Câu đối

Tìm hiểu về câu đối

Từ xưa đến nay, chơi câu đối là một thú vui tao nhã nhưng rất khó, bởi cách chơi thể hiện trình độ học vấn và chữ nghĩa của những người được nhận nền học vấn. Bài này trình bày một số giai thoại văn học liên quan đến câu đối.

cau doi a

Có lẽ vì lý do câu đối không được xem là loại hình văn học nghiêm túc, nhiều giai thoại trong bài này chỉ được lưu truyền trong dân gian, chứ không được ghi trong chính sử hoặc tài liệu văn học. Do truyền miệng từ người này sang người khác, cùng một đôi câu đối thường có từ ngữ khác nhau tùy theo nguồn. Ngay cả nhân vật chính trong giai thoại có khi là hư cấu, hoặc có người thật nhưng việc không thật vì do người đời sau gán ghép. Chẳng hạn giai thoại kể Hoàng đế nhà Nguyên và Khâm sứ Pháp ra vế đối sâu sắc và hóc búa bằng tiếng Hán, là điều rất lạ thường. Kể lại như thế kèm theo vế đối lại xuất sắc của người Việt càng tôn vinh dân tộc Việt, và đó có lẽ là mục đích của sự gán ghép như thế. Lại có cùng giai thoại nhưng được gán cho người khác vào thời điểm khác, thậm chí cùng đôi câu đối xuất hiện trong truyện võ hiệp của Kim Dung!

Vì những lý do trên, ta chỉ nên xem những giai thoại này là một mảng văn học để thưởng thức và thư giãn trong sự sảng khoái.

Câu đối là một trong những thể loại của văn học Trung Hoa, Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đôi câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau trong mỗi vế, và đối nhau cả về từ ngữ lẫn ý nghĩa. Từ “đối” ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.

Nếu đôi câu đối từ một người sáng tác thì được gọi là vế trên và vế dưới, hoặc nếu dán cột thì là vế phải và vế trái. Nếu một người nghĩ ra một vế thì đó là vế ra (còn được gọi là vế xuất), người đối lại bằng vế đối.

Số chữ trong câu đối không nhất định, có thể bắt đầu bằng 1 chữ rồi lên đến 2 chữ, 5 chữ (ngũ ngôn), 7 chữ (thất ngôn), và không hạn định.

Phải đối theo năm điều kiện sau:

  1. Đối về từ ngữ: nếu vế trên sử dụng danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ hay thành ngữ, tục ngữ, điển cố, từ tượng thanh, tượng hình, từ ngữ trái khoáy… bằng chữ Hán-Việt hay chữ Nôm tại vị trí nào thì vế dưới ở tại vị trí đó cũng phải sử dụng đúng loại từ như vậy. Nhờ đòi hỏi lắm chuyện như vậy nên ta mới thưởng thức được cấp độ đối cao siêu như “phì phò – lúi húi”, “chênh vênh – tem hẻm”, “lon xon – lằng nhằng”. Hóc búa hơn một tí: vế đầu có một từ lặp lại thì từ tương ứng vế sau cũng phải lặp lại, vì thế mà có đôi câu đối “đâu đâu – đó đó”, “song song – khuyết khuyết”.
  2. Đối về ý nghĩa: ví dụ về chữ Nôm là “trời – đất”, “trắng – đen”, ví dụ về chữ Hán-Việt là “cát – hung”, “tiểu – đại”, “xã tắc – sơn hà”, “Nam bang – Bắc quốc”. Khi chữ nào ở vế trước có hai nghĩa thì chữ tương ứng ở vế sau cũng phải có hai nghĩa. Khi người ra vế xỏ xiên thì người đối phải xỏ xiên hơn mới đạt. Cho nên bà Đoàn Thị Điểm bị xỏ ở “chỗ ấy” thì trả lại “chỗ ấy” cho người ta, thế mới đại tài! Khó nhất là khi cả vế trước có hai nghĩa thì cả vế sau cũng phải thế. Có yêu cầu khắt khe như vậy nên ta mới thấy những cách đối như “chả ngon – cóc sướng”.
  3. Nếu vế trước có cách dùng chữ độc đáo thì vế sau cũng thế, chẳng hạn như ta sẽ thấy dưới đây. Chẳng hạn, nếu vế đầu dùng phương pháp chiết tự thì vế cuối cũng phải dùng phương pháp đó.
  4. Đối thanh: trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng) đối với bằng (huyền, không dấu), và ngược lại.
  5. Đối ngữ cảnh: vế trước có ngữ cảnh thế nào thì vế sau cũng có ngữ cảnh tương đương, không được lạc đề. Ví dụ như “chàng – thiếp” là cách đối chỉnh trong ngữ cảnh của văn cổ, nhưng “anh – thiếp” thì không ổn mặc dù đối về từ ngữ và ý nghĩa đều chỉnh. Nếu vế ra có “cô nương” thì chắc chỉ có dân ghiền truyện võ hiệp Kim Dung mới biết đối lại là “tại hạ”. Nếu ngữ cảnh cả vế đối không đối chỉnh với vế ra thì bị xem giống như lạc đề, là lỗi không nhẹ. Tuy thế, như ta sẽ thấy, đôi khi người đối lại có chủ ý đưa ra có ý tưởng khác biệt nào đó cho dù biết mình lạc đề, và đó lại là một sắc thái thú vị. Ví dụ như “chém rắn trắng – giết bò vàng”.  Chính vì yêu cầu về ngữ cảnh này mà bà Sương Nguyệt Anh bê nguyên tên họ của ông Phạm Đình Chi vào vế ra, khiến cho ông ngắc ngứ!
  6. Từ ngữ phải suôn sẻ chứ không được gượng ép. Như ta sẽ thấy về sau, vì cố thỏa mãn những điều kiện trên mà có những câu đối lại nghe ra gượng ép, như thế là không được đánh giá cao.

Tổng hợp 6 điều kiện trên, ta sẽ thấy ví dụ “sư sử sứ – phụ phù phu” là cách đối thần sầu vì chỉnh theo cả 6 điều kiện trên. Vế ra oái oăm như thế mà người bị thách đố (Trạng nguyên Lương Thế Vinh) vẫn đối được thì đúng là bậc thầy!

Trên thực tế, người ta phải cố đạt được 3 điều kiện đầu là hay lắm rồi. Điều kiện đối thanh là rất khó (càng khó với câu dài), trong khi điều kiện ngữ cảnh thì nhiều người không để ý đến. Thế rồi vì phải lo đối cho chỉnh theo những điều kiện đầu, có người quên mất điều kiện thứ 5: tạo ra ngữ cảnh không liên quan đến ngữ cảnh của vế đầu hoặc của người đối lại. Nếu quên điều kiện thứ 6 thì tạo ra câu từ ngô nghê mà đời thường không ai nói và viết như thế.

Vì vậy, xét qua những quy luật ngặt nghèo, người thưởng ngoạn câu đối có thể châm chước cho ba điều kiện cuối.

Thể văn đối thường có hai hình thức: làm đôi câu đối hoàn chỉnh, hoặc ra một vế cho người khác đối lại. Hình thức thể văn này có từ thời nho học, không được dùng làm môn thi trong khoa cử ngày xưa, nhưng được dùng nhiều trong giao tiếp của cả giới nho học lẫn giới bình dân. Câu đối có thể được khắc vào gỗ hoặc viết trên vải/giấy để dán lên tường hoặc cột, hoặc treo lên hai cây cột nhà thành cặp đối xứng nhau.

Câu đối, hoành phi là những tác phẩm ngắn nhất, đòi hỏi văn phải cô đọng, ý phải thâm sâu, câu đối nào càng thể hiện được tính nhân văn thấm đậm thì được phổ biến rộng rãi, truyền tụng lâu dài.

Câu thơ đối là loại câu đối phổ biến nhất, thường là những câu đối làm theo thể thơ năm chữ hoặc bảy chữ theo Đường luật.

Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán; người Trung Hoa quan niệm: “nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa.” Câu đối đúng là một nghệ thuật sử dụng chữ, qua đó người ta thách đố nhau về tài văn chương, thêm kiến thức về lịch sử, địa lý, vân vân, không có giới hạn. Nói chung là phải biết qua nhiều lĩnh vực. Như trong thời hiện đại, khi vế ra chứa ngoại ngữ thì người đối lại cũng cần biết ngoại ngữ!

Thêm nữa: đó cũng là sự thách đố về phản ứng nhanh: người ra vế và người đối lại phải nhanh trí, nếu chần chừ nghĩ ngợi là thua! Cho nên không những phải khôn, mà còn phải lanh!

Chưa hết: Có người cho rằng chơi câu đối cũng như chơi cờ, nhưng có phần hấp dẫn hơn, vì còn có màn ngâm nga, xướng họa nữa. Trong khi đang đánh cờ nếu thốt lời vì khoái trá thì chí ít là bị đập bàn cờ bể đầu, xui xẻo thì như anh thái giám kia bị Từ Hi Thái hậu ra lệnh xử trảm vì đã ăn con mã của bà mà còn bô bô nói ra!

Câu đối có nhiều cách dùng như:

  • Câu đối tâm linh: để tạo vẻ uy nghi, thiêng liêng…
  • Câu đối mừng: để tặng người khác trong những dịp vui như mừng thọ, thi đỗ, hôn lễ, có nhà mới, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp…
  • Câu đối đề tặng: nhằm đề cao hoặc khuyến khích người khác
  • Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
  • Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa…vào dịp Tết.
  • Câu đối thờ: câu ca tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh để dán hoặc treo những chỗ thờ.
  • Câu đối trong nhà: để treo ở phòng khách, sảnh đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với thư pháp.
  • Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình hoặc để tự trào, thường dán ở những chỗ ngồi chơi, nơi uống rượu.
  • Câu đối thách đố: đây là thể loại đặc biệt tạo nhiều thú vị. Người ta nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa…

Treo/dán câu đối cần đúng cách. Một đôi câu đối có vế trên và vế dưới. Người Việt treo/dán vế trên bên tay trái khi ta nhìn vào, còn vế dưới bên tay phải, để người đọc từ trái sang phải. Còn muốn biết vế nào là thượng, vế nào là hạ thì cần xem chữ cuối cùng; nếu là thanh trắc (sắc, nặng, hỏi, ngã) thì đó là vế trên; còn thanh bằng (dấu huyền hoặc không dấu) tức là vế dưới. (Quy luật là vậy, vẫn có người xé rào!) Nếu bạn không nhớ thì áp dụng quy luật của điệu vọng cổ: cuối câu phải xuống âm xề (chữ dấu huyền)! Người Tàu treo/dán câu đối Hán văn theo cách ngược lại với người Việt, bởi vì họ đọc từ phải sang trái.

Như ta thường thấy, không chỉ ngày tết, cưới hỏi, thi đỗ, được thăng quan tiến chức, ma chay, ông cha ta mới làm câu đối. Ca ngợi anh hùng, giễu kẻ tiểu nhân, đối đáp sứ quan, trai gái chuyện trò, bạn bè thù tạc, tức cảnh sinh tình… đều có thể làm câu đối. Vì thế mà kho tàng câu đối Việt Nam khá phong phú và để lại giá trị bất hủ.

Trong khi thưởng thức qua các câu đối, người tổng hợp nhận thấy câu đối Hán-Việt nhiều khi chỉ được dịch nghĩa, thế nên đọc không khoái! Bèn mạn phép chỉnh lý chút từ ngữ để câu dịch Nôm cũng có dạng câu đối, trước tự mình thưởng thức, sau giúp độc giả dễ theo dõi.

Ví dụ như câu đối chữ Hán-Việt:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi

Có nguồn dịch ra là:

Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu

Đọc nghe hổng khoái! Lại không thể hiện mấy từ lặp lại: “Chi chi… tại / Tại tại… chi”.

Cho nên người tổng hợp bài này chỉnh lý lại là:

Đâu đâu hơn ba chục năm, huyện đỏ châu hồng nay còn đó
Đó đó ngoài mấy ngàn dặm, hoa đào nước chảy bác về đâu?

Thành ra đôi câu đối thần sầu! Thiết nghĩ, khi dịch ra Nôm mà giữ lại từ Hán-Việt như “xích huyện”, “hồng châu” và “đào hoa”, “lưu thủy” thì chưa hay!

Mục đích chỉnh lý như vậy để người đọc thấy rõ nét hay đẹp về từ ngữ ngay cả trong văn Nôm.

Riêng ý thì không dám sửa vì không giỏi tiếng Hán-Việt, cho nên nếu ý trong nguồn sai thì câu chỉnh lý cũng sai theo. Sau chỉnh lý, câu cú và ý nghĩa cô đọng hơn, nên nếu nhìn thoáng qua thì chưa nắm bắt hết cái hay. Nhưng đó chính là sắc thái của câu đối: đọc câu đối không phải như đọc văn xuôi. Người thưởng ngoạn cần suy ngẫm một chút để tự mình khám phá mà đào sâu ý tình. Được như thế, ta đọc bản dịch Nôm có vần có điệu và nghĩa sâu lắng sẽ có cảm nhận hay hơn bản dịch nghĩa dông dài, nghĩa tách bạch nhưng khô khan. Chỉnh lý rồi, cũng mạn phép lược bỏ một số câu đối tiếng Hát-Việt nếu câu dịch Nôm được chỉnh dù tương đối, như thế bài này đọc đỡ phức tạp.

Tiến thêm bước nữa, theo nhận xét của anh bạn tôi Nguyễn Văn Đạt, một số câu đối có lẽ do tam sao thất bổn hoặc lỗi bàn phím nên không được chỉnh lắm. Tôi mạn phép trau chuốt chút ít.

Ví dụ như câu đối Tết của Bà Huyện Thanh Quan, có nguồn chép là:

Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ trời đất phải trồng nêu

Chữ “với” và chữ “gì” không đối lắm! Anh bạn Đạt của tôi nghĩ câu đối chỉnh hơn là:

Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ cùng trời đất phải trồng nêu

Một ví dụ khác, có nguồn chép là:

Xuân sang cội phúc sinh nhánh lộc
Tết về cây đức trổ thêm hoa

Câu đối chỉnh hơn là:

Xuân sang cội phúc sinh nhánh lộc
Tết về cây đức trổ cành hoa

Trên đây chỉ là hai ví dụ. Có một ít chỉnh sửa khác không nêu ra hết để giúp bài viết đỡ phức tạp. Nhằm mang đến cho độc giả cái hay cái đẹp trong văn học Việt mà người tổng hợp mạn phép nhưng nghĩ không đến nỗi phóng túng. Kính mong các bậc học giả thông cảm!

Cũng nhằm giúp bài viết dễ đọc trong khi không phải là bài nghiên cứu hàn lâm, người tổng hợp cáo lỗi không thể đưa ra nguồn trích dẫn cho từng chi tiết. Trang web không có tính thương mại này trình bày cảm nhận riêng của người tổng hợp, có tham khảo thông tin từ bốn phương, rồi đưa đi bốn phương. Nếu bạn đọc qua bài này rồi tìm ra đôi điều thi vị nào đó cho cuộc sống, thì cái tội đạo văn của người tổng hợp hẳn sẽ được dung thứ.

Trong các đoạn sau đây:

  • chữ đậm nghiêng: câu đối chữ Hán-Việt;
  • chữ đậm đứng: câu đối chữ Nôm, hoặc dịch chỉnh từ câu đối Hán-Việt nên có thể xem như là câu đối Nôm;
  • chữ thường: câu dịch, không được chỉnh nên không được xem như câu đối.

Thủ khoa Nghĩa và Tú tài Văn Bình

Nếu bạn vẫn chưa rõ về cách đối từ ngữ và ý nghĩa, giai thoại dưới đây sẽ giải thích. Chuyện xảy ra lúc Bùi Hữu Nghĩa tức Thủ khoa Nghĩa đã nghỉ hưu, về quê nhà vui cảnh điền viên.

Một anh Tú tài dò đường đến nhà Thủ khoa Nghĩa, đi mỗi chặng lại hỏi đường người địa phương rồi đi tiếp. Đến một ngôi nhà, thấy một ông già nên cũng hỏi đường đi tiếp.

Ông già hỏi: “Cậu là ai? Hỏi nhà ông Thủ khoa Nghĩa để làm gì?”

Anh Tú tài trả lời: “Cháu là Tú tài tên Văn Bình, nghe nói ông Thủ khoa Nghĩa văn hay chữ giỏi nên cháu đến để thử tài ổng.”

Ý cậu Văn Bình hẳn nghĩ cụ Bùi Hữu Nghĩa chỉ đỗ kỳ thi Hương, trượt kỳ thi Hội, nên không giỏi hơn mình!

Ông già từ tốn nói: “Nhà ông Thủ khoa Nghĩa còn hơi xa, để tôi sai bọn trẻ đưa cậu đi. Nhưng chắc cậu đi đường đã mệt, vào đây uống chút nước rồi hẵng đi tiếp.”

Tú tài Văn Bình đúng là đang khát nước nên vui mừng nhận lời.

Trong khi dùng trà, anh ta nhìn quanh quất thấy có mấy câu đối treo trong nhà, nên hỏi: “Chẳng hay bác cũng chơi câu đối hay sao?”

Ông già cười: “Mấy câu đối này là do ông Thủ khoa Nghĩa viết cho tôi, chứ tôi có làm được câu đối gì đâu. Cùng lắm là đối từng chữ một thôi.”

Tú tài Văn Bình nhà ta nghe thế, nóng máy, liền nói: “Vậy thì bác với cháu đối nhau từng chữ cho vui nhé?”

Ông già đáp: “Cũng được. Để tôi ra chữ, cậu đối lại xem sao.”

Tú tài chấp nhận.

Ông già ra chữ đầu:
   Võ

Tú tài thấy quá dễ, đối lại:
   Văn

Ông già khen “Văn” đúng là đối với “”, hay lắm! Rồi ra chữ kế tiếp:
   Trắc

Tú tài cũng thấy quá dễ, đối lại:
   Bình

Ông già khen “Bình” đối với “Trắc” thật là chỉnh! Rồi ra chữ kế tiếp:
   Nam

Tú tài lấy làm ngạc nhiên vì cho đến giờ ông già đưa ra toàn là chữ quá dễ, đối lại:
   Bắc

Ông già lại khen, rồi tiếp:
   Vô

Tú tài chẳng khó khăn gì mà đối lại:
   Cực

Ông già gật gù nói:
– Khen cho cậu tìm đúng chữ “cực” để đối lại với chữ “”! Bây giờ hai ta ghép lại từng câu xem sao!

Hóa ra câu của ông già là:
Võ trắc nam vô
vốn không có nghĩa gì đặc biệt.

Còn câu của Tú tài Văn Bình là:
Văn Bình bắc cực

Tú tài nhà ta lẩm bẩm hai câu đối, rồi hiểu ra ý nghĩa, mặt đỏ nhừ, nói:
– Thế ra bác đây là Thủ khoa Nghĩa phải không?

Ông già cười, nhận phải.

mo Thu khoa Nghia 2
Lăng mộ Thủ kho Nghĩa

Tú tài Văn Bình biết mình đã mắc bẫy ông già Thủ khoa Nghĩa, đành phải bái phục!

Câu đối Tết

Câu đối Tết trở thành sinh hoạt văn hóa rất phổ biến từ lâu đời, vì thế là loại hình câu đối quen thuộc nhất đối với người Việt từ thành thị đến thôn quê. Có rất nhiều đôi câu đối Tết; mỗi Tết đến vẫn có câu đối mới. Một số đôi câu hay được trình bày dưới đây.

Câu đối Tết của Vương Hy Chi

Có một giai thoại thú vị kể rằng: Vương Hy Chi, một bậc “thư thánh” của Trung Quốc, làm câu đối mừng xuân nhân dịp dọn nhà năm mới. Nhưng cứ cặp câu đối nào dán lên là lại bị người ta rình bóc trộm mất.

Vương Hy Chi giận lắm bèn nghĩ ra một cách, đêm trừ tịch ông viết một câu đối sai người dán trước cổng:

Phúc vô song chí
Họa bất đơn hành

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Phúc không hai lần
Họa chẳng một mình

Mọi người đều cho rằng đó là một câu đối xúi quẩy, nên chẳng ai bóc trộm. Sáng hôm sau, Vương Hy Chi thấy câu đối còn nguyên thì tủm tỉm cười mới viết tiếp hai vế còn lại thành một câu đối chuẩn, đẹp, rất thích hợp cho năm mới:

Phúc vô song chí kim triêu chí
Họa bất đơn hành tạc dạ hành

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Phúc không hai lần, sáng nay đến
Họa chẳng một mình, tối qua đi

Câu đối Tết của Nguyễn Khuyến

Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc
Lung linh ánh lửa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn

Tết đến, rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về, bút mới thử vài trang

Tối ba mươi, nghe pháo nổ đùng, ờ ờ Tết
Sáng mùng một, chạm nêu đánh cộc, à à Xuân

Câu đối Tết của Bà huyện Thanh Quan

Bà huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh (1805-1848), sinh tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là Hoàn Long, tỉnh Hà Đông). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, được bổ làm tri huyện Thanh Quan, do đó nữ sĩ được gọi là Bà huyện Thanh Quan.

Bà viết một câu đối Tết có ý ngộ nghĩnh như sau:

Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ cùng trời đất phải trồng nêu

Câu đối của Làng Mai

an khi thở
lạc khi đi

càng nhìn càng hiểu rõ
biết lắng biết thương sâu

năm mới, ta cũng mới
người vui, cảnh sẽ vui

Một số câu đối Tết khác

cau doi tet fAn khang phú quý thái thái bình
Bách lão bá niên trường trường thọ

Câu đối đỏ treo lên, gia tộc ngắm nhìn: Vui! Tết đến!
Gốc đào phai đặt giữa, cháu con khen ngợi: Tuyệt! Xuân sang!

Chúc Tết đến, trăm điều như ý
 Mừng Xuân sang, vạn sự thành công

Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân

Đa phúc đa tài đa phú quý
Đắc tài đắc lộc đắc nhân tâm

Ðắp gốc cây cao, Tết đến thắp hương thơm đèn sáng
Khơi nguồn nước mát, Xuân về dâng trái ngọt hoa thơm

Giao thừa hái lộc, cung kính ông bà, rượt rót đôi ly, nghe lời chúc
Mồng một đơm hoa, nhớ ơn cha mẹ, trà dâng ba chén, nhận lì xì

Lộc biếc, mai vàng, Xuân hạnh phúc
Đời vui, sức khỏe, Tết an khang

cau doi tet c

Mừng xuân hỉ xả thêm công đức
Đón tết từ bi bớt não phiền

Năm năm xuân như ý
Tuổi tuổi ngày bình an

Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc
Lung linh ánh lửa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn

Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày Xuân vinh hoa phú quý về

Tân niên tân phúc tân phú quý
Tấn tài tấn lộc tấn bình an

cau doi tet b

Phúc mãn đường niên tăng phú quí
Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa

Dịch:

Phúc đầy nhà, năm thêm giàu có
Đức ngập tràn, ngày một vinh hoa

Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn

Dịch:

Phúc sâu tựa biển
Lộc cao như núi

cau doi tet a

Xuân an khang đức tài như ý
Niên thịnh vượng phúc thọ vô biên

Xuân sang cội phúc sinh nhánh lộc
Tết về cây đức trổ cành hoa

Câu đối của Trần Tế Xương

Trần Tế Xương hoặc Tú Xương viết 2 câu đối dưới đây liên quan đến Tết nhưng không phải để trưng bày, mà là để tự trào (đôi câu trên) hoặc phê phán (đôi câu dưới):

Nực cười thay: nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết!
Thôi cũng được: rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi!

Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi

Câu đối mừng hôn lễ

Lương nhật lương thời lương ngẫu
Giai nam giai nữ giai duyên

Dịch:

Ngày tốt, giờ tốt, tốt đôi lứa
Trai đẹp, gái đẹp, đẹp tơ duyên

Thư thanh hỉ hữu cầm thanh bạn
Hàn mặc tân thiêm đại mặc hương

Dịch:

Tiếng sách có tiếng đàn làm bạn
Mực bút thêm hương mực vẽ mày

Chí đồng đạo hợp
Ý hậu tình trường

Dịch:

Chí cùng ý hợp
Ý sâu tình dài

Câu đối nghĩa tình

Ngọc bất trắc bất thành khí
Nhân bất học bất tri lý

Ơn truyền trao hôm nào đang còn đó
Nghĩa thầy trò muôn một vẫn còn đây

Ơn thầy ươm xanh vườn trí thức
Nghĩa cô tô hồng khung tương lai

Sớm vọng mặt đất thương xanh núi
Chiều lộng chân mây nhớ tím trời

two eggsCó phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi

Chén trà nhấm nháp tình tri kỷ
Chuyện vãn khề khà thú ngắm hoa

Câu đối chúc mừng

Con cháu hân hoan mừng thượng thọ
Xóm làng hoan hỉ chúc trường sinh

Hưởng thú nhàn, rau dưa thanh đạm
Vui tuổi thọ, lan quế sum vầy

Đong cho đầy hạnh phúc; gói cho trọn lộc tài
Giữ cho mãi an khang; thắt cho chặt phú quý

Nhiều lộc nhiều tài nhiều của cải
Gặp thời gặp lợi gặp lòng người

Niên cao kỷ khán hoa thiên thụ
Nhân thọ tiếu châm tửu nhất bôi

Dịch:

Tuổi cao mừng ngắm hoa ngàn khóm
Người thọ cười vui rượu một chung

Phúc lai miên thế trạch
Lộc mãn trấn gia thanh

Dịch:

Phúc dâng tràn mọi nẻo
Lộc thơm ngát cửa nhà

Phúc đầy nhà năm thêm giàu có
Đức ngập tràn ngày một vinh hoa

Phúc như Đông Hải trường lưu thủy
Thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng

Dịch:

Phúc như Đông Hải mãi trường lưu
Thọ sánh Nam Sơn tùng bách lão

Thịnh thế trường thanh thụ
Bách liên bất lão tùng

Dịch:

Đời thịnh cây xanh mãi
Trăm năm tùng chẳng già

Bốn câu chuyện trong một đôi câu đối

Câu đối dưới đây là của cụ Quả Ngôn ở làng Hội Thống, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh:

Bỏ gậy sắt, bỏ ngai vàng, quyết giữ nòi vàng và khoán sắt
Vung hịch son, vung cờ đỏ, cho yên con đỏ với lòng son

Đây là đôi câu đối nôm hay. Chỉ có 26 chữ trong đó lặp mất 12 chữ mà rất đầy đủ ý nghĩa, dồi dào mầu sắc, nhấn mạnh được son sắt vững bền. Câu đối này nói về Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn (? – 1300). Đặc biệt, nội dung câu đối chứa đựng đến bốn câu chuyện về người anh hùng này.

Bỏ gậy sắt

tran quoc tuanTrần Quốc Tuấn là con của Trần Liễu. Trần Liễu bị Trần Thủ Độ buộc phải nhường vợ cho Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Trần Liễu uất ức, đem quân chống lại nhưng không nổi, suýt bị gia hình, nhưng được Trần Cảnh tha chết. Việc thu xếp coi như yên ổn, song trong thâm tâm, Trần Liễu vẫn ôm mối hận thù.

Cả hoàng tộc đều biết câu chuyện ấy, nên khi Trần Quốc Tuấn được kề cận vua Trần, nhiều người vẫn nhìn ông bằng cặp mắt nghi ngại. Biết đâu, khi thời cơ thuận lợi, Quốc Tuấn lại hành động phi nghĩa để trả thù cho bố?

Biết sự hoài nghi kín đáo ấy, Trần Quốc Tuấn luôn luôn giữ đúng lễ vua tôi, toàn tâm toàn ý phục vụ các vua Trần. Một lần, cùng Trần Nhân Tông đi dạo chơi đây đó, ông liếc thấy có người nhìn vào cái gậy mình cầm ở tay. Đầu gậy này có bịt sắt nhọn. Gậy ấy mà giáng xuống đầu ai, thì kẻ ngộ nạn chỉ có việc lìa đời! Quốc Tuấn lẳng lặng bẻ cái gậy ra làm đôi, vứt đầu có bịt sắt đi, chỉ cầm trong tay một đoạn tre ngắn ngủi.

Cử chỉ ấy chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Ông không nói một lời. Những kẻ đứng chung quanh cũng đều im lặng, có người biết, có người không. Nhưng những ai chú ý đều tỏ ra kính phục và hoàn toàn tin tưởng Trần Quốc Tuấn. Ông giữ gìn ý tứ để xóa mọi hiềm nghi.

Bỏ ngai vàng

Cũng từ sự bất bình sâu sắc trên đây, Trần Liễu luôn luôn ủ ấp trong lòng mình một mối thù muốn trả. Khi sống, tự ông không hành động được gì, thì trước khi mất, ông dặn dò Trần Quốc Tuấn cướp ngôi vua để trả thù, rửa nhục cho ông.

Trần Quốc Tuấn nghe lời trối trăng của cha, không đồng tình nhưng không dám cãi. Về sau, ông đem ý kiến này hỏi mấy viên tướng thân cận của mình như Yết Kiêu, Dã Tượng. Những người này đều nói là không nên. Chỉ có một người con trai của ông là Trần Quốc Tảng có ý muốn giành ngôi, làm cho ông rất tức giận. Ông quát mắng Quốc Tảng, cho là kẻ vong ân bội nghĩa và đuổi đi, không muốn Quốc Tảng được thấy mặt mình. Trần Quốc Tuấn chứng tỏ ông không ham ngai vàng. Mẩu chuyện này càng làm cho mọi người hết sức kính phục ông, tôn vinh phẩm chất của ông.

Vung hịch son, vung cờ đỏ

Đây là hai câu chuyện cụ thể:

– Trần Quốc Tuấn là tác giả bài Hịch tướng sĩ nổi tiếng.
– Ông là vị Tiết chế tổng chỉ huy, giương cao cờ lệnh chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông được hoàn toàn thắng lợi.

Lê Văn Hưu

Lê Văn Hưu (1230-1322) là nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển, viết xong năm 1272. Đây là bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam.

Tương truyền, khi còn là học trò, một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:

Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi sắt

Cậu bé ngẫm nghĩ một lát, rồi đọc to:

Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi giành được tam khôi

Bác thợ rèn phục quá, thấy cậu học trò vừa có văn tài vừa có chí hướng, thưởng cho cậu ba quan tiền.

Vế đối hay ở chỗ 3 chữ “túi” đối với 3 chữ “lò”; “lúi húi” đối với “phì phò”, và ngữ cảnh của học trò đối lại tương đồng với ngữ cảnh của thợ rèn ra câu đối.

Ghi thêm: Có một câu chuyện tương tự cho biết liên quan đến Đoàn Hy. Anh này vừa làm thợ rèn, vừa chăm chỉ học, đỗ thủ khoa thi Hương trường Nam Định.

Quan chủ khảo biết nghề nghiệp vị tân khoa, ra câu đối:

Than bỏ vào lò, sắt bỏ vào lò, bể thổi phì phò, đúc ra miếng bạc

Đoàn Hy đối lại:

Mực nằm trong túi, bút nằm trong túi, người viết lúi húi, tên chiếm bảng vàng

Đặng Ma La

Đặng Ma La (1234-1285) là con Tiến sĩ Đặng Nghiêm, quê làng An Để, Vũ Thư, Thái Bình. Gặp thời tao loạn, nhà Trần cướp ngôi, hai cha con phải chạy về quê lánh nạn tại làng Khúc Thuỷ, Chương Đức, Hà Đông và đổi từ họ Lý sang họ Đặng. Năm 1247, Vua Trần Thái Tông mở khoa thi lần đầu tuyển chọn Tam khôi, đặt danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Dự khoa thi năm ấy, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa.

Thời đi học, một hôm, thầy đồ làng ra câu đối để thử tài Đặng Ma La:

Làm thằng chí, làm thằng chuột, làm thằng bạch đinh, khốn khó lầm than cùng mặt đất

Đặng Ma La nhanh chóng ứng khẩu:

Đỗ ống cống, đỗ ông nghè, đỗ ông hoàng giáp, giàu sang phú quý lệch ngang trời.

Tại đền thờ Đặng Ma La ở Hàng Kênh, Hải Phòng, còn câu đối:

Khoa giáp tứ truyền thập tứ tuế Thám hoa kỳ thủy
Lương hoàn phúc trạch kỷ thiên niên trúc lãnh như anh

Dịch:

Khoa giáp truyền đời, khởi đầu đỗ Thám hoa mười tuổi
Đất phúc hoàn lương, nghìn năm xây đắp mãi dõi tinh anh.

Một đôi câu đối được gán cho 3 giai thoại

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền (1234-1256) là người Nam Định ở huyện Thượng Nguyên đời Trần Thái Tông, học hành sáng láng, thiên hạ kêu là thần đồng. Ông đỗ Trạng nguyên khi mới có 12 tuổi, là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Tại lễ triều kiến các vị tân khoa, vua Trần Thái Tông thấy trạng quá nhỏ, bèn cho trạng về quê, hẹn ba năm sau sẽ cho vào triều phong quan. Cùng năm đó có Lê Văn Hưu 17 tuổi đỗ Bảng nhãn, sau này là tác giả bộ Đại Việt sử ký (hiện đã thất truyền).

Lúc Nguyễn Hiền còn nhỏ, có ông huyện kia thấy cậu bé bận áo rộng xùng xình thì ra vế đối để thử tài:

Học trò là học trò con, quần áo lon xon là con học trò

Nguyễn Hiền đối lại:

Quan huyện là quan huyện thằng, xử kiện lằng nhằng là thằng quan huyện

Vế đối hay ở chỗ “lằng nhằng – lon xon”, nhưng được xí xóa ở “xử kiện – quần áo” (động từ không thể đối với danh từ).

Khuyết danh

Có nguồn cho rằng quan huyện trong giai thoại này thật ra là một ông quan có chức huyện thằng, và người đối lại là một cô bé học trò:

Học trò là học trò con, tóc bỏ lon xon là con học trò
Quan huyện là quan huyện thằng, xử kiện lằng nhằng là thằng quan huyện
.

Thời Lê Mạt (khoảng thập kỷ 1710 đến thập kỷ 1780) năm nào mất mùa đói kém, vẫn có lệ cho nhà giàu nộp thóc để lấy chức quan. Chức quan ấy thường là chức huyện thằng, tức chức phó tri huyện chuyên coi về việc tuần phòng. Người giữ chức huyện thằng thường không qua thi cử, nên khi xử kiện lằng nhằng thì đáng bị mắng là “thằng quan huyện”!

Vế đối này chỉnh hơn ở chỗ: “xử kiện – tóc bỏ” và “lằng nhằng – lon xon”. Giai thoại này được yêu thích nhất vì quan huyện bị quy về chức danh do bỏ tiền ra mà có nên không đáng được tôn trọng!

Nguyễn Văn Xiển

Nguyễn Văn Xiển sinh vào khoảng 1860, người làng Hoàng Bột, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, cùng quê với Trạng Quỳnh, sống bằng nghề làm thuốc. Ông thông minh hoạt bát, học giỏi, nhưng thi mãi không đỗ, thường có hành động, cử chỉ ngạo ngược, gây ra những giai thoại nhiều người biết.

Tương truyền, thấy tóc cậu bé Xiển đỏ hoe vì dãi nắng lâu ngày, quan huyện Lê Kim Thằng ra câu đối:

Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò

Quan có ý mắng mỏ. Xiển không cần nghĩ ngợi lâu, đối tức khắc:

Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.

Xiển có ý mắng lại. Huyện Thằng tức ứa máu. Nếu đúng như thế quan huyện có thể bắt lỗi vì không chỉnh ở chỗ  ăn nói – tóc đỏ” và “lằng nhằng – như son”, nhưng vì Xiển đối rất chỉnh, không bẻ vào đâu được, đành mắng mỏ qua loa vài câu rồi đi thẳng.

Khó nói được giai thoại nào gần đúng với sự thực nhất. Cụm từ “quan huyện thằng” gán cho Nguyễn Hiền nghe có vẻ gượng ép nên không loại trừ câu chuyện về sau được gán cho đời trước. Còn “quan huyện thằng” về sau và “tri huyện Thằng” đều có sức thuyết phục ngang nhau.

Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua thứ ba của nhà Trần. Sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình nhà Trần đem các tướng Nguyên bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông).

Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó quân Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), ngài tức cảnh ngâm hai câu sau:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu

Dịch:

Xã tắc đôi phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Đây là đôi câu đối chỉnh cả về đối âm, đối ý và đối nghĩa. Các âm đơn, âm đôi và cả cụm âm đều đối xứng với nhau rất rõ nét về mặt âm tiết, như “Xã tắc” (trắc trắc) đối với “Sơn hà” (bằng bằng). Xét về từ ngữ: “Xã tắc” (đất nước) đối với “Sơn hà” (núi sông) còn “lưỡng hồi” (đôi phen) đối với “thiên cổ” (nghìn thuở).

Về ý nghĩa, nhà thơ Vũ Quần Phương phân tích như sau:

“Trong thơ Trần Nhân Tông, âm vang của hai đợt kháng chiến cứu nước chống Nguyên–Mông nhiều khi dội lên thành tứ thơ bất ngờ lãng mạn: Xã tắc hai phen đến cả ngựa đá cũng mệt nhọc, nhưng chính nhờ vậy mà núi sông nghìn thuở vững chãi. Kháng chiến toàn diện, đến ngựa đá cũng ra trận, trên vó còn lấm bùn chinh chiến.”

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Ðĩnh Chi (1272-1346), người châu Giang Nam, huyện Bình Hà, sau dời về xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1304 đời Trần Anh Tông. Khi ông vào chầu, vua thấy người ông nhỏ bé lại xấu xí, nên không vui. Vua có ý không muốn dùng Mạc Đĩnh Chi vào việc lớn; chỉ cử ông giữ việc coi sóc thư khố của nhà vua. Dần dàn nhà Vua nhận ra ông là nhân tài nên trọng dụng, sau này thăng ông đến chức Tả bộc xạ (Thượng thư).

Vua Trần Anh Tông không những kính nể, mà còn tin cậy giao cho ông trong chức vụ sứ thần của Việt Nam đi sứ nhà Nguyên.

Mạc Đĩnh Chi là một văn thần xuất sắc; và hơn thế nữa, là một nhà ngoại giao tài ba qua các ứng đối mau lẹ, biện luận vững vàng, giữ gìn uy tín, thể diện và lợi ích quốc gia. Mạc Đĩnh Chi làm cho vua quan nhà Nguyên khâm phục; đặc biệt là được vua thứ 7 triều Nguyên là Nguyên Vũ Tông (1281-1311) phong cho tước vị “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (Trạng nguyên của hai nước).

Giải oan

Trên đường đi sứ đến kinh đô nhà Nguyên, trong một chiều hè nóng bức, Mạc Đĩnh Chi và tùy tùng thấy một quán nước ven đường thì dừng lại nghỉ chân. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đến chào khách.

Gần quán có một giếng nước. Trên thành giếng có viết 5 chữ: “Ngân bình, kiên thượng tị.”

Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chủ quán kể:

Xưa có một cô gái bán hàng nước ở đây rất thông minh, học giỏi, chữ nghĩa tốt. Có một anh học trò thầm yêu cô hàng nước, muốn ngấp nghé. Ngày ngày đi học về, thường ghé vào quán uống nước; và tìm lời trêu ghẹo.

Một hôm cô hàng nước nói thực với anh: “Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây quấy rầy làm gì nữa.”

Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân nhìn thấy cái ấm tích bằng bạc trên bàn, mới ra vế (dịch Nôm):

       Bình bạc, mũi trên vai – Ý nói cái vòi trên cổ ấm nước

Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống cái giếng gần đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế xuất câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được.

Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười:
– Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm giải oan cho hồn kẻ thư sinh.

Mạc Đĩnh Chi bèn đọc (dịch Nôm):

Khóa vàng, râu trong bụng – Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa

Sau đó, Mạc Đĩnh Chi sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa.

Mọi người đều chịu ông đối giỏi.

Qua cửa ải Nguyên

Năm 1308, vua Trần Anh Tông giao cho Mạc Đĩnh Chi dẫn đầu sứ bộ Đại Việt đi sứ nhà Nguyên.

Khi sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đến cửa ải đầu tiên tại biên giới Việt-Trung, trời đã tối vì đoàn đến muộn so với giờ đã thông báo trước. Quân Nguyên canh gác ải bắt phải chờ đến sáng hôm sau mới mở cửa cho qua.

Thấy sứ bộ Đại Việt cứ biện bạch đòi mở cửa để đi cho kịp thì viên quan phụ trách ải nói:
– Nghe nói ngài là người có tài văn chương, sao không đem sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một câu đối. Nếu đối thông suốt, tôi sẽ mở cửa ải; bằng không xin ngài chờ tới sáng.

Rồi quân Nguyên thả từ trên cửa thành xuống một vế ra:

Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan
(Qua ải muộn, quan đóng cửa, xin cho khách qua ải).

Đây là một vế đối rất khó: Chỉ một câu ngắn mà có đến 4 chữ “quan” và 3 chữ “quá”, riêng cụm từ “quá quan” vừa bắt đầu câu vừa chấm dứt câu.

Tuy vậy, Mạc Đĩnh Chi đối như sau:

Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
(Ra trước dễ, đối lại khó, xin mời ngài ra trước).

Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “đối” và 3 chữ “tiên” “, còn cụm từ “tiến đối” vừa bắt đầu câu vừa chấm dứt câu, về câu từ là rất chỉnh. Tuy rằng ngữ cảnh không chỉnh lắm (mời người thách đố ra trước thì đó không phải là ý đối lại), nhưng vì vế ra quá khó nên đây là vế đối nhằm cứu vãn tình thế.

Quan coi ải ra lệnh cho lính mở của ải để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đi qua.

Rơi xuống hố

Một hôm Mạc Ðĩnh Chi cùng với phái bộ triều Nguyên đi dạo chơi. Tới gần một cái cầu, chẳng may Trạng Việt Nam bị sa hố, phái bộ đều chạy lại để đỡ ông dậy.

Ðể đùa vui, họ ra cho ông một vế câu đối, nói: “Nghe nói tiên sinh là người đối đáp xuất chúng, chúng tôi không tin. Nếu tiên sinh đối được câu đối này thì toàn bộ quan lại chúng tôi xin đỡ tiên sinh lên.”

Mạc Đĩnh Chi đồng ý.

Vế ra:

Can mộc, hoành cừ, lục giả tương như tự đạo
(Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng).

Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên những người nổi tiếng trong sử Trung Hoa ghép lại. Theo đó,

  • Can Mộc: Đoàn Can Mộc, một nhân vật đời Chiến Quốc;
  • Hoành Cừ: tên hiệu của Trương Tải, một triết gia đời Bắc Tống;
  • Lục Giả: người nước Sở, giỏi biện luận, theo giúp Hán Cao Tổ;
  • Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến Quốc;
  • Tự Đạo: Giả Tự Đạo, người đời Tống, một quyền thần chuyên chế.

Chỉ trong phút chốc, Mạc Đĩnh Chi nhớ lại lúc trước khi ngã, ông nhìn thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối:

Đại đình, an thạch, vọng chi nghiễm lược thiên thai
(Đình to, đá vững, nhác trông như thể Thiên Thai).

Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu chủ mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều, theo đó

  • Đại Đình: biệt hiệu của Thần Nông;
  • An Thạch: Vương An Thạch, thừa tướng đời Bắc Tống;
  • Vọng Chí: danh nhân đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế;
  • Thiên Thai: một tông phái Phật giáo

Riêng chữ “Nghiễm Lược” các nhà nghiên cứu chưa tra ra là ai, chưa hiểu hết ý tưởng uyên thâm của Mạc Đĩnh Chi.

Đúng theo lời hứa, văn võ bá quan triều Nguyên bất chấp áo mũ xúm lại đỡ ông Trạng lùn xấu xí nước Nam lên khỏi hố.

Vế đối với vua Nguyên

Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên ban đầu rất bị khinh thường vì vẻ ngoài thấp bé, xấu xí. Ngay hôm đầu vào bệ kiến, vua Nguyên muốn đích thân thử tài Mạc Đĩnh Chi và nhân thể dò khí tiết của ông nên ra câu đối (dịch Nôm):

Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng

Biết ý vua Nguyên tự coi mình là mặt trời và coi Đại Việt như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính, Mạc Đĩnh Chi thấy cần phải tỏ rõ thái độ của mình. Ông đọc vế đối (dịch Nôm):

Mặt trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.

Vế đối rất chỉnh, chỉ ra sự tuần hoàn trong trời đất, đến đêm thì mặt trời phải lặn nhường chỗ cho mặt trăng; mà cũng tỏ rõ khí phách, ý nói nước nhỏ có thể đánh bại nước lớn khi thời cơ đến.

Vua Nguyên nghe xong tức lắm, nhưng cũng phải khen Mạc Đĩnh Chi đối hay, đối chuẩn.

Tương truyền sau khi Mạc Đĩnh Chi ứng đối với hình ảnh: “bắn rơi mặt trời” trước bá quan văn võ nhà Nguyên, có người tiên đoán: “Hậu duệ của người này sau ắt sẽ tự lập làm vua”.

Quả đúng như vậy, sau này cháu bảy đời của Mạc Đĩnh Chi là Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê để lập ra nhà Mạc. Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đĩnh Chi là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế. Nhà Mạc tồn tại trong 150 năm, trải qua 4 đời vua.

Ghi thêm: Wikiquote cho rằng vua Minh ra câu đối trên, và Ngô Kính Thần (? – ?) đối lại khi được Lê Thánh Tông cử đi sứ năm 1493. Nghe xong vế đối, vua Minh nổi giận, ra lệnh bắt Ngô Kính Thần tống giam vào ngục. Không thấy Đại Việt sử ký toàn thư ghi tên nhân vật này.

Bốn quỷ, tám vua

Đây là thêm một giai thoại Việt Nam kể lúc Mạc Đĩnh Chi đi sứ qua Trung Hoa. Hoàng đế Nguyên Vũ Tông ra cho ông một vế đối (dịch Nôm):

Mỵ Ly Võng Lượng, bốn tiểu quỷ

Mỵ, Ly, Võng, Lượng là tên bốn con quỷ, vì thế trong chữ Hán mỗi chữ này đều có chữ quỷ, cộng lại là bốn con quỷ, cũng ngầm ý chê Mạc Đĩnh Chi hình dung xấu như quỷ.

Vế đối lại phải áp dụng cách chiết tự như trên. Mạc Đĩnh Chi đối lại (dịch Nôm):

Tì bà cầm sắt, tám đại vương

Trong chữ Hán, mỗi chữ chỉ tên nhạc cụ , , cầm, sắt đều có hai chữ vương, cộng lại là tám ông vua, có ý bảo ta đây là đại vương chứ không phải quỷ nhỏ.

han_my-ly

Sau có câu thơ rằng:

Cầm đàn gảy khúc nam thương
Tì bà cầm sắt, bát vương đối gì?
– Khéo đưa sách cổ mà ôn
Mỵ ly võng lượng bốn con quỷ ngồi.

Ghi thêm: Có lẽ đây đúng thật chỉ là giai thoại, bởi vì trong truyện Anh hùng xạ điêu của Kim Dung có tình huống tương tự như sau.

Hoàng Dung cõng Quách Tĩnh đang bị thương tìm đến Nhất Đăng đại sư xin nhờ ông này chữa trị. Chưa gặp được Nhất Đăng đại sư đã gặp bốn đồ đệ của ông là Ngư, Tiều, Canh, Độc tìm cách ngăn cản.

Riêng ông Độc ra vế đối như sau:

Cầm sắt tỳ bà, tám đại vương thảy bày diện mạo

Hoàng Dung nghe xong, trong lòng cả mừng: “Trong bốn chữ cầm sắt tỳ bà có tất cả tám chữ vương, vốn là vô cùng khó đối, chỉ tiếc đây là một câu đối cũ chứ không phải do ngươi nghĩ ra. Năm trước cha ta trên đảo Đào Hoa nhàn rỗi vô sự đã đối lại rồi. Mình cứ làm ra vẻ khó khăn, để y đợi một lúc.”

