần bị mất đi.

Almanzo lê bước về xe goòng và leo lên. Bố nói:

“Cũng còn may là chúng ta đã cứu được phần lớn.”

Cả gia đình sật sừ trên cỗ xe chạy vào khu chuồng trại. Almanzo vẫn chưa tỉnh ngủ; cậu vừa mệt vừa lạnh và đói bụng. Hai bàn tay cậu vụng về làm các công việc trang trại. Nhưng phần lớn số gốc bắp đã được cứu sống.

Ngày Độc lập

Trong khi dùng điểm tâm, Almanzo mới nhớ ra hôm nay là ngày Bốn Tháng Bảy. Cậu cảm thấy vui lên.

Buổi sáng có không khí như là sáng Chủ Nhật. Sau bữa điểm tâm, cậu cọ rửa mặt mũi với xà phòng mềm cho đến khi cảm thấy sáng láng, rồi rẽ ngôi mái tóc và dùng lược chải xuống. Cậu mặc quần mầu xám, áo sơ mi trúc bâu Pháp, rồi khoác thêm áo gi-lê cùng áo choàng ngắn và tròn.

Mẹ đã may cho cậu bộ áo vét theo kiểu tân thời. Chiếc áo choàng cài cúc ở cổ với một mảnh mang cá nhỏ, hai bên may chéo vào để lộ ra áo gi-lê và ve tròn trên hai túi quần.

Almanzo đội chiếc mũ rơm tròn mà Mẹ đã làm bằng những cọng rơm yến mạch bện lại, thế là cậu đã ăn mặc tề chỉnh cho Ngày Độc lập[M]. Cậu cảm thấy mình rất chỉn chu.

Bố thắng đôi ngựa với làn da sáng bóng vào cỗ xe sáng bóng có bốn bánh mầu đỏ, rồi cả nhà cùng ra đi trong ánh nắng mát lạnh. Cả đất nước mang không khí lễ hội. Không ai làm việc ngoài đồng; dọc con đường người người mặc bộ đồ Chủ Nhật đánh xe đi thị trấn.

Đôi ngựa của Bố phóng nhanh, vượt tất cả những người khác. Cỗ xe lướt qua các xe goòng, xe thùng chở hàng và xe hai bánh; lướt qua ngựa xám, ngựa đen và ngựa đốm xám. Almanzo lấy mũ vẫy chào mỗi khi cỗ xe chạy qua người quen biết, và cậu sẽ lấy làm sung sướng hoàn toàn nếu chỉ cần được cầm cương điều khiển đôi ngựa khỏe và đẹp này.

Khi đến ô chuồng ở nhà thờ Malone, cậu giúp Bố tháo ngựa ra. Mẹ, các chị và Royal vội vã bước đi. Nhưng Almanzo muốn giúp đôi ngựa hơn là bất cứ việc gì khác. Cậu không được phép điều khiển chúng, nhưng cậu có thể buộc dây thừng và khóa trên những tấm chăn của chúng, vỗ nhẹ chót mũi mềm mại của chúng và cho chúng ăn cỏ khô.

Rồi Almanzo đi ra ngoài với Bố, và hai bố con đi dọc vỉa hè đầy những người là người. Tất cả các hàng quán đều đóng cửa, nhưng nhiều phụ nữ và đàn ông đang vừa đi lên hoặc đi xuống vừa trò chuyện. Các cô gái nhỏ ăn mặc xùng xình và mang dù; tất cả các cậu con trai đều khoe bộ quần áo chỉnh tề, giống như Almanzo. Cờ xí phất phới khắp nơi, và ở Quảng trường ban quân nhạc đang chơi bản Yankee Doodle [Mẽo Ngố]. Những ống tiêu thổi tiếng tút-tút thanh thoát, những ống sáo phát tiếng hoét hoét chát chúa, và dàn trống nhịp theo rập-a-đập-đập.

Chàng Ngố lừng danh cưỡi chạy nhấp nhô
Ngựa non này xem có ai bì?
Cọng lông mà đem đi cắm mũ rơm
Anh gọi là macaroni!

Ngay cả người lớn cũng muốn nhịp theo tiếng nhạc. Và đây, ở một góc của quảng trường, là hai khẩu đại bác bằng đồng thau!

Quảng trường không phải hình vuông. Con đường sắt biến nó thành hình tam giác. Nhưng mọi người vẫn gọi nó là Quảng trường.[N] Quảng trường có hàng rào bao quanh, được trồng cỏ. Những băng ghế đặt từng hàng trên mặt cỏ, và người ta đang đi giữa các hàng băng ghế để tìm chỗ trống rồi ngồi xuống như là ngồi trong nhà thờ.

Almanzo đi cùng Bố đến một trong những ghế tốt nhất ở hàng trên. Tất cả những nhân vật quan trọng đều ngưng trò chuyện mà bắt tay với Bố. Đám đông tiếp tục đến cho đến khi không còn ghế trống, thế mà vẫn còn có nhiều người bên ngoài hàng rào.

Ban nhạc ngưng lại, và vị mục sư đọc bài giảng cầu nguyện. Rồi ban nhạc chuẩn bị trỗi lên và mọi người đứng dậy. Đàn ông con trai nếu đội mũ thì giở mũ ra. Ban nhạc bắt đầu, và mọi người hát theo.

Ô này bạn thấy không
qua ánh vầng đông hồng
Thật hãnh diện hoan hô
khi ánh chiều vừa tắt?

Sọc rộng và sao sáng
qua chiến trận gian nguy
Trên tường thành ta ngắm
chuyển động ôi oai hùng![O]

Trên ngọn cột cờ, lá cờ Sọc và Sao đang tung bay nổi bật trên nền trời xanh. Mọi người đều nhìn lên lá quốc kỳ Mỹ, và Almanzo cố sức hát thật to.

Ngay Doc Lap (2 hinh ghep)

Sau đó tất cả ngồi xuống, và một đại biểu Quốc hội đứng lên trên bục. Chậm rãi và nghiêm trang, ông đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.

“Trong tiến trình của những sự kiện nhân loại, một dân tộc thấy cần thiết… phải đảm nhận một vị thế cách biệt và bình đẳng trong số những quyền hành trên quả đất… Chúng tôi xem chân lý này là hiển nhiên: Mọi người sinh ra đều được bình đẳng…”

Almanzo có ấn tượng long trọng và cảm thấy vô cùng hãnh diện.

Rồi hai người khác đọc diễn văn chính trị dài. Một người tin là nên tăng thuế, và người kia cổ vũ mậu dịch tự do. Tất cả người lớn đều chăm chú lắng nghe, nhưng Almanzo không hiểu lắm những bài diễn văn này, và cậu bắt đầu đói bụng. Cậu lấy làm vui khi nhạc lại trỗi lên.

Nhạc nghe thật vui tai; các nhạc công vận đồng phục mầu lam và đỏ với những chiếc cúc áo đồng thau trỗi những âm thanh rộn rã, còn anh đánh trống to béo đập lên mặt trống thành những tiếng rat-a-tat-tat. Tất cả các lá cờ đều tung bay, mọi người đều hứng khởi, bởi vì họ được tự do và độc lập trong Ngày Độc lập này. Và đã đến giờ dùng bữa.

Almanzo phụ giúp Bố cho ngựa ăn trong khi Mẹ và các chị bày các món đi picnic trên thảm cỏ trong sân vườn nhà thờ. Nhiều người khác cũng ăn picnic ở đây, và sau khi đã no nê Almanzo quay trở lại Quảng trường.

Có một hàng bán nước chanh kế bên các cọc cột ngựa. Một anh đang bán loại nước chanh hồng với giá 5 cent mỗi ly, và một đám các cậu nhỏ đang đứng vòng quanh. Em cô cậu của Almanzo tên Frank cũng có mặt ở đây. Almanzo giải khát ở vòi nước của thị trấn, nhưng Frank bảo cậu ta sẽ mua nước chanh. Cậu ta có một đồng 5 cent. Cậu tiến đến hàng nước mua một cốc nước chanh hồng rồi chậm rãi uống. Cậu chép môi, xoa bụng rồi nói:

“Hừ-ừm. Sao anh không mua nước uống?”

Almanzo hỏi: “Đồng 5 cent của em ở đâu ra?” Cậu chưa bao giờ có một đồng 5 cent. Mỗi Chủ Nhật Bố đưa cho một cậu đồng 1 cent để bỏ vào thùng gây quỹ trong nhà thờ; cậu chưa bao giờ có khoản tiền gì khác.

Frank huênh hoang: “Cha em cho em đó. Mỗi khi em xin tiền là cha em cho một đồng 5 cent.”

Almanzo hỏi: “À, thế thì nếu anh xin Bố anh, liệu ông ấy sẽ cho không?”

“À, tại sao anh không xin ông ấy?” Frank không tin Bố sẽ cho Almanzo một đồng 5 cent. Almanzo không rõ Bố sẽ thuận cho hay không.

Cậu đáp: “Bởi vì anh không muốn xin tiền.”

Frank nói: “Ông ấy không cho anh đồng 5 cent đâu.”

“Bố cũng sẽ cho.”

Frank nói: “Em thách anh xin đấy.” Mấy đứa con trai khác đang lắng nghe. Almanzo cho hai tay vào hai túi quần và nói:

“Anh sẽ xin nếu muốn.”

Franch trêu ghẹo: “Ôi dào, anh sợ rồi! Thách đó! Thách đó!”

Bố đứng gần đấy bên con đường, đang trò chuyện với Ông Paddock, chủ cơ xưởng đóng xe goòng. Almanzo bước chậm rãi về phía hai người. Cậu nhút nhát, nhưng phải tỏ ra làm gan. Càng đi đến gần Bố, cậu càng kinh hãi nghĩ đến việc xin một đồng 5 cent. Chưa bao giờ cậu nghĩ đến phải làm chuyện này. Cậu tin chắc Bố sẽ không cho tiền.

Cậu đợi cho đến khi Bố ngưng trò chuyện và nhìn qua mình.

Ông hỏi: “Chuyện gì thế, con trai?”

Almanzo hãi sợ. Cậu chỉ nói: Bố¾”

“Thế nào, con trai?”

Almanzo lập bập nói: “Bố ạ, có thể nào Bố¾ có thể cho con¾ một đồng 5 cent được không ạ?”

Cậu đứng đấy trong khi Bố và Ông Paddock nhìn cậu, và cậu ước gì mình lủi đi được cho khuất mắt.

Cuối cùng, Bố hỏi: “Để làm gì?”

Almanzo nhìn xuống đôi giầy da đanh của mình và nói nhỏ:

“Frank có một đồng 5 cent. Nó đã mua nước chanh.”

Bố nói chậm rãi: “À, nếu Frank đãi con, con đãi lại thì phải thôi.” Bố cho tay vào túi áo. Rồi ông dừng lại và hỏi:

“Frank có đãi con nước chanh không?”

Almanzo thiết tha mong có được đồng 5 cent đến nỗi cậu gật đầu. Nhưng rồi cậu lại lúng túng và nói:

“Không, thưa Bố.”

Bố nhìn cậu một hồi lâu. Rồi ông rút chiếc ví, mở ra, chậm rãi lấy ra một đồng tiền bạc tròn, to, mệnh giá nửa đô la. Bố hỏi:

“Almanzo, con biết cái này là gì không?”

“Thưa, đó là nửa đô la.”

“Đúng. Nhưng con biết nửa đô la là gì không?”

Almanzo chỉ biết đấy là nửa đô la chứ không biết là gì khác.

Bố nói:

“Con trai à, đấy là sức lao động. Tiền là thế; nó là thành quả của lao động cực nhọc.”

Ông Paddock cười khúc khích: “Này Wilder, cậu bé còn nhỏ mà. Anh không thể bắt một đứa trẻ phải hiểu điều đó.”

Bố đáp: “Almanzo thông minh hơn là anh nghĩ.”

Almanzo chẳng hiểu gì cả. Cậu ước gì mình lủi đi ngay được. Nhưng Ông Paddock đang nhìn Bố giống như Frank nhìn Almanzo khi thách thức, và Bố đã cho biết Almanzo thông minh, thế nên Almanzo cố tỏ vẻ mình là đứa trẻ thông minh.

Bố hỏi: “Almanzo, con biết trồng khoai tây như thế nào không?”

Almanzo đáp: “Vâng, con biết.”

“Ví dụ như vào mùa xuân con có một củ khoai tây giống, con làm gì với củ này?

Almanzo đáp: “Con cắt nó ra.”

“Tiếp tục đi, con trai.”

“Rồi con bừa đất – trước tiên con bón phân chuồng cho đất, rồi cày đất. Rồi con bừa, và đánh dấu cánh đồng. Rồi con trồng các mảnh củ, cày đất, và giẫy cỏ. Con cày đất và giẫy cỏ hai lần.”

“Đúng thế, con trai. Rồi sao nữa?”

“Rồi con đào củ và cất giữ ở dưới tầng hầm.”

“Đúng. Rồi suốt mùa đông con lựa ra hết; con vứt đi củ nhỏ và củ thối. Đến mùa xuân, con chất khoai tây lên xe và chở đi Malone ở đây, rồi con bán. Con trai à, nếu được giá, con nhận được bao nhiêu cho tất cả công lao động ấy? Con bán nửa giạ khoai tây được bao nhiêu tiền?”

Almanzo đáp: “Nửa đô la, Bố ạ.”

“Đúng. Almanzo à, đây là giá trị trong nửa đô la này. Lao động để trồng được nửa giạ khoai tây là ở đây.”

Almanzo nhìn đồng tiền tròn mà Bố giơ lên. Nó trông nhỏ bé quá, so với ngần ấy công lao động phải bỏ ra.

Bố nói: “Con có thể nhận đồng tiền này.”

Almanzo không tin nơi tai mình. Bố đã cho cậu đồng tiền nặng trị giá nửa đô la.

Bố nói: “Của con đấy. Con có thể mua một con lợn con nếu muốn. Con có thể nuôi nó, và nó sẽ đẻ ra những đàn lợn con, mỗi đàn giá bốn, năm đô la. Hoặc con có thể mua nửa đô la nước chanh rồi uống hết. Con cứ chi tiêu tùy thích, tiền này là của con.”

Almanzo quên bẵng việc nói cảm ơn Bố. Cậu cầm lấy đồng nửa đô la một hồi, rồi cho vào túi và đi trở lại với đám con trai quanh hàng nước chanh. Anh hàng nước đang rao bán:

“Đến đây, đến đây! Nước chanh đá lạnh, nước chanh hồng, chỉ 5 cent một cốc! Một cốc chỉ 5 cent, nước chanh hồng! Một phần hai mươi đô la!”

Frank hỏi Almanzo: “Đồng 5 cent đâu?”

Almanzo đáp: “Ông ấy không cho anh đồng 5 cent.”

Frank reo lên: “Hà, hà! Em đã bảo ông ấy không cho mà! Em đã bảo mà!”

Almanzo nói: “Ông ấy cho nửa đô la.”

Cả đám con trai không tin lời Almanzo, cho đến khi cậu cho bọn chúng thấy. Rồi bọn chúng xúm xít chung quanh, chờ xem Almanzo tiêu đồng tiền như thế nào. Cậu cho cả bọn thấy đồng tiền xong rồi lại cất vào túi.

Cậu nói: “Tớ sẽ đi tìm quanh để mua một con lợn con khỏe mạnh.”

Ban nhạc diễu hành trên con đường, và tất cả bọn trẻ chạy theo kế bên. Lá quốc kỳ tung bay đi đầu, rồi đến đội kèn thổi vang dội, đội sáo vang những nốt nhạc tút tút và anh đánh trống khua gậy lên mặt trống thùng thùng. Ban nhạc diễu hành đi lên đi xuống con đường, với tất cả bọn con trai đi theo, rồi dừng lại kế bên hai khẩu đại bác đồng thau ở Quảng trường.

Hàng trăm người đang tụ tập nhìn ngắm.

Hai khẩu đại bác được đặt trên bệ, chĩa nòng dài lên. Ban nhạc tiếp tục khúc quân hành. Hai ông hô to: “Lui ra! Lui ra!” Những ông khác đang rót thuốc súng đen vào họng súng, rồi lấy cây gậy sắt dài quấn vải nén thuốc súng xuống.

Các cây gậy sắt có hai tay cầm, hai người cầm đẩy vào và kéo ra để nén thuốc súng xuống nòng đồng thau. Rồi bọn trẻ chạy đi nhổ cỏ dại dọc tuyến đường sắt. Chúng mang cỏ đầy lòng bàn tay đến hai khẩu súng, và các ông cho cỏ vào nòng súng rồi lại lấy gậy dài nén xuống.

Một đống lửa đang cháy kế bên tuyến đường sắt, đang nung nóng những cây gậy sắt dài.

Khi tất cả cỏ đã được nén chặt cùng với thuốc súng trong hai khẩu đại bác, một ông lấy một ít thuốc súng trong bàn tay rồi cẩn thận rót vào hai lỗ kích nhỏ trên nòng súng. Bây giờ mọi người đều kêu lên:

“Lui ra! Lui ra!”

Mẹ nắm lấy cánh tay Almanzo để bắt cậu lui ra ngoài với mình. Cậu nói với bà:

“Mẹ à, họ chỉ nạp thuốc súng cùng với cỏ. Con không sao đâu, Mẹ. Con sẽ cẩn thận, thật mà.”

Nhưng Mẹ vẫn bắt cậu phải tránh xa khỏi hai khẩu đại bác.

Hai ông nhấc hai cây gậy sắt dài khỏi đống lửa. Mọi người đều đứng im, dõi nhìn. Cố đứng cách xa phía sau hai khẩu đại bác, hai ông giơ cây gậy ra và châm vào ngòi thuốc súng ở lỗ kích. Một ngọn lửa trông giống ánh nến phụt ra từ thuốc súng. Ngọn lửa nhỏ chỉ cháy ở đấy; mọi người nín thở. Rồi thì… BÙM!

Hai khẩu đại bác giật về phía sau, bầu không khí đầy những mảnh cỏ. Almanzo cùng với đám con trai chạy đến để sờ tay lên họng súng đại bác nóng ấm. Mọi người đều khen ngợi về tiếng đại bác ầm vang.

Ông Paddock nói với Bố: “Đấy chính là tiếng nổ đã khiến bọn Áo đỏ chạy khiếp vía!”

Tay vuốt bộ râu, Bố nói: “Có lẽ thế. Nhưng chính những khẩu hỏa mai mới giúp thắng được cuộc Cách mạng. Và đừng quên rằng chính những lưỡi rìu và những lưỡi cày đã tạo dựng nên đất nước này.”

Ông Paddock: “À ra thế, cần nghĩ đến điều này.”

Ngày Độc lập đã qua đi. Đại bác đã bắn, bây giờ không còn gì để làm, phải thắng ngựa vào cỗ xe, chạy về nhà và làm công việc trang trại.

Đêm hôm ấy, sau khi đã vắt sữa bò, Almanzo hỏi Bố:

“Bố ạ, làm thế nào những lưỡi rìu và những lưỡi cày đã tạo dựng nên đất nước này? Ta đã chống lại quân Anh để chiếm rìu và cày hay sao?”

Bố đáp: “Ta đã chiến đấu cho nền Độc lập, con trai à. Nhưng tất cả đất đai mà ông cha ta có được chỉ là một dải đất nhỏ, ở đây giữa các dãy núi và đại dương. Bên ngoài từ đây trở đi là đất của người Da đỏ, và cũng có đất của Tây Ban Nha, Pháp và Anh. Chính những người nông dân đã thu về những đất ấy để tạo dựng nên nước Mỹ.”

Almanzo : “Họ làm thế nào hở Bố?”

“ À, con trai, người Tây Ban Nha là những chiến binh và giới quý tộc cao sang và hùng mạnh chỉ muốn đi tìm vàng. Còn người Pháp là những lái buôn da thú, muốn kiếm tiền cho nhanh. Còn nước Anh đang bận rộn trong các cuộc chiến đây đó. Nhưng con trai à, ta là nông dân; ta chỉ muốn có đất. Chính nông dân là những người đã vượt núi rừng, phát quang đất rồi lo ổn định cuộc sống, lo cày sâu cuốc bẫm trên mảnh đất, và muốn bám vào nương rẫy của mình.

“ Bây giờ đất nước này trải dài ba nghìn dặm[P] về hướng tây. Lãnh thổ kéo dài khỏi Bang Kansas, khỏi Sa mạc Mỹ, kéo dài qua những dãy núi còn lớn hơn núi non ở đây, rồi đến ven bờ Thái Bình Dương. Đây là đất nước rộng lớn nhất thế giới, và chính nông dân là những người đã nhận lấy toàn bộ đất đai này và lập nên nước Mỹ, con trai à. Con đừng bao giờ quên điều này.”

Mùa hè

Ánh mặt trời bây giờ nóng hơn, và tất cả cỏ cây đều mọc nhanh. Bắp đang xào xạc đẩy những cánh lá hẹp lên cao đến ngang eo người. Bố lại cày, Royal và Almanzo lại giẫy cỏ. Rồi bắp được để cho mọc tự nhiên. Các cây bắp đã có nhiều thuận lợi so với cỏ dại nên bây giờ tự lớn lên được mà không cần giúp đỡ nữa.

Khoai tây mọc thành bụi trên các luống hầu như không được đụng đến, những cụm hoa trắng nhỏ trông như bọt nước trên cánh đồng. Yến mạch gợn sóng lăn tăn mầu lục-xám, và lúa mỳ bắt đầu nhú những đầu gié nhám để sẽ nẩy ra hạt. Các cánh đồng cỏ khoe thảm hoa sắc tím-hồng mà lũ ong thích nhất.

Công việc bây giờ không còn thúc bách nữa. Almanzo có thời giờ để giẫy cỏ trong vườn nhà, và giẫy cỏ giữa những hàng khoai tây mà cậu đã gieo hạt. Cậu đã trồng một ít hạt khoai tây, chỉ để xem nó sẽ ra sao. Và mỗi buổi sáng cậu đều chăm sóc quả bí đỏ mà cậu trồng để chuẩn bị cho Hội chợ Hạt.

Bố đã chỉ cho cậu cách trồng bí đỏ bằng cách bón sữa. Hai bố con đã chọn dây bí tốt nhất, rồi xén để chỉ chừa lại một nhánh, và khi dây bí trổ hoa thì tỉa để chỉ chừa lại một nụ hoa. Rồi giữa bộ rễ và quả bí nhỏ mầu xanh lục, họ cẩn thận rạch một đường rãnh nhỏ ở mặt dưới thân dây. Dưới đường rãnh Almanzo đào một lỗ hổng trong đất và đặt một chén sữa trong đó. Rồi cậu đặt một đoạn bấc nến trong sữa, và cậu cẩn thận cột đầu bấc nến vào đường rãnh.

Mỗi ngày dây bí đỏ hút một chén sữa, qua đoạn bấc nến, và quả bí đỏ đang phình ra khổng lồ. Hiện nó đã lớn gấp ba so với bất kỳ quả bí nào khác trên rẫy.

Almanzo cũng có một con lợn nhỏ. Cậu đã mua nó với đồng nửa đô la, và ban đầu nó bé đến nỗi cậu phải cho nó bú qua một mảnh vải nhúng trong sữa. Nhưng chẳng bao lâu nó đã biết tự uống sữa. Cậu nuôi nó trong một ô chuồng dưới bóng râm, bởi vì lợn non tăng trưởng tốt nhất dưới bóng râm, và cậu cho nó ăn mọi thứ tùy thích. Nó cũng lớn nhanh.

Almanzo cũng lớn nhanh, nhưng không nhanh lắm. Cậu uống thật nhiều sữa đến mức có thể uống được, và trong các bữa ăn cậu múc thức ăn đầy cả đĩa đến nỗi cậu không thể ăn hết. Bố tỏ vẻ nghiêm khắc khi thấy cậu còn để thừa mứa thức ăn trong đĩa, và hỏi:

“Này con trai, có chuyện gì thế? No bụng mà đói con mắt phải không?”

Rồi Almanzo cố ăn thêm một ít. Cậu không nói cho ai biết rằng cậu đang cố lớn lên nhanh để có thể phụ giúp tập luyện ngựa non.

Mỗi ngày Bố dẫn đàn ngựa hai tuổi ra, từng con một theo một sợi dây thừng, rồi tập luyện chúng và ngưng lại khi trò chuyện với chúng. Bố luyện cho chúng quen với yên cương, và không sợ hãi đối với bất kỳ thứ gì. Không lâu sau đó Bố sẽ thắng mỗi ngựa non bên một ngựa già hiền, và luyện cho nó kéo một chiếc xe nhẹ phía sau mà không phải sợ hãi. Nhưng Bố không cho phép Almanzo đi vào sân chuồng trong khi ông đang huấn luyện chúng.

Almanzo tin chắc mình sẽ không làm cho đàn ngựa hoảng hốt; cậu sẽ không tập cho chúng lồng lộn, hoặc bất kham, hoặc phóng mình chạy đi. Nhưng Bố không tin tưởng nơi một cậu bé chỉ mới hơn chín tuổi tròn.

Năm ấy, con ngựa cái Beauty đẻ ra một ngựa non đẹp mà Almanzo chưa từng bao giờ thấy ngựa non nào đẹp đến thế. Nó có một ngôi sao trắng hoàn hảo trên trán. Almanzo đặt tên nó là Starlight. Nó chạy theo mẹ trên đồng cỏ, và có một lần khi Bố đi thị trấn Almanzo đi ra đồng cỏ.

Con Beauty cất đầu và nhìn cậu đi đến, trong khi con ngựa non chạy theo sau mẹ. Almanzo dừng lại, đứng thật yên. Sau một lúc, con Starlight lén nhìn cậu, phía dưới cổ của mẹ nó. Almanzo vẫn đứng yên. Dần dà con ngựa non vươn cổ về phía Almanzo, nhìn cậu với đôi mắt mở to, ngơ ngác. Beauty dụi mũi vào lưng cậu và vẫy đuôi; rồi nó bước một bước và ngoạm lấy một dúm cỏ. Starlight đứng run rẩy, nhìn qua Almanzo. Beauty vừa nhìn cả hai vừa bình thản nhai cỏ. Con ngựa non bước đến một bước, rồi một bước nữa. Nó đã ở gần đến nỗi cậu có thể vươn tay chạm đến nó, nhưng cậu vẫn đứng yên. Starlight lại tiến gần một bước. Almanzo nín thở. Thình lình con ngựa non quay đầu chạy đến mẹ nó. Almanzo nghe Chị Eliza Jane kêu lên:

“Ma-a-a-nzo!”

Cô đã nhìn thấy cậu. Tối hôm ấy, cô kể lại cho Bố nghe. Almanzo giải thích cậu đã không làm gì cả, tình thực là cậu đã không làm gì, nhưng Bố nói:

“Nếu con còn lôi thôi với con ngựa non ấy lần nữa thì Bố sẽ cho con nhừ đòn. Con ngựa non ấy quá đẹp nên không được làm cho nó hư. Bố không muốn con tập cho nó thói xấu để rồi Bố phải luyện nó lại.”

Bây giờ những ngày mùa hè thì dài và nóng, và Mẹ bảo khí hậu như thế là tốt để mọi vật lớn lên. Almanzo thấy mọi vật đang lớn lên nhưng riêng mình thì không. Từng ngày trôi qua mà có vẻ như không có gì thay đổi. Almanzo vẫn giẫy cỏ và tưới nước vườn nhà, cậu phụ giúp sửa rào giậu, cậu chặt củi và làm công việc trang trại. Vào những buổi xế trưa khi không có nhiều việc thì cậu đi bơi.

Khi thức dậy vào buổi sáng, đôi lúc cậu nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà. Điều này có nghĩa là Bố và cậu có thể đi câu cá.

Cậu không dám gợi ý với Bố về việc đi câu cá, bởi vì bỏ phí thời giờ trong sự nhàn hạ là điều không phải. Ngay cả trong những ngày mưa vẫn có nhiều việc phải làm. Bố có thể vá yên ngựa, hoặc mài dụng cụ, hoặc bào các phiến gỗ. Almanzo im lìm dùng bữa sáng, biết rằng Bố đang bị dằng co chống lại sự cám dỗ. Cậu sợ lý trí của Bố sẽ thắng.

Mẹ có thể hỏi: “Này, hôm nay anh định làm gì?”

Bố có thể từ tốn trả lời: “Anh đã sắp đặt việc trồng cà rốt và sửa rào giậu.”

“Với mưa như thế này thì anh không làm được.”

Bố sẽ đáp: “Đúng thế.”

Sau bữa sáng, Bố đứng nhìn mưa rơi, rồi cuối cùng nói: “Trời mưa lớn quá không làm việc ngoài trời được. Almanzo, ta đi câu cá nhé?”

Rồi Almanzo chạy đi lấy cuốc và lon mồi, và cậu đào giun đất làm mồi. Mưa rơi lộp độp trên chiếc mũ rơm cũ kỹ của cậu, nước mưa chảy xuống dọc hai cánh tay và chảy trên lưng, bùn nén lại mát lạnh giữa các ngón chân. Khi Bố và cậu nhấc lấy các cần câu và đi qua đồng cỏ đến Sông Cá Hương thì người cậu đã ướt sũng.

Không có gì tỏa mùi thơm như mưa rơi trên đậu ba lá. Không có gì cho cảm giác dễ chịu như những giọt mưa trên mặt Almanzo, và những cây cỏ ướt sột soạt quanh đôi chân. Không có gì phát âm thanh vui tai như những giọt nước rơi lộp độp trên các bụi rậm dọc theo Sông Cá Hương, và tiếng nước róc rách chảy qua những hòn đá.

Hai cha con im lặng đi dọc bờ sông mà không gây tiếng động nào, rồi thả các lưỡi câu xuống nước. Bố đứng tựa một cây thông, còn Almanzo ngồi dưới những nhánh thủy tùng làm thành chiếc lều, ngắm những hạt mưa rơi lăn tăn trên mặt nước.

Thình lình cậu thấy một ánh bạc trong không trung. Bố đã câu được một con cá hương! Nó dẫy dụa và sáng ánh dưới màn mưa khi Bố vụt nó lên thảm cỏ. Almanzo nhảy đến, và vừa kịp nhớ ra rằng không được la lên.

Sau đó Almanzo cảm thấy sợi dây câu của mình bị giật, ngọn cần câu cong oằn gần chạm mặt nước, rồi cậu lấy hết sức giật mạnh cần câu lên. Một con cá to lung linh dính vào cuối sợi dây câu! Nó dãy dụa và trơn ướt trong hai bàn tay cậu, nhưng cậu gỡ được nó ra khỏi lưỡi câu. Đấy là một con cá hương đốm, còn lớn hơn con cá của Bố. Cậu giơ con cá lên cao cho Bố nhìn thấy. Rồi cậu lại mắc mồi và tung dây câu ra.

Cá luôn thích ăn mồi khi mưa đang rơi trên sông. Bố câu được một con cá nữa, rồi Almanzo câu được hai con; rồi Bố kéo lên thêm hai con, và Almanzo được một con lớn hơn con đầu tiên. Chẳng bao lâu hai bố con câu được hàng loạt cá hương mập mạp. Bố khen Almanzo và Almanzo khen Bố, rồi hai bố con đội mưa dầm qua cánh đồng đậu ba lá mà trở về nhà.

Hai bố con ướt lóp nga lóp ngóp, và làn da đang ấm lên. Ngoài trời mưa, bên cái thớt ở vựa củi, hai người cắt đầu cá, đánh vẩy, bỏ ruột. Chiếc xoong sữa to đựng đầy cá hương; Mẹ lăn cá vào bột bắp rồi chiên cho bữa chiều.

Mẹ nói: “Chiều nay, Almanzo có thể giúp Mẹ khuấy bơ.”

Các con bò đang cho nhiều sữa đến nỗi phải khuấy bơ mỗi tuần hai lần. Mẹ và các chị đã chán việc khuấy bơ, thế nên vào những ngày mưa Almanzo phải làm thay.

Khuay bo

Trong tầng hầm quét vôi trắng, cái thùng gỗ to để khuấy bơ nằm trên các chân gỗ, kem đã đầy đến phân nửa. Almanzo đẩy cái cần, và thùng khuấy đung đưa. Bên trong, kem sóng sánh thành tiếng xì! xọp xì! xọp. Almanzo phải lắc thùng khuấy cho đến khi kem sữa kết thành những hạt bơ trôi nổi trong sữa bơ.

Almanzo uống một cốc sữa bơ vừa chua vừa béo và ăn vài chiếc bánh quy, trong khi Mẹ gạn bơ ra rồi rửa trong thố bơ tròn bằng gỗ. Mẹ rửa bơ thật kỹ rồi cho muối vào, và gói thỏi bơ cứng vàng óng trong các chậu bơ.

Câu cá không phải là thú vui duy nhất trong mùa hè. Có những buổi tối Tháng Bảy Bố nói:

“Học không chơi, đánh rơi tuổi trẻ. Ngày mai ta sẽ đi hái quả dại.”

Almanzo không nói gì, nhưng đã mở cờ trong bụng.

Hôm sau, trước khi trời sáng họ đã đánh xe goòng chở gỗ ra đi, mặc bộ quần áo cũ nhất, mang theo các loại xô, chậu, giỏ và một hộp to đựng thức ăn trưa. Họ đi xa đến tận dãy núi gần Hồ Chateaugay, nơi có nhiều việt quất và sơn trâm mọc.

Khu rừng đầy những xe goòng khác và những gia đình khác cũng đi hái quả dại. Họ cười cợt và ca hát, tiếng người nói râm ran khắp các cội cây. Mỗi năm nhiều người gặp nhau rồi gặp bạn bè ở đây, đến nỗi bạn bè không gặp nhau ở chỗ nào khác. Nhưng tất cả đều bận rộn hái quả dại; họ vừa nói chuyện vừa lo tìm hái quả dại.

Những bụi cây thấp bao phủ mặt đất ở những khoảnh có ánh nắng giữa các cội cây. Dưới tán lá là đầy những chùm quả sơn trâm mầu lam sẫm, và thoảng một mùi xi rô trong ánh nắng nóng, tĩnh lặng.

Chim chóc đã đến để mở tiệc trên những quả sơn trâm, không gian đầy những tiếng phần phật của cánh chim, và những con giẻ cùi lam đang tức tối bay lượn, kêu lên những tiếng la mắng chát chúa trên đầu những người đi hái quả dại. Có một lần hai con giẻ cùi lam tấn công chiếc mũ của Alice, và Almanzo phải đánh đuổi chúng đi. Và một lần tự cậu gây ra, và phía sau một cây tuyết tùng cậu gặp một con gấu đen.

Con gau

Con gấu đang đứng trên hai chân, đang dùng hai chân trước đầy lông lá tọng các quả dại vào miệng. Almanzo đứng yên; con gấu cũng thế. Almanzo nhìn chằm chằm; con gấu nhìn chằm chằm lại với hai con mắt nhỏ, hãi sợ phía trên hai chân trước bất động. Rồi con gấu hạ người xuống bốn chân mà núng nính đi vào rừng.

Đến giữa trưa, người ta mở những hộp thức ăn picnic bên bờ suối, trên khắp các bóng râm người ta ăn trưa và chuyện trò. Họ uống nước suối rồi lại đi tìm quả dại.

Gần xế chiều, các xô, chậu, giỏ đều đầy, và Bố đánh xe về nhà. Tất cả đều sật sừ, thắm đẫm dưới ánh nắng và thở ra mùi quả dại thơm tho.

Trong nhiều ngày kế tiếp, Mẹ và các chị làm các món mứt từ quả dại, và trong mỗi buổi ăn đều có bánh nướng nhân việt quất hoặc pút-đinh sơn trâm.

Rồi đến một bữa ăn chiều, Bố nói:

“Đã đến lúc Mẹ và Bố cần nghỉ hè. Bố Mẹ đang tính đến chơi nhà Cậu Andrew trong một tuần. Các con có thể chăm sóc nhà cửa và ngoan trong khi Bố Mẹ đi vắng không?”

Mẹ nói: “Mẹ tin chắc Royal và Eliza Jane có thể trông nom nông trại trong một tuần, có Alice và Almanzo phụ giúp.”

Almanzo nhìn qua Alice, rồi cả hai nhìn qua Eliza Jane. Rồi cả ba nhìn qua Bố và nói:

“Được, Bố ạ.”

Trông nom nhà cửa

Cậu Andrew sống cách xa mười sáu cây số. Suốt một tuần lễ, Bố và Mẹ chuẩn bị để sẵn sàng lên đường, và suốt tuần ấy hai người nghĩ về những việc cần làm trong khi họ đi vắng.

Thậm chí khi Mẹ đang bước lên cỗ xe, bà vẫn còn dặn dò.

Mẹ nói: “Nhớ nhặt trứng mỗi ngày, và Mẹ trông mong nơi con, Eliza Jane à, lo việc khuấy bơ. Đừng cho nhiều muối quá, gói vào trong hộp nhỏ và nhớ đậy lại. Nhớ đừng hái các quả đậu Mẹ đang để dành làm giống. Bây giờ tất cả các con phải ngoan trong khi Bố Mẹ đi vắng…”

Mẹ đang tấn những vòng váy phồng giữa ghế ngồi và tấm chắn bùn. Bố trải tấm chăn phủ chân ra.

“… và nhớ đấy, Eliza Jane. Trông chừng củi lửa; đừng đi ra khỏi nhà khi bếp còn lửa, và đừng chơi đùa với đèn nến đang cháy, cho dù đang làm gì, và…”

Bố kéo dây cương và đôi ngựa bắt đầu cất vó.

“… không được ăn hết đường!” Mẹ nói vói lại.

Chiếc xe rẽ ra con đường. Đôi ngựa bắt đầu phi nước kiệu, nhanh chóng đưa Bố Mẹ đi. Trong chốc lát, tiếng bánh xe tắt hẳn. Bố và Mẹ đã đi xa.

Không đứa nào nói gì. Ngay cả Eliza Jane trông có phần hoảng sợ. Ngôi nhà, chuồng trại và nương rẫy trông dường quá rộng lớn và trống vắng. Trong suốt một tuần lễ, Bố Mẹ sẽ ở cách xa mười sáu cây số.

Thình lình Almanzo ném chiếc mũ của mình lên không trung rồi hét lên. Alice co dúm người rồi thốt lên:

“Chúng ta làm việc gì trước?”

Bọn trẻ có thể làm bất kỳ việc gì chúng thích. Không có ai ngăn cấm.

Eliza Jane nói ra vẻ đàn chị: “Ta sẽ rửa tô đĩa và dọn giường.”

Royal la lên: “Ta làm kem lạnh!”

Eliza Jane thích ăn kem lạnh. Cô do dự, rồi nói: “À¾”

Almanzo chạy theo Anh Royal đến nhà trữ nước đá. Hai anh em đào một khối nước đá ra khỏi lớp mạt cưa rồi đặt trong một bao bố. Hai đứa đặt cái bao trên hành lang sau nhà và dùng rìu nhỏ đập cho đến khi nước đá vỡ vụn. Alice đi ra để xem trong khi cô đánh lòng trắng trứng trên một chiếc đĩa dẹt. Cô đánh bằng một chiếc nĩa, cho đến khi khối lòng trắng trứng kết bông mà không chảy xuống khi cô nghiêng chiếc đĩa.

Eliza Jane đong sữa và kem, và múc đường từ một thùng đặt trong gian bếp. Đấy không phải là đường phong thông thường, mà là đường trắng mua ở cửa hiệu. Mẹ chỉ dùng đường trắng khi nhà có khách.[Q] Eliza Jane đong đầy sáu chén đường, rồi vuốt cho bề mặt đường trong thùng được phẳng, thế là không ai nhận ra đường đã vơi đi trong thùng.

Cô làm sữa trứng chứa đầy một xô lớn. Rồi đám trẻ đặt cái xô vào trong một bồn và nén nước đá vụn chung quanh bên ngoài cùng với muối, rồi lấy một tấm chăn đậy lên. Cứ mỗi vài phút, đám trẻ dở chiếc chăn ra, mở nắp xô rồi khuấy cho kem đông dần.

Khi kem đã đông, Alice mang ra những chiếc đĩa và muỗng, Almanzo mang ra một ổ bánh ngọt, trong khi Eliza Jane múc kem lạnh ra đĩa. Bọn trẻ có thể tha hồ ăn hết kem lạnh cùng bánh ngọt; không có ai ngăn cấm.

Đến giờ trưa, bọn trẻ đã ăn hết cả ổ bánh ngọt và gần hết kem lạnh. Eliza Jane nói đã đến giờ ăn trưa, nhưng các trẻ khác không muốn ăn trưa gì cả. Almanzo nói:

“Em chỉ muốn một quả dưa hấu.”

Alice nhảy cẫng lên: “Tốt quá! Ta đi tìm một quả!”

Eliza Jane la lên: “Alice! Em quay lại đây và rửa tô đĩa ăn sáng!”

Alive nói vọng về: “Khi trở về em sẽ rửa.”

Alice và Almanzo đi vào vườn dưa, nơi những quả dưa nằm trên những chiếc lá dẹp héo úa. Almanzo búng ngón tay lên lớp da xanh lục, và nghe ngóng. Khi quả dưa phát tiếng ngắn nghe như chín thì đúng là nó chín, và phát tiếng dài nghe như xanh thì đúng là nó xanh. Nhưng khi Almanzo nói một quả dưa nghe như chín, thì Alice nghĩ nó còn xanh. Không có cách nào để biết cho đúng, dù Almanzo tin chắc mình biết về dưa giỏi hơn bất kỳ cô con gái nào. Thế là cuối cùng hai chị em chọn sáu quả dưa lớn nhất, kéo lê từng quả về nhà chứa nước đá và đặt lên trên lớp mạt cưa ẩm ướt.

Sau đó Alice trở về nhà để rửa tô đĩa. Almanzo cho biết cậu sẽ không có việc gì làm; có lẽ cậu sẽ đi bơi. Nhưng ngay khi Chị Alice vừa khuất bóng, cậu luồn qua chuồng trại rồi lẻn ra đồng cỏ nuôi thả lũ ngựa non.

Đồng cỏ mênh mông và mặt trời rát bỏng. Bầu không khí lung linh và chập chờn vì hơi nóng, và các loài côn trùng tạo âm thanh chát chúa. Hai con ngựa trưởng thành Bess và Beauty đang nằm dưới bóng râm một cội cây, các con ngựa non đứng quanh, vẫy chiếc đuôi nhỏ rậm lông, bốn chân dài lóng ngóng hơi dạng ra. Các con ngựa tròn một tuổi, hai tuổi và ba tuổi đang ăn cỏ. Tất cả bọn chúng ngẩng đầu, chăm chăm nhìn Almanzo.

Cậu bước chầm chậm về phía chúng, bàn tay đưa về trước. Trong bàn tay không có gì cả, nhưng lũ ngựa đâu có biết điều này. Cậu không định làm gì cả, mà chỉ muốn đến gần để vuốt ve chúng. Con ngựa non Starlight và những ngựa non nhỏ khác lảo đảo chạy về phía mẹ chúng. Bess và Beauty ngẩng đầu nhìn, rồi lại nằm xuống. Các con ngựa non lớn đều vểnh tai nghe ngóng.

Một con ngựa non lớn đi đến Almanzo, rồi một con nữa. Sáu ngựa non lớn đang đi đến. Almanzo ước gì đã mang cà rốt đến cho chúng. Đàn ngựa thật đẹp, tự do và to lớn, dựng bờm lên, mở đôi mắt trắng ra nhìn. Ánh mặt trời chói lọi trên cổ mạnh mẽ, uốn cong, và trên những bắp cơ ngực. Thình lình một con trong đàn cất tiếng:

“Huốt!”

Một con nhấc vó lên đá, một con khác kêu ré lên, rồi lập tức tất cả những cái đầu đều ngẩng lên, đuôi cong lên, và vó dậm thình thịch trên mặt đất. Tất cả những hông nâu và đuôi dài cao đều quay về phía Almanzo. Giống như một tiếng sấm vang dội, sáu con ngựa non lớn kia chạy vòng quanh một cội cây, và Almanzo nghe chúng ở phía sau mình.

Cậu xoay người. Cậu thấy những vó dậm thình thịch và những lồng ngực lớn đang chạy thẳng về phía mình. Chúng chạy quá nhanh nên không thể nào ngăn được. Không có đủ thời giờ chạy ra ngoài. Almanzo nhắm nghiền hai mắt lại; cậu thét lên:

“Họ!”

Bầu không khí và mặt đất đều rung chuyển. Cậu mở mắt ra. Cậu thấy các đầu gối nâu nâng cao trên không trung, một cái bụng tròn và hai chân sau lướt trên đầu. Các lườn nâu chạy qua cậu như sấm chớp. Chiếc mũ của cậu bay mất. Cậu cảm thấy kinh hoàng. Một trong các con ngựa ba tuổi đã nhảy qua phía trên người cậu. Bầy ngựa non đang chạy như sấm động qua đồng cỏ, và Almanzo thấy Anh Royal đang đến.

Royal hô lên: “Để yên cho ngựa non!” Anh đi đến và nói thể nào mình cũng sẽ cho Almanzo một trận đòn nhớ đời.

Royal nói: “Em phải biết rõ là đừng có chọc đám ngựa non.” Anh nhéo lấy vành tai Almanzo. Cậu em chạy lúp xúp, nhưng vẫn bị nhéo tai cho đến khi về đến khu chuồng trại. Cậu cho biết mình đã không làm gì cả. Anh Royal không chịu tin.

Anh Royal nói: “Nếu anh bắt được em ngoài đồng cỏ đó lần nữa thì anh sẽ lột da em. Rồi anh cũng sẽ mách Bố nữa.”

Almanzo vừa bước đi vừa xoa vành tai. Cậu đi xuống Sông Cá Hương và bơi trong một ao nước nhỏ cho đến khi cậu cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng cậu nghĩ không công bằng chút nào khi mình là em út trong gia đình.

Chiều hôm ấy, các quả dưa đã được ủ lạnh, Almanzo mang chúng đến thảm cỏ dưới một tán cây trong sân vườn. Anh Royal lấy dao mổ thịt cắt qua lớp vỏ xanh. Các quả dưa đều chín nên lớp vỏ nứt rộng ra.

Almanzo cùng Royal, Eliza Jane và Alice cắn sâu vào miếng dưa mọng nước, mát lạnh, và ăn no nê đến mức không thể nào ăn thêm được nữa. Almanzo bấu lấy những hạt dưa dẹt mầu đen mà bắn tới Eliza Jane cho đến khi cô bảo cậu phải dừng tay. Rồi cậu cố ăn miếng dưa cuối cùng, và nói:

“Em đi kiếm Lucy để cho nó ăn vỏ dưa.”

Eliza Jane nói: “Em không được làm chuyện như thế. Ý hay gớm! Một con lợn già dơ bẩn ở sân trước!”

Almanzo nói: “Nó không phải già mà cũng không dơ bẩn. Nó là con lợn nhỏ tuổi, sạch sẽ, và lợn là loài thú sạch sẽ nhất! Chị phải xem cách Lucy giữ cái ổ của nó được sạch sẽ, lộn lên lộn xuống, giữ cho thoáng khí, làm ổ mới mỗi ngày. Ngựa không biết làm thế, bò cũng không, cừu cũng không, hoặc bất kỳ con gì khác. Chỉ có lợn¾”

Eliza Jane nói: “Chị biết! Chị biết về lợn rành như em!”

“Thế thì chị đừng gọi Lucy là dơ bẩn! Nó sạch như chị đó!”

“Nhưng Mẹ bảo em phải vâng lời chị. Và chị không muốn phí vỏ dưa cho con lợn nào! Chị muốn làm mứt vỏ dưa.”

“Em nghĩ chị có đủ vỏ dưa cho chị.” Almanzo định mang vỏ dưa cho Lucy, nhưng Anh Royal đứng dậy nói:

“Đi nào, ‘Manzo. Tới giờ làm việc.”

Almanzo không nói gì thêm, nhưng khi làm xong công việc trang trại, cậu để cho Lucy đi ra khỏi chuồng. Con lợn nhỏ như là con cừu non, và nó mến Almanzo; cái đuôi quăn nhỏ của nó lúc lắc mỗi khi nó trông thấy cậu. Nó theo cậu đi đến ngôi nhà, kêu ụt ịt một cách vui sướng, rồi kêu ré gọi cậu ở cánh cửa cho đến khi Eliza Jane nói cô không thể suy nghĩ gì được.

Sau bữa ăn chiều, Almanzo cho thức ăn thừa vào một đĩa cho Lucy. Cậu ngồi trên những bậc thềm sau nhà và gãi cái lưng đầy gai của nó. Lợn thích được gãi như thế. Trong gian bếp, Eliza Jane và Royal đang cãi nhau về món kẹo. Royal muốn ăn một ít, nhưng Eliza Jane bảo kẹo kéo chỉ để dành cho những buổi tối mùa đông. Royal nói cậu không thấy tại sao kẹo lại không thích hợp cho mùa hè. Almanzo cũng nghĩ thế, và cậu đi vào để hùa theo Anh Royal.

Alice cho biết mình biết làm kẹo. Eliza Jane không muốn làm, nhưng Alice trộn đường, mật mía và nước rồi đun nóng. Cô rót kẹo vào một đĩa tráng bơ và để ở ngoài hành lang cho nguội lại. Bọn trẻ xắn tay áo và thoa bơ trên bàn tay, sẵn sàng kéo, và Eliza Jane cũng thoa bơ lên tay mình.

Trong lúc ấy, Lucy vẫn luôn kêu réo Almanzo. Cậu đi ra ngoài để xem kẹo nguội chưa, và cậu nghĩ con lợn nhỏ của mình cũng nên được ăn một ít. Kẹo đã nguội. Không ai nhìn thấy, nên cậu lấy một miếng kẹo to, mềm mại, mầu nâu, vươn qua rìa hành lang mà bỏ vào cái miệng đang há rộng của con Lucy.

Rồi tất cả tham gia kéo kẹo. Chúng kéo thành những sợi dài, rồi gập đôi sợi lại và kéo nữa. Mỗi lần gập đôi là chúng lại cắn một ít kẹo.

Kẹo rất dính. Kẹo dính vào răng, ngón tay và mặt mũi bọn trẻ, bằng cách nào đấy dính cả vào tóc và đóng cứng ở đấy. Đáng lẽ kẹo phải cứng và dòn, nhưng không phải. Bọn trẻ cố kéo và kéo; nó vẫn mềm và dính. Đã quá giờ đi ngủ, chúng đành chịu thua và đi ngủ.

Sáng hôm sau, khi Almanzo bắt đầu công việc trang trại, Lucy đang đứng ở sân vườn. Đuôi nó thõng xuống, đầu gục xuống. Nó không kêu ré lên khi trông thấy cậu như mọi khi. Nó chỉ lúc lắc đầu với vẻ buồn bã và nhăn nhăn mũi.

Thay vì hàm răng trắng thì là một vệt bóng mầu nâu.

Răng của Lucy bị dính vào nhau với kẹo. Nó không ăn được, nó không uống được, thậm chí nó không kêu la được. Nó không thể ụt ịt. Nhưng khi thấy Almanzo đến gần, nó bỏ chạy.

Almanzo kêu Anh Royal. Hai anh em rượt theo Lucy chung quanh ngôi nhà, dưới những lùm hoa tú cầu và tử đinh hương. Hai anh em rượt theo nó khắp vườn nhà. Lucy xoay thân hình, né bên này, tránh bên kia, chạy thục mạng. Nó không kêu lên tiếng nào; nó không kêu được. Miệng nó dính đầy kẹo.

Nó luồn giữa hai chân Royal khiến cho anh ta điên tiết. Almanzo suýt chộp được nó, rồi úp mặt xuống mà nằm dài. Nó chạy xuyên qua những dây đậu, dẫm nát những quả cà chua chín, và nhổ bật những bắp cải tròn xanh. Eliza Jane luôn thúc giục Royal và Almanzo phải bắt cho được con lợn. Alice cũng chạy theo nó.

Cuối cùng, ba anh em dồn con lợn vào một góc. Nó chạy vòng quanh tà váy của Alice. Almanzo nhảy xuống người nó và cố tóm lấy. Nó đá mạnh, làm rách một đường dài xuống vạt áo trước của cậu.

Almanzo đè con lợn xuống. Alice ôm lấy hai chân sau đang quẫy đạp. Royal banh miệng nó ra và nạo đi lớp kẹo. Rồi con lợn kêu ré lên eng-éc! Nó kêu eng-éc chát chúa như thể muốn bù lại cho mọi tiếng eng-éc bị tắt cả đêm và cho mọi tiếng eng-éc nó kêu không được khi bị rượt đuổi, và nó vẫn kêu eng-éc khi chạy vào chuồng.

Eliza Jane trách mắng: “Almanzo James Wilder[R], tự nhìn mình mà xem!” Cậu không thể nhìn, và không muốn nhìn.

Thậm chí Alice cũng khó chịu bởi vì cậu đã phí kẹo cho một con lợn. Và chiếc áo choàng của cậu đã hỏng; có thể vá lại, nhưng đường vá sẽ quá dài.

Almanzo nói: “Em không màng.” Cậu lấy làm vui vì còn cả một tuần lễ sau Mẹ mới biết.

Hôm ấy, bọn trẻ lại làm kem lạnh, và ăn ổ bánh ngọt cuối cùng. Alice cho biết cô biết cách làm bánh bông lan bơ. Cô sẽ làm một ổ bánh, và rồi cô sẽ vào ngồi chơi trong phòng khách.

Almanzo nghĩ làm như thế thì chẳng có gì là vui. Nhưng Eliza Jane nói:

“Alice, em không được làm thế. Em đã biết rõ rằng phòng khách chỉ để tiếp khách.”

Phòng khách không phải là của Eliza Jane, và Mẹ đã không cấm Alice ngồi trong đấy. Almanzo nghĩ Chị Alice có thể ngồi chơi trong phòng khách nếu muốn.

Chiều hôm ấy, cậu vào gian bếp để xem ổ bánh xong chưa. Alice đang lấy ổ bánh ra khỏi lò nướng. Mùi thơm ngào ngạt đến nỗi cậu bẻ lấy một miếng nhỏ ở góc ổ bánh. Rồi Alice cắt một miếng bánh để che giấu chỗ bị hao hụt, và hai đứa trẻ ăn thêm hai miếng cùng phần kem lạnh cuối cùng.

Alice nói: “Chị có thể làm thêm kem.” Chị Eliza Jane đang ở trên lầu, nên Almanzo nói:

“Ta vào phòng khách đi.”

Hai chị em rón rén đi vào, không gây nên tiếng động gì. Ánh sáng lờ mờ bởi vì các rèm cửa được kéo xuống, nhưng phòng khách trông đẹp. Giấy dán tường có mầu trắng và vàng ánh, tấm thảm là loại tốt nhất do Mẹ dệt nên, hầu như quá tinh tế đến nỗi không nên bước lên. Chiếc bàn đặt ở giữa có mặt đá cẩm thạch mang chiếc đèn hành lang to, đồ sứ mầu trắng và vàng kim cùng những nụ hồng đỏ. Đặt bên cạnh là tập ảnh của gia đình với bìa bằng nhung đỏ khảm xa cừ.

Dọc theo tường là những chiếc ghế bằng vải lông bờm ngựa dựng trang trọng, và chân dung George Washington trông nghiêm nghị từ khung ảnh treo giữa hai cửa sổ.

Alice vén những vòng váy phồng ra phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế bành. Loại vật liệu lông bờm ngựa trơn láng khiến cho cô tuột xuống sàn nhà. Cô không dám cười lớn, vì sợ Eliza Jane nghe được. Cô lại ngồi lên ghế bành, rồi lại bị tuột xuống. Rồi Almanzo cũng bị tuột xuống từ một chiếc ghế dựa.

Khi khách đến nhà và phải ngồi trong phòng khách, họ ngồi vững trên chiếc ghế trơn láng bằng cách tựa các ngón chân lên sàn nhà. Nhưng bây giờ hai chị em có thể tuột tự do. Hai đứa tuột xuống khỏi ghế bành và ghế dựa cho đến khi Alice lớn tiếng cười khúc khích đến nỗi chúng không dám tuột nữa.

Rồi hai đứa nhìn qua các vỏ sò, san hô và những hình người nhỏ bằng sứ trên kệ tủ. Hai đứa không dám sờ mó món nào cả. Hai đứa ngắm nhìn cho đến khi nghe bước chân Eliza Jane đi xuống cầu thang; rồi hai đứa rón rén chạy ra khỏi phòng khách và đóng cánh cửa lại mà không gây một tiếng động. Eliza Jane không bắt gặp được.

Có vẻ như tuần lễ kéo dài mãi, nhưng bỗng dưng đã trôi qua. Một buổi sáng, lúc dùng điểm tâm Eliza Jane nói:

“Ngày mai Bố và Mẹ sẽ về nhà.”

Cả bọn ngưng ăn. Bọn trẻ đã không giẫy cỏ vườn nhà. Bọn trẻ cũng không hái đậu, nên dây đậu chín quá sớm. Bọn trẻ cũng không quét vôi chuồng gà.

Eliza Jane nói: “Nhà bừa bộn quá. Hôm nay ta còn phải khuấy bơ nữa. Nhưng chị sẽ nói với Mẹ thế nào đây? Ăn hết đường rồi.”

Cả bọn không còn lòng dạ nào mà ăn uống gì được. Chúng nhìn vào thùng đường, và có thể nhìn xuống tận đáy.

Chỉ có Alice là gắng gượng làm vui.

“Ta phải hy vọng cho điều tốt đẹp nhất,” Alice nói, giống như Mẹ. “Vẫn còn một ít đường. Mẹ bảo ‘Đừng ăn hết đường,’ nhưng chúng ta không ăn hết. Vẫn còn có một ít quanh rìa.”

Đấy chỉ là phần khởi đầu cho một ngày khổ sở. Bọn trẻ làm việc hết sức mình. Anh Royal và Almanzo tưới vườn nhà, quét vôi chuồng gà, làm vệ sinh chuồng bò và quét dọn Nền Trại-Nam. Các cô lo quét và cọ rửa ngôi nhà. Eliza Jane bắt Almanzo khuấy bơ cho đến khi bơ kết hạt, rồi hai bàn tay cô bay lượn trong khi cô rửa bơ, nêm muối và cho vào chậu bơ. Bữa ăn chiều chỉ có bánh mỳ, bơ và mứt, cho dù Almanzo đói lả người.

Eliza Jane bảo: “Almanzo, bây giờ em phải đánh bóng lò nướng.”

Almanzo ghét phải đánh bóng lò nướng, nhưng cậu mong Chị Eliza Jane sẽ không mách việc cậu đã phung phí kẹo cho con lợn. Cậu bắt đầu công việc với sáp đánh bóng và bàn chải.

Eliza Jane đang tất bật và cằn nhằn. Cô vừa bận rộn quét bụi vừa nói: “Em phải cẩn thận đừng làm nhểu nước đánh bóng.”

Almanzo biết cách làm nên sẽ không làm nhểu nước đánh bóng. Nhưng cậu không nói gì.

“Almanzo, dùng ít nước thôi. Và, trời ơi! cọ cho mạnh lên!” Cậu không nói gì.

Eliza Jane đi vào phòng khách để quét bụi. Cô gọi to lên: “Almanzo, làm xong lò nướng chưa?”

Almanzo đáp: “Chưa.”

“Trời đất! đừng lề mề như thế!”

Almanzo lầu bầu: “Chị là sếp của ai đây?”

Eliza Jane hỏi: “Em nói gì thế?”

Almanzo đáp: “Không có gì.”

Eliza Jane đi đến khung cửa. “Em đã nói thì phải nhận đi.”

Almanzo đứng thẳng lên và lớn tiếng:

“Em nói CHỊ LÀ SẾP CỦA AI?

Eliza Jane há hốc miệng. Rồi cô la lên:

“Đợi đấy, Almanzo James Wilder! Em đợi đến khi chị nói với Mẹ¾”

Almanzo không có chủ đích ném bàn chải dính nước đánh bóng. Nó bay ra khỏi tay cậu. Nó lượn qua đầu Eliza Jane. Phạch! nó đập vào tường phòng khách.

Một vệt to nước đánh bóng đen lan trên giấy dán tường mầu trắng và vàng kim.

Alice kêu thét lên. Almanzo quay mình chạy một mạch ra chuồng trại. Cậu leo lên thùng đựng cỏ khô và bò vào tận bên trong. Cậu không khóc, nhưng cậu đã có thể khóc nếu không phải là đứa con trai gần tròn mười tuổi.

Mẹ sẽ trở về và thấy cậu đã làm hỏng phòng khách đẹp của bà. Bố sẽ dẫn cậu vào vựa củi mà lấy roi quất cậu. Cậu không muốn ra khỏi thùng cỏ. Cậu ước gì mình có thể ở đây mãi mãi.

Sau một lúc lâu, Anh Royal đi đến thùng cỏ và gọi cậu ra. Almanzo bò ra khỏi đống cỏ khô, và thấy Anh Royal đã biết vụ việc.

Royal nói: “Mannie, em sẽ bị đòn đau.” Royal lấy làm buồn, nhưng anh không thể làm gì được. Cả hai biết Almanzo đáng bị đòn, và không có cách nào giấu Bố. Thế nên Almanzo nói:

“Em không màng.”

Cậu phụ giúp làm công việc trang trại, và cậu dùng bữa chiều. Cậu không đói, nhưng vẫn ăn để cho Chị Eliza Jane thấy cậu không màng. Rồi cậu đi ngủ. Cửa phòng khách đã đóng, nhưng cậu biết vệt đen trông ra sao trên tường mầu trắng và vàng kim.

Ngày hôm sau, Bố và Mẹ đánh xe vào sân vườn. Almanzo phải đi ra với các anh chị để đón hai người. Chị Alice thì thầm với cậu:

“Em đừng lo. Có lẽ Bố Mẹ không quan tâm.” Nhưng cô cũng lộ vẻ lo lắng.

Bố vui vẻ nói: “À, các con đây. Ở nhà hòa thuận với nhau chứ?”