Liền cau mày làm ra vẻ nhăn nhó khổ sở. Thư sinh thấy làm khó được nàng, vô cùng đắc ý nhưng chỉ sợ Hoàng Dung hỏi ngược lại y, bèn nói trước: “Câu đối này vốn rất khó, ta cũng không đối được thật chỉnh. Có điều chúng ta đã nói từ đầu, nếu tiểu cô nương không đối lại được, thì chỉ có cách mời về thôi.”

Hoàng Dung cười nói: “Nếu nói phải đối vế đối này thì có gì là khó, chỉ sợ vế mới rồi đắc tội với đại thúc, bây giờ vế này lại đắc tội với cả bốn vị Ngư Tiều Canh Độc nên không nói ra được.”

Thư sinh không tin, nghĩ thầm: “Ngươi mà đối được đã là thiên nan vạn nan, há lại có thể nhân dịp này chọc ghẹo cả bốn anh em ta à?”

Liền nói: “Chỉ cần đối cho chỉnh, chuyện cười cợt có gì đáng ngại!”

Hoàng Dung cười nói: “Nếu đã như thế thì ta xin lỗi trước.”

Vế đối lại của Hoàng Dung là:

Ly mỵ võng lượng, bốn tiểu quỷ đều có ruột gan

Thư sinh cả kinh đứng bật dậy vung tay áo một cái, vái Hoàng Dung một vái, nói: “Tại hạ bái phục.”

Hoàng Dung đáp lễ, cười nói: “Nếu không phải các vị đều dùng tâm cơ cản trở bọn ta lên núi thì vế đối này quả thật cũng khó mà nghĩ ra.”

Nguyên năm xưa lúc Hoàng Dược Sư làm vế đối này thì Trần Huyền Phong, Khúc Linh Phong, Lục Thừa Phong, Mã Mặc Phong bốn đệ tử đang đứng hầu bên cạnh, y bèn lấy bốn chữ ấy để chọc ghẹo bốn người. Lúc ấy Hoàng Dung còn chưa ra đời, về sau nghe cha kể lại, hôm nay lại dùng đó để chỉ bốn người Ngư Tiều Canh Độc.

Chim chích – Con ếch

Vua Nguyên còn ra một vế nữa:

Quých tập chi đầu, đàm Lỗ luận: tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
(Chích đậu đầu cành, bàn Luận ngữ: biết thì nói là biết, không biết nói không biết, đó là biết)

Câu này dùng chữ trong Luận ngữ. Âm “i” nhại tiếng chim kêu líu lo, chọc âm của tiếng Việt.

Mạc Đĩnh Chi đáp lại:

Oa minh trì thượng, độc Châu thư: lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng lạc nhạc, thục lạc?
(Ếch kêu bờ ao, đọc Châu thư: vui cùng ít nhạc vui, vui cùng nhiều nhạc vui, đàng nào vui?)

Câu này dùng chữ trong Mạnh tử. Âm “ạc” nhại tiếng ếch kêu, chê giọng ồm ồm của người Tàu.

Câu đố khi cưỡi lừa

Có lúc Mạc Đĩnh Chi cưỡi lừa đi đường, chạm phải ngựa của người Tàu. Người này ra vế đối (dịch Nôm):

Chạm ngựa ta cưỡi, ấy là người Đông di hay người Tây di?

Vế ra có ý miệt thị.

Đĩnh Chi ứng khẩu đối lại (dịch Nôm):

Chắn lừa ta đi, thử xem người Nam khỏe hay người Bắc khỏe?

Vế đối tỏ ý bất khuất.

Câu đối tặng ông quan hai vợ

Tương truyền có một ông quan cùng triều với Mạc Đĩnh Chi, có hai bà vợ mà hai bà lại hay ghen tuông cấu xé nhau, thành ra trong nhà cứ lục đục luôn, có khi om sòm, làm kinh động cả chung quanh.

Mạc Đĩnh Chi thấy vậy liền làm tặng ông quan ấy một câu đối để dán ở hậu đường như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Sang Đông vua Hán thắng, sang Tây vua Sở thắng, quyền ở nơi bác
Đánh Đông rợ Tây oán, đánh Nam rợ Bắc oán, sao không đến ta?

Chỗ khéo léo của đôi câu này là hoàn toàn lấy trích dẫn trong sách, mà lại vẫn bao hàm được ý nghĩa trào lộng bóng bẩy tả cảnh khổ của một ông hai bà. Cho nên ông quan biết vậy mà vẫn không giận vào đâu được.

Vế trên từ câu trong Hán Thư, Trương Lương bảo Hàn Tín: “Sang Đông thì Hán thắng, sang Tây thì Hạng được, tùy ở ông đấy.”

Vế dưới từ câu trong Kinh Thư: “Vua một nước yêu thích đức nhân sẽ là người vô địch trong thiên hạ. Ông ấy đánh Nam thì Bắc địch oán, đánh Đông thì Tây di oán, ai cũng trách sao không đến với mình trước.”

Câu đối khác

“Trạng đối” Mạc Đĩnh Chi còn để lại một số câu đối hay, trong đó có câu đề chốn lầu xanh (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Tấc đất làm ruộng tốt, cấy cày chẳng nệ mùa hạ–xuân
Tay rộng mở bốn bề, thân tình không hiềm người nam–bắc

Quan nhà Minh và học trò Việt

Hoàng Phúc và Lê Thúc Hiến

Hoàng Phúc (1363-1440) là một đại thần triều Minh được vua Minh Thành Tổ cử sang Đại Việt giữ chức Tán Quân vụ để cai trị và truyền bá văn hóa Trung Hoa. Sử Việt Nam chép Hoàng Phúc sang Việt Nam hai lần, lần đầu ở Việt Nam suốt 18 năm, từ 1406 đến 1424; lần thứ hai sang với tư cách trợ lý cho Liễu Thăng năm 1427. Như thế, trong bộ máy cai trị của nhà Minh đặt tại Đại Việt, Hoàng Phúc là người đứng đầu bộ phận dân sự. Ông mở trường để dạy cho các nho sinh Đại Việt.

Nhân một hôm mưa bão nổi lên, nhà sập đổ, tường xiêu vẹo, trước đám học trò Hoàng Phúc đọc vế ra và bắt học trò đối lại:

Tai chiêu phong vũ gia gia đồi hoại cựu viên tường
(Hôm qua mưa gió, nhà nhà sập đổ vách tường xiêu).

Trong lúc mọi người đang suy ngẫm thì một nho sinh xin đọc:

Kim nhật càn khôn xứ xứ phát sinh tân thảo mộc
(Nay đất trời quang, chốn chốn mọc lên cây cỏ mới).

Có lời bàn rằng quang cảnh đổ nát do mưa bão giống như kẻ thù làm cho nước Nam điêu đứng; cây cỏ mới mọc lên giống như nhân tài Đại Việt sẽ sớm xuất hiện để khôi phục lại đất nước.

Tác giả vế đối lại là Lê Thúc Hiến, con trai của Lê Cảnh Tuân, ông bị quân Minh bắt giam ở Kim Lăng cùng với con trai Lê Thái Diêu đều chết ở trong ngục. Sau vụ này, Lê Thúc Hiến cùng với anh là Lê Thiếu Đính vào Lam Sơn chiến đấu dưới lá cờ Lê Lợi và lập nhiều chiến công hiển hách.

Quan đô hộ nhà Minh và Phan Nhân

Tại làng Phan Xá, Nghi Xuân, Hà Tĩnh có chàng hàn sĩ Phan Nhân bị quân Minh bắt về hầu hạ viên học quan Trung Quốc. Ông này sang Đại Việt mở trường để truyền bá văn hóa Trung Hoa và ca ngợi công đức nhà Minh.

Một hôm y ra một vế đối và bắt nho sinh Đại Việt đối lại:

Hồng lựu tự hỏa phi cầm lai vãng bất thiêu thân
(Hoa lựu đỏ như lửa, chim bay qua lại, thân chẳng bị thiêu).

Phan Nhân ứng khẩu đọc:

Lục tảo như ti du lý phù trầm nan tước vĩ
(Đám rêu xanh như tơ, cá lội nổi chìm, đuôi chẳng bị vướng).

Vế ra của viên quan nhà Minh muốn nói: quân Minh tuy bề ngoài có vẻ hung dữ nhưng thực chất là đạo quân nhân nghĩa chẳng làm hại ai.

Còn vế đối của Phan Nhân khẳng định rằng: Dù bị bủa vây nhưng không ngăn nổi ý chí tung hoành của người Đại Việt.

Sau cuộc đấu trí này, biết kẻ thù đang theo dõi mình, Phan Nhân trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi và lập được nhiều chiến công.

Lê Thánh Tông

Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) là hoàng đế thứ năm của triều Lê nước Đại Việt, lúc còn niên thiếu thường được gọi là hoàng tử Hiệu. Ông rất thông minh và chăm học. Các môn kinh sử, luật, lịch, thi, họa, ông đều tinh thông. Đặc biệt ông rất chuộng văn học.

Câu đố nên nghĩa

Tương truyền, một buổi chiều mùa hạ, hoàng tử Hiệu đi hóng mát trên bờ sông đào vùng Tống Sơn (Thanh Hoá), tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo ở một bến nọ. Cô gái nhan sắc tuyệt vời, khiến hoàng tử không sao bỏ đi được. Đứng tần ngần hồi lâu, hoàng tử liền đọc bỡn một câu rằng:

Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả

Câu văn của hoàng tử tuy còn bỏ lững, nhưng ý nghĩa đã quá rõ ràng. Cô gái nghe xong vẫn cứ cúi đầu làm thinh. Mãi lúc cắp rá gạo ra về, cô mới ngoái cổ đáp lại:

Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hẵng lo cho …

Câu này cũng bỏ lững, thiếu chữ như câu trên nhưng nghĩa cũng rõ lắm. Ý nói đời đang loạn lạc, làm thân nam nhi nên ra tay giúp đời trước đã, rồi sau có nghĩ đến chuyện mình hay chuyện ai hẵng hay.

Nghe lời cô gái, hoàng tử càng thêm yêu mến bội phần. Sau đó, hỏi dò mới biết đó là cô Ngọc Hằng, con một vị quốc công, mẹ vì bị tình phụ nên đưa cô đến ở vùng này sinh sống. Từ đó, hai người thường gặp nhau luôn.

Sau này, khi hoàng tử lên ngôi thì Ngọc Hằng trở thành hoàng hậu của nhà vua. Vua Lê Hiến Tông sau này chính là con của bà.

Câu đối khẩu khí

Trong một số giai thoại, Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) được cho là tác giả một số câu đối trong đó nghĩa đen chỉ tình huống tầm thường nhưng nghĩa bóng toát ra khẩu khí của bậc quân vương, được gọi là câu đối khẩu khí. Dưới đây là hai giai thoại biểu trưng về câu đối khẩu khí.

Nhân dịp đầu năm mới, Vua Lê Thánh Tông ăn mặc giả làm thường dân ra phố dạo chơi để xem xét tình hình dân chúng. Ði tới đâu nhà Vua cũng thấy những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, nên trong lòng rất vui thích.

Riêng nhà nọ, chẳng treo đèn, kết hoa mà cũng chẳng có đối liễn gì hết. Vua rẽ vào hỏi, chủ nhà trả lời:
– Chả giấu gì bác, nhà cháu làm nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với ai cho thêm tủi!

Vua ngạc nhiên, hỏi:
– Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?

Chủ nhà thưa:
– Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi mót phân người để bán thôi ạ!

Nghe xong, Vua cười, nói:
– Nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng là vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!

Rồi nhà Vua lấy giấy bút, đề giùm cho một đôi câu đối như sau (dịch Nôm):

Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Cầm ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.

Chú thích:

  • Áo bào: loại có nhiều mảnh kim loại chồng lên nhau, na ná như áo tơi của người hốt phân
  • Kiếm: ám chỉ dụng cụ hành nghề của chủ nhà
  • Lòng dạ: nghĩa bóng là thứ từ bụng người mà ra, tức là phân.

Khách qua lại nhìn thấy câu đối, ai cũng kinh ngạc xôn xao.

Về sau, có bình phẩm về giai thoại này:

Thì ra, chỉ cần có thể đảm đương những nhọc nhằn khó khăn của thiên hạ, chỉ cần có thể sống tròn đạo nghĩa, thu phục lòng người, thì nghề nghiệp nào cũng thành cao quý cả!

Ngược lại, dù làm nghề cao sang đến đâu, ví như giáo viên, bác sĩ, mà tâm địa hẹp hòi, đánh mất đạo đức, thì không sánh nổi anh chàng mót phân “tận thu lòng dạ thế gian” kia!

Một lần khác, Vua Lê Thánh Tông vi hành nhân dịp Tết, dừng chân uống nước ở một quán nước trong kinh thành. Thấy nhà không có câu đối Tết, vua giúp viết hộ:

Nếp giầu quen thói kinh cơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyển bát, bắc nam đâu đấy lại hàng.

Đôi câu đối nói lên được hiện vật của một hàng nước: giầu (trầu), cơi, ấm, nước, bát, hàng (quán), nhưng mang đậu khẩu khí đế vương, cứ như là đang trị quốc, bình thiên hạ vậy.

Câu đối được truyền đến tai triều đình, các quan hết sức ngạc nhiên và ra lệnh điều tra xem ai là người viết. Hai câu ngụ một ý kinh bang tế thế, một khí phách lớn lao, thậm chí nghe ra ngang tàng hơn người. Điều tra không được, chuyện tâu lại lên Lê Thánh Tông, nhưng ông chỉ cười.

Lại một Tết khác, nhà vua cùng đoàn tùy tùng giả thường dân đến nơi phố xá đông đúc, thấy một nhà cũng không dán câu đối. Vua lân la hỏi chuyện, mới hay đó là một nhà góa phụ làm nghề thợ nhuộm quần áo, vải vóc Bà bảo nhà góa bụa nghèo hèn nên cũng chẳng thiết tha gì tết nhất mà treo câu đối. Nghe vậy, nhà vua liền lấy giấy bút viết tặng bà đôi câu đối bằng chữ Hán:

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều trung chu tả tổng ngô gia

Dịch:

Thiên hạ xanh vàng đều tay tớ
Nội triều đỏ tím bởi cửa ta

Câu đối này treo lên ai cũng tấm tắc khen hay. Trạng nguyên Lương Thế Vinh trên đường đi chầu qua nhà thợ nhuộm, thấy câu đối có khẩu khí như vậy thì hoảng hốt vô cùng. Vào triều, ông vội vã tâu ngay với vua rằng nhà nọ có ý muốn làm bá chủ thiên hạ, cần phải cho người dò xét.

Lê Thánh Tông nghe xong, phì cười và nhận câu đối đó là do chính tay mình viết hộ, làm cho ông thượng họ Lương bị một phen tưng hửng.

Nhưng rồi, để bù vào sự bẽ bàng ấy, khi về nhà, ông thượng họ Lương nghĩ rằng nhà thợ nhuộm mà lại được thiên tử ngự giá đến, chắc con cháu sau này sẽ giàu sang rất mực, bèn đem ngay con gái mình gả cho con trai nhà thợ nhuộm.

Có nguồn ghi tác giả đôi câu đối này là vua Thiệu Trị, và từ ngữ hơi khác:

Thiên địa huyền hoàng đô ngã thủ
Triều đình chu tử tổng ngô môn

Dịch:

Đen trời, vàng đất nhờ tay mỗ
Mũ tía, xiêm điều chật cửa ta

Câu đối của Lê Thánh Tông và Lương Thế Vinh

Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam Hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu vua.

Hôm sau, vua đến thăm chùa làng. Khi ấy sư cụ đang bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của vua đã nhanh tay nhặt cho nhà sư. Vua trông thấy vậy, nghĩ ra một vế câu đối, rồi trong bữa tiệc hôm đó thách các quan đối. Vế ấy như sau:

Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ
(Trên bục đọc kinh, sư khiến sứ)

Câu này oái oăm ở ba chữ “sư sử sứ”, có nghĩa nhà sư sai khiến quan. Các quan đều chịu, chẳng ai nghĩ ra câu gì.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để cho họ suy nghĩ chán chê mà ung dung ngồi uống rượu, chẳng nói năng gì. Vua Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí. Nhưng ông chỉ cười trừ.

Một lúc, ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say, xin phép vua cho vợ dìu mình về.

Thấy Vinh là một tay ứng đối giỏi mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục:
– Thế nào? Đối được hay không thì nói đã, rồi hẵng về chứ!

Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng:
– Dạ… muôn tâu, thần… đối rồi đấy chứ ạ!

Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem. Vinh cứ một mực: “Đối rồi đấy chứ ạ!” hoài.

Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ vào người vợ đang dìu mình, mà đọc:

Đình tiền túy tửu, phụ phù phu
(Trước sân say rượu, vợ dìu chồng)

Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu.

Nhận xét: vế ra chữ Hán quá khó ở “sư sử sứ” nên câu dịch Nôm đành bó tay: “sư khiến sứ” tạm được nhưng “vợ dìu chồng” đối lại không ổn.

Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận (1446 – ?) người thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, phủ Bắc Hà thuộc phủ Kinh Bắc, nay là xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông là Phó Nguyên súy của Hội Tao Đàn do Vua Lê Thánh Tông thành lập.

Trong thời gian Đỗ Nhuận trọ học ngoài tỉnh, một lần dạo phố thấy một cô gái đẹp liền lẽo đẽo theo sau đến tận cổng. Cô gái vào nhà rồi, Nhuận lân la hỏi xung quanh mới biết đó là nhà của một vị quan về hưu. Hòe hôm sau đến gõ cửa nhà nọ, nói là học trò dọc đường khát quá, nên mạo vào xin nước.

Chủ nhà vốn xuất thân nho học, nên rất yêu mến học trò, liền dẫn Nhuận vào mời cùng uống trà. Thấy Nhuận đối đáp nhõ nhã, ông rất thích. Nhân hai người ngồi đối diện với bức tranh sơn thủy treo trên vách, ông bèn đọc một câu đối, ý cũng muốn thử tài (dịch Nôm):

Treo tranh trên vách, thu hết non sông bốn bể

Nhuận nghĩ mãi không đối được, bí quá vờ đánh đổ trà lên chân, rồi xin phép ra rửa chân, tính bài từ đó… chuồn ra cổng. Ra đến ao, khuya chân xuống nước, bóng nước lay động làm hình ảnh rung rinh, lóng lánh, Nhuận chợt nảy ý hay, bèn quay lại đối (dịch Nôm):

Rửa chân trong ao, lay động trăng sao chín trời

Có thuyết khác nói rằng vế đối trên là của Nguyễn Hòe, cũng người thời Hậu Lê.

Lần khác, có khách đến nhà Đỗ Nhuận chơi, gặp lúc cha Đỗ Nhuận đi vắng. Thấy cậu bé nhanh trí đối đáp nhanh nhảu, sáng ý hơn người, khách thấy lạ. Để đánh quỵ thằng bé về chữ nghĩa, nhân khi người nhà Đỗ Nhuận mang bắp ngô luộc lên mời ông khách, ông liền ra câu đối:

Ngô là ta, ta ăn bắp ngô với trẻ

Đỗ Nhuận không cần nghĩ ngợi đối luôn:

Phụ là bố, bố nhường đậu phụ cho con

Có thuyết khác nói vế đối này là của cử nhân Trương Khắc Nhượng ở làng Thanh Nê (nay là xã Tán Thuật tỉnh Thái Bình) khi đối đáp với cha.

Đàm Thận Huy

Đàm Thận Huy (1463-1526), là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông còn là thành viên của Hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông là Nguyên súy, nổi tiếng một thời.

Một hôm, trời mưa to nên đã đến giờ tan học mà các học trò vẫn phải nán lại chưa thể về được, nhân đó Đàm Thận Huy ra vế đối cho các học trò. Vế ra:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
(Mưa không kiềm chế vẫn giữ chân khách)

Nguyễn Giản Thanh (1482 – ?) đối:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân
(Sắc không sóng gió vẫn chìm đắm người)

Câu đối lấy ý từ điển tích Trung Hoa: đời vua Minh Huệ Đế, Trần Hóa Chiêu có vợ là Lương Tiểu Nga rất xinh đẹp. Cùng huyện có phú hộ tên Trát Hiếu Sắc, thấy Tiểu Nga đẹp, tìm cách kết bạn với Hóa Chiêu. Lập tâm chiếm cho được vợ bạn, Hiếu Sắc bỏ ra nhiều tiền để giúp bạn trong việc làm ăn hoặc lúc nguy khốn. sau khi chiếm được cảm tình của nhà bạn, Háo Sắc rủ Hóa Chiêu ngồi thuyền đi buôn, mọi vốn liếng đều do mình chịu. Thuyền đi một tháng đến Hàng Châu, Hiếu Sắc phục rượu cho Hóa Chiêu say rồi xô xuống biển. Mấy lần Hóa Chiêu trồi lên đều bị tên phản bạn nhấn xuống cho chìm, cuối cùng chàng phải vùi thây dưới đáy biển. Chừng ấy, Hiếu Sắc mới tri hô lên cho bè bạn hay và mượn thuyền đến vớt bạn nhưng không được. Hiếu Sắc cho thuyền trở về, khóc lóc báo tin dữ cho mẹ và vợ Hóa Chiêu, bỏ tiền cúng bái và cùng Tiểu Nga để tang. Từ đó, Hiếu Sắc càng tỏ ra hết lòng lo lắng mọi việc nhà cho vợ bạn khiến mẹ Hóa Chiêu cảm động và ép dâu là Tiểu Nga ưng Háo Sắc làm chồng đền công ơn giúp đỡ. Hai người ăn ở với nhau ít lâu, nhân vô ý, Hiếu Sắc để lộ việc mình âm mưu hại bạn. Tiểu Nga đến huyện đường đầu cáo và trả được thù cho chồng cũ. Nhưng nàng nhận thấy vì nhan sắc của mình mà cả hai người chồng đều bị chết, Tiểu Nga thắt cổ tự tử.

Đàm Thận Huy nhận xét: “Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp”. Quả nhiên, Nguyễn Giản Thanh làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá, nhưng vì say đắm cô gái đẹp ở kinh thành mà đến thân bại danh liệt.

Nguyễn Chiêu Huấn đối:

Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân
(Trăng có cung loan vẫn không bắn người)

Đàm Thận Huy đánh giá: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hòa, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn! Người này làm quan thanh liêm, bản chất lương thiện rất được lòng dân”. Đàm Thận Huy thích câu của Nguyễn Chiêu Huấn có ý trung hậu, ông bèn gả con gái lớn là Thúy cho ông học trò hiền lành này. Đến khoa thi, nghe tin Nguyễn Giản Thanh đỗ trạng nguyên, ăn khao hơn một tháng trời. Thấy vợ hối tiếc mãi, Đàm Thận Huy bảo rằng “Anh này đỗ trạng nguyên thì anh kia rồi cũng phải đỗ bảng nhãn. Tuy kém hơn, nhưng bụng nó trung hậu, con cháu chắc sẽ khá hơn nhiều.”

Sau khoa thi kế tiếp, lúc Đàm Thận Huy đang tắm ngoài ao thì nghe tin con rể Huấn vừa đỗ tiến sĩ. Ông không kịp mặc quần áo, cứ thế chạy về nhà hô to với cụ bà rằng “Huấn cũng đỗ ông nghè rồi đấy!”

Đến khi xướng danh, quả nhiên ông Huấn đỗ bảng nhãn.

Lần khác, Đàm Thận Huy lại ra vế đối với một lớp học trò khác:

Thư là sách, sách để trên án thư

Một học sinh đối:

Kiếm là gươm, gươm treo vào giá kiếm

Người nữa đối:

Phạn là cơm, cơm đựng trong bình phạn

Đàm Thận Huy phân tích: “Một người sẽ làm tướng quân lập nhiều chiến tích lớn nơi sa trường, còn gã kia có của nhưng chỉ là hạng tham ăn tục uống mà thôi”.

Hoàng Văn Tán

Hoàng Văn Tán (? – ?) người làng Xuân Lôi, huyện Vũ Ninh, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Trạng nguyên năm 1523. Thời còn bé, Hoàng Văn Tán rất thông minh và giỏi đối đáp.

thay giao BMột hôm có cụ Chánh mang lễ và dẫn con trai đến nhập học. Nhìn lên mâm lễ lớn vừa đặt trên hương án, thầy đồ tức thì ra một vế đối có ý thử tài trò mới và các nho sinh:

Con ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu

Vì thầy chơi chữ nên vế ra này rất khó đối, cả đám học trò ngơ ngác nhíu mày im lặng, thầy đồ lắc đầu, hết hy vọng. Bất ngờ cậu bé Tán từ bếp chạy lên, tay vẫn xách siêu nước bốc hơi nghi ngút, cậu kính cẩn xin phép thầy được đối lại, thầy gật đầu bằng lòng. Cụ Chánh và đám nho sinh đứng ngây như phỗng nhìn cậu bé Tán với vẻ ngờ vực.

Tán dõng dạc đọc:

Cái kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò.

Khi chuẩn bị lều chõng lên đường đi thi thì trời nổi cơn mưa, thầy đồ muốn khảo thí các môn sinh lần cuối bèn ra một vế đối:

Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ

Làng Hạ Vũ là quê thầy đồ, tên này cũng có nghĩa là mưa sa.

Một lần nữa cả môn trường im lặng, thầy trầm tư vẻ mặt không vui. Bỗng nhiên có tiếng xin thầy được đối vang lên từ phía sau, thầy ngoảnh lại chính là Hoàng Văn Tán nói, thấy vậy thầy vui vẻ đồng ý nhận lời.

Tán đáp lại rằng:

Ầm ầm sấm động đất Xuân Lôi

Làng Xuân Lôi là quê của Hoàng Văn Tán, tên cũng có nghĩa là sấm động mùa Xuân.

Tán vừa đọc dứt vế đối thì trên trời lóe chớp và tiếp theo là một tiếng sấm rất lớn.

Thầy đồ sung sướng reo lên: “Trạng nguyên của ta đây rồi!” Và kỳ thi năm đó quả thật Hoàng Văn Tán đỗ Trạng nguyên.

Ghi thêm: Có thuyết chép câu chuyện khác đôi chút, như sau.

Nguyễn Tự Cường người làng Xuân Lôi, tuy đã lớn tuổi, có vợ con rồi mà vẫn bị mang tiếng là người dốt. Lúc ông 30 tuổi, vợ ông cố năn nỉ một vị đại khoa để xin cho ông được phép khai tâm. Vị đại khoa nhận lời, nhưng ông Cường học tối dạ, ba ngày không thuộc một bài.

Thầy không muốn dạy nữa, ngỏ ý trả ông về với vợ, nhưng bà vợ năn nỉ quá, ông thương tình, ra một câu đối, nói nếu đối được thì ông dạy tiếp, bằng không thì thôi.

Nhân tên làng của thầy là Hạ Vũ và gặp lúc đang mưa, thầy ra câu đối:

Làng Hạ Vũ mưa bay phất phới

Nguyễn Tự Cường đối lại:

Đất Xuân Lôi sấm động ù ù.

Thầy cả kinh mà nói rằng: “Coi câu đối của anh thì cái khí tượng đại khoa đã biểu lộ. Thực là ít có, thế nào anh cũng thành đạt. Như thế thì, dù anh không muốn học, tôi cũng khuyên cho đi học”.

Quả đúng như lời thầy tiên đoán, ông Nguyễn Tự Cường về sau đỗ Hoàng giáp, khoa niên hiệu Hồng Thuận thứ 16 triều vua Tương Dực nhà Lê.

Một giai thoại được gán cho 3 tình huống

Giai thoại về đôi câu đối dưới đây được gán cho ba tình huống khác nhau.

Vế đối của Giang Văn Minh

Giang Văn Minh (1573-1638) sinh tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Ông đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi năm 1628 thi Đình lại đỗ tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, tức Thám hoa. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi.

Năm 1637, ông dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.

Hoàng đế Minh Tư Tông (tức hoàng đế Sùng Trinh) ra vế đối cho chánh sứ Thám hoa Giang Văn Minh:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay xanh vì rêu).

Vế ra nhắc tới việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng rồi cho chôn cột đồng, nguyền rằng: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là: Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong. Cũng có ý cảnh cáo nước Việt phải chịu thần phục kẻo lại bị đánh dẹp như thời đó.

Chánh sứ Giang Văn Minh đối lại:

Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Đằng từ xưa đỏ do máu).

Vế đối này vừa chỉnh, vừa nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên Sông Bạch Đằng, cho thấy sức chống trả kiên cường. Hơn nữa, cột đồng Mã Viện là một thứ mơ hồ không chắc đã có thật, còn sông Bạch Đằng thì hiển hiện như một vết nhơ trong lịch sử xâm lược của triều đình phương Bắc.

Chuyện kể rằng vua nhà Minh giận dữ, quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, trả thù bằng cách ra lệnh trám đường vào miệng và mắt chánh sứ Việt, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này được cho là xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông (và sợ Đại Việt trả thù) nên cho ướp xác ông bằng thủy ngân và đưa thi hài ông về nước.

Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).

giang van minh_phan mo
Phần mộ Giang Văn Minh, xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội

Ghi chú: Việc chánh sứ Việt bị vua Minh sát hại là một sự kiện chấn động và bi thảm, cần được tìm hiểu thêm.

Đại Việt sử ký toàn thư (công bố năm 1697), bản dịch ghi nguyên văn:

Đinh Sửu [Dương Hòa] năm thứ 3 [1637], (Minh Sùng Trinh năm thứ 10) … Sai chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu và Giang Văn Minh, phó sứ là bọn Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê gồm 2 sứ bộ sang tuế cống nhà Minh.

Chính sử ghi cụ thể thời điểm, thành phần và mục đích đi sứ, nhưng tại sao lại không ghi sự kiện chánh sứ bị vua Minh sát hại, chỉ vài chục năm trước?

Tác giả levinhduy (2015) cho biết: Chuyện Giang Văn Minh đối đáp đanh thép với vua Minh chỉ là giai thoại truyền kỳ, chẳng hề có chính sử nào ghi. Cụ thể, Lịch triều hiến chương loại chí, Bang giao chí cũng có ghi việc hai sứ bộ này, nhưng chẳng hề thấy ghi lại thảm kịch của Giang Văn Minh, và nếu có chuyện kinh thiên động địa như vậy, tất phải có ghi lại. Một tác giả ghi nguồn là cuốn Giang Thám hoa tộc phả, vốn là quyển gia phả của nhà họ Giang, viết ra vào năm 1849, tức đã hơn 200 năm sau thảm kịch. Giai thoại trên được ghi trong gia phả đó, sau này được đưa vào sách Danh nhân quê hương (1976) do Ty Văn hóa Hà Sơn Bình xuất bản. Hóa ra quyển sách của một Ty Văn hóa đã lấy giai thoại chép trong gia phả để đôn lên thành lịch sử chính biên. Còn về vế đối “được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế Minh Tư Tông” khiến cho “Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận” thì cần nghĩ lại tính thực hư như thế nào: chuyện câu đối đó có thật không? và quân Nam thắng quân Nguyên–Mông thì một vị vua thuộc triều Minh – hậu duệ của Chu Nguyên Chương đã lật đổ triều Nguyên mà tiếp quản Trung Hoa – tại sao lại giận dữ đến thế? Đáng lẽ còn hả hê mới phải!

TS Nguyễn Thanh Tùng (2014) cũng đề cập đến cuốn Giang Thám hoa tộc phả cùng sách Danh nhân quê hương, và cho rằng sự xuất hiện rất muộn như vậy cho thấy rõ tính hư cấu, huyễn hoặc của câu chuyện. Hơn nữa, cùng một mẩu truyện về đôi câu đối được gán cho ba người ở ba thời điểm khác nhau, thì càng không nên xác định chắc chắn trừ phi có tư liệu đáng tin cậy.

Tóm lại, chỉ nên xem thảm kịch nêu trên là hư cấu. Nếu chết vì lý do nào khác khi đi sứ thì Giang Văn Minh vẫn được bái kiến và phong tặng như kể trên.

Vế đối của Mạc Đĩnh Chi

Theo Phạm Hy Sơn, vào thời nhà Trần khi Mạc Đĩnh Chi đi sứ vừa sang tới đất Tàu thì viên quan trú phòng sở tại ra một câu xướng rất ngạo mạn. Đôi câu đối cũng y như trên.

Vế đối của Nguyễn Tuấn

Tác giả vô danh trên trang web http://quehuongonline.vn/ kể về Nguyễn Tuấn (? – ?), quê ở xã Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đỗ đồng tiến sĩ năm 1613. Vào năm Vĩnh Tộ thứ nhất (1615) đời Lê Thần Tông, ông được cử đi sứ nhà Minh để dâng đồ lễ cống. Vua Minh vốn đã biết ông là người cứng rắn và hay chữ, nhân muốn thử tài, bèn ra một vế đối. Đôi câu đối cũng y như truyện đầu. Tác giả vô danh này cũng kể vua Minh nghe rồi, có vẻ không bằng lòng; nhưng cũng phải khen là câu đối hay, lời văn chọi, ý tứ hùng hồn, đanh thép. Và sau đó nhà vua tiếp đãi đoàn sứ bộ Việt Nam rất hậu.

Nguyễn Đăng

Nguyễn Đăng (1576-1657) sinh trong một gia đình nghèo khó ở một làng quê chuyên sống bằng nghề trồng hành, tỏi nên gọi là làng Tỏi, xã Đại Toán, huyện Quế Dương (nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ), tỉnh Bắc Ninh. Khi còn nhỏ, nghe nói cụ nghè Nguyễn Đình Tuân, quê ở làng Võ, xã Quảng Bố, huyện Lang Tài là người hay chữ, dạy giỏi trong vùng, Nguyễn Đăng được gia đình đưa đến tận nhà xin theo học.

Cụ nghè ra một câu đối, đối hay mới nhận làm môn sinh:

Vó vé, te te, võng tiến sĩ

Vế này đặt ra ba yêu cầu hóc búa về nội dung: một là vó, te, võng là những đồ dùng làm ăn của nhà nông; hai là làng Vó, làng Te là những nơi cụ nghè ở; ba là trong hoàn cảnh nơi thôn dã nghèo khó như vậy mà có ông nghè như thế chứng tỏ là nơi có truyền thống hiếu học.

Nguyễn Đăng nghe xong đối lại:

Hành hành, tỏi tỏi, kiệu trạng nguyên

Vế đối của ông thật là lời hay ý đẹp, đáp ứng được cả 3 yêu cầu của vế ra: hành, tỏi, kiệu vừa là tên của rau, của các loại gia vị vừa là địa danh của quê ông. Trong điều kiện một làng quê chỉ có nghề trồng hành, tỏi, rau màu lặt vặt như vậy mà sinh ra một quan trạng thì thật hiếm thấy!

Nghe xong, cụ nghè khen hay và chấp nhận cho ông theo học. Về sau, Nguyễn Đăng  đỗ giải nguyên qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình lúc mới 26 tuổi, và thủ khoa kỳ ứng chế (kỳ thi đặc cách do vua Lê Kính Tông mở). Ông được nhà vua tặng danh hiệu là “Tứ Nguyên”. Danh hiệu này có lẽ độc nhất vô nhị trong nước. Tuy nhiên, nhân dân địa phương quen gọi ông là “Trạng Tỏi”. Cụ nghè làng Vó mến tài ông ngay từ ngày đầu nhập học nên gả con gái của mình cho ông.

Lê Công Hành

Lê Công Hành (1606-1661) người làng Quất Động, huyện Thường Tín (Hà Tây), tên thật là Trần Quốc Khái, sau này được nhà Lê ban quốc tính họ Lê, đổi thành Lê Công Hành. Thời vua Lê Chân Tông (1643 – 1649), ông đỗ Tiến sĩ và được cử đi sứ Trung Hoa. Do có công lao phổ biến, truyền nghề thêu, nghề lọng, nên sau ngày ông mất, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ông.

Tương truyền, ngay từ khi còn niên thiếu, Lê Công Hành đã nổi tiếng thông minh. Có lần đi đắp đê, vì sức yếu, không vác được hòn đất to, ông bị chôn chân ở đê. Một viên quan thị đi qua, thấy vậy hỏi duyên cớ, ông khai là học trò sức yếu.

Viên quan thị nói: “Nếu là học trò, ta ra cho một vế câu đối, đối được, ta tha cho về”. Ông đọc:

Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy

Lê Công Hành đối lại:

Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam

Vế trên có bốn thứ quả: thị, (chuối) tiêu, hồng, cậy. Vế dưới cũng có bốn tên quả: quất, nhãn, (bồ) quân, cam. Quan thị vỗ ngực kể công thì cậu học trò cũng hiên ngang tỏ bày chí khí.

Nguyễn Ðăng Cảo

Thời Lê Trung Hưng, có Nguyễn Ðăng Cảo (? – ?) là người nổi tiếng trong việc ứng đối. Ông quê ở làng Hoài Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; đỗ Thám hoa vào khoảng triều Lê Hi Tông (1676-1705).

Tục truyền Nguyễn Ðăng Cảo tính nết bừa bãi, phóng túng, ngông ngạo, không coi ai vào đâu cả; ngoài thịt chó và rượu ngon không còn ham thích gì nữa.

Bấy giờ, vua Khang Hi nhà Mãn Thanh sai sứ mang chiếu sang nước Nam, buộc mọi người phải gọt đầu gióc tóc như người Mãn. Ðược tin ấy, vua Lê Hi Tông lo lắm, liền tức tốc cử Ðăng Cảo lên ải Nam Quan tiếp sứ Thanh để tìm cách thoái thác. Lên đến cửa ải, sau khi đã đem lẽ lợi hại ra biện luận với sứ giả, Ðăng Cảo bèn làm một bài biểu gửi sứ giả mang về cho vua Thanh. Vua Thanh xem tờ biểu, phục tài hùng biện của Ðăng Cảo, bèn hạ chiếu bãi bỏ việc ấy đi.

Ít lâu sau, Ðăng Cảo có dịp sang sứ nhà Thanh, vua Thanh thấy Ðăng Cảo hay chữ, liền ra một vế đối như sau (dịch Nôm):

Chó già rụng lông, còn ngóng ra sân sủa trăng

Nghe câu đối đầy giọng khinh miệt, ví phía Việt yếu đuối nhưng vẫn lên tiếng vu vơ, Ðăng Cảo bực tức liền đối ngay lại là (dịch Nôm):

Ếch con ngắn cổ, vẫn ngồi đáy giếng nhìn trời

Câu trả lời thật ngang tàng, có ý mỉa bọn thống trị Mãn Thanh kiến thức hẹp hòi, như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt chỉ thấy trời bằng miệng giếng chứ có biết đâu trời rộng bao la mà hòng khoác lác.

Vua Thanh thấy Ðăng Cảo đối đáp cứng cỏi, khen là người có dũng khí, và tỏ vẻ rất kính trọng ông.

Từ đấy, triều Khang Hi nhà Thanh không sách nhiễu nước Nam nữa.

Cống Quỳnh – Trạng Quỳnh

Cống Quỳnh có tên thật là Nguyễn Quỳnh (1677-1748), là một danh sĩ thời vua Lê Hiển Tông, từng thi đỗ Hương cống nên còn được gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng văn chương nhưng tính hay khinh mạn và ưa nhạo báng quan trường, nên đi thi trượt mấy lần. Gặp lúc chúa Trịnh chuyên quyền , ông không màng công danh,thường đi đây đó, lấy thơ văn chọc ghẹo người đời.

Cống Quỳnh hay Trạng Quỳnh?

Trạng Quỳnh trong các giai thoại dân gian có phải là Cống Quỳnh đời thật hay không? Sách Nam Thiên lịch đại tư lược sử nhận xét về nhân vật thật: “… Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước…” Đúng là những tố chất mà dân gian gán cho Trạng Quỳnh!

Hoàng Tuấn Phổ (2014) tổng hợp tư liệu cho thấy có tới hơn 90% mẩu truyện về Trạng Quỳnh là hư cấu, và Cống Quỳnh trong gia phả khác hẳn, nếu không nói là hoàn toàn đối lập với Trạng Quỳnh trong truyện kể dân gian. Có vài chi tiết cho ta thấy các truyện kể về Trạng Quỳnh phần lớn là hư cấu chứ không thể là truyện của Cống Quỳnh.

  • Đoàn Thị Điểm mới sinh khi Cống Quỳnh 28 tuổi và đang làm giáo thụ huyện Thạch Thất. Thế mà có cả một “thiên tình sử” về cậu học trò Quỳnh tinh nghịch, dối trá với cô Điểm.
  • Cống Quỳnh chỉ làm quan tới chức cao nhất là tri phủ, nên không có cơ may để mon men tới công việc đi sứ hoặc đón tiếp sứ Tàu. Hơn nữa công việc bang giao mang tính quốc thể, đâu phải là trò đùa, mà Quỳnh hết “Vũ quá Bắc Hải” lại “thi vẽ rồng”, thậm chí cầm quạt gõ lên đầu sứ giả nhà Thanh.
  • Trạng Quỳnh đả kích vua Lê chúa Trịnh khá cay độc nhưng đó là truyện cười dân gian, nên nội dung là những câu chuyện hoang đường. Trong thực tế, Cống Quỳnh chỉ là quan chức thấp, đâu có thể đối xử với chúa Trịnh như là chỗ bạn bè bằng vai phải lứa, muốn bông phèng thế nào cũng được.
  • Người ta kể chuyện “Trạng chết chúa cũng băng hà” y như thật, hiển nhiên cũng là chuyện bịa. Vì những năm trước, trong và sau khi Cống Quỳnh mất, chẳng có ông vua, ông chúa nào “băng hà”.
  • Người ta cũng kể nhiều về chuyện Trạng Quỳnh đi thi, phá bĩnh trong trường thi, đả kích từ quan chí vua. Nhưng theo gia phả của họ Nguyễn: Nguyễn Quỳnh lúc nhỏ cố chí học hành, lớn lên lặn lội hết khoa này đến khoa khác, cuối cùng đỗ hạng nhì kỳ thi Sĩ vọng thì lấy làm sung sướng lắm. Nguyễn Quỳnh như vậy cố nhiên đối lập với Trạng Quỳnh. Và chỉ có Trạng Quỳnh, nhân vật hư cấu theo đặc trưng sáng tác truyện cười dân gian mới có thể có những hành vi “coi trời bằng vung” như vậy. Bởi luật thi cử thời xưa rất nghiêm, thí sinh phạm quy có khi bị xử đến tội tử hình, huống hồ lại cả gan viết lách lăng nhăng, nói năng bậy bạ!
  • Một số mẩu chuyện thời niên thiếu của Trạng Quỳnh như: “Chữ Thái”, “Đầu to bằng cái bồ”, “Dê đực chửa”… thể hiện trí thông minh, tính nghịch ngợm của nhân vật từ khi còn nhỏ tuổi, đáng lẽ gia phả họ Nguyễn Bột Thượng có thể chép, nhưng chẳng thấy ghi lại một mẩu cỏn con nào. Trong khi đó, ở Thái Bình, người ta coi chuyện “Đố chữ Thái” là của cậu bé Lê Quý Đôn, ở Nghệ Tĩnh người ta kể chuyện “Đầu người to bằng cái bồ”do ông Nguyễn Công Trứ bày trò, và chuyện “Dê đực chửa” thì dân gian lại gán cho vài ba nhân vật khác nhau. Tất nhiên không thể nói ai vay mượn của ai, khi chuyện đã trở thành một kiểu giai thoại chẳng của riêng ai, có thể gán ghép cho bất cứ ai, miễn là có sự tương đối phù hợp.

Tóm lại, truyện dân gian thì cứ xem là dân gian và ta không quá sắc mắc phân định ai là ai. Vì thế, trong những giai thoại dưới đây, nên hiểu nhân vật Trạng Quỳnh là hư cấu và Cống Quỳnh có phần thật; khi không rõ thì chỉ gọi tắt một tên Quỳnh.

Đối đáp với Tú Cát

Từ bé Trạng Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát rất hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Trạng Quỳnh rất ghét những loại người như vậy.

Một hôm Trạng Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Trạng Quỳnh lại và bảo: “Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn.”

Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga:

Lợn cấn ăn cám tốn

Lợn cấn có nghĩa là lợn chửa. Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, vì “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong Kinh Dịch.

Nào ngờ, Trạng Quỳnh đối lại ngay:

Chó khôn chớ cắn càn

Vế này cũng có “khôn” và “càn”, cũng là tên hai quẻ trong Kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó.

dat nut con bo hungKhông ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo: “Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay”. Rồi đọc:

Trời sinh ông Tú Cát

Trạng Quỳnh đáp luôn:

Đất nứt con bọ hung

Câu đối choảng lại chan chát từng tiếng: “trời – đất”, “ông – con”, “cát – hung”. Trong khi vế ra tự tôn vinh người thách đối thì vế đối dìm người ấy xuống cùng cực thành một loài côn trùng chuyên ăn phân thú! Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Trạng Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi.

Nguồn khác lại cho biết Tú Cát thấy Trạng Quỳnh quả có tài mẫn tiệp khác thường, nên tuy giận mười mươi mà vẫn yêu, chẳng những không mắng mà còn giúp thêm tiền cho Quỳnh ăn học.

Ghi chú: Mẩu truyện trên không đích thực là của Cống Quỳnh. Trong giai thoại kể rõ đó là ông Cát đỗ Tú tài. Nhưng học vị tú tài sang triều Nguyễn (1802 – ) mới có. Chẳng lẽ Cống Quỳnh chết rồi, một trăm năm sau còn sống lại để đối đáp với ông Cát tú tài? Wikiquote cho rằng người ra vế cũng là Tú Cát, nhưng người đối lại là Trạng Lợn Dương Nghiêu Trư ở làng Dừa, thuộc tỉnh Hà Nam. Chính sử không ghi tên nhân vật này có quê quán như thế, nhưng lại có nhiều giai thoại trong dân gian về Trạng Lợn.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi Nguyễn Nghiêu Tư người huyện Vũ Ninh đỗ Trạng nguyên năm 1448, và thêm rằng Nghiêu Tư từng thông dâm với mẹ vợ, nên người ta gọi ông là “Trạng nguyên trư” tức Trạng nguyên lợn để chế giễu hành vi xấu xa đó. Nhưng cũng theo chính sử đó, Nguyễn Nghiêu Tư được bổ làm Hàn lâm Trực học sĩ, năm sau làm An phủ sứ lộ Tân Hưng rồi đến năm 1459 đi sứ sang nhà Minh.

Đối đáp với quan huyện

Một lần, Quỳnh trông thấy viên quan huyện đi hành hạt ghé vào quán nọ nghỉ trưa. Hắn ta ngồi bệ vệ, miệng luôn bỏm bẻm nhai trầu. Quỳnh định xỏ hắn một đòn chơi, mới mon men lại ngồi chực ở trước quán, và khi viên quan ăn trầu xong, vứt bã đi, Quỳnh liền nhặt lấy giơ lên ngắm nghía, rồi bỏ vào túi.

quan & tuy tung

Quan huyện thấy lạ mắt, cho đòi Quỳnh lại hỏi tên tuổi, nghề nghiệp.

Quỳnh xưng là học trò.

Viên quan bảo: “Học trò gì mà lẩn thẩn thế?”

Quỳnh thưa: “Bẩm, tôi thấy tục ngữ thế này nên tôi muốn xem gang thép ra sao:

Miệng kẻ sang có gang có thép

Viên quan thấy Quỳnh có ý mỉa mình, liền nạt: “Nếu là học trò thì lập tức phải đối ngay câu tục ngữ ấy, không đối được ta sẽ đánh đòn!”

Quỳnh giả vờ sợ sệt: “Bẩm, thế thì khó quá ạ!”

Viên quan được thể càng quát già: “Khó cũng phải đối, mau!”

Quỳnh bấy giờ mới thưa: “Bẩm, có sơ suất gì quan tha tội cho thì mới dám đọc ạ!”

Được hắn bằng lòng, Quỳnh liền lên giọng đọc to và rành rọt từng tiếng: Bẩm, xin đối là:

Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.

Quan huyện thấy câu đối xỏ xiên thâm thúy quá, vế trước nói về miệng của mình và vế sau đối lại bằng “chỗ ấy” của phụ nữ. Hóa hắn gài bẫy mình, đưa ra câu kia để mình bắt hắn đối lại mà không biết hắn đã chuẩn bị trước hết rồi! Nhưng tục ngữ đối với tục ngữ mà chữ nào chữ ấy chọi nhau chan chát; thành ra không bẻ vào đâu được. Quan đành trả tiền hàng rồi đi thẳng.

Đâm bị thóc, chọc bị gạo

Tương truyền, Quỳnh biết bọn quan thị và quan võ trước giờ không ưa nhau, bèn nghĩ cách cho chúng tỉ võ với nhau một bữa, đồng thời để xem cái dốt nát của chúng đến mức nào.

Một hôm, Quỳnh đến nhà viên quan hoạn giữ chức giám ban, đọc cho nghe một câu đối như sau:

Thị vào chầu, thị đứng thị trông, thị muốn ấy, thị không có gậy.

Trạng giải thích cho hắn hiểu chữ “thị” ở đây có nhiều nghĩa, gồm cả: chầu, đứng, trông, ấy, gậy… Rồi nói kháy rằng mình đọc thấy câu này ở bên dinh quan đề đốc, quan võ dè bỉu quan thị bị thiến, muốn “ấy” lắm mà không được.

Quỳnh nói xong thì kiếu ra về rồi đi ngay đến nhà quan đề đốc. Gặp quan, Quỳnh khoe rằng vừa đọc được một câu đối hay ở dinh quan giám ban như sau:

Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ bị mưa, vũ bện xoắn lông!

Đọc xong, Quỳnh lại còn ra vẻ xuýt xoa thán phục: “Chữ ‘vũ’ tai ác thật! Một từ đồng âm diễn được bốn, năm nghĩa: mạnh, ra, múa, mưa, lông vũ… Thế thì có thánh họa ra mới đối lại được!”

Đáng lẽ Quỳnh phải nện thêm: “Bên quan thị ví quan võ như chim chóc: họ nói đến lông vũ, chứ nói về lông mao là còn nói về người!”

Từ hôm đó trở đi, quan đề đốc và quan giám ban kình nhau ra mặt. Cho đến một hôm, Quỳnh nghe đám gia nhân kháo nhau: hai nhà quan kia kéo quân hỗn chiến một trận kịch liệt. Xong trận, cả hai đều tơi tả.

Vế đối khác:

Đình không dừng, đình thế thì thôi, đình gặp sét, đình tung cả nóc

Xỏ Chúa Trịnh

Năm đó, nhà chúa Trịnh mừng sinh được con trai, các quan trường bèn nảy ra ý nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thì nói về điềm lành của đất nước. Đoán được ý ấy, Trạng Quỳnh nghĩ ra cách làm đôi câu đối phải hàm được hai nghĩa: bề ngoài, đọc lên nghe như lời ca ngợi công đức của Chúa và sự an vui của mọi người, nhưng ẩn ý của nó lại là một sự phủ định.

Nội dung câu đối như sau:

Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân
Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường Ngu chi đức

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Quan theo xưa, dân theo xưa, dân đời Nghiêu Thuấn đội ơn quan
Trên vui thay, dưới vui thay, người thời Đường Ngu hưởng nhờ đức

Thoạt nghe qua, chúa Trịnh khen ngay: “Hay quá! Xứng đáng cho giải nhất!”

Quan chủ khảo liền tâu với Chúa: “Khải chúa! Trong hai câu ấy, thần thấy có ẩn ý không thuận”.

Chúa Trịnh nói: “Quan đa nghi quá! Ca ngợi công đức của chúa như vậy mà còn gì không thuận?”

Viên quan thưa:

Khải chúa, cứ theo nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay, nhưng Quỳnh là loại thâm nho, từng dùng chữ nghĩa chơi khăm nhiều người, và chắc hắn không bao giờ bằng lòng với thứ văn chương một nghĩa. Theo hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu ấy xướng theo nghĩa đồng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, không dám đọc lên để chúa thưởng lãm.

Chúa nói: “Ta cho phép, quan cứ nói”.

Quan phân tích:

Quan tắc cổ, dân tắc cổ có nghĩa là trên câm, dưới cũng câm, thưa tắc cổ là không dám nói đấy ạ! Còn đái hàm quan Ngiêu Thuấn chi dân tức là đái vào hàm bọn quan dám bảo rằng dân chúng đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn. Vế dưới: Thượng ung tai, hạ ung tai có nghĩa là trên thối tai, dưới cũng thối tai, là cả trên dưới, ai cũng là một lũ điếc đấy ạ. Vì điếc hết nên không biết ỷ đâu lai Đường ngu chi sĩ nghĩa là ỉa vào đầu lũ nha dám bảo rằng kẻ sĩ đang nở mặt giữa đời Đường Ngu.

Nhà Chúa tức lắm nhưng không có cớ gì để trừng trị Trạng Quỳnh ngay được. Tuy lần ấy Trạng Quỳnh không có giải nhưng lại có cơ hội đả kích thói xu nịnh của đám quan trường và chơi xỏ nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì vẫn giữ tròn khí tiết.

Đối đáp với sứ Tàu

Triều đình chuẩn bị đón sứ nhà Thanh sang nước Việt. Chúa nghe nói tên này là kẻ hống hách, hợm hĩnh, bèn kêu Trạng Quỳnh vào, giao cho giữ việc nghênh tiếp.

Trạng Quỳnh nhận lệnh, giả làm người lái đò.

Khi đò đến giữa sông, một người trong nhóm sứ Tàu nhột bụng, vãi rắm nghe một tiếng rõ to. Không thấy xấu hổ thì thôi, hắn còn đọc một câu chữa thẹn xấc xược:

Lôi động Nam bang
(Sấm động nước Nam)

Câu nói quá ác: sấm như thế thì nước Nam còn gì! Trả đũa không phải dễ, trả đũa cho chua cay hơn mới là khó hơn nữa.

vu qua bac haiTrạng Quỳnh đang cầm chèo, liền đứng cậy vạch quần đái vòng cầu xuống mặt nước, vừa đái vừa đọc:

Vũ quá Bắc hải
(Mưa qua bể Bắc)

Trả đũa như thế là thích đáng, ý nói: nước Nam chúng tôi bị sấm như thế vẫn chưa sao, nhưng biển Bắc bị mưa như thế thì các ông chết chắc!

Tên sứ Tàu giận điên tiết, xộc lại định đánh Trạng Quỳnh.

Trạng Quỳnh trở cán chèo thủ thế rồi mắng:

Tiền phát lôi, hậu phát vũ, thiên địa chi lý nại hỉ
(Sấm động trước, ắt sau sẽ có mưa, luật trời đất là thế )

Cả đoàn sứ Tàu sửng sốt nhìn nhau, không thốt được một lời vì câu đối đáp bắt bí quá đúng của anh lái đò.

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân (1697-1766) quê ở Núi Vàng, làng Kim Vực (xã Yên Thịnh, huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa ngày nay). Từ nhỏ đã được mọi người mệnh danh là “Thần dồng Kim Vực” vì thán phục trí nhớ siêu việt của ông. Năm 1724, ông đỗ Bảng nhãn. Vì khoa đó không chấm ai Trạng nguyên, Thám hoa cũng không, nên xem như ông đỗ cao nhất nước. Đỉnh cao sự nghiệp là khi ông đương nhiệm chức Thượng thư rồi Tể tướng đầu triều.

Giai thoại 1: Tả cây cau

Bản tánh năng động, hiếu kỳ, không chịu gò mình theo lề lối khuôn phép giáo dục xưa (dạy gì biết nấy, không được phản bác, phải tuân theo mẫu mực giáo huấn) khiến cậu học trò Hà Tông Huân thường bị khiển trách. Một lần bố phạt, trói vào gốc cau trong vườn cả buổi không cho chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn. Cậu khổ sở cảnh bó buộc, xin bố tha cho. Bố chỉ cây cau, ra điều kiện nếu cậu đặt được câu đối hay mới cởi trói cho.

Huân ứng khẩu đọc:

Lưng đeo đai bạc bao trăm nén
Đầu đội tàn xanh biết mấy tầng

Câu đối tả thực hình dạng cây cau: đầu xòe ra một mo ôm lấy buồng cau hàng trăm trái, trên là những tàu lá xòe tròn như cái lọng. Nghĩa bóng còn hay hơn, khẩu khí chứng tỏ cậu nuôi chí lớn, mộng thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn mới được vua ban cho đai bạc, lọng xanh.

Bố thấy cậu có chí khí, giỏi văn chương, lòng mừng thầm nên mới tha cho.

Giai thoại 2: Đối đáp với thầy nghè

Thủa Hà Tông Huân cùng hai bạn học tìm sang làng Bón xin thụ giáo quan Nghè. Đến đầu làng, thấy có người ngồi nghỉ dưới gốc đa, cậu bèn vái chào mà hỏi thăm nhà quan Nghè.

Người nọ đáp: “Tôi ra vế đối, nếu các cậu đối được, tôi dẫn tận nhà quan, khỏi chỉ đường lôi thôi.” Rồi đọc:

Đi đường đất thịt trơn như mỡ

Quả thật, trời vừa mưa xong, đường làng trơn ướt, là cảnh tượng ngay trước mắt

Trong khi hai bạn còn đang suy nghĩ thì Huân đối:

Ngồi tựa gốc đa mát thấu xương

Câu đối chọi chữ chọi ý tài tình: da (cũng là cây da) với xương đối lại thịt với mỡ. Lại dùng thành ngữ “mát thấu xương” đối với thành ngữ “trơn như mỡ”, tưởng không còn vế đối nào hay hơn được.

Người kia vụt đứng bật dậy, khen mãi: “Giỏi! Giỏi!” Rồi cười ha hả, nhận dẫn đường cho ba cậu học trò. Đến nơi ba đứa trẻ mới biết quan Nghè Bón chính là ông ta chứ chẳng ai khác!

Lần nọ, thầy trò cùng nhau ra sông tắm mát. thầy mắc áo dài trên cành cổ thụ mọc bờ sông, tức cảnh sinh vế đối :

Bách niên cổ thụ vi ý giá
(Cổ thụ trăm năm là giá áo)

Huân đối:

Vạn lý trường giang tác dục bồn
(Sông dài muôn dặm làm chậu tắm)

Thầy lấy làm hài lòng lẫn khâm phục, vì câu đáp của cậu luôn ẩn chứa chí lớn hơn hẳn vế đối ra.

Giai thoại 3: đối đáp với bố vợ

Một hôm, bố vợ ông sai người đi tìm ông. Khi về ngang qua ruộng nhà thì Huân thấy bố vợ và mấy người con trai đang làm lụng rất vất vả. Bố vợ giơ đòn lên, toan nện cho ông một trận, nhưng rồi lại không nỡ, bèn ra cho một vế đối, bảo phải lấy việc trước mắt mà đối, đối được mới tha cho. Bố vợ ông ra vế đối như sau:

Học bác tài xa dự nhập tứ môn chi tuyển
(Học rộng tài cao, dự luôn bốn kỳ thi)

Vế đối này rất hiểm hóc. Hiểu theo âm Nôm thì có nghĩa là học đòi cờ bạc, phung phí tiền tài, gồm đủ bốn nết xấu: rượu chè, cờ bạc, trai gái và hút xách, gọi là tứ đổ tường. Nhưng nếu hiểu theo âm Hán-Việt thì lại có nghĩa là đỗ đạt, bởi vì các khoa thi xưa gồm bốn kỳ làm bài, được dự đủ bốn kỳ thì không đỗ cao cũng đỗ thấp.

Ông đối lại rằng:

Phụ canh tử nậu, kỳ thu bách mẫu chi công
(Cha cày con bừa, thu công cả trăm mẫu)

Vế đối tuy không sắc sảo nhưng bố vợ nghe thế cũng yên lòng.

Một lần, ông bố vợ đến thăm phòng ở của hai vợ chồng con gái và rể, thấy Huân đang nằm trên giường bên cạnh người vợ đang khâu vá, ông đọc câu đối nôm có ý trách:

Giường ngọc sao nương mình đức Khổng?

Lấy ý sách Luận ngữ: tại sao bậc thánh nhân như Khổng Tử lại quên việc học thuật mà đam mê nữ sắc?

Hà Tông Huân đối lại:

Gối ngà đang giở mộng ông Chu

Lấy ý của Khổng Tử, có lần nói mình nằm mơ thấy Chu Công là người có tài kinh bang tế thế. Ý Hà Tông Huân tự ví mình với người trước, vẫn ôm ấp hoài bão lớn.

Nguyễn Hữu Cầu – Phạm Ðình Trọng

Khoảng đời Lê Hiển Tông có Nguyễn Hữu Cầu (? – 1751) là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa xuất sắc, thường được mọi người ca ngợi là Hạng Võ nước Nam. Nguyễn Hữu Cầu tục gọi là Quận He, quê ở xã Lôi Ðộng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo.

Thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Ðình Trọng cùng học với nhau một trường. Trọng thường được thầy khen nhưng riêng Cầu thì vẫn không phục Trọng.

Một hôm thầy đi đám, cho Cầu và Trọng cùng theo. Lúc về, nhà đám biếu thầy một cái thủ lợn, Cầu và Trọng tị nạnh nhau mãi không ai chịu xách.

Đối đáp bừa

xach dau lon

Thầy thấy vậy, ra một câu đối bảo hễ ai đối hay thì miễn xách. Thầy đọc (dịch Nôm):

Xách đầu lợn

Trọng đối lại (dịch Nôm):

Vin vẩy rồng

Còn Cầu thì đối (nguyên văn Hán-Việt):

Phá Tần diệt Sở

Thầy gõ vào đầu Nguyễn Hữu Cầu một giáo quạt, chê câu ấy chẳng đâu vào đâu cả, mà lại thừa chữ. Rồi thầy bắt Cầu phải xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi: “Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vin vẩy rồng như thằng Trọng”.

Một hôm khác, thầy lại ra một câu đối:

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo

Trọng đối rằng:

Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc

Còn Cầu thì đối bừa là:

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động

Thầy nghe xong, bảo: “Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc!” Rồi sau đó, ông thầy sợ, không nhận dạy Cầu nữa.

Lúc ra chơi, Trọng bảo Cầu: “Tao sẽ cầm quân tiêu diệt mày!”

Cầu đáp: “Nếu tao làm giặc thì tao sẽ đánh tan những đứa ra luồn vào cúi!”

Quả nhiên về sau, khi Cầu làm lãnh tụ khởi nghĩa nông dân, Trọng và Cầu là hai tay kình địch nhau đến cùng.

Đối sai ngữ cảnh

Khi Cầu đang theo học ông thầy khác, một hôm nhà có việc phải mổ bò thết khách, nhân đó thầy ra cho học trò vế đối (dịch Nôm):

Giết bò vàng

Cầu nhanh nhẩu đối lại (dịch Nôm):

Chém rắn trắng

Thầy lắc đầu, bảo đối sai luật.

Cầu đáp: “Tôi chỉ cốt lấy ý chứ không cần luật. Vả lại ‘giết bò vàng’ đối với ‘chém rắn trắng’ mà không đúng luật à?

Thầy khen: “Thế thì mày có chí lớn đấy! Cố lên con ạ!”

Nhận xét: Vế ra có ngữ cảnh là mổ bò thết khách; vế đối nhắc đến truyền thuyết Lưu Bang chém rắn trắng, từ đó phát huy thanh thế đánh bại Hạng Vũ rồi lập nên nhà Hán. Thầy nói sai luật ở chỗ không hợp ngữ cảnh, như là lạc đề.

Sau đó, Cầu bỏ văn, theo học nghề võ. Khoảng năm 1731, Cầu tham gia phong trào nông dân khởi nghĩa do Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ lãnh đạo chống chúa Trịnh, được Cừ hết sức yêu mến và gả con gái cho. Chẳng bao lâu Cầu trở thành một viên tướng nổi tiếng về tài võ nghệ và mưu lược, từng nhiều phen làm cho quan quân phải bở vía kinh hồn.

Nhà Đoàn Thị Điểm

Bà Đoàn Thị Điểm (1705-1749), hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, em gái ông tiến sĩ Tuyết Am Đoàn Doãn Luân. Nữ sĩ sống dưới triều vua Lê cùng thời với các ông Cống Quỳnh (Nguyễn Quỳnh) và Đặng Trần Côn.

doan thi diemBà Đoàn Thị Điểm có tư chất thông minh, nổi tiếng về văn chương ngay từ khi còn nhỏ. Tư chất thông minh này được truyền tụng qua một số giai thoại văn chương như sau.

Câu đối với người anh

Năm Đoàn Thị Điểm lên 15 tuổi, một hôm người anh tên Luân xuống bờ ao ngắm trăng, chợt thấy em gái mình đang soi gương vẽ lông mày bên cửa sổ bèn ra câu đối để trêu em gái như sau:

Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm
(Soi gương vẽ mày, một chấm hóa thành hai chấm).

Chữ điểm có nghĩa là cái chấm, câu cũng có ý nói một cô Điểm khi soi gương hóa thành hai cô Điểm.

Bà ứng đối:

Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân
(Ra ao ngắm trăng, một vầng biến ra hai vầng).

Chữ “luân” có nghĩa là vòng tròn, chỉ vầng trăng, mà cũng có nghĩa một ông Luân khi ngắm ánh trăng ở ao thì biến ra hai ông Luân.

Chữ “song luân” của cô Điểm đối với chữ “lưỡng điểm” của người anh tên Luân.

Vế ra cho khách

Năm bà Ðoàn thị Ðiểm 25 tuổi (1730) thì thân phụ mất. Bà cùng mẹ và anh đưa linh cửu về quê mai táng, rồi từ đó ba mẹ con cư ngụ ở làng Võ Ngại, huyện Ðường Hào (Mỹ Hào), tỉnh Hưng Yên.

Bấy giờ, bà Ðiểm thường thay anh trong việc thù tiếp các tân khách. Bà vốn là cô gái tài sắc, lại giỏi về khoa giao tiếp, nên tiếng tăm bà lừng lẫy khắp nơi. Người ta đồn rằng: khi bà Ðiểm giúp anh tiếp khách, tuy “dâng rau muối mà hơn cả trân tu”. Do đó khách đến thăm anh bà đã nhiều, mà những khách “phong lưu công tử” đến để dòm ngó bà cũng lắm.

Bấy giờ, ở kinh đô Thăng Long có bốn danh sĩ được gọi là: “Tràng An Tứ Hổ” gồm Nhữ Đình Hiền, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Bá Lân và Vũ Diệm cùng rủ nhau đến nhà bà Đoàn Thị Điểm để thử tài. Các “thầy giám” được bà Ðiểm tiếp đãi rất lịch sự.

Bà cho người bưng khay trầu ra mời, trên khay có để một bức hoa tiên viết một câu đối:

Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang

Tràng An Tứ Hổ đều chịu phục, không nghĩ ra câu đối lại. Trên đường về có người hỏi chuyện thì Tràng An Tứ Hổ giải thích như thế này:

Câu thách đố của Hồng Hà nữ sĩ tài tình mà lắt léo ở chỗ cô ta dùng từ ngữ đồng âm khác nghĩa. Thiếu nữ là cô gái trẻ và cũng là làn gió nhẹ. Tân lang là chàng rể mới, nhưng cũng là cây cau. Thành ra câu văn muốn hiểu “gió nhẹ vờn cây cau” hay “cô gái mừng chàng rể mới” hoặc “cô gái mời trầu cau” cũng đều đúng cả. Nếu hấp tấp đối theo một nghĩa thì chẳng bõ mua cười, bọn chúng tôi đành thoái là vì như vậy đó.

Các thầy đọc xong vế đối, rồi sáu mắt ngó nhau, chẳng ai đối lại được. Thế là trầu chẳng kịp ăn, ý định chòng ghẹo tiêu tan hết; các thầy đành nhã nhặn gửi lời chào bà chủ rồi rút lui.

Sau này, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối lại:

Sơn thượng, đại gia luyện kim đan

Có nghĩa là:

  1. Đại gia luyện thuốc trường sinh
  2. Bác ruột tập đan bằng cây kim đan
  3. Đại gia có nghề làm kim đan áo
  4. Bác ruột luyện thuốc trường sinh.

Trường Văn Nguyễn Phước Thắng cho vế đối lại khác:

Các hậu, trưởng nam hoài cựu ước

Có nghĩa là:

  1. Sau lầu, người con trai lớn nhớ lời nguyện ước cũ
  2. Sau lầu, người con trai lớn giấu kín lời nguyện ước cũ

Còn có hai nghĩa liên quan đến Kinh Cựu ước, như thế e rằng đi quá xa khỏi ngữ cảnh.

Sau khi Tứ Hổ chịu thua, bà Điểm ra tiếp vế khác:

Hổ thật thành hổ giấy

Ý nói Hổ này chỉ là hổ danh (xấu hổ) mà thôi.

Sau này, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại:

Sư giả hóa sư già

Ý nói: Tứ Hổ ngỡ bà là thầy (sư) “giả”, nhưng không ngờ là bậc thầy “già” dặn nên chẳng có gì phải xấu hổ khi thua một bậc nữ nhi văn chương tài hoa xuất chúng. Nhưng ngầm ý ăn miếng trả miếng: vì bị chê là hổ giấy nên chê khéo bà dữ như sư tử, lại là sư tử già!

Đối đáp sứ giả Trung Hoa

doanthidiem_tuong
Tượng Đoàn Thị Điểm

Đến đời vua Lê Tuần Tông, nhân dịp có sứ giả Trung Hoa sang nước ta, bà Đoàn Thị Điểm dựng một quán nước bên đường với dụng ý thử tài văn chương của sứ giả Tàu. Vì có dụng ý đó nên các cây cột trong quán bà cho dán đầy các câu đối khiến phái đoàn sứ giả Trung Hoa thấy lạ nên tò mò vào quán vừa uống rượu vừa xem các câu đối.

Sau khi xem qua các câu đối, đoàn sứ giả biết bà chủ quán là bậc nữ nhi có học nên ra câu đối có ý trêu chọc cô hàng nước như sau:

Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỳ nhân canh
(Một tấc đất nước Nam, chẳng biết mấy người cày).

Bà Đoàn Thị Điểm ứng đối:

Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất
(Bậc đại phu nước Bắc, từ chỗ ấy mà ra).

Hai câu đối trên, nếu giải nghĩa thanh thì đối nhau rất thanh, giải nghĩa tục thì đối nhau rất tục. Sứ bộ Tàu nói bỡn một cách xấc xược để hạ nhục cô bán hàng, nào dè cô lanh trí trả lời đích đáng, đem “chỗ ấy” trả lại cho họ, lại có ý chê trách các ông chẳng nhớ đến cội nguồn của mình mà lên giọng xúc xiểm!

Ghi chú: Có nguồn kể rằng bà Đoàn Thị Điểm đón sứ giả trên thuyền, váy bị gió thổi bay lên, sứ thần Trung Hoa nhìn thấy, bèn ra câu đối. Có lẽ điều này không đúng lý vì bà Đoàn Thị Điểm vốn người đoan chính, khi đón sứ giả thì chuẩn bị kỹ chứ không thể ăn mặc sơ hở để gió thổi váy tung lên được.

Vế ra thách Trạng Quỳnh (1)

Truyền thuyết trong dân gian rằng Đoàn Thị Điểm thách Trạng Quỳnh đối lại vế ra sau:

Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong hai cửa sổ song song

Vế ra hiểm hóc bởi vì từ “song” lặp lại được dùng hai lần theo hai nghĩa, và “song” cũng có nghĩa là “hai”. Vì hiểm hóc như thế, nên Trạng Quỳnh không đối được.

Về sau, có vế đối lại:

Đại đại tức tất cả đời, Tất Đạt ngự trị tất cả đời: đại, đại

Tác giả giải thích như sau: Tất Đạt là Tất Đạt Đa, tên của đức Phật, cũng có nghĩa là chắc chắn đạt được, và cả câu có nghĩa: hễ thành đạt thì ngự trị tất cả đời: vĩ đại.

Nhận xét: “đại đại” và “đại, đại” đối với “song song” thì nghe ra khiên cưỡng, khiến cho phần đầu của vế đối thành khó hiểu, hơn nữa ngoài đời người ta không nói “đại, đại” thay cho “vĩ đại”.

Vế đối khác:

Khuyết khuyết ấy nửa vành trăng, nửa cuội đứng phía nửa vành trăng khuyết khuyết

Nhận xét: “nửa cuội” có nghĩa như thế nào để đối với “hai người”? Có vẻ như vì muốn dùng từ “nửa” đồng nghĩa một phần với “khuyết”mà tạo gượng ép.

Vế đối khác:

Lộ lộ rõ cặp cò bay, cặp sáo lượn dưới cặp cò bay lộ lộ

Nhận xét: từ “cặp” không cùng nghĩa với “lộ”, khác với “song” cùng nghĩa với “hai”. Hơn nữa ngoài đời người ta nói “lồ lộ” chứ không nói “lộ lộ”.

Vế ra thách Trạng Quỳnh (2)

Một lần giáp tết Nguyên Đán, trời mưa rả rích, Đoàn Thị Điểm ngồi gói nem. Trông thấy Trạng Quỳnh đội mưa đi mua rượu về, cô bảo muốn nhắm nem thì ngồi xuống cùng gói với cô.

Trạng Quỳnh trả lời: “Chả thích nem, chỉ thích giò.”

Thị Điểm liền ra một vế đối:

Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, đến hàng nem, chả muốn ăn

Vế ra lắt léo vì tức cảnh chỉ ra 5 loại thực phẩm: thịt, mỡ, dò (giò), nem, chả, lại còn có 3 chữ mang 2 nghĩa.

Trạng Quỳnh lại một lần nữa bị bế tắc.

Về sau, có vế đối lại:

Đường tối ổ đen tựa mực, tới quán lươn, cóc thèm vô

Nhận xét: Vế đối chỉnh vì kể ra 5 loại thức ăn và cũng có 3 chữ mang 2 nghĩa. Nếu Trạng Quỳnh đáp bằng vế đối này và giải thích: “Nơi kia ngon lành như thế mà tôi còn chẳng muốn vào, chỉ muốn đến đây với cô thôi”, thì e rằng cô Điểm sẽ cảm động thổn thức!

Một số vế đối khác chỉnh về từ ngữ, nhưng e rằng ngữ cảnh không ổn.

Vua giận rời cung lẹ tựa tên, thương nàng lễ giáo, nỏ thèm trách

Nỏ là một vũ khí, tiếng địa phương ở vùng Hà Tĩnh, Bình Trị Thiên… còn có nghĩa như chẳng, không.

Quỹ thu chục hào phí qua ải, lũy tiến triệu quan, thành bội thu

Lọ còn có nghĩa là không cần đến.

Dừa già củ to hơn chĩnh, kiệu ngang lò vại, lọ cần nghỉ

Đất tốt dâu mượt tựa nhung, sa vào chợ vải, len cũng mặc

Vế ra thách Trạng Quỳnh (3)

Lần khác, cô Điểm đi lên phố Mía ở Sơn Tây, gặp ngay Trạng Quỳnh ở trên đó. Cô lại ra vế đối:

Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường

Vế đối quá hiểm hóc, bởi vì:

a/ Bốn 4 chữ “mía”, “mật”, “kẹo”, “đường” đều chỉ những đồ ngọt;
b/ Mía là nguồn gốc của ba món kia;
c/ Kẹo còn có nghĩa là kéo, lôi.
d/ Đường còn có nghĩa là đường đi;
e/ Mía còn là một địa danh nơi cô Điểm tức cảnh để cho vế ra.

Làm thế nào thỏa mãn cả 5 điều kiện trên trong ngữ cảnh thích hợp? Cống Quỳnh một lần nữa lại bó tay.

Sau này, có vế đối chỉnh của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng như sau:

Xuống làng Sen thấy chị tiệm gương, đưa mắt ngó sang vương bộ cánh

Câu chỉnh ở chỗ gương sen, ngó sen, cánh sen đối với mật mía, kẹo mía, đường mía, và Sen cũng là địa danh.

Tổng kết về những giai thoại giữa hai người, có đúng là Trạng Quỳnh mang nhiều duyên nợ với cô Điểm đến thế không? Bởi vì tính thêm giai thoại ở cuối bài này thì cô Điểm cho đến 4 vế ra mà Trạng Quỳnh đều tắt tịt. Hay là dân gian cứ thích là gán ghép như thế???

Đoàn Lệnh Khương khóc chồng

Đoàn Doãn Luân qua đời sớm khi mới 30 tuổi, để lại hai đứa con được Đoàn Thị Điểm bảo bọc nuôi dạy khôn lớn. Một người con là Đoàn Lệnh Khương (1726-1800) thông minh hiếu học, lại được cô chỉ dạy chu đáo nên sớm bộc lộ tài năng văn chương ứng đối.

Năm 31 tuổi, Đoàn Lệnh Khương chấp nhận mối tình với nho quan Nguyễn Xuân Huy. Về làm vợ kế cho viên Đốc đồng trấn Sơn Nam chưa tròn bảy năm thì chồng qua đời, trước đó vài ngày người con riêng của Nguyễn Xuân Huy cũng bệnh mất.

Đoàn Lệnh Khương viết đôi câu đối khóc phu quân:

Tuyền hạ thừa hoan, ưng tri quân hữu tử
Mộng trung đối thoại, thùy vị thiếp vô phu

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Suối vàng vui vầy, ưng biết chàng có con
Giấc mộng chuyện trò, ai bảo thiếp không chồng?

Đôi câu đối tỏ ý ngoan cường trong cảnh buồn đau: thấy an ủi vì dưới suối vàng chồng sum vầy cùng đứa con, và cũng an ủi vì trong giấc mộng vợ chồng vẫn chuyện trò với nhau; an ủi mình và cũng an ủi hai người ở thế giới bên kia.

Câu đối đa năng của Đoàn Lệnh Khương

Chuyện cũ ở địa phương kể rằng: Một hôm Lệnh Khương đang đi chợ về thì có ông lão chạy ra đón đường, mời bà vào hàng nước để thưa chuyện.

Ông nói:

– Thưa cô, tôi là người làng bên, nghe tiếng cô là người hay chữ nên nhờ cô giúp cho một việc. Tôi nay già yếu, nhà nghèo lại không con, không nơi nương tựa, cô hãy làm phúc, cho một đôi câu đối, để với đôi câu đối ấy tôi có thể kiếm miếng ăn. Gặp bất kỳ đám hiếu hay đám hỷ tôi có thể dùng được vào viếng hay mừng.

Bà nghĩ: “Một đôi câu đối mà gặp vui thì có thể góp vui, gặp dịp buồn lại chia buồn thì khó thật, ông lão này thử mình chăng?” Nhưng nhìn vẻ mặt ông lão, bà biết ông nói rất thật.

Sau một lát suy nghĩ, bà đọc:

Nhất đức tại thiên tùy sở phú
Thất tình ư ngã khởi vô tâm

Dịch:

Một đức ở trời tùy theo phận
Bảy tình từ ta khó vô tâm

Và bà giảng giải: người ta ở đời gặp may hay rủi, vui hay buồn tất cả là tùy ở cái đức. Vậy mà cái đức ấy là do trời phú cho. Phàm lấy vợ, lấy chồng, làm nhà, làm cửa hoặc mất người, mất của, tốt xấu, lành dữ đều là do cái đức mà ra. Vế thứ nhất đối với việc vui hay buồn đều hợp cả.

Còn vế thứ hai nghĩa là: Con người có 7 tính là: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, muốn), cho nên khi gặp việc vui thì lòng cũng vui được, mà gặp việc buồn thì ta cũng buồn được, đâu có vô tâm. Do đó, vế thứ hai có thể là lời chúc mừng mà cũng có thể là chia buồn.

Ghi thêm: Có đôi câu đối tương tự được gán cho Nguyễn Khuyến. Xem đề mục dưới tên ông này.

Đoàn Lệnh Khương vịnh nước Đằng

Đằng là nước nhỏ, nằm giữa hai nước lớn Tề và Sở, nên bị khó khăn trong việc bang giao, thường bị o ép. Nhân lúc bà Điểm giảng sách về nước Đằng và vừa lúc đó nhà hàng xóm có hai bà vợ chung chồng cãi nhau om sòm, bà Điểm vui miệng bảo học trò vịnh thử.

Đoàn Lệnh Khương làm bài thơ tứ tuyệt này:

Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen
Lại thêm Tề, Sở ép hai bên
Quay đầu với Sở e Tề giận
Ngoảnh mặt với Tề sợ Sở ghen

Nhận xét: từ “nhỏ nhen” chỉ tính tình, không để chỉ diện tích nước Đằng nhỏ, nên không hợp cách lắm.

Trần Văn Trứ

Trần Văn Trứ (1715 – ?) sinh tại làng Từ Ô, huyện Thanh Miện, Hải Dương, thi đỗ Hoàng giáp năm 1743, người đương thời quen gọi là Tiến sĩ Từ Ô. Tuy làm nhiều chức quan to, nhưng cuối cùng vì thấy chính sự quá mục nát nên ông cáo lão về trí sĩ. Ai nấy đều tiếc, bởi lẽ ông là một người thanh liêm chính trực, có tài lại có lòng thương dân.

Thời gian về nhà, ông biết viên tri huyện Thanh Miện là kẻ rất hách dịch, hễ ai qua dinh mà không xuống ngựa, xuống cáng đều bị hắn đánh đòn.

Một hôm, nhân đi chơi qua huyện, ông mượn một con bò cỡi đi, nghênh ngang không chịu xuống. Lính huyện lôi ông vào quan. Ông kêu là thầy đồ già đi dạy học ở tỉnh xa mới về nên không hay biết lệ này, vả lại lệ quan buộc phải xuống ngựa chứ không buộc xuống bò.

tran van tru

Lão huyện thét la một hồi, truy hỏi sách nọ, vặn sách kia để thử thách thầy đồ. Sau chừng như thấy ông đối đáp trôi chảy, ung dung, lại có tuổi tác, nên cũng có ý nể, lão huyện liền bảo ông: “Lý ra tội nhà thầy phải đánh đòn, nhưng ta nể cái bộ râu của thầy nên tha đòn cho. Vậy thầy phải đối câu đối ta ra để tạ ơn nghe!” Vế ra là (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Quan huyện Thanh Miện thấy kẻ vô lễ, muốn đánh

Ông nghè Từ Ô đã nghe nói “nể cái bộ râu” bèn cười khẩy và đọc (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Tiến sĩ Từ Ô may nhờ có râu, thoát đòn

Quan huyện cùng nha lại nghe vậy biết ngay là tướng công họ Trần, sợ toát mồ hồi, chả còn hồn vía, phủ phục lạy như tế sao.

Ông nghiêm sắc mặt, chỉnh cho một hồi về đạo đức khiêm tốn, chăn dân … rồi bỏ đi. Một hồi sau, đám quan lại vẫn chưa dám đứng dậy, người xem được một trận cười.

Từ đó, cái lệ “hạ mã” hống hách, vô lý kia cũng bị hạ luôn.

Khi Trần Văn Trứ mất, các bạn đồng liêu và khoa mục có câu đối viếng (dịch Nôm):

Dạy học như gió xuân, thước ngọc khuôn vàng, răn bảo tựa cha con ruột thịt
Làm quan như băng tuyết, lời ngay khí mạnh, trang nghiêm như sấm sét quỷ thần.

Lê Quý Đôn

le quy don
Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (1726-1784) người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình, con ông Trung hiếu công Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), Thượng thư bộ Hình đời Lê Dụ Tông. Cả cha mẹ ông đều được phong hầu.

Từ thuở nhỏ, Lê Quý Đôn đã thông minh lanh lợi, nổi tiếng thần đồng. Ông đỗ đầu (Giải nguyên) kỳ thi Hương lúc 17 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội lúc 26 tuổi, rồi vào thi Đình đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu. Ông được xem như là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách về kinh truyện, thơ văn, sử ký địa lý.

Lê Quý Đôn thông minh tột đỉnh mà cũng kiêu ngạo. Có mấy giai thoại văn chương liên quan đến hai cá tính đó của ông.

Ba sông, bốn mắt

Nhà Lê Quý Đôn ở gần ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý. Tương truyền năm Lê Quý Đôn mới lên 7 tuổi, một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm người cha của Đôn. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, người cha cho gọi Lê Quý Đôn tới. Ông khách thấy chú bé thông minh đĩnh ngộ, hỏi đâu nói được đấy thì lấy làm kinh ngạc.

Nhân muốn thử thêm tài của Đôn, ông khách nói:
– Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ. Vậy ta ra vế đối, cháu đối lại nhé!

Lê Quý Đôn lễ phép:
– Dạ, xin Bác ra đề ạ!

Ông khách trỏ vào con sông chảy quanh sau vườn nhà, ở chỗ đó sông tự chia ra làm ba nhánh, bèn tức cảnh đọc vế ra:

Tam xuyên
(Ba sông)

Vế ra này bề ngoài có vẻ đơn giản, nhưng kỳ thực rất hóc búa, vì 2 chữ “Tam xuyên”, 三 川, chữ nào cũng chỉ có 3 nét, hơn nữa chữ tam (三) có ba nét sổ ngang, nhưng khi dựng lên thành ba nét sổ đứng thì trở thành chữ xuyên (川).

Chú bé 7 tuổi hiểu ngay cái lắt léo của vế ra, chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất vui vì tìm được vế ra rất hiểm.

Thấy Lê Quý Đôn chưa đối được, ông khách hỏi:
– Sao, có đối được không, cháu bé?

Chợt trông lên mặt ông khách, thấy ông ta đang đeo mục kỉnh, Đôn tức cảnh, đọc vế đối:

Tứ mục
(Bốn mắt)

Vế đối này hết sức tài tình ở chỗ chữ “tứ” (四) viết quay dọc lại trở thành chữ “mục” (目). Cũng như vế ra, vế đối tức cảnh vì nêu lên sự kiện là ông khách đang đeo kính.

Khách thán phục đứng dậy nắm lấy hai vai của chú bé mà nói: “Tài học của cháu rồi sẽ dọc ngang một đời!”

Một chữ không biết, hãy đến hỏi

Vốn có tính kiêu ngạo, tự cho mình là thông suốt thiên kinh vạn quyển, nên khi đỗ bảng nhãn rồi, Lê Quý Đôn sai treo ngoài cửa một tấm bảng: “Thiên hạ nghi nhất tự, lai vấn” (Ai có một chữ không biết, hãy đến hỏi).

Khi thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong nhà đang rộn rịp sửa soạn tang lễ, bỗng một ông già chống gậy tìm vào. Lê Quý Đôn nhìn không phải khách quen, nên hỏi lai lịch.

Ông già nói:

– Cháu còn nhỏ không biết, lão là bạn học với cụ nghè, nhưng vì nhà nghèo đường xa, tuổi già, nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Hôm nay nghe tin cụ mất, lão mới đến để gửi câu đối viếng. Cháu đem giấy bút ra, lão đọc để cháu viết hộ, vì lão tay run không viết được.

Lê Quý Đôn vâng lời, cầm bút đợi viết. Ông già đọc:

Chi.

Lê Quý Đôn không biết là chữ chi nào bởi vì trong tiếng Hán có đến 29 chữ “chi” viết khác nhau, nên dùng dằng đợi xem chữ sau là gì đã, rồi sẽ tùy theo ngữ cảnh mà viết cho đúng chữ “chi”.

Ông già thở dài, nói:

– Trời ơi! cháu đỗ đến bảng nhãn mà chữ “chi” có 3 nét lại không biết viết ư? Thế có ai xem bảng treo ngoài kia mà vào hỏi chữ “chi” thì cháu trả lời ra sao? Đây này, chữ “chi” chỉ có 3 nét, phải viết như thế này.

Ông già vừa nói vừa lấy tay ra hiệu dạy cho Lê Quý Đôn cách viết chữ “chi” (之) quá đơn giản.

Lê Quý Đôn giận sôi gan vì không thể nào không biết chữ “chi” đơn giản chỉ có 3 nét, nhưng không dám vô lễ với ông khách, đành bấm bụng chịu trách mắng.

Hóa ra là ông già chơi khăm: chữ “chi” ông dạy cho viết là chữ dễ nhất, nhưng vẫn có thể dồn Lê Quý Đôn vào tình hưống ngắc ngứ!

Rồi ông già lại nói:

– Bây giờ cháu viết tiếp chữ thứ hai, đó là “chi”.

Lê Quý Đôn lại ngắc ngứ vì tùy ngữ cảnh mà chữ “chi” viết khác nhau, nhưng cậu lại không thể đoán ra ngữ cảnh này. Cậu đành phải hỏi:

– Bẩm, “chi” nào ạ?

Ông già thở dài thườn thượt, nói:

– Trời ơi! mới dạy cho cháu viết một chữ đơn giản đó mà cháu đã quên rồi!

Lê Quý Đôn ngượng chín cả người.

Ông già nói tiếp:

– Thôi để già này đọc luôn hai câu cho đỡ mất thời giờ.

Lúc đó ông già mới đọc luôn:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi?

Dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Đâu đâu hơn ba chục năm, huyện đỏ châu hồng nay còn đó
Đó đó ngoài mấy ngàn dặm, hoa đào nước chảy bác về đâu?

Thấy câu đối lạ tai, chữ nghĩa quá độc đáo, Lê Quý Đôn và cử tọa đều giật mình. Tình ý tuyệt vời, sâu lắng, thể hiện đúng tâm tư người ở lại đối với người ra đi trong bối cảnh thời gian đằng đẵn và không gian bao la. Cách dùng chữ là thần sầu: mỗi câu lặp lại một chữ thành “chi chi” và “tại tại”, riêng chữ ở cuối câu đầu cũng bắt đầu câu kế, và chữ ở cuối câu kế cũng là chữ đầu câu đầu.

Hai câu dịch thơ cũng thần sầu không kém, mang tâm tình và ngữ điệu tuyệt vời như hai câu Hán-Việt.

Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc:

– Ới anh ơi!, anh bỏ đi đâu? Con anh đỗ đến bảng nhãn mà chữ “chi” không biết, dạy rồi cũng không nhớ, anh ơi!…

Rồi ông già chống gậy ra về, mời thế nào cũng không ở lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì.

Dụng tâm của ông già là làm cho Lê Quý Đôn phải gỡ tấm bảng ngạo nghễ kia đi.

Đánh giá: người tổng hợp bài này xem đôi câu đối trên là tuyệt cú về nội dung và cách dùng từ ngữ.

Ghi thêm: Có giai thoại tương tự được cho là liên quan đến Cao Bá Quát (xem mục dưới tên nhân vật này).

Nguyễn Huệ và Công chúa Ngọc Hân

Nguyễn Huệ (1743-1793) sau khi dẫn quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh, được vua Lê Hiển Tông ngỏ ý gả Công chúa Ngọc Hân. Lúc vua cha và Nguyễn Huệ nói truyện, Ngọc Hân đứng sau bức bình phong, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục.

Cô bước ra thi lễ và xin ra một vế đối, nói: “Nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật vậy”. Nguyễn Huệ nhận lời, Ngọc Hân công chúa đã chuyển nguy thành an, chuyển thế bị động thành chủ động. Đang là kẻ bị ép duyên, Ngọc Hân công chúa trở thành chủ động tuyển phò mã.

Vế ra là:

Chúa công Công chúa hội ngộ

Ngọc Hân công chúa tuyển phò mã bằng phương pháp thanh tao nhất, một vế đối thích hợp cho cả hai. Chàng là chúa công, nàng là công chúa cành vàng. Vừa hợp tình hợp cảnh, vừa nhắc khéo đến địa vị của nàng.

Nguyễn Huệ đối:

Một mai mai một anh hùng

Nguyễn Huệ tự cho mình là anh hùng mà không đối được với giai nhân hay sao, thành anh hùng mai một hay sao? Có người cho vế này có khẩu khí. Nhưng khẩu khí ra sao mà chứa từ “mai một” nghe rất yếu?

Vế ra của công chúa Lê Ngọc Hân rất khó và sẽ khó hơn nếu khoảng thời gian đối đáp là rất ngắn ngủi trong một buổi gặp gỡ cho Vua Quang Trung, vốn là nông dân xuất thân làm tướng. Có lẽ do tình thế bắt buộc lúc đó nên tuy vế đối của vua Quang Trung chưa chuẩn, công chúa Lê Ngọc Hân vẫn chấp nhận.

Về sau, một số người tìm cách đối lại, như:

Đạo gia gia đạo liên quan

Hoàng thượng Thượng hoàng tương tri

Quốc vương Vương quốc chiến thắng

Nhà nước nước nhà thống nhất

Nhận xét: các vế đối lại này không mang ngữ cảnh như trong vế ra, riêng hai vế cuối nghe khiên cưỡng, không được suôn sẻ như vế ra.

Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm

Trước nhất, cần xác định rõ tên người thứ hai. Tên được ghi trong Ngô Gia thế phả là Ngô Thì Nhậm. Vì Vua Tự Đức (1848-1883) có tên thật là Nguyễn Phúc Thì, đồng thời lại có tên “cúng cơm” khác là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên vô tình tên của Ngô Thì Nhậm phạm húy kỵ. Để tránh huý kỵ, nhà Nguyễn buộc dân tình phải gọi khác đi là Ngô Thời Nhiệm. Vì vậy mà người Nam Bộ – vốn chịu ảnh hưởng của nhà Nguyễn – đều dùng tên Ngô Thời Nhiệm.

Đỗ tiến sĩ năm 1775, Ngô Thì Nhậm (1747-1803) ban đầu được Chúa Trịnh Sâm trọng dụng. Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đem quân Nam ra Bắc, diệt Trịnh, phò Lê. Ngô Thì Nhậm được Nguyễn Huệ tin dùng, thăng ông đến chức Binh bộ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng bây giờ).

Theo Đại Nam liệt truyện, trước kia, Thường cùng với Nhậm ở huyện Thanh Oai quen biết nhau. Khi Nhậm làm Binh bộ Thượng thư cho nhà Tây Sơn, Thường tới ra mắt Nhậm, nói đến việc đời. Nhậm nói: “Người quân tử quý ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì!” Và tỏ vẻ lấy vị thứ uy quyền lấn át Thường. Thường giũ áo đứng dậy đi. Khi về bảo người nhà rằng: “Ta sẽ giết tên giặc ấy”. Bèn có ý chí đi xa.

Sử sách viết về nhà Tây Sơn kể câu chuyện tương tự. Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm mắng Thường: “Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.” Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về rồi khăn gói vào Nam, đầu Nguyễn Phúc Ánh.

Kết cục đều như nhau: Đặng Trần Thường luôn mang trong lòng nỗi căm giận với Ngô Thì Nhậm.

Sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Ngô Thì Nhậm phụng mạng vua, dùng ngoại giao để đối phó với Trung Hoa. Ông được triều đình Mãn Thanh kính nể, tránh được việc binh đao.

Sau khi nhà Nguyễn đánh bại quân Tây Sơn, ngoài việc Nguyễn Ánh trả thù dòng tộc thân thuộc của Nguyễn Huệ và các võ tướng (như Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu…), Ngô Thì Nhậm cùng Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan (có nguồn ghi Nguyễn Thế Lịch) bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu. Trớ trêu thay, người chủ trì cuộc hành phạt đó lại là Đặng Trần Thường. Chính trong cuộc giáp mặt sau 15 năm không gặp này làm nảy sinh đôi câu đối bất hủ.

Tương truyền, trong lòng vẫn còn nhớ thù xưa bị Ngô Thì Nhậm đuổi đi, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai

Ra điều nói rằng ngày xưa ngươi là công hầu khanh tướng nhưng chưa hẳn là giỏi hơn ta, bằng chứng là bi chừ ngươi phải quỵ lụy dưới chân ta.

Ngô Thì Nhậm đối lại:

Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Ý nói rằng, gặp thời thế nào thì phải là vậy thôi, chứ không phải là ngươi giỏi hơn ta, đừng kiêu ngạo.

Có vài dị bản, nhưng hai câu trên đây phổ biến nhất. Và đây có lẽ đây là đôi câu đối gắn với lịch sử được biết đến nhiều nhất.

Câu đối thật chuẩn cả ý lẫn từ. Vế xướng của Đặng Trần Thường có chữ “trần”, là tên lót của Đặng, còn vế đối của Ngô Thì Nhậm có chữ “thời” đồng nghĩa với “thì”, là tên lót của Ngô. Vế xướng có 5 chữ “ai” còn vế đối có 5 chữ “thế”.

Năm 1955, thủ lĩnh luật sư đoàn Việt Nam Cộng Hòa là Luật sư Tiến sĩ Vương Quang Nhường nhắc đến hai câu đối này khi biện hộ cho Tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt).

Kể tiếp giai thoại giữa Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường.