Royal đáp: “Vâng, thưa Bố.” Almanzo không đi tháo đôi ngựa kéo; cậu vẫn ở trong nhà.

Mẹ hăm hở khắp nơi, vừa nhìn mọi thứ vừa tháo chiếc mũ ra.

Mẹ nói: “Eliza Jane và Alice à, Mẹ dám nói các con trông nom nhà cửa cũng giỏi như chính Mẹ làm vậy.”

Alice nói nhỏ: “Mẹ ạ, Mẹ¾”

“Này con, chuyện gì thế?”

Alice thu can đảm nói: “Mẹ ạ, Mẹ đã bảo chúng con không được ăn hết đường. Mẹ ơi, chúng con¾ chúng con ăn gần hết.”

Mẹ cười lớn, nói: “Các con ngoan lắm. Mẹ sẽ không trách mắng các con về chuyện đường.”

Mẹ vẫn chưa biết có một vệt đen trên tường phòng khách. Cửa phòng khách đang đóng. Ngày hôm ấy Mẹ không biết, ngày kế Mẹ cũng không biết. Đến các bữa ăn, Almanzo khó nuốt trôi các món, và Mẹ lấy làm lo lắng. Bà dắt cậu vào gian bếp, bắt cậu uống một muỗng canh đầy thứ thuốc đen kinh khiếp mà Mẹ đã chế ra từ rễ cây và thảo dược.

Almanzo không muốn Mẹ biết về vệt đen, nhưng rồi cậu lại mong Mẹ biết. Khi chuyện tồi tệ nhất đã qua đi thì cậu sẽ thôi khổ sở vì nó.

Buổi tối thứ hai, cả nhà nghe tiếng một chiếc xe chạy vào sân vườn. Ông và Bà Webb ngồi trên xe. Bố và Mẹ ra đón khách, rồi cả bốn người đi vào phòng ăn. Almanzo nghe Mẹ nói:

“Ta vào phòng khách đi.”

Almanzo không thể cử động. Cậu không nói gì được. Đây là điều tồi tệ hơn bất kỳ những gì mà cậu đã nghĩ ra. Mẹ rất hãnh diện về phòng khách của mình. Mẹ rất hãnh diện đã giữ nó luôn chỉn chu. Mẹ không biết cậu đã hủy hoại nó, và bây giờ Mẹ đang dẫn khách vào. Họ sẽ nhìn thấy vệt đen trên tường.

Mẹ mở cánh cửa phòng khách rồi bước vào. Bà Webb bước vào, rồi đến Ông Webb và Bố. Almanzo chỉ nhìn thấy lưng của họ, nhưng cậu nghe tiếng các tấm rèm cửa được kéo lên. Cậu thấy phòng khách đầy ánh sáng. Có vẻ như trong một lúc lâu không ai nói năng gì cả.

Rồi Mẹ nói:

“Ông Webb, mời ông ngồi trên ghế rộng này, xin cứ tự nhiên nhé. Bà Webb ạ, bà ngồi trên ghế bành này ở đây.”

Tiep ong ba Webb

Almanzo không thể tin vào tai mình khi Bà Webb nói:

“Hai ông bà có phòng khách đẹp quá. Tôi dám nói quá đẹp đến mức không nên ngồi trong này.”

Bây giờ Almanzo có thể thấy chỗ cái bàn chải đánh bóng đập vào bức tường, và cậu không thể tin vào mắt mình. Chẳng có vệt đen nào cả.

Mẹ nhìn thấy cậu, nói:

“Almanzo, con vào đây.”

Almanzo bước vào. Cậu ngồi thẳng người trên chiếc ghế lót bằng vật liệu lông bờm ngựa và tựa các ngón chân lên sàn nhà để người không bị tuột xuống. Bố và Mẹ đang kể về chuyến đi đến nhà Cậu Andrew.

Không có vệt đen trên bất kỳ nơi nào của bức tường.

Bà Webb hỏi: “Chị có lo lắng không khi để bọn trẻ ở nhà và hai ông bà ở xa như thế?”

Mẹ hãnh diện đáp: “Không ạ. Chúng tôi biết bọn trẻ sẽ trông nom mọi việc cũng tốt như là khi James và tôi ở nhà.”

Almanzo giữ tư cách lịch sự nên không nói tiếng nào.

Ngày hôm sau, khi không có ai trông thấy, cậu lẻn vào phòng khách. Cậu xem xét kỹ phần tường có vệt đen khi trước. Một khoảnh giấy dán tường đã được dán lại. Phần dán lại đã được cắt cẩn thận quanh đường cong mầu vàng kim, hoa văn được khớp nối hoàn hảo, rìa của khoảnh dán mới được cạo mỏng đến nỗi cậu khó nhận ra.

Almanzo chờ cho đến khi có thể nói chuyện riêng với Chị Eliza Jane, rồi cậu hỏi:

“Chị Eliza Jane, có phải chị dán lại giấy dán tường cho em không?”

Eliza Jane đáp: “Phải. Chị lấy giấy dán tường vụn trữ trên gác mái, cắt ra một khoảnh rồi dán lên với hồ bột.”

Với giọng khàn khàn, Almanzo nói:

“Em xin lỗi đã ném chị cái bàn chải ấy. Thật tình, Chị Eliza Jane ạ, em không có chủ định.”

Eliza Jane đáp: “Chị nghĩ chị đã làm quá. Nhưng chị không có ý ấy. Em là đứa em trai nhỏ duy nhất của chị.”

Almanzo chưa từng cảm thấy thương Chị Eliza Jane như lúc này.

Hai chị em không hề, không bao giờ, nói về vệt đen trên tường phòng khách, và Mẹ không bao giờ biết được.

Vụ mùa sớm

Bây giờ đã đến lúc gặt cỏ. Bố mang những chiếc lưỡi hái ra; Almanzo dùng một tay quay đĩa đá mài và tay kia rót nước lên đĩa đá, trong khi Bố khéo léo giữ cho rìa lưỡi hái chạm trên mặt đá đang quay tròn. Nước làm cho lưỡi hái không quá nóng, trong khi đĩa đá mài quay vòng để mài cho rìa lưỡi hái mỏng và bén.

Ngay sau khi ánh mặt trời làm tan sương giá trên đồng cỏ, Bố cùng Joe và John bắt đầu cắt cỏ. Ba người làm việc bên nhau, vung lưỡi hái vào đám cỏ cao, và cỏ đuôi mèo rơi thành từng vạt to.

Xoẹt! xoẹt! xoẹt! Các lưỡi hái vụt qua, trong khi Pierre, Louis và Almanzo đi theo sau, dùng cây chĩa trải mỏng các vạt cỏ đã cắt để cỏ khô đều dưới ánh nắng. Các gốc rạ mềm và mát lạnh dưới bàn chân họ. Chim chóc bay vút lên trước các lưỡi hái; thỉnh thoảng một con thỏ nhảy lên và phóng đi. Cao trên bầu trời, những con sáo đồng hót vang.

Mặt trời càng nóng hơn. Mùi cỏ nồng hơn và ngọt hơn. Rồi từng con sóng của sức nóng bắt đầu dâng lên từ mặt đất. Cánh tay nâu của Almanzo nâu sậm hơn, từng dòng mồ hôi chảy xuống trán. Các ông dừng lại để lấy cỏ tươi cho vào chóp mũ, và các cậu cũng làm theo. Chỉ một lúc sau, các lá cỏ làm đầu họ mát đi.

Đến giữa buổi sáng, Mẹ thổi tù và. Almanzo biết tiếng tù và của Mẹ có ý nghĩa gì. Cậu cắm cây chĩa của mình xuống đất rồi chạy qua đồng cỏ về nhà. Mẹ đứng ở trên hành lang sau nhà với cái xô đựng trứng đánh lạnh đầy đến miệng.

Trứng đánh được làm từ sữa và kem, dùng nhiều trứng và đường. Những mẩu gia vị lấm tấm trên bề mặt sủi bọt, thêm những mảnh đá vụn nổi sóng sánh. Một màn sương lạnh phủ bên ngoài thành cái xô.

Almanzo lê bước ra đồng cỏ mang theo cái xô nặng và chiếc gáo. Cậu tự nghĩ vì cái xô quá đầy, mình có thể làm trứng đánh sóng sánh ra ngoài. Mẹ đã bảo làm đổ đồ ăn thức uống là có tội. Cậu phải làm gì đấy để tránh uổng phí. Thế là cậu đặt cái xô xuống, nhúng chiếc gáo vào múc đầy, rồi cậu uống. Trứng đánh mát lạnh rót xuôi xuống cổ họng, làm cho cậu thấy mát mẻ hẳn trong người.

Khi cậu đến đồng cỏ, mọi người dừng công việc. Họ đứng dưới bóng râm của một cây sồi, kéo ngược chiếc mũ, chuyền tay nhau chiếc gáo cho đến khi cái xô cạn hết. Almanzo uống thỏa thuê. Làn gió bây giờ có vẻ mát dịu đi. Lazy John gạt bọt trứng đánh trên bộ ria, nói:

“À, thật là sảng khoái!”

Bây giờ các ông lại mài lưỡi hái, đĩa mài lại reo vui quay tròn trên các rìa thép. Rồi họ trở lại công việc với quyết tâm cao. Bố luôn cho rằng người ta có thể làm được nhiều thêm trong mười hai giờ, cả sáng lẫn chiều, nếu nghỉ ngơi đầy đủ và uống no nê trứng đánh.

Mọi người làm việc trên đồng cỏ cho đến khi tắt nắng, rồi làm công việc trang trại bên ánh đèn lồng.

Sáng hôm sau, cỏ trải theo vạt mỏng trên mặt đất đã được phơi khô. Các cậu con trai dùng những chiếc cào cỏ to, nhẹ bằng gỗ do Bố tự chế để cào các vạt cỏ thành từng hàng cao. Rồi Joe và John tiếp tục cắt cỏ, Pierre cùng Louis trải cỏ phía sau. Còn Almanzo làm việc trên thùng cỏ khô.

Vu mua som

Bố kéo những thùng cỏ khô từ các chuồng trại, rồi Bố và Anh Royal xúc cỏ cho vào bên trong thùng, trong khi Almanzo dậm chân cho cỏ nén xuống. Cậu chạy tới lui trên lớp cỏ khô tỏa mùi ngọt ngào, nén cỏ xuống nhanh trong khi Bố và Anh Royal xúc thêm cỏ vào.

Khi thùng cỏ đầy thì cậu đã đứng cao lên không trung, bên trên lớp cỏ đã nén. Rồi cậu nằm sấp xuống và đạp hai gót chân lên, trong khi Bố kéo thùng cỏ về khu chuồng trại. Thùng cỏ luồn vừa vặn dưới ô cửa cao, và trượt dài xuống đến mặt đất.

Bố và Anh Royal xúc cỏ khô vào kho chứa cỏ khô, trong khi Almanzo cầm lấy xô nước đi đến giếng. Cậu bơm và bơm rồi đón lấy dòng nước mát phụt ra trong bàn tay mà uống. Cậu mang nước đến cho Bố và Anh Royal, rồi lại lấy đầy một xô nước. Rồi cậu lại ra đồng cỏ trong thùng cỏ rỗng, và lại đạp trên cỏ khô mới cho nén xuống.

Almanzo yêu thích mùa cắt cỏ. Mỗi ngày từ sáng sớm cho đến chiều tối cậu đều bận rộn, luôn làm những việc khác nhau. Đấy giống như là chơi trò chơi, và sáng lẫn chiều đều được dùng trứng đánh. Nhưng sau ba tuần làm cỏ khô, tất cả các vựa cỏ khô đều đầy ắp và đồng cỏ trơ trụi. Thế rồi đến mùa gặt hái hoa mầu.

Hạt yến mạch đã chín; cây vươn cao, dầy và ngả vàng. Cây lúa mỳ có mầu vàng sẫm hơn cây yến mạch. Đậu cũng đã chín, còn bí đỏ, cà rốt, củ cải đỏ và khoai tây đã sẵn sàng cho vụ thu hoạch.

Bây giờ không ai có thời giờ nghỉ ngơi và chơi đùa. Tất cả phải làm việc từ ánh nến này qua ánh nến khác. Mẹ và các chị đang ướp dấm dưa chuột, làm dưa cà chua xanh, ướp dấm vỏ dưa hấu. Họ cũng lo phơi bắp và táo, và làm các món mứt. Mọi thứ phải được bảo quản, không món thu hoạch nào trong mùa hè bị uổng phí. Ngay cả các lõi quả táo cũng được bảo quản để làm dấm, và từng bó rạ yến mạch được ngâm trong một chậu ở hành lang phía sau nhà. Mỗi khi Mẹ có một phút rảnh rỗi là bà lại bện các cọng rạ thành sợi dài dăm ba phân để làm thành những chiếc mũ cho mùa hè năm sau.

Gặt yến mạch thì không dùng loại lưỡi hái để cắt cỏ, mà phải dùng một loại lưỡi hái đặc biệt. Loại này cũng có thanh thép sắc giống như lưỡi hái để cắt cỏ, nhưng còn có thêm những răng dài bằng gỗ để bắt lấy các gié yến mạch đã gặt và giữ ở đấy. Khi đã gặt đủ gié cho một bó nhỏ, Joe và John trút các gié yến mạch xuống thành những đống gọn gàng. Bố cùng Royal và Almanzo đi theo sau, cột các gié yến mạch lại thành từng lượm.

Almanzo chưa từng cột lượm yến mạch bao giờ. Bố chỉ cho cậu cách thức cột hai nắm cọng lúa mạch thành một dây buộc dài, rồi thu một nắm gié đầy vòng tay, kéo dây buộc để buộc nắm gié cho chặt chung quanh phần giữa, xoắn các đầu dây buộc lại rồi nhét vào bên trong.

Chỉ một lúc Almanzo đã có thể khá thành thạo mà cột các gié thành từng lượm, nhưng không được nhanh lắm. Bố và Royal có thể cột các gié nhanh theo kịp hai người gặt.

Trước khi mặt trời lặn, hai người gặt ngưng gặt, và họ bắt đầu xếp cụm. Tất cả các lượm phải được xếp thành cụm trước khi trời tối, bởi vì hạt yến mạch có thể bị thối nếu phơi ra sương qua đêm.

Almanzo có thể cột cụm yến mạch giỏi như bất kỳ ai khác. Cậu thu mười lượm với nhau, cọng hướng xuống dưới, các gié hạt hướng lên trên. Rồi cậu đặt thêm hai lượm phía trên và tách cách cọng ra để làm thành mái che cho mười lượm bên dưới. Các cụm yến mạch trông giống như cái lều của người Da đỏ, nằm rải rác khắp cánh đồng chỉ còn trơ những gốc rạ.

Đồng lúa mỳ đang chờ thu hoạch; không được để mất thời giờ. Ngay sau khi đã xếp tất cả yến mạch thành các cụm, mọi người lại vội vã gặt lúa mỳ, cột thành lượm và xếp thành cụm. Làm việc với lúa mỳ thì khó hơn là với yến mạch, bởi vì cây lúa mỳ nặng hơn, nhưng Almanzo đã cố gắng hết mình để làm cho tốt. Rồi đến cánh đồng yến mạch xen canh với đậu Canada. Các dây đậu xoắn xít quanh cọng cây yến mạch nên không thể xếp yến mạch thành cụm. Almanzo xếp thành những luống dài.

Cũng đã đến lúc nhổ đậu trắng. Alice phải phụ giúp. Bố chở dây đậu ra đồng và đặt đứng lên, dùng vồ đập cho đậu rơi ra. Sau đó Bố và Royal chở các cụm ngũ cốc về trại, trong khi Alice và Almanzo nhổ đậu.

Đầu tiên hai chị em đặt những viên đá chung quanh các cọc đậu, để giữ cho hạt đậu không rơi xuống mặt đất. Rồi hai chị em nhổ đậu. Bằng hai tay, chúng nhổ lên cho đến khi tay không nắm thêm được nữa. Chúng mang các dây đậu đến các cọc và đặt rễ xuống sát cọc, trải các dây đậu dài ra trên các viên đá.

Chúng đặt từng lớp dây đậu quanh mỗi cọc. Rễ lớn hơn dây, thế nên đống dần dần cao lên ở giữa. Các dây quấn nhau, mang đầy những quả đậu kêu lục xục lạc xạc, rũ xuống chung quanh.

Khi rễ được chất lên đến ngọn cọc, Alice và Almanzo đặt các dây đậu lên trên cùng, tạo thành cái mái nhỏ để che mưa. Thế là xong ở cọc đậu ấy, và hai đứa bắt đầu một cọc đậu khác.

Các cọc cao bằng Almanzo, và các dây đậu phủ chung quanh cọc trông như vòng váy phồng của Alice.

Một ngày khi Alice và Almanzo đến bàn ăn thì thấy anh lái buôn bơ đã ở đấy. Mỗi năm anh đến từ Thành phố New York. Anh mặc loại quần áo thành phố sang trọng, với quả quýt đồng hồ cùng dây đeo, và điều khiển một đôi ngựa đẹp. Mọi người đều mến anh, và khi có anh thì bữa ăn chiều vui hẳn lên. Anh mang đến tin tức về chính trị và thời trang cũng như giá cả ở Thành phố New York.

Sau bữa ăn Almanzo trở lại với công việc, nhưng Alice ở lại xem Mẹ bán bơ.

Anh lái buôn bơ đi xuống tầng hầm, nơi trữ các chậu bơ được đậy bằng những tấm vải trắng sạch. Mẹ dở các tấm vải, và anh lái buôn bơ đẩy cây thử bơ bằng thép qua phiến bơ, xuống đến đáy chậu bơ.

Cây thử bơ rỗng, có một khe hở chạy dọc một bên. Khi rút cây thử bơ lên, trong khe hở là một mẫu bơ dài.

Mẹ không ra giá gì cả. Mẹ chỉ hãnh diện nói:

“Bơ của tôi tự nó chứng tỏ được.”

Không có mẫu bơ nào của Mẹ từ tất cả các chậu có đường sọc. Từ mặt trên cho đến đáy mỗi chậu, bơ của Mẹ đều đồng nhất một mầu vàng óng, cứng chắc, ngon ngọt.

Almanzo nhìn thấy anh lái buôn bơ đánh xe đi, và Alice nhảy nhót đến rẫy đậu, cầm chiếc mũ đung đưa qua dây cột. Cô kêu lên:

“Em đoán xem anh ấy đã làm gì!”

Almanzo hỏi: “Làm gì?”

“Anh ấy cho biết bơ của Mẹ thuộc loại tốt nhất mà anh chưa từng thấy ở bất kỳ nơi nào! Và anh trả cho Mẹ¾ Đoán xem anh trả bao nhiêu! Năm¾mươi¾cent¾một¾cân[S]!

Almanzo thấy ngạc nhiên lạ lùng. Cậu chưa nghe có giá bơ như thế bao giờ.

Alice nói: “Mẹ có năm trăm cân! Tức là hai trăm năm mươi đô la! Anh ấy trả hết số tiền này, và Mẹ đang thắng ngựa vào xe để mang đi gửi ngân hàng.”

Trong chốc lát Mẹ đã đánh xe đi, đội chiếc mũ đẹp thứ nhì và bộ áo may bằng vải chéo go đen. Mẹ đang đi đến thị trấn vào buổi chiều, ngày trong tuần giữa mùa thu hoạch. Mẹ chưa từng làm thế bao giờ. Vì Bố đang tất bật trên đồng, và Mẹ không muốn giữ số tiền ấy qua đêm trong nhà.

Almanzo cảm thấy hãnh diện. Có lẽ Mẹ là người làm ra loại bơ ngon nhất trong toàn Bang New York. Cư dân Thành phố New York sẽ được ăn loại bơ này, bảo nhau bơ ngon tuyệt, và tự hỏi ai đã làm ra.

Vụ mùa muộn

Bây giờ, vào ban đêm vầng trăng vụ mùa chiếu ánh vàng khắp các cánh đồng, và có cơn gió giá lạnh trong bầu không gian. Tất cả bắp đã được thu hoạch và xếp trong những cụm to. Vầng trăng in hình những bóng đen trên mặt đất nơi mà trước đây các quả bí đỏ nằm phơi mình trên đám lá úa.

Quả bí bón bằng sữa của Almanzo có kích thước khổng lồ. Cậu cẩn thận cắt quả bí này ra khỏi dây bí, nhưng không tài nào nhấc nổi nó lên; thậm chí cậu cũng không thể lăn quả bí đi được. Bố giúp nâng nó lên xe goòng rồi cẩn thận khuân vào trại, đặt nó lên một lớp cỏ khô để chờ đến khi Hội chợ Hạt mở ra.

Almanzo lăn tất cả những quả bí còn lại thành một đống, rồi Bố chở về trại. Những quả tốt nhất được trữ dưới tầng hầm để làm bánh bí, còn lại được chất trên Nền Trại-Nam. Mỗi ngày Almanzo dùng rựa cắt vài quả cho lũ bò và bê ăn.

Táo đã chín. Bố cùng Royal và Almanzo đặt những chiếc thang tựa vào các cây táo, rồi leo lên đến chóp tán lá. Ba người cẩn thận hái những quả táo hoàn hảo cho vào giỏ. Bố đánh xe goòng chầm chậm chở các giỏ táo về nhà, và Almanzo giúp mang các giỏ xuống tầng hầm, cẩn thận đặt các quả táo vào trong các thùng táo. Họ không làm cho quả táo nào bị trầy, vì một quả táo bị trầy sẽ làm thối cả thùng táo.

Tầng hầm bắt đầu tỏa mùi thơm của táo và các loại mứt. Các xoong sữa của Mẹ đã được mang lên tầng trên, trong gian bếp, cho đến khi mùa xuân trở lại.

Sau khi các quả táo hoàn hảo đã được thu hoạch là đến lúc Anh Royal và Almanzo lắc cây. Công việc này rất vui. Hai anh em mang hết sức mình để lắc các cây táo, và quả táo rơi rụng như mưa đá. Hai đứa nhặt các quả táo này rồi ném vào thùng xe goòng; táo loại này chỉ được dùng để làm nước táo lên men. Thỉnh thoảng Almanzo ăn một quả nếu cậu muốn.

Giờ là đến lúc thu hoạch hoa mầu trong vườn nhà. Bố đã chở táo đi nhà máy làm nước táo lên men, nhưng Almanzo phải ở nhà lo nhổ củ cải đường, củ cải tía, củ cải vàng rồi mang xuống tầng hầm. Almanzo nhổ hành và Chị Alice bện lá hành khô phía trên củ thành những dây dài. Những củ hành tròn treo dầy hai bên dây, và Mẹ treo trên gác mái. Almanzo nhổ các cây ớt rồi Chị Alice luồn sợi chỉ vào cây kim may vá của cô rồi xâu thành từng dây giống như chuỗi hạt. Các dây ớt này được treo kế các dây củ hành.

Tối hôm ấy, Bố trở về mang theo hai thùng to đựng nước táo lên men. Bố lăn hai thùng xuống tầng hầm. Có đủ nước táo lên men để dùng cho đến mùa táo năm sau.

Sáng hôm sau, gió lạnh thổi đến, mây làm mưa vần vũ trên nền trời xám. Bố lộ vẻ lo âu. Phải đào cà rốt và khoai tây cho nhanh.

Almanzo mang bít tất và giầy da đanh, cùng với mũ, áo choàng và găng tay, còn Alice choàng khăn trùm đầu và khăn quàng cổ. Cô sẽ phụ giúp.

Bố thắng hai con Bess và Beauty vào chiếc cày và xoay lưỡi cày hướng ra mặt ngoài mỗi bên của từng luống cà rốt. Làm như thế để dưới gốc các cây cà rốt chỉ còn là một luống đất hẹp, vì thế sẽ dễ nhổ cây cà rốt lên. Alice và Almanzo cố nhổ cà rốt thật nhanh, Royal cắt đi phần lá phía trên và ném củ vào thùng xe goòng. Bố chở củ cà rốt về nhà và đổ vào một máng dẫn xuống các thùng cà rốt dưới tầng hầm.

Những hạt nhỏ mầu đỏ mà Alice và Almanzo gieo xuống đất đã mọc thành hai trăm giạ cà rốt. Mẹ có thể làm các món cà rốt tùy thích, còn lũ ngựa và bò có ăn cà rốt suốt mùa đông.

Lazy John đến để phụ giúp đào khoai tây. Bố và John dùng cuốc để đào khoai tây, rồi Alice và Almanzo nhặt các củ khoai tây lên, cho vào giỏ, và đổ vào thùng xe goòng. Royal để lại một xe goòng rỗng trên đồng trong khi anh đánh một xe goòng chở đầy khoai tây về nhà, dùng xẻng xúc qua cửa sổ tầng hầm xuống các thùng khoai tây. Trong khi đó, ở ngoài đồng Alice và Almanzo đổ khoai tây mới đào vào xe goòng rỗng.

Mọi người ăn trưa vội vã rồi lại làm việc tiếp cho đến tối mới dừng tay. Nếu không đưa kịp khoai tây về tầng hầm trước khi mặt đất đóng băng thì tất cả công lao trên đồng khoai tây sẽ trở thành vô ích. Lúc ấy, Bố sẽ phải bỏ tiền ra mua khoai tây.

Bố nói: “Bố chưa từng thấy thời tiết như vậy vào mùa này trong năm.”

Sáng sớm hôm sau, trước khi mặt trời mọc mọi người lại phải làm việc. Mặt trời chẳng mọc gì cả. Những cụm mây xám dầy hạ thấp trên khung trời. Mặt đất lạnh, khoai tây lạnh, và một luồng gió lạnh như cắt thổi giật vào mắt Almanzo. Alice và cậu vẫn còn ngái ngủ. Hai chị em cố làm gấp rút, nhưng các ngón tay đã lạnh cóng khiến cho chúng lóng ngóng làm rơi khoai tây.

Alice nói: “Sống mũi chị lạnh quá. Ta có mũ che tai. Tại sao ta không có mũ che mũi?”

Almanzo nói với Bố hai chị em bị lạnh, và Bố bảo:

“Con trai à, làm nhanh lên. Vận động sẽ làm cho con ấm lại.”

Hai chị em cố gắng, nhưng quá lạnh nên không làm nhanh được. Khi Bố trở lại đào khoai tây gần Almanzo, Bố nói:

“Almanzo, con thu lá khoai tây khô đốt lên. Hai con sẽ được ấm.”

Thế là Alice và Almanzo nhặt cây khoai tây khô chất thành một đống to. Bố trao Almanzo một que diêm, và cậu châm lửa. Ngọn lửa nhỏ bén lấy một chiếc lá khô, rồi hồ hởi bén dọc một cọng, lách tách lan đi và cháy bùng lên không trung. Có vẻ như đống lửa làm cho cả cánh đồng ấm lại.

Hai chị em làm việc tất bật một lúc lâu. Mỗi khi Almanzo cảm thấy quá lạnh, cậu chạy đi chất thêm cây khoai tây khô lên ngọn lửa. Alice xòe hai bàn tay lấm bẩn ra để sưởi ấm, và ngọn lửa chiếu sáng trên khuôn mặt cô như ánh dương hồng.

Almanzo nói: “Em đói.”

Alice nói: “Chị cũng thế. Chắc gần đến giờ ăn trưa rồi.”

Almanzo không thể nhìn bóng trên mặt đất để đoán giờ, bởi vì không có ánh mặt trời. Hai chị em mải miết làm việc và làm việc mà vẫn chưa nghe tiếng tù và. Almanzo cảm thấy bụng rỗng không. Cậu nói với Chị Alice:

“Trước khi đến cuối luống này thì ta sẽ nghe tiếng tù và.”

Nhưng hai đứa chẳng nghe gì cả. Almanzo tin chắc có vấn đề gì đấy với chiếc tù và. Cậu nói với Bố:

“Con nghĩ đã đến giờ ăn trưa rồi.”

John cười lớn, và Bố nói:

“Mới gần đến giữa buổi sáng thôi, con trai à.”

Almanzo lại tiếp tục nhặt khoai tây. Rồi Bố gọi theo: “Almanzo, vùi khoai tây trong tro. Sẽ giúp con đỡ đói.”

Almanzo vùi hai củ khoai tây to dưới lớp tro nóng, một củ cho cậu và một củ cho Chị Alice. Cậu đùn tro nóng bỏng lên, rồi cho thêm cây khoai tây khô vào ngọn lửa. Cậu biết mình phải trở lại với công việc, nhưng cậu vẫn đứng trong hơi ấm dễ chịu, chờ cho hai củ khoai tây chín. Cậu không cảm thấy băn khoăn trong lòng, nhưng thấy ấm bên ngoài, và nhủ thầm:

“Mình phải ở đây để lo nướng khoai tây.”

Almanzo cảm thấy xấu hổ vì đang để cho Chị Alice làm việc một mình, nhưng lại nghĩ:

“Mình đang bận nướng khoai tây cho chị ấy.”

Thình lình Almanzo nghe một tiếng rít nhỏ, rồi có cái gì đấy đập vào mặt mình. Nó dính trên da mặt, nóng bỏng. Cậu hét và hét. Cậu thấy đau khủng khiếp, không mở mắt ra được.

Cậu nghe những tiếng kêu, và tiếng người chạy đến. Những bàn tay to giật lấy hai bàn tay cậu rời khỏi khuôn mặt, hai bàn tay của Bố nghiêng đầu cậu xuống. Lazy John đang nói tiếng Pháp lao xao, còn Alice đang khóc òa “Ôi, Bố ơi! Ôi, Bố ơi!”

Bố gọi: “Mở mắt ra, con trai.”

Almanzo cố mở mắt, nhưng chỉ một bên mắt mở được. Ngón cái của Bố vạch mi mắt bên kia ra, làm cho cậu đau. Bố nói:

“Không sao đâu. Mắt không bị thương.”

Một củ khoai tây đang nướng đã phát nổ, phần bột khoai nóng bỏng bên trong củ đã bắn vào mặt Almanzo. Nhưng mi mắt đã khép lại kịp thời. Chỉ có mi mắt và má bị bỏng.

Bố cột chiếc khăn tay của ông qua con mắt, rồi ông và Lazy John trở lại với công việc.

Almanzo chưa từng biết cái gì làm cậu đau như vết bỏng này. Nhưng cậu nói với Chị Alice rằng mình không đau – không đau lắm. Cậu lấy một cây gậy để đào củ khoai kia ra khỏi lớp tro.

Cậu khụt khịt nói: “Em nghĩ đây là củ khoai của chị.” Cậu không khóc; chỉ có nước mắt chảy xuống bên trong mũi.

Alice nói: “Không, đấy là củ khoai của em. Củ khoai của chị đã nổ.”

Almanzo hỏi: “Làm thế nào chị biết củ khoai nào là của ai?”

Alice nói: “Đấy là củ khoai của em vì em bị đau. Chị không đói, dù sao cũng không đói lắm.”

Almanzo nói với Chị Alice: “Chị cũng đói như em vậy.” Cậu không muốn ích kỷ nữa. “Chị ăn phân nửa, còn em ăn phân nửa.”