Đặng bắt Ngô phải sửa lại 4 chữ cuối thành “thế đành theo thế” hoặc “thế thời theo thế”, nhưng Ngô không sửa.

Có dư luận cho rằng chiếc roi đánh Ngô Thì Nhậm đã bị tẩm thuốc độc do mối thâm thù của Đặng Trần Thường. Điều này đến nay chưa được xác định, nhưng sau khi bị phạt, Phan Huy Ích và Nguyễn Thế Lịch đều về quê sinh sống một cuộc đời khác. Riêng Ngô Thì Nhậm không qua khỏi, về lại quê nhà ít ngày thì qua đời. Đại Nam liệt truyện chép: “độc mình Nhậm bị đau quá chết, đó là Thường giận bảo vậy”. Tức là mối hận của Thường đối với Nhậm lúc này vẫn còn, và cái chết của Nhậm là do cá nhân Thường giải thích.

Trước khi qua đời, Ngô Thì Nhậm làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường như sau (dịch Nôm):

Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương!

Nghĩa: Thương thay Đặng Trần Thường, khác nào chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy, rồi kết cục sẽ giống như sự kiện cung Vị Ương. Ý nhắc đến công thần Hàn Tín phò trợ Hán Cao tổ lên ngôi, rồi bị Lữ hậu (vợ Cao tổ) giết ở cung Vị Ương.

Hóa ra kết cục của Đặng Trần Thường ứng với bài thơ trên, số phận tương tự như Hàn Tín.

Theo Đại Nam liệt truyện, Đặng Trần Thường cùng Lê Chất vốn có hiềm khích. Chất được tước quận công, Trần Thường nói với người ta rằng: “Chất mà được quận công thì bọn ta đáng làm đến 10 quận công”. Chất nghe tin lấy làm căm giận. Kịp khi ra trấn Bắc Thành, nghe Thường trước kia sửa khai thần sắc có tội về ở thành ẩn giấu việc Hoàng Ngũ Phước vào xâm lấn trong Nam kê liệt hàm hỗn vào tự điển; lại cho những người thân tình man khai Phước thần, cùng với Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Gia Cát cùng giúp nhau mạo cấp sắc phong. Bèn đem việc phát ra.

Trần Thường dâng sớ xin nhận tội. Vua Gia Long nói: “Lũ ngươi dối người, khinh nhờn cả thần, việc đó còn nhẫn tâm làm, còn việc gì không dám?”

Gia Cát bị xử trảm giam hậu (án xử tử nhưng còn giam, mùa thu xét lại). Rồi sau được tha, cho ở lại kinh.

Lê Chất lại tâu: “Thường khi ở thành có nhiều việc trái phép như ức chiếm đầm ao, ẩn giấu thuế lệ đinh điền, xin bắt để trị tội.”

Trần Thường lại đáng tội xử tử. Khi ở trong ngục ông ta uống rượu bừa bãi, nói càn, làm bài phú Vương tôn bằng quốc âm, cho rằng Hàn Tín gặp cảnh huống cũng như mình, lời nói có ý oán vọng. Đình thần xét xử đều cho đáng giết.

Cuối cùng, Đặng Trần Thường bị xử tội giảo (thắt cổ), tài sản bị tịch thu.

Ghi chú: Trong khi nhiều tác giả có cái nhìn tiêu cực về Đặng Trần Thường, riêng Đặng Đình Nguyên (2008) dựa trên hai bộ Đặng gia phả mà cho rằng Đặng Trần Thường hoàn toàn không phải là một “tiểu nhân”, tuy không thấy phủ nhận việc đầu độc Ngô Thì Nhậm.

Có một số nguồn – như Đặng Đình Nguyên (2008), Đặng Đức Thư (2012), và Đặng Xuân Vĩnh (2011) – nêu ra những chi tiết sau để chúng ta xem xét:

  • Ngô sinh năm 1746 và Đặng sinh năm 1759, cách nhau 13 tuổi, vì thế, chi tiết cho rằng hai người là bạn thuở thiếu thời không được thuyết phục [nhưng vẫn có thể xảy ra].
  • Năm 1775, Ngô Thì Nhậm đỗ tiến sĩ thì Thường mới chuẩn bị đi thi cử nhân nhưng cha mất nên không đi thi. So sánh thời gian, tuổi tác, hành trạng thì Ngô và Đặng khó có thể quen biết nhau trước khi Ngô bị giải ra Văn Miếu trị tội năm 1803.
  • Không tìm được nguồn chính thức nào xác nhận đôi câu đối giữa hai người và bài thơ trước khi qua đời của Ngô. [Riêng người tổng hợp bài này nhận thấy ngay cả trang Wikipedia – vốn hay ghi nguồn cẩn thận – lại không ghi nguồn cho hai sự kiện trên.]
  • Tên Ngô được đổi thành Thời Nhiệm để tránh phạm húy đối với Tự Đức, và khi câu chuyện xảy ra thì tên vẫn là Thì Nhậm, lúc đó vế đối lại không chỉnh, vì vậy đôi câu đối có thể được hư cấu dưới thời Tự Đức.

Mặt khác, ba nguồn đầu kể trên bào chữa cho Đặng Trần Thường đều là họ Đặng, và Đặng Xuân Vĩnh (2014) cho biết cuốn Thượng thư Binh bộ Đặng Trần Thường là của một nhóm gồm 6 tác giả họ Đặng do Đặng Văn Lộc là chủ biên, như thế có phải là ngẫu nhiên khi tất cả tác giả là họ Đặng hay không? Ta cần được biết ý kiến có tính thuyết phục của những nguồn khác.

Dù sao, ta cần công tâm đối với lịch sử, vì vậy cho đến khi có tư liệu xác thực, ta nên xem hai câu chuyện xảy ra giữa hai người chỉ là giai thoại.

Trần Danh Án

Trần Danh Án (1754-1794) đỗ Hoàng giáp, được vua Lê phong tước Định Nhạc hầu, là nhà thơ, tác giả của Nam phong giải trào, một công trình sưu tập ca dao được nhiều nhà nghiên cứu xem là xưa nhất của Việt Nam. Ông cũng là người đầu tiên dịch ca dao Việt Nam ra văn Hán để so sánh với Kinh Thi của Trung Quốc.

Trần Danh Án thông minh học giỏi, từ nhỏ đã phát lộ tài năng văn chương. Người địa phương còn kể chuyện hồi nhỏ Trần Danh Án đi đò qua sông cùng chuyến với một quan nghè. Nhân thấy chiếc chày cháy dở trôi trên sông, ông quan nảy ra vế đối khá hóc hiểm vì nói đến năm loại cá:

Chày cháy trôi sông của ngư ông tưởng cá

Quan đang tâm đắc ngâm nga thì có chú nhỏ xin được đối:

Hôm mai vượt bể người tinh tú ngỡ sao

Vế đối cũng dùng tới năm lần chữ nói tới sao trời, tuy rằng đối chữ không chỉnh ở chỗ: “hôm mai – chày cháy” và “người – của”.

Vua Quang Trung nhiều lần ngỏ ý mời Trần Danh Án ra cộng tác nhưng ông kiên quyết cự tuyệt, tỏ rõ một lòng trung với nhà Lê.

Trong khi lẩn trốn trong dân gian, Trần Danh Án gặp Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), một cựu thần nhà Lê cũng kiên quyết cự tuyệt làm quan với Tây Sơn. Hai vị cựu công thần cùng chí khí lại là hai nhà thơ lớn rất ý hợp tâm đầu, hễ gặp nhau là bàn chuyện thơ phú.

Một lần, Nguyễn Gia Thiều đọc cho bạn nghe bài thơ Khóc Thị Bằng của mình mới làm, có câu:

Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng
Khép manh áo lại để riêng hơi.

Trần Danh Án thán phục thơ quốc âm cũng bóng bẩy, sâu sắc, bèn diễn giải ra Hán văn để so sánh:

Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh
Trùng phong khâm tử hộ dư hương.

Mọi người có mặt đều khen ông diễn dịch hay.

Khi ông mất, người bạn của ông là Vũ Trinh, Tham tri Chính sự triều Lê, soạn văn tế, có đoạn viết về ý chí của Trần Danh Án:

Thần có lòng son nâng đất chống trời, mệnh thần không còn, thần thế là hết
Thần có máu nóng để đo gươm giáo, chí thần không toại, đời chẳng còn gì.

Ghi chú: Trong một thời gian dài, nhiều người vẫn cho rằng Vua Tự Đức làm một bài thơ tên Khóc Bằng phi tỏ lộ niềm luyến tiếc một cung phi, trong đó có hai câu:

Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại, để dành hơi.

Phan Thuận An (2015) dẫn chứng nhiều tư liệu để cho rằng tác giả bài thơ đó không phải là vua Tự Đức.

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương (1772-1822) là thi sĩ có di tác hoàn toàn là thơ, được Xuân Diệu tôn là “Bà chúa thơ Nôm”. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình.

Ho Xuan Huong (Bui Xuan Phai)
Hồ Xuân Hương (tranh Bùi Xuân Phái)

Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường, chiết tự họ Hồ 葫  của mình ra thành 2 chữ “cổ” 古 và “nguyệt” 月.

Câu đối Tết

Theo tục truyền: chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết bị Hồ Xuân Hương ra vế thách đối:

Tối ba mươi khép cánh càn khôn, nít chặc lại kẻo ma vương đưa quỷ tới

Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối

Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào.

Ghi chú: Có nguồn cho biết cả hai vế đều là của Xuân Hương.

Thách đối người Tàu

Vì tò mò, mến mộ, có một chú Khách mò đến Cổ Nguyệt đường định thưởng nguyệt xem hoa… Nếu dễ dãi thì hái lấy chơi, mà lắm gai quá thì… ngó nghiêng, nghiêng ngó rồi về (mất gì của ngộ?)

Không ngờ bị Xuân Hương chặn cửa bằng câu đối:

Chân đi hài Hán, tay bán bánh đường, miệng hát líu lường, ngây ngô ngấy ngố

Trong câu trên có tên 4 triều đại Trung Quốc là: Hán, Đường, Lường (còn có âm khác đọc là Lương), Ngô, khiến chú khách kia tẽn tò chuồn thẳng.

Về sau, có một số vế đối lại:

Ðầu để da trần, đuôi đeo cành , miệng hí hố hồ, bò bò la

Vế này tả một con khỉ dùng ghép với tên 4 triều đại Việt Nam là Trần, Lý, Hồ, Lê thì nghe không hay đúng theo cách của người Tàu kia đối chọi lại, nhưng khỉ hí nghe không ổn, còn động từ “bò lê” không đối với tĩnh từ “ngây ngô”.

Miệng nói lời càn, sự sinh địa chấn, lấn ca lấn cấn, từ tốn từ ly

Vế này dùng 4 phương vị trong bát quái gồm Càn, Chấn, Cấn, Tốn, nhưng “từ tốn từ ly” là gượng ép để cố đối với “ngây ngô ngấy ngố”.

Vịnh cửa Gió ở Đèo Ngang

Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá
Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim.

Tự tình

Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay.

Hồ Xuân Hương và quan lớn

Hôm ấy, một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh Hồ Tây. Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:

Võng đào quan lớn đi trên ấy
Váy đụp bà con giặt dưới này.

Đối võng điều của quan lớn với váy đụp (vá chằng cá đụp) của bà con quả là chua cay! Nghe câu đối, cả thầy cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ xóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy… Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc.

Đối đáp với nhà sư

Tương truyền khi Xuân Hương qua chùa chơi, vốn biết Xuân Hương nổi tiếng thơ phú, nhà sư liền cho chú tiểu mang ra một vế thách đối:

Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đạt đạo

Hồ Xuân Hương liền bảo chú tiểu đưa bút và viết ngay vế đối lại bên cạnh:

Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người.

Đối đáp với ông đồ Bút

Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối:

Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt
“Xuân” (trong “xuân xanh”) đồng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”)

Ông đồ Bút đối lại:

Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa.
“Bảng” (trong “bảng vàng”) đồng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”)

Đối đáp với Dương Trí Tản

Một lần về quê nội Quỳnh Đôi, Hồ Xuân Hương cũng đối đầu ngang ngửa với các sĩ tử, ông đồ – những người ngưỡng mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt, bắt… hồn thơ. Trước mặt họ là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa, phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch thiệp, lại nổi tiếng về trình độ học vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy hài lòng, mến mộ. Cuộc thi tài diễn ra ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử, văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ Dương Trí Tản tính tình ngang ngạnh, tự phụ, là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất trận đi vãn ông mới thủng thẳng tìm đến ra mắt người đẹp.

Rít xong điếu thuốc lào, nhả khói mù mịt gian phòng, Trí Tản cố tình ứng khẩu lại bài thơ đã chuẩn bị sẵn:

Eo lưng thắt đáy thật là xinh, điếu ai hơn được điếu cô mình, thoắt châm thoắt bén duyên hương lửa, càng núc càng say tính với tình

Hồ Xuân Hương đối:

Giương oai giễu võ thật là kinh, danh tiếng bao năm đã Tản mình, thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa, tài Trí ra sao hỏi tính tình?

Bài thơ tỏ rõ bản lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần thẳng thắn, dùng chính cái tên của ông đồ rởm. Mượn điếu bát để tỏ tình thân… gái, chưa hỏi han gái già này đã tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân Hương có cả đống người chạy theo tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội còn không được nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược như ông ta. Bên cạnh đó còn có cả họ tên của ông Dương cũng được lồng ghép vào.

Ông Trí không dám dương dương tự đắc nữa, nhân lúc mọi người tản đi vì trời khuya, bèn rút lui.

Năm 1788, sau khi treo ba chữ “Cổ Nguyệt Đường” lên, khiến khách văn chương thành Thăng Long tò mò kéo đến tấp nập,, Hồ Xuân Hương nổi hứng ra vế đối hiểm hóc:

Gái Cổ Nguyệt chơi hồ Cổ Nguyệt, nguyệt nguyệt bằng quân tử trượng phu

Hai chữ “nguyệt” 月 ghép lại thành chữ “bằng” 朋, có nghĩa là bằng hữu. Vế đối ngầm khoe bằng hữu của Cổ Nguyệt đường đều là bậc quân tử trượng phu.

Phải mấy năm sau, Dương Trí Tản mới đối lại được như sau:

Trai Kỳ Sơn chơi núi Kỳ Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt.

Người am tường Hán học bình luận rằng vế đáp chưa chỉnh, vì tuy trong vế sau hai chữ “sơn” 山 ghép với nhau thì thành chữ “xuất” 出, nhưng chữ “kỳ” không ghép được với chữ “sơn” để nên nghĩa như chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt”.

Cũng giai thoại này nhưng có nguồn khác chép vế ra rằng:

Gái Vọng Nguyệt chơi trăng vọng nguyệt, nguyệt nguyệt bằng tể tướng công khanh.

Ở đây có tên làng Vọng Nguyệt (làng Vọng), huyện Yên Phong, tỉnh bắc Ninh, là làng xó nhiều người đậu tiến sĩ. Ý nói, gái làng Vọng Nguyệt chỉ chơi “trăng vọng nguyệt” là trăng rằm, và kết bạn bằng với ai có tài làm tể tướng.

Vế đối như sau:

Trai Tam Sơn đứng núi Tam Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt.

Làng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) có hai trạng nguyên là Nguyễn Quang Quan và Ngô Miễn Thiệu.

Vọng Nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong) xưa có tên là làng Ngột Nhì. Người họ Chu đến đây khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Mộ ông tổ họ Chu nhìn xuống một cái ao bán nguyệt. Do vậy, làng được đặt tên tự là Vọng Nguyệt, nghĩa là ngắm trăng. Đây là một làng cổ mang đầy đủ bản tính của quê hương Bắc Ninh trong truyền thống: anh hùng và trữ tình. Tính anh hùng được biểu hiện trong câu chuyện dân gian và mối tình giữa chàng trai làng Vọng Nguyệt Chu Đình Dự và công chúa Lý Nguyệt Sinh. Họ gặp nhau trong ngày hội xuân rồi nên nghĩa trăm năm. Gặp khi giặc Tống xâm lấn nước Việt, họ lập đội dân binh, góp phần vào chiến thắng trên sông Như Nguyệt mùa xuân 1077. Nay, Vọng Nguyệt vẫn còn đền thờ công chúa Nguyệt Sinh.

Mối duyên tình kỳ ngộ giữa người con gái Vọng Nguyệt Chu Thị Bột và chàng thư sinh Tam Sơn Ngô Sử Toàn để lại cho người đời một đôi câu đối như trên mà sự kết hợp giữa chữ tình và chữ tài thật quả ít thấy.

Đối đáp với Chiêu Hổ

Phạm Đình Hổ tục gọi là Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tuy đọc nhiều sách, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ. Khi Gia Long lên ngôi, ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Dưới đây là những giai thoại đối đáp giữa hai người.

Lúc mới quen nhau, Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, nhắn nhe toan những sự gùm ghè, gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, chưa dám cho nên phải rụt rè

Chiêu Hổ phản công:

Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe, bảo nhe không được gậy ông ghè, ông ghè không được ông ghè mãi, ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.

Câu đối lại nhằm vui đùa về từ ngữ chứ không được chỉnh lắm, nói là xướng và họa thơ thì đúng hơn.

Hồ Xuân Hương ra vế (dịch Nôm):

Khóc như thiếu nữ vui ngày cưới

Chiêu Hổ đối (dịch Nôm):

Cười như anh khóa lúc hỏng thi.

Chiêu Hổ ra vế:

Người cổ lại còn theo thói nguyệt

Chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt” là chữ “hồ”, ý nói Hồ Xuân Hương đã lớn tuổi mà vẫn đa tình.

Hồ Xuân Hương đối:

Buồng xuân đâu đã nhạt mùi hương.

Chữ “xuân” với ghép chữ “hương” là tên, ý nói Hồ Xuân Hương này đâu phải già.

Có nguồn nói cả 2 vế đều của Chiêu Hổ viết tặng Hồ Xuân Hương, vế sau thay chữ “đâu đã” bằng chữ “chi để”. Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà.

Ghi thêm: Có nguồn khác kể một quan huyện đi qua Cổ Nguyệt Đường, thấy đề như vậy bèn vịnh:

Nhà cổ hãy còn đeo đẳng nguyệt
Buồng xuân chi để lạnh lùng hương.

Xuân Hương thấy vậy, ra xin quan huyện đề thơ, hẹn lấy vần hòi trừ chữ hẹp hòi.. Quan huyện ngâm:

Một hồi lều cỏ đã làm rồi
Nhác thấy cô bay muốn thẩm hòi.

Xuân Hương nghe thẹn bèn bỏ đi.

Nhận xét: Có phải thể thơ Bút Tre manh nha từ đây chăng? Bởi vì “hỏi thăm” biến thành “thẩm hòi” nhằm đạt yêu cầu oái oăm về vần của Xuân Hương.

Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: cử làm Hành tẩu Viện Hàn lâm. Xuân Hương hay tin, làm câu đối mừng Chiêu Hổ:

Mặc áo giáp, dãi cài chữ đinh, mậu kỷ canh khoe mình rằng quý

Hồ Xuân Hương lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Chiêu Hổ đối lại:

Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm, tốn ly đoài khéo nói rằng khôn.

Vế đối ấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn. Có lẽ Chiêu Hổ chỉ đùa vui giữa hai người bạn thân, nhưng vẫn đi quá trớn với một phụ nữ.

Hồ Xuân Hương và Khâm sai đại thần

Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh, gặp Hồ Xuân Hương và xin câu đối.

Bà liền viết:

Thiên tử tinh kỳ đương bán diện
Tướng quân thanh thế áp tam thùy
.

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Rực cờ thiên tử che nửa mặt
Thanh thế tướng quân trấn ba góc.

Nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua khắp nơi che nửa mặt người, còn thanh thế của khâm sai rộng lớn, bao trùm ba cõi.

Câu đối được treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười mủm mỉm, còn quan bé, quan to giật điếng người vì phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm đấy! “Nửa mặt” nghĩa là khuôn mặt chia ra làm hai nửa theo chiều dọc, còn “ba góc” thì ai đọc thơ Hồ Xuân Hương đều hiểu là cái gì. Sau khi nói đến cờ xí thiên tử ở vế trên lại chuyển qua “cái ấy” ở vế dưới thì rõ là phạm thượng! Riêng thanh thế của tướng quân chỉ bao trùm “cái ấy” thì đau quá! Xuân Hương vẫn mãi là Xuân Hương!

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng (1778–1858) là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, nổi tiếng là vị quan thanh liêm, tài trí hơn người nhưng có lối sống ngang tàng, ngạo nghễ. Ông người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; theo một số tài liệu, ông sinh ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan, bấy giờ đã ngoài 30 tuổi. Ông là người văn võ song toàn, làm tới chức Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng bây giờ), nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, hạ tới ba bốn cấp.

Thông minh từ nhỏ

Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh lại tinh nghịch, lém lỉnh, nổi tiếng “thần đồng”. Khoảng 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung tốt bụng, đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học, trong đám học trò đó có Củng.

Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ra vế đối. Được thầy đồng ý, ông Đồ Trung nói: “Ta có câu đối này, trò nào đối hay và nhanh sẽ được thưởng một quan tiền”.

Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối:

Ngoài vườn cây đại nở hoa đại

Các học trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền nhưng không ai tìm được vế đối lại. Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi: “Trò Củng, sao không đối đi?”. Củng khép nép thưa: “Thưa, con sợ bị quở phạt ạ”.

Ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng: “Trò cứ đối, nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu”. Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc:

Trong buồng ông Trung ấp bà Trung.

Vế đối chuẩn ở “trong – ngoài”, “đại – trung”, và “nở – ấp”, khiến ông Đồ Trung đỏ mặt im lặng. Thầy trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả và tất nhiên Củng được nhận một quan tiền.

Đối đáp với sư trụ trì

Một lần khác, gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi chùa, vị sư trụ trì ở đây là người tài cao học rộng nhưng kiêu ngạo, hiếu thắng. Ông này thường tự cho mình là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn từ lâu đã nổi tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, ông cũng hiếu thắng tìm dịp gặp thử tài cao thấp.

Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho Củng tìm tới chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, Củng lại đang khát nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ trì đang lúi húi bên bếp.

Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách:

Khách khứa kể chi ông núc bếp

Cậu Củng nhìn quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành dùng để muối cà hay dưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:

Trai chay gì đó vại cà sư.

Câu này thực ra được nói lên rất vô tình, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nho Củng thâm ý châm biếm mình có tư tình với bà vãi, nên chắp tay nhìn lên tượng Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của mình:

Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật

Củng trỏ vào bếp:

Có giám sát đó, Đông trù Tư mệnh Táo quân.

Nhà sư mất bình tĩnh, lên vẻ hợm hĩnh:

Thuộc ba mươi sáu đường kinh, chẳng thần, thánh, phật, tiên, song khác tục

Cũng trả đũa:

Hai tám vạn từ mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, đếch ra người.

Ghi thêm: Nguồn khác ghi đôi câu đối này như sau:

Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, phật, tiên nhưng khác tục
Hay tám vạn nghìn từ mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, đếch ra người.

Câu đối về ngày Tết

Dưới đây là câu đối nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ:

Chiều ba mươi, nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà.

Lúc còn hàn vi Nguyễn Công Trứ có câu đối để tự thán:

Tết đến, không tiền vui chi Tết
Xuân về, hết gạo đón chi Xuân.

Anh hùng nằm ổ rơm

Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 đến 1832) đương thời vốn có tiếng là hống hách, đi đến đâu cũng cho quân lính dẹp đường ầm ĩ khiến dân chúng sợ hãi. Một bữa, nhắm ngày Duyệt qua, Nguyễn Công Trứ chui vào cái lều bên đường, cuốn chiếu nằm co ro trên ổ rơm rồi rên ầm lên. Quân lính dẹp đường đi qua thấy thế nạt, Trứ vẫn nằm yên trong chiếu trả lời ra: “Vì sợ oai quan lớn quá, lên mới phát sốt lên đấy!”

Lính bẩm lại với quan y lời. Lê Văn Duyệt thấy ăn nói xấc xược thì giận lắm, sai lính dựng Trứ dậy định bụng nạt cho một phen. Hỏi đến nghề nghiệp nghe Trứ khai là học trò.

Lê Văn Duyệt giao hẹn: “Có thực là học trò thì phải đối được cái cảnh nằm ổ rơm của ngươi. Mà đối phải hay, nếu không thì ta trị cái tội mạo nhận học trò mà nói xấc!”

Nguyễn Công Trứ được thể, giả bộ suy nghĩ, rồi đọc:

Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín lần thiên tử đội lên trên.

Câu đầu ý nói đến anh hùng rơm, câu kế nói đến chiếu thiên tử. Đôi câu đối tả thực tình huống vì có rơm và chiếu, lại thể hiện ý chí hơn người. Lê Văn Duyệt nghe thế thầm khen, giữ lời mà thả cho đi.

Câu đối đảo ngữ

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.

Câu đối tự thuật

Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.

Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.

Câu đối tự trần

Nguyễn Công Trứ có câu đối tự nói về mình, mà có lẽ không có nghiên cứu nào về sau đánh giá đúng ông hơn:

Cũng may thay, công đăng hỏa có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên: quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ, nào quạt, nào mão, nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình mà trong hội kiếm cung, khắp trời nam biển bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ

Thôi quyết hẳn, cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục: hầu gái một vài cô, hầu trai dăm bảy cậu, này cờ, này kiệu, này rượu, này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược đã ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng thanh làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn!

Sứ thần nước Việt

Nhữ Trọng Thai (?  – ?) sinh ra trong gia đình khoa bảng ở xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (Hải Dương). Sau khi đỗ thám hoa dưới triều Lê Thuần Tông, ông ra làm quan cho nhà Hậu Lê. Một lần mang quân đi dẹp loạn thất bại, ông bị cách hết chức vụ, phải về quê sống.

Sau khi vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà, hưởng ứng lời kêu gọi của vua, Nhữ Trọng Thai gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn, trở thành nhân sĩ đắc lực của vua Quang Trung.

Sau khi đánh đuổi quân Thanh xâm lược vào Tết Kỷ Dậu (1789), uy thế của triều đại Tây Sơn rất lớn. Tuy nhiên, vua Quang Trung nhận định nhà Thanh “sau khi bị nhục một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như thế, việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân”.

Với quan điểm đó, vua thi hành chính sách ngoại giao khôn khéo, linh hoạt, chủ động sai sứ triều cống, xin đặt quan hệ ngoại giao. Hoàng đế Càn Long cũng nghe danh vị vua dũng mãnh, tài cao của nước Việt nên chấp thuận, có lời mời Quang Trung sang dự lễ mừng thọ 80 tuổi của mình.

Theo kế của Ngô Thì Nhậm, tháng 1/1790, vua Quang Trung sai người đóng giả mình cùng đoàn sứ bộ hơn 150 người, gồm các quan văn võ cao cấp như Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Tiến Lộc, Nhữ Trọng Thai… sang Trung Quốc (vua Quang Trung có thật sự đi sứ hay không hiện còn nhiều tranh luận).

Theo sách Sứ thần Việt Nam, đoàn phái bộ Việt sang nhà Thanh đúng dịp vua Càn Long tổ chức lễ mừng thọ 80 tuổi và 55 năm ở ngôi hoàng đế. Khắp nơi cờ hoa, đèn nến trang trí rực rỡ, lung linh đủ sắc màu.

Cửa Thiên An Môn treo một vế đối mừng viết trên tấm lụa hồng lớn mang ý nghĩa chúc tụng:

Long phi cửu ngũ, ngũ thập ngũ niên, ngũ số hợp thiên, ngũ số hợp địa, ngũ đức tu, ngũ hành dụng, ngũ phúc lung linh hàm phượng liễu

Dịch:

Trên ngôi cửu ngũ, trị vì 55 năm, số năm hợp với trời, số năm hợp với đất, sửa mình theo năm đức, trị nước theo ngũ hành, năm phúc chầu vào liễu phượng

Sau ngày làm việc và hành lễ, quan bộ Lễ nhà Thanh dẫn một số đại thần trong đoàn sứ của nước Việt đi ngoạn cảnh và đến trước Thiên An Môn. Đại thần Mãn Thanh chỉ lên vế đối có ý nói mời bên ta đối lại.

Nhữ Trọng Thai hỏi ngày tháng sinh của vua Càn Long rồi mượn giấy bút viết ngay vế đối:

Thánh thọ bát tuần, bát phùng bát nguyệt, bát thiên vi xuân, bát thiên vi thu, bát nguyên tiến, bát khải đăng, bát tiên cổ vũ hạ nghê thường.

Dịch:

Thánh thọ 80 tuổi, sinh ngày tám tháng tám, tám nghìn mùa xuân, tám nghìn mùa thu, tám bậc hiền tới, tám bậc tài về, tám tiên múa nghê thường mừng thọ.

Trong vế đối này, Nhữ Trọng Thai vận dụng nhiều tích cũ:

  • “tám nghìn mùa xuân, tám nghìn mùa thu” bắt nguồn từ tích Thiên Tiêu diêu du ở sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, ở đây có ý ca ngợi vua Càn Long sống thọ.
  • “tám bậc hiền triết, tám bậc tài năng” bắt nguồn từ sách Tả truyện: Thời vua Chu Văn Vương năm thứ 18, họ Cao Tân có tám người tài giỏi, thiên hạ gọi đó là “bát nguyên”; “tám khải” cũng là chỉ kẻ sĩ tài đức, “khải” có nghĩa là hòa nhã, hành động hòa nhã với mọi sự vật. Cũng thời vua Văn Vương năm thứ 18, họ Cao Dương có 8 người tài giỏi, thiên hạ gọi đó là “bát khải”.

Vế đối của Nhữ Trọng Thai không chỉ quá hay mà còn thể hiện trí tuệ sâu sắc, học vấn uyên thâm và kiến thức rộng mở, khiến vua quan nhà Thanh ai ai cũng khen ngợi. Sau đó có lệnh truyền viết câu đối này vào một tấm lụa hồng treo một bên cửa Thiên An Môn, cùng vế đối được treo trước đó đã tạo thành câu đối hoàn chỉnh mừng ngày đại lễ chúc thọ Càn Long 80 tuổi.

Bằng trí tuệ của mình, Nhữ Trọng Thai để lại vế đối lưu danh muôn đời, qua đó chứng minh được trí tuệ của người Việt. Đây không khác gì tác phẩm nghệ thuật ở lĩnh vực ngoại giao, một tác phẩm làm nên bằng trí tuệ độc đáo và học vấn uyên thâm.

Vua Minh Mạng và Trương Đăng Quế

Vua Minh Mạng (1791-1841) tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, là hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, sinh tại làng Tân Lộc, gần Sài Gòn.

Một lần, vua Minh Mạng đến thăm chùa Non Nước (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng). Trong đoàn tùy tùng có Trương Đăng Quế (1793-1865) là một đình thần hay chữ. Thấy cảnh ở đây rất đẹp, vua ra vế đối mang khẩu khí của mình:

Chùa Non Nước trên non dưới nước, nước non về một đấng quân vương

Trương Đăng Quế đối lại:

Cửa Thuận An trong thuận ngoài an, an thuận khắp bốn phương thiên hạ.

Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản (1796-1867) là nhân vật gây tranh cãi, bị chê trách do việc ông ký hòa ước với Pháp nhượng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo), nhưng số người bênh vực ông không ít. Ngày 20-6-1867, Pháp chiếm tỉnh thành Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuyệt thực, rồi tự tử vào ngày 4-8-1867.

Sau khi ông mất, có rất nhiều người gửi câu đối phúng điếu, một số ví dụ như sau:

Sĩ phu Nam Kỳ điếu Phan công

Cửu tuyền vị thích quần nhung hám
Nhất nhẫn năng toàn lục tỉnh dân

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Suối vàng còn giận quân giặc dữ
Lòng nhẫn mãi yên đám dân lành.

Sĩ phu Trung Kỳ phúng Phan công

Tam triều cảnh cảnh đôn tùng sự
Nhất lão ai ai bất ngận di

Dịch:

Ba triều gắn bó lo việc trọn
Một lão buồn thương chẳng sống lâu.

Sĩ phu Bắc kỳ phúng điếu Phan công

Nam trung tái đổ Văn thừa tướng
Bắc địa kinh hồn Quách Tử Nghi

Dịch:

Trong Nam lại thấy Văn thừa tướng (A)
Ngoài Bắc càng kinh Quách Tử Nghi (B)

Câu đối khắc ở ngoài lăng mộ

phan thanh gianGiang sơn chung tú khí
Âu Á mộ uy linh

Dịch:

Sông núi đúc khí tốt
Âu Á mến oai linh.

 Tiết nghĩa lưu thiên địa
Tinh thần quán Đẩu Ngưu

Dịch:

Tiết nghĩa truyền trời đất
Tinh thần tận Đẩu, Ngưu (C)

Chú thích:

(A) Văn thừa tướng tức Văn Thiên Tường (1236-1282), làm thừa tướng nhà Nam Tống. Khi quân Nguyên đánh xuống nam, Thiên Tường khởi binh chống cự. Quân Tống thua, nhà Tống mất, Văn Thiên Tường bị Nguyên bắt giam ở Yên Kinh 4 năm, không chịu khuất phục nên bị giết.

(B) Quách Tử Nghi (697-781) là một danh tướng phục vụ 4 đời Hoàng đế nhà Đường, kết thúc sự nghiệp trọn vẹn, được người đời sau tôn làm Ông Đa Phúc trong ba ông Phúc Lộc Thọ.

(C): Đẩu, Ngưu: tên hai ngôi sao, sao Ngưu và sao Đẩu.

Nguyễn Văn Siêu

Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) là nhà văn được người đời ca ngợi ngang với Cao Bá Quát: “Thần Siêu, Thánh Quát”. Vì viết chữ xấu nên năm 1838 ông chỉ đỗ Phó bảng, làm quan đến án sát rồi bị giáng, từ quan về quê dạy học. Ông là người có công tô điểm diện mạo Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội.

Tuy là thầy dạy Tự Đức nhưng vị vua này vẫn chê Siêu viết chữa xấu, từng làm thơ đùa rằng:

Thần đâu mà chữ xấu như ma
Lem lọ cho người ngó chẳng ra
Nếu phải họa phù trừ quỷ tặc
Khôn thiêng thì phải hộ Hoàng gia.

Thử tài câu đối

Khi Nguyễn Văn Siêu được cử giữ chức án sát ở Hà Tĩnh, các nho sĩ vùng này lập mẹo để thử tài Thần Siêu xem như thế nào. Họ bố trí cho một người chạy ra đường, đón võng ông đi qua để xin câu đối. Ông hỏi hoàn cảnh, người ấy nói là gia đình có hai bố mẹ cùng chết một lúc, nay xin câu đối về thờ chung; hỏi thêm hành trạng người đã khuất thì chẳng ai có công tích hay tài năng gì đặc biệt cả. Người ta bày giấy bút ra trước mặt ông, để xin… có ngay!

Nguyễn Văn Siêu hơi lúng túng. Đầu đề “khô khan” như thế này thì phải có thời gian suy nghĩ. Ông nói với người kia: “Được, ta sẽ viết ngay. Có điều giấy bút này quá xấu, ta không quen viết. Anh chịu khó chạy đi đổi cho ta thứ khác.”

Thời gian người kia chạy đi kiếm giấy bút tốt là thời gian ông cấu tứ. Và đôi câu đối được viết ra:

Đình tiền đồng trúc giao phù, xưng cô diệc xưng ai, bất thắng địa thảm thiên sầu, cửu tự chi ân vị báo

Tuyền hạ sắt cầm tịnh cổ, bất quan diệc bất quả, ý giả sơn minh hải thệ, bách niên chi ước mạc vong.

Dịch:

Trước sân, gậy vông gậy trúc xen nhau, hết xưng cô rồi lại xưng ai, xiết bao trời thảm đất sầu, chín chữ cù lao chưa chút báo

Dưới suối, đàn sắt đàn cầm hòa hợp, thôi nỗi quan và thôi nỗi quả, ý hẳn non thề biển hẹn, trăm năm nguyện ước quyết không quên.

Đám tang xưa, khi cha mất, con chống gậy vông tự xưng là “cô”, khi mẹ mất con chống gậy tre tự xưng là “ai”; “quan” là người chết vợ, “quả” là người chết chồng. Trong hoàn cảnh như vậy mà Nguyễn Văn Siêu viết được câu đối ý tình tha thiết nói đúng cảnh ngộ chung và cảnh ngộ riêng một cách thanh thoát và thật tài tình.

Khóc anh em Cao Bá Quát

Khi được hung tin về anh em Cao Bá Quát, Siêu làm câu đối thống thiết như sau (dịch Nôm):

Thảm thương thay! nức tiếng tài danh, anh giỏi em giỏi, đời dễ mấy người cùng sống thác
Khá tiếc nhỉ! đến nơi sự thế, người này cảnh ấy, đời lưu một tiếng để danh thơm.

Vua Thiệu Trị

Vua Thiệu Trị (1807-1847) có thật là Nguyễn Phúc Miên Tông, con trưởng vua Minh Mạng. Ông giỏi thi ca, để lại nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ trung sơn thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả 2 bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có 1 số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó. Hiện nay, các học giả đã tìm ra được 128 cách đọc.

Điềm báo làm vua

Miên Tông chào đời được 13 ngày thì mồ côi mẹ, được bà nội là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu nuôi dưỡng. Tuy là con trưởng nhưng lúc đầu Miên Tông không được vua cha lựa chọn kế vị. Bấy giờ có Hiền phi Ngô Thị Chính được vua Minh Mạng sủng ái nhất, sinh được 5 hoàng tử và 4 công chúa. Vì quá sủng ái, vua định chọn con cả của Hiền phi Ngô Thị Chính làm thái tử, sau này truyền ngôi.

Tin đến tai Thái hậu Thuận Thiên, bà liền gọi vua đến quở trách: “Ta nghe xưa nay lập tự phải chọn con cả, nay hoàng đế bỏ trưởng lập thứ, sau này anh em tranh đoạt lẫn nhau thì làm thế nào?” Vua nghe xong vì chữ hiếu nên bỏ ý định trước đó, sắc lập Miên Tông làm thái tử theo ý mẹ.

Theo sách Quốc sử di biên chép lại, khi Thiệu Trị chưa lên ngôi, trong câu đối của ông đã báo trước về địa vị của người đứng đầu thiên hạ nay mai.

Một hôm Vua Minh Mạng, ra câu đối (dịch Nôm):

Rồng thiêng hơn vạn vật, biến hóa bay nhảy khôn lường

Miên Tông đối lại (dịch Nôm):

Trời là khí nhất nguyên, rộng lớn che trùm tất cả.

Vua Minh Mạng vô cùng kinh ngạc. Trong câu đối trên, Miên Tông thể hiện được tầm nhìn lớn, bao quát thiên hạ. Chẳng phải đó là chí khí của người đứng đầu thiên hạ hay sao? Từ đó, nhà Vua yêu quý Miên Tông hơn.

thap phuc duyen
Tháp Phước Duyên

Sau khi lên ngôi, vua Thiệu Trị ghi nhớ công ơn và đặc biệt quý trọng bà nội. Năm 1844, nhà Vua cho xây tháp Phước Duyên cao 7 tầng tại khuôn viên chùa Thiên Mụ để cầu cho bà sống thọ. Đến nay tháp Phước Duyên cùng với chùa Thiên Mụ trở thành một trong những điểm đến thú vị trong quần thể di tích Cố Đô Huế.

Vua Thiệu Trị và Hồng Bảo

Trong những lúc rảnh rỗi công việc triều chính, Vua Thiệu Trị thường họp các hoàng tử nhỏ tuổi lại để thử thách tài năng đối đáp.

Một hôm, nhà Vua ra câu đối:

Bắc sứ lai triều

Hoàng tử Hồng Bảo, con trưởng vua Thiệu Trị, nhanh nhẩu đối:

Tây Sơn phục quốc.

Về chữ nghĩa thì vế đối thật chỉnh, nhưng về nội dung thì thật “phản nghịch”. Thiệu Trị nghe như sét đánh ngang tai, chỉ mặt Hồng Bảo mắng: “Tây Sơn mà phục quốc thì còn đâu ngai vàng cho mày nữa!”

Hồng Bảo giật mình, biết mình lỡ miệng, từ đó trở nên e dè, thận trọng hơn trong lời nói, nhưng đã “mất điểm” đối với vua cha rồi.

Khi vua Thiệu Trị mất, hoàng thân và đại thần văn võ họp tại điện Cần Chánh để tuyên đọc di chiếu, theo đó hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm được lập lên ngôi (tức vua Tự Đức). Di chiếu đọc chưa dứt, Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết hơn một đấu, nằm vật ngã giữa điện.

Bùi Hữu Nghĩa

Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) tức Thủ khoa Nghĩa có lần bị khép tội một cách oan ức, có nguy cơ bị án tử hình.

Nhận được tin dữ, vợ ông là Nguyễn Thị Tồn quá giang ghe bầu, vượt sóng gió ra tới tận kinh đô Huế – một cuộc hành trình với vô vàn hiểm nguy thời bấy giờ đối với một phụ nữ. Bà đến Tam pháp Ty gióng trống “kích cổ đăng văn” (đánh trống, đội đơn) kêu oan cho chồng. Tam Pháp Ty là cơ quan nhận đơn khiếu nại của người bị quan lại xử oan ức, gồm có đại diện của Bộ Hình (Tư pháp), Viện Đô Sát (Viện Giám sát) và Đại Lý Tự (Tòa Phá án).

Bà được Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức), ban cho tấm biển chạm 4 chữ vàng “Tiết phụ khả gia”. Tuy cứu được chồng, nhưng khi trở về đến quê nhà ở Biên Hòa, thì bà lâm bệnh mất và được an táng ở nơi đó.

Nghe tin vợ mất, nhưng lúc bấy giờ Bùi Hữu Nghĩa đang ở biên trấn xa xôi, khi đến Biên Hòa thì việc an táng đã xong, ông làm hai đôi câu đối chữ Hán để tỏ lòng thương tiếc (dịch Nôm):

Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận khen mình mới thật là vợ

Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất, non sông cười ta chẳng xứng là chồng.

khu tuong niem bui huu nghia
Khu tưởng niệm Bùi Hữu Nghĩa

Còn có thêm đôi câu đối chữ Nôm tặng vợ:

Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biện bạch này oan nọ ức; đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng

Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hoi lẽ chánh lời nghiêm; lũ bằng đảng tai nghe đều mất vía.

Nguyễn Hàm Ninh

Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) quê làng Phù Ninh; sau dời sang làng Trung Ái (sau đổi thành Trung Thuần), phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, năm 1831 đỗ Giải nguyên.

Nguyễn Hàm Ninh tự là Thuần Chi, hiệu Tĩnh Trai, Anh Toàn tử, quê làng Phù Ninh; sau dời sang làng Trung Ái (sau đổi thành Trung Thuần) phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Năm Kỉ Sửu (1829), ông đỗ Tú tài, đến năm Tân Mão (1831) đỗ Giải nguyên tại Thừa Thiên.

Đón dâu

Ngày ấy, có một chàng trai làng Trung Ái cưới một cô vợ người làng Phan Long. Phan Long là phố huyện lắm bậc hay chữ kỳ tài. Người Phan Long biết hôm ấy trong đám đón dâu của làng Trung Ái có ông Tiến Sĩ Nguyễn Hàm Ninh, nên họ tổ chức bày một hương án chặn ngang đường vào làng, đoạn đầu cầu Kênh Kịa. Trên hương án họ đặt một vế đối kèm theo điều kiện nếu họ nhà trai đối được thì sẽ cho qua, bằng không thì… quay về.

Vế ra là:

Chân giậm tay mò bơn hói Kịa

Bơn là cá thờn bơn, mình dẹp, hình như lá đa, có nhiều ở con ngòi nước mặn chảy dưới cầu Kênh Kịa. Từ cái ý thực ấy, vế đối muốn ám chỉ việc người con trai về đất này tìm vợ.

Đoàn người đi đón dâu còn lúng túng, chưa biết xử trí thế nào, thì Nguyễn Hàm Ninh vượt lên ứng khẩu:

Má kế miệng ngậm bống Khe Giang.

Vế đối hợp cả ý thực lẫn ý lỡm. Khe Giang là con suối lớn chảy ngang cuối làng Trung Ái, nơi có nhiều cá bống nước ngọt. Còn ý lỡm đối lại cũng rất đạt, nói bóng nói gió việc người con gái về lấy chồng ở đất Khe Giang. Ý lại còn tiếu lâm: chàng thì chân giậm, nàng thì miệng ngậm.

Viếng vợ có chồng Tàu

Có người phụ nữ chồng là người Tàu sang Việt Nam buôn bán bị bệnh mà chết phải đưa linh cửu về Trung Quốc trong khi bà có thai, Nguyễn Hàm Ninh viết hai đôi câu đối viếng, một câu chữ Hán-Việt và một câu chữ Nôm như sau:

Kết phát đính ngô duyên, thùy vị kim triêu hồng bắc khứ
Mang tâm bằng khách địa, hu ta hà nhật nhạn nam quy

Dịch:

Kết tóc hẹn duyên ta, một phút ai xui hồng trở về bắc!
Ôm lòng nương đất khách, bao giờ còn thấy nhạn quay lại nam!

Chú thích: hồng là chim hồng, vì thế chim nhạn đối với chim hồng.

Ghi thêm: có giai thoại tương tự được gán cho Cao Bá Quát, xem đề mục dưới tên ông này.

Đôi câu đối chữ Nôm:

Trước cũng tưởng Tấn Tần một nhà, vậy phận bạc phải nhờ đất khách
Nào có biết Bắc Nam đôi ngả, đem gánh vàng đi đổ sông Ngô.

Phan Thúc Trực

Phan Thúc Trực (1808-1852) còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu là Hành Quí, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở làng Vân Tụ, huyện Đông Thành, nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Phan Thúc Trực đọc nhiều sách và làu thông kinh sử, nức tiếng hay chữ, từng thi đậu Đầu xứ (năm 16 tuổi) và nhiều khoa Tú tài, nên được Hội Văn của huyện Đông Thành tôn tặng đôi câu đối:

Nhất cử thành danh thiên hạ hữu
Thập khoa liên trúng thế gian vô

Dịch:

Một cử thành danh, thiên hạ có
Mười khoa đều trúng, thế gian không.

Tương truyền, thời ông dạy học ở làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, làng này có tục các cô gái vừa kéo vải vừa hát đối đáp với các chàng trai trong đêm. Đôi khi có cả những nhà nho gà cho các bên hát.

Một hôm gặp ông đồ xứ Nghệ, các cô bèn ra một vế đối để thử tài:

Gái Nguyệt Viên vừa độ trăng tròn, ai muốn lấy mười lăm quan chẵn

Đây là một vế ra rất hiểm hóc. Nguyệt Viên là tên làng nhưng cũng có nghĩa là trăng tròn, trăng lại tròn vào hôm rằm tức mười lăm.

Phan Thúc Trực đối:

Trai Vân Tụ đông như mây nhóm …

Phần đầu đối rất chỉnh, vì Vân Tụ là quê ông đối với Nguyệt Viên, và còn có nghĩa là mây nhóm. Nhưng đến phần sau “ai muốn lấy mười lăm quan chẵn” thì ông bế tắc, đành chữa thẹn: “Mười lăm quan đắt quá, không lấy nữa”.

Từ đó, ông tự thấy sở học mình còn kém, nên lại về quê tiếp tục học nữa. Nhờ vậy về sau lừng danh Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực

Vế ra thoạt đầu thấy có vẻ đơn giản, nhưng khi phân tích rõ mới thấy tính hóc búa tiềm ẩn. Ở chỗ điểm chung của một địa danh, một lứa tuổi và một con số. Mà địa danh thì có là có hoặc không có là thua, con người cũng chỉ có vài lứa tuổi nhất định.