Củ khoai tây cháy đen bên ngoài, nhưng bên trong trắng xốp, tỏa ra mùi khoai tây nướng ngon lành nhất. Hai chị em chờ cho củ khoai nguội một chút rồi gặm từ bên trong trở ra lớp vỏ đen. Đấy là củ khoai tây ngon nhất mà hai đứa từng ăn. Hai đứa cảm thấy dễ chịu hơn và trở lại với công việc.

Da mặt Almanzo phồng rộp và con mắt bị sưng đến nhắm híp lại. Nhưng đến trưa Mẹ đắp ít thuốc lên, rồi đến đêm lại đắp thuốc, và qua ngày hôm sau Almanzo không còn thấy đau nhiều.

Đến tối ngày thứ ba, Alice và Almanzo đi theo chuyến xe goòng cuối cùng chở khoai tây về nhà.

Tiết trời trở lạnh thêm từng phút. Bố xúc khoai tây vào tầng hầm bên ánh sáng đèn lồng, trong khi Anh Royal và Almanzo làm tất cả công việc trang trại.

Gia đình vừa kịp lúc cứu lấy vụ mùa khoai tây. Chính vào đêm hôm ấy, mặt đất đóng băng.

Mẹ nói: “Nếu lỡ sai một li thì đi một dặm.” Nhưng Bố lắc đầu.

Bố nói: “Nhiều rủi ro quá. Vấn đề kế tiếp sẽ là tuyết rơi. Ta phải gấp rút che đậy đậu và bắp.”

Bố đặt thùng đựng cỏ lên xe goòng; Royal và Almanzo phụ giúp mang đậu lên. Hai cậu kéo các cọc đậu lên và đặt vào xe goòng, cả đậu lẫn mọi thứ khác. Hai cậu làm việc cẩn thận, bởi vì nếu xe goòng rung mạnh thì hạt đậu có thể rơi ra khỏi quả đậu khô và thế là bị mất.

Sau khi đã chất đống tất cả đậu trên Nền Trại-Nam, hai cậu giúp chở các cụm bắp. Vụ mùa bội thu tốt đến nỗi ngay cả các mái che rộng của Bố vẫn không thể che hết tất cả nông sản. Phải để một số cụm bắp ngoài sân chuồng, và Bố đặt một hàng rào chung quanh để ngăn chặn đàn bò trẻ.

Bây giờ tất cả đã được thu hoạch xong xuôi. Tầng hầm, gác mái và các kho chứa đều chất đầy đến mức hầu như có thể vỡ tung ra. Thực phẩm cho người và thức ăn cho tất cả gia súc được trữ đầy ắp cho mùa đông.

Mọi người có thể thảnh thơi một thời gian, và được vui chơi ở Hội chợ Hạt.

Hội chợ Hạt

Một buổi sáng sớm phủ sương giá, mọi người lên đường đi dự Hội chợ. Tất cả đều ăn vận trong bộ trang phục Chủ Nhật ngoại trừ Mẹ. Bà mặc bộ trang phục đẹp thứ hai và mang theo tạp dề, vì bà sẽ phụ giúp chuẩn bị bữa ăn chính tại nhà thờ.

Dưới băng ghế sau của cỗ xe là chiếc hộp đựng các món thạch, dưa và mứt mà Eliza Jane và Alice đã làm để trưng bày trong Hội chợ. Alice cũng mang theo các món đan len. Riêng quả bí đỏ được bón bằng sữa của Almanzo đã được mang đi hôm trước.

Quả bí quá to nên không thể chở trên cỗ xe ngựa này. Almanzo đã cẩn thận đánh bóng nó, rồi Bố giúp đưa lên xe goòng và lăn nó lên một lớp cỏ khô mềm, chở đi đến Khu Hội chợ và giao cho Ông Paddock. Ông Paddock là người phụ trách những việc như thế.

Sáng nay, đường sá nhộn nhịp những người đánh xe đến Hội chợ. Ở Malone, đám đông còn nhiều người hơn so với Ngày Độc lập. Chung quanh Khu Hội chợ đầy dẫy những xe goòng chở hàng và xe ngựa chở người. Người đông chen chúc nhau như nêm cối. Cờ xí đang tung bay; nhạc đang trỗi vang.

Mẹ cùng Anh Royal và các chị xuống xe ở Khu Hội chợ, còn Almanzo đi cùng Bố đến ô chuồng nhà thờ, rồi phụ giúp tháo đôi ngựa ra. Các ô chuồng đều đầy. Dọc theo các vỉa hè, từng dòng người trong những bộ trang phục đẹp nhất đang đi về phía Hội chợ, trong khi các cỗ xe chạy ngược xuôi trên các con đường, tung lên từng đám mây bụi.

Bố hỏi: “Này, con trai, chúng ta sẽ làm gì trước tiên?”

Almanzo đáp: “Con muốn xem mấy con ngựa.” Thế là Bố nói hai bố con đi xem ngựa trước.

Bây giờ mặt trời đã lên cao; trời trong và ấm dễ chịu. Từng dòng người đang đổ về Khu Hội chợ, cười cười nói nói vang lừng, trong khi ban nhạc đang tấu lên những âm điệu rộn ràng. Những cỗ xe đến và đi; các ông dừng lại trò chuyện với Bố, và các cậu con trai hiện diện khắp cùng. Frank đi cùng mấy đứa con trai thị trấn; Almanzo trông thấy Miles Lewis và Aaron Webb. Nhưng cậu vẫn ở bên cạnh Bố.

Hai bố con đi chầm chậm qua mặt sau cao của khán đài chính, và đi qua tòa nhà thấp, dài của nhà thờ. Đấy không phải là phần chính của nhà thờ, mà là nhà bếp của nhà thờ và phòng ăn ở Khu Hội chợ. Tiếng ồn của tô đĩa, tiếng loảng xoảng của xoong nồi và tiếng phụ nữ ríu rít vọng ra từ đấy. Mẹ và hai chị ở đâu đó bên trong.

Kế tiếp là một dãy những gian hàng và lều trại, tất cả đều sặc sỡ với cờ xí và hình ảnh đủ mầu, và tiếng người rao:

“Mời vào, mời vào, chỉ có mười cent, một phần mười đô la.”

“Cam đây, cam đây, cam Florida ngon ngọt!”

“Trị đủ mọi chứng bệnh cho người và thú!”

“Đại hạ giá! Đại hạ giá!”

“Lần chót, các cậu, đặt tiền vào! Xin lui ra, đừng chen lấn!”

Một gian hàng gồm một rừng những cây cọc mang sọc trắng-đen. Nếu bạn có thể ném một vòng vào một cọc thì bạn có được cọc ấy. Có những đống cam, những khay bánh gừng, và những chậu nước chanh. Có một ông mặc áo đuôi tôm và đội chiếc mũ cao sáng bóng, đặt một hạt đậu dưới một vỏ sò rồi trả tiền cho người nào nói được hạt đậu ở đâu.

Almanzo nói: “Bố ạ, con biết nó ở đâu.”

Bố hỏi: “Con chắc chứ?”

Almanzo đáp, lấy tay chỉ: “Vâng. Ở dưới cái đó.”

Bố nói: “À, con trai, ta cứ chờ xem.”

Đúng lúc ấy, một người đàn ông lách ra khỏi đám đông rồi đặt một tờ năm đô la kế bên các vỏ sò. Có ba vỏ sò. Người đàn ông chỉ vào vỏ sò mà Almanzo đã chỉ.

Người đàn ông đội mũ cao nhấc lên vỏ sò. Không có hạt đậu dưới vỏ sò ấy. Ngay lập tức ông ta nhặt lấy tờ năm đô la cho vào túi áo đuôi tôm, và ông lại cho xem hạt đậu rồi đặt nó xuống một vỏ sò khác.

Almanzo không hiểu được. Cậu đã thấy hạt đậu dưới vỏ sò ấy, và rồi nó không có ở đó. Cậu hỏi Bố người đàn ông đã làm như thế nào.

Bố đáp: “Bố không biết, Almanzo à. Nhưng ông ấy biết. Đấy là cái trò của ông ấy. Không bao giờ đặt cược tiền của con cho trò của người khác.”

Hai bố con đi tiếp đến khu gia súc. Đám đông các ông và các cậu con trai dẫm đạp lên mặt đất thành lớp bụi dầy. Không khí ở đây yên ắng.

Bố và Almanzo ngắm nhìn hồi lâu những con ngựa đẹp dòng Morgan với bộ lông hồng, nâu nhạt hoặc nâu sẫm, với đùi dẹt và thon, cẳng chân nhỏ gọn. Các con Morgan lúc lắc cái đầu nhỏ, mắt thì hiền và sáng. Almanzo chăm chú nhìn các con ngựa này, và không có con nào tốt hơn hai ngựa non Bố đã bán vào mùa thu rồi.

Bố và cậu lại nhìn qua những con thuần chủng, với thân dài, cổ mỏng và mông thon gọn. Các con thuần chủng tỏ ra nóng nảy; vành tai lay động, mắt trợn trừng. Trông chúng nhanh nhẹn hơn dòng Morgan, nhưng không dai sức bằng.

Kế tiếp là ba con ngựa to, đốm nâu. Mông của chúng tròn và cứng chắc, cổ dầy, chân nặng. Lớp lông dài rậm che giấu chân to. Đầu của chúng thật to, mắt im lìm và hiền hòa. Almanzo chưa từng thấy ngựa nào như thế.

Bố cho biết những con ngựa này là dòng Bỉ, đến từ một nước gọi là Bỉ, ở Châu Âu. Bỉ nằm kế nước Pháp, và Pháp đã mua những con ngựa dòng này rồi chở qua Canada. Bây giờ ngựa Bỉ đang được mang từ Canada vào Mỹ. Bố rất ngưỡng mộ các con ngựa này. Ông nói:

“Hãy nhìn bắp cơ ấy! Chúng kéo được cả một khu chuồng, nếu được cột vào khu chuồng ấy.”

Almanzo hỏi Bố:

“Một con ngựa kéo được khu chuồng thì ích lợi gì? Chúng ta không muốn kéo một khu chuồng. Một con ngựa Morgan đã có đủ cơ bắp để kéo một xe goòng, và cũng chạy đủ nhanh để kéo một xe chở người.”

Bố nói: “Con nói đúng, con trai!” Bố nhìn các con ngựa to một cách tiếc rẻ, và lắc đầu. “Nếu nuôi ăn tất cả các bắp cơ ấy thì là việc uổng phí, vì chúng ta không cần đến mức ấy. Con nói đúng.”

Almanzo cảm thấy mình quan trọng và trưởng thành, vì đã thảo luận về ngựa với Bố.

Khi đi qua khỏi các con ngựa Bỉ, một đám đàn ông con trai chen nhau đông đúc quanh một chuồng đến nỗi ngay cả Bố vẫn không thể nhìn đấy là con vật gì. Almanzo tách ra khỏi Bố, luồn lách và uốn mình giữa các cặp đùi cho đến lúc cậu đi đến các thanh ngang của chuồng.

Bên trong là hai con thú đen. Cậu chưa bao giờ thấy con thú nào như thế. Chúng trông tương tự như ngựa, nhưng không phải ngựa. Đuôi trần trụi, chỉ có một dúm lông ở chót đuôi. Lông bờm ngắn và cứng, dựng thẳng lên. Vành tai trông giống vành tai thỏ, dựng đứng. Còn mặt lại dài, hốc hác. Trong khi Almanzo đang nhìn, một trong các con thú dõng tai về phía cậu và vươn cổ ra.

Gần kề đôi mắt đang mở to của Almanzo là đầu mũi nhăn nhó và hai môi cong lại, để lộ ra những cái răng dài vàng ởn. Almanzo không thể cử động. Con thú chầm chậm mở miệng dài, đầy nanh, và từ cổ họng gầm lên một tràng chát chúa.

“Êêêêêêêêêê, o! Hêêêêêêê, Ho-o!”

Almanzo kêu thét lên rồi quay đầu, húc phải người này, cào lưng người kia, lấn qua người nọ để chạy về phía Bố. Khi hoàn hồn, cậu đã chạy đến bên Bố, và mọi người đang nhìn cậu mà cười lớn. Chỉ có Bố là không cười.

Bố nói: “Con trai, đấy chỉ là con ngựa lai. Con la đầu tiên con từng thấy. Con cũng không phải là người duy nhất thấy sợ.” Bố nhìn quanh đám đông.

Almanzo cảm thấy dễ chịu hơn khi nhìn những con ngựa trẻ. Chúng được hai tuổi, một tuổi, và cũng có một số con non đang ở bên mẹ. Almanzo chăm chú nhìn đám ngựa, rồi cuối cùng nói:

“Bố ạ, con ước gì…”

Bố hỏi: “Gì thế, con trai?”

“Bố ạ, không có con ngựa non nào ở đây bì được với Starlight. Có thể nào Bố dẫn Starlight đến dự thi tại hội chợ năm tới không?”

Bố nói: “Ừ, ừ. Đến năm tới ta sẽ xem sao.”

Rồi hai bố con đến xem bò. Có những dòng bò Guernsey và Jersey mầu rơm, đến từ những đảo có tên Guernsey và Jersey, gần bờ biển nước Pháp. Hai bố con xem các dòng Devon có lông mầu đỏ nhạt và dòng Durham mầu xám đến từ Anh quốc. Hai bố con xem những con bò đực non và bò một tuổi, có một số tốt hơn hai con Star và Bright. Hai bố con xem những con bò làm việc lực lưỡng.

Almanzo vẫn luôn nghĩ rằng nếu Bố mang Starlight đến Hội chợ thì chắc chắn Starlight sẽ đoạt giải.

Rồi hai bố con nhìn qua những con lợn dòng Chester White, và lợn dòng Berkshire da mịn hơn, thân nhỏ hơn, mầu đen. Con lợn Lucy của Almanzo thuộc dòng Chester White. Cậu nhất quyết một ngày nào đấy mình sẽ có một con dòng Berkshire.

Hai bố con nhìn qua những con cừu dòng Merino. Cũng giống như cừu Merino của Bố, những con ở đây có da nhăn nhúm, thân người ngắn, len mịn tốt. Rồi hai bố con nhìn đến dòng cừu Cotswold có thân hình lớn hơn, len dài hơn nhưng thô hơn. Bố đã mãn nguyện với đàn cừu Merino của mình; ông thà thu hoạch ít len nhưng len có chất lượng tốt hơn, để Mẹ dệt.

Đến lúc này thì đã giữa trưa, và Almanzo vẫn chưa thấy quả bí đỏ của mình. Nhưng cậu đã đói, nên hai bố con đi ăn.

Nhà ăn ở nhà thờ đã đông người. Các bàn dài đều có người chiếm chỗ. Hai chị Eliza Jane và Alice đang vội vã cùng với các cô gái khác mang những đĩa đựng đầy thức ăn từ nhà bếp ra. Mùi thức ăn thơm ngon khiến cho Almanzo chảy nước bọt.

Bố đi vào nhà bếp, và Almanzo vào theo. Nhà bếp đầy phụ nữ đang vội vã thái thịt đùi lợn luộc và thịt bò nướng, xẻ thịt gà nướng và múc rau cải ra. Mẹ mở lò nướng trong bếp nướng khổng lồ để mang món gà tây nướng và vịt nướng ra.

Ba thùng to được dựng sát tường, các ống sắt dài dẫn từ nồi nấu nước trên bếp đi xuống các thùng bày. Hơi nước bốc ra từ mọi kẽ hở của thùng. Bố mở nắp một thùng, và một đám mây hơi nước bốc lên. Almanzo nhìn vào bên trong thùng, thấy đầy những củ khoai tây với vỏ nâu sạch, đang bốc hơi nghi ngút. Khi không khí bên ngoài thổi vào, lớp vỏ khoai nứt ra và cong lại.

Chung quanh Almanzo đầy những bánh ngọt, bánh trái cây đủ loại, và cậu đói cồn cào đến mức muốn ăn hết tất cả. Nhưng cậu thậm chí không dám bốc lấy một mảnh nhỏ.

Cuối cùng hai bố con tìm được chỗ trống ở một bàn dài trong phòng ăn. Mọi người đều vui, hào hứng cười nói, nhưng Almanzo chỉ ngồi ăn. Almanzo dùng các món đùi lợn muối, gà, gà tây, thạch nan việt quất; cậu dùng khoai tây rưới nước sốt, món ngô đậu, bánh mỳ trắng và bánh mỳ yến mạch đen, vài loại mứt. Rồi cậu hít mạnh một hơi mà dùng qua món bánh táo.

Khi bắt đầu dùng miếng bánh táo, Almanzo ước gì mình đã không dùng món gì khác. Cậu đã dùng một miếng bánh bí đỏ, một miếng bánh sữa trứng, và gần trọn một miếng bánh dấm. Cậu đã thử một miếng bánh thịt băm, nhưng ăn không hết. Bụng cậu không chứa nổi nữa. Lại còn có bánh dâu dại, bánh kem và bánh nho, nhưng cậu không thể nào ăn thêm được nữa.

Cậu lấy làm vui được ngồi kế bên Bố trên khán đài chính. Hai bố con dõi xem những con ngựa phi nước kiệu để hâm nóng bầu không khí cho các cuộc đua. Từng luồng bụi hồng tung lên trong ánh nắng phía sau các xe ngựa một chỗ ngồi hai bánh. Ở bên lề đường đua, Royal ủng hộ các cậu con trai lớn khi đánh cược với những người khác về cuộc đua.

Bố bảo nếu cậu muốn thì cứ đánh cược trong các cuộc đua.

Bố nói: “Thắng thì cũng đáng với tiền con bỏ ra, nhưng phần Bố muốn có những gì thực chất hơn với tiền Bố bỏ ra.”

Khán giả đi lên khán đài chính cho đến khi không còn ghế trống. Các xe ngựa một chỗ ngồi hai bánh sắp thành hàng; các con ngựa lúc lắc đầu, dậm vó, nôn nóng chờ lệnh xuất phát. Almanzo phấn khích đến nỗi không thể ngồi yên. Cậu đã đặt cược cho con ngựa cậu nghĩ sẽ thắng, một con ngựa thuần chủng thanh mảnh mầu nâu nhạt.

Có ai đấy la lên. Các con ngựa đồng loạt phóng đi dọc đường đua; đám đông cuồng nhiệt hò hét. Rồi mọi người ngừng bặt, trong nỗi kinh ngạc.

Một người Da đỏ đang chạy trên đường đua theo sau các xe ngựa kéo hai bánh. Anh ta chạy nhanh ngang bằng với ngựa.

Nhiều người bắt đầu la lên. “Anh ta không thắng được!” “Cược hai đô anh ta bám theo được!”  “Con hồng! Con hồng! Cố lên, cố lên!”  “Cược ba đô cho anh Da đỏ!”   “Xem con nâu kìa!”  “Xem anh Da đỏ này!”

Bụi bay mù mịt ở phía bên kia đường đua. Các con ngựa chạy như bay, thân người căng ra khỏi mặt đất. Cả đám đông đứng lên, hò hét cổ vũ. Almanzo cũng hò hét. Từ dưới đường đua, các con ngựa đang chạy đến. “Cố lên, cố lên! Con hồng! Con hồng!

Dua ngua (2 hinh ghep)

Đoàn đua phóng qua quá nhanh nên không ai trông thấy rõ. Theo sau là người Da đỏ, vẫn chạy đều. Đến trước khán đài chính, anh nhảy cao lên trên không, tung người nhào lộn rồi đứng giơ tay phải chào khán giả.

Khán đài chính rung chuyển vì tiếng hò hét và dậm chân. Ngay cả Bố cũng hô lên: “Hoan hô! Hoan hô!”

Người Da đỏ đã chạy một dặm ấy trong trong hai phút bốn mươi giây, ngang bằng với con ngựa chiến thắng. Thậm chí anh không thở hào hển. Một lần nữa anh đưa tay chào khán giả đang hoan hô, rồi đi ra khỏi đường đua.

Con ngựa hồng đã thắng cuộc đua.

Còn có thêm những cuộc đua nữa, nhưng chẳng bao lâu đã ba giờ, đến lúc phải về nhà. Không khí trên đường về nhà hôm ấy thật hào hứng, bởi vì có quá nhiều chuyện cần kể cho nhau nghe. Anh Royal đã ném thành công một chiếc vòng và được một cây kẹo có sọc trắng-đen. Alice đã tiêu năm xu để mua kẹo bạc hà. Cô bẻ thỏi kẹo in sọc làm hai, và mỗi đứa có một mảnh kẹo để mút chầm chậm.

Điều có vẻ lạ lùng là đi về nhà chỉ để làm công việc trang trại và ngủ. Sáng sớm hôm sau, gia đình lại đi thị trấn. Hội chợ còn mở hai ngày nữa.

Sáng hôm ấy, Bố và Almanzo đi nhanh qua các gian hàng triển lãm rau và ngũ cốc. Almanzo nhanh chóng nhận ra các quả bí đỏ. Các quả bí này sáng rỡ ánh vàng giữa những sản phẩm trưng bầy khác có mầu sắc mờ xỉn. Và ở đây có quả bí đỏ của Almanzo, là quả to nhất.

Bố nói: “Con trai à, đừng quá chắc chắn sẽ đoạt giải. Kích cỡ không được đánh giá cao bằng chất lượng.”

Almanzo cố tỏ ra mình không quá quan tâm đến giải thưởng. Cậu đi theo Bố rời khỏi gian triển lãm bí đỏ, nhưng vẫn chẳng đặng đừng mà thỉnh thoảng ngoái nhìn quả bí của mình. Cậu cũng thấy những loại rau củ: khoai tây, củ cải đỏ, củ cải trắng, củ cải Thụy Điển, và củ hành. Tay cậu vọc vào những hạt lúa mỳ nâu tròn, những hạt yến mạch nhạt mầu có khía, những hạt đậu Canada, đậu trắng, và đậu đốm. Cậu nhìn những quả bắp trắng, bắp vàng, và bắp đỏ-trắng-lam. Bố chỉ cho cậu thấy các hạt phát triển đầy đặn ra sao trên quả bắp tốt nhất, và còn phát triển đến tận chóp lõi.

Nhiều người chầm chậm đi lên xuống, ngắm nhìn, và Almanzo ước gì họ biết rằng quả bí to nhất là của mình.

Sau bữa ăn, cậu vội vã quay lại để xem việc chấm điểm. Người xem bây giờ đông hơn trước; đôi lúc Almanzo phải tách ra khỏi Bố và len lỏi giữa đám đông để xem ban giám khảo đang làm gì. Ba vị giám khảo mang huy hiệu trên ve áo; nét mặt họ trông nghiêm nghị, họ thấp giọng trao đổi với nhau nên không ai nghe họ nói gì.

Ba giám khảo thăm dò sức nặng của ngũ cốc trên vốc tay, và xem xét cẩn thận. Họ nhai ít hạt lúa mỳ và yến mạch để đánh giá hương vị. Họ bóp vỡ hạt đậu các loại, và lột vỏ ít hạt bắp để xem phần bột hạt bắp bên trong ra sao. Họ dùng dao xếp cắt các củ hành và củ khoai tây ra làm đôi. Họ lạng ra những lát khoai tây thật mỏng rồi soi dưới ánh sáng. Phần ngon nhất của khoai tây ở ngay dưới lớp vỏ, và bạn có thể xem phần này dầy bao nhiêu, nếu bạn cầm một lát khoai tây thật mỏng dưới ánh sáng để nhìn qua lát này.

Đám người đông nhất đang tụ họp chung quanh bàn của ban giám khảo, và quan sát mà không nói năng gì. Không có một tiếng động khi cuối cùng một vị giám khảo cao và gầy với bộ râu dưới cằm rút ra từ túi áo của ông một dải ruy băng đỏ và một dải ruy băng lam. Ruy băng đỏ dành cho giải nhì, còn ruy băng lam dành cho giải nhất. Vị giám khảo đặt các ruy băng lên các sản phẩm rau củ đoạt giải, và đám đông thở ra một tiếng rõ dài.

Rồi mọi người đồng loạt cất tiếng bàn tán. Almanzo thấy những người không đoạt giải và những người đoạt giải nhì đều chúc mừng những người đoạt giải nhất. Nếu quả bí đỏ của cậu không đoạt giải thì cậu sẽ làm thế. Cậu không muốn tí nào, nhưng nghĩ mình cũng phải chúc mừng người đoạt giải.

Cuối cùng, ba vị giám khảo tiến đến các quả bí đỏ. Almanzo ra vẻ như mình chẳng quan tâm nhiều, nhưng toàn thân cậu đã nóng ran.

Ban giám khảo phải chờ cho đến khi ông Paddock mang đến một con dao to, bén của hàng thịt. Vị giám khảo to béo nhất cầm lấy con dao rồi ra hết sức lực đâm vào một quả bí đỏ. Ông cầm chặt cán dao bổ ra một miếng bí dầy. Ông giơ miếng bí lên, và cả ba giám khảo xem xét phần thịt dầy mầu vàng của quả bí. Họ xem qua chiều dầy của lớp vỏ và phần rỗng chứa hạt. Họ cắt lấy những mảnh nhỏ để nếm.

Sau đó vị giám khảo to béo cắt một quả bí đỏ khác. Ông đã bắt đầu với quả bí nhỏ nhất. Đám đông lấn chặt lấy Almanzo. Cậu phải mở miệng để thở.

Cuối cùng, vị giám khảo cắt quả bí của Almanzo. Cậu cảm thấy chóng mặt. Quả bí cậu có phần ruột lớn, nhưng đấy chỉ vì nó là quả bí to; nó có rất nhiều hạt. Thịt quả bí của Almanzo có mầu hơi nhạt hơn các quả bí khác. Almanzo không biết mầu có được chấm điểm hay không. Ba giám khảo nếm quả bí của Almanzo; nhìn vẻ mặt của họ cậu không thể biết họ nhận ra hương vị như thế nào.

Ba giám khảo trao đổi với nhau một hồi lâu. Almanzo không thể nghe họ nói gì. Vị giám khảo cao gầy lắc đầu, tay vân vê chòm râu. Ông cắt một lát từ quả bí vàng nhất và một lát từ quả của Almanzo, rồi nếm cả hai lát. Ông trao hai lát bí cho vị giám khảo to béo, và người này cũng nếm. Vị giám khảo to béo nói điều gì đấy, và cả ba giám khảo cùng cười.

Ông Paddock nghiêng người trên chiếc bàn và nói:

“ Chào anh Wilder. Tôi thấy anh và cậu bé đã trông thấy hết sự việc. Này Almanzo, có vui không?”

Almanzo khó nói ra lời lẽ thông suốt. Cậu chỉ có thể đáp ngắn gọn: “Vâng, thưa ông.”

Vị giám khảo cao gầy rút ra từ túi áo một dải ruy băng đỏ và một dải ruy băng lam. Vị giám khảo to béo nắm lấy tay áo ông, rồi ba giám khảo chụm đầu lại với nhau mà bàn bạc.

Vị giám khảo cao gầy chầm chậm quay người. Ông chầm chậm rút một chiếc kim từ ve áo và xuyên qua dải ruy băng lam. Ông không đứng gần quả bí của Almanzo lắm. Ông không ở khoảng cách gần để với tay đến được. Ông giơ dải ruy băng lam ra, phía trên một quả bí khác. Ông cúi người, chầm chậm vươn cánh tay, rồi cắm chiếc kim lên quả bí của Almanzo.

Bố vỗ bàn tay lên vai Almanzo. Lập tức Almanzo có thể lấy lại hơi thở, và cậu cảm thấy người như chộn rộn cả lên. Ông Paddock đang bắt lấy tay cậu. Cả ba vị giám khảo đều mỉm cười. Lại thêm nhiều người ngỏ lời chúc mừng: “Tốt, tốt, Ông Wilder, thế là con trai ông đoạt giải nhất!”

Ông Webb nói: “Almanzo à, đấy là quả bí rất tốt. Tôi chưa từng thấy một quả bí đoạt giải to đến thế.”

Ông Paddock nói: “Tôi chưa từng thấy quả bí nào to bằng. Này Almanzo, làm thế nào cậu chăm sóc quả bí cho nó lớn đến thế?”

Thình lình mọi vật có vẻ như choáng ngợp và thật tĩnh lặng. Almanzo cảm thấy như lạnh cả thân, người thu nhỏ lại, và kinh sợ. Trước đây, cậu đã không nghĩ ra rằng đoạt giải nhất cho một quả bí bón bằng sữa là không công bằng. Có lẽ giải thưởng chỉ dành cho cách chăm sóc quả bí theo cách thông thường. Có lẽ nếu cậu nói ra sự thật, họ sẽ thu hồi giải thưởng của cậu. Họ có thể bảo cậu đã tìm cách gian lận.

Cậu nhìn qua Bố, nhưng vẻ mặt của Bố không cho biết cậu phải trả lời ra sao.

Cậu ấp úng: “Cháu… cháu chỉ… cháu giẫy cỏ thường xuyên, và…” Rồi cậu biết mình đang định nói dối. Bố sẽ nghe cậu nói dối. Cậu nhìn lên Ông Paddock và nói tiếp: “Cháu bón nó bằng sữa. Nó là quả bí được nuôi bằng sữa. Liệu như thế¾ có được không ạ?”

Ông Paddock: “Được, được mà.”

Bố cười to: “Nghề nào cũng có bí quyết ngoại trừ nghề của chúng ta, Paddock à. Có lẽ cũng có một ít bí quyết trong nghề trồng trọt và đóng xe goòng, phải không?”

Thế là Almanzo hiểu ra mình đã ngốc nghếch đến thế nào. Bố đã biết tất cả về vụ việc bí đỏ, và Bố không muốn gian lận.

Sau đấy, cậu đi cùng Bố giữa các đám đông. Hai bố con lại đi xem ngựa, và con ngựa non chiếm giải nhất không tốt bằng Starlight. Almanzo thực lòng muốn năm tới Bố mang Starlight đến Hội chợ. Rồi hai bố con đi xem cuộc thi đi bộ, thi nhảy, và thi ném. Bọn con trai thị trấn Malone cũng dự thi nhưng bọn con trai nông thôn thắng, hầu như lần nào cũng thế. Almanzo vẫn nhớ mãi về quả bí đỏ đoạt giải của mình và rất lấy làm vui.

Trên chuyến trở về, ai cũng vui. Món nữ công làm bằng len của Alice đoạt giải nhất, còn các món mứt thì Eliza Jane có ruy băng đỏ và Alice có ruy băng lam. Bố bảo ngày hôm nay cả gia đình Wilder đều làm rạng danh chính mình.

Hội chợ còn mở một ngày nữa, nhưng không còn vui lắm. Almanzo đã mệt mỏi vì thời gian vui chơi. Ba ngày vui chơi là quá nhiều. Có vẻ như không phải phép nếu lại lo ăn mặc cho đẹp và bỏ bê trang trại. Cậu thấy bứt rứt trong giờ làm công việc quét dọn nhà cửa. Cậu lấy làm vui khi Hội chợ qua đi và mọi việc trở lại bình thường.

Mùa thu

Lúc ăn sáng, Bố nói: “Gió bấc thổi và mây kéo đến. Ta nên đi nhặt quả sồi trước khi tuyết rơi.”

Các cây sồi mọc trong khu rừng gỗ, cách con đường hơn ba cây số, nhưng chỉ cách các cánh đồng không tới một cây số. Ông Webb là người láng giềng tốt bụng đã cho phép Bố đánh xe xuyên qua đất của ông.