Phải đến gần 200 năm sau, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh mới tìm ra đáp án trong lúc chợt nhớ về xã Nhơn Thọ là quê hương của mình. Vế đối:

Lão Nhơn Thọ đến tuổi người già, khách được đãi sáu mươi mâm lẻ

Phân tích: theo từ điển Hán-Việt của Trần Văn Chánh, chữ “thọ” còn có nghĩa là “già, tuổi già”. Vậy “Nguyệt Viên” được dịch là “trăng tròn” thì “Nhơn Thọ” cũng được dịch là “người già”. Xã Nhơn Thọ thuộc huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Người già được xem là những người từ 60 tuổi trở lên. Do đó 60 tuổi là một con số có tính cột mốc: nói tới tuổi già là biết tuổi từ 60 trở lên. Trăng ngày 15 cũng tròn, trăng ngày 16 còn tròn hơn. Như vậy, điểm chung về địa danh, lứa tuổi gắn liền con số được giải quết trong vế đối trên.

Nghe tin Phan Thúc Trực mất, một vị túc nho ở huyện Yên Thành khóc ông với một đôi câu đối rất ai oán:

Bảng vàng bia đá ngàn thu, thương tiếc thay, người ấy!
Ðầu bạc răng long trăm nỗi, đau xót lắm, trời ơi!

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát (1809-1855) là danh sĩ sống vào thời vua Tự Đức, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ngay từ thuở nhỏ, Cao Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Cao Bá Quát là em song sinh với Cao Bá Đạt, và là chú của nhà thơ Cao Bá Nhạ.

Cao Bá Quát được xem là có văn tài xuất chúng của Việt Nam vào thế kỷ 19. Tuy vậy, ông không được suôn sẻ trong thi cử. Năm 1831, ông thi Hương đỗ Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, ông bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt.

Cao Bá được gán với nhiều giai thoại văn học và nhất là câu đối.

Hay chữ từ thuở nhỏ

Thuở nhỏ, Cao Bá Quát tỏ ra thông minh, nhanh trí, can đảm và khá ngang tàng. Giai thoại kể lại, lần vua Minh Mạng ngự giá ra Bắc, đến ngắm cảnh Hồ Tây, quân lính thét đuổi tất cả những ai lai vãng gần chỗ vua đến. Vừa lúc Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang Hà Nội chơi cũng có mặt nơi này. Cậu nảy ý định muốn được thấy vua tận mắt, nên cởi bỏ luôn quần áo, nhảy xuống hồ tắm.

Lính hầu vua nhìn thấy, hốt hoảng xúm vào bắt trói đứa trẻ thật táo tợn, to gan. Quát không chịu, la hét, vùng vẫy, gây nên cảnh náo động nơi bờ hồ. Đúng lúc đó kiệu vua đi tới. Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát tới hỏi.

(Cần nói thêm rằng Minh Mạng là một ông vua rất nghiêm khắc và nhẫn tâm đến lạnh lùng. Chuyện kể có một người hầu gái đứng quạt cho Minh Mạng ngủ. Chẳng may nàng đụng khẽ vào má vua. Minh Mạng mở mắt nhìn thấy bèn ra lệnh lôi nàng ra ngoài chém đầu. Vì thế ai cũng lo cho cậu bé Cao Bá Quát khó mà thoát tội).

Lần này, có lẽ Minh Mạng đang vui, thấy Quát tóc còn để chỏm xưng là học trò ở quê lên chơi không biết gì, nên vua bớt giận. Nhìn thấy dưới hồ có đàn cá đang đuổi nhau, Minh Mạng bèn nảy tứ, truyền cho cậu bé Quát vế đối, lệnh làm được sẽ tha. Vế đối ra:

Nước trong leo lẻo, cá đớp cá

Cậu Quát ứng khẩu đối ngay:

Trời nắng chang chang, người trói người.

Nhà vua tuy bực vì Quát có vẻ xấc xược, coi mình như người thường, toan trị tội. Nhưng vì câu đối quá chuẩn về từ, ý và ngữ cảnh, lại vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong dịp đầu tiên vua ra thăm đất Bắc, nên vua nguôi giận và truyền lệnh cởi trói mà tha cho Quát.

Ghi thêm: Một nguồn khác kể rằng mùa hè nóng, Cống Quỳnh xuống ao tắm. Quan Huyện đi ngang, anh chàng không thèm lên hầu. Quan cho lính bắt trói. Quan nhìn xuống ao, thấy cá lớn ăn cá con, nên ra câu đối như trên, và Quỳnh tức cảnh đối lại như trên. Đối chỉnh quá, quan tha.

Đối lại quan đốc

Bữa nọ, Cao Bá Quát đến nghe bình văn ở trường quan Đốc học (phụ trách giáo dục một tỉnh) Hà Nội. Nghe đọc những câu văn tầm thường, ông cứ lắc đầu và còn bịt mũi tỏ ra khó chịu. Quân lính thấy vậy bắt cậu vào đưa đến quan Đốc học.

Quan Đốc học hỏi Quát là ai, ở đâu, mà vô lễ như vậy.

Quát xưng là học trò ở Bắc Ninh.

Khi được hỏi học với ai, Quát trả lời: “Tôi học với ông Trình, ông Chu”.

Ông Trình và ông Chu là Trình Y Xuyên và Chu Hối Am, hai học giả vào hàng tôn sư trong đạo Nho đời Tống (960-1279) ở bên Tàu, chuyên giảng tứ thư ngũ kinh, là những sách mà tất cả môn sinh thời trước đều phải học. Quát trả lời như vậy là tỏ ra mình học với các bậc thánh hiền, học từ gốc chứ không thèm học ngọn!

Nghe anh học trò oắt con mà nói năng càn rỡ ngông ngạo, viên đốc học cả giận bảo:

– Sách có chữ Tiên học lễ, hậu học văn. Nhà ngươi là học trò hẳn cũng biết điều đó, vậy mà lại còn có hành vi vô lễ. Bây giờ ta ra cho một vế đối, hễ ngươi đối được thì ta tha, bằng không thì phải đánh đòn.

Rồi viên quan đọc (dịch Nôm):

Trò nho này ở đâu đến đây, dám nói đến sự nghiệp Trình, Chu?

Cậu Quát đối lại (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Quân tử ta tùy thời hành động, muốn được như quân dân Nghiêu, Thuấn.

Nghiêu và Thuấn là hai tù trưởng (không phải là vua đúng danh nghĩa tuy rằng được gọi là “đế”) ở Trung Hoa thời huyền thoại khoảng 4.000 năm trước, dốc lòng chăm lo đời sống của người dân, đối xử nhân hậu với mọi người, không tư lợi, tạo ra xã hội có đạo đức và thịnh vượng, được nhân dân kính yêu thật lòng. Các triều đại sau đều tôn Nghiêu, Thuấn là bậc minh quân thánh hiền.

Viên quan nghe Quát đối chọi chan chát, chịu là hay; lại thấy có khí phách lớn lao như vậy nên ông không giận mà còn thưởng tiền cho Cao Bá Quát.

Viếng vua Nhà Thanh

Năm Tự Đức thứ 4 (1850), vua nhà Thanh mất, sứ Trung Quốc sang nước ta báo tin. Vua sai các quan làm câu đối viếng. Đình thần nghĩ xong câu đối, xin vua triệu Cao Bá Quát đến viết, vì chữ ông đẹp có tiếng.

Bắt đầu viết, ông Quát trải tấm vóc, tay cầm bút, tay bịt mũi. Các quan hỏi sao làm kỳ quặc vậy.

Ông đáp: “Văn này phải viết cách này mới hợp.”

Vua nghe được nổi giận, phán: “Vậy khanh thử làm câu khác xem!”

Ông Quát xin một tấm vóc mới, cầm bút viết liền hai câu:

Ai mặc bát âm Đường bạc hải
Bi hào vạn lí Tống thâm sơn

Dịch:

Khắp biển Đường im nhạc bát âm
Núi sâu Tống kêu gào muôn dặm.

Điển tích:

Khi vua Đường Nghiêu mất, tiếng âm nhạc khắp bốn biển im 3 năm để tang
Khi vua Tống Nhân Tông, mất tiếng gào khóc âm vang tận núi rừng.

Cả triều đình, vua quan đều phục tài Quát, nhưng lại càng ngầm ghen ghét, không thích ông.

Kết giao với Nguyễn Văn Siêu

Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu chưa đỗ đạt, nhà rất nghèo, thường mở lớp dạy học ở ngay nhà tại Hà Nội.

thay giaoMột hôm Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang chơi Hà Nội, đi ngang một nhà nghe có tiếng bình văn, liền đứng ở cửa sổ dòm vào. Quát thấy thầy đồ trẻ khoảng 24, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng tỏ là một lớp học nghèo.

Anh đồ Siêu nhìn thấy một anh chàng trẻ tuổi chừng 16, 17, thơ thẩn đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, iền hỏi vọng: “Anh đi đâu mà đứng ở đây?”

Quát trả lời: “Tôi là học trò đi qua trường, thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập học.”

Ông Siêu muốn thử tài học của Quát, bèn nói: “Nếu thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này:”

Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két

(Ông thầy ngồi trên chõng, nghe cót két, két cót, cót cót két két)

Vế ra rất hiểm hóc: những từ tượng thanh tưởng là thuần Nôm, thật ra cũng là từ Hán-Việt

Quát đối lại:

Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ

(Trò nhỏ vào sân trường, đi thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ).

Nguyễn Văn Siêu nghe vế đối tài tình thì rất phục, mời vào trong ngồi, hỏi tên tuổi và lai lịch mới biết là Cao Bá Quát ở Bắc Ninh, là người mà ông đã nghe tiếng đồn là thần đồng.

Từ đó, hai người đi lại thăm nhau luôn và trở thành đôi bạn thân thiết mặc dù tuổi tác chênh lệch, rồi hai ông nổi tiếng khắp nơi, được người đời khen tặng là “Thần Siêu” và “Thánh Quát”.

Riêng Vua Tự Đức tuy không thích Cao Bá Quát, nhưng cũng phải thán phục văn tài của ông, và có câu khen: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán”. Ý cho rằng văn như hai ông Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì thời cực thịnh của nền văn học Trung Quốc như Tiền Hán cũng không thể có.

Có lần hai ông Siêu, Quát rủ bè bạn đến chơi, uống rượu làm thơ. Ông Quát hứng chí làm một bài thơ Nôm tặng ông Siêu. Mở đầu ông Quát hắng giọng đọc 2 câu:

Siêu đồng, siêu đất cũng là siêu
Siêu đất sao mà lắm kẻ yêu

Nghe đến đó, ông Siêu liền xua tay lia lịa, van xin ông Quát hãy thôi. Ông Quát ra bộ chiều bạn, cũng dừng, không đọc tiếp nữa.

Khi mọi người đã ra về, ông Quát nói riêng với ông Siêu: “Thú thực với bác, bài thơ đệ chỉ nghĩ được có 2 câu. Giá bác không bảo dừng thì đệ cũng tắc tị.”

Ông Siêu cười trả lời: “Tôi biết vậy, nên vờ làm thế để gỡ cho huynh nước bí đó!”

Rồi cả hai cùng cười.

Gặp Nguyễn Hàm Ninh

Chuyện còn kể rằng lần đi thi Hội, Cao Bá Quát sực nhớ đến Nguyễn Hàm Ninh (1807-1867), người Quảng Bình đã đỗ Giải nguyên khoa thi trường Thừa Thiên, nên muốn gặp để thử tài. Ông Quát đang tìm hỏi, thì gặp một người tự xưng là học trò của ông Ninh. Ông này cho biết ông Ninh đã đi trước vào Kinh dự kỳ thi Hội rồi.

Ông Quát tự giới thiệu: “Bác dễ thường cũng nghe tiếng Cao Bá Quát ở Bắc Hà chứ?”

Người kia hỏi lại: “Có, nghe đồn ông ấy hay chữ lắm. Thế bác cũng quen à?”

Cao Bá Quát cười ha hả, trả lời: “Chính tôi đây!”

Thế rồi cả hai kết thân làm bạn, rủ nhau vào Kinh, dọc đường cùng xướng họa.

Người xưng là học trò của ông Ninh làm thơ rất nhanh, rất hay, khiến Cao Bá Quát giật mình, nghĩ bụng: “Học trò mà giỏi thế này, thì thầy anh ta phải tài ba lắm chứ chẳng chơi!”

Mãi khi đến kinh đô, ông Quát mới vỡ lẽ rằng người cùng đi với mình chính là thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh. Từ đó, hai người trở thành đôi bạn văn chương thân thiết.

Cao Bá Quát bị chê dốt

Cao Bá Quát được khen là Thánh chữ, thế mà có lúc bị chê dốt!

Số là, lúc bố Cao mất, có ông già đến than thở ngậm ngùi rồi hỏi nhà có ai được học hành gì không. Cao đáp có, ông già sai lấy giấy bút ra chép hộ câu đối viếng.

Ông đọc “chi”. Cao lúng túng, không biết là chữ “chi” nào vì không rõ ngữ cảnh, liền bị chê là có học hành mà chữ “chi” (之) chỉ có 3 nét lại không biết.

Đoạn ông già nhúng ngón tay vào chén nước viết chữ “chi” lên mặt bàn. Cao uất ức nhưng vẫn viết chữ “chi”, viết xong liền được khen “Chữ anh này cũng khá”.

Cao vốn kiêu ngạo, bị ông già thảo dân khen khá, trong bụng rất bực bội nhưng thấy ông là bậc cha chú đến viếng bố, đành nhịn.

Ông già lại đọc tiếp chữ thứ hai, cũng là “chi”. Cao lại cắn bút! Ngữ cảnh không rõ, phải viết chữ “chi” nào đây?

Thấy Cao đực mặt, ông già tỏ ra bực bội: “Cái anh này quả là dốt, chữ “chi” vừa bày cho viết xong đã quên ngay. Thôi, đưa bút đây!” Ông viết liền một mạch:

Chi chi ngũ bách niên tiền, lục thủy lam sơn hà xứ tại
Tại tại tam thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy cánh hà chi!

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Đâu đâu trước năm trăm năm, nước biếc non xanh đâu tá đó
Đó đó ngoài ba nghìn dặm, hoa trôi nước chảy lại về đâu!

Từ bực bội, Cao Bá Quát ngây người, bị hút hồn trước đôi câu đối thần sầu với tấm tình sâu xa, lời văn siêu thoát. Người viếng, người mất đều được thể hiện như thần tiên. Cả đời theo đòi bút nghiên của Cao bị chê dốt thì không có gì ân hận.

Khóc mướn kiếm ăn

Có một lần Cao Bá Quát đi thăm bạn ở xa. Bạn đi vắng, ông phải trở về, bụng đói mà tiền thì đã hết nhẵn.

Ðang đi thất thểu, chợt nghe gần đấy có kèn trống đám ma. Quát theo chừng lần tới nơi. Hỏi ra biết là đám tang một ông cụ già nhà khá giả. Quát liền bước vào, thấy quan viên ngồi chật ních trong rạp; ở chính giữa rạp thấy có dăm bảy ông râu dài, ngồi chễm chệ trên ghế cạp điều, đang ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa; lại thấy hiếu chủ chắp tay bẩm báo chầu chực, nên Quát đoán là văn thân hào mục, hay cử tú gì đó.

Quát tới gần hiếu chủ, lễ phép trình bày: “Tôi là khách qua đường, nghe nói cụ nhà phúc đức lắm, nay chẳng may cụ hai năm mươi về chầu Phật, bụng tôi lấy làm cảm động vô cùng. Nên xin được vào phúng cụ vài câu rồi đi.”

Mấy vị ngồi chiếu cạp điều nghe Quát nói thế thì tỏ vẻ lên mặt đàn anh, vừa rung đùi vuốt râu vừa hất hàm hỏi: “Thế nhà thầy ở đâu qua đây? Làm nghề gì?”

Quát làm ra vẻ khúm núm, thưa: “Bẩm các quan, tôi ở làng bên đi dạy học về qua đây.”

Các ông liền lên giọng hạch hỏi: “Dạy học à? Thế đã thi cử khoa nào chưa?”

Quát đáp: “Bẩm cũng có theo đòi vài ba khoa, nhưng đều hỏng cả. Về nhà văn dốt vũ dát nên đành phải đi gõ đầu trẻ.”

Nghe ông Quát trả lời, mấy vị được thể ta đây là cử nhân, tú tài, lại hỏi luôn: “Thế nhà thầy định phúng câu đối Nôm hay chữ đấy?”

Quát trả lời: “Bẩm có mấy chữ đã dạy trẻ hết mất rồi, giờ xin làm Nôm thôi ạ!”

Mấy vị lên giọng đàn anh, bảo: “Ừ, thế thì làm đi rồi sẽ sửa chữa cho.”

Quát cầm bút viết một mạch luôn đôi câu đối:

Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thiết nhẽ đâu mà khóc mướn!
Tưởng sự bách niên đừng nghĩ đến, động can tràng nên nỗi phải thương vay!

Viết xong, ông Quát trình lên mấy vị xem. Các vị đều ngẩn người bái phục. Câu đối đã hay hết ý, chữ lại đẹp như phượng, như rồng. Bấy giờ mấy vị mới biết ông là Cao Bá Quát liền đứng cả dậy, mời cùng ngồi, rồi sai gia chủ lấy thêm rượu, thức nhắm để tiếp khách thi nhân và chắp tay vái xin lỗi, vì có diễm phúc được gặp “Thánh Quát” nhưng đã để thất lễ.

Đèn nhà ai nhà nấy rạng

Chuyện kể rằng Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ (sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh). Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn, bèn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối chữ Nôm.

Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu rất tài tình như sau:

Trước mẹ dạy con: gió chiều nào che chiều ấy, con dạ
Giờ con thờ mẹ: đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi!

Người đời khen tụng là đôi câu đối rất hay, dùng toàn thành ngữ dân gian mà lại rất tương hợp với hoàn cảnh của chủ nhân cũng như ý nghĩa và công dụng của cái đôi đèn thờ.

Đối đáp với vua Tự Đức

Sau khi vua Tự Đức lên nối ngôi năm 1847, nghe tiếng Đạt, Quát, là anh em sinh đôi cùng học giỏi, hiện làm việc ở bộ Lễ, vua vời ông Quát vào trong cung ra một câu đối để thử tài:

Nhất bào song sinh nan vi huynh nan vi đệ
(Một bọc sinh đôi, khó biết anh, khó biết em).

Ông Quát đối lại:

Thiên tải nhất ngộ hữu thị quân hữu thị thần.
(Nghìn năm gặp một, có vua ấy, có tôi ấy).

Vua Tự Đức rất hài lòng về vế đối này.

Tuy nhiên, người đời hay lắt léo, cho rằng nhà vua đã không lường hết được chỗ thâm thúy của vế đối, vì câu này cũng còn có thể hiểu theo nghĩa khác: Có ông vua như Tự Đức thì cũng có người bề tôi như Cao Bá Quát để đối chọi lại (theo ý “vỏ quýt dày, móng tay nhọn”). Và đó cũng chính là cái ý lắt léo của họ Cao.

Ghi thêm: Nguồn khác kể câu chuyện như sau.

Năm 12 tuổi, Cao Bá Quát cùng anh song sinh là Cao Bá Đạt dự kỳ thi khảo hạch. Hai anh em làm xong bài, thừa thì giờ rủ nhau ra sân đá cầu.

Quan trường trông thấy, hỏi: “Hôm nay là ngày tranh khôi, đoạt giáp, ai cũng lo văn bài. Sao các chú lại nô giỡn thế?

Cao Bá Quát nhanh miệng thưa: “ Kì này gặp được đầu bài dễ, chúng tôi làm xong thừa thì giờ. Vì cửa trường chưa mở cho thí sinh ra, nên xin đánh cầu cho vui, chứ không dám đùa nghịch đâu ạ!”

Quan trường thấy lạ, bèn hỏi thăm gia thế của anh em Quát, rồi ra vế đối và Quát đối lại như kể trên.

Đánh cờ với Vua Tự Đức

Giai thoại dân gian kể lại rằng: Cao Bá Quát chẳng những giỏi thơ văn, mà còn là một người chơi cờ cao tay. Có lần Tự Đức bảo ông hầu cờ. Hôm đó nước cờ sắp tàn, bên nhà vua còn nguyên đôi mã, còn ông Quát vẫn giữ được đôi xe.

Tự Đức đắc chí gật gù ngâm (dịch Nôm):

Hai ngựa đuổi mãi nghìn dặm đất.

Như những kẻ khác, hiểu dược tính hiếu thắng của đấng quân vương, thì nên chịu thua để làm đẹp lòng Thiên tử. Đằng này ông Quát vì tính ngông cuồng cũng ứng khẩu đối luôn (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Đôi xe đánh riết chín tầng trời.

Nhận xét: Vế ra chỉ nói nhẹ nhàng là đuổi đường xa, vế đối lại bảo đuổi đến cửu trùng, và cửu trùng thường chỉ nơi vua ở. Thế là quá quắc thật!

Tự Đức giận lắm, cho rằng ông Quát cố ý phạm thượng, bèn tìm cớ để buộc ngay tội. Tự Đức lập kế, bảo: “Ta nghe nói người cao cờ phía sau gáy thường có một cái u. Vậy khanh hãy ngoảnh lại để Trẫm thử xem!”

Nếu ông Quát nghe theo rồi quay lưng lại trước mặt vua, thì sẽ bị ghép ngay vào tội phạm thượng, khi quân, theo luật thời bấy giờ có thể phải tội chém. Nhưng nhờ rất nhanh trí, ồng Quát liền gục ngay đầu mình xuống trước mặt vua. Tự Đức thấy kế mình bị thất bại, miễn cưỡng lấy tay sờ lên gáy ông Quát rồi nói: “Quả đúng, sau ót khanh có cái u thật”.

Chỉnh câu đối của vua

Vua Tự Đức có tài làm thơ văn nên thường nghĩ ra trò văn chương với các quan. Lúc đó, ông Quát làm ở Bộ Lễ.

Một lần, vua Tự Đức làm đôi câu đối rồi đọc cho các quan nghe, như sau:

Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân

Dịch:

Con nối dõi nghiệp cha
Thần báo đáp ơn vua

Các quan đều tấm tắc khen hay, vội lấy giấy bút chép mang về nhà treo như một bảo vật. Thực ra, hai câu đó rất tầm thường, nói đến tam cương ngũ thường trong Nho học: nghĩa vua tôi, đạo cha con, chứ chẳng có gì là hay ghê gớm, nhưng các quan trong triều thấy vua khoe, dù hay dở cũng phải đồng thanh khen ngợi để “lấy điểm”.

Nơi làm việc của Cao bá Quát tại công sảnh bộ Lễ cũng có treo đôi câu đối đó. Dù biết là của vua, nhưng không kìm được tính kiêu ngạo, ông cầm bút viết bên cạnh: “Hảo hề! Hảo hề! phụ tử quân thần điên đảo” (Hay thật! Hay thật! Cha con vua tôi đảo ngược).

Lễ bộ sợ hãi, tâu trình. Vua cho đòi Quát tới. Quát bị lính giải tới trước mặt vua, bình tĩnh nói: “Tâu bệ hạ, từ nhỏ đến lớn, thần đọc sách thánh hiền đều nói đến đạo quân thần ở trên đạo cha con, chứ chưa bao giờ nghe thấy nói đạo cha con ở trên đạo vua tôi, nay xem đôi câu đối, thần không thể ngăn được lòng bất mãn”.

Hóa ra là: nếu treo/dán đôi câu lên thẳng đứng thì con ở trên cha và quân thần ở trên vua; còn nếu để đôi câu nằm vẫn không ổn: con ở trước cha và quân thần ở trước vua.

Vua Tự Đức nghe Quát nói có lý và đã biết tiếng Quát học giỏi, liền hỏi: “Nếu vậy phải sửa sao cho đúng phép?”

Quát sửa lại là:

Quân ân thần khả báo
Phụ nghiệp tử năng thừa

Dịch:

Ơn vua, thần báo đáp
Nghiệp cha, con nối đời

Tự Đức chịu là hay, nhưng vì lòng tự ái của vua bị bề tôi vô lễ và lòng tự ái của một nhà thơ bị sửa văn trước mặt quần thần, nhà vua không vui.

Ghi thêm: Có nguồn cho rằng Cao Bá Quát sửa đôi câu đối này của Tùng Thiện Vương. Còn Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2018) cho rằng đôi câu đối này là của người Trung Hoa, ít nhất đã được kể trong hai cuốn sách khác nhau, về một danh thần đời Minh. Hai chuyện giống nhau y hệt, vậy danh thần đời Minh đó không thể “cóp” Cao Bá Quát được. Quát là con người ngạo mạn, từng lên án vua Tự Đức không phải Nghiêu Thuấn, và phất cờ khởi nghĩa chống triều đình, thì không mâu thuẫn đến mức chê văn người là “cương thường điên đảo”. Có lẽ người đời gán ghép câu chuyện đó cho Cao Bá Quát vì nghĩ rằng làm như thế là tôn vinh ông, không ngờ lại khiến cho ông mang tội đạo văn!

Cảnh làm Giáo thụ

Vua Tự Đức tuy trọng nhân tài nhưng càng ngày càng ghét tính ngạo nghễ của Cao Bá Quát, lại nhân trong triều mọi người đều không ưa Cao, nên năm 1850, chuyển Quát đi làm Giáo thụ (phụ trách giáo dục một huyện) ở Quốc Oai, Sơn Tây. Ông phẫn uất lộ ra đôi câu đối dán ở trường học:

Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi

Câu đối tức cảnh vì xa chốn thành thị, học trò ít, cảnh sinh hoạt tiêu điều.

Ghi thêm: có nguồn khác cho rằng đôi câu đối này là của Ông Ích Khiêm.

khu tho cao ba quat phu thi gia lam
Khu thờ Cao Bá Quát ở xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội

Một đôi câu đối khác trong thời gian làm Giáo thụ:

Trói chân kỳ ký cho vào rọ
Rút ruột tang bồng trả nợ cơm

Kỳ ký là tên hai giống ngựa tốt, trong văn học được ví với nhân tài xuất chúng; tang bồng chỉ cung tên để nam nhi xông pha thỏa chí. Ngựa tốt vào rọ, cung tên bị rút ruột chỉ cảnh mạt vận.

Viết câu đối Tết

Trong thời gian Cao Bá Quát đang nghỉ ở nhà, nhân dân quanh vùng thường đến xin câu đối về dán nhà, nhất là trong dịp Tết.

Một hôm có hai người láng giềng cùng đến một lúc, chỉ trước sau mấy bước. Người đến trước là một anh làm nghề đóng quan tài. Người đến sau là một chị đang có mang gần ngày sinh.

Quát viết cho anh thợ áo quan:

Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường

Dịch:

Trời thêm năm tháng, người thêm thọ
Xuân khắp non sông, phúc đầy nhà

Sự tài tình mà cũng là chất hóm hỉnh của Cao Bá Quát ở cách dùng hai chữ “thọ” có nghĩa sống lâu và “đường” có nghĩa mái nhà; nhưng ghép liền thì lại thì “thọ đường” có nghĩa là quan tài.

Anh thợ nghe giảng rõ, vui mừng vái chào đi ra.

Ghi thêm: có nguồn khác cho rằng đôi câu đối trên là của Nguyễn Công Trứ.

Ðến chị đang mang thai, Quát nhìn chị hóm hỉnh cười, rồi viết:

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng.

Dịch:

Xuân đầy trời đất, phúc đầy
Trời thêm năm tháng, người thêm

Hóa ra cũng là hai câu trước nhưng đảo câu và bỏ chữ cuối, vẫn có nghĩa trọn vẹn. Vế trên nói về cái bầu, bởi chữ “phúc” là hạnh phúc cũng đồng âm với chữ “phúc” là cái bụng, mà “phúc mãn” có nghĩa là cái bụng to, tức là bụng mang thai. Còn vế dưới nói đến ý “người thêm”, chỉ việc người phụ nữ sắp đẻ, sắp thêm người thêm của như lời chúc của dân gian. Bụng to rồi đẻ thêm người, như thế là “mẹ tròn con vuông”. Có lời chúc nào đúng và hay hơn ý tứ của đôi câu đối đó?

Ghi thêm: Có nguồn khác kể giai thoại sau.

Tết năm 1903 (Quý Mão), có một ông đồ ở quê mang nghiên bút ra ngồi chợ Hưng Yên bán chữ. Một góa phụ thuộc hàng giàu có nhưng không rành chữ Nho, vui mừng mua câu đối trên về dán trước cửa nhà.

Có một tên ba xạo đi ngang, chơi ác giải rằng đôi câu đối có ý nói là bị chữa hoang đó! Thay vì nghĩa chữ “phúc” là hạnh phúc thì hắn phớt lờ, lại nhấn mạnh nghĩa chữ “phúc” là bụng mang bầu.

Góa phụ nổi tam bành, vác đơn đi kiện thầy đồ ngay ngày 28 Tết.

Quan Án sát Hưng Yên lúc ấy là Chu Mạnh Trinh (1862-1905) rất mực công bình nên quở trách góa phụ về tội nghe xằng bậy và buộc bồi thường danh dự cho thầy đồ một quan tiền kẽm!

Viết tặng Nguyễn Nhạ

Wikiquote không nguồn cho biết trong Mạc Vân Thi xã có Tiến sĩ Nguyễn Nhạ [?] là người hay châm chọc Cao Bá Quát và tưởng Quát sợ, ông gây cho Cao Bá Quát không ít rắc rối.

han_nha-quatNhân dịp Tết, Quát viết tặng Nguyễn Nhạ một câu đối:

Nhữ cấu vô nha hà tốc ngã
Ngô do hữu thiệt khởi thâu thùy

Dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Anh không nanh, chưa dễ hăm he ta
Ta có lưỡi, lẽ nào chịu thua anh.

Cách đối đáp trong câu này là: trong chữ “nhạ” 訝 (Nguyễn Nhạ) có chữ “nha” 牙 (nanh); trong chữ “quát” 鴰 (Cao Bá Quát) có chữ “thiệt” 舌 (lưỡi). Nanh tuy cứng hơn lưỡi nhưng lại mọc sau và rụng trước, còn lưỡi thì mềm nhưng lại có trước và chết sau. Ý là: Ngươi thử hỏng răng xem, liệu có cắn được ta! Ta còn có lưỡi há chịu thua ai! Phương ngôn: “Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì mất”.

Viếng góa phụ có chồng Trung Hoa

Ông Chiêu Phu (không rõ tiểu sử) viết cho một bà góa phụ lấy chồng Trung Hoa câu đối (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Kết tóc đuôi sam, lấy chồng nước khác, hồng trở về bắc
Quay đầu đất khách, xót thương ngày kia, nhạn quay lại nam.

Góa phụ này đi giữa đường gặp một người chê “Dở lắm, đem trả lại, lấy tiền về đây”.

Ông Chiêu Phu biết người chê mình là Cao Bá Quát liền mời họ Cao đến chơi và hỏi câu đối nọ của mình dở thế nào.

Cao Bá Quát thủng thỉnh đáp: “Dở ở chỗ ý hai vế giống nhau”.

Ông Chiêu Phu mời Cao Bá Quát làm lại câu đối ấy.

Sau khi nghĩ ngợi một lát, Cao Bá Quát đọc:

Xoắn đuôi chuột, trở về với mẹ
Khép mu sò, dừng lại nuôi con.

Câu đối rất hợp với tình cảnh  góa phụ nọ, nhưng cái chất bỡn cợt, tinh nghịch rất Quát vẫn hiện lên rất rõ nét.

Vịnh điếu cày

dieucay2Thuốc lào, cùng với miếng trầu, thường được mang ra mời khách. Lá thuốc lào sau khi được hái sẽ được rửa sạch, thái thành sợi nhỏ, trải qua quá trình phơi và xao trở thành sợi thuốc lào.

Người hút sử dụng một dụng cụ gọi là điếu cày hoặc điếu bát, châm lửa và thưởng thức. Tiếng kêu của điếu khi hút cũng là một trong những sắc thái gây phấn khích cho người sử dụng.

Qua cách dùng chữ phóng khoáng, Cao Bá Quát nâng việc hút điếu cày lên một tầm cao mới, chứa đầy khẩu khí ngông cuồng:

Ra tay cầm cán sôi trong nước
Ngậm khói phun mây sạch bụi trần.

Vịnh hòn no bộ

Ở sau điện Cần Chánh mới đắp một hòn non bộ trong bể cạn. Vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Siêu đề câu đối. Siêu nghĩ mà chưa biết đề như thế nào cho hay, nhân gặp Cao Bá Quát đến chơi, mới ngỏ ý ấy.

Quát lấy bút chép ngay (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Núi nếu có thần, hô chúc tuổi vua Hán (A)
Biển như sinh thánh, lặng sóng gió nhà Chu (B)

(A) Hán Vũ Đế đi chơi núi Tung Sơn, thị thần đứng dàn hàng hai bên, lúc xe vua đi qua đều hô vạn tuế, tiếng hô vọng vào núi, vang ra ba lần. Người ta nói đấy là sơn thần hô vạn tuế chúc vua.

(B) Chu Công Đán hỏi: “Nước Việt Thường cách đây vạn dặm, vì cớ gì sang cống?” Sứ giả đáp: “Hạ quốc thấy gần đây mưa thuận gió hòa, ba năm nay biển không gợn sóng, biết rằng nhà Chu có thánh nhân cho nên sang cống”.

Câu đối có khẩu khí đế vương

Tương truyền, sau này, Cao Bá Quát làm loạn chống Triều đình Huế, bị bắt. Nằm trong ngục, ông không hề sợ sệt, tự nhạo cái mộng đế vương của mình:

Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương

Ghi thêm: Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2018) cho rằng đôi câu đối trên là ngụy tạo, bởi vì theo chính sử nhà Nguyễn, Cao Bá Quát chết trận, không nhục nhã bằng bị giam cầm rồi bị xử chém, và sử thần nhà Nguyễn không có lý do gì dám sửa sự thật để giữ thể diện cho một phản thần nhà Nguyễn. Hơn nữa, Cao Bá Quát nuôi mộng đế vương thì không có lý khi chính ông suy tôn Lê Duy Cựu làm Minh chủ.

Câu đối của Cao Bá Đạt

Khi hay tin án tru di tam tộc đối với gia tộc mình, người anh sinh đôi là Cao Bá Đạt ngất xỉu một hồi lâu, khi tỉnh dậy, liền khóc rống lên mà đọc câu đối như kêu trời, kêu đất (dịch Nôm):

Khóc cùng vũ trụ trời không tựa
Giận đổ sơn hà đất muốn xoay

Ghi chú thêm

Giai thoại cho rằng Cao Bá Quát từng nói: “Cả thiên hạ có 4 bồ chữ, anh Bá Đạt tôi và ông Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, một mình tôi chiếm hai bồ, còn một bồ thì phân phối cho cả thiên hạ.”

Hoặc có nguồn khác ghi câu nói là: “Thiên hạ có bốn bồ chữ, riêng tôi giữ hai bồ, anh tôi giữ một bồ”.

Quát đúng là có tính kiêu ngạo, nhưng có thật là kiêu ngạo đối với anh mình và người bề trên thật sự tài giỏi như Nguyễn Văn Siêu? Theo Lãng Nhân (1964), câu nói của Quát phỏng theo ý của Tạ Linh Vận ở Trung Hoa: “Trong thiên hạ tài có một thạch, Tào Tử Kiến (Tào Thực, con Tào Tháo) được tám đấu, riêng tôi giữ một đấu, còn một đấu phân phát cho khắp kẻ sĩ cổ kim”.

Như vậy đây là chuyện bắt chước Trung Quốc. Liệu có phải Cao đã “cóp” người xưa thật hay vì thấy ông mang tiếng kiêu ngạo mà có người đem chuyện này gán ghép cho ông ? Bởi vì đã có khá nhiều chuyện người ta nói chắc như đinh đóng cột về Cao Bá Quát mà xét ra lại không đúng, như bài này thuật ở những đoạn khác.

Đỗ Huy Uyển

Đỗ Huy Uyển (1815-1882), sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là con trai cả của Cử nhân Đỗ Huy Cảnh và là cha của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu.

Khi ông ở nhà dạy học, thường tự phụ là hay chữ bậc nhất; văn chương của ai cũng không coi ra gì. Những làng ở quanh miền La Ngạn, phàm có công việc hiếu hỉ, đều đến xin chữ của ông nhưng vẫn có ác cảm với ông.

Thách đố trai trẻ

Một hôm, một anh trai trẻ vào nói là học trò lỡ độ đường, xin giúp đỡ.

Đỗ Huy Uyển có ý khinh khi, hỏi: “Anh là học trò thực à? Đã học đến sách gì rồi?”

Anh trai trẻ thưa: “Cháu mới học hết sách Tam tự tam tiếc, và đã học sang sách Hán sách hiếc”.

Nghe lối ăn nói hỗn hào, Uyển giận lắm, nhưng nén lòng, bảo: “Anh đã học đến sách Hán, nay ta ra cho câu đối, đối được sẽ cho năm quan tiền, còn như không đối được thì sao?”

Anh trai trẻ thưa: “Nếu không đối được thì xin chịu đánh đòn 30 roi”.

Ông liền ra vế (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Cướp thành Triệu, hạ cờ Triệu, quân Triệu không hay Hàn tấn kích Triệu

Truyện Hán Sở tranh hùng: Hàn Tín lập kế cho quân mình giao chiến với quân Triệu đồng thời điều quân kỵ lẻn vào trại quân Triệu cắm toàn cờ Hán. Quân Triệu đang đánh với quân Hán, nhìn lại thấy doanh trại mình đều có cờ của địch, ngỡ là quân Hàn Tín đã phá được Triệu, mạnh ai nấy bỏ chạy. Vế xuất có ý hăm dọa anh trai trẻ: bị đánh đến nơi rồi mà không biết đấy!

Thanh niên đối ngay (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Vào cung Tần, bỏ luật Tần, dân Tần đón mừng Hán làm vua Tần

Truyện Hán Sở tranh hùng: Bái Công (sau là Hán Cao tổ) dẫn quân hạ Tần, vào cung A Phòng nhưng truyền niêm phong cung điện, ban bố bỏ các luật lệ hà khắc của nhà Tần, dân chúng thấy Bái Công nhân đức nên ước mong ông làm vua Tần. Ý anh trai trẻ: ta định vào nhà ông để trị tội ông khinh người cứ hăm đánh roi.

Đỗ Huy Uyển cho tiền anh trai trẻ như đã hứa, rồi nói với con, Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu: “Thằng ấy sau này khá đấy. Câu của thầy chỉ là khí độ Hàn Tín, còn câu của nó khí độ Bái Công.”

Thầy đồ giành mối

Chánh tổng sở tại có ông cậu vừa tạ thế. Nhân ngồi chơi nhà bạn, từ chối lời mời rượu, chánh tổng nói cần phải đi xin câu phúng của Đỗ Huy Uyển. Thầy đồ nhà bạn tỏ ý làm giúp câu phúng. Khi chánh tổng ngần ngại thì thầy đồ bảo câu phúng của mình nhất định sẽ hay, quan Uyển sẽ ưng ý, nếu kém bị quan quở trách thì mình sẽ chịu vạ.

Chánh tổng thấy thầy đồ tự tin nên nhận lời.

Trong khi đó, Đỗ Huy Uyển chắc mẩm chánh tổng thế nào cũng đến để mua câu phúng của mình. Mãi không thấy ai đến hỏi, cho học trò đi xem, mới hay chánh tổng đã có câu phúng rồi.

Câu phúng như sau

Cồ điểu hốt cao phi, kích cổ suy sinh, ta hà cập hĩ
Già viên không tích biệt, minh chung chử phạn, bạc ngôn tống chi

Dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Sáo sậu bỗng bay cao, đánh trống thổi kèn, than thở không kịp
Vườn cà tiếc xa cách, đánh cồng thổi cơm, làm lễ đưa cậu

Uyển nghe câu phúng, nghĩ mãi không hiểu dùng chữ ở sách nào hoặc theo điển tích gì, lập tức cho người tìm chánh tổng để hỏi. Chánh tổng trình bày vụ việc, đến phiên thầy đồ được kêu đến.

Khi thầy đồ đến, Uyển hỏi:
– Câu phúng đó thầy làm chữ ở đâu thế?

Thầy đồ giả ý run sợ, lễ phép thưa:
– Con ít học, nghĩ thế nào thì viết ra thế ấy, tình thực không có chữ ở sách nào, điển tích cũng không.

Uyển nhất định không chấp nhận cách giải thích đó, nên cố giữ thầy đồ ngồi lại, bảo người nhà làm cơm. Khi rượu đã chếch choáng, ông dỗ mãi, thầy đồ mới thưa:

– Bẩm, con chẳng dám chòi mòi cao, nên lấy bài đồng do trẻ vùng này vẫn hát.

Rồi thầy đồ hát như đứa trẻ:

Sáo sậu là cậu sáo đen
Đánh trống thổi kèn đưa ma sáo sậu…

Cậu lậu quả cà
Cậu già cậu chết
Thổi nồi cơm nếp
Đem ra ngoài đồng
Đánh ba tiếng cồng
Cậu lồng xuống lỗ
Làm giỗ cúng cậu!

Nghe chưa dứt, Đỗ Huy Uyển đã vuốt râu phá lên cười…

Hóa ra chỉ khi dịch Nôm mới thấy câu viếng nói về cậu trong bài đồng dao, cũng là ông cậu của chánh tổng. Một cách vận dụng đồng dao vô cùng lý thú, khởi từ việc đưa ma trong đồng dao rồi dẫn đến nội dung lễ tang nơi nhà chánh tổng. Thầy đồ hẳn có ý tưởng giúp tang gia được nhẹ nhàng, không để cho họ quá bi thương.

Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng

nguyen dinh chieu 2
Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.

Ở xã Trường Bình có một ông thầy thuốc, tính tình ngay thẳng tới mức ngang bướng, nhân dân vẫn gọi là thầy Tàng. Ông này bị nghễnh ngãng, hay qua lại chơi với Nguyễn Đình Chiểu.

Một hôm đang ngồi chơi, thầy Tàng đọc:

Trâu khát nước bò xuống uống

Nguyễn Đình Chiểu đối lại:

Trê thèm mồi lóc lên ăn.

Vế ra chơi chữ ở hai từ “trâu” và “bò” có liên quan với nhau; “bò” vừa là danh từ, vừa là động từ.

Vế đối cũng thế cho hai chữ “trê” và lóc”; “lóc” vừa là danh từ, vừa là động từ.

Kế đó, Nguyễn Đình Chiểu đọc:

Thầy Tàng tai không nghe sấm

Nói về con vịt, có câu “Trí lôi thanh ư nhĩ ngoại, võng nhiếp thiên uy” tức là: Để tiếng sấm ở ngoài tai, chẳng sợ oai trời. Nguyễn Đình Chiểu vừa có ý trêu chọc thầy Tàng bị nghễnh ngãng, vừa có ý nói đến tính ngay thẳng tới mức ngang ngạnh “không sợ trời, không sợ đất” của thầy Tàng.

Thầy Tàng đối lại:

Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây.

Lời Mã Siêu nói khi theo hàng Lưu Bị: “Nay gặp được minh chúa, khác nào vén đám mây mù mà trông thấy trời xanh!”

Thầy Tàng cũng vừa có ý trêu lại Nguyễn Đình Chiểu bị mù, vừa có ý phân bua rằng thời buổi này đâu có ai là minh quân thánh chúa mà tôi phải kính trọng, cũng như ông đó thôi, ông có thấy ai là minh quân thánh chúa không?

Cả hai cùng cười…

Tú Quỳ

Tú Quỳ có tên thật là Huỳnh Quỳ (1828-1926), gốc làng Giảng Hòa, tổng Quảng Hòa, huyện Duy Xuyên (sau này thuộc xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc), tỉnh Quảng Nam. Sau hai lần lều chõng, hai lần chỉ đỗ Tú tài, Tú Quỳ trở về quê, vui với việc dạy trẻ, sống cuộc đời như ông, cha, chú ngày trước.

Câu đối tế thợ rèn

Thảm thiết bấy mấy lời tiện tặn, chịu ăn hoài dao luộc hơn chín mười năm
Não nùng thay chút phận rủi ro, như tâm mất lưỡi cày cực trăm ngàn nỗi.

Câu đối tế 12 góa phụ

Câu đối tế 12 bà vợ góa thờ 12 ông chồng cùng bị chết trôi trong một trận lụt:

Tưởng khi bóng chích gương loan, một thảm một sầu mười bức tức
(1 + 1 + 10 = 12)

Nhớ thuở bẻ mai chiết quế, ba chìm ba nổi sáu lênh đênh.
(3 + 3 + 6 = 12)

Phan Văn Trị

phan van tri
Phan Văn Trị

Phan Văn Trị (1830-1910) sinh tại làng Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh, nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Năm 1849 ông đỗ Cử nhân nên thường được gọi là Cử Trị. Nhưng ông không chịu làm quan vì tính khí ngang tàng, không thích bó buộc thân mình trong thời cuộc rối ren, mặc dù gia đình thanh bạch. Ông lấy việc dạy học và bốc thuốc để sinh sống ở làng Bình Cách (nay thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An), sau về Vĩnh Long rồi về Phong Điền (Cần Thơ) cho đến cuối đời.

Lúc còn ở kinh đô Phú Xuân, nhân một buổi dạo chơi trên bờ sông, thấy những người lặn xuống sông bất ốc khi trồi lên thì cổ họ bị rong quấn, đầu vướng đầy rác rêu, Phan Văn Trị chép miệng ngâm:

Phú quí Trường An rong quấn cổ
Phong lưu kinh địa rác đầy đầu!

Một hôm, Phan Văn Trị đi ăn giỗ. Trong đám giỗ hôm ấy, các danh sĩ cùng nhau ngồi đàm luận văn chương, một người ra đối:

Sắc nan

Phan Văn Trị lên tiếng:

Dung dị

Người ra vế đối thấy vậy nói: “Dung dị à? Thử đối lại coi!”

Cử Trị đáp: “Tôi đối rồi đó. Dung dị”.

Lúc đó mọi người mới hiểu ra. Ai cũng khen ngợi. Người ra đối cũng như cử tọa chậm hiểu, bởi lẽ từ “dung dị”: có nghĩa là “dễ dàng”. Do đó, người ta tưởng Phan Văn Trị nói vế xuất là dễ dàng, nên bảo Phan Văn Trị hãy thử đối đi. Họ không dè Phan đã đối ngay: “Dung” đối với “Sắc” còn “dị” đối với “nan” – không gì chỉnh hơn được nữa.

Có người đang ăn quít, gặp quả quít ngọt tấm tắc khen:

Quít ngọt!

Phan Văn Trị tưởng người ấy ra đối để thử thách mình, bèn gắp miếng chả vào miệng nhai rồi đáp:

Chả ngon!

Cử tọa đều vỗ tay thán thưởng. “Quít ngọt” còn có nghĩa bóng là “lường quịt khéo”. “Chả ngon” có nghĩa bóng là “chẳng đẹp đẽ, chẳng xứng đáng gì” được dùng để đối lại chỉnh cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Vế đối khác (khuyết danh):

Cóc sướng

Một người khác đang ăn bỗng cắn phải lưỡi bèn kêu:

Ái!
(vừa là tiếng kêu, lại có nghĩa là yêu)

Tiếng kêu làm mọi người giật mình. Cử Trị tức cảnh đối ngay:

Ố!
(vừa nghĩa là hoen ố, lại có nghĩa là ghét)

Một hôm, có người bạn giễu cợt mời Phan Văn Trị thử xướng một bài thơ vịnh “tứ khoái”. Không ngờ ông mỉm cười dễ dãi rồi ngâm luôn vế xuất:

Cơm Phiếu Mẫu(A), gối Trần Đoàn(B), gối nghiêng loan phụng(C), nhẹ nhàng nương long(D)

(A): Cái khoái thứ nhất là ăn. Hàn Tín thời Hán–Sở tranh hùng, lúc công danh chưa thành đạt, nhà nghèo, được bà Phiếu Mẫu thành Hoài Âm cho cơm ăn.

(B) Cái khoái thứ hai là ngủ. Trần Đoàn, đời Ngũ Đại, tu tiên đắc đạo ở dưới Hỏa Sơn, ngủ ba mươi năm liền cho khỏe mắt trong thời loạn lạc.

(C) Cái khoái thứ ba: loan là con trống, phụng là con mái thuộc một loài chim quý. Loan phụng cũng chỉ chuyện vợ chồng, tình duyên trai gái.

(D) Cái khoái thứ tư: nương long là mỹ từ dùng để ám chỉ hậu môn.

Vế đối lại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng):

Gạo Trọng Do(E), bướm Trang Chu(F), bướm vờn mai trúc(G), phập phù hậu quy(H)

(E): Cái khoái thứ nhất: Tử Lộ, học trò Đức Khổng, nhà nghèo, thường đi đội gạo đường xa về nuôi cha mẹ, không có tiền mua thức ăn nên phải hái rau dại về nấu cho cha mẹ dùng. Sau khi cha mẹ mất, ông được trọng dụng, có nhiều bổng lộc, nhưng than không còn cha mẹ để được phụng dưỡng như xưa.

(F) Cái khoái thứ hai: Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, khi tỉnh dậy không rõ lúc trước mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay bây giờ là bướm mộng thấy hóa Chu.

(G) Cái khoái thứ ba: trúc và mai, thường được trồng hoặc vẽ cạnh nhau, thể hiện tình ân ái thủy chung.

(H) Cái khoái thứ tư: hậu quy là mỹ từ ám chỉ phía sau quy đầu, tức là hậu môn.

Nguyễn Khuyến

nguyen khuyen
Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835-1909) có tên thật là Nguyễn Thắng, người làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Năm 1864, ông đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt khoa thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ “thắng” có chữ lực nhỏ, chữ “khuyến” có chữ lực lớn hơn). Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.

Nguyễn Khuyến là một trong những bậc thầy của Việt Nam về câu đối qua việc sử dụng câu chữ hợp với tình huống đồng thời thể hiện tâm tư sâu lắng. Một loạt các câu đối phúng điếu hoặc mừng đám ông viết đều thể hiện tài dùng chữ Nôm hết sức độc đáo, đôi khi khôi hài một cách bất ngờ để tạo nhẹ nhàng. Chất vừa đau buồn vừa hóm hỉnh vô hình trung thể hiện ý Lão Trang.

han_luc-thang-khuyenNguyễn Khuyến có 50 câu đối nôm được làm trong các dịp khác nhau như: mừng thi đỗ, mừng nhà mới, viếng người chết, chúc tết… Không chỉ giỏi làm câu chữ đối chữ, Nguyễn Khuyến còn đưa vào nhiều đơn vị ngôn ngữ như thành ngữ đối thành ngữ, tục ngữ đối tục ngữ, quán ngữ đối quán ngữ, và cả các điển cố, điển tích đối nhau.

Nguyễn Khuyến cũng nổi tiếng với cách dùng các từ đồng âm trong câu thuần Nôm hoặc thuần Hán-Việt, hoặc độc đáo hơn nữa là chữ Hán-Việt đồng âm với chữ Nôm, tạo nên câu từ ngộ nghĩnh và lý thú. Một loạt các câu đối phúng điếu hoặc mừng đám ông viết đều thể hiện tài dùng chữ Nôm một cách thần sầu, đôi khi hóm hỉnh và mang lại sảng khoái bất ngờ cho người đọc. Ai lại nghĩ bát tiết canh và đôi bồ dục cũng là từ Hán-Việt, đồng âm nhưng có nghĩa khác biệt?

Người tổng hợp bài này cho rằng Nguyễn Khuyến mới đúng là “Thánh chữ”: hoặc thâm trầm dẫn đến đồng cảm, hoặc dí dỏm dẫn đến sảng khoái; vận dụng đủ các thể tượng thanh, tượng hình, hoặc đồng âm giữa hai thứ tiếng Hán-Việt và Nôm hoặc nói lái, từ đó tạo nên đủ cung bậc cảm xúc cho người đọc.

Câu đối cho chuồng lợn

Khi còn nhỏ, Nguyễn Khuyến học giỏi được thầy yêu và nói chung bạn quý, nhưng lại bị anh trưởng tràng học kém hơn ganh ghét. Anh ta bày trò bắt cậu làm câu đối “dán chuồng lợn” để giễu cợt, cho rằng thơ văn của Nguyễn Khuyến chỉ đáng cho lợn đọc!

Cậu làm ngay đôi câu đối để trả đũa anh trưởng tràng, vì vậy hai vế chỉ dùng có hai chữ “trưởng” và “tràng”:

Trưởng trưởng tràng tràng tràng trưởng trưởng
Tràng tràng trưởng trưởng trưởng tràng tràng

Câu đối này viết bằng chữ Hán thì chỉ có mỗi chữ “trưởng” 長  (còn có phiên âm khác là “tràng”) được nhắc đi nhắc lại 14 lần, nghĩa là:

Lớn lớn dài dài dài lớn lớn
Dài dài lớn lớn lớn dài dài.

Câu đối dán chuồng lợn là để mong cho lợn chóng lớn, thiết tưởng không còn câu nào hay hơn thế, nhưng cũng cho anh trưởng tràng một vố thật sâu cay, nhớ đời: địa vị của anh chỉ đáng được nêu ở chuồng lợn!

Câu đối trong ngày Tết

Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó
Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo.

Nguyễn Khuyến cho rằng người ta thật dại dột, chẳng những mất bao nhiêu tiền mua pháo đốt mà lại còn bị mất chó nữa vì pháo nổ đì đùng làm cho chó hoảng sợ chạy đi mất. Còn như ông là người khôn cho nên ngày Tết ông chỉ uống rượu say rồi nằm nghỉ, không cần phải làm gì hết.

Đôi câu tương tự:

Ai nấy dại vô cùng, pháo pháo nêu nêu kinh những quỷ
Ta đây nhàn bất trị, chè chè rượu rượu sướng bằng tiên.

Nguyễn Khuyến cho rằng người ta tốn tiền đốt pháo, dựng cây nêu để làm kinh động quỷ thì không bằng mình, chỉ rượu chè mà cảm thấy sướng như tiên!

Khóc vợ

Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc

Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm?

Viếng bà thông gia

Ôi thương ôi, hơn một ngày chẳng ở, kém một ngày chẳng đi. Nghĩ rằng: Bà năm mươi tám, bà nhà tôi cũng sáu mươi tư, xuân xanh đã cao rồi, giá dắt díu nhau bẩy tám chín mười mươi, sẽ về chầu phật chầu trời, giấc bướm cũng không ân hận nữa

Ấy quái nhỉ, sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật. Ai ngờ: Bà tháng tư này, bà nhà tôi cũng tháng năm trước, tấc gang không cách mấy, có lâu la gì một năm dăm bảy tháng, ví chẳng dâu gia dâu giáo, đường mây sao khéo rủ rê nhau!

Khóc con

Nhà thơ khóc con là Nguyễn Hoan, đỗ phó bảng và làm tri phủ Kiến Xương (Thái Bình) bị bệnh chết:

Bảng vàng bia đá nghìn thu, tiếc cho người ấy
Tóc bạc da mồi trăm tuổi, thiệt lắm con ơi!

Viếng bố vợ

Chữ nghĩa có gì, cửa sấm dám đâu mang trống lại
Rể con không nhẽ, nước người nên phải vác chiêng đi.

Đôi câu đối dùng tục ngữ: đánh trống qua cửa nhà sấmmang chiêng đi đánh nước người.

Viếng người làng

Nhà thơ viếng một ông kỳ mục trong làng đi tắm bị chết đuối:

Vừa mới họp việc làng, mặc áo địa, cầm quạt lông, đủng đỉnh coi như ra dáng nhỉ!
Thế mà chết đầu nước, lấp ván thiên, vùi đất thịt, viếng thăm thì đã đứt đuôi rồi!

Viếng thợ rèn

Cạnh nhà Tam nguyên Yên Đổ có một đôi vợ chồng trẻ tuổi làm nghề thợ rèn, sống êm ấm hạnh phúc với hai con bụ bẫm. Chị vợ là một người đẹp người tốt nết, trong làng đã từng có nhiều tên lưu manh giở trò ve vãn, dọa dẫm, nhưng chị vẫn giữ mực đoan trang. Bỗng người chồng ốm rồi chết, ai cũng thương. Yên Đổ nghe tin liền gửi một đôi câu đối:

Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp?
Cơ đồ đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.

Câu đối tả được cảnh thực của người vợ mất chồng, con mất cha, lại hóm hỉnh dùng những từ chuyên môn đồng âm trong nghề thợ rèn: “than”, “rèn”, “cặp”, “bễ”, “đe”, “loi”.

Viếng thầy thuốc bắc

Tích tai bạch đầu ông! Bán hạ đan thanh thành vẫn thảo
Cảm hỉ xa tiền tử! Trầm hương mộc dược tế linh tiên

Dịch (Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Tiếc thay già đầu bạc, nửa hạ cỏ xanh thành cỏ cháy
Thương ôi trai đưa tang, không có thuốc quý để cứu cha.

Có giai thoại cho rằng viếng thầy lang Hai ở Tứ Thanh, Xã An Nội, Huyện Bình Lục, Hà Nam. Trong đôi câu đối nầy có rất nhiều vị thuốc bắc như bạch đầu ông, bán hạ, đan (bì), thanh (bì), vẫn thảo, Xa tiền tử (rau má), trầm hương, mộc dược, linh tiên

Vợ thợ nhuộm khóc chồng

Bên cạnh nhà Yên Đổ có người làm nghề thợ nhuộm rất khéo nên khách hàng đến thuê nhuộm luôn đông đúc, vải lụa phơi trước nhà anh ta lúc nào cũng rực rỡ đủ màu. Chẳng may, một hôm anh ta ốm chết, để lại vợ trẻ với mụn con thơ. Người vợ chạy sang nhà Yên Đổ xin câu đối khóc chồng. Ông lấy giấy bút viết ngay hai câu:

Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.

Câu đối nêu bật tình cảnh gia đình người chết, lại diễn tả được mối thắm thiết của người vợ khóc chồng, con nhớ bố. Ba người này hiện diện ở cả hai vế: “thiếp – con – bố” và “chàng – vợ – con”.

Điều xuất chúng là chỉ trong đôi câu đối bao gồm nhiều sắc màu trong nghề nhuộm: “thắm – tía – đen – điều – đỏ” và “vàng – hồng – trắng – tím – xanh”. Xuất chúng hơn nữa là các từ này không nhất thiết chỉ về màu sắc trong ý nghĩa của đôi câu đối – tức là những từ đồng âm dị nghĩa.

Phan Ngọc (2016) còn cho rằng:

Đến cụm từ “tím gan tím ruột” thì phải nói là thần bút.

Tại sao chữ tím là thần bút? Bởi vì nó chỉ một nỗi đau (bầm gan tím ruột) nung nấu suốt đời không cách nào vơi được. Vế dưới là vô song vì nó trữ tình tột bực. Nếu không có chữ tím này câu đối vẫn hay nhưng chưa bất tử, bởi vì chỉ cần chữ này thôi đã thâu tóm hết cả cảnh ngộ của người vợ trẻ chết chồng. Rõ ràng cái linh diệu của nghệ thuật là quan hệ hóa được.

Sau này tôi tự lý giải tại sao chữ tím là thần bút. Bởi vì nó chỉ một cơn giận (bầm gan tím ruột) nung nấu suốt đời không cách nào vơi được. Vế dưới là vô song vì nó trữ tình tột bực. Nếu không có chữ tím này câu đối vẫn hay nhưng chưa bất tử bởi vì chỉ cần chữ này thôi đã thâu tóm hết cả cảnh ngộ của người vợ trẻ chết chồng. Rõ ràng cái linh diệu của nghệ thuật là quan hệ hóa được.

Kỷ vật vô giá

Một cô đầu người làng Bình Lục, Hà Nam, lúc luống tuổi bỏ nghề, về quê lấy một người chồng làm ruộng. Nhờ siêng năng cần cù, vợ chồng dựng được nhà mới. Ở gian giữa, cạnh bàn thờ gia đình, cô đặt bàn thờ mẹ nuôi, tức bà trùm ngày xưa khi cô còn theo nghiệp hát xướng.

Hôm ăn mừng nhà mới, vợ chồng cô mời bà con quen biết, trong đó có anh đồ vừa mới đến dạy học ở làng. Sau khi xem nhà cửa, chợt anh thấy câu đối nôm treo trước bàn thờ mẹ nuôi gia chủ, liền đến gần đọc. Câu đối viết:

Giàu làm kép, hẹp làm đơn, tống táng cho yên hồn phách mẹ
Cá kể đầu, rau kể mớ, tình tang thêm tủi phận đàn con.

Thầy đồ có vẻ thích thú lắm, quay lại hỏi chủ nhà: “Thưa bác, cháu hỏi thật, hình như hồi xưa bác có làm nghề hát xướng?”

Bà chủ ngạc nhiên, cười: “Quả đúng như thế. Nhưng tại sao thầy biết?”

Thầy đồ cười rồi hỏi tiếp: “Ai làm cho bác câu đối này?”

“À! Đấy là câu đối cụ Tam Nguyên viết cho. Cụ chả là người huyện tôi. Trong huyện thuở đó hễ ai có việc hiếu hỉ gì đều đến xin câu đối của cụ. Mẹ nuôi tôi mất mà chẳng có con cái gì, chỉ có tôi là con nuôi nên tôi phải đứng ra lo liệu ma chay. Muốn cho được chu tất, tôi đến xin cụ đôi câu đối nôm để thờ, lúc ấy cụ còn sống. Mà thầy thấy câu đối thế nào?”

Thầy đồ cười: “À, thảo nào… Quả là kỷ vật vô giá cụ để lại, bác hãy giữ gìn trân trọng. Câu đối không những hay, đầy đủ tình nghĩa, mà còn tả được cuộc sống của người đã khuất. Bác để ý vế hữu có chữ “kép” đối với chữ “đầu” ở vế tả, chữ “tống táng” đối với chữ “tình tang”, chữ “phách” đối với chữ “đàn”. Đầu, kép, phách, đàn, tống táng, tình tang chẳng phải tả cảnh đàn hay sao?”

Chủ nhà nghe giảng bấy giờ mới hiểu, vừa mừng vừa cảm động.

Chú thích: Trong nghề hát xướng thời đó, người ca nam được gọi là “kép” và người ca nữ được gọi là “đầu”. Sau này, nghề cải lương gọi là “kép” và “đào”.

Khóc anh hàng thịt

Tương truyền hai vợ chồng người bán hàng thịt gần nhà Nguyễn Khuyến có một người con trai nhỏ đang tuổi học hành. Chẳng may một hôm người chồng cùng con đi chợ bị đắm thuyền mà chết đuối. Người vợ đau buồn làm ma cho chồng và con, sang xin Nguyễn Khuyến câu đối thờ. Ông viết:

Con ơi con! Những mong con kinh sử dùi mài, ơn phụ mẫu nỡ dứt tình xương thịt
Chàng hỡi chàng! Sao bội ước hải sơn chan chứa, nghĩa phu thê càng đứt cả ruột gan.

Vẫn là cách dùng từ quen thuộc mô tả nghề nghiệp của người quá cố (“xương thịt”, “ruột gan”), mà lời văn cũng thật chân thành và cảm động.

Con rể khóc bố vợ

Nguyễn Khuyến viết hộ người con rể khóc ông bố vợ, lúc này chết thọ được 68 tuổi:

Khi ông sống, ông đẻ anh, ông đẻ chị, ông đẻ vợ tôi, nay được sáu tuần thêm tám lẻ
Giờ ông chết, ông bỏ cửa, ông bỏ nhà, ông bỏ bà lão, ai ngờ một phút hoá trăm năm!

Ông bán gà khóc vợ

Một ông bán gà, khóc vợ vừa qua đời. Nhà thơ viết giúp câu đối:

Lồng tạo hóa úp rồi, xao xác con tìm mẹ
Gánh giang san để lại, lục tục trống nuôi con.

Các từ “lồng”, “úp”, “gánh” tạo nên trường nghĩa chỉ các vật dụng và hành động của người làm nghề buôn gà. Hơn nữa, các cụm từ tượng thanh “xao xác và “lục tục” vừa chỉ cảnh con nhà hàng gà mất mẹ, vừa gợi tiếng kêu của bầy gà con lạc mẹ cù bất cù bơ, “trống nuôi con” là cảnh cha nuôi con thay mẹ, lại gợi chuyện của… gà!

Tự thuật

Đôi câu đối dưới đây miêu tả lúc Nguyễn Khuyến đã cáo lão về quê vẫn tham gia nhiều việc dù không còn làm quan nữa.

Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình(A) ngất ngưởng ngồi trên, nào lềnh, nào cả(B), nào bàn ba(C), tiền làm sao, gạo làm sao, đóng góp làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thầy đà nhẵn mặt

Già chẳng già thì trẻ(E) , đàn tiểu tử lô nhô đứng trước, nào phú nào thơ, nào đoạn một, bằng là thế, trắc là thế, điểm khuyên(F) là thế, ba vạn sáu nghìn ngày thắm thoát, con mắt gà(G) đeo mãi đã mòn tai.

Vế đối trên nói về việc Nguyễn Khuyến hăng hái tham gia công việc làng:

(A) Chiếu trung đình: chiếu giữa ở đình, dành cho cụ Tam Nguyên ngồi khi giữ ngôi tiên chỉ ở làng.
(B) Lềnh, Cả: hai chức vị ở làng, dành cho người có danh vọng và nhiều tuổi nhất.
(C) Bàn ba: bàn dọn cỗ hàng thứ ba ở đình làng.
(D) Thủ lợn: đầu lợn cúng ở đình, khi cúng xong thì dọn cho ngôi tiên chỉ hưởng lộc.

Vế đối dưới nói về việc cụ Tam Nguyên sau khi cáo quan về mở trường dạy học trò:

(E) Chẳng già thì trẻ: không muốn già với đám trẻ con, vẫn hoà mình với chúng.
(F) Điểm khuyên: cách chấm văn xưa, chỗ nào hay vừa thì thầy chấm những chấm son bên cạnh, chỗ nào thật hay thì khuyên vòng tròn, còn chỗ nào dở thì thầy sổ nét dọc.
(G) Mắt gà: mắt bị quáng gà do tuổi già.

Câu đối viết cho góa phụ bán thịt lợn

Tương truyền, một góa phụ bán thịt lợn mang đến cho Nguyễn Khuyến hai món ăn mà ông thích. Thế là ông tặng hai câu đối chữ Hán như sau:

Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Bốn mùa, tám tiết luôn chung thủy
Dặm liễu, gò bồ muốn điểm trang.

Đôi câu đối nói lên ý chung thủy của góa phụ trước sự xao xuyến, đòi hỏi được điểm trang của dặm cây liễu, gò cỏ bồ. Tuy nhiên, hai câu lại lồng hai cụm từ tiếng Việt thuần túy chỉ hai món ăn Việt Nam: bát tiết canh và đôi bồ dục (cật heo). Đó là hai thứ mà bà hàng thịt mang đến cho nhà thơ vì biết ông ưa thích. Thơ Hán-Việt mang ý hướng sâu lắng của người phụ nữ, lại lồng chữ Nôm mang ý cảm kích của nhà thơ.

Đánh giá: người tổng hợp xem đôi câu đối trên là tuyệt vời về nội dung và cách dùng từ ngữ.

Câu đối linh động

Một hôm, có một anh kia mang lễ vật rất hậu đến nói với cụ Tam Nguyên rằng: “Nhờ cụ làm cho một đôi câu đối mà hiếu hay hỉ gì cũng dùng được cả, để đám cưới, đám ma, chúc thọ… nhiều quá, mỗi lần đều rất tốn kém, thà tốn một lần cho xứng đáng để khỏi phải mỗi lần mỗi tốn.”

Cụ cười cho ý tưởng vừa tham lam vừa ky bo của anh chàng, không muốn đền công nhiều cho mình, nhưng cũng chiều ý mà viết cho đôi câu đối như sau:

Nhất đức tại thiên tùy phó phận
Thất tình ư ngã khởi vô tâm

Dịch:

Một đức ở trời tùy theo phận
Bảy tình từ ta khó vô tâm.

Chủ ý ở ba chữ “khởi vô tâm”, mang ý nghĩa: sao vô tâm cho được! Trong hoàn cảnh nào thì ý nghĩa này vẫn hợp.

Giải thích như sau:

Nếu là đám cưới sẽ có nghĩa như thế nầy: Cái đức là do Trời ban, duyên Trời run ruổi thì gặp số phận nhân duyên như thế. Về mặt tình cảm của con người (thất tình là hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục) thì tôi đâu thể vô tâm trước cái vui của quý vị!

Nếu là đám tang thì sẽ giải thích như sau: Cái đức do Trời ban cho số phận có bao nhiêu đó mà thôi, thế thì đừng buồn nữa. Về mặt tình người thì tôi đâu thể vô tâm làm ngơ trước cảnh tang tóc của quý vị!

Nếu là chúc thọ thì lại có nghĩa: Cái đức của Trời cho được hưởng phước phần trường thọ là vậy, còn về nhân tình thì tôi đâu thể làm ngơ, tức là tôi chúc mừng cho quý vị đó!

Câu đối có sẵn

Khi về trí sĩ Yên Đỗ sống hòa mình với dân gian ở nông thôn. Gần đến Tết, ông hàng xóm bảo con mang một cơi trầu sang thưa với cụ Tam Nguyên xin một câu đối về thờ ông bà. Người con bưng cơi trầu sang, lúc đó Yên Đỗ đứng bên này bờ giậu đã nghe biết.

Ông vui vẻ bảo: “Bố anh đã làm xong câu đối rồi, ta khỏi phải làm.”

Người con còn đang ngơ ngác không hiểu, ông bảo lấy bút ra chép.

Ông đọc một câu đối gần như nguyên văn lời ông bố dặn con:

Kiếm một cơi trầu thưa với cụ
Xin đôi câu đối để thờ ông.

Tặng người quen

Có hay chi cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát(A), phú quý dì Tư(B), mây nổi đã từng qua trước mắt
Thôi đừng có rước voi giày mả tổ, sự nghiệp bà Bông(C), thơ từ ông Húng(D), gió bay đành lẽ gác ngoài tai
.

(A) Chú Bát: ẩn danh của Nguyễn Trọng Kim, thường gọi là Thương Kim vì ông này làm Thương biện Hà Nội, đi lại với Tây, nên được phong cho hàm “bát phẩm bá hộ”, có sản nghiệp ở Hàng Khay, tương truyền là bá hộ Kim xây tháp rùa để mả.

(B) Dì Tư: cô Tư Hồng.

(C) Bà Bông: vợ kế của Hoàng Cao Khải. Sự nghiệp bà Bông: có người cho là nhà thơ ám chỉ việc Hoàng Cao Khải làm tiểu phủ sứ đánh cụ Đề Thám, mất ấn, sau phải sai vợ đến ở trong trại một lãnh tụ là Thân Đức Luận để đánh lừa lấy trộm ấn về.

(D) Ông Húng: Phạm Văn Toán, người làng Yên Lăng (nay là ngoại thành Hà Nội) sản xuất rau húng, hay làm thơ, nhờ khéo nịnh Tây mà leo lên đến chức Tổng đốc Nam Định (vào khoảng 1900-1904). Khi ông này làm Tuần phủ Hưng Yên, có làm bài vịnh chim bồ câu được các quan dưới quyền tâng bốc khen hay:

Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời
Khi thì bay bổng, lúc bay khơi
Về sau nó đẻ ra con cháu
Nướng chả, băm viên, đánh chén chơi

Vì ông ta dốt mà lại sính làm thơ nên Nguyễn Khuyến mới mỉa là “thơ từ ông Húng” .

Câu đối dán trong nhà

Người nước Nam, hỏi tiếng Tây chẳng biết tiếng Tây, hỏi tiếng Tàu chẳng biết tiếng Tàu, cho nên phải minh tiên vương chi đạo dĩ đạo

Nhà hướng Bắc, người chưa rét thì mình đã rét, người chưa bức thì mình đã bức, mới gọi là tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu.

Minh tiên vương chi đạo dĩ đạo: làm sáng đạo của vua trước để noi theo.
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu: lo trước điều lo của thiên hạ.

Câu đối dán ở cổng

Không tham không hãi, không dại không lo, không cứng cổ không to khí tượng
Có phúc có phần, có nhân có nở, có lọt lòng có nợ quân thân.

Khí tượng: tinh thần và hình dạng con người
Quân thân: vua và cha mẹ

Mừng hôn lễ

Giàu có thiếu gì tiền, đi một vài quan không phải lẽ
Sang không thì ra bạc, gửi năm ba chữ gọi là tình.

Ba đôi chữ đối nhau: “giàu–sang”, “tiền–bạc”, thì ta thấy rõ, riêng đôi “quan–chữ” cũng đối nhau: “quan” là đồng tiền, còn “chữ” là văn tự. Tất cả đều có ý tốt cho hôn lễ.

Mừng nhà mới

Có một anh làm nghề coi chợ, còn gọi là khán thị. Nhờ cái vị thế coi chợ, vợ chồng anh ta còn buôn bán thêm, kiếm được khá, chẳng bao lâu xây được căn nhà to, ngự sát chợ lại gần sông. Mặc dù anh ta chỉ biết lõm bõm dăm bảy chữ nho có tính thông dụng, nhưng trong tiệc liên hoan mừng nhà anh ta lại muốn chứng tỏ cho mọi người biết thân phận mình đã thay đổi, không còn thuộc hàng thứ dân cấp thấp như xưa nữa. Anh ta tìm đến Vườn Bùi xin cụ Nguyễn Khuyến thửa cho một cặp câu đối. Cụ Tam ngyên nhận lời, hẹn hôm sau đến lấy.

Anh ta về nhà khoe với vợ, bảo vợ chuẩn bị tiền tạ lễ cụ Tam nguyên. Chị vợ mù tịt chữ nho nên muốn xin một cặp câu đối chữ Nôm cho dễ hiểu. Sau một hồi tranh cãi không ngã ngũ, vợ chồng anh ta cùng kéo nhau đến gặp cụ Tam nguyên.

Nghe họ tranh nhau trình bày mấy câu, cụ Tam nguyên hiểu ra vấn đề, xua xua tay: “Thôi thôi, thửa câu đối cho nhà mới mà cứ cãi nhau như xát ốc thế này thì dông lắm, gở lắm! Để ta chiều cả hai, viết một bên nho, một bên nôm, được chưa nào?” Rồi cụ viết:

Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tỵ ốc
Giàu ở làng, sang ở nước, mừng ông nay đã vểnh râu tôm.

Do hai ý kiến khác nhau của hai vợ chồng mà đôi câu đối có một vế chữ Hán và một vế chữ Nôm, tạo thành nét độc đáo trong kho tàng câu đối Việt Nam.

Hai vế hòa hợp với nhau một cách suôn sẻ.  Vế trước ca ngợi thế phong thủy đẹp của ngôi nhà; vế sau ca ngợi địa vị mới của anh khán thị. Đúng là chữ Hán-Việt và chữ Nôm đối nhau chan chát y như hai vợ chồng đấu khẩu với nhau. Hai câu có ý đùa hóm hỉnh mà vẫn đối ý và đối chữ rất chỉnh: thị–làng, giang–nước, ốc–tôm.

Nhưng phải đến ba chữ cuối “giai tỵ ốc” đối với “vểnh râu tôm” thì toàn bộ cặp câu đối mới thăng hoa hết ý nghĩa: Cụ Tam nguyên khái quát trúng phóc cái khung cảnh nhà cửa, phong thái trưởng giả học làm sang của cặp vợ chồng mới giầu xổi!

Khả phong giai tỵ ốc xuất phát từ thành ngữ “Đường Ngu chi thời ốc khả phong”, ý nói đời Đường Ngu, trong nước có nhiều người hiền, nên nhiều nhà ở liền vách nhau được khen thưởng.

Cả câu có nghĩa: Thứ nhất gần chợ, thứ nhì gần sông, đất này xưa đã là nơi sầm uất, phong tục tốt đẹp. “Nhất cận thị, nhị cận giang” tuy là Hán văn nhưng vẫn là câu tục ngữ cửa miệng của dân gian, đối chỉnh với câu tục ngữ “Giàu ở làng, sang ở nước”.

Ghi thêm: có nguồn cho rằng Nguyễn Khuyến viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.

Mừng ông Tiên chỉ

Đám công danh có chí thời nên, ơn làng giấy trắng, ơn vua giấy vàng, chiếu trung đình ngất ngưỡng ngồi trên, ngôi tiên chỉ cũng rất là đáng

Nhờ phúc ấm sống lâu lên lão, anh cả bàn năm, anh hai bàn sáu, đoàn tiểu tử xênh xang múa trước, tranh tam đa ai khéo vẽ nên?

Tranh tam đa là bức tranh vẽ ba người: người đứng giữa là ông Phúc, tức là ông Quách Tử Nghi; người đứng bên trái là ông Thọ, tức là ông Đông Phương Sóc; người đứng bên phải là ông Lộc, tức là ông Đậu Vũ Quân.

Mừng cô Tư Hồng

Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, quê ở Phủ Lý (Hà Nam) lấy người Hoa Kiều là chú Hồng, một khách buôn giàu ở Hải Phòng, sau lấy người cố đạo phá giới là Croibier Huguet (có lẽ đóng quan tư thời Pháp thuộc) cho nên dân ta gọi ghép thị là cô Tư Hồng – cái tên gói ghém lịch sử hai đời chồng.

Cô Tư Hồng khéo biết lợi dụng thời cơ và nhan sắc làm nên giàu có, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Cô có hai “kỳ công” được người ta nhắc đến luôn, đó là việc bao thầu vụ phá thành Hà Nội để lấy gạch, và việc phát chẩn gạo cho đồng bào Thừa Thiên. Việc bao thầu đưa lại cho cô hàng mấy dãy nhà và nhiều biệt thự đồ sộ ở Hà Nội. Về vụ gạo, cô ta dược phép độc quyền bán gạo cho đồng bào bị lụt ở Thừa Thiên; lợi dụng dịp này cô ta đầu cơ rất ghê; nhưng khi việc vỡ lỡ thì lại xảo quyệt biến thành món gạo phát chẩn. Vì thế, Tư Hồng được triều đình Huế, vâng lệnh thực dân Pháp, phong cho hàm Tứ phẩm phu nhân, là hàm của hàng án sát tỉnh. Kế đó, Tư Hồng lại chạy cho bố cũng được phong luôn hàm Hàn lâm thị độc. Thế là có giàu lại có sang; Tư Hồng thừa dịp về làng khao vọng hết sức linh đình.

Bấy giờ, Nguyễn Khuyến cũng được mời đến dự, nhưng ông cáo bệnh không đi; cho người mang đến mừng ba chữ  “chi chi giã” để đề vào hoành phi, cùng hai câu đối nôm như sau:

Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng hăm sáu tỉnh (A)
Này biển, này cờ, này sắc phong cho cụ, chị em (B) được thế mấy lăm người!

(A) Hăm sáu tỉnh: số tỉnh toàn cõi Bắc Kỳ bấy giờ.

(B) Chị em: tiếng chỉ phụ nữ làm những nghề không được trọng vọng lúc bấy giờ như cô đào, gái làng chơi, vv… Đây là dụng ý mỉa mai của Yên Đổ. Thời nay, người ta gọi “chị em ta”.

Hôm ấy các quan khách đến dự đông lắm; nghe nói văn chương của Yên Đổ thì đều xúm lại xem, nhưng không ai hiểu ba chữ “Chi chi giã” là thế nào cả. Nghe đâu chỉ có ông Đốc học Hà Đông là Trần Tấn Bình tình cờ đọc lái lại ba chữ “chi chi giã” thành ra “cha cha đĩ”, nên hiểu được dụng ý của Nguyễn Khuyến. Tuy vậy ông ta chỉ cười thầm trong bụng chứ không tiện nói ra.

Còn đôi câu đối nôm thì mọi người đều khen hay, cho rằng ca tụng như thế đã là hết lời. Nhưng riêng ông Đốc học cũng lại chỉ cười thầm, vì ông biết Nguyễn Khuyến cũng đã dựa theo câu tục ngữ “Làm đĩ có tàn có tán, có hương án thờ vua” để chửi xỏ mụ Tư Hồng.

Rồi nhân thể ông Đốc học nảy hứng, cũng theo gót Nguyễn Khuyến mà mừng một đôi câu đối rằng:

Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn
Trăm năm danh tiếng của bà to.

Tương truyền hai câu này cũng được mọi người trầm trồ khen mãi; mà bố con Tư Hồng thấy nôm na dễ hiểu, ngắn gọn dễ nhớ, cũng thích lắm. Nhưng có một số người ngẫm nghĩ rồi cười phá lên: ông Đốc học đã chửi xỏ chẳng kém gì Nguyễn Khuyến.

Vì lẽ, “hàm” có nghĩa là chức tước, “của” có nghĩa là sản vật, đối với nhau chỉnh rồi, nhưng “hàm” còn có nghĩa là “miệng”, “của” tiếng Bắc còn có nghĩa là “chỗ ấy” của phụ nữ. Quai hàm của cụ mà đem đối với cái kia của bà thì thật là độc đáo và cũng rất đau cho cụ lớn!

Câu đối đùa

Phan Ngọc (2016) bình luận việc làm câu đối này như sau.

Yên Đỗ làm câu đối đùa một anh bạn bóp vú một cô gái rồi bị cô réo cha anh ta ra mà chửi:

Con cháu nâng niu đôi oản bụt
Cha ông lừng lẫy tám phương trời.

Phan Ngọc (2016) cho rằng dùng chữ “nâng niu đôi oản bụt” để long trọng hóa một hành động nghịch ngợm đã là hay, nhưng dùng chữ “cha ông lừng lẫy” thì thực là tuyệt.

Nhận xét: Trong thời hiện đại thì hành vi anh bạn của Yên Đổ là không thể chấp nhận được và do đó đôi câu đối trên trở nên lạc điệu. Sự kiện này được đưa ra để cho thấy chuyển biến về nhận thức trong xã hội: chuyện này không đùa được nữa!

Tặng Ông Bảng Long

Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi.

Câu đối tặng Ông Bảng Long, một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ, “hai mắt” đối với “một ngươi”.

Giễu nhà chùa

Một lần, Nguyễn Khuyến đi qua chùa Đọi (Hà Nam). Chùa này có một sư cụ miệng móm nói phều phào, và một chú tiểu nói ngọng.

Vốn biết sư là người kém đạo đức, tin vào bùa phép bậy bạ, Tam nguyên Yên Đổ làm đôi câu đối:

Phất phất phóng phong phan pháp phái phi phù phan phụng phật
Căn căn canh cổ kệ cao ca kì cứu cứu cùng kinh

Dịch:

Phất phơ cờ phướn bay trước gió, đạo pháp làm phép đột bùa, bùa thờ phật
Oang oang hòa giọng đọc kệ cổ, cất cao tiếng nghiền ngẫm kinh, ngẫm đến cùng.

Về ý, không ai dám chê câu đối ca tụng phật pháp không hay. Về âm, khi đọc lên không ai không bật cười vì cái phều phào, cái ngọng ngịu, nghíu ngô cứ ẩn, cứ hiện. Thật là tài tình!

“Khen” sinh phần của nghị viên

Thời Pháp Thuộc, ở tỉnh Thái Bình có một nhân vật là nghị viên Lại Văn Chung vốn xuất thân làm nghề lái lợn (buôn heo), nhờ luồn lọt mà trở nên giàu có và mua được chức nghị viên. Tuy còn khỏe mạnh nhưng ông ta đã lo xây “mộ gió” (tức sinh phần) trước để phòng xa.

Mộ vừa xây xong đã có ai đó viết vào đôi câu đối:

Rực rỡ mé đường Tây, kẻ lại người qua, ca tụng sinh phần quan lớn Lại
Vang lừng trong thôn Bắc, trên kính dưới rái, một lòng tôn trọng cụ trong dân.

Câu đối thâm thúy ở chỗ nói lái. “Quan lớn Lại” thành “quan lái lợn”, “cụ trong dân” là “rận trong cu”, “trên kính dưới rái” là trên kính dưới sợ, cũng còn ám chỉ bệnh sa đì của quan.

Đọc đôi câu đối, Nghị Lại đau như hoạn, vội cho xóa ngay kẻo thiên hạ biết. Khốn nỗi ai đọc qua là nhớ nên nó mới tồn tại đến ngày nay.

Tương truyền đôi câu đối này do nhân dân Thái Bình xin chữ của Tam Nguyên Yên Đổ.

Câu đối cho đền thờ Thánh Mẫu

Năm ấy xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định chuẩn bị khánh thành đền thờ Thánh Mẫu, có cử người đến xin chữ cụ Nguyễn Khuyến.

Vốn ghét bọn quan lại làng này về tội nhũng nhiễu dân, cụ viết (nên nhớ trong chữ Hán không có dấu chấm phẩy):

Mỹ nhân như ngọc hành vũ hành phong anh linh mặc trắc
Tế thế kỳ âm hộ dân hộ quốc thướng lai vô cùng

Dịch:

Người đẹp như ngọc, làm mưa làm gió, thiêng không lường hết
Âm đức cứu đời, giúp dân giúp nước, ơn lớn vô cùng.

Lời văn của đôi câu đối chữ Hán-Việt và tiếng Nôm nghe qua tưởng như nghiêm chỉnh, nếu như ta đọc theo lối ngắt câu ở từng bốn chữ một. Nhưng chỉ cần chuyển cách ngắt câu về sau chữ thứ năm của đầu mỗi vế đối, thì câu đối đó trở thành một câu đùa rất ác và rất thô thiển! Hóa ra có hai cụm từ đối nhau: “ngọc hành – âm hộ”, nếu đọc và liền mới thấy ý oái oăm của đôi câu đối này.

Tặng học trò cũ đi làm cho Tây

Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng quàng một nẻo
Thôi thế thì thôi cũng được! Phi đằng nọ tắc đằng kia.

Câu đối hạng hàng và câu đối hạng thừa

Tại vùng đồng chiêm trũng Bình Lục vào dịp áp tết, có một đám cưới diễn ra. Trong tiệc hỷ, người ta nhìn thấy một cặp câu đối hạng hàng như đã nêu trên treo hai bên cột nhà:

Oanh đề phượng ngữ nghinh xuân trướng
Nhạn vũ loan phi phất cẩm bình

Dịch:

Trướng xuân đón phượng kêu oanh hót
Bình phong lay nhạn múa loan bay.

Mọi người cứ ngẩng lên đọc đi đọc lại mãi, trầm trồ ngợi khen.

Ông khách mang câu đối nói rằng mình đặt 3 quan tiền lễ để xin chữ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, cụ nói rằng 3 quan thì chỉ được câu đối hạng hàng mà thôi, nếu muốn câu đối hạng thừa thì phải 5 quan mới đủ.

Mọi người nghe ông kia nói thế thì bình phẩm: “Câu đối hạng hàng mà cụ viết hay đến thế, nếu là hạng thửa thì phải là loại tuyệt bút!”

Thế là mấy ông có chút chữ nghĩa nảy ra ý tò mò, muốn thưởng thức câu đối hạng thừa của cụ Tam nguyên. Họ bảo nhau gom góp mỗi người một ít cho đủ năm quan, rồi cắt cử mấy ông kéo đến vườn Bùi xin chữ, kết quả họ được câu đối hạng thừa như sau:

Bình cẩm phất phi oanh vũ nhạn
Trướng xuân nghinh ngữ phượng đề oanh

Dịch:

Bình gấm phất phơ, oanh múa nhạn
Trướng xuân nghiêng ngửa, phượng đề oanh.

Về đến nơi, mọi người cứ đọc đi đọc lại mãi và lấy làm lạ rằng cụ Tam nguyên chỉ đảo lại chữ ở đôi câu đối hạng hàng mà cụ đã viết cho ông khách tặng đám cưới này, vậy thì làm sao gọi là câu đối hạng thừa được! Cuối cùng họ nghĩ mãi mới hiểu ra tài chơi chữ rất độc đáo của cụ Tam nguyên, đúng là cụ chỉ đảo chữ đôi câu đối hạng hàng thì chữ nghĩa nó biến hóa tài tình: chữ “múa” và chữ “đề”, nếu đọc giọng bè ra, nhất là những người ngà ngà men rượu, sẽ đọc thành “mó” và “đè”.

Mọi người vỡ nhẽ cùng cười ngặt nghẽo, riêng phía chủ nhà đám cũng như khách khứa đều nhận thấy câu đối này rất hợp với đám cưới, lại cũng hợp với không khí của mùa xuân, nó đúng là câu đối hạng thừa.

Ghi thêm: Có nguồn cho rằng Tú Xuất tức Nguyễn Đình Xuất (? – ?) là tác giả của đôi câu đối sau để mừng đôi trai gái mới thành hôn:

Bình gấm phất phơ, oanh chọc én
Trướng hoa nghiêng ngửa, phượng đè loan

Tức cảnh gần ngày Tết

Khi Nguyễn Khuyến cáo quan về dạy học ở một làng nọ, theo lệ cứ đến khoảng cuối tháng Chạp, vào dịp năm hết Tết đến là các phụ huynh học sinh lại tính sổ để trả nốt tiền cho thầy về quê ăn Tết.

Nguyễn Khuyến vốn là nhà thơ thích khôi hài, trước cảnh tượng các ông bố học trò lui tới nộp tiền cho thầy, liền tức cảnh hai vế đối Nôm như sau:

Hàng ngày mổ bụng con nhét chữ
Cuối năm bổ đầu bố lấy tiền.

Tức cảnh làng quê

Đem đỗ cống đút vào cống Đỗ
Lấy mồi câu ném xuống cầu Môi.

Viếng Bùi Văn Dị

Năm 1890, Bùi Văn Dị (1833-1895), tên tự là Bùi Ân Niên. được vua Thành Thái hạ chiếu, sắc tứ cờ biển mũ áo tiến sĩ cho ông, và lập thêm một bia tiến sĩ vào khoa Ất Sửu khắc tên ông, trên có ghi cả bài dụ, nay bia ấy còn ở nhà Giám kinh thành Huế.

Do đó, khi Bùi Văn Dị mất, Tam Nguyên Yên Đổ có câu đối viếng (dịch Nôm):

Bến cá bàn xưa, hoa đã rụng
Bảng rồng bia mới, đá chưa rêu.

Lãng Nhân (1964) có ý phê phán, cho rằng đôi câu đối này có ngôn từ giản dị nhưng ý tưởng thâm trầm: bao nhiêu năm phụng sự quốc gia, Bùi Văn Dị không lấy làm việc quan trọng đáng cho mình toại ý, mà đến già vẫn hậm hực về cái danh hiệu tiến sĩ. Mới biết cái nọc khoa cử khi xưa đã ăn vào cốt tủy của sĩ phu. Yên Đổ cố ý viếng hai chữ “bia mới” để tỏ rằng bia của mình là tranh thủ nơi trường ốc chứ không phải bia thỉnh cầu về sau. Ấy cái hơn kém chỉ là một mảnh bia ông nghè, chứ không ở sự nghiệp một đời!

Đinh Văn Niêm (2010) có ý bảo vệ cho Bùi Văn Dị, nhưng đưa ra những chi tiết thiếu nhất quán về việc thi cử của ông quan này:

  • Năm 1865, Bùi Ân Niên đỗ Phó bảng.
  • Năm 1890, ông dự thi Hội [sic], được ban đồng tiến sĩ. [Dự thi Đình mới có thể đỗ tiến sĩ.]
  • Vua Thành Thái đặc cách gia ân ban cho ông học vị Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân của khoa thi năm 1865.

Tặng trưởng tử họ Bùi

Trưởng tử họ Bùi đỗ Cử nhân năm 1897. Khoa ấy, ông đang để tang mẹ. Theo lệ, học trò có đại tang không được đi thi. Nhưng năm ấy kỳ thi hoãn lại 15 ngày, nên họ Bùi vừa hết tang, đỗ Cử nhân cuối bảng, thứ 80. Nhưng trong số tú tài có Nguyễn Hán Khả vì làm việc ở phủ thống sứ nên được đặc ân chấm đỗ, thành ra trường lại phải lấy thêm tổng cộng 2 cử nhân nữa. Ông Khả đứng thứ 81, rốt cuộc ông Bùi đáng lẽ cuối bảng lại được trên hai người.

Lúc họ Bùi về ăn mừng, Yên Đổ tặng đôi câu đối (dịch Nôm):

Nhà vua ý thương tài, trường thi hoãn lại năm ba bữa
Cô cử cười vỡ bụng, anh chàng đè được những bao người?

Viếng Bùi Viện

Làm việc chẳng ai làm, dọc đất ngang trời trơ chí lớn
Cũ người là bạn cũ, ôm đàn mở sách nhớ tình xưa.

Bùi Viện (1839-1878) nhận nhiệm vụ đi Mỹ nhằm tìm kiếm đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Khi đến Mỹ, ông gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876). Lúc này Pháp và Mỹ đang kình nhau trong chiến tranh ở Mexico nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo quốc thư nên hai bên không thể có một cam kết chính thức. Vì vậy, ông quay về Việt Nam.

Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện đi Mỹ một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Nắm trong tay quốc thư nhưng gặp lúc Mỹ–Pháp hết thù địch nên Tổng thống Ulysses Grant khước từ giúp Việt Nam đánh Pháp.

Hai chuyến đi Mỹ là công tác ngoại giao độc đáo của Bùi Viện tuy thất bại, có lẽ vì thế mà Nguyễn Khuyến viết “Làm việc chẳng ai làm”.

Mừng ông nghè

Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới
Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên
.

Khi mới đỗ cử nhân, tức là ông cống, Yên Đổ làm câu đối này mừng một ông tiến sĩ, tức ông nghè. Nghè cũng có nghĩa nhà ngói.

Nguyễn Hòe

Vào khoảng cuối đời Lê, có một môn sinh sắc sảo (không rõ lai lịch ra sao) đi thi hương. Quan chủ khảo năm ấy cũng tên là Hòe, vì thế khi xướng quyển người ta kiêng tên quan, phải đọc chệch là Nguyễn Huề. Nguyễn Hòe biết thừa nhưng cố tình không chịu vào. Người xướng quyển xướng đi xướng lại mấy lần, mọi người đã vào hết, riêng Hòe vẫn còn đeo ống quyển đứng yên.

Cuối cùng, người xướng quyển chõ loa vào Hòe mà hỏi tên. Hòe liền gào to: “Tôi là thằng Hòe”.

Người xướng vặn: “Sao gọi mãi không vào?”

Hòe đáp cứng cỏi: “Chỉ thấy gọi thằng Huề chứ có thấy gọi thằng Hòe đâu!”

Người xướng phải xướng to đúng tên Hòe, bấy giờ Hòe mới chịu vào.

Thấy thí sinh bé oắt mà ương ngạnh, quan chủ khảo sai giữ Hòe để hỏi vặn nghĩa lý văn chương. Hỏi đến đâu nhất nhất Hòe đều đối đáp trôi chảy đến đấy, quan liền ra một câu đối:

Lạn Tương Như, Tư Mã Tương Như, danh tương như, thực bất tương như
(Lạn Tương Như, Tư Mã Tương Như, tên như nhau, thực chẳng như nhau).

Lạn Tương Như là nhân vật nổi tiếng thời Chiến quốc, còn Tư Mã Tương Như là nhân vật nổi tiếng thời Hán. Người ra vế đối có ý lên giọng kẻ cả rằng hai đằng cùng tên Hòe, nhưng một đằng quan một đằng học trò, so bì với nhau sao được!

Hòe đối lại:

Ngụy Vô Kỵ, Trưởng Tôn Vô Kỵ, bỉ vô kỵ, ngã diệc vô kỵ
(Ngụy Vô Kỵ, Trưởng Tôn Vô Kỵ, ông không sợ, tôi cũng không sợ).

Ngụy Vô Kỵ là người thời Chiến quốc, còn Trưởng Tôn Vô Kỵ là người thời Đường. Chữ Tương Như trong vế đối vừa là tên người vừa có nghĩa là “như nhau”, được Nguyễn Hòe đối rất chọi với chữ Vô Kỵ vừa là tên người và vừa có nghĩa là “không sợ”.

Đôi câu đối được cho là tuyệt cú!

Quan chủ khảo thấy Hòe đối xấc xược, căm lắm nhưng phải phục tài.

Sau đó quan ra một câu đối khác có ý khuyên răn:

Xỉ tính cương, thiệt tính nhu, cương tính bật như nhu tính cửu

Hòe đối lại rằng:

Mi sinh tiền, tu sinh hậu, tiền sinh bất nhược hậu sinh trường

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Răng tính rắn, lưỡi tính mềm, tính rắn sao bằng tính mềm lâu
Mi sinh trước, râu sinh sau, sinh trước chẳng bằng sinh sau dài.