Royal và Almanzo đội mũ và mặc áo chống lạnh, còn Alice mặc bộ áo choàng không tay và đội mũ trùm đầu. Bốn bố con đi xe goòng để nhặt quả sồi.

Khi xe đến một hàng rào xây bằng đá, Almanzo mở cổng cho xe goòng chạy qua. Cánh đồng trồng cỏ bây giờ trơ trụi; tất cả đã được thu hoạch và trữ trong trại nên họ có thể để cổng mở cho đến chuyến trở về mới cần đóng lại.

Trong khu rừng sồi tất cả lá vàng đã rụng. Lá làm thành một lớp dầy trên mặt đất, dưới những thân cây thanh mảnh và cành trơ trụi. Các quả sồi đã rụng sau lá, nên bây giờ nằm trên lớp lá. Bố và Royal dùng chĩa cẩn thận nhấc lớp lá có nhiều quả sồi bên trên và đưa vào thùng xe. Alice và Almanzo đi tới lui trong thùng xe dậm cho lá ép xuống để có thêm khoảng trống.

Khi thùng xe đã đầy, Royal đánh xe cùng với Bố đi về trại, nhưng Alice và Almanzo ở lại chơi đùa cho đến khi xe goòng quay lại.

Một cơn gió lạnh thổi qua; ánh mặt trời chiếu xuống mù mờ. Các con sóc chạy nhảy đây đó, thu thập các quả hạch mang về tổ dự trữ cho mùa đông. Cao trên bầu trời, đàn vịt hoang dã đang kêu oang oác trên đường bay về vùng trú đông phương nam. Đấy là một ngày tuyệt vời để diễn trò chơi người Da đỏ hoang dã, giữa những cội cây.

Khi đã chán trò chơi người Da đỏ, Almanzo cùng Alice ngồi trên một thân gỗ mục, cắn quả sồi ra ăn. Quả sồi nhỏ mầu nâu sáng có ba góc, nhưng bên trong đầy thịt của quả. Hương vị quả sồi thơm ngon nên ai ăn cũng không thấy chán. Ít nhất thì Almanzo không bao giờ thấy chán ăn quả sồi trong khi chờ xe goòng quay lại.

Sau đó Alice và Almanzo lại dậm cho lá sồi ép xuống trong thùng xe, trong khi hai cây chĩa của Bố và Royal làm cho khoảnh đất trơ trụi rộng hơn và rộng hơn nữa.

Phải mất gần cả ngày mới thu được hết các quả sồi. Dưới ánh sáng chạng vạng lạnh lẽo Almanzo giúp đóng cánh cổng đá phía sau cỗ xe mang nặng chuyến cuối cùng. Tất cả quả sồi trong đống lá tạo thành một đống lớn trên Nền Trại-Nam, bên cạnh máy quạt lúa.

Tối hôm ấy Bố cho biết họ đã thấy mùa hè Da đỏ cuối cùng.

Bố bảo: “Tuyết sẽ rơi đêm nay.” Y như rằng, sáng hôm sau Almanzo thức dậy thấy bầu không khí mang phong cảnh trời tuyết, và từ cửa sổ cậu thấy mặt đất và mái các trại đã phủ tuyết trắng xóa.

Bố lấy làm vui. Lớp tuyết mềm dầy mười lăm phân, nhưng đất chưa đóng băng.

Bố gọi tuyết này là “phân bón cho người nghèo,” và ông bảo Royal mang tuyết đi cày để bón cho tất cả các cánh đồng. Tuyết mang chất dinh dưỡng gì đấy từ không khí xuống mặt đất, giúp cho hoa mầu mọc tốt.

Trong lúc ấy, Almanzo phụ giúp Bố. Hai bố con khép chặt các cánh cửa sổ bằng gỗ của các chuồng trại, và dùng đinh đóng lại tất cả các tấm ván đã long ra dưới ánh nắng và nước mưa trong mùa hè. Hai bố con lấy rơm trong các ô chuồng chất chung quanh các bức tường chuồng trại, và lấy rơm sạch chất chung quanh ngôi nhà. Rồi hai bố con lấy đá chặn lên rơm cho chặt để chống gió lạnh. Hai bố con sửa chữa các cánh cửa ra vào và các cánh cửa sổ chặn gió cho ngôi nhà kịp thời. Cuối tuần lễ này, cơn gió lạnh cắt da đầu tiên thổi đến.

Thời tiết lạnh sẽ kéo dài, và bây giờ là mùa hạ thịt.

Buổi sáng tinh sương lạnh lẽo, trước giờ điểm tâm, Almanzo phụ giúp Bố mang cái vạc sắt to đặt gần nhà kho. Hai bố con đặt cái vạc trên những hòn đá, đổ nước vào, rồi đốt một đống lửa phía dưới. Cái vạc chứa được khoảng ba thùng[T] nước.

Trước khi hai bố con xong xuôi, Lazy Joe và John đến và có thời giờ để ăn điểm tâm nhanh. Ngày hôm ấy họ sẽ hạ thịt năm con lợn và một con bò thịt một tuổi.

Ngay sau khi hạ thịt một con, Bố cùng Joe và John cho con thịt vào vạc nước đang sôi, rồi khiêng ra và để trên một tấm ván. Họ dùng dao hạ thịt để cạo hết lông. Rồi họ treo con thịt qua hai chân sau lên một cành cây, mổ ra, lấy bộ đồ lòng cho vào một cái chậu.

Royal và Almanzo mang cái chậu này vào gian bếp. Mẹ cùng các chị rửa gan và tim, lạng mỡ ra khỏi bộ đồ lòng để thắng làm mỡ nước.

Bố và Joe cẩn thận lột da con bò thịt. Cả tấm da rời ra nguyên một mảnh. Mỗi năm Bố hạ một con bò thịt và giữ tấm da để làm giầy.

Suốt buổi chiều cánh đàn ông lo cắt thịt, Royal và Almanzo bận rộn mang thịt đi cất. Tất cả thịt lợn được muối trong những thùng đặt dưới tầng hầm. Thịt đùi và thịt vai được cho vào những thùng chứa nước muối thịt mà Mẹ đã pha muối, đường phong, muối diêm với nước rồi đun sôi để nguội. Nước muối thịt có mùi hăng, gây cảm giác muốn hắt hơi.

Thịt sườn, thịt lưng, tim, gan, lưỡi và tất cả các loại thịt làm xúc xích phải được trữ trên gác mái của vựa củi. Bố và Joe cũng treo các tảng thịt bò ở đây. Thịt sẽ đông lại trên gác mái suốt mùa đông.

Tối hôm ấy việc hạ thịt xong xuôi. French Joe và Lazy Joe huýt sáo trên đường về nhà, mang theo thịt tươi thay cho tiền công, và Mẹ nướng sườn cho bữa ăn chiều. Almanzo thích rứt từng mảng thịt từ những khúc xương sườn dài, cong và dẹt. Cậu cũng thích nước sốt thịt lợn mầu nâu rưới lên khoai tây nghiền.

Suốt tuần lễ kế tiếp, Mẹ và các chị luôn tất bật, và Mẹ cũng giữ Almanzo trong gian bếp để phụ giúp. Mấy mẹ con cắt mỡ lợn và nấu trong nồi to trên bếp lò. Sau đấy, Mẹ lược mỡ lợn nóng trong trẻo qua vải trắng và cho vào những vại sứ to.

Tép mỡ dòn mầu nâu còn lại trong vải lược sau khi Mẹ vắt nước mỡ, và mỗi khi có dịp Almanzo lén nhặt lấy một ít cho vào miệng. Mẹ bảo tép mỡ chứa quá nhiều chất béo cho cậu. Mẹ cất tép mỡ một nơi để làm gia vị cho bánh mỳ bắp.

Rồi Mẹ làm món giò thủ. Mẹ hầm nhừ đầu bò và năm đầu lợn cho đến khi thịt rời ra khỏi xương. Mẹ băm thịt này rồi nêm gia vị, trộn một ít nước luộc trong nồi rồi trút vào những xoong 5 lít. Khi thịt nguội, nó trông giống thạch, vì giêlatin đã tách ra khỏi xương.

Kế tiếp, Mẹ làm món thịt băm. Mẹ luộc những miếng thịt bò và thịt lợn ngon nhất rồi băm nhỏ. Mẹ trộn với nho và gia vị, đường, dấm, táo xắt nhỏ và rượu cô nhắc, rồi Mẹ trữ trong hai vại đầy. Thịt tỏa mùi thơm ngon lành, và Mẹ cho Almanzo vét sạch những mảnh vụn còn sót trong thố trộn.

Suốt thời gian này, Almanzo xay thịt xúc xích. Cậu bỏ hàng nghìn miếng thịt vào cối xay rồi nắm lấy cần tay quay vòng và quay vòng suốt nhiều tiếng đồng hồ. Cậu thấy vui khi công việc đã xong. Mẹ nêm thịt và vo thành những viên to, rồi Almanzo phải mang tất cả những viên thịt này lên gác mái của vựa củi và chất lên những mảnh vải sạch. Ở đây thịt sẽ đông lại suốt mùa đông, và mỗi buổi sáng Mẹ sẽ lấy một viên nặn thành từng bánh nhỏ rồi rán cho bữa điểm tâm.

Đến cuối mùa hạ thịt là công việc làm nến.

Mẹ cọ rửa những nồi mỡ lợn to rồi cho những miếng mỡ bò vào. Mỡ bò không chảy lỏng như mỡ lợn, mà chảy ra thành khối sệt. Trong khi mỡ bò đang chảy, Almanzo phụ giúp đặt tim nến vào khuôn.

Lam nenKhuôn nến có hai hàng ống thiếc được hàn vào nhau và dựng thẳng đứng trên sáu chân. Có mười hai ống trong một khuôn. Ống mở ra ở đầu trên, nhưng đầu dưới nhỏ thu dần đến một điểm ở đáy, và ở mỗi điểm có một lỗ tí hon.

Mẹ cắt một đoạn chỉ nến cho mỗi ống. Mẹ tròng một đoạn chỉ nến qua một cái que nhỏ và xoắn hai sợi chỉ với nhau phía dưới que để làm thành một tim nến. Mẹ liếm ướt ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi se đầu sợi tim nến thành một điểm nhọn. Khi có sáu sợi tim nến, Mẹ thả sợi tim nến vào sáu ống, và cái que nằm phía trên các đầu ống. Điểm nhọn của tim nến đi qua lỗ tí hon ở đáy ống. Almanzo kéo mỗi đầu sợi tim nến, và giữ cho căng bằng cách cắm một miếng củ khoai tây sống vào đầu nhọn của ống.

Khi tất cả các ống đã có sợi tim được căng cho thẳng ở chính giữa, Mẹ cẩn thận rót mỡ bò nóng vào cho đầy ống. Rồi Almanzo mang khuôn ra bên ngoài trời để cho nó nguội nhanh.

Khi mỡ bò đông cứng, Almanzo mang khuôn vào trong nhà. Cậu kéo các miếng củ khoai tây ra. Mẹ nhúng cả khuôn vào nước sôi thật nhanh, rồi nhấc cái que lên. Sáu cây nến được kéo theo mỗi cái que.

Almanzo xén các sợi tim nến. Cậu xén các đầu tim ở đầu tròn của ống, và chừa lại một đoạn ngắn ở đầu nhọn để đốt nến. Rồi cậu chất những cây nến láng, thẳng thành một đống trắng như sáp.

Suốt một ngày Almanzo phụ giúp Mẹ làm nến. Đến tối, nhà đã có đủ nến để dùng cho đến mùa hạ thịt năm sau.

Bác thợ đóng giầy

Mẹ đang lo lắng và càu nhàu vì bác thợ đóng giầy chưa đến. Đôi giầy da đanh của Almanzo đã rách tả tơi, còn đôi ủng của Anh Royal từ năm ngoái đã quá chật vì anh đang lớn. Anh Royal đã rọc một đường vòng quanh giầy mới xỏ chân vào được. Chân hai anh em tê nhức vì lạnh, nhưng không làm gì được mà phải chờ cho bác thợ đóng giầy đến.

Đã gần đến ngày Royal, Eliza Jane và Alice đi học ở Học viện, nhưng ba anh em chưa có giầy. Và bác thợ đóng giầy vẫn chưa đến.

Cây kéo lớn của Mẹ soàn soạt đi qua đống các mảnh len cừu đẹp mầu xám mà Mẹ đã dệt. Mẹ cắt sơ các mảnh, thử lên người Royal, ghép nối để may cho anh một bộ vét trông chững chạc, thêm áo choàng để khoác bên ngoài. Mẹ cũng may một chiếc mũ với vành có cúc gài, giống như mũ may sẵn ở cửa hiệu.

Mẹ may cho Eliza Jane một bộ áo mới bằng vải mầu vang đỏ, và may cho Alice một bộ mầu lam. Các chị đã tháo ra những chiếc áo và mũ cũ, ủi cho phẳng rồi lộn mặt trong thành mặt ngoài mà may lại, thế là áo và mũ trông như mới.

Những buổi tối, chiếc kim đan của Mẹ sáng nhấp nháy và kêu lách cách, đan thành những đôi bít tất mới cho tất cả bốn anh em. Mẹ đan nhanh đến nỗi các kim đan nóng lên vì chà sát nhau. Nhưng cả bọn trẻ phải đợi bác đóng giầy đến thì mới có giầy mang.

Hoc vien

Bác vẫn chưa đến. Tà váy các cô che giấu được các đôi giầy cũ, nhưng Royal phải mặc bộ vét mới để đi Học viện và mang đôi ủng từ năm ngoái đã bị rọc vòng quanh để lộ ra đôi bít tất trắng mang bên trong. Nhưng đành phải thế thôi.

Buổi sáng cuối cùng, Bố và Almanzo làm công việc trang trại. Mọi khung cửa sổ của ngôi nhà đều có ánh nến hắt ra, và Almanzo cảm thấy thiếu vắng Anh Royal trong khu chuồng trại.

Anh Royal và hai chị gái đã ăn mặc chỉnh tề khi dùng điểm tâm. Không ai ăn được nhiều. Bố đi thắng đôi ngựa, còn Almanzo vác gói thảm đi xuống thang lầu. Cậu ước gì Chị Alice không vắng nhà.

Chuông xe trượt tuyết kêu leng keng ngoài cửa. Mẹ cố nở nụ cười nhưng nâng tấm tạp dề lau đôi mắt. Tất cả đi ra xe. Đôi ngựa gõ vó xuống mặt đất, phát ra những tiếng leng keng từ các chuông. Alice tấn chiếc váy choàng qua chiếc váy tròng, và Bố buông cương cho đôi ngựa tự khởi hành. Chiếc xe trượt tuyết lướt đi và rẽ ra con đường. Tấm khăn quàng mặt đen của Alice nhìn ngoái lại, cô kêu lên:

“Tạm biệt! Tạm biệt!”

Almanzo có phần ác cảm với ngày này. Mọi thứ trông dường lớn rộng ra, tĩnh mịch và quạnh hiu. Cậu dùng bữa chiều một mình với Bố và Mẹ. Phải làm công việc trang trại sớm hơn vì Anh Royal đã đi vắng. Almanzo ghét phải vào nhà mà không thấy Chị Alice. Thậm chí cậu cảm thấy nhớ Chị Eliza Jane.

Sau khi lên giường, Almanzo vẫn thao thức và tự hỏi các anh chị đang làm gì ở cách xa tám cây số.

Sáng hôm sau, bác thợ đóng giầy đến! Mẹ đi đến cửa và nói với bác:

“Này, tôi phải nói bây giờ bác đến là hay lắm đấy! Muộn mất ba tuần rồi, nên đám con tôi gần như đi chân trần!”

Bác thợ đóng giầy có tính tình hiền hòa nên Mẹ không thể bực bội lâu. Không phải do lỗi của bác; có một gia đình lưu bác lại ba tuần để đóng giầy cho một đám cưới.

Bac tho dong giay

Bác thợ đóng giầy có khổ người mập mạp, tính tình vui vẻ. Khi cười khúc khích, đôi má và bụng bác cũng rung lên theo. Bác bày băng ghế đóng giầy gần cửa sổ trong phòng ăn, và mở hộp đồ lề ra. Chưa gì mà Bác đã pha trò làm cho Mẹ phải cười. Bố đã mua những tấm da thuộc từ năm rồi, và hai người đàn ông thảo luận việc này suốt buổi sáng.

Giờ ăn trưa thật vui. Bác thợ đóng giầy kể cho nhà nghe mọi tin tức, ca ngợi tài nấu nướng của Mẹ, và pha trò cho đến khi Bố phá lên cười và Mẹ lau đôi mắt. Rồi bác hỏi Bố bác phải đóng giầy cho ai trước. Bố trả lời: “Tôi nghĩ anh nên bắt đầu với đôi ủng cho Almanzo.”

Almanzo hầu như không tin vào tai mình. Đã từ lâu rồi cậu mơ ước một đôi ủng. Cậu đã nghĩ mình phải mang giầy da đanh cho đến khi đôi bàn chân không lớn nhanh như thế.

Mẹ nói: “James à, anh làm cho thằng bé hư đấy.”

Nhưng Bố trả lời: “Bây giờ con nó đã đủ lớn để mang ủng rồi.”

Almanzo nôn nóng trông chờ bác thợ đóng giầy bắt đầu công việc.

Đầu tiên bác thợ đóng giầy xem qua tất cả các mẩu gỗ trong vựa gỗ. Bác muốn có một mẩu gỗ phong đã khô hoàn toàn, có vân thẳng và mịn.

Khi tìm được mẩu gỗ như thế, bác dùng một chiếc cưa nhỏ để cưa mẩu gỗ thành hai tấm mỏng. Một tấm hai phân rưỡi; tấm kia hơn một phân. Bác đo kích thước, rồi cưa các góc thành vuông.

Bác mang hai tấm gỗ đến băng ghế đóng giầy, ngồi xuống, mở hộp đồ lề ra. Hộp chia thành nhiều ngăn nhỏ, mỗi ngăn đựng thứ tự một loại đồ lề đóng giầy khác nhau.

Bác thợ đóng giầy đặt tấm gỗ phong dầy hơn lên băng ghế trước mặt. Bác dùng một con dao dài, sắc để cắt cả mặt trên của tấm gỗ thành những lằn gợn li ti. Rồi bác xoay tấm gỗ lại để cắt những lằn gợn ngang, làm thành những đỉnh nhọn li ti.

Bác đặt một lưỡi dao mỏng, thẳng trong đường rãnh giữa hai lằn gợn, rồi dùng một cái búa gõ nhẹ trên sống dao. Một dải gỗ mỏng tách ra, tạo thành vết khía suốt một chiều. Bác di chuyển con dao, lại gõ nhẹ trên sống dao, cho đến lúc cả tấm gỗ có những dải nhỏ và hẹp. Rồi cầm lấy đầu dải gỗ, bác nhấn con dao vào các khía, và mỗi lần nhấn là một chốt giầy tách ra. Mỗi chốt dài hai phân rưỡi, vuông mười li, và nhọn ở một đầu.

Bác cũng làm những chốt từ tấm gỗ mỏng hơn, mỗi chốt dài mười ba li.

Bây giờ bác thợ đóng giầy sẵn sàng đo ni tấc của đôi ủng cho Almanzo.

Almanzo cởi đôi giầy da đanh và đôi bít tất ra, rồi đứng trên một mảnh giấy trong khi bác thợ đóng giầy dùng một cây viết chì to vẽ quanh hai bàn chân cậu. Rồi bác đo hai chân cậu theo mọi chiều, và ghi lại các số đo.

Bác không cần Almanzo nữa, nên bây giờ Almanzo phụ giúp Bố lột bắp. Cậu có một chiếc móc lột bắp giống như cái móc của Bố nhưng nhỏ hơn. Cậu gài sợi dây da quanh bao tay phải, và chiếc móc gỗ chĩa lên như là ngón tay cái thứ hai, giữa ngón tay cái và các ngón còn lại.

Bố và cậu ngồi trên những chiếc ghế vắt sữa kê ngoài sân trại kế bên những cụm[U] bắp. Hai bố con vặt những quả bắp ra khỏi bẹ cây, ngón tay cái và chiếc móc lột bắp nắm lấy đầu của lớp vỏ khô rồi lột lớp vỏ khỏi quả bắp. Họ ném quả bắp đã được lột trần vào những thúng giạ.

Bẹ cây bắp và những chiếc lá dài khô kêu xào xạc được để thành đống cho đàn gia súc trẻ ăn.

Sau khi đã lột vỏ tất cả các quả bắp trong tầm với, hai bố con nhích chiếc ghế về phía trước rồi lại làm việc, dần dần tiến sâu hơn vào những cụm bắp với chòm râu ở mỗi đầu quả. Vỏ quả và bẹ chất đống phía sau hai người.

Ngoài sân trại không lạnh lắm. Các nhà trại to chặn lấy gió lạnh, và tuyết khô rơi ra từ các bẹ bắp. Đôi chân của Almanzo đang tê lạnh, nhưng đầu óc cậu nghĩ đến đôi ủng. Cậu nôn nóng chờ đến giờ ăn chiều để xem bác thợ đóng giầy đã làm được đến đâu.

Ngày hôm ấy bác thợ đóng giầy đã gọt xong hai cốt giầy gỗ theo kích thước của chân Almanzo. Hai cốt giầy này được gắn chúc xuống trên một móc cao kế băng ghế của ông, mỗi cốt tách ra làm hai nửa.

Sáng hôm sau, bác thợ đóng giầy cắt hai miếng từ phần giữa dầy của một tấm da bò để làm đế giầy, và cắt hai miếng từ phần mỏng hơn ở gần mép tấm da để làm đế trong. Bác lại cắt những phần da mềm nhất để làm các phần trên của đôi giầy. Rồi bác đánh xi sợi chỉ.

Bàn tay phải của bác kéo một đoạn sợi lanh dọc theo một tấm xi đen trong bàn tay trái, rồi vê sợi lanh trong lòng bàn tay phải, trên tấm tạp dề bằng da bác đang mang phía trước người. Rồi bác lại kéo và vê lần nữa. Xi tạo ra âm thanh ken két, hai tay bác thợ đóng giầy kéo ra kéo vào, cho đến khi sợi lanh bóng mầu đen và cứng lại vì lớp xi.

Rồi bác đặt một cọng lông lợn cứng ở mỗi đầu sợi lanh, lại thoa xi và vê, cho đến khi các cọng lông được thoa xi và gắn chặt vào sợi lanh.

Cuối cùng, bác đã sẵn sàng may đôi ủng. Bác đặt các phần trên của một chiếc ủng cho khớp với nhau, đưa vào bàn kẹp để kẹp chặt. Các mép vươn lên phía trên, thẳng thớm và cứng. Bác dùng một chiếc dùi nhỏ để dùi một lỗ qua lớp da gần mép. Bác luồn hai cọng lông lợn qua lỗ, mỗi cọng ở một bên, và với đôi tay khỏe mạnh bác kéo sợi lanh thật căng. Bác dùi thêm một lỗ, lại luồn hai cọng lông qua, và lại kéo cho đến khi sợi lanh chìm vào trong tấm da. Thế là xong một mũi may.

Bác nói: “Đấy là mối nối tốt! Chân của cháu sẽ không bị ẩm trong đôi ủng của tôi, cho dù đi trong nước. Tôi chưa từng may mối nối nào bị hở nước.”

Từ mũi may này đến mũi may khác, bác may các phần trên với nhau. Khi xong xuôi, bác ngâm các mảnh da làm đế trong nước qua đêm.

Sáng hôm sau, bác đặt một cốt giầy lên cái móc, phần đế ngửa lên trên. Bác đặt mảnh da làm đế trong lên trên cốt giầy. Bác kéo phần trên của một chiếc ủng xuống cho trùm qua mảnh da, gấp các mép qua đế trong. Rồi bác đặt cái đế nặng lên phía trên, và thế là có chiếc ủng, được đặt ngược lên.

Bác thợ đóng giầy dùi những lỗ vòng quanh mép đế. Bác luồn một chốt gỗ phong qua mỗi lỗ. Bác dùng da dầy làm cái gót, rồi đóng chốt với các chốt gỗ phong dài. Chiếc ủng được hoàn tất.

Phải để khô qua đêm các lớp đế ẩm. Đến sáng, bác thợ đóng giầy rút hai cốt giầy ra, rồi dùng một chiếc dũa gỗ chà đầu trong của các chốt.

Almanzo mang thử. Đôi ủng thật vừa vặn với chân cậu, đôi gót dậm lên sàn bếp thùm thụp nghe thật oai phong.

Sáng Thứ Bảy, Bố đánh xe đi Malone để đưa Eliza Jane, Royal và Alice về nhà, đo chân ba đứa cho giầy mới. Mẹ đang nấu một bữa ăn thịnh soạn cho ba đứa, và Almanzo đi quanh quẩn ngoài cổng, chờ được gặp lại Chị Alice.

Cô bé không thay đổi tí nào. Trước khi nhảy xuống xe, cô đã kêu lên:

“Ồ, Almanzo, em đã có ủng mới!” Alice đang học để trở thành một quý cô tốt. Cô kể cho Almanzo nghe về các buổi học âm nhạc và phong cách, nhưng cô lấy làm vui khi trở về nhà.

Eliza Jane lại càng ra vẻ sếp hơn bao giờ hết. Cô than phiền đôi ủng của Almanzo gây ồn ào. Thậm chí cô còn kể cho Mẹ nghe cô lấy làm kinh khiếp vì Bố uống trà từ chiếc đĩa lót dưới cốc.

Mẹ hỏi lại: “Trời đất! Bố có cách nào khác làm cho trà nguội được?”

Eliza Jane nói: “Thời bây giờ uống bằng đĩa lót là không phải phép. Người lịch sự phải uống bằng cốc.”

Alice kêu lên: “Chị Eliza Jane! Xấu hổ quá! Em nghĩ Bố cũng lịch sự như bất kỳ ai khác.”

Mẹ đã ngưng hẳn công việc. Bà rút hai tay khỏi chậu rửa tô đĩa và quay lại nhìn Eliza Jane.

Mẹ nói: “Này cô gái, nếu muốn phô trương học vấn kiểu đàng hoàng thì cô cho tôi biết các đĩa ấy từ đâu đến.”

Eliza Jane mở miệng rồi ngậm miệng lại, lộ vẻ ngu xuẩn.

Mẹ nói: “Các đĩa ấy đến từ Trung Hoa, hai trăm năm về trước, trong chuyến đầu tiên các thủy thủ đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng và tìm ra Trung Hoa. Từ trước cho đến lúc ấy, người ta vẫn uống từ cốc vì họ chưa có đĩa lót. Từ khi có đĩa lót thì họ uống từ đĩa lót. Mẹ nghĩ việc mà người ta đã làm cả hai trăm năm nay thì chúng ta có thể tiếp tục làm. Gia đình ta sẽ không thay đổi chỉ vì một quan niệm mới mẻ mà con nghe ở Học viện Malone.”

Thế là Eliza Jane im bặt.

Royal không nói gì nhiều. Anh mặt quần áo cũ vào và làm công việc trang trại, nhưng không có vẻ gì quan tâm. Khi lên giường ngủ tối hôm ấy, anh nói với Almanzo rằng mình sẽ làm chủ một cửa hàng.

Royal nói: “ Em sẽ là đứa ngu ngốc hơn anh, nếu cứ làm việc quần quật suốt ngày trên một trang trại.”

Almanzo nói: “Em thích ngựa.”

Royal trả lời: “Hứ! Chủ cửa hàng cũng có ngựa. Các con ngựa này được chải chuốt mỗi ngày, được giữ cho sạch sẽ, chạy khắp nơi từng cặp với cỗ xe đàng hoàng. Nhiều người ở thành phố còn có người đánh xe nữa.”

Almanzo không nói gì, nhưng trong thâm tâm cậu không muốn có người đánh xe. Cậu muốn tự mình tập luyện ngựa non, và tự mình điều khiển những con ngựa của riêng mình.

Sáng hôm sau, cả gia đình cùng nhau đi lễ nhà thờ. Rồi Royal, Eliza Jane và Alice ở lại Học viện; chỉ có bác thợ đóng giầy cùng trở về trang trại.

Mỗi ngày bác vừa huýt sáo vừa làm việc trong phòng ăn, cho đến lúc xong xuôi các đôi ủng và giầy. Bác đã lưu lại đây trong ba tuần. Khi bác chất chiếc băng ghế và đồ lề lên xe đi đến khách hàng kế tiếp, ngôi nhà lại có vẻ trống vắng và im lìm.

Tối hôm ấy Bố nói với Almanzo:

“Này, con trai, việc lột bắp đã xong. Ta làm một chiếc xe trượt tuyết cho Star và Bright, ngày mai nhé?”

Almanzo đáp: “Ồ, Bố! Con có thể… Bố sẽ cho con chở gỗ mùa đông này chứ?”

Đôi mắt Bố nhấp nháy. Bố hỏi lại: “Chứ con cần xe trượt tuyết để làm việc gì khác cơ chứ?”

Chiếc xe trượt tuyết nhỏ

Sáng hôm sau khi tuyết đang rơi, Almanzo cùng Bố đánh xe đi ra khu rừng cây gỗ. Từng lọn tuyết to lù xù như lông chim tạo thành một lớp mỏng phủ lấy vạn vật. Nếu bạn chỉ có một mình, ngưng thở và lắng nghe thì bạn nhận ra được tiếng tuyết êm đềm rơi.

Bố và Almanzo dẫm lên lớp tuyết trên khu rừng, đi tìm những cây sồi nhỏ có thân thẳng. Khi tìm ra một cây sồi như thế, Bố đốn xuống, chặt bỏ tất cả cành, và Almanzo chất thành đống gọn gàng. Rồi hai bố con chất các súc gỗ nhỏ lên xe trượt tuyết.

Van truot tuyet 2

Sau đấy hai bố con tìm hai cây có thân cong để làm hai tấm ván trượt uốn cong. Thân cây phải to hơn một tấc và dài gần hai mét trước khi bắt đầu uốn cong. Khó mà tìm được cây như thế. Trong cả khu rừng cây gỗ không có hai cây nào giống nhau.

Bố nói: “Con trai à, không thể nào tìm ra hai thứ giống nhau trên cả thế gian này. Thậm chí cũng không có hai phiến lá cỏ giống nhau. Nếu con nhìn kỹ thì mỗi thứ đều khác biệt.”

Hai bố con đành chọn hai cây giống nhau một chút. Bố đốn hai cây này và Almanzo giúp chất lên xe trượt tuyết. Rồi hai bố con đánh xe về, vừa kịp lúc cho bữa ăn trưa.

Chiều hôm ấy, trên Nền Trại-Lớn Bố và Almanzo đóng một chiếc xe trượt tuyết nhỏ.

Đầu tiên, Bố đẽo mặt dưới của hai tấm ván trượt cho phẳng và láng, dọc theo đoạn cây cong để làm thành đầu trước cong lên trên. Ngay phía sau đoạn cong, Bố đẽo một khoảnh lõm dẹt phía trên, và đẽo một khoảnh lõm dẹt khác ở gần đầu sau. Rồi Bố đẽo hai khúc gỗ để làm thanh ngang.