Vế đối ngụ ý quan tuy đẻ trước nhưng dại, thì sao bằng học trò đẻ sau mà khôn.

Ðến đây, quan chủ khảo biết Hòe là tay thông minh mà bướng bỉnh, không vặn vẹo gì nữa.

Lê Thị Miên

Lê Thị Miên (1836-1908), còn được gọi là Yến Phi, biệt biệu Hồng Y liệt nữ; là vợ ba của Cai Vàng. Quê bà ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Đối đáp với Tổng Thịnh

Nguyễn Văn Thịnh tức Cai tổng Vàng (còn được gọi là Cai Vàng), người xã Vân Sơn, huyện Phượng Nhỡn, Kinh Bắc (nay thuộc xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, Bắc Giang). Năm 1862 Cai Vàng khởi binh chống lại vua Tự Đức, thời đó trong nước lan truyền câu ca:

Trên trời có ông sao dài
Ở vùng Kinh Bắc có Cai tổng Vàng.

Một lần, Cai Vàng mở hội vật để tuyển người khoẻ mạnh sung vào nghĩa quân của mình. Có một đô vật nhỏ nhắn, khôi ngô tuấn tú, vật ngã nhiều đô vật sĩ nổi tiếng, sắp chiếm giải nhất, thì trong keo vật cuối mái tóc của “đô” này bị xổ tung, hiện nguyên hình là một giai nhân.

Cai Vàng đích thân thẩm vấn. Cô gái đô vật khai tên Lê Thị Miên, con một ông đồ. Cai Vàng nói cô là con thầy đồ ắt phải biết chữ, bèn ra vế thách:

Cô Miên ngủ một mình

Vì đêm trước cô bị nhốt một mình ở trong rừng sâu, nên Cai Vàng mới nghĩ ra vế này.

Hóc búa ở chỗ “cô” là gái chưa chồng, đồng nghĩa “một mình”; “miên” đồng nghĩa “ngủ”, thành ra từ Hán-Việt “cô miên” có nghĩa ngủ một mình. Tai quái thêm ở chỗ Miên lại chính là tên của cô gái này, nên Tổng Thịnh nghĩ chắc chắn cô gái không thể đối nổi.

Vế đối lại phải đạt các điều kiện:

a/ chữ thứ nhất đồng nghĩa chữ thứ 2+3
b/ chữ thứ 2 đồng nghĩa chữ thứ 3
c/ hai chữ đầu chỉ người cụ thể

Cô gái đối lại:

Tổng Thịnh tóm nhiều đứa

“Tổng” được cho là đồng nghĩa với tóm, “thịnh” được cho là đồng nghĩa với nhiều, nhưng “tổng = nhiều đứa” nghe vẻ khiên cưỡng, và không đạt điều kiện b/.

Một số vế đối khác:

Liên Hoa đội búp sen

Không chỉnh, tương tự vế đối lại trên.

Bá Tánh thương trăm họ

Không chỉnh: “Bá” là gượng ép để đồng nghĩa với “trăm họ”, lại không đạt điều kiện b/.

Hoàng mai mai nở vàng

Không chỉnh: không đạt điều kiện a/ và c/, đối âm tiết ở “mai mai” cũng không chỉnh, động từ “nở” không thể đối với “một”.

Bác Đấu xin không đánh

Không chỉnh: không đạt điều kiện a/ và b/.

Thách đối

Người ta kể rằng, vì cô Miên không chịu lấy chồng, nên có lần cô bị các nho sĩ làm thơ trêu ghẹo rằng:

Lạnh lùng thay, giấc cô Miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u.

Không chịu kém, cô Miên xướng trước một câu, thách ai đối được sẽ nhận người ấy làm chồng, nhưng rồi không một ai lên tiếng. Vế ra:

Chưa chồng chơi chốn chùa chiền, chanh chua chuối chát chính chuyên chờ chồng

Câu đối này phải chờ mãi đến cuối năm 2013 mới có Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại như sau:

Thủ thân thăm thất thiên thần, thi thông thư thạo thảo thuần thành thân.

Có vấn đề là câu thuần Hán đối với câu chủ yếu là tiếng Nôm.

Thật ra, nên xét vế ra là hai câu lục bát, thế thì vế đối cũng phải là hai câu lục bát.

Về sau, Cai tổng Vàng thu nạp cô Miên làm vợ ba, phong cho làm phó tướng.

Câu đối đề tại miếu thờ

Sau khi Tổng Thịnh chết, mùa xuân năm 1864, Bà Ba Cai Vàng trực tiếp cầm quân đánh vào Nải Sơn (Kiến Thụy, Hải Phòng). Sau 22 ngày chiến đấu liên tục, hao quân hao tướng mà không thắng được, thấy không còn đủ sức để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài được nữa, bà giải tán lực lượng…

Theo truyền thuyết, Bà Ba Cai Vàng mai danh ẩn tích ở chùa Dặn (Đình Bảng, Bắc Ninh). Cũng có người cho rằng, bà vào tu tại chùa Hương nơi thôn Tứ Kỳ (nay là thôn Đại Trạch, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), với pháp danh là Đàm Giác Linh. Tại chùa này, bà cho dựng miếu Âm Hồn để thờ chồng (Cai Vàng).

Sau khi bà mất, nhân dân lập miếu thờ, hai bên cửa miếu có đề đôi câu đối sau:

Tiểu cát phục nhung y, kỵ mã huy kỳ, danh trấn anh hùng nhân Kinh Bắc
Xuất gia quy thiền phái, chiêu kinh tịch kệ, giác chân đức độ Phật Như Lai

Dịch:

Thời trẻ mang giáp trụ, cỡi ngựa phất cờ, nức tiếng anh hùng miền Kinh Bắc
Xuất gia vào chùa thiền, tụng kinh đọc kệ, hiểu tường đức độ Phật Như Lai.

Tống Duy Tân

Tống Duy Tân (1837-1892) người làng Bồng Trung, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, năm 1875 đỗ tiến sĩ.

Lúc ông còn ở nhà dạy học có câu đối:

Cố bất như: sơn nhi bích, truyền nhi trì, vân thủy tiêu dao trần cảnh ngoại
Duy kỳ hữu: dữu khả phong, đình khả nguyệt, cúc tùng tự tại cố châu trung

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Không gì bằng: núi làm vách, suối làm ao, mây nước nhởn nhơ ngoài cõi thế
Chỉ riêng có: cửa sổ gió, sân trăng soi, cúc tùng thong thả chốn cố châu.

Tống Duy Tân hưởng ứng dụ Cần Vương, tham gia xây dựng chiến khu Ba Đình, làm thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) chống Pháp.

Ông bị Pháp bắt, rồi vì không chiêu hàng được ông, Công sứ Pháp ở Thanh Hóa Boulloche ra lệnh cho Tổng đốc Thanh Hóa là Nguyễn Thuật (vốn là bạn cũ của ông) xử tử ông.

Trước ngày mất, Tống Duy Tân làm đôi câu đối:

Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái
Tự cổ do truyền bất tử danh

Dịch:

Món nọ tiên sinh nay mới trả
Cái danh bất tử trước còn truyền

Sau khi Tống Duy Tân thọ án, nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa làm câu đối điếu, dịch Nôm:

Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả
Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!

Trần Bích San

Trần Bích San (1840-1877) đỗ Tam Nguyên dưới thời vua Tự Đức. Năm 1875, khi ông đang làm Tuần phủ Hà Nội, Linh mục Trần Lục (tên thật là Trần Hữu Triêm) mới được phong làm Khâm sai Tuyên Phủ Sứ từ Phát Diệm lên thăm.

Trong lúc trò truyện, muốn thử tài vị Tam nguyên, Linh mục Lục đưa ra một vế thách đối, giả vờ nói đã nghe được muốn đối nhưng khó quá, nhân dịp gặp nhà đại khoa nhờ đối giùm. Vế ra như sau:

Ba cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều cụ chẳng sợ ai

Vế ra rất khó vì có tới 3 chữ “cụ” với 3 nghĩa khác khau: (1) tiếng gọi linh mục ở miền Bắc, (2) có nghĩa sẵn sàng, (3) có nghĩa sợ hãi. Ý và lời tỏ ra vừa ngạo mạn, vừa đắc ý của người đang gặp thời.

Trần Bích San từ chối vì e rằng vế đối khiếm nhã.

Linh mục Lục cho rằng Trần Bích San không đối nổi nên càng nài ép, nại cớ đây là chuyện văn chương văn hành công khí, không có gì phải e ngại.

Trần Bích San lúc đó mới ứng khẩu đối lại:

Một đạo há hai đường, đạo trộm cắp đạo còn nói láo

Dùng chữ “đạo” đối với chữ “cụ” là tuyệt hay. Chữ “đạo” cũng có 3 nghĩa (1) tiếng cố đạo để gọi linh mục, (2) có nghĩa con đường, (3) có nghĩa trộm cắp. Ý và lời mỉa mai kẻ tu hành không giữ được đạo hạnh, xu thời theo thực dân Pháp không biết xấu hổ với đất nước mà còn lên mặt đắc chí.

Nguyễn Thân

Nguyễn Thân (1840-1914) quê gốc là làng Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi vua Hàm Nghi ban bố dụ Cần Vương, Nguyễn Thân tham gia Nghĩa hội Quảng Ngãi, nhưng phản lại Nghĩa hội để phục vụ vua Đồng Khánh. Năm 1895, Nguyễn Thân đem quân ra Hà Tĩnh lùng diệt cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Nhờ công lao này, Nguyễn Thân được cử làm phụ chính đại thần, và được phong tước Diên Lộc Quận công.

Tương truyền, có đoàn hát bội lợi dụng công việc diễn tuồng, làm đôi câu đối hát để đả kích Nguyễn Thân như sau:

Đội mũ mang râu làm mặt lạ
Vác siêu khuân giáo đánh người quen

Lúc Nguyễn Thân mất, Hoàng Cao Khải đi viếng đôi câu đối, dịch Nôm:

Non sông đền miếu, chung gánh bọn mình lo, mà sao một giấc bệnh dài, Thạch Trụ mơ màng mây khói rải

Chén rượu câu ca, chia tay người cũ khuất, nhớ lại mười năm chuyện trước, Hương Kiều lẳng lặng bóng trăng soi.

Câu đối nhắc đến chuyện hai người làm việc với nhau ở đất Thần Kinh (Hương Kiều), chuyện mâu thuẫn cách đây 10 năm, người mất kẻ còn, có bao điều muốn nói mà không nói được. Dư luận rất tán thưởng.

Người ta cho rằng câu đối còn chòi móc Nguyễn Thân. Thạch Trụ là cột đá nước nhà, nhưng cũng là tên làng của Nguyễn Thân. Mây khói (vân yên) là gián tiếp nhắc việc Nguyễn Thân hút thuốc phiện. Mấy chữ “không diếu diếu”, “thướng y y” hàm ý cả sự chê trách.

Dư luận cho rằng, với câu đối như vậy, Hoàng Cao Khải vẫn giấu một ý tình riêng (rằng Nguyễn Thân xử tệ với Phan Đình Phùng), ai sâu sắc thì mới hiểu ra. Sự thực có đúng như vậy không? Chỉ biết rằng với câu đối này, họ Hoàng giành được ít nhiều thiện cảm của những người vốn có nhiều thành kiến với ông.

Đỗ Hữu Phương

Đỗ Hữu Phương (1841-1914) sinh tại Chợ Đũi (Sài Gòn), gốc người Minh Hương, cộng tác với Pháp nên được Pháp tặng Bắc đẩu Bội tinh và phong Tổng đốc Danh dự, rồi nhập quốc tịch Pháp. Trước 1975, Chợ Lớn có một con đường lớn mang tên ông: Tổng đốc Phương, sau này đổi thành đường Châu Văn Liêm. Lý do một người cộng tác với Pháp có vinh dự này vì Phương được cho là người đã bảo lãnh để xin chính phủ Pháp ân xá cho Thủ Khoa Huân, cũng như đã góp tiền và làm hội trưởng quyên tiền để xây trường Collège de Jeunes Filles Indigènes tức Trường nữ Trung học Sài Gòn, sau này gọi là Trường Áo Tím, Gia Long, nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, và cũng góp tiền tu bổ nhiều chùa miếu quanh vùng.

Học giả Vương Hồng Sển kể, tương truyền vào một dịp đầu xuân, Phương đem dâng cho một quan chức Pháp quà Tết là một con dê. Quan hỏi: “Con gì? Ông cho tôi con gì đó?” Phương quýnh quá quên phứt, không nhớ rõ “bouc” hay “chèvre”, thôi thì tả hình dạng nó cũng được: “Lũy mêm xối xiên, dà na bắp, dà na cót”. Tiếng Pháp là: “Lui même chose chien, il y a barbe, il y a corne” có nghĩa: “Nó cùng loại như chó, có râu, có sừng”. Từ đó, câu kia để đời trở nên bất hủ, trong Nam thích nói với nhau thành ngữ “mêm xối xiên” để thế từ ngữ “giống nhau”.

Tương truyền trong một dịp Tết, ông Phương ra câu đối ca tụng nhà mình và treo giải thưởng nếu ai đối được như sau:

Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ, đỗ một nhà, ngũ phước tam đa

Ngay ngày hôm sau, có người gởi đến câu đối lại:

Cù lao Rồng có lũ thằng phung, phun một lũ: Cửu trùng bát nhã.

“Ngũ phước tam đa” trong vế ra có ý nói đến năm con trai đều thành đạt (trong đó có phi công Việt Nam đầu tiên, đại úy của không quân Pháp) và ba con gái đều được gả cho các gia đình danh giá (trong đó có người làm dâu Hoàng Cao Khải, cũng cộng tác với Pháp).

Còn trong câu đối lại, cù lao Rồng (cũng gọi cồn Tân Long) nằm trên sông Tiền ở Mỹ Tho thời đó là một bệnh viện phong (phung, cùi), và trong Nam “phung” và “phun” được phát âm giống nhau, nên được xem như đối chỉnh với “Đỗ” và “đỗ”. Nhà họ Đỗ được đối bằng lũ thằng phung thì quá đau! Bốn chữ cuối có nhiều ý nghĩa: để đối “cửu – ngũ”, “bát – tam”, cũng có ý “chơi trội” vì các con số cao hơn, cũng có ý khuyên răn vì trong khi Phương đưa ra những giá trị trần tục thì người đối lại nói đến chín tầng trời nơi cõi thiêng liêng và trí tuệ Phật, ngầm nhắc nhở những giá trị kia của Phương chỉ là vô thường.

Tục truyền, nhận được câu đối ấy, Phương đỏ mặt, sượng sùng. Tuy giận cành hông, nhưng chẳng biết làm gì để trả thù được, đành nén bụng làm thinh. Công việc mà Phương phải làm ngay sau đó là hủy câu đối đã dán trước nhà mình.

Nguyễn Thức Tự

Nguyễn Thức Tự (1841-1923) quê làng Đông Chữ, nay thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Năm 1873, Nguyễn Thức Tự làm Hậu bổ ở Hà Tĩnh, lần lượt làm tri huyện Hương Khê, Thạch Hà, tri phủ Đức Thọ. Năm 1880 giữ chức Chánh Sơn phòng sứ tỉnh Hà Tĩnh, vì vậy nhân dân gọi ông là Sơn. Năm 1884, ông xin về mở trường dạy học, gọi là trường Đông Khê.

Đức độ của Nguyễn Thức Tự được giới trí thức và nhân dân Nghệ An ghi nhận bằng đôi câu đối treo ở sinh từ của ông:

Lục thủy thanh sơn, vũ trụ thường lưu xuân sắc
Tả đồ, hữu sử, gia đình vĩnh đại thủ hương

Dịch:

Đây nước biếc, đó non xanh, xuân sắc lâu dài trong vũ trụ
Trái bản đồ, phải sử sách, gia đình bền vững nếp thi hương.

Câu đối của Vua Tự Đức

Đối nói lái

Vua Tự Đức cho một vế ra hóc búa:

Kia mấy cây mía

và vế đối lại cũng của vua Tự Đức là:

Có vài cái vò

Viếng Nguyễn Công Trứ

Tam triều chấn hữu thanh tả hữu nghi văn nghi võ
Mệnh tròn bát thập tử sinh danh tiếng danh thần.

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Tiếng tăm nổi ba triều(A), trái và phải cả tài văn tài võ(B)
Mệnh tròn tám chục, chết hoặc sống đều danh tiếng danh thần(C).

(A) Ba triều là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức
(B) Khi chầu vua, quan văn đứng bên bên trái còn quan võ đứng bên phải, riêng Nguyễn Công Trứ đứng bên nào cũng được vì văn võ toàn tài.
(C) Cả khi còn sống và khi qua đời, Nguyễn Công Trứ đều vang danh như nhau.

Câu than thở

Bấy giờ, thực dân Pháp càng ngày càng tham lam, hết đòi quyền lợi này, đến muốn chiếm đất khác. Triều đình nhu nhược, thiếu người tài, vua Tự Đức than:

Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu
Văn thần thoái lổ cánh vô thi

Dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Tướng võ giải sầu chỉ dùng rượu
Quan văn đuổi giặc chẳng ra thơ.

Lời than thở thật áo não: tướng võ có cung kiếm nhưng chỉ dùng rượu để giải sầu, còn quan văn biết thơ nhưng chẳng làm ra được thơ để đuổi giặc.

Hoàng Cao Khải

Hoàng Cao Khải (1850-1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái,  nhận tước quận công.

Hầu hết các sĩ phu đương thời đều coi khinh Hoàng Cao Khải dù Hoàng có tài văn học. Thái độ đó bắt nguồn từ tác phong kẻ sĩ Nho học, vốn bất hợp tác với Pháp.

Sĩ phu Hưng Yên có đôi câu đối, chửi khéo Hoàng Cao Khải:

Ông ra Bắc là may, quan Kinh lược, tước Quận Công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ!
Cụ về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài bảo hộ một lòng với nước có hai đâu!

Nghĩa thật thâm thúy:

  • “bốn bể không nhà” ý nói mất gốc;
  • “về Tây cũng tiếc” tức về cõi Tây phương cực lạc, nghĩa bóng nói Pháp tiếc vì mất đi tay sai đắc lực;
  • “một lòng với nước có hai đâu” ý nói có hai nước (nước Nam, nước Tây), ông trung với nước nào?

Giáo sư sử học Chương Thâu cho rằng Hoàng Cao Khải tuy cộng tác với Pháp nhưng vẫn có tinh thần dân tộc, qua hành động như ngầm giúp đỡ nghĩa quân chống Pháp.

Nguyễn Hiển Dĩnh

Nguyễn Hiển Dĩnh (1853-1926) sinh tại làng An Quán, tổng An Nhơn (nay thuộc xã Điện Phương, Điện Bàn, Quảng Nam), là nhà soạn tuồng, thầy dạy nghệ thuật tuồng nổi tiếng ở Quảng Nam. Ông viết và soạn lại trên 20 vở tuồng, nội dung phản ánh chân thực xã hội nông thôn Việt Nam thời thực dân phong kiến, lời văn bình dị, ít từ Hán Việt, sử dụng thuần thục tục ngữ ca dao, thể hiện rõ tài năng châm biếm xã hội của tác giả.

Thời kì làm Án sát tỉnh Quảng Trị, ông từng lập gánh hát. Chán ghét quan trường, Nguyễn Hiễn Dĩnh xin nghỉ hưu, về quê lập trường dạy nghề diễn tuồng đồng thời tổ chức biểu diễn và sáng tác.

Nguyễn Hiển Dĩnh thể hiện quan niệm của mình về nghệ thuật tuồng bằng câu đối như:

Thốn thổ thị triều đình, châu quận
Nhất thân đô phụ tử, quần thần

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Một tấc đất, là triều đình, châu quận
Một tấm thân, là cha con, vua tôi

Đôi câu hàm nghĩa nghệ thuật mang tính ước lệ. Sân khấu là khung cảnh nhỏ nhưng thể hiện cả triều đình bề thế, châu này hoặc quận kia rộng lớn. Chỉ một tấm thân nhưng diễn viên thể hiện lúc là cha hoặc con, lúc là vua chúa hoặc quần thần, với những tính tình và tố chất đa dạng.

Hoặc:

Dũng dượt dụng binh, bách chiến binh vô huyết nhẫn
Thung dung ẩm tửu, thiên bôi tửu bất túy nhân

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Hùng hổ ra quân, trăm trận binh không vấy máu
Ung dung nhắm rượu, nghìn chén người không say

Cũng miêu tả tính ước lệ như trên.

Nguyễn Duy Hàn

Nguyễn Duy Hàn (1856-1913) người làng Hành Thiện (huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Ở làng Động Trung (huyện Kiến Xương, Thái Bình) có nhiều người ủng hộ phong trào Cần Vương. Pháp và tay sai đàn áp họ một cách dã man, kể cả cày xới mồ mả tổ tiên của những người tham gia kháng chiến.

Năm 1905, Nguyễn Duy Hàn khi về nhậm chức tuần phủ Thái Bình, đi tới làng răn đe và ra một vế đối:

Dân Động Trung hiếu động, động hiếu vô trung

Ý nói, dân làng Động Trung thích làm loạn, động đến việc hiếu (bị đào mồ cuốc mả), như vậy là thiếu trung hiếu với bề trên.

Dân làng đối lại:

Quan Hành Thiện vi hành, hành vi bất thiện

Hành Thiện là tên làng quê của Nguyễn Duy Hàn.

Vế đối lại đả kích Hàn hành xử gian ác, bằng cách đảo ngữ (Hành Thiện vi hành và hành vi bất thiện); tương ứng với cách đảo ngữ của vế ra: (Động Trung hiếu động và động hiếu vô trung).

Ngày 12 tháng 4 năm 1913, Việt Nam Quang phục hội phục kích trên con đường chính của tỉnh lỵ Thái Bình. Khoảng 11 giờ 30 phút, xe kéo tuần phủ Nguyễn Duy Hàn chạy qua, ông Nguyễn Văn Tráng liệng tạc đạn và giết chết viên tuần phủ. Bảy người bị chính quyền Pháp bắt giữ rồi đưa ra trảm quyết, trong đó có hai anh em Phạm Hoàng Luân, Phạm Hoàng Triết.

Các nho sĩ đương thời có câu đối viếng như sau:

Anh em ruột thịt một hùng tâm, con Lạc cháu Hồng nêu nghĩa cả
Khí tiết sáng ngời hai chí sĩ, non Thường dòng Lỗ ngát hồn thơm.

Còn với với viên Tuần Phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn, các Nho gia cũng viết đôi câu đối phúng điếu như sau:

Hành Thiện bản lai vô ác báo
Thái Bình thùy thức hữu phong ba

Dịch:

Làm Thiện xưa nay không ác báo
Thái Bình sao lại nổi phong ba!

Tác giả câu đối chơi chữ rất khéo: Hành Thiện còn là quê và Thái Bình là nơi làm quan.

Nguyễn Văn Xiển

Nguyễn Văn Xiển sinh vào khoảng 1860, người làng Hoàng Bột, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, cùng quê với Trạng Quỳnh, sống bằng nghề làm thuốc. Ông thông minh hoạt bát, học giỏi, nhưng thi mãi không đỗ, thường có hành động, cử chỉ ngạo ngược, gây ra những giai thoại nhiều người biết. Người đời cho ông là “Ngộ chữ” (điên vì nhiều chữ quá) và gọi ông là Xiển Ngộ. Cái tên này trở nên phổ biến khắp vùng Thanh Hóa.

Xiển nổi tiếng trong dân gian vì những giai thoại cười dí dỏm, châm chiếm, đả kích những thói xấu của xã hội, quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu chuyện hài hước được truyền tụng cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo cao nhất là nhà vua.

Đối đáp với Tri phủ Hoằng Hóa

Gần Tết Nguyên Đán, Tri phủ Hoằng Hóa cùng vợ đi chợ Tết. Từ phủ ra chợ Bút Sơn rất gần, nhưng vốn tính hách dịch, quan phủ bắt lính cáng ra tận cổng chợ và mang theo hai cái lọng xanh che trên đầu.

Hồi này, Xiển Bột hãy còn nhỏ, song thấy cái oai rởm của quan thì ghét lắm. Xiển mang một con chó con đi chợ, cứ ôm ở trước bụng, lúc thì chen đi trước quan, lúc thì lùi lại đi sau quan.

Thấy Xiển Bột mang chó, ai cũng tưởng Xiển Bột mới mua, liền hỏi: “Chó bao nhiêu?”

Xiển trả lời: “Quan đấy!”

Quan phủ biết thằng bé ôm chó chửi xỏ mình, cho lính bắt lại hỏi: “Ai xui mày ăn nói như thế?”

Xiển đáp: “Bẩm quan, nhà con muốn nuôi một con chó con để dọn cứt cho em, nên bố mẹ con bảo con đi mua, giá của nó là 1 quan tiền.”

Quan hỏi: “Mày là con cái nhà ai?”

Xiển trả lời “Bẩm, con là chắt cụ Trạng Quỳnh ạ!”

Quan nói: “Đã là chắt cụ Trạng tất phải hay chữ, vậy ta ra vế đối, đối hay tao tha tội, dở tao đánh đòn”.

Quan đọc:

Roi thất phân đánh đít mẹ học trò

Xiển Bột liền đối:

Lọng bát bông che đầu cha quan lớn.

Không ngờ Xiển lại dám chửi mình một lần nữa, lấy đầu cha của quan đối với đít mẹ của trò thì đau quá!

Để chữa thẹn, quan lấy giọng bề trên mắng Xiển Bột qua loa một vài câu, rồi quát bảo lính hầu sửa soạn ra về.

Đối đáp với quan huyện Lê Kim Thằng

Một hôm, nhân có lệnh của bọn sai dịch bắt tất cả trẻ già trai gái làng Hoằng Bột phải ăn mặc chỉnh tề để đi đón quan huyện Lê Kim Thằng về làng hiểu dụ, Xiển Bột nghĩ ra ngay một kế.

Xiển lẻn vào buồng ông nội lấy trộm chiếc áo thụng đỏ mặc vào, rồi đi thẳng ra đình, giả vờ chạy đi chạy lại lăng xăng ngay trước mặt quan huyện.

Quan lấy làm lạ, cho lính gọi lại hỏi.

Xiển Bột xưng tên họ và nói mình là học trò. Huyện Thằng liền mượn ngay việc ăn mặc ngộ nghĩnh của Xiển ứng khẩu đọc một câu, bắt phải đối:

Áo đỏ quét cứt trâu

Xiển Bột đối ngay:

Lọng xanh che đít ngựa.

Huyện Thằng không ngờ bị một vố, tái mặt.

Đối đáp với viên quan huyện hay nịnh bợ

Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đỡ là Án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là Án Tiêu. Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng “tiêu””, ví dụ như hạt tiêu thì phải nói là hạt ớt v.v…, và hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội.

Lệnh ban ra khiến Xiển Bột rất ghét quan huyện. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan.

Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai.

Quan nổi trận thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám đem quần áo rách đến bán cho quan bao giờ!

Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói: “Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử…”

Quan buột miệng nói:

Quân tử cố cùng, quân tử cùng, quân tử cố
(Quân tử bền lòng lúc cùng quẫn, quân tử cùng quẫn, quân tử bền lòng)

Lấy ý trong Luận ngữ, Vệ Linh Công nói: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ” (Người quân tử lúc cùng vẫn giữ vững khí tiết, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng ắt làm bậy.)

Vế ra khó ở hai chữ “cố” nghĩa Nôm là cầm cố, và chữ “cùng” nghĩa Nôm là cùng quẫn. Từ Hán-Việt quá súc tích khiến cho việc dịch Nôm bó tay!

Xiển Bột trần tình:

Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm
(Khổng Minh bắt để tha, Khổng Minh tha, Khổng Minh bắt).

Lấy ý trong Tam quốc diễn nghĩa: Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần lại tha.

Tài tình ở chữ “cầm” lấy nghĩa Nôm là cầm cố như trên, và chữ “túng” nghĩa Nôm là túng tiền, vừa đối chữ vừa đối Nôm.

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình với lời trần tình của Xiển đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt: Mình mắng nó cùng quẫn, nó xin tha!

Quan phục tài Xiển Bột, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả.

Xiển Bột đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói: “Bẩm quan, tiền này không ‘ớt’ được ạ!”

Quan vô tình mắng: “Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?”

Chỉ chờ có thế, Xiển Bột liền vả cho quan ba cái tát vào mồm như trời giáng.

Quan hô lính bắt trói thì Xiển Bột nói: “Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi không dám nói ra chữ kia nên mới nói ‘ớt’. Bây giờ tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!”

Quan sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.

Chu Mạnh Trinh

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 25 tuổi đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm 1885,  và đỗ Tiến sĩ khoa thi Hội năm 1892. Chu Mạnh Trinh được bổ làm Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công minh chính trực.

Vào một kỳ thi Hương ở Nam Định, có một nho sinh dung mạo khôi ngô từ tỉnh xa đến dự thi, vào trọ trong quán của một cô hàng xinh xắn. Đôi trai gái cảm mến nhau ngay, rồi chẳng mấy chốc trở thành đôi tình nhân khắng khít.

Đến khi trường thi xướng danh và treo bảng, cô hàng quán không thấy tên chàng nho sinh kia, và cũng không thấy anh trở lại. Có lẽ xấu hổ vì thi trượt mà anh không muốn gặp lại cô chăng?

Khổ nỗi, nàng đã trót ba năm dại một giờ: bụng nàng ngày càng to trong khi không được tin tức gì về người cha của bào thai, và nàng đã không hỏi quê quán chàng ở phương nao.

Nàng đành chờ đợi ba năm, đến kỳ thi kế tiếp. Quán nàng vẫn ở chỗ cũ, nàng tha thiết trông đợi chàng từng ngày…

Đến ngày xướng danh, nàng bồng con len lỏi vào đám đông dân chúng và sĩ tử. Và rồi, nàng nghe xướng tên của người yêu làm cho nàng sung sướng ngất ngây. Nhưng khi ban giám khảo mời các tân khoa lên nhận áo mão, thì người  yêu vắng mặt. Đến khi bảng vàng được treo lên, nàng mới biết quê quán của anh ở tỉnh Hà Nam, gần động Hương Tích.

Chiều hôm đó, nàng bồng con về tỉnh lỵ, hỏi dò la tin tức, thì được biết chàng đang có tang mẹ, và tang lễ sẽ được cử hành nay mai. Nàng còn được nghe kể rằng khi chàng vừa thi xong thì được tin mẹ mất, nên phải vội vàng trở về quê, không thể nán lại chờ kết quả kỳ thi.

Nàng bèn nhờ một quan chức quen biết, tùng sự tại tỉnh đường Hà Nam, giới thiệu nàng với quan Án sát Chu Mạnh Trinh, để xin quan làm giúp nàng đôi câu đối điếu. Sau khi nghe nàng giải bày tự sự, quan Án sát họ Chu thông cảm ngay, và tự tay viết cho nàng đôi câu đối trên một bức vải nàng mang theo sẵn.

Trong lễ tang mẹ tân khoa, bỗng người nhà ông Cử đến gọi ông Cử ra một nơi riêng, trao cho ông một gói giấy dài cuộn tròn có buộc dây cẩn thận, và nói khẽ: “Có một phụ nữ trông trẻ và đẹp lắm, tay bồng con, nước mắt ràn rụa, hiện đang đứng ngoài cổng, nhờ tôi đưa cho ông đôi câu đối điếu. Tôi mời vào nhà, thì người ấy bảo đợi ông nhận và xem đôi câu đối điếu trước đã.”

Ông Cử mở đôi câu đối điếu ra đọc, rồi bàng hoàng, tức tốc chạy ra cổng…

Hôm sau, hôn lễ của ông Cử được cử hành cùng một lúc với tang lễ mẹ.

Câu đối của người phụ nữ kia, hôm qua còn bồng con rụt rè đứng khóc thút thít ngoài cổng, hôm nay là bà Cử tân khoa, là như sau (dịch Nôm):

Thân này thôi biết nói sao! Ngậm ngùi thay! Nuôi được con ai, không phụng dưỡng được mẹ ai. Nông nỗi này, trông hão trên sông vầng nguyệt nhạt!

Một phút mà thành mộng ảo! Đau đớn bấy! Chiều được tình ấy, không đền đáp được hiếu ấy. Ngao ngán nhẽ, khóc thầm trước cửa bóng sao rơi!

Chu Mạnh Trinh quả đã hiểu thấu nỗi lòng của bà mẹ trẻ nên mới viết nên đôi câu đối thắm thiết nghĩa tình như thế: nuôi được đứa con chàng nhưng không có cơ hội phụng dưỡng mẹ chàng; chiều được chàng nhưng không thể đền đáp chữ hiếu thay cho chàng. Chỉ tỏ lộ tình cảm nhưng không có ý gì van xin, vẫn còn lòng tự trọng.

Sương Nguyệt Anh

Suong Nguyet Anh
Sương Nguyệt Anh

Sương Nguyệt Anh (1864-1921) có tên thật là Nguyễn Thị Khuê (theo “Nguyễn chi thế phổ”), tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc Khuê. Bà sinh tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, được xem là nữ sĩ tài danh bậc nhất xứ Nam Bộ. Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20, và qua đó Sương Nguyệt Anh là nữ chủ bút đầu tiên của làng báo Việt Nam.

Bà kết duyên với một phó tổng góa vợ tên Nguyễn Công Tính, sinh được một gái. Năm con gái được 2 tuổi thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ “sương”, thành “Sương Nguyệt Anh”, có nghĩa là “Nguyệt Anh góa chồng”.

Một hôm, có ông cử Phạm Đình Chi, người Mỹ Tho đến chơi, hậu ý chọc ghẹo, đề nghị bà ra câu đối. Không thể từ chối được, bà đọc:

Ðình làng tôi không dám phạm, thưa ông tôi phạm đình chi?

Câu nầy giải theo lối văn xuôi là, tôi không dám phạm đến cái đình của làng, vậy thì thưa ông, tôi phạm cái đình gì đây? Tưởng là dễ, nhưng cái lắt léo của người ra đối này ở chỗ, đưa vào họ của ông Cử Phạm Đình Chi rồi bê thêm nguyên xi họ tên của ông gọn lỏn ở trong đó. Cắc cớ đến thế, oái oăm đến thế là cùng, làm sao ông Cử đưa vào các chữ “Nguyễn – Nguyễn Thị Khuê” mà đối lại cho được! Thua. Đành rút êm.

Vũ Phạm Hàm

Vũ Phạm Hàm (1864-1906) là Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn, lúc ông 29 tuổi. Trong lịch sử Việt Nam chỉ có vài Tam nguyên là Đệ nhất giáp, gồm có Phạm Đôn Lễ, Vũ Dương, Lê Quý Đôn (triều Lê) và ông. Tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng chữ Hán, song cũng có nhiều tập văn thơ phú viết bằng chữ Nôm.

Ông có đôi câu đối hào hùng khí phách đề trước cửa đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở Hải Dương:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

Câu đối quá súc tích, được hiểu như sau:

Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi gươm kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh

Thế nhưng, trong hơn nửa thế kỷ, kéo dài cho đến tận hôm nay, chữ “thu thanh” trong vế đối thứ hai vẫn là nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh cãi chưa có hồi kết. Nguyễn Hồng Lam (2012) kể ra một số ý kiến.

Ý kiến hoài nghi về “thu thanh” là như sau:

  • Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đề nghị đổi “thu thanh” thành “trang thanh” (tiếng đóng cọc, dư âm trận chiến đóng cọc gỗ tiêu diệt quân Nguyên-Mông), nhằm đối chỉnh hơn với “kiếm khí”.
  • Nguyễn Quảng Tuân đề nghị đổi “thu thanh” bằng “thung thanh”, có nghĩa là âm vang cây cọc. Ông cho rằng đôi câu đối, khi được khắc lên cổng đền đã bị ghi nhầm chữ “thung” ra chữ “thu”. Ngược lại, “kiếm – thung” là hai vật cụ thể thì đối chỉnh hơn là “kiếm – thu”.
  • Hoàng Hữu Xứng đề nghị đục bỏ đôi câu đối trên cổng đền Kiếp Bạc, nhằm tránh sai lầm đáng tiếc. Ông đoán thợ đắp chữ lên cổng đền có thể đã nghe sai. Chữ dùng đúng chỉ là một trong hai: “thung thanh”, hoặc “trang thanh”, đều hàm nghĩa âm vang cọc gỗ. Do gần giống về mặt âm, có thể người thợ đã nghe nhầm nên đắp chữ “trang” hoặc chữ “thung” thành chữ “thu”, vừa không chỉnh đối, vừa rất… lạc nghĩa.
  • Giản Chi cho rằng nếu là “thu thanh” thì sông nào chẳng có “tiếng thu” khi gặp gió lớn sóng to. Nếu là “thung thanh” thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi.
  • An Chi ủng hộ ý kiến chọn chữ “trang” hoặc “thung” thay cho “thu”.

Ý kiến ủng hộ “thu thanh” là như sau:

  • Nguyễn Minh Tường cho rằng nếu dùng “thung thanh” thay cho “thu thanh” thì đó không còn là chữ nghĩa của bậc đại khoa như cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm nữa.
  • Nguyễn Khắc Bảo, trong Thông báo Hán Nôm năm 1998, cho rằng trong “thu thanh”, “thu” là mùa thu, với nghĩa hàm súc chỉ chiến tranh và đau thương tang tóc. Theo nghĩa này, “thu thanh” có thể hiểu là tiếng đau thương, tang tóc, hoặc “tiếng binh đao” đối với “hơi gươm kiếm” ở vế trên, khá chuẩn cả về chữ lẫn nghĩa.
  • Tạ Ngọc cho rằng “thu thanh” tức tiếng thu là tiếng gió tây làm rụng lá vàng, ý nghĩa thể hiện ghi ở bài phú nổi tiếng: Thu thanh phú (Phú tiếng thu) của Âu Dương Tu đời Tống.
  • Nói chung, lập luận cho rằng người thợ nghe nhầm là không có khả năng xảy ra. Người thợ không nhất thiết phải biết chữ. Họ không cần biết mình đang khắc, đắp chữ theo ý gì. Mặt khác, công trình quan trọng như việc đắp chữ ở ngôi đền có ý nghĩa trang nghiêm như thế này hẳn phải được kiểm tra để phát hiện và sửa chữa sai sót; không lý gì sai sót tồn tại hơn 100 năm. Như vậy, nếu “thu thanh” đã tồn tại trên đôi câu đối trước đền Kiếp Bạc và trước án thờ đền Trần Hưng Đạo ở Tp Hồ Chí Minh, thì đích thực đó là chữ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm với đầy đủ sự chính xác của nó.

Theo ý nghĩa đó thì có thể dịch hai câu đối như sau:

Vạn Kiếp mọi núi tỏa hơi gươm kiếm
Lục Đầu cả dòng vọng tiếng binh đao
.

Lục Đầu là đoạn sông do sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy, sông Thái Bình gặp nhau tạo thành, vì thế “cả dòng” là có ý nói dòng nào cũng đều vọng tiếng binh đao.

Trần Cao Vân

Trần Cao Vân có tên thật là Trần Công Thọ (1866-1916), là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung kỳ, do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng. Ông sinh tại làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông lãnh đạo khởi nghĩa cùng vua Duy Tân và Thái Phiên năm 1916 và có thời gian hoạt động tại Phú Yên.

Tương truyền, năm 13 tuổi, Trần Cao Vân theo học một trường trong làng. Thầy đồ dạy học rất cần mẫn, tối nào cũng dạy thêm cho các trò tập đặt đối làm bài. Một hôm, nhằm giữa bữa sáng trăng các trò đều đến đông đủ. Lúc vào học, ngay ở giữa trường có một cái đèn treo. Nhân đấy thầy đồ ra câu đối như sau:

Đèn treo giọi sáng bốn phương nhà

Trong đám học trò, Cao Vân bấy giờ là nhỏ tuổi nhất, lanh trí đứng lên đối lại rằng:

Trăng tỏ chiếu soi muôn cụm núi

Thầy đồ khen câu đối ấy là xuất sắc; tuy lời lẽ giản dị không có gì, nhưng là câu ứng khẩu tự nhiên mà lại bao hàm một ý chí to lớn ở bên trong.

Lần khác, Cao Vân đến nghe giảng sách ở nhà một ông cử nọ. Buổi giảng vừa xong, có người láng giềng đem biếu bà cử một mớ hành hương để làm giống.

Sau khi người láng giềng về rồi, bà cử bảo: “Hành này còn non mà đã tàn sớm thế này e giống không mạnh”. Giọng miền Nam Trung bộ phát âm “tàn” ra “tàng”, âm “không” ra “khổng”.

Ông cử nghe câu nói của vợ, thấy có ngụ ý vô tình mà độc đáo, bèn lấy đấy để ra vế đối cho học trò:

Hành tàng giống Khổng Mạnh

Nghĩa: Kẻ sĩ phải làm theo lời Khổng Tử, Mạnh Tử dạy, lúc hành động (hành) lúc ẩn mình (tàng) tùy theo thời thế.

Trong lúc học trò còn đang suy nghĩ, Trần Cao Vân ứng khẩu đối ngay:

Cải hóa con càn khôn

Nghĩa: Làm người trong trời đất phải được rèn luyện để ngày càng tiến bộ. Nghĩa thứ hai: rau cải càng để già chừng nào thì sau khi gieo, cây con mọc càng khoẻ. (Giọng miền Nam Trung bộ, âm “càn” đọc giống như “càng”).

Mọi người đều chịu phục vế đối này: không những đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về nghệ thuật đối với vế ra, mà nó còn bao hàm một tinh thần tích cực hơn hẳn tinh thần thụ động của vế ra.

Lúc Trần Cao Vân ở Côn Đảo về được vài năm, nghe tiếng Vua Duy Tân có khí tiết, ông tìm cách liên lạc để tuyên truyền. Lúc đầu, Trần Cao Vân liên lạc với một viên đội thị vệ là Nguyễn Quang Siêu, nhờ đó mà ông biết được Vua Duy Tân thường ra chơi hồ Tĩnh Tâm. Trần Cao Vân bèn giả dạng một người câu ếch, lân la đến gần, và đọc những vần thơ cảm khái, thiết tha để khích động lòng yêu nước của Nhà Vua. Ban đầu, vua tôi đàm luận với nhau về thơ văn, rồi dần dần bàn đến thời thế, đến khả năng một cuộc khởi nghĩa chống Pháp cứu nước. Trần Cao Vân muốn nhờ Vua dò xem ý tứ của Nguyễn Hữu Bài, là viên quan thượng thư có thế lực lúc bấy giờ.

Muốn công việc khỏi bị bại lộ, Trần Cao Vân đọc cho vua một vế đối giả là lời Vua để thử Bài:

Ngồi trên nước khôn toan việc nước, trót buông câu sở dĩ phải lần

Vua y lời, mời Nguyễn Hữu Bài vào cung thăm hỏi, rồi đọc vế xuất mà vua nói là chưa nghĩ ra được vế đối lại và đề nghị Bài nghĩ giúp.

Nguyễn Hữu Bài đối lại:

Ngẫm sự đời mà ngán cho đời, liều nhắm mắt tới đâu hay đó

Trần Cao Vân nghe Vua truyền lại vế đối của Nguyễn Hữu Bài, biết là không thể trông mong gì về phía ông ta được.

Phan Bội Châu

phan boi chau
Phan Bội Châu

Phan Bội Châu (1867-1940) có tên thật là Phan Văn San, bút hiệu là Sào Nam nên nhiều người gọi ông là Phan Sào Nam. Ông sinh tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đỗ đầu xứ tỉnh Nghệ, thi hương mấy khoa đều hỏng, mãi đến năm 34 tuổi (1900) mới đỗ giải nguyên; liền sau đó, ông quay sang hoạt động chính trị.  Ông là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông thành lập phong trào Duy Tân hội và khởi xướng phong trào Đông Du.

Đối đáp khi còn nhỏ

Lúc Phan mới 4-5 tuổi, có lần, ông Đồ Phổ (thân sinh Phan Bội Châu) sang làng bên dạy học, cõng con cho đi theo chơi, đến một giòng suối cạn phải đi qua. Cùng lúc ấy có hai chị em dáng con nhà khá giả ra suối gánh nước.

Biết cụ đồ Phổ hay chữ, chị em nhà nọ trêu: Anh đồ, đối được thì qua, không đối được thì đừng qua:

Cha áo thâm, con áo thâm, phụ tử hữu tình thâm chi nghĩa

Áo thâm là áo nhà nho thường mặc; “phụ tử hữu tình thâm chi nghĩa” là tình nghĩa cha con sâu nặng. Câu đối hiểm hóc vì vừa nôm vừa Hán.

Ngồi trên lưng cha, Phan Bội Châu đáp ngay:

Chị trằm bạc, em trằm bạc, tỷ muội vô phận bạc chi duyên.

Trằm bạc là đôi bông tai làm bằng bạc con nhà khá giả thường đeo; “tỷ muội vô phận bạc chi duyên” nghĩa là chị em phận tình duyên không bạc. Vế ra vừa hay vừa hợp ngữ cảnh, vế đối lại vừa chỉnh vừa sắc sảo.

Hai đôi chữ đối “bạc tức màu sáng – thâm tức màu tối”, đồng âm với “bạc tức nhạt nhẽo – thâm tức nồng thắm” quả là thần sầu. Từ đó cho ta suy nghĩ: đứa bé mới 4-5 tuổi, chưa đi học mà đối được như thế thì có đáng tin không? Dù sao, đó chỉ là giai thoại.

Tương truyền, khoảng 8, 9 tuổi Phan Bội Châu đã làm được những bài văn ngắn và thường dự những cuộc thi ở phủ, huyện. Năm lên 6, nhân có đĩa bắp (ngô) bưng lên mời khách, khách ra câu đối:

Ta ăn ngô
(ngô là bắp ngô, cũng có nghĩa là ta)

Cậu bé đối liền:

Họ hái thị.
(thị là quả thị, cũng có nghĩa là họ).

Ông khách lại xuất:

Thắng đái ngựa

Phan Bội Châu đối:

Bại cứt trâu.

“Thắng đái”: sợi dây dùng buộc ngang bụng ngựa; “bại cứt”: bãi cứt (phương ngữ Miền Trung), “bại” mới đối được với “thắng” chứ “bãi” thì gượng ép để đối chỉnh.

Năm 10 tuổi, Phan Bội Châu theo cha đi mừng thọ một cụ 80 tuổi. Cậu San thay cha làm đôi câu đối mừng như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Núi Hồng Lĩnh, dòng sông Lam, từ xưa cùng nổi tiếng
Văn đứng đầu, võ lừng lẫy, đến nay thọ tám mươi.

Viếng nhạc đường

Năm 1900, nhân một người làng có bố vợ mất, Phan Bội Châu cũng rất thương xót. Vì nhà đó không có con trai chống gậy, con rể phải gánh trọng trách đó, ông làm giúp cho người này đôi câu đối điếu nhạc đường như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Con gái coi như không, lẽ trời há không đau xót
Con rể tuy là nửa, lòng người ai nửa sầu thương.

Câu đối về thi cử

Vì đời còn ham chuộng danh vọng ở học vị, nên cũng như nhiều nho sĩ khác, Phan Bội Châu phải thi cử, để có cái danh làm mọi người nể trọng, nhưng khi còn đi học, ông vẫn thường đọc (dịch Nôm):

Khuya sớm những mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.

Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) Phan Bội Châu đã lọt vào trường nhì. Bạn ông là Trần Văn Lương cho vào tráp mấy cuốn sách nhưng ông không hề biết, nên ông bị khép tội mang văn tự trong áo, bị cấm dự thi suốt đời. Do mến tài ông nên các quan xin vua Thành Thái xóa án oan. Nhờ vậy, ngay khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đỗ đầu (Giải nguyên). Tên ông lại được chánh chủ khảo cho yết riêng một bảng do làm bài thi xuất sắc.

Tổng đốc An Tĩnh là Đào Tấn không tiếc lời khen Phan Bội Châu qua đôi câu đối (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Hai năm, ba giải đầu: thiên hạ có
Một tên, một bảng riêng: thế gian không.

Sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu tự bộc bạch ý mình qua đôi câu đối “Tự hạ “ (Tự mừng mình) như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Không như ý thường tám chín việc, ngoài rèm căm tức gió Tây
Thổi sáo lẫn trong ba trăm người, trước cửa thẹn thùng Nam Quách.