Bố đẽo hai thanh ngang rộng hai tấc rưỡi, dầy bảy phân rưỡi, rồi cưa thành đoạn dài một mét hai. Hai thanh ngang này sẽ dựng đứng lên trên một mép. Bố đẽo các góc của hai thanh ngang này cho khớp với bốn khoảnh lõm trên hai tấm ván trượt. Sau đó Bố đẽo thành một phần lõm theo mép dưới, để phần lõm này lướt qua lớp tuyết cao ở giữa con đường.

Bố đặt hai tấm ván trượt song song với nhau, cách nhau một mét, rồi ráp hai thanh ngang lên. Nhưng Bố chưa vội đóng chốt.

Bố đẽo hai tấm ván, dài một mét tám, dẹt từ bên này qua bên kia. Bố đặt hai tấm ván này lên hai thanh ngang; hai tấm ván trượt nằm ở dưới.

Rồi Bố dùng mũi khoan để khoan một lỗ qua tấm ván ở trên, xuống thanh ngang ở giữa và xuống tiếp tấm ván trượt ở dưới. Bố khoan gần thanh ngang, và mũi khoan tạo thành một nửa lỗ khoan xuống một bên thanh ngang. Ở thanh ngang bên kia, Bố cũng khoan một lỗ giống như lỗ đầu.

Bố đóng một chốt gỗ cứng qua mỗi lỗ ấy. Cái chốt đi qua tấm ván ở trên, xuống đến tận tấm ván trượt, và ghép chặt hai nửa-lỗ ở hai bên thanh ngang. Ở một góc của chiếc xe trượt tuyết, hai chốt gỗ ghép chặt ba phần với nhau: tấm ván ở trên, thanh ngang ở giữa và tấm ván trượt ở dưới.

Ở ba góc kia Bố cũng khoan lỗ, và Almanzo đóng chốt gỗ xuống. Thế là xong phần thân của chiếc xe trượt tuyết.

Bây giờ Bố khoan một lỗ ngang ở mỗi đầu tấm ván trượt. Bố chọn một nhánh cây mảnh mai làm một cây cọc ngắn, đẽo vỏ cây và chuốt nhọn ở hai đầu cho vừa với hai lỗ.

Bố và Almanzo kéo hai đầu cong của hai tấm ván trượt càng xa với nhau càng tốt, rồi Bố đút mỗi đầu nhọn của cọc vào một lỗ. Khi Bố và Almanzo thả tay ra, hai đầu tấm ván trượt bật vào lại và giữ chặt lấy cây cọc ở giữa.

Bố khoan hai lỗ trên cái cọc, gần tấm ván trượt, để giữ lấy lưỡi kẹp của xe trượt tuyết. Để làm lưỡi kẹp, Bố chọn gỗ cây du nhỏ, bởi vì gỗ du dai hơn và dễ uốn hơn gỗ sồi. Đoạn cây du nhỏ này dài ba mét từ gốc đến chóp. Bố gài một vòng sắt qua đầu nhỏ và đóng xuống cho đến khi nó ghép chặt vào cây du, cách gốc tám tấc. Bố chẻ gốc ra làm hai, cho đến vòng sắt, và vòng này không cho cây du chẻ hai xa hơn.

Bố vuốt nhọn và kéo hai đầu chẻ ra xa, rồi đóng vào hai lỗ trong cọc ngang. Rồi Bố khoan lỗ xuống cọc ngang đến hai đầu lưỡi kẹp, và đóng chốt gỗ vào các lỗ này.

Gần chóp lưỡi kẹp, Bố đóng một đinh sắt to xuống. Đinh sắt này ló ra dưới lưỡi kẹp. Chóp của lưỡi kẹp sẽ đi vào vòng sắt phía dưới ách hai con bê, và khi hai con bê lùi lại thì vòng sắt sẽ chặn lấy đinh sắt, và lưỡi kẹp sẽ đẩy xe trượt tuyết về phía sau.

Bây giờ chiếc xe trượt tuyết đã được hoàn thành. Gần đến giờ làm công việc trang trại, nhưng Almanzo không muốn rời xa chiếc xe trượt tuyết nhỏ mà không có cọc chặn gỗ. Thế là Bố nhanh chóng khoan những lỗ xuống hai đầu tấm ván ở trên, xuống đến hai thanh ngang. Ở mỗi lỗ Almanzo đóng xuống một cây cọc dài một mét hai. Bốn cây cọc này sẽ chặn cho các súc gỗ không lăn ra ngoài khi Almanzo chở gỗ.

Cơn bão tuyết đang mạnh thêm. Tối hôm ấy, các lọn tuyết tung bay la đà và cơn gió rít thành tiếng nghe cô đơn khi Bố và Almanzo mang những xô sữa đầy vào nhà.

Almanzo muốn lớp tuyết phủ dầy thêm, để cậu có thể bắt đầu chở gỗ với chiếc xe trượt tuyết mới. Nhưng Bố lắng nghe cơn bão tuyết, và nói không thể làm việc ngoài trời hôm sau. Họ phải ở nhà để có chỗ trú bão tuyết, thế nên bắt đầu lo đập lúa mỳ thì hay hơn.

Đập lúa mỳ

Gió gầm thét, tuyết bay cuồn cuộn, âm thanh não nùng vọng đến từ đám cây tuyết tùng. Các cây táo trơ trụi như những bộ xương đung đưa các cành xương xẩu. Vạn vật ngoài trời tối sẫm, hoang dại và ồn ào.

Nhưng bên trong các chuồng trại chắc chắn đều êm ả. Cơn bão tuyết gầm thét đập bên ngoài, nhưng các chuồng trại đều không suy suyển gì. Bên trong vẫn ấm áp.

Khi Almanzo gài chốt cửa sau lưng cậu, tiếng gầm rít của cơn bão tuyết tắt hẳn đi. Không khí bên trong tĩnh lặng. Các con ngựa xoay trở trong ô chuồng và hí lên nho nhỏ; lũ ngựa non lúc lắc đầu và đập vó xuống sàn. Đàn bò đứng thành một hàng, vung vẩy những chiếc đuôi với túm lông; bạn có thể nghe chúng đang nhai lại.

Almanzo vuốt ve đầu mũi mềm của các con ngựa và trìu mến nhìn lũ ngựa non với đôi mắt sáng. Rồi cậu đi vào nhà kho nơi Bố đang sửa cái néo.

Cái néo đã sút tay cầm, và Bố đang lắp lại. Néo là một khúc gỗ cứng, dài chín tấc, lớn bằng cán chổi, có một lỗ xuyên qua một đầu. Tay cầm dài một mét rưỡi, ở đầu là một núm tròn.

Bố luồn một dải da bò qua cái lỗ trên néo, rồi đóng đinh tán hai đầu lại với nhau để tạo thành một vòng da. Bố lấy một dải da bò khác, cắt một đường rạch ở mỗi đầu. Bố luồn dải da này qua vòng da trên cái néo, rồi đẩy các đường rạch qua đầu núm của tay cầm.

Néo và tay cầm được giữ lỏng lẻo với nhau bằng hai vòng da, và phần néo có thể được vung ra theo phía nào cũng được.

Néo của Almanzo giống như néo của Bố, nhưng còn mới và không cần phải sửa. Khi néo của Bố đã sẵn sàng, hai bố con đi đến Nền Trại-Nam.

Vẫn còn có mùi bí đỏ thoang thoảng, tuy lũ gia súc đã ăn hết. Hương rừng tỏa ra từ đống lá sồi, và một mùi rơm từ các cụm gié lúa mỳ. Bên ngoài gió vẫn gào thét và tuyết vẫn bay lượn, nhưng Nền Trại-Nam vẫn ấm áp và tĩnh lặng.

Bố và Almanzo mở ra vài cụm gié rồi trải lên sàn gỗ sạch.

Almanzo hỏi Bố tại sao không thuê máy đập lúa. Mùa thu rồi, ba người đã mang máy đập lúa đến vùng này, và Bố đã đi xem. Trong vòng ít ngày, cỗ máy ấy có thể đập xong lúa mỳ của cả một trang trại.

Bố nói: “Đấy là cách người biếng nhác đập lúa mỳ. Dục tốc bất đạt, nhưng một người biếng nhác thà để cho người khác làm cho xong chuyện hơn là muốn tự mình làm. Cỗ máy ấy nghiền nát rơm đến nỗi không thích hợp để nuôi gia súc, và còn phun hạt tứ tung gây lãng phí.

“ Con trai à, cỗ máy ấy chỉ tiết kiệm thời giờ. Mà thời giờ thì có ích chi nếu ta không có việc gì để làm? Con muốn chỉ ngồi mà vặn mấy ngón tay suốt những ngày mùa đông này hay không?”

Almanzo nói: “Không, Bố ạ.” Cậu đã quá chán như thế, vào những ngày Chủ Nhật.

Hai bố con trải các gié lúa mỳ trên sàn, dầy năm bảy phân. Hai bố con đứng đối diện với nhau, nắm lấy tay cầm bằng cả hai tay, vung lên phía trên đầu rồi đập xuống gié lúa mỳ.

Bố đập, đến phiên Almanzo đập; rồi đến phiên Bố, đến phiên Almanzo. THỤP! Thụp! THỤP! Thụp! Đấy giống như là tiếng nhạc trong Ngày Độc lập. Giống như là tiếng trống. THỤP! Thụp! THỤP! Thụp!

Hạt mỳ thoát ra khỏi các mảnh trấu nhỏ và rơi xuống giữa các cọng rơm. Một hương thơm thoang thoảng tỏa ra từ lớp rơm giống như mùi của cánh đồng chín dưới ánh nắng.

Trước khi Almanzo thấm mệt vì phải vung néo nhiều lần thì đến lúc phải dùng chĩa. Cậu nhẹ nhàng nhấc các gié lên, lắc lắc rồi gạt qua một bên. Những hạt mỳ mầu nâu rơi khắp sàn. Bố và Almanzo lại trải thêm gié lúa mỳ trên sàn, rồi lại cầm lấy néo.

Khi đã có một lớp dầy những hạt được bóc trấu trên sàn, Almanzo dùng cái bàn cào to để đùn hạt qua một bên.

Suốt ngày hôm ấy, đống hạt mỳ cao dần lên. Ngay trước giờ làm công việc trang trại, Almanzo quét khoảnh sân phía trước nhà máy quạt lúa. Rồi Bố xúc hạt mỳ cho vào miệng phễu của máy quạt lúa, trong khi Almanzo quay tay cầm máy này.

Bên trong nhà máy quạt lúa, các quạt gió chạy ù ù, một đám mây bụi trấu thổi lên phía trước quạt, các hạt mỳ tuôn ra một bên quạt và rơi xuống thành một đống cao dần trên sàn. Almanzo nắm lấy một vốc hạt đưa vào miệng nhai; dư vị ngọt ngào tồn lại một hồi lâu.

Almanzo vẫn nhai trong khi tay giữ lấy từng bao để Bố xúc hạt mỳ cho vào. Bố dựng các bao đầy thành một hàng dọc bức tường – một ngày lao động có kết quả tốt đã qua.

Bố hỏi: “Ta quạt một ít quả sồi nhé?” Thế là hai bố con dùng chĩa vít từng đám lá sồi vào miệng phễu, và bây giờ các quạt gió chạy ù ù thổi đi lá, những quả sồi có ba góc rơi xuống một bên. Almanzo xúc quả sồi vào một đấu, để tối hôm nay ăn bên lò sưởi.

Rồi cậu huýt sáo đi làm công việc trang trại.

Suốt mùa đông dài, trong những buổi tối tuyết rơi nhiều thì hai bố con lại đập lúa mỳ. Khi đã xong với lúa mỳ, đến lượt yến mạch và các loại đậu. Có đầy đủ các loại hạt để nuôi gia súc, đầy đủ lúa mỳ và yến mạch để mang đến nhà máy xay bột. Almanzo đã giẫy cỏ các cánh đồng, cậu đã phụ giúp việc thu hoạch, và bây giờ đập các loại hoa mầu.

Cậu phụ giúp lo việc ăn uống cho các con bò từ tốn, cho đàn ngựa đang nôn nóng cất tiếng hí qua các chấn song, cho đàn cừu đang kêu be be vì đói, và cho các con lợn đang kêu ủn ỉn. Almanzo có cảm tưởng như mình đang nói với tất cả chúng nó:

“Các cậu có thể trông cậy nơi tớ. Bây giờ tớ đã lớn rồi nên tớ chăm sóc tất cả các cậu được.”

Khi đi ra khỏi các chuồng trại, cậu đóng chặt các cánh cửa ra vào, để lại lũ gia súc ăn uống no đủ, ấm áp và thoải mái qua đêm, rồi cậu lê bước qua cơn bão tuyết để đến với bữa ăn chiều ngon lành đang chờ đợi trong gian bếp.

Giáng Sinh

Trong một thời gian dài, có vẻ như Giáng Sinh sẽ chẳng bao giờ đến. Vào ngày Giáng Sinh, Cậu Andrew, Dì Delia, Cậu Wesley và Mợ Lindy, cùng tất cả các em họ sẽ đến dùng bữa chiều. Đấy sẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong cả năm. Và một cậu bé giỏi có thể nhận được món quà gì đấy trong chiếc bít tất của cậu. Con trai hư chỉ được cây roi trong chiếc bít tất vào sáng ngày Giáng Sinh. Almanzo đã cố gắng tỏ ra giỏi giang từ lâu đến nỗi cậu cảm thấy khó mà chịu đựng được trạng thái căng thẳng.

Nhưng cuối cùng thì đã đến ngày trước lễ Giáng Sinh, và Royal, Eliza Jane cùng Alice được về thăm nhà. Các chị lo quét dọn, lau chùi toàn bộ ngôi nhà, và Mẹ đang nướng bánh. Royal phụ giúp Bố đập nông sản, nhưng Almanzo phải phụ giúp trong nhà. Cậu vẫn nhớ đến cây roi, cố tỏ ra tự nguyện và vui vẻ.

Almanzo phải cọ rửa các dao nĩa bằng thép, và đánh bóng các bộ đồ bạc. Cậu phải mang một chiếc tạp dề quanh cổ. Cậu lấy gạch cọ rửa và cào ra một ít bột mầu đỏ, rồi với một mảnh vải ướt cậu chà lên chà xuống trên dao và nĩa.

Gian bếp đầy những mùi hương ngon lành. Các ổ bánh mới nướng đang dần nguội đi, bánh ngọt, bánh quy, bánh thịt băm và bánh bí đỏ chất đầy trên các ngăn kệ, các quả nam việt quất đang sủi bọt trên bếp lò. Mẹ đang làm nước sốt cho món thịt ngỗng.

Bên ngoài ngôi nhà, mặt trời đang soi sáng lớp tuyết. Các thỏi băng lấp lánh dọc theo tất cả mái hiên. Xa xa vẳng tiếng chuông leng keng của các xe trượt tuyết, và từ sân trại vọng tiếng néo đập thụp-thụp. Nhưng sau khi đã cạo rửa tất cả muỗng nĩa, Almanzo phải tỏ ra tỉnh táo mà lo đánh bóng các bộ đồ bạc.

Sau đó cậu phải chạy lên gác mái để lấy rau thơm phơi khô; chạy xuống tầng hầm để lấy táo, và lại chạy lên tầng trên để lấy củ hành. Cậu chất đầy thùng củi. Cậu chạy ra ngoài trời lạnh giá để lấy nước từ nhà bơm. Cậu nghĩ mình đã làm xong công việc, ít nhất là trong một phút. Nhưng không; cậu phải đánh bóng lò sưởi trong phòng ăn.

Mẹ nói: “Eliza Jane, con làm trong phòng khách. Almanzo có thể làm đổ nước đánh bóng.”

Almanzo thót tim. Cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Mẹ biết về vệt đen ấy, được che giấu trên tường phòng khách. Cậu không muốn nhận cây roi trong chiếc bít tất Giáng Sinh, nhưng cậu thà nhận cây roi còn hơn bị Bố lôi vào vựa củi mà phạt.

Tối hôm ấy mọi người đều mệt nhọc; ngôi nhà sạch bong và ngăn nắp đến nỗi không ai dám sờ vào thứ gì cả. Sau bữa ăn chiều, Mẹ cho con ngỗng được dồn đủ thứ mập ú và cho con lợn con vào lò nướng để nướng chậm qua đêm. Bố đóng các van khói và lên dây cót đồng hồ. Anh Royal và Almanzo treo bít tất trên một lưng ghế, còn hai chị Eliza Jane và Alice treo bít tất trên lưng ghế khác.

Rồi tất cả nhận lấy một cây nến và lên giường.

Almanzo thức dậy khi trời vẫn còn tối. Cậu cảm thấy hào hứng, và rồi cậu nhớ ra rằng đây là sáng ngày Giáng Sinh. Cậu giật lại tấm chăn và nhảy lên một cái gì đấy động đậy. Đấy là Anh Royal. Cậu đã quên rằng Anh Royal đang nằm đây, nhưng cậu vẫn bò lên người anh, reo lên:

“Giáng Sinh! Giáng Sinh! Chúc mừng Giáng Sinh!”

Cậu mặc chiếc quần vào bên ngoài sơ mi đồ ngủ. Royal nhảy ra khỏi giường và thắp lên cây nến. Almanzo giật lấy cây nến, và Royal thét lên:

“Này! Để đây! Quần của anh đâu?”

Nhưng Almanzo đã chạy xuống cầu thang. Eliza Jane và Alice đang hộc tốc trong phòng hai cô, nhưng Almanzo còn nhanh hơn. Cậu thấy chiếc bít tất của mình căng phồng; cậu đặt cây nến xuống và giật lấy chiếc bít tất. Vật đầu tiên cậu kéo ra là một chiếc mũ, chiếc mũ may ở cửa hàng!

Vải sọc vuông được dệt bằng máy. Lớp lót cũng thế. Ngay cả đường may cũng là may máy. Và hai mảnh chụp tai được cài cúc ở trên chóp.

Almanzo reo lên. Cậu không dám mong sẽ có chiếc mũ như thế. Cậu nhìn bên trong rồi bên ngoài; cậu sờ nắn chất liệu và lớp lót bóng mượt. Cậu đội chiếc mũ lên đầu. Mũ rộng một tí, bởi vì cậu còn đang lớn. Thế là cậu có thể đội chiếc mũ này trong một thời gian dài.

Eliza Jane và Alice đang lần mò trong chiếc bít tất của hai cô rồi kêu rú lên, trong khi Royal nhận được một tấm khăn choàng cổ bằng lụa. Almanzo lại thọc tay vào chiếc bít tất của mình, và kéo ra một thỏi kẹo bạc hà giá năm cent. Cậu cắn lấy đầu thỏi kẹo. Phần bên ngoài tan chảy như đường phong, bên trong cứng hơn và cậu có thể nhấm nháp nhiều tiếng đồng hồ.

Rồi cậu kéo ra một đôi găng tay liền ngón. Mẹ đã đan cổ tay và lưng bàn tay với đường đan cách tân. Cậu lôi ra một quả cam, và một gói vả khô. Cậu nghĩ thế là hết, chắc không đứa con trai nào có Giáng Sinh vui hơn.

Nhưng ở đáy chiếc bít tất còn có một món gì khác, trông nhỏ, mỏng và cứng. Almanzo không thể đoán đấy là món gì. Cậu lôi ra, và đấy là con dao xếp, có bốn lưỡi dao.

Almanzo reo và reo lên. Cậu mở tất cả bốn lưỡi dao ra, bén và láng bóng, và cậu lại reo lên:

“Chị Alice, xem này! Anh Royal, xem này! Xem dao xếp của em! Xem chiếc mũ này!”

Từ trong phòng ngủ không ánh đèn, giọng Bố vang ra:

“Xem đồng hồ này!”

Bọn trẻ nhìn nhau. Rồi Royal giơ cao cây nến và cả bọn nhìn lên cái đồng hồ cao. Hai kim chỉ ba giờ rưỡi.

Ngay cả Eliza Jane cũng không biết phải làm thế nào. Bọn trẻ đã đánh thức cả Bố lẫn Mẹ, một tiếng rưỡi đồng hồ trước giờ thức dậy.

Bố hỏi: “Mấy giờ thế?”

Almanzo nhìn qua Royal. Royal và Almanzo nhìn qua Eliza Jane. Eliza Jane nuốt nước bọt, mở miệng nhưng Alice đã nói trước:

“Chúc mừng Giáng Sinh Bố! Chúc mừng Giáng Sinh Mẹ! Lྠlྠbốn giờ kém ba mươi, Bố ạ.”

Đồng hồ ngân lên: “Tích! Tóc! Tích! Tóc! Tích!” Rồi Bố cười khúc khích.

Royal mở các van khói của lò sưởi; Eliza Jane khơi lửa trong bếp lò và đặt ấm nước lên. Khi Bố và Mẹ thức dậy thì ngôi nhà đã ấm áp, và cả nhà có dư thêm một tiếng đồng hồ. Bọn trẻ có thời gian để vui với các món quà.

Alice có một mặt dây chuyền vàng, còn Eliza Jane có một đôi bông tai bằng ngọc hồng lựu. Mẹ đã đan khăn quàng cổ viền ren và găng tay liền ngón mầu đen viền ren cho hai cô. Royal có khăn choàng cổ và ví tiền bằng da loại tốt. Nhưng Almanzo nghĩ những món quà của cậu có giá trị hơn tất cả. Đấy là một kỳ Giáng Sinh tuyệt vời.

Mẹ bắt đầu hối hả, và Mẹ thúc hối tất cả những người khác. Có nhiều công việc trang trại phải làm, phải hớt váng trong sữa, gạn sữa mới và mang đi cất, ăn điểm tâm, gọt rau củ, dọn dẹp mọi thứ cho ngăn nắp và ăn mặc đàng hoàng trước khi khách đến.

Mặt trời đang lên. Mẹ xăng xái khắp nơi, nói luôn miệng: “Almanzo, rửa tai đi! Ôi trời! Royal, đừng đứng xớ rớ! Eliza Jane, con chỉ gọt khoai tây chứ không cắt ra, đừng để lại quá nhiều mắt kẻo chúng trông thấy được mà nhảy ra khỏi nồi. Alice, đếm các món bằng bạc rồi bày ra cùng với muỗng nĩa. Khăn bàn tẩy trắng tốt nhất ở ngăn kéo cuối cùng. Trời ơi! xem đồng hồ kìa!”

Tiếng chuông xe trượt tuyết ngân vang từ con đường. Mẹ đóng sập lò nướng, chạy đi tháo tạp dề ra và cài ghim hoa trên áo. Alice chạy xuống lầu và Eliza Jane chạy lên lầu, cả hai đều bảo Almanzo điều chỉnh khăn quàng cổ. Bố đang kêu Mẹ giúp thắt cà vạt. Rồi xe trượt tuyết của Cậu Wesley dừng lại với những tiếng chuông leng keng cuối cùng.

Almanzo vừa reo hò vừa chạy ra. Bố và Mẹ đi theo sau, điềm tĩnh như chưa hề vội vã trong đời. Frank, Fred, Abner và Mary tụt xuống khỏi xe, cả bốn đứa gói mình trong đủ loại quần áo mũ mãng. Trước khi Mợ Lindy trao em bé cho Mẹ bế thì xe trượt tuyết của Cậu Andrew trờ tới. Sân vườn đầy đàn ông con trai, còn trong nhà đầy những tà váy phồng. Hai người cậu dậm tuyết khỏi đôi ủng và tháo khăn quàng cổ ra.

Royal và em họ James đưa hai xe trượt tuyết vào Trại-Thỏ. Hai cậu tháo ngựa ra, dẫn vào ô chuồng và chà sát các ống chân phủ tuyết.

Almanzo đang đội chiếc mũ hàng hiệu, và cậu cho em họ xem con dao xếp. Chiếc mũ của Frank bây giờ đã cũ. Frank cũng có một con dao xếp, nhưng nó chỉ có ba lưỡi.

Rồi Almanzo chỉ cho các em họ xem hai con ngựa Star và Bright, chiếc xe trượt tuyết nhỏ, và cậu để cho các em họ dùng lõi bắp gãi tấm lưng trắng của con lợn Lucy. Cậu bảo các em có thể đến xem con Starlight nếu giữ im lặng và không làm cho con vật sợ.

Con ngựa non đẹp giật đuôi, đường hoàng đi về phía bọn trẻ. Rồi nó hất đầu lên và thối lui khi Frank đưa tay qua chấn song.

Almanzo nói: “Em để yên cho nó!”

Frank nói: “Em dám chắc anh không dám đi vào trong và leo lên lưng nó.”

Almanzo trả lời: “Anh dám, nhưng anh có ý thức tốt hơn. Anh biết không nên làm hư một con ngựa non tốt.”

Frank nói: “Làm hư thế nào được? Ôi giào, anh chỉ sợ nó làm anh đau thôi. Anh sợ con ngựa nhỏ nhít ấy!”

Almanzo nói: “Anh không sợ, nhưng Bố không cho phép.”

Frank nói: “Nếu là anh thì em cứ làm khi em muốn. Em dám nói Bố anh sẽ không biết.”

Almanzo không nói, và Frank trèo lên chấn song của ô chuồng.

Nắm lấy một chân của Frank, Almanzo nói: “Em xuống ngay! Đừng làm con ngựa non đó sợ!”

Frank vừa nói vừa đạp chân: “Nếu em thích thì em cứ làm cho nó sợ.” Starlight đang chạy vòng quanh và vòng quanh ô chuồng, và Almanzo muốn la lên để kêu Anh Royal đến. Nhưng cậu biết nếu làm thế sẽ khiến cho Starlight sợ thêm.

Cậu bậm môi kéo thật mạnh, và Frank ngã lăn quay xuống. Tất cả đàn ngựa nhảy dựng lên; Starlight cũng lồng lên và va vào máng ăn.

Frank lồm cồm ngồi dậy, nói: “Tớ sẽ cho cậu biết tay!”

Almanzo đáp: “Thử xem nào!”

Royal từ Trại-Nam vội vã chạy đến. Anh nắm lấy vai Almanzo và Frank và điệu hai chú nhóc ra ngoài. Fred, Abner và John lặng thinh đi theo sau. Hai đầu gối của Almanzo gần sụm xuống; cậu sợ Anh Royal sẽ mách Bố.

Royal nói: “Nếu anh thấy hai cậu quậy phá quanh mấy con ngựa non ấy thì anh sẽ mách Bố và Cậu Wesley. Hai cậu sẽ nhừ đòn.”

Anh Royal lắc Almanzo mạnh đến nỗi cậu không rõ anh lắc Frank mạnh đến thế nào. Rồi Anh Royal đập hai cái đầu va vào nhau. Mắt Almanzo thấy hàng chục ông sao.

Anh Royal nói: “Như thế để dạy cho em chiến đấu. Vào ngày Giáng Sinh mà thế à! Xấu hổ quá!”

Almanzo nói: “Em chỉ ngăn nó làm Starlight sợ.”

Anh Royal nói: “Im đi! Đừng có bẻm mép. Bây giờ phải có tư cách nếu không sẽ hối hận. Đi rửa tay đi; giờ ăn đến rồi.”

Tất cả đi vào gian bếp và rửa tay. Mẹ và các cô và các em gái họ lo sắp bữa ăn. Bàn ăn đã được xoay vòng và kéo ra cho đến khi nó dài gần bằng phòng ăn, và mỗi phân vuông trên mặt bàn đều đầy ắp thức ăn ngon lành.

Almanzo cúi đầu và nhắm nghiền mắt trong khi Bố đọc lời chúc phúc. Lời chúc phúc kéo dài, bởi hôm nay là Ngày Giáng Sinh. Nhưng cuối cùng rồi Almanzo có thể mở mắt ra. Cậu im lặng nhìn bàn ăn.

Cậu nhìn con lợn con với lớp da quay giòn nằm trên một chiếc đĩa lam to với một quả táo trong miệng. Cậu nhìn qua con ngỗng nướng mập mạp, hai chân giơ lên, và nước sốt đang cuộn chảy ra. Tiếng Bố mài dao trên mảnh đá mài càng làm cho cậu thấy đói cồn cào.

Cậu nhìn đến thố to đựng thạch nam việt quất, đến một núi khoai tây nghiền mịn như lông tơ, với bơ lỏng chảy tràn. Cậu nhìn qua đống củ cải trắng nghiền, bí vàng bỏ lò, và củ cải vàng rán.

Cậu nuốt ực nước bọt và cố không nhìn nữa. Nhưng cậu chẳng đặng đừng liếc qua món táo và củ hành rán, và cà rốt tẩm đường. Cậu chẳng đặng đừng trông thấy những miếng bánh nướng nhân táo cắt ra thành hình tam giác đang chờ đợi bên chiếc đĩa của cậu; bánh bí đỏ nhiều hương liệu, bánh kem đang tan chảy, thịt băm sẫm mầu nằm giữa hai lớp vỏ của chiếc bánh nhân thịt.

Cậu xoắn hai bàn tay với nhau giữa hai đầu gối. Cậu phải ngồi im lặng mà chờ, trong khi thấy nhức nhối và cồn cào trong bụng.

Tất cả người lớn ngồi ở đầu bàn phải được phục vụ trước. Họ vừa chuyền cho nhau đĩa của mỗi người, vừa cười nói rôm rả. Thịt lợn mềm rời ra thành từng lát dưới lưỡi dao của Bố. Từng chiếc muỗng nuốt trọn một mảng thạch nam việt quất trong suốt rồi đưa lên đĩa, khoét sâu vào khối khoai tây nghiền rồi đưa lên đĩa, lại múc đầy nước sốt mầu nâu rồi đưa lên đĩa.

Almanzo phải chờ cho đến lượt cuối cùng. Cậu là người nhỏ tuổi nhất, chỉ trừ Abner và các em bé, nhưng Abner lại là khách nên được ưu tiên.

Cuối cùng thì đĩa của Almanzo cũng đầy thức ăn. Hương vị đầu tiên mang lại một cảm giác sảng khoái, rồi cảm giác tăng dần và tăng dần, trong khi cậu ăn và ăn và ăn. Almanzo ăn cho đến khi không thể nào ăn thêm được nữa, và cảm thấy thật no nê thỏa dạ. Trong một lúc cậu còn nấn ná ngồi gặm nhấm miếng bánh nhân trái cây thứ hai. Rồi cậu cho miếng bánh còn lại vào túi quần và đi ra ngoài chơi đùa.

Royal và James đang chia phe để chơi trò pháo đài tuyết. Royal chọn Frank, còn James chọn Almanzo. Sau khi đã chia làm hai phe, tất cả bắt đầu chơi bằng cách lăn những quả cầu tuyết qua đụn tuyết kế bên chuồng trại. Bọn trẻ lăn cho đến khi các quả cầu tuyết cao gần bằng Almanzo; rồi chúng lăn đến một bức tường. Chúng lấy tuyết đắp thêm vào giữa các quả cầu tuyết, để làm thành một pháo đài.

Tiếp đó mỗi phe vo những quả cầu tuyết nhỏ. Chúng thở ra hơi thở trong tuyết cho tan chảy bên ngoài, rồi vo cho cứng. Mỗi bên làm ra một tá quả cầu tuyết cứng. Khi chuẩn bị chiến đấu, Royal ném một chiếc gậy lên không trung rồi nắm bắt khi gậy rơi xuống. James nắm lấy cây gậy phía trên tay Royal, rồi Royal nắm lấy cây gậy phía trên tay James, và cứ thế cho đến phần cuối cây gậy. Tay của James nắm phần cuối, thế là phe của James chiếm được pháo đài.

Các quả cầu tuyết bay trông mà khiếp! Almanzo thụp đầu, đảo người, la thét, ra sức ném các quả cầu tuyết thật nhanh cho đến hết. Royal chạy lên trên bức tường thành trong khi quân địch đuổi theo sau lưng, rồi Almanzo vùng dậy mà tóm lấy Frank. Bọn chúng đâm đầu xuống lớp tuyết dầy bên ngoài tường thành, lăn qua lộn lại, đấm đá vào nhau.

Mặt Almanzo phủ đầy tuyết và miệng cũng ngậm đầy tuyết, nhưng cậu vẫn níu lấy Frank mà đấm đá. Frank đè cậu xuống, nhưng Almanzo uốn éo luồn ra bên dưới. Đầu Frank va phải sống mũi cậu, và mũi bắt đầu chảy máu. Almanzo không màng. Cậu đang đè lên người Frank, đấm đá mạnh dưới lớp tuyết dầy. Cậu liên tiếp la lên: “Cho đáng này! Cho đáng này!”

Frank kêu lên ồng ộc, người vặn vẹo. Cậu lăn qua một bên, nhưng Almanzo vẫn bám theo. Almanzo không đè lên người Frank được để giáng đòn tiếp, nên cậu sà xuống đè Frank cho mặt áp sâu và áp sâu hơn nữa xuống lớp tuyết. Và Frank thở hổn hển: “Đủ rồi!”

Almanzo ngồi dậy bằng hai đầu gối, và thấy Mẹ xuất hiện ở khung cửa ra vào. Bà kêu lên:

“Mấy đứa! Mấy đứa! Không chơi nữa. Đến lúc phải vào trong nhà cho ấm.”

Bọn trẻ đã đủ ấm. Chúng cảm thấy rất nóng người, thở hồng hộc. Nhưng Mẹ và các Dì nghĩ các em họ phải làm cho ấm người trước khi ra về trong khí lạnh. Cả bọn lệt bệt kéo vào, người ngợm phủ đầy tuyết. Mẹ giơ hai tay, kêu lên:

“Ôi trời ơi!”

Người lớn đang tụ tập trong phòng khách, nhưng bọn con trai chỉ được vào phòng ăn chứ không được vào phòng khách kẻo tuyết tan trên tấm thảm. Chúng không được ngồi, bởi vì các chiếc ghế được phủ những tấm chăn che người và chăn phủ chân, ấm hẳn lên nhờ lò sưởi. Nhưng bọn trẻ được ăn táo và uống nước táo lên men trong khi vẫn đứng quây quần, rồi Almanzo và Abner đi vào gian bếp và vét hết những mảnh vụn còn sót trên các đĩa đựng thức ăn.

Rồi hai Cậu, Mợ và Dì cùng các em họ mặc các lớp áo và khăn quàng phủ kín người, bế các em bé đang ngủ say từ phòng ngủ, được bọc kín trong những tấm khăn quấn. Hai chiếc xe trượt tuyết chạy kêu leng keng từ trại; Bố và Mẹ giúp tấn những tấm chăn che người và chăn phủ chân, phía trên các vòng váy phồng. Mọi người kêu lên: “Tạm biệt! Tạm biệt!”

Nhạc điệu của những chiếc chuông xe trượt tuyết vang vọng lại một lúc; rồi tất cả im bặt. Giáng Sinh đã đi qua.

Chở gỗ

Tháng Giêng năm ấy khi trường học mở cửa lại, Almanzo không phải đi học. Cậu phải giúp chở gỗ từ rừng về nhà.

Vào những buổi sáng giá lạnh trước khi mặt trời mọc, Bố thắng hai con bò đực to vào chiếc xe trượt tuyết lớn và Almanzo thắng hai con bò một tuổi vào chiếc xe trượt tuyết nhỏ. Bây giờ hai con Star và Bright quá lớn nên không vừa với cái ách nhỏ, còn cái ách lớn lại quá nặng nên Almanzo không thể điều khiển một mình. Pierre giúp cậu nhấc cái ách lớn lên cổ con Star, và Louis giúp cậu đẩy con Bright phía dưới đầu bên kia cái ách.

Đôi bò một tuổi đã nhàn rỗi trên đồng cỏ suốt mùa hè, và bây giờ chúng không thích làm việc. Khó mà đặt hai vòng sắt vào đúng vị trí và gắn chốt vòng cho nhanh.

Almanzo phải nhẫn nại và nhẹ nhàng. Cậu vuốt ve đôi bò một tuổi (tuy đôi lúc cậu muốn đánh chúng), cho chúng ăn cà rốt và nói nhỏ nhẹ với chúng. Nhưng trước khi cậu đưa được hai con vật vào ách và thắng vào chiếc xe trượt tuyết thì Bố đã đánh chiếc xe trượt tuyết kia đi ra khoảnh rừng cây gỗ.

Almanzo điều khiển chiếc xe trượt tuyết của cậu theo sau. Đôi bò ngoan ngoãn làm theo khi cậu hô lên “Đạp!”, và rẽ phải hoặc rẽ trái khi cậu hô “Tắc!” hoặc “Rì!” Đôi bò lê bước trên đường, lên dốc đồi và xuống dốc đồi, Almanzo điều khiển chúng trong khi hai cậu con trai Pierre và Louis đi theo sau.

Bây giờ Almanzo đã tròn mười tuổi, và cậu đang ngồi trên xe trượt tuyết của mình điều khiển đôi bò, trên đường đến khoảnh rừng cây gỗ để chở gỗ về nhà.

Trong rừng, tuyết dồn lại thành một lớp cao quanh các gốc cây. Các cành thấp của thông và tuyết tùng chìm ngập trong tuyết. Không có đường sá; không có dấu vết gì trên mặt tuyết mà chỉ có những vệt lông chim và những điểm lờ mờ nơi thỏ đã nhảy qua. Sâu trong khoảnh rừng yên ả, tiếng rìu đẵn gỗ vọng vang,

Đôi bò lớn của Bố lầm lũi trên lớp tuyết, mở ra một con đường, và đôi bò một tuổi của Almanzo tiếp bước theo sau. Họ đi xa hơn và xa hơn vào rừng, rồi đến một khoảnh trống nơi French Joe và Lazy John đang đốn cây.

Các súc gỗ nằm ngổn ngang khắp nơi, vùi phân nửa dưới lớp tuyết. John và Joe đã cưa thành những đoạn súc gỗ dài năm mét, và một số đoạn có đường kính đến sáu tấc. Các đoạn súc gỗ to thì quá nặng đến nỗi sáu người vẫn không nhấc lên nổi, nhưng Bố phải đưa cho được lên xe trượt tuyết.

Don go

Bố dừng xe trượt tuyết bên cạnh một súc gỗ; John và Joe đến để phụ giúp. Họ có ba cây cọc cứng chắc, gọi là thanh trượt. Họ đặt ba thanh trượt này dưới súc gỗ, và để cho ba thanh trượt dốc ngược lên xe trượt tuyết. Rồi họ cầm lấy cây sào lật. Các cây sào lật này có đầu nhọn, với móc sắt to đung đưa lỏng lẻo phía dưới.

John và Joe đứng gần hai đầu súc gỗ. Hai người đặt đầu nhọn của cây sào lật sát súc gỗ, và khi bẩy cây sào lên, móc sắt cắn vào súc gỗ và lăn súc gỗ lên một ít. Rồi Bố cầm cây sào lật cắm vào phần giữa của súc gỗ để giữ cho súc gỗ không lăn xuống, trong khi John và Joe nhanh chóng để móc sắt của họ trượt xuống và lại cắn vào điểm khác của súc gỗ. Ba người lăn súc gỗ lên thêm được một ít, tuần tự Bố giữ lấy súc gỗ không cho lăn xuống và tuần tự hai người lăn khúc gỗ lên thêm.

Ba người giúp nhau lăn khúc gỗ mỗi lần một ít trên ba thanh trượt, rồi cuối cùng súc gỗ lăn vào xe trượt tuyết.

Nhưng Almanzo không có sào lật trong khi vẫn phải chở gỗ trên xe trượt tuyết của mình.

Almanzo tìm được ba đoạn cọc thẳng để làm thanh trượt. Rồi với những cọc ngắn hơn cậu bắt đầu lăn lên những súc gỗ nhỏ. Các súc gỗ này chỉ có đường kính khoảng hai tấc và dài ba mét, lại vặn vẹo nên khó đưa lên xe trượt tuyết.

Almanzo nhờ Pierre và Louis đứng ở hai đầu súc gỗ, còn cậu đứng ở giữa, giống như Bố. Ba đứa đẩy, bẩy, nhấc lên và thở mạnh, đẩy súc gỗ lên ba thanh trượt. Công việc khó khăn bởi vì cây sào của ba đứa không có móc và không thể giữ chặt lấy súc gỗ.

Ba cậu bé cố gắng lăn được sáu súc gỗ; rồi phải lăn thêm súc gỗ chồng lên sáu súc ấy. Việc này làm cho ba thanh trượt dốc ngược lên thêm. Chiếc xe trượt tuyết của Bố đã được chất đầy, và Almanzo phải làm nhanh thêm. Cậu vung cây roi để thúc giục Star và Bright đi nhanh đến súc gỗ khác gần nhất.

Một đầu của súc gỗ này to hơn đầu kia, nên nó sẽ lăn không được đều. Almanzo bảo Louis đứng ở đầu nhỏ và dặn cậu này đừng lăn quá nhanh. Pierre và Louis lăn súc gỗ được vài phân rồi Almanzo chèn cây sào phía dưới để giữ lấy súc gỗ, trong khi Pierre và Louis lăn tiếp súc gỗ lên. Ba đứa đưa được súc gỗ lên trên ba thanh trượt dốc cao.

Almanzo đang cố sức giữ lấy súc gỗ. Hai chân cậu đang ghì lại, hai hàm răng nghiến chặt, cổ bạnh và mắt lồi ra, thì thình lình cả súc gỗ tuột xuống.

Cây sào vuột ra khỏi hai tay cậu và đập vào đầu cậu. Súc gỗ đang lăn về phía cậu. Almanzo cố chạy tránh, nhưng không kịp và bị đập ngã xuống tuyết.

Pierre và Louis la thét lên và la thét mãi. Almanzo không đứng lên được. Súc gỗ nằm đè lên người cậu. Bố và John chạy đến nâng súc gỗ lên, và Almanzo bò ra. Cậu cố gắng đứng lên được.

Bố nói: “Con trai, đau không?”

Almanzo sợ đến nỗi cảm thấy bụng nhộn nhạo cả lên. Cậu cố gắng đáp: “Không, Bố ạ.”

Bố sờ nắn hai vai và hai tay của Almanzo.

Bố nói vui vẻ: “Tốt, tốt, không xương nào bị gẫy!”

John nói: “May là tuyết dầy. Nếu không cậu đã có thể bị thương nặng.”

Bố nói: “Con trai à, tai nạn là chuyện thường. Lần sau phải cẩn thận hơn. Phải tự dòm ngó lấy mình trong đám gỗ.”

Almanzo muốn nằm nghỉ. Đầu cậu đau, bụng đau và chân trái đau vô cùng. Nhưng cậu vẫn giúp Pierre và Louis xoay lại súc gỗ, và lần này cậu không hối hả. Ba đứa con trai đưa được súc gỗ lên, nhưng Bố đã đánh xe về trước rồi.

Almanzo quyết định không lăn thêm súc gỗ nào lên nữa. Cậu leo lên trên đống gỗ, vụt cây roi và ra hiệu lệnh:

“Đạp!”

Star và Bright kéo, nhưng chiếc xe không nhúc nhích. Rồi Star kéo, và ngưng lại. Bright cố kéo, rồi ngưng lại khi Star kéo lần nữa. Cả hai con bò ngưng lại, chán nản.

“Đạp! Đạp!” Almanzo vẫn thét lên, vẫn vung cây roi.

Star lại kéo, rồi Bright lại kéo, rồi đến Star. Chiếc xe trượt tuyết vẫn nằm một chỗ. Star và Bright đứng yên, thở phì phò. Almanzo muốn khóc và cằn nhằn. Cậu lại thét:

“Đạp! Đạp!”

John và Joe ngừng cưa, và Joe đi đến bên xe trượt tuyết.

Anh nói: “Cậu chất quá nặng. Các cậu xuống đi bộ. Còn Almanzo, cậu nhỏ nhẹ nói chuyện với chúng. Nếu cậu không cẩn thận, chúng có thể ương ngạnh.”

Almanzo leo xuống. Cậu vuốt ve cổ hai con bò, gãi quanh gốc sừng của chúng. Cậu nâng cái ách lên một chút, bàn tay cậu xoa xoa da hai con vật phía dưới ách, rồi nhẹ nhàng đặt ách xuống. Rồi cậu đứng bên con Star, vung roi và ra hiệu lệnh:

“Đạp!”

Hai con Star và Bright cùng kéo cùng một lúc, và chiếc xe chuyển động.

Almanzo lê bước suốt chặng đường về nhà. Pierre và Louis nhàn nhã bước trên vệtt lún phía sau hai tấm ván trượt, nhưng Almanzo phải khổ nhọc bước trên lớp tuyết xốp, dầy bên cạnh con Star.

Khi cậu đi đến đống gỗ ở nhà, Bố khen cậu đã làm tốt vì đã đi ra được khỏi khoảnh rừng cây gỗ.

Bố nói: “Con trai à, lần sau rút kinh nghiệm để không chở nặng quá khi đường đi còn mới. Nếu để cho hai con vật cố sức nhùng nhằng thì con sẽ làm chúng hư. Chúng có ý nghĩ rằng không thể kéo được sức nặng, thế là chúng không chịu cố sức nữa. Sau đấy, chúng không làm việc tốt nữa.”

Almanzo không thể dùng bữa chiều. Cậu cảm thấy mệt mỏi vô cùng, chân vẫn đau nhức. Mẹ nghĩ có lẽ cậu nên ngưng công việc, nhưng Almanzo không muốn để cho một tai nạn nhỏ ngáng trở mình.

Tuy thế, cậu vẫn chậm. Trước khi đến khoảnh rừng cây gỗ, cậu gặp Bố đang chở gỗ về nhà chuyến đầu tiên. Almanzo biết xe trượt tuyết trống lúc nào cũng phải nhường đường cho xe chở nặng, nên cậu vung cây roi và kêu:

“Tắc!”

Star và Bright tránh qua bên phải, và trước khi Almanzo kịp hô tiếp, hai con vật đã lún sâu dưới lớp tuyết. Chúng không biết cách mở đường phủ tuyết như bò lớn tuổi. Chúng thở phì phò, loạng choạng, chúi lên chúi xuống, trong khi chiếc xe lún thêm dưới tuyết. Hai con vật cố quay vòng; cái ách bị xoắn khiến cho chúng gần nghẹt thở.

Almanzo nỗ lực trong lớp tuyết, cố nắm lấy đầu hai con vật. Bố quay lại nhìn trong khi ông đi ngang qua. Rồi ông lại quay về phía trước mà đánh xe về nhà.

Almanzo nắm được đầu con Star và dịu dàng nói chuyện với nó. Pierre và Louis nắm được con Bright, và hai con vật ngưng chúi lên chúi xuống. Chỉ có đầu và lưng của chúng còn ở phía trên lớp tuyết. Almanzo càu nhàu:

“Khỉ thật!”

Ba cậu bé tìm cách đào tuyết chung quanh để đưa hai con bò và xe trượt tuyết lên. Ba đứa không có xẻng. Chúng phải hành động nhanh chóng bằng tay chân. Không có cách nào khác.

Phải mất thời gian dài. Nhưng ba đứa vẫn chân đá tay cào tuyết ra khỏi phía trước xe trượt tuyết và hai con bò. Ba đứa dậm cho tuyết cứng và phẳng phía trước hai tấm ván trượt. Almanzo kéo lưỡi kẹp, dây xích và ách cho ngay ngắn.

Almanzo phải ngồi nghỉ một phút. Rồi cậu đứng dậy, vuốt ve Star và Bright, thốt lời động viên chúng. Cậu tịch thu một quả táo của Pierre, bẻ làm hai rồi đút cho hai con vật. Khi chúng ăn xong, cậu vung cây roi và vui vẻ cất tiếng:

“Đạp!”

Pierre và Louis cố hết sức đẩy. Chiếc xe bắt đầu chuyển động. Almanzo thét hiệu lệnh và vung roi. Star và Bright cong lưng kéo. Chúng leo lên khỏi rãnh sụp, và chiếc xe đi lên với một cái lắc lư.

Đấy là một vấn nạn mà Almanzo đã tự mình giải quyết.

Bây giờ con đường trong khoảnh rừng đã được mở tương đối tốt, và lần này Almanzo không lăn quá nhiều súc gỗ lên xe. Thế là cậu dễ dàng đánh xe cho chuyến về, với ba cậu bé cùng ngồi trên đống súc gỗ.

Dọc con đường dài cậu thấy Bố đang đánh xe đi đến, và cậu nhủ thầm rằng lần này Bố phải nhường đường cho mình đi qua.

Star và Bright vững chắc bước đi, chiếc xe trượt tuyết đang lướt dễ dàng xuống con đường trắng xóa. Cây roi của Almanzo vung vang dội trong không khí giá lạnh. Đôi bò lớn của Bố đang đi đến gần hơn, và Bố đang ngồi trên chiếc xe trượt tuyết lớn.

Tất nhiên là bây giờ đôi bò lớn phải nhường đường cho xe chở tải của Almanzo. Hoặc có lẽ hai con Star và Bright nhớ ra rằng khi trước chúng đã rẽ nhường đường. Hoặc có lẽ chúng biết phải tỏ ra lịch sự với bò lớn tuổi hơn, to hơn. Không ai mong chờ chúng rẽ khỏi con đường, nhưng thình lình chúng làm thế.

Một tấm ván trượt sa vào tuyết mềm. Rồi cả xe trượt tuyết, các súc gỗ và ba cậu bé, tất cả đều lộn nhào, hỗn loạn cả lên.

Almanzo ngã nhào ra rồi cắm đầu xuống tuyết.

Cậu nuốt nước bọt, lồm cồm bò lên rồi đứng dậy. Chiếc xe trượt tuyết của cậu lật qua một bên. Các súc gỗ lăn lóc khắp nơi, chìm ngập dưới lớp tuyết. Có một đống các chân và sườn nâu-đỏ bị tuyết phủ lên. Đôi bò lớn của Bố bình thản đi qua.

Pierre và Louis chui ra khỏi đống tuyết, càu nhàu bằng tiếng Pháp. Bố dừng đôi bò lớn lại, nhảy xuống khỏi xe.

Ông nói: “Này, này, này, con trai. Có vẻ như ta lại gặp nhau.”

Bố và Almanzo nhìn đôi bò tơ. Bright nằm phía trên Star; tám chân và dây xích và lưỡi kẹp nhùng nhằng với nhau, còn cái ách lại nằm qua hai tai con Star. Hai con vật một tuổi nằm yên, chúng đã khôn ra nên biết không nên cử động. Bố giúp tháo gỡ đống lộn xộn và giúp đôi bò đứng lên. Chúng không bị thương tích.

Bố giúp lật xe trượt tuyết của Almanzo lại trên hai ván trượt.

Với hai cọc xe của Bố làm thanh trượt và hai cọc xe của Almanzo làm cây sào lật, Bố giúp đưa các súc gỗ lên xe trượt tuyết. Rồi ông bước lùi lại mà không nói câu nào trong khi Almanzo đặt ách lên cổ hai con Star và Bright, vuốt ve và khuyến khích chúng, điều khiển cho chúng kéo chiếc xe nghiêng dọc rìa con rãnh và cuối cùng an toàn trở lên con đường.

Bố nói: “Con trai à, đúng là như thế! Thua keo này, ta bày keo khác!”

Bố tiếp tục đánh xe đến khoảnh rừng cây gỗ, còn Almanzo đánh xe về nhà.

Suốt cả tuần ấy và suốt cả tuần sau, Almanzo tiếp tục chở gỗ về nhà. Cậu học được cách trở thành người điều khiển bò giỏi và chở gỗ giỏi. Mỗi ngày qua đi, chân cậu bớt nhức, và cuối cùng cậu không còn bước khập khiễng nữa.

Cậu giúp Bố chở được một đống gỗ súc to, sẵn sàng được cưa, xẻ và buộc lại trong kho gỗ.

Rồi một buổi tối, Bố cho biết họ đã chở đủ phần cung cấp gỗ cho năm ấy, và Mẹ nói đã đến lúc Almanzo phải đi học trong học kỳ mùa đông.

Almanzo nói còn phải đập hoa mầu, và các con bê cần được tập luyện. Cậu hỏi:

“Con đi học để làm gì? Bây giờ con đã biết đọc, biết viết và biết đánh vần, mà con không muốn làm thầy giáo hoặc làm chủ cửa hiệu.”

Bố nói chậm rãi: “Con biết đọc, biết viết và biết đánh vần. Nhưng con làm tính được không?”

Almanzo đáp: “Được, Bố ạ. Con có thể làm tính¾ một ít.”

“Con trai à, nông dân cần biết làm tính nhiều hơn thế. Con nên đi học.”

Almanzo không nói gì thêm; cậu biết nói gì nữa cũng vô ích. Sáng hôm nay cậu mang theo hộp thức ăn đi đến trường.

Trong học kỳ này, cậu ngồi lui về phía sau nên có bàn để đặt sách và bảng đen. Cậu học chăm chỉ môn số học, bởi vì nếu cậu học xong môn này càng nhanh thì cậu càng sớm được thôi học.

Ví tiền của Ông Thompson

Bố thu hoạch được nhiều cỏ đến nỗi đàn gia súc không ăn hết, vì thế ông quyết định chở một ít cỏ khô đi bán ở thị trấn. Bố đi vào rừng mang về một súc gỗ thẳng, láng. Bố đẽo bỏ lớp vỏ cây, rồi dùng vồ gỗ đập khúc gỗ, lăn trở và tiếp tục đập cho đến khi vòng gỗ mọc thêm mùa hè trước mềm đi, làm tróc ra vòng gỗ mọc mùa hè trước nữa.

Bố dùng dao cắt những đường dài từ đầu này đến đầu kia, cách nhau khoảng gần bốn phân. Rồi Bố lột ra những phiến gỗ mỏng, dai, rộng gần bốn phân. Đấy là liễu tần bì.

Khi Almanzo thấy những phiến gỗ này chất trên Nền Trại-Lớn, cậu đoán Bố sắp đóng bành cỏ khô. Cậu hỏi:

“Bố cần con phụ giúp không?”

Đôi mắt Bố nhấp nháy: “Cần, con trai à. Con ở nhà. Đã đến tuổi con cần học cách đóng bành cỏ.”

Sáng sớm hôm sau Ông Weed, người đóng bành cỏ, mang máy ép đến. Almanzo phụ giúp đặt máy ở Nền Trại-Lớn. Đấy là một thùng gỗ rắn chắc, có chiều dài và chiều rộng bằng một bành cỏ, nhưng cao đến ba mét, và mặt đáy lỏng lẻo. Hai cần sắt được đóng bản lề ở đáy, và hai cần này chạy trên những bánh xe nhỏ nằm trên những đường ray chạy ra từ mỗi đầu thùng.

Đường ray giống như đường tầu hỏa nhỏ, và máy ép được gọi là máy ép đường tầu. Đấy là một kiểu máy mới để ép bành cỏ.

Trong sân chuồng, Bố và Ông Webb đặt một cái tời, với một cần dài ở phía trên. Một dây thừng từ tời đi qua một vòng dưới máy ép, và được cột vào một dây thừng khác đi vào các bánh xe ở đầu cuối các cần sắt.

Khi mọi việc đã sẵn sàng, Almanzo thắng con Bess vào máy ép. Bố dùng chĩa xúc cỏ vào thùng trong khi Ông Weed đứng trong thùng dậm cỏ chặt xuống, cho đến khi cái thùng không thể chứa thêm cỏ được nữa. Rồi ông đóng chặt nắp trên thùng, và Bố kêu lên:

“Được rồi, Almanzo!”

Almanzo thúc con Bess và kêu lên:

“Đạp, Bess!”

Con Bess bắt đầu đi vòng quanh tời, và tời bắt đầu cuộn dây thừng. Dây thừng kéo hai đầu của cần sắt về phía máy ép, và những đầu trong của các cần đẩy đáy thùng lên trên. Đáy đi lên chầm chậm, nén cỏ chặt lại. Dây thừng kêu ken két và thùng chứa cỏ rên rỉ dưới sức ép, cho đến khi cỏ được nén thật chặt đến mức không thể nào nén thêm được nữa. Rồi Bố kêu lên: “Họ!” và Almanzo kêu lên: “Họ! Bess!”

Bố leo lên máy ép và luồn dải liễu tần bì qua những khe hở hẹp của cái thùng. Bố kéo dải này thật chặt vòng quanh bành cỏ khô, rồi cột chắc chắn.

Ông Weed tháo nắp ra, thế là bành cỏ khô bật lên, phồng ra giữa những dải liễu tần bì. Bành này nặng hơn 100 kí-lô, nhưng Bố vẫn nhấc lên dễ dàng.

Sau đó Bố và Ông Weed chỉnh lại máy ép, Almanzo tháo dây thừng khỏi tời, và ba người lại bắt đầu đóng một bành cỏ khô khác. Họ làm việc suốt ngày hôm ấy, và đến tối Bố cho biết làm thế là đủ.

Almanzo ngồi ở bàn dùng bữa, lòng thầm mong mình không phải trở lại mái trường. Cậu nghĩ về việc làm tính, và nghĩ miên man đến nỗi ngôn từ bỗng vọt ra từ cửa miệng trước khi cậu nhận ra.

Cậu nói: “Chở một chuyến ba mươi bành, với giá hai đô la mỗi bành. Tổng cộng là sáu mươi mỗi ch¾ ”

Cậu ngưng bặt, kinh hãi. Cậu biết mình không được phép nói chuyện ở bàn ăn khi không có ai hỏi.

Mẹ nói: “Ôi trời, nghe thằng bé nói kìa!”

Bố nói: “Này, này, con trai! Bố thấy con đang học có chủ đích.” Ông uống trà từ chiếc đĩa lót, đặt đĩa xuống, rồi lại nhìn Almanzo. “Học thì phải có hành. Ngày mai con đi thị trấn với Bố để bán mấy bành cỏ ấy, con nghĩ thế nào?”

Almanzo gần như reo lên: “Vâng, được! Xin Bố cho con đi!”

Sáng hôm sau Almanzo không phải đi học. Cậu leo lên trên các bành cỏ khô cao nghệu rồi nằm sấp xuống và đá hai gót chân lên. Chiếc mũ Bố đang đội còn thấp hơn cậu, phía trước là hai tấm lưng đầy đặn của đôi ngựa. Cậu đang ở trên cao như thể vừa trèo lên cây.

Các bành cỏ lắc lư nhẹ, chiếc xe goòng kêu kẽo kẹt, vó ngựa tạo những tiếng sồn sột đều đều trên tuyết cứng. Không khí trong và lạnh, bầu trời xanh thẳm, và các cánh đồng tuyết đang lấp lánh.

Ngay bên kia cây cầu bắc qua Sông Cá Hương, Almanzo thấy một vật nhỏ mầu đen nằm bên vệ đường. Khi chiếc xe goòng đi qua, cậu nghiêng mình ra ngoài các bành cỏ và nhận ra đấy là một chiếc ví. Cậu kêu lên; Bố dừng đôi ngựa để cậu trèo xuống nhặt chiếc ví. Đấy là một chiếc ví dầy cộm, mầu đen.

Almanzo trèo lên các bành cỏ và đôi ngựa tiếp tục bước. Cậu nhìn chiếc ví. Cậu mở ra, bên trong đầy những tờ giấy bạc. Không có gì cho thấy ai là chủ nhân chiếc ví.

Almanzo trao chiếc ví cho Bố, và Bố trao cho cậu dây cương. Đôi ngựa trông thật thấp phía dưới, với các dây cương chạy dốc xuống cho đến thanh cong quanh cổ ngựa. Almanzo cảm thấy mình thật bé nhỏ, nhưng cậu thích điều khiển ngựa. Cậu cẩn thận nắm lấy dây cương; đôi ngựa vẫn chạy đều. Bố đang nhìn đến chiếc ví và số tiền.

Bố nói: “Có một nghìn năm trăm đô la ở đây. Thế thì chủ nhân là ai? Ông ta là người nghi ngại ngân hàng, nếu không thì đã không mang theo người tiền mặt nhiều đến thế. Con có thể thấy những nếp gấp trên các tờ bạc, chứng tỏ ông ta đã mang số tiền này trong một thời gian khá dài. Những tờ bạc này có mệnh giá lớn và được gấp vào nhau, như vậy có lẽ ông ta nhận cả số tiền này cùng một lúc. Thế thì người có tính vừa nghi ngại vừa bủn xỉn và bán thứ gì đấy có giá, ông ta là ai?”

Almanzo không biết, nhưng Bố không mong chờ cậu trả lời được. Đôi ngựa đi theo một đường vòng như thể Bố đã lèo lái chúng.

Bố kêu lên: “Thompson! Ông ta vừa bán một mảnh đất mùa thu rồi. Ông ta e ngại ngân hàng, ông có tính cả nghi, lại bủn xỉn gần đến mức vắt cổ chày ra nước. Thompson chính là người này!”

Bố cho chiếc ví vào túi rồi nhận lại dây cương từ tay Almanzo. Bố nói: “Chúng ta sẽ xem liệu có thể tìm ra ông này ở thị trấn hay không.”

Trước nhất Bố đánh xe đến Trại Dưỡng, Bán và Cho ăn. Ông chủ trại dưỡng đi ra, và như đã hứa, Bố để cho Almanzo bán cỏ khô. Bố lùi lại và không nói gì, trong khi Almanzo cho chủ trại dưỡng biết cỏ khô đóng bành thuộc loại cỏ đuôi mèo và đậu ba lá có chất lượng tốt, sạch, mỗi bành đều được nén chặt và có đủ trọng lượng.

Ông chủ trại dưỡng hỏi: “Cậu tính giá bao nhiêu?”

Almanzo đáp: “Hai đô la hai mươi lăm một bành.”

Ông chủ trại dưỡng nói: “Tôi không thể trả giá đó. Đắt quá.”

Almanzo hỏi ông: “Ông thấy giá phải chăng là bao nhiêu?”

Ông chủ trại dưỡng nói: “Hai đô la, thêm một xu cũng không được.”

Almanzo nói nhanh: “Được rồi, cháu lấy hai đô la.”

Ông chủ trại dưỡng nhìn Bố, rồi kéo chiếc mũ ra phía sau và hỏi Almanzo tại sao lúc đầu cậu ra giá hai đô la hai mươi lăm.