Đôi câu đối không chỉnh lắm nhưng tỏ rõ chí khí. Phan Bội Châu dùng chữ “Tây phong” trong câu đối là ám chỉ sự căm tức đối với thực dân Pháp. Ông lại lấy tích Nam Quách để ám chỉ những kẻ “theo đóm ăn tàn”! Đó là theo tích Tề Tuyên Vương thích nghe thổi sáo, thường bắt 300 người cùng thổi một lúc. Nam Quách không biết thổi sáo, nhưng lẩn vào 300 người để kiếm lợi lộc. Sau Tuyên Vương mất, Tễ Mẫn Vương kế vị, cũng thích nghe thổi sáo, nhưng chỉ thích nghe riêng từng người thổi. Nam Quách thấy thế hoảng sợ, vội lẩn trốn ngay. Đây cũng như một lời nhắc nhở các Nho sĩ chớ học theo Nam Quách, chỉ là kẻ bất tài, ham địa vị, theo đóm ăn tàn.

Cùng đỗ Cử nhân năm 1900 với Giải nguyên Phan Bội Châu có Nguyễn Thức Điểm, con trai thứ ba của thầy dạy Phan Bội Châu Sơn phòng sứ Nguyễn Thức Tự. Vì Phan là học trò yêu, xuất sắc nhất nên thầy Sơn đã tin chắc San sẽ đỗ Cử nhân. Khi được tin, ông thầy liền làm đôi câu đối mừng Phan Bội Châu và con trai đỗ Cử nhân như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Bảng vàng không duyên may, hương giải ba năm chờ tin mãi
Đường mây như hẹn sẵn, nhà ta một trẻ đỗ khoa này.

Tự vãn

Đến khi xảy ra cảnh nước mất, nhà tan, nỗi niềm của Phan Bội Châu được phản ánh rõ nét qua câu đối “Tự vãn” (dịch Nôm):

Trời thế ư? Vua thế ư? Chết cũng bằng không, chỉ tiếc trong lòng chôn đầy pho Khổng, Mạnh
Nước dường ấy, dân dường ấy, sống sao khỏi thẹn, được ra ngoài cõi nằm khểnh học Hi, Hoàng
.

       Hi, Hoàng: Phục Hi và Hoàng đế.

Tặng Chùa Từ Đàm, Huế

Nghiệp duyên như bèo hợp, năm năm tóc bạc đầu, trước mặt là không, sao nở đem tuổi xuân quăng theo dòng nước biếc

Thế sự rối bàn cờ, nơi nơi kê vàng mộng (A), quay đầu là bến, nguyện dịch kinh bối diệp tỏa ngát hương ưu đàm (B)

(A) Theo sách Thẩm trung ký đời Đường, Lư Sinh thi trượt, trên đường về ghé qua quán trọ ở Hàm Đan, thấy chủ quán đang nấu một nồi kê vàng, gặp một đạo sĩ cho mượn một chiếc gối để ngủ. Trên gối ấy, Lư Sinh mơ thấy mình thi đỗ, làm quan đến tể tướng, hưởng giàu sang trên mười năm rồi cuộc đời suy sụp. Khi tỉnh dậy nồi kê của chủ quán nấu vẫn chưa chín. Sau này, câu chuyện được gọi là “giấc mộng hoàng lương” hoặc “giấc mộng kê vàng”, mang tư tưởng hư vô của đạo gia và triết lý vô thường của đạo Phật: những vinh hoa phú quý trong đời đều vô nghĩa.

(B) Hoa ưu đàm, theo kinh Phật, là loài hoa được cho là 3.000 năm mới nở một lần, hình dạng bông hoa to tròn như mặt trăng đầy, từ xa thấy đóa hoa trắng giống như có hàng ngàn đống tuyết cuộn lại, người nhìn thấy sẽ nhận được phúc đức.

Mừng Đoàn Tử Quang

Cũng trong khoa thi Hương năm 1900 có ông Đoàn Tử Quang đỗ Cử nhân ở tuổi 82. Phan Bội Châu làm câu đối như sau (Ninh Viết Giao dịch Nôm):

Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm

Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân.

Câu đối viếng của Mai Lão Bạng

Khi cụ Phan mất, Mai Lão Bạng có đôi câu đối điếu (dịch Nôm):

Đầu bạc đã chia phôi, hai chục thu xưa, hồ hải ghi dấu thâm giao, tôi thẹn không cùng được chết
Lòng son còn chưa lạt, hai mươi thế kỷ, non sông sắp thay màu sắc, ông sao không cố vài năm
.

Mai Lão Bạng (1866-1942) là tu sĩ Công giáo, tham gia phong trào Duy Tân và Đông Du của Phan Bội Châu.

Câu đối viếng của Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng có câu đối viếng Phan Bội Châu (1867-1940) như sau (dịch Nôm):

Hồng bay sang bắc, gây làn Đông học năm xưa, để thế giới biết ta có người, cho hay nước được vẻ vang vì bác
Chim đậu cành nam, về tới Tây Hồ bạn cũ, vì đồng bào cất to tiếng khóc, rằng sao trời không để sót hai già.

Câu đối không chỉnh lắm, chủ yếu là để tỏ lòng tiếc thương sâu sắc.

Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh, còn được gọi Phan Chu Trinh (1872–1926), người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.

phan chu trinh
Phan Châu Trinh

Sau khi Phan Châu Trinh qua đời, lễ tưởng niệm ông được tổ chức một cách trang trọng. Nhiều bài thơ, câu đối viếng cụ Phan được truyền tụng tại lễ tưởng niệm.

Câu đối ghi “Đồng bào dân chúng đồng bái vọng”:

Ngán nỗi trời đất chẳng thương người chí sĩ, hết lòng bênh vực quyền dân, cho non nước mở mang mày mặt

Than ôi giang sơn còn thiếu mặt anh hùng, lấy ai lo toan việc nước, để đàn con luống những đau lòng.

Câu đối viếng của nhà doanh nghiệp Bạch Thái Bưởi:

Bốn nghìn năm nước cũ, đương cuộc đổi thay, cờ thực nghiệp, trống tân dân, may mắn sao, một gánh giang sơn, rết có nhiều chân mừng cũng đã

Sáu mươi tuổi thân già, bao phen hiểm trở, chí Ngu Công, hồn Tinh Vệ, đau đớn nhẽ, nửa đêm mưa gió, tằm tuy hết ruột hãy còn vương.

Nam học sinh trường Thuận Hoá khái quát cuộc đời đấu tranh của cụ cho tự do hạnh phúc của nhân dân bằng hai vế câu đối viếng:

Sấm sét khéo vô tình, trời đâu nỡ giết ta chăng, mấy mươi năm hồn nước lại hồn nhà, chuông gióng trống rung, những ước tự do là hạnh phúc

Non sông chung gánh nặng, ai thảy cũng như ông cả, ngoài mười dặm tiếng ca liền tiếng khóc, mưa hòa gió thuận, còn mong bất tử ấy tinh thần.

Câu đối viếng của nữ sinh tỉnh Quảng Nam, tiếc thương buồn tủi mà bâng khuâng tha thiết, đại diện cho một tầng lớp chị em non trẻ viếng cụ, ngậm ngùi như kể lể với hồn cha hồn mẹ:

Mơ màng giấc mộng tủi non sông, chị em tôi đã biết chi đâu, nào chủ, nào dân, nào quyền nước, nào quyền người nhờ có tiên sinh tài thao lược

Trằn trọc tấm thân vì xã hội, thần thánh trước mai sau còn nỡ, có đất, có trời, có hồn cha, có hồn mẹ, nặng chia hận tử dạ bâng khuâng.

Câu đối đề của học sinh trường Kỹ nghệ Hà Nội nội dung nhớ tiếc cụ, nhưng vẫn đặt niềm hy vọng vào tương lai:

Thánh thần dao động, trải nghìn năm mới có bây giờ, ngẩn ngơ gió táp mưa sa, khép bức tiên tri trời nỡ thế

Quốc gia hưng vận, dẫu một người cũng không tránh khỏi, ngao ngán nước sầu cát bụi, đau lòng hậu bối biển còn chờ.

Tại rạp hát tuồng ở thành phố Nam Định, trong dịp đồng bào cả nước làm lễ tưởng niệm cụ Phan, xuất hiện đôi câu đối phú viết rất chân phương. Trong ngôn từ có cả: “trống”, “chuông”, “cờ”, “quạt”, “phông”, màn, “múa rối”, có cả “thay tuồng”, “đổi cảnh”. Câu đối nội dung như thế không thể treo dán ở đâu khác ngoài cửa một rạp hát tuồng. Hai vế đối đó như sau:

Mấy mươi năm gióng trống, khua chuông, mặc danh, mặc lợi, mặc thân gia, gánh giang sơn vai những nặng nề, há phải như ai toan múa rối

Trải bao độ thay tuồng, đổi cảnh, làm quan, làm dân, làm chí sĩ, cờ xã hội tay giương phấp phới, nào ngờ một phút đã buông phông.

Kỳ Đồng

Kỳ Đồng có tên thật là Nguyễn Văn Cẩm (1875-1929), người làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên, nay là xã Văn Cẩm huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.

Ông vốn có tư chất thông minh từ nhỏ, lại được cha là nhà nho giỏi dạy dỗ. Lên mười, ngũ kinh, tứ thư đều thông, vì ông chỉ trông qua là nhớ, mỗi ngày học đến trăm trang sách.

Năm ấy có kỳ hạch ở tỉnh Hưng Yên, để năm sau thi hương ở trường Nam Định. Các quan tỉnh và huấn đạo, giáo thụ hội họp ở Văn miếu thấy ông còn nhỏ mà đi thi đều lấy làm lạ, cho gọi đến để hỏi quê quán. Ông thưa ở làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng.

Quan tỉnh ra câu đối:

Đứng giữa làng Trung Lập

Ông đối ngay:

Dấy trước phủ Tiên Hưng.

Câu đối chỉnh, lại đúng ngữ cảnh.

Các quan tấm tắc khen hay, ra câu nữa:

Khổng môn truyền đạo chư hiền Tăng Tử Tử Tư Mạnh Tử

(Cửa Khổng truyền đạo người hiền Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử)

Ông đối:

Chu thất khai cơ liệt thánh Thái vương Vương quý Văn vương.

(Nhà Chu mở nghiệp bậc thánh Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương).

han_tang tu-thai vuongVế ra khó và lắt léo; dùng ba chữ “tử”, tên giữa có chữ “tử” ở trên, còn hai tên kia có chữ “tử” ở dưới.

Vế đối chỉnh nhờ có ba chữ “vương”, tên giữa có chữ “vương” ở trên, còn hai tên kia có chữ “vương” ở dưới.

Hội đồng đều lấy làm khen ngợi.

Hồi ấy, Việt Nam trọng văn học, các quan thấy cậu bé còn ít tuổi mà đã có kỳ tài, bèn làm sớ trong đó biên cả hai câu đối dâng về kinh.

Vua Tự Đức xem thấy bèn sắc cho hai chữ “Kỳ Đồng”, và phê: Tên này còn ít tuổi, chưa thể thu dụng được, nay giao cho tỉnh Hưng Yên dạy bảo, dành để khi lớn lên, nhà nước sẽ dùng.

Vì có chữ vua ban cho nên mọi người gọi ông là Kỳ Đồng.

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) là một chí sĩ yêu nước. Năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. Năm 1900, ông đậu Giải nguyên kỳ thi hương năm Canh Tý 1900. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do đó, Pháp bắt ông năm 1908, đày ở Côn Đảo suốt 13 năm (1908-1921) mới trả tự do. Năm 1927, ông sáng lập tờ báo Tiếng Dân, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế cho đến khi tờ báo bị đình bản (1943).

huynh thuc khang
Huỳnh Thúc Kháng

Tuyên ngôn của báo Tiếng Dân là: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Ông đồng thời là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu văn học và lịch sử, để lại cho đời một số công trình văn học và nghiên cứu lịch sử.

Điếu Châu Thượng Văn

Châu Thượng Văn (1845-1908), người Minh Hương, sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, bị bắt tại quê nhà khi phong trào chống thuế bùng nổ. Bị kết án khổ sai chung thân, đày ra Lao Bảo, nhưng ông tuyệt thực, rồi chết trong lao Thừa Phủ, năm 1908. Đây là cái chết sớm nhất của những người tham gia phong trào Duy Tân. Vì thế, Huỳnh Thúc Kháng có lời điếu (dịch Nôm):

Cái chết ai không sợ, người không tham sống suông, tám thước mày râu, thẹn với non sông giành bữa gạo

Phần khó để ai đương, người lãnh ngay phần dễ, một phần gánh vác, nguyện đem tâm huyết cáo bà con.

Câu đối tặng Trần Quý Cáp

Trần Quý Cáp (1870-1908) là bạn đồng học của Huỳnh Thúc Kháng. Tháng 5/1906, Trần Quý Cáp nhậm chức Giáo thụ phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Cụ Huỳnh có câu đối tặng:

Bạn đồng niên như là cây mùa xuân, thơ xưa há phải hư ngôn; Giang Kiều đưa tặng đôi lời, sắc liễu xanh xanh theo mắt người ly khách

Đời loạn lạc mới hay người trung liệt, ngày nay dễ mà giải đáp; Thế lộ éo le mấy lúc, gió tây hiu hắt bạc đầu bạn cố nhân.

Cổ xúy và tham gia Phong trào Duy Tân, sau đó, vào năm 1908, Trần Quý Cáp chịu án chém ngang lưng. Huỳnh Thúc Kháng đau đớn viết: “Tiên sinh lên đoạn đầu đài, thật là thê thảm. Trong lịch sử huyết lệ, Tiên sinh là người thứ nhất!”

Vậy mà, qua di cảo, người ta không tìm thấy câu đối nào của Huỳnh Thúc Kháng điếu cụ Trần. Phải chăng câu đối tặng năm 1906 là một sấm ngữ của cụ Huỳnh khi tiễn bạn, đã nghĩ đến một lần ra đi rồi không bao giờ gặp lại, như sắc liễu xanh xanh, hiu hắt nơi bến Giang Kiều.

Điếu Nguyễn Tiểu La

Người bạn lớn của Huỳnh Thúc Kháng là Nguyễn Tiểu La (1863-1911), tên thật là Nguyễn Thành. Năm 1903, Phan Bội Châu mưu đại sự, ông là quân sư trong Duy Tân hội do Cường Để làm minh chủ. Năm 1908, khi phong trào Duy Tân phát triển, Tiểu La nhiệt tình tham gia. Ông bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo tháng 8-1908, rồi qua đời tại đây.

Huỳnh Thúc Kháng có câu đối điếu Tiểu La (dịch Nôm):

Hai mươi năm giống trái vẫn còn, nào kinh tế, nào quân lữ, nào bí mật vận động gia, trăm lần uốn chả cong, đời cựu buổi tân, vị trí nghiễm nhiên dành một chiếu

Đôi ba bạn ruột rà thân thiết, kẻ sang đông, người sang tây, kẻ lại cùng hoang đày đọa, một ngày kia về nước, đỡ sau vừa trước, tiền trình buồn nỗi thiếu hai tay.

Câu đối điếu Tiểu La là một trong những câu đối hay nhất của Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung câu điếu bao hàm được cả một đời hoạt động phong phú, sôi nổi, liệt oanh của Nguyễn Thành.

Điếu Ngô Đức Kế

ngo dk-huynh tk
Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng

Ngô Đức Kế (1878-1929) là người bị bắt và đày ra Côn Đảo từ năm 1908 và được trả tự do cùng năm với Cụ Huỳnh (1921), làm chủ bút tờ Hữu Thanh.

Nghe tin bạn qua đời tại Hà Nội, trên báo Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng điếu (dịch Nôm):

Ngổn ngang gò đống, bao nhiêu bụng sách chép chưa xong, phách người Á hồn người Âu, đến chuyện Vĩ nhân dừng ngọn bút

Xơ xác non sông, những kẻ dư sanh còn được mấy, cờ họ Tô mão họ Quản, gẫm bài Chính khí dậy cơn giông.

Điếu vợ Phan Bội Châu

Có một phụ nữ chẳng giống nhi nữ tầm thường, suốt đời gánh việc nhà, giúp chồng lo việc nước, “đầu bạc chưa thôi”. Đó là người vợ tảo tần khuya sớm của Phan Bội Châu, bà có nhũ danh Thái Thị Huyền (1866-1936).

Trên báo Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng có lời điếu vừa ghi được công trạng vừa bày tỏ sự kính trọng đối với Phan phu nhân (dịch Nôm):

Lão tiên sinh vì nước quên nhà, ba mươi năm ăn gió nằm sương, bên gối kề gươm, chiều sớm bạn cùng nàng Ý Lợi

Hiền phu nhân có chồng mà góa, một chắc chăm nhà nuôi trẻ, đầu non hóa đá, cay chua xấp mấy vợ Kiềm Lâu.

Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc

Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951), quê ở làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (sau đổi là huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây; nay là huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội). Năm 1913, Đông Dương tạp chí ra đời. Ông đến cộng tác và viết đều đặn ở mục Gõ đầu trẻ, chuyên về giáo dục. Sau khi tạp chí này đình bản (ngày 15 tháng 9 năm 1919), ông viết cho tờ Trung Bắc tân văn.

Dương Bá Trạc (1884-1944) sinh tại làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu (nay là huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên. Năm 1906, ông tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Năm 1907, Dương Bá Trạc bị bắt giam, ông bị kết án tù Côn Đảo. Năm 1910, Dương Bá Trạc được đưa về đất liền an trí ở hạt Long Xuyên (nay thuộc An Giang). Năm 1932-1935, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí. Năm 1943, ông sang Singapore. Ở xứ người, ông luôn mong tìm một kế sách giúp nước nhà sớm được độc lập, nhưng ý nguyện chưa thành, thì Dương Bá Trạc mất.

Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc thường viết ra những giai thoại nhằm đả kích thực dân Pháp và tay sai, trong số đó có một câu chuyện rất hay như sau.

Một anh nông dân ở làng nọ có hai vợ. Do khéo đối xử và sắp xếp việc nhà, việc cửa, nên nhìn bề ngoài người ta thấy gia đình anh tương đối thuận hòa, yên ổn. Thế nhưng, chuyện chồng chung không ai dễ chịu ai. Về mặt tâm lý, anh chồng vẫn nể sợ người vợ cả, trong khi tình cảm yêu thương thì lại nghiêng về người vợ nhỏ nhiều hơn, bởi lẽ ngoài sức trẻ trung, và chút ít nhan sắc, chị ta còn là con gái của một ông đồ hay chữ nhất vùng.

Một chiều nọ, nhân buổi rảnh rỗi việc đồng áng, ba vợ chồng ngồi bàn chuyện. Nhân không khí vui vẻ, cởi mở, anh chồng đưa ra đề nghị: “Anh ta ra một câu đối, nếu ai đối được thì tối nay, anh sẽ vô buồng người ấy”. Cả hai bà vợ đều đồng thanh tán thành.

Anh chồng bèn đọc:

Vợ cả, vợ hai, cả hai vợ đều là vợ cả

Cô vợ nhỏ khiêm tốn nhường lời cho người vợ cả đối trước. Suy nghĩ một hồi, chị vợ lớn lắc đầu: “Thôi dì Hai nó nói trước đi!”

Người vợ nhỏ bèn ứng khẩu đáp:

Con dòng, con giống, dòng giống con mới thiệt con dòng.

Câu đối khá chỉnh. Anh chồng vỗ đùi khen hay.

Nhưng chưa dứt lời, thì bà vợ lớn mới nổi máu Hoạn Thư, đứng dậy túm lấy áo ông chồng, xỉa xói: “Thôi, tui biết tỏng cái mẹo của các người rồi, đừng giả vờ qua mắt tui, để tối vô buồng con mẻ chớ gì? Tui nói cho mà biết, tui mới là vợ chánh, mọi quyền hành ở nhà nầy đều do tui, tui chưa ưng thuận thì ông đừng hòng bước qua khỏi cửa buồng của dì ấy, chớ đừng nói cả hai đều là vợ cả nhen! Ông nghe rõ chưa?”

Anh chồng đang hứng, bỗng yểu xìu một cách thảm hại. Lúc đó, bên hàng xóm có hai nhà nho hay chữ là Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc đang ngồi đàm luận chuyện văn chương.

Có thuyết khác lại cho rằng vế ra và vế đối thứ nhất đều do hai vị sĩ phu này trông thấy tình cảnh như vậy mà đối đáp với nhau, còn vế đối của người vợ lẽ vẫn do người đó đối khi nghe thấy hai ông đọc như vậy.

Ông Nguyễn Đỗ Mục chợt nảy ra vế đối khác:

Quan thừa, quan thiếu, thừa thiếu quan sao gọi quan thừa?

Quan Thiếu ở đây ám chỉ Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu (1872-1946), con trai thứ của Hoàng Cao Khải. Vì có hàm Thái tử Thiếu bảo, nên được gọi là cụ Thiếu Hà Đông.

Ông Dương Bá Trạc cũng có câu đáp lời:

Con nuôi, con đẻ, nuôi đẻ con há đợi con nuôi!

Mấy câu đối trên được 2 ông cho đăng lên tờ báo Trung Bắc, mục đích chính để đả kích những viên quan thân Pháp.

Những vế đối khác

Chồng tất, chồng vớ, tất hai chồng đều là chồng tất (khuyết danh)

Thầy tu, thầy chùa, tu chùa thầy cứ việc thầy tu (khuyết danh)

Con một, con đàn, một đàn con vẫn hơn con một (khuyết danh)

Nhà thuê, nhà tậu, thuê tậu nhà vẫn ở nhà thuê (khuyết danh)

Em dưới, em trên, dưới trên em cùng mê em dưới (Phú Đa Nguyễn Phước An)

Chồng sau, chồng trước, sau chồng trước vẫn cứ chồng sau (Vũ Khiêu)

Chồng chung, chồng chạ, chung chạ chồng vẫn gọi chồng chung (Ngọc Thanh)

Ghi thêm: Một nguồn cho rằng nửa đầu thế kỷ 20, tờ Trung Bắc Tân Văn mở cuộc thi đối với vế xuất như sau:

Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả

Vế đối trúng cách là:

Con nuôi, con đẻ, đẻ con há cậy con nuôi.

Hồ Biểu Chánh

Nhà văn Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung (1885-1958) sinh tại làng Bình Thành, nay thuộc xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Lấy tên những tác phẩm của ông, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết sáng tác hai câu đối đến viếng ông trong lễ tang:

Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được?

Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt giả giả thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời.

Câu đối về Phan Khôi

Nhà văn, nhà báo Phan Khôi (1887-1959), tác giả bài thơ mới đầu tiên của Việt Nam Tình già, sinh tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Sau khi ông mất, con trai là Phan Nam Sinh cho biết: “Câu đối đầu tiên của đời tôi, buồn thay lại là câu đối khóc cha”, như sau:

Lúc xã hội nhố nhăng, cúi chẳng cúi, luồn chẳng luồn, há chịu phép vú to lấp miệng
Khi văn chương nhập nhoạng, tranh ra tranh, cãi ra cãi, đâu đành lòng mũ nỉ che tai.

Đôi câu đối dùng hai thành ngữ “cả vú lấp miệng em” và “lấy mũ ni che tai”, thể hiện rõ nét nghề làm báo theo lương tâm chức nghiệp.

phan khoiPhan Nam Sinh thật sự choáng ngợp và thán phục trước kho tri thức uyên bác, vừa có chiều rộng lại có chiều sâu mà người cha sở hữu. Càng khâm phục hơn khi biết kho tri thức đồ sộ ấy là do người cha tự học, tự tích lũy gần như cả đời mà có. Phan Nam Sinh lại nhớ tới hai câu 5-6:

Đầy bụng báng nhau trăm bộ sách
Còng lưng thồ nặng chín triều vua

trong bài thơ luật Đường ông viết hồi năm 1957, năm ông 70 tuổi, có tên là Bảy mươi tự thọ mà từ lâu Phan Nam Sinh đã thuộc lòng.

Thế là câu đối cứ tự nhiên mà ra, chẳng gặp bất cứ khó khăn nào, cứ như có ai đó cầm tay viết giúp vậy:

Dẫu tự học, chỉ tự rèn cũng đầy bụng báng nhau trăm bộ sách
Lo dân sinh, vì dân chủ mà còng lưng thồ nặng chín triều vua.

Sao lại là chín triều vua? Trong bài Những con số không nhất định trong từ ngữ, Phan Khôi cho biết số chín không nhất định là để chỉ “số rất nhiều trong các số cơ bản”, như “chín tầng trời, chín nghìn anh em” là để chỉ rất nhiều tầng trời, rất nhiều anh em. Nó khác hẳn với số chín nhất định như nói thiều quang chín chục là chỉ chín chục ngày mùa xuân. Vì vậy mà “chín triều vua” là để chỉ ông đã phải sống qua rất nhiều triều vua, không có ý gì khác, cũng chẳng định ám chỉ ai hoặc bất cứ điều gì.

Năm 2013, vào dịp kỷ niệm 54 năm ngày người cha qua đời, Phan Nam Sinh lại viết câu đối dâng lên hương hồn ông như sau:

Đi kháng chiến, đuổi thực dân, tội phản động về cùng chín suối
Đón văn minh, khai dân trí, gương duy tân ở với trời xanh!

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nói về Phan Khôi như sau:

“Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hoá cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng…, ông thường tự thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho tri thức.”

Tản Đà

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939), sinh tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Vì quê ở gần sông Đà và núi Tản Viên, ông lấy bút hiệu là Tản Đà.

tan da
Tản Đà

Tản Đà có câu đối viếng người chết ngắn gọn mà cảm động như sau:

Bác đã về rồi, đời đáng chán!
Tôi còn ở lại, rượu cùng ai?

Và có đôi câu đối khác:

Cuộc trần ai cay đắng mặc ai ai, tưởng như khi cỗ nhớn mâm đầy, một miếng giữa làng danh phận thế

Sự nhân thế tỉnh mơ là thế thế, này thôi lúc kèn đưa trống tiễn, ngã ba đường cái vợ con ai.

Huỳnh Thúc Kháng có đôi câu đối viếng Tản Đà và cũng tự dịch Nôm như sau:

Không sắc một hoa quỳnh, về vuốt câu chơi, tiên giới nhiều người nên quyến thuộc
Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ múa bút, giá thi mấy lớp ngạo công hầu.

Nguyễn Phong Di

Nguyễn Phong Di tên thật là Nguyễn Thái Bạt (1889 – ? ), thời trẻ từng theo phong trào Đông Du. Sau này vì các phong trào yêu nước lần lượt bị thất bại, ông trở về nước và ra trình diện chính quyền thực dân, thi đỗ đình nguyên, rồi làm quan một thời gian ngắn.

Phan Ngọc (2016) bình luận việc làm câu đối viếng này như sau.

Đồng châu Nghệ Tĩnh trong đó có năm ông đại khoa họp nhau làm đôi câu đối viếng. Cái khó là đã viếng thì phải khen ngợi và tỏ lòng thương xót. Nhưng làm sao có thể khen một người đầu thú? Vậy phải viếng một đôi câu đối mà hiểu là khen cũng được để đúng luật chơi, thà hiểu là chê cũng ổn.

Do đó vế ra phải rất bình thường:

Một nén hương đưa người chí sĩ

Chỉ nói là “người”, không nói là “nhà”, tức là không khen, tuy có vẻ khen. Câu này là “xôi chè” các cụ tán thành ngay.

Các cụ chỉ bàn về vế dưới. Ba bốn vế đưa ra đều bị bác. Cuối cùng ai cũng phải thừa nhận vế này là tuyệt hay:

Trăm năm còn mãi tiếng đình nguyên

Nó phi thường ở chữ “tiếng”. Chữ này lập tức nhắc đến cái chết do câu tục ngữ “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, tức là người chết không phải bình thường mà có để tiếng lại. Nó lại có hai nghĩa, hiểu là “danh tiếng” cũng được, mà hiểu là “tai tiếng” càng hay. Do áp lực của cấu trúc, khi “tiếng đình nguyên” là tai tiếng thì “người chí sĩ” tức khắc thành “người đầu thú”. Các cụ tranh luận hàng giờ mới tìm được chữ “tiếng” làm mọi người thỏa mãn. Rõ ràng cái đẹp là khách quan và có ngữ pháp của nó.

Vua Duy Tân

Vua Duy Tân (1900-1945) là vị vua có ý chí tự cường, thông minh bẩm sinh. Ngay từ khi lên ngôi, tuổi còn ấu thơ (8 tuổi) đã có tinh thần kiên cường, là một trong hai vị vua thời nhà Nguyễn có tinh thần chống Pháp mạnh nhất (Duy Tân, Hàm Nghi).

Đối Khâm sứ Pháp

Giai thoại kể rằng trong một lần Vua Duy Tân tiếp Khâm sứ Pháp, ông này ra một vế đối có ý thâm sâu:

Rút ruột Vua, tam phân thiên hạ

Vua Duy Tân ứng khẩu đối lại:

Chặt đầu Tây, tứ hải giai huynh

han_vuong tamHai vế đối hoàn chỉnh và đối nhau chan chát. Cả hai đều dùng phương pháp chiết tự:

– “Vua” theo chữ Hán là: 王, rút ruột vua tức bỏ đi nét sổ ở giữa, còn lại: 三, nghĩa là tam. Ngụ ý: ba miền Trung, Nam, Bắc của Việt Nam bị Pháp chia để trị.

– “Tây” theo chữ Hán là: 西, chặt đầu Tây tức bỏ đi phần nhô lên đầu, còn lại: 四, nghĩa là tứ.

“Chặt đầu Tây” có nghĩa xử trảm tội nhân, ý nghĩa mạnh mẽ đáp lại với “Rút ruột vua” có nghĩa phạm thượng. Vế đối của Vua Duy Tân đầy khí phách, thể hiện tư tưởng chống Pháp và tinh thần đoàn kết dân tộc (bốn biển đều là anh em).

Quan Khâm sứ Pháp nghe xong tái mặt vì bị cảnh cáo nghiêm khắc, nhưng vẫn phải giả bộ làm vui, khen tài đối đáp thông minh qua vế đối của nhà vua yêu nước Duy Tân.

duy tan 11 tuoi
Vua Duy Tân lúc 11 tuổi

Ghi thêm: Wikiquote (không ghi nguồn) cho biết năm 12 tuổi, Vua Duy Tân được mời dự tiệc ở tòa Khâm Sứ Trung kỳ, có một cố đạo Pháp thạo tiếng Việt, hiểu chữ Hán, hiểu phong tục tập quán lịch sử, địa lý của nước Việt. Ông này lái cuộc hội đàm sang lĩnh vực văn chương, rồi đề nghị hai bên chơi câu đối. Nhà vua trẻ đồng ý.

Cố đạo trình một tờ giấy ghi hai chữ: 王三 tức “vương tam”.

Tài liệu ghi thêm: (Rút ruột vua tam phân thiên hạ), chắc không phải do cố đạo ghi ra.

Vua Duy Tân phê bên cạnh hai chữ: 西四 tức “tây tứ”.

Tài liệu ghi thêm: (Chặt đầu Tây tứ hải giai huynh).

Mỗi vế chỉ có hai chữ, suy ra thành câu như trong ngoặc kép thì e rằng dẫn dụ quá xa! Nhất là đối với một trẻ 12 tuổi, không có ghi chép cho thấy Duy Tân là thần đồng để hiểu được ý nghĩa thâm thúy của hai chữ kia.

Có vẻ như thầy đồ nào đó nặn óc suy nghĩ mãi mới có ý tưởng thâm sâu, rồi gán cho người khác và kể rằng người này có thể nghĩ ra tức khắc! Rải rác trong bài này có những trường hợp khó tin như thế.

Duy Tân ra câu đối

Có lần, Vua Duy Tân ra câu đối

Bán mãi cửa quan sợ cụ

Vế ra tài tình ở chỗ tiếng Nôm “bán” và tiếng Hán-Việt “mãi” đồng nghĩa; tiếng Nôm “sợ” và tiếng Hán-Việt “cụ” đồng nghĩa.

Ông Nguyễn Hữu Bài đối:

Không vô trong nội nhớ hoài

Cũng có đôi từ Nôm và Hán-Việt đồng nghĩa như trên.

Sau này, còn có một vế đối khác:

Hồi về ngoài ngoại buồn ai

Viếng Khải Định

Năm 1925, được tin vua bù nhìn Khải Ðịnh qua đời, từ nơi bị đày (đảo Réunion), vua Duy Tân gửi về triều đình Huế một bức trướng để phúng, có đôi câu đối sau:

Ông vội bỏ đi đâu? Bỏ bạc, bỏ tiền, bỏ vợ, bỏ con, bỏ hát bội thày tu,  bỏ hết trần duyên trong một lúc

Tôi nay còn lại đó! Còn trời, còn đất, còn non, còn nước, còn anh hùng hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu.

Câu đối của Tây

Nếu bạn còn nghi ngờ, tự hỏi: “Tây mà biết ra câu đối chữ Hán hay sao?” thì có thêm một giai thoại nữa.

Trong thời Pháp thuộc, một tên Tây đoan (douane, tức thuế vụ) dẫn lính về làng lùng bắt rượu lậu. Thấy trong đình làng tụ tập đông người, hắn liền chỉ gậy ba-toong hách dịch hỏi dân tụ tập làm gì.

Một cụ già trả lời rằng đang họp nhau làm câu đối. Mắt tên Tây sáng lên. Nhìn thấy giữa sân có một cây mít, hắn liền đọc to:

Đình tiền định lập vô tri thụ

Các cụ không ngờ thằng Tây thạo cả chữ Hán. Thằng Tây cười đắc chí nhưng đang bận công vụ phải đi, nó hẹn một canh giờ sau trở lại nghe vế đối.

Các cụ nhức óc, bí tịt, không biết đối ra sao.

Câu đối của thằng Tây nghĩa là: “Trước sân sừng sững một cây không biết”. Oái ăm thay, hắn lại chơi chữ, “cây mít” nó gọi là “cây không biết”, như ta nói “mít đặc” tức là quá dốt.

Một lúc sau thằng Tây quay trở lại, bỗng ở phía sau sân đình một con gà trống cất tiếng gáy lảnh lót.

Một cụ già sáng trí, đứng lên dõng dạc đọc vế đối:

Bích hậu tường minh bất tử kê

Nghĩa là sau tường rõ ràng nghe tiếng gáy của con gà bất tử. Cụ chơi chữ thật cừ. “Bất tử kê” là con gà trống mà ngoài Bắc gọi là con gà sống (gà không chết), đối lại với “vô tri thụ” (cây không biết). Thật chỉnh cả ý lẫn lời.

Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Tam (1906-1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh được biết đến nhiều nhất là Nhất Linh, và cũng là nhà tranh đấu. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa).

nhatlinh
Nhất Linh (Tranh: Nguyễn Gia Trí)

Nhất Linh tự tử với dòng tuyệt mệnh bất hủ: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả.”

Lễ truy điệu Nhất Linh được tổ chức rất trọng thể tại sân Tao Đàn ở Sài Gòn. Bấy giờ, vang vọng áng văn tế Nhất Linh do thi sĩ Vũ Hoàng Chương soạn ngày 5-1-1964 mà đây là đoạn kết:

Hỡi ơi!
Tố Đoạn tuyệt thành hồ đoạn tịch, mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường Tam
Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương, lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ Nguyễn.

Câu đối của Vũ Hoàng Chương (1916 -1976)

Người quay tơ, đôi bạn, tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt?
Đời mưa gió, lạnh lùng, bướm trắng, buổi chiều vàng đâu chỉ nắng thu!

Đặc điểm ở đây, trừ các chữ “chứ sao” và “đâu chỉ”, tác giả khéo dùng tên những tác phẩm của Nhất Linh để lồng ghép thành câu đối.

Câu đối của Đông Hồ  (1906-1969)

Nạn độc tài một sớm đánh tan, hùng chí quân dân cách mạng
Nền Văn hóa Ngày nay xây dựng, thiếu rồi lãnh tụ Nhất Linh

Câu đối chưa rõ tác giả

Đời nay mấy mặt tiên tri, thế đó: nửa thương nửa giận!
Văn bút hai ta cố vấn, giờ đây: một mất một còn!

Thanh Tịnh

Nhà thơ Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh (1911-1988), sinh tại xóm Gia Lạc, ven sông Hương thuộc làng Dương Nổ, Thừa Thiên Huế. Ngoài vai trò là thi sĩ, Thanh Tịnh còn giỏi về tiếu lâm, về câu đố và câu đối.

thanh tinh
Thanh Tịnh

Câu đối về nhậu nhẹt

Cả vế ra và vế đối dưới đây đều là của Thanh Tịnh:

Đến xứ Nghệ, ra Quán Hành, uống rượu gừng, nói chuyện cà riềng cà tỏi
Vào Đồng Nai, nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, ngồi vui tán vượn, tán hươu.

Vế ra đầy những tên gia vị, vế đối mang các tên thú.

Thêm nữa:

Dời làng Bưởi, ghé quán cóc, uống nước dừa, ôm nhỏ Cam nhỏ Mít (khuyết danh)

Vào xóm Gà, phao tin vịt, ăn miếng thịt chó, làm chuyện mèo chuyện chuột (khuyết danh)

Câu đối bực bội

Thời bao cấp, hàng tiêu dùng khan hiếm, thường mỗi khi có mặt hàng nào đó, phải tổ chức phân phối theo chỉ tiêu đầu người từng cơ quan. Khi về đến cơ quan, lại phải tiến hành bình bầu, nhận xét xem phân cho ai là đúng. Không bình bầu nổi thì chọn phương án “bốc thăm”, may ai nấy được. Một lần bốc thăm như thế, nhà thơ Xuân Sách và nhà văn Nguyễn Thị Như Trang cùng bốc được một chiếc màn…. đôi!

Vốn bực mình về cái thói cửa quyền của cơ quan phân phối, nhân chuyện này, Thanh Tịnh buông một câu:

Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt!

Hai chữ đồng nghĩa “ cứt “ = “ phân “; “phân” vừa là danh từ vừa là động từ “phân phối”. Câu đối sử dụng từ nhơ bẩn để thể hiện thái độ bực bội.

Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối lại:

Quan khỉ đều thích hầu, nhưng hầu là tựa khỉ

Hai chữ đồng nghĩa “hầu” = “khỉ”; “hầu” vừa là danh từ vừa là động từ “hầu hạ”.

Vế đối khác của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Thứ chó gì cũng cẩu, mà cẩu thì như chó!

Vế đối nói về thực trạng ở một doanh nghiệp: Một ông chủ mua xe cẩu về làm tất tần tật những việc khuân vác nặng nhẹ nên công nhân bốc vác thất nghiệp, nhưng do tay nghề người điều khiển cẩu hàng còn kém nên làm việc thường hư sự.

Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013) còn được người ngang hàng gọi anh Văn, sinh ở Làng An Xá, Xã Lộc Thủy, Huyện Lệ Thủy, Quảng Bình.

Câu đối chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp 90 tuổi:

Văn lo vận nước, Văn thành Võ
Võ thấu lòng dân, Võ hóa Văn

Bức trướng của bà Nguyễn Thị Vĩnh ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc:

Văn võ song toàn lừng danh tiếng
Tâm hồn đức độ xứng hiền nhân

Câu đối viếng của Hà Sĩ Phu:

Võ công kiệt xuất lưu thanh sử!
Văn cách khoan hòa đắc thế tâm!

Bùi Huy Phồn

Bùi Huy Phồn (1911-1990) sinh tại phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962).

Câu đối viếng Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là nhà văn, nhà báo nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam.

Ngày Vũ Trọng Phụng mất, Đồ Phồn viết đôi câu đối, được khắc tại mộ chí nhà văn tài danh ấy:

Cạm bẫy người tạo hóa khéo căng chi! qua giông tố tưởng nên số đỏ
Số độc đắc văn chương vừa trúng thế, nỡ dứt tình không một tiếng vang.

Cạm bẫy người, Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, Dứt tình, Không một tiếng vang là tựa các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.

Câu đối viếng Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987) sinh tại thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông là cây bút tiêu biểu của nền văn học mới với nhiều tập tùy bút.

Khi ông mất, Đồ Phồn làm câu đối phúng điếu như sau:

Vang bóng một thời tàn, khéo gợi thêm nao lòng lãng tử
 Quê hương đâu hẳn thiếu, mải đi cho trọn kiếp giang hồ.

Câu đối liên quan đến Nguyễn Hiến Lê

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) sinh tại Hà Nội, nguyên quán ở Quảng Oai, Sơn Tây (Hà Tây). Là tác giả và dịch giả của 122 tác phẩm, 250 bài báo và 23 đề tựa cho công trình các bạn bè, Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương lao động miệt mài và có khoa học trong lĩnh vực truyền bá văn hoá.

Khoảng trước năm 1945, nhân khi đọc xong một vài bản thảo của ông, Ba Phương Khê tặng ông câu đối:

Học bản tu thân thân tức quốc
Nhân năng bạt tục tục nhi tiên

Dịch:

Học gốc ở tu thân, thân mình là nước
Người tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.

Bản thân Nguyễn Hiến Lê vào khoảng năm 1946 cũng làm câu đối:

Trị ái thư loạn ái thư thư trung hữu hữu
Bần dĩ đạo phú dĩ đạo đạo ngoại không không

Dịch:

Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.

Cả hai câu đối đều phản ánh rất đúng cốt cách nho phong, chí hướng bạt tục, cuộc đời giản dị, và sự nghiệp văn hóa không nhỏ của Nguyễn Hiến Lê đối với dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời cầm bút trong sáng như viên ngọc không chút tì vết, Nguyễn Hiến Lê chưa một lần tự gán cho bản thân bốn chữ “Văn dĩ tải đạo”, nhưng đến nay những ai đọc ông có lẽ đều tâm phục và ngưỡng kính cảm nhận rằng con người ấy quả thực đã hiến trọn đời mình để chở chuyên đạo lý.

Hữu Loan

Nhà thơ Hữu Loan có tên thật là Nguyễn Hữu Loan (1916-2010), quê quán tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim.

huu loan c

Câu đối tặng Hữu Loan

Một lần, vào dịp tết Mậu Tý (2008) có người tên Trần Cao Sơn (chưa rõ tiểu sử) đến chơi với nhà thơ Hữu Loan. Biết ông đang vui, cũng biết ông thích câu đối, Trần Cao Sơn đọc hai đôi câu đối tặng ông, nội dung như sau:

Đôi câu I:

Mây ngắm Hoàn Vân, nghiêng bóng núi dặm đường chiến sĩ
Gió đùa Ô Lỗi, rộn hương đời trang chữ thi nhân.

Đôi câu II:

Đất lạnh nghìn trùng, vẩy ngọn bút tím lòng nhân thế
Trời thiêng một với, ôm mây mưa tàn cánh phù dung.

Ông nghe chăm chú và chậm rãi nói: “Về mặt bút pháp, niêm, luật, ý tứ của câu đối như vậy là được. Chỉ có điều anh ca ngợi tôi ghê quá!”

Sau một vài phút hỏi thăm gia đình, ông thong thả: “Câu một thì ổn, nhưng câu hai thì chữ ‘tím’ ở vế thứ nhất có thể nhiều người sẽ hiểu khác. Tôi biết anh dùng chữ ‘tím’ là chỉ màu tím, violette, liên quan đến màu hoa sim trong bài Màu tím hoa sim. Nhưng đây là câu đối, nó đứng biệt lập, vì vậy sự liên tưởng đến màu của hoa sim là không nhiều. Chữ tím ấy sẽ được hiểu là thâm tím, bầm tím, tím tái. Nghĩa nghịch của nó nhiều hơn cái nghĩa thuận xuất phát từ ý thơ: Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết… / màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt mà anh đang muốn dùng”.

Trần Cao Sơn giật mình, không ngờ ông minh mẫn đến thế, nghe có một lượt mà đã phát hiện ra cái lỗi cần sửa, liền ngỏ ý muốn nhờ ông sửa giúp.

Ông im lặng suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Chữ ‘thắm’ cũng được nhưng nhạt nghĩa, không tương xứng với mệnh đề ‘đất lạnh nghìn trùng’ đứng trước, có thể chữ ‘thấm’ hay hơn”.

Câu đối cho Tôn Ngộ Không

Một hôm khác, một số bạn giáo học đến nhà chơi với Hữu Loan, trong đó có Phan Cự Triệt. Nhân bàn về vấn đề Phật giáo đang đứng trước nhiều thách thức và nhạy cảm thời đó, mấy người đàm luận về các nhân vật trong Tây Du Ký. Trong bốn thầy trò đi Tây Trúc thì Trư Bát Giới được coi là hồn nhiên, bản năng nhất, không thiết kinh kệ, Niết Bàn gì hết, phải đi vì mắc tội hám gái, trêu chọc Hằng Nga. Bát Giới lúc nào cũng chỉ mong “giải tán đội hình” để được về nhà ngủ khì, cơm no, rượu say bên mẹ đĩ, rất đời thường. Nhưng vì thương Sa Tăng vất vả, lại sợ gậy sắt của lão Tôn hết vía nên không dám “đào ngũ”. Trong con mắt của Thiên Bồng Nguyên Soái thì sư phụ Đường Tăng chỉ là lão hòa thượng đầu trần mắt thịt, không phân biệt nổi trắng đen, phải trái, người quỷ lẫn lộn, chỉ sợ đàn bà và đọc thần chú là nhanh. Trư Nhị đệ kính nể Tôn huynh, nhưng cũng ghét lão Bật Mã Ôn bất lực, quá ngoan ngoãn qui thuận trước các thế lực thần quyền. Thần thông quảng đại là vậy, nhưng xét chung vẫn là kẻ chiến bại.

Lấy Trư Bát Giới làm trung tâm, mỗi người đưa ra một câu đối về các nhân vật trong truyện. Một câu dành cho Đường Tăng, muốn lột tả cái bản chất thụ động và luôn được chở che của Đường Tam Tạng:

Tích trượng chín vòng, lưng ngựa rung rinh nhờ bóng Phật
Cà sa một mảnh, mắt trần hấp háy đón chân kinh.

Câu thứ hai là câu đối của Hữu Loan dành cho Tôn Ngộ Không:

Kiếp nạn tám mốt tròng, muôn trận hùng thiêng tay thiết bổng
Thần thông bảy hai phép, nửa đời nghiệt khuất bóng kim cô.

Hữu Loan khóc mẹ vợ

Câu đối của Hữu Loan khóc bà mẹ vợ đầu khi bà quy tiên:

Rể không đền, gái ngắn phận sao đền, ơn cứu ơn mang, ơn đoán giữa một tương lai nhân cách
Sống khó gặp, chết vì sao không gặp, khóc nguồn khóc núi, khóc ai cùng đương đại loạn thiên lương
.

Có lần Hữu Loan kể, thời gian trước, bà tham Kỳ – vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ – có một cửa hàng bán vải và sách báo ở Thanh Hóa. Hữu Loan thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Ông cho biết bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với ông rất tốt, coi ông chẳng khác như người nhà. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của ông được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho ba cậu con trai. Nhờ đó ông được quen biết với người vợ tương lai, Lê Đỗ Thị Ninh, con gái bà tham Kỳ.

“Rể không đền” và “Sống khó gặp” bởi vì Hữu Loan gặp nhiều khổ sở do bài thơ Màu tím hoa sim bị lên án là mang tình cảm “tiểu tư sản” của thành phần trí thức, nên tác giả phải lo bươn chải kiếm sống rất cực nhọc và đi đâu cũng không tiện. Còn “gái ngắn phận” bởi vì vợ ông chết khi còn rất trẻ, 17 tuổi, nên không thể đền ơn cha mẹ.

Thống thiết đến thế là cùng! Đôi hàng chữ – hai dòng lệ – vọng âm thanh của tiếng khóc tức tưởi bị dồn nén lâu ngày, đang vật vã trước linh cữu nhạc mẫu vừa quy tiên.

Vũ Khiêu

Câu đối viếng phu nhân của Trần Quốc Vượng

Chị ra đi bát ngát Đông Tây, một cánh buồm son làn gió cuốn
Anh ở lại ngậm ngùi kim cổ, nửa bình rượu trắng ánh trăng soi