Almanzo hỏi: “Ông đang mua với giá hai đô la phải không?” Ông chủ trại dưỡng đáp phải. Almanzo nói: “Cháu ra giá hai đô la hai mươi lăm bởi vì nếu cháu ra giá 2 đô la thì hẳn bác chỉ trả một đô la bảy mươi lăm.”

Ông chủ trại dưỡng cười, và nhìn Bố: “Ông có cậu con trai thông minh lắm.”

Bố nói: “Thời gian sẽ trả lời. Nhiều khi đầu xuôi nhưng đuôi không lọt. Để xem về lâu dài cậu ấy làm ăn như thế nào.”

Bố không cầm tiền bán cỏ khô; ông để cho Almanzo nhận và đếm để biết chắc khoản tiền là sáu mươi đô la.

Rồi hai bố con đi đến cửa hàng của ông Case. Cửa hàng này luôn đông khách, nhưng Bố luôn mua bán ở đây, bởi vì Ông Case bán hàng hóa rẻ hơn những nhà buôn khác. Ông Case thường nói: “Tôi thích bán rẻ để có đồng ra đồng vào cho nhanh.”

Almanzo cùng Bố đứng trong đám đông chờ đợi trong khi Ông Case tiếp những người đến trước. Ông Case là người lịch sự và thân thiện với mọi người ngang nhau; ông phải tỏ ra như thế bởi vì ai cũng là khách hàng của ông. Bố cũng lịch sự với mọi người, nhưng đối với vài người ông không muốn thân thiện.

Sau một lúc Bố trao cho Almanzo chiếc ví và bảo cậu đi tìm Ông Thompson. Bố phải chờ đến lượt mình ở cửa hàng; ông không thể phí thời giờ vì muốn hai bố con trở về vào giờ làm công việc trang trại.

Không có đứa trẻ nào khác trên đường phố; tất cả bọn chúng đều đi học. Almanzo thích đi dọc hè phố, mang cả số tiền lớn, và cậu nghĩ Ông Thompson sẽ rất vui khi tìm lại số tiền này.

Cậu nhìn vào các cửa hàng, hiệu cắt tóc, và ngân hàng. Rồi cậu thấy đôi ngựa của Ông Thompson đứng bên lề đường, trước xưởng đóng xe goòng của Ông Paddock. Cậu mở cửa ra vào của tòa nhà dài, thấp, và bước vào.

Ông Paddock và Ông Thompson đang đứng gần lò sưởi có bụng tròn, nhìn một khúc gỗ mại châu và bàn bạc về loại gỗ này. Almanzo đứng chờ, vì cậu không thể ngắt ngang hai người.

Bên trong tòa nhà ấm áp, có mùi thơm của dăm gỗ, da và sơn. Bên kia lò sưởi, hai công nhân đang đóng một xe goòng, và một công nhân khác đang sơn những đường nhỏ mầu đỏ trên những nan hoa của một chiếc xe một ngựa kéo mới. Chiếc xe bóng loáng một cách hãnh diện với lớp sơn đen. Những dăm gỗ dài cong nằm thành từng đống, cả xưởng trông dễ chịu như là một trang trại vào ngày mưa. Các công nhân huýt sáo khi họ đo, đánh dầu, cưa và chà bóng những thanh gỗ tỏa mùi nhựa sạch.

Ông Thompson đang trả giá cho một xe goòng mới. Almanzo nhận ra Ông Paddock không có cảm tình với Ông Thompson, nhưng vẫn cố bán cho được chiếc xe. Ông tính toán giá cả bằng một cây viết chì to của thợ mộc, và nhẹ nhàng cố thuyết phục Ông Thompson.

Ông nói: “Ông thấy đấy, tôi không thể hạ giá thêm nữa vì còn phải trả lương công nhân của tôi. Tôi đã cố hết sức cho ông. Tôi đảm bảo sẽ đóng một cỗ xe cho ông vừa ý, nếu không thì ông không cần phải nhận.”

Ông Thompson tỏ ý nghi ngờ, nói: “À, tôi có thể sẽ trở lại nếu không tìm được chỗ vừa ý hơn.”

Ông Paddock: “Rất vui được phục vụ ông bất cứ lúc nào.” Rồi ông trông thấy Almanzo, và hỏi cậu con lợn giờ ra sao. Almanzo mến ông Paddock béo và vui tính; ông luôn hỏi chuyện về con lợn Lucy.

Almanzo nói với ông: “Bây giờ nó nặng gần bảy mươi kí.”

Rồi cậu quay sang Ông Thompson và hỏi: “Có phải bác bị mất một chiếc ví không?”

Ông Thompson giật thót mình. Ông đập một tay vào túi quần rồi kêu lên:

“Đúng! Bác bị mất! Mất luôn một nghìn năm trăm đô la trong đó. Chuyện này là thế nào? Cậu biết gì về chuyện này?”

Almanzo hỏi: “Có phải chiếc ví này không?”

Ông nói: “Đúng, đúng, đúng, chính nó!” Rồi ông giật lấy chiếc ví. Ông mở ví ra và hấp tấp đếm số tiền. Ông đếm tất cả các tờ bạc hai lần, và trông ông đúng thật là mẫu người keo kiệt muốn vắt cổ chày ra nước.

Rồi ông thở phào một hơi dài vì nhẹ nhõm, và nói: “Tốt, thằng nhãi này không ăn cắp đồng nào.”

Mặt Almanzo nóng bừng như lửa. Cậu chỉ muốn đánh Ông Thompson.

Ông lần bàn tay xương xẩu vào túi quần và lục lọi. Ông lấy ra món gì đấy.

Ông đặt món ấy vào tay Almanzo, nói: “Đây.” Món ấy là đồng năm cent.

Almanzo tức giận đến mức không trông thấy gì cả. Cậu cảm thấy ghét Ông Thompson; cậu muốn đánh ông ta. Ông Thompson đã gọi cậu là thằng nhãi, và gần như gọi cậu là kẻ ăn cắp. Almanzo không muốn nhận đồng tiền cũ của ông. Bỗng dưng cậu nghĩ mình nên cất tiếng nói.

Almanzo nói: “Này, bác cứ giữ đồng tiền đó. Cháu không xài được.”

Khuôn mặt choắt và bần tiện của Ông Thompson đỏ bừng. Một công nhân cất tiếng cười khẩy, có ý chế nhạo. Nhưng Ông Paddock giận dữ bước đến trước mặt Ông Thompson.

Ông Paddock nói: “Thompson, ông không được gọi cậu bé này là kẻ ăn cắp! Và cậu cũng không phải là hành khất! Ông đối xử với cậu bé như thế phải không? Khi mà cậu ấy mang trả ông một nghìn năm trăm đô la? Gọi cậu bé là kẻ ăn cắp và bố thí năm cent hử?”

Ong Paddock

Ông Thompson bước lui lại, nhưng Ông Paddock bước tới kề bên. Ông Paddock giơ nắm tay dứ dứ ngay trước mũi Ông Thompson.

Ông Paddock nói: “Ông là người bần tiện đáng khinh! Nếu tôi không nói thì ông không nhận ra. Ở ngay trong nhà tôi! Một cậu bé tử tế, lương thiện, đàng hoàng, còn ông— Tôi nhất quyết sẽ— Nhưng không! Ông phải thưởng cho cậu ấy một trăm đô la trong số tiền đó, và phải thưởng ngay! Mà không, hai trăm đô la. Tôi lặp lại, hai trăm đô là, nếu không ông sẽ lãnh hậu quả!”

Ông Thompson cố nói gì đấy, và Almanzo cũng thế. Nhưng Ông Paddock vẫn giữ hai nắm đấm, và các bắp cơ trên hai cánh tay ông cuồn cuộn lên. Ông quát: “Hai trăm đô la! Trao nhanh lên! Nếu không tôi sẽ cho ông biết tay!”

Ông Thompson co người lại, nhìn Ông Paddock, rồi liếm ướt ngón tay cái mà nhanh chóng đếm vài tờ giấy bạc. Ông trao cho Almanzo.

Almanzo nói: “Ông Paddock—”

Ông Paddock chận ngang: “Bây giờ ông xéo khỏi nơi đây, nếu muốn toàn thân! Đi đi!” Và trong khi Almanzo chưa kịp nói tiếng nào, ông Paddock đã nắm lấy các tờ giấy bạc, rồi Ông Thompson bước ra, đóng sập cánh cửa lại.

Almanzo quá phấn khích nên nói lập cập. Cậu nói cậu nghĩ Bố sẽ không chấp nhận việc này. Almanzo thấy chuyện về khoản tiền này là quá lạ lùng, và cậu không muốn nhận. Ông Paddock bảo ông sẽ trình bày vụ việc với Bố; ông kéo hai tay áo xuống, mặc áo choàng vào và hỏi:

“Ông ấy ở đâu?”

Almanzo hầu như phải chạy để theo kịp những bước sải dài của Ông Paddock. Tay ông nắm chặt các tờ giấy bạc. Bố đang chất những gói hàng lên xe goòng, và Ông Paddock kể cho Bố nghe chuyện gì đã xảy ra.

Ông Paddock nói: “Tôi muốn đập vỡ bản mặt nhạo báng của ông ấy. Nhưng tôi kịp nghĩ ra rằng phải bỏ tiền ra là cách khiến cho ông ta đau nhất. Và tôi nghĩ cậu bé xứng đáng nhận khoản tiền này.”

Bố phản đối: “Tôi không biết có ai xứng đáng nhận được gì với lý do là tính lương thiện thông thường. Tuy rằng tôi phải nói tôi đánh giá cao tinh thần của anh, Paddock à.”

Ông Paddock nói: “Tôi chỉ có ý nói cậu bé xứng đáng hưởng một sự biết ơn tử tế khi mang tiền trả lại cho Ông Thompson là đủ. Nhưng để cho cậu bé phải chịu đựng sự sỉ nhục là điều quá đáng. Tôi nghĩ Almanzo xứng đáng nhận hai trăm.”

Bố đáp: “À, anh nói thế có lý phần nào.” Cuối cùng Bố quyết định: “Được rồi, con trai, con có thể giữ số tiền ấy.”

Almanzo vuốt các tờ giấy bạc cho thẳng thớm và nhìn; hai trăm đô la. Bằng số tiền mà anh lái buôn ngựa trả cho một con ngựa bốn tuổi của Bố.

Bố nói: “Anh Paddock, tôi cảm ơn anh đã có lòng bênh vực cho thằng nhỏ theo cách ấy.”

Ông Paddock đáp: “À, nếu vì lẽ phải mà đôi khi tôi mất một khách sộp vẫn không sao.” Ông hỏi Almanzo: “Cậu định làm gì với số tiền đó?”

Almanzo nhìn qua Bố: “Con có thể gửi ngân hàng được không?”

Bố nói: “Đấy là chỗ để giữ tiền. Này, này, này, hai trăm đô la! Phải đến gấp đôi tuổi con Bố mới có số tiền như thế.”

Ông Paddock nói: “Tôi cũng thế. Đúng, còn lớn tuổi hơn thế nữa.”

Bố và Almanzo đi đến ngân hàng. Almanzo có thể nhìn qua bờ tường thấy người thu ngân đang ngồi trên chiếc ghế cao với cây bút chì giắt trên vành tai. Người thâu ngân nghểnh cổ nhìn xuống Almanzo và hỏi Bố:

“Thưa ông, tôi ghi số tiền vào tài khoản của ông phải không?”

Bố đáp: “Không. Đấy là món tiền của cậu bé; hãy để nó tự lo liệu. Nó đã đến tuổi phải biết.”

Người thâu ngân nói: “Vâng, thưa ông.” Almanzo phải viết tên mình hai lần. Rồi người thâu ngân cẩn thận đếm các tờ giấy bạc, và viết tên của Almanzo vào một quyển sổ nhỏ. Ông viết số tiền, $200, vào quyển sổ rồi trao quyển sổ cho Almanzo.

Almanzo theo Bố rời khỏi ngân hàng, và hỏi ông: “Làm thế nào con rút được tiền ra hở Bố?”

“Con cứ yêu cầu rồi họ sẽ trao tiền cho con. Nhưng con trai à, cần nhớ điều này: chừng nào mà số tiền còn ở trong ngân hàng thì nó còn làm việc cho con. Mỗi đô la trong ngân hàng tạo ra cho con bốn cent mỗi năm. Đấy là cách dễ dàng hơn nhiều so với những cách kiếm tiền khác. Bất kỳ lúc nào con muốn tiêu một đồng năm cent, con nên dừng lại và nghĩ xem phải làm lụng như thế nào để kiếm được một đô la.”

Almanzo nói: “Vâng, thưa Bố.” Cậu đang nghĩ mình có dư tiền để mua một con ngựa non. Cậu có thể tập luyện con ngựa non của riêng mình; cậu có thể dạy nó bất kỳ việc gì. Bố chưa bao giờ cho phép cậu tập luyện ngựa non của ông.

Nhưng ngày tốt đẹp ấy vẫn chưa chấm dứt.

Cậu bé nông dân

Ông Paddock gặp Bố và Almanzo bên ngoài ngân hàng. Ông nói với Bố rằng mình có một ý nghĩ trong đầu.

Ông nói: “Trong một thời gian tôi đã có ý định bàn chuyện này với anh. Về chuyện cậu bé của anh.”

Almanzo cảm thấy ngạc nhiên.

Ông Paddock hỏi: “Có khi nào anh nghĩ cho cậu bé làm thợ đóng xe không?”

Bố trả lời: “À, không. Tôi có thể nói mình chưa từng nghĩ đến việc này.”

Ông Paddock: “Thế thì bây giờ anh nên suy nghĩ đi. Wilder à, nghề này đang phất lên. Đất nước đang bành trướng, dân số luôn tăng mạnh, và người ta cần có xe goòng và xe ngựa kéo. Họ phải di chuyển qua lại. Đường sắt không gây ảnh hưởng đến ta. Lúc nào cũng có thêm khách hàng. Đây là dịp tốt cho một cậu bé tinh khôn.”

Bố chỉ đáp gọn: “Vâng.”

Ông Paddock nói: “Tôi không có con trai, còn anh có hai đứa. Anh nên tính đến việc giúp Almanzo khởi nghiệp cho sớm. Để cho cậu ấy học việc với tôi, và tôi sẽ đối xử đàng hoàng với cậu ấy. Nếu cậu ấy làm được việc như ý tôi mong đợi, thì chẳng bao lâu cậu sẽ có cửa hàng cho riêng mình. Cậu ấy sẽ giàu có, có lẽ sẽ có năm mươi công nhân. Chuyện này đáng suy nghĩ lắm.”

Bố đáp: “Đúng. Đúng thật là đáng suy nghĩ. Anh Paddock, cảm ơn anh đã nói ra.”

Trên đường về nhà Bố không nói câu nào. Almanzo ngồi kế bên ông trên băng ghế xe goòng và cũng không nói gì. Có nhiều chuyện xảy ra khiến cho khi nghĩ lại, cậu thấy đầu óc rối loạn.

Cậu nghĩ đến những ngón tay dính mực của người thu ngân, đến đôi môi mỏng của Ông Thompson mím lại ở hai khóe, và đến hai bàn tay nắm chặt lại thành hai quả đấm của Ông Paddock, và đến xưởng đóng xe goòng ấm áp và vui vẻ. Cậu nghĩ nếu mình đi học việc với Ông Paddock thì sẽ không phải đi học ở trường.

Cậu thường ganh tị với các công nhân của Ông Paddock. Công việc của họ thật là hấp dẫn. Những dăm gỗ mỏng, dài uốn cong ra ngoài từ rìa của cái bào. Họ dùng tay xoa xoa mặt gỗ láng. Almanzo cũng thích làm thế. Cậu thích dùng cọ sơn lớn để sơn một lớp trên mặt gỗ, và cậu thích dùng bàn chải li ti và nhọn để vẽ nên những đường thẳng, tinh tế.

Các công nhân cảm thấy tự hào khi hoàn tất chiếc xe ngựa kéo, tất cả đều sáng bóng với lớp sơn mới; hoặc khi xong xuôi một xe goòng, tất cả các bộ phận bằng gỗ mại châu hoặc gỗ sồi cứng chắc, với các bánh xe được sơn mầu đỏ và với thùng xe mầu lục, thêm một bức hình sơn trên bửng sau. Các công nhân đóng những chiếc xe goòng cũng vững chắc như xe trượt tuyết của Bố, và lại còn đẹp hơn nhiều.

Rồi Almanzo sờ nắn quyển sổ nhỏ, cứng trong túi áo, và cậu nghĩ đến một con ngựa non. Cậu muốn một con ngựa non với bốn chân mảnh mai và đôi mắt to, hiền từ, ngơ ngác, giống như Starlight. Cậu muốn tập luyện cho con ngựa non mọi việc, giống như cậu đã tập luyện cho hai con Star và Bright.

Thế là Bố và Almanzo đánh xe về nhà, không ai nói câu nào. Không khí tĩnh lặng và lạnh giá; cây cối trông giống như những đường mầu đen vẽ trên nền tuyết và nền trời.

Khi hai bố con về đến nhà thì vừa đúng giờ làm công việc trang trại. Almanzo phụ giúp công việc, nhưng cậu bỏ thêm ít thời giờ ngắm nhìn con Starlight. Cậu vuốt ve đầu mũi mịn như nhung, đưa bàn tay vuốt suốt đường cong rắn chắc của cần cổ, dưới chòm lông bờm. Đôi môi mềm mại của Starlight nhấm nháp lấy tay áo của cậu.

Bố kêu: “Con trai, đang ở đâu?” Almanzo cảm thấy như là phạm lỗi, chạy đi lo vắt sữa.

Bữa tối, Almanzo cắm cúi ngồi ăn, trong khi Mẹ bàn về những chuyện đã xảy ra. Mẹ nói rằng chưa bao giờ trong đời Mẹ—! Mẹ nói người ta có thể đánh Mẹ ngã lăn bằng một cọng lông chim, và Mẹ không biết tại sao lại khó thấu hiểu mọi ý nghĩ của Bố đến thế. Bố trả lời những câu hỏi của Mẹ, nhưng giống như Almanzo, ông đang bận ăn uống. Cuối cùng, Mẹ hỏi Bố:

“James à, anh đang nghĩ gì vậy?”

Rồi Bố kể cho Mẹ nghe rằng Ông Paddock muốn nhận Almanzo học việc với ông ấy.

Đôi mắt nâu của Mẹ sa sầm, đôi gò má đỏ nhừ như mầu áo len đỏ Mẹ đang mặc. Bà đặt dao và nĩa xuống bàn.

Mẹ nói: “Em chưa từng nghe chuyện như thế! Này, Ông Paddock nên loại bỏ ý nghĩ ấy trong đầu càng sớm càng tốt. Em nghĩ anh nên nói cho ông ấy biết ý của anh. Em muốn biết tại sao Almanzo phải sống ở thị trấn mà nghe theo sự sai khiến của tất cả các anh công nhân?”

Bố nói: “Paddock làm ra tiền khá. Nếu những gì người ta kể là có thật thì mỗi năm ông ấy gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn anh. Ông ấy nghĩ việc này là tốt cho thằng bé.”

Mẹ ngắt lời: “Hừ!” Bà mất bình tĩnh, như một con gà mái nổi giận vì ổ trứng của nó bị phá. “Thế giới này không còn gì nếu người ta nghĩ rời bỏ trang trại tốt lành để kiếm sống ở thị trấn là một bước đi lên! Làm thế nào Ông Paddock kiếm tiền nếu ông ấy không phục vụ cho ta? Em nghĩ nếu không đóng được xe goòng cho nông dân hài lòng thì ông ấy sẽ không trụ được lâu.”

Bố nói: “Đúng thế. Nhưng—”

Mẹ nói: “Không có ‘nhưng’ gì hết trong chuyện này. Ôi thôi, đã là quá tồi tệ khi thấy Royal bị hạ thấp thành người chủ cửa hàng! Có lẽ nó sẽ kiếm được tiền, nhưng nó sẽ chẳng bao giờ được thành một người như anh bây giờ. Cứ lo luồn cúi người khác để kiếm sống, từ ngày này qua ngày khác—. Nó sẽ chẳng bao giờ gìn giữ được tâm hồn của chính nó.”

Trong một phút Almanzo tự hỏi liệu Mẹ sẽ khóc hay không.

Bố buồn rầu nói: “Này, này. Em đừng quá bận tâm. Có lẽ chuyện này sẽ tốt nhất cho mọi người, theo cách nào đấy.”

Mẹ khóc: “Em không muốn Almanzo đi theo cách ấy. Em không muốn thế, anh có hiểu cho em không?”

Bố nói: “Anh có cùng tâm tư như em. Nhưng hãy để cho con nó quyết định. Theo luật, mình có thể giữ nó trong trang trại cho đến lúc nó hai mươi mốt tuổi. Nhưng nếu con nó muốn đi thì mình không làm gì được. Không được. Nếu Almanzo có cùng suy nghĩ như Royal, thì mình nên để cho nó học việc với Ông Paddlock khi nó còn nhỏ.”

Almanzo vẫn cắm cúi ngồi ăn. Cậu đang lắng nghe, nhưng cậu đang thưởng thức món thịt lợn nướng và nước sốt táo đầy trong miệng. Cậu uống một hơi dài sữa lạnh, rồi thở dài và tấn khăn ăn xa hơn, rồi với lấy bánh bí đỏ.

Cậu cắt lấy một miếng bánh mầu nâu-vàng rung động dưới lưỡi dao, với hương liệu và đường sẫm mầu. Bánh tan chảy trên lưỡi cậu, và cả miệng mũi cậu thắm đẫm hương liệu.

Mẹ phản đối: “Con nó còn quá nhỏ nên đầu óc không nhận thức được.”

Almanzo cắn thêm một mảnh bánh đầy miệng. Chỉ khi nào được hỏi đến cậu mới có quyền nói, nhưng cậu thầm nghĩ mình đã đủ lớn để nhận ra cậu muốn giống như Bố hơn là giống bất kỳ ai khác. Thậm chí cậu không muốn mình giống như Ông Paddlock. Bố được tự do và độc lập; nếu Bố muốn làm cho ai đấy vui lòng thì chỉ vì Bố muốn thế.

Thình lình cậu nhận ra Bố đang nói tới mình. Cậu cố nuốt nhanh miếng bánh, và suýt mắc nghẹn. Cậu nói: “Vâng, thưa Bố.”

Bố có vẻ nghiêm nghị. Ông nói: “Này con trai, con đã nghe Ông Paddlock bàn về chuyện con học việc với ông ấy chứ?”

“Vâng, thưa Bố.”

“Ý con muốn nói gì?”

Almanzo không biết chính xác phải nói gì. Cậu đã nghĩ mình không cần phải nói gì cả. Cậu sẽ làm bất cứ việc gì Bố bảo cậu làm.

Bố nói: “Này, con trai, suy nghĩ đi. Bố muốn con tự quyết định. Nếu học việc với Ông Paddlock thì con sẽ có cuộc sống thoải mái, theo cách nào đấy. Con không phải ra khỏi nhà khi thời tiết xấu. Trong những đêm mùa đông lạnh, con được ngủ trên giường ấm áp và không phải lo lắng đàn gia súc bị cóng. Dù mưa hay nắng, giông gió hay tuyết rơi thì con vẫn ở trong nhà. Con sẽ ổn giữa bốn bức tường. Rất có thể con sẽ có đầy đủ cái ăn cái mặc, và tiền trong ngân hàng.”

Mẹ kêu lên: “James!”

Bố trả lời: “Đấy là sự thật, và mình phải công tâm về việc này. Nhưng cũng có mặt khác, Almanzo à. Con trai, con sẽ phải tùy thuộc vào những người khác. Mọi thứ con nhận được đều từ nơi người khác.

“ Nông dân chỉ tùy thuộc vào chính mình, vào mảnh đất và vào thời tiết. Nếu là nông dân thì con trồng thực phẩm con ăn, con tự lo cái mặc, và giữ ấm với củi con đốn được. Con phải làm việc vất vả, nhưng làm việc theo cách mình muốn, mà không ai có quyền bắt con phải đi từ đâu hoặc đến nơi đâu. Con trai à, con sẽ được tự do và độc lập khi làm chủ một trang trại.”

Almanzo cảm thấy lúng túng. Bố đang nhìn cậu quá nghiêm nghị; Mẹ cũng thế. Almanzo không muốn sống mãi giữa bốn bức tường và phải làm vui người mà cậu không ưa; lại còn chẳng bao giờ có ngựa, bò và đất canh tác. Cậu muốn được như Bố. Nhưng cậu không muốn nói thế.

Bố nói: “Con trai à, không cần vội. Cứ suy nghĩ đi. Rồi quyết định theo cách con muốn.”

Almanzo thốt lên: “Bố!”

“Gì thế, con trai?”

“Con có thể à! Con có thể nói với Bố điều con muốn được không?”

Bố tỏ vẻ khuyến khích: “Được, con trai.”

Almanzo nói: “Con muốn có một con ngựa non. Có thể nào con mua một con ngựa non bằng cách trích ra trong số tiền hai trăm đô la đó, và Bố cho con tập luyện nó, được không?”

Bố mỉm cười, hàm râu chầm chậm mở rộng ra. Ông đặt khăn ăn xuống, ngửa người ra sau trên chiếc ghế và nhìn qua Mẹ. Rồi ông quay qua Almanzo và nói:

“Con trai à, con cứ để khoản tiền ấy trong ngân hàng.”

Almanzo cảm thấy nặng trĩu trong lòng. Và rồi, thình lình, cả thế gian như là rộng mở trong bầu ánh sáng lóng lánh, ấm áp. Vì lẽ Bố nói tiếp:

“Nếu muốn có một con ngựa non, thì Bố cho con Starlight.”

Almanzo há hốc miệng vì kinh ngạc. “Bố! Cho riêng con hở?”

“Đúng thế, con trai à. Con có thể tập luyện nó, điều khiển nó, và khi nó được bốn tuổi con có thể bán nó hoặc vẫn giữ nó, tùy ý con. Sáng mai, việc đầu tiên là bố con ta dẫn nó ra bằng một sợi dây thừng, rồi con có thể bắt đầu tập luyện nó.”

– HẾT Tập 2 –

Chú thích

[A] Để thể hiện văn phong nguyên tác, bản dịch dùng từ thông dụng “Da đỏ” tuy rằng sau này cụm từ “người Mỹ Bản địa” thể hiện đúng bản chất hơn.

[B] Có tài liệu ghi hai mệnh lệnh này là “Thá!” và “Dí!”

[C] Nguyên tác The farmer boy được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1933, vì thế câu chuyện này bắt đầu vào năm 1866.

[D] Người phương Tây tính tuổi là số năm tròn theo ngày sinh: sau ngày sinh mới thêm một tuổi, khác với Á Đông: vừa qua năm mới là tính ngay thêm một tuổi.

[E] Bước trên vệt tuyết lún thì đỡ mệt hơn là bước trên lớp tuyết còn nguyên. Vì thế, bốn đứa trẻ lợi dụng hai vệt tuyết lún do hai ván trượt của các xe trượt tuyết để lại: Almanzo bước theo Royal trên vệt tuyết lún ở một bên, và Alice bước theo Eliza Jane trên vệt tuyết lún bên kia.

[F] Khu định cư là một cộng đồng cư dân nhỏ, tương tự như thôn ở Việt Nam.

[G] Cách làm lâu đài trên không từ những cọng rơm được chỉ dẫn trong trang web: http://littlehouseclub.blogspot.com/search/label/Farmer%20Boy.

[H] Tác giả chơi chữ: Tín đồ Di cư (nguyên tác: Pilgrim Fathers) có nghĩa đen là “Những người cha Hành hương”, nên tác giả nói thêm đến những bà mẹ.

[I] Người Mỹ áp dụng độ Farenheit. Âm bốn mươi độ Farenheit ngang bằng âm bốn mươi độ Celsius.

[J] Khi nước đóng băng thì thể tích nở ra, và cả khối băng rắn chắc nở rộng ra chung quanh có thể làm vỡ thùng. Người ta đánh tan khối băng ở giữa để giảm sức ép ra chung quanh, tránh làm vỡ thùng.

[K] Tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: Ôi trời!

[L] Trong tiếng Anh, con non của mèo, chồn và sóc được gọi bằng từ đặc biệt là “kitten”. Điều này tương tự như trong tiếng Việt, con non của bò được gọi bằng từ đặc biệt là “bê” và con non của trâu được gọi bằng từ đặc biệt là “nghé”.

[M] Tức là ngày Quốc khánh.

[N] Nguyên bản tiếng Anh: Square có nghĩa là Quảng trường (viết hoa để chỉ vị trí đặc thù ở Malone), cũng có nghĩa là hình vuông.

[O] Đây là bài hát The star spangled banner (có nghĩa: Lá cờ sao chói lọi)

[P] Ba nghìn dặm: khoảng 4.800 cây số.

[Q] Đường trắng bán ở cửa hiệu được tinh chế trong nhà máy nên dùng làm bánh kẹo hoặc kem thì cho vị ngọt ngon hơn là dùng đường phong. Đường trắng đắt hơn đường phong nên nhà Almanzo chỉ dùng khi có khách.

[R] Khi Eliza Jane gọi Almanzo bằng nguyên tên họ, cô tỏ ý rất nghiêm túc.

[S] Đây là cân Mỹ, gần bằng nửa ki-lô-gam. Năm mươi cent cho một cân bằng một đô la mười cent cho một ki-lô-gam.

[T] Thùng ở đây là một đơn vị đo lường dung tích, khoảng 150 lít.

[U] Những quả bắp được cắt từ ngoài đồng còn dính với cây và bẹ lá. Tương tự như yến mạch, các cây và bẹ lá mang quả bắp được cột lại thành cụm trước khi được mang về trang trại.

LAURA INGALLS WILDER
chào đời năm 1867 trong một ngôi nhà nhỏ được xây bằng gỗ súc. Khi còn là một cô bé nhỏ, Laura cùng gia đình di chuyển khắp vùng Trung-Tây nước Mỹ trên một cỗ xe goòng có mui. Sau đó, Laura cùng người chồng tên Almanzo Wilder và con gái tên Rose di chuyển đến Mansfield, Bang Missouri, cũng trên một cỗ xe goòng có mui. Ở đây, tin rằng điều quan trọng là cần xem lại quá khứ để định hình cho tương lai, Laura viết kể lại thời thơ ấu của mình lớn lên giữa những vùng đất hoang vu của nước Mỹ mà gia đình bà phải khai phá.

GARTH WILLIAMS
chuẩn bị công việc minh họa bằng cách đến nhà Laura Ingalls Wilder ở Missouri để nghe kể về cuộc đời bà, rồi đi thăm khắp vùng đất nơi các ngôi nhà nhỏ ngày xưa hiện diện. Sau đó, ông vẽ nên những bức minh họa lớn nhỏ cho Tập sách Ngôi nhà nhỏ. Công trình đầy nét quyến rũ của ông khiến cho Laura nhận xét rằng bà cùng những người thân trong gia đình mình đã sống lại những quãng đời ấy trong các bức vẽ này.

Diệp Minh Tâm tổng hợp & dịch

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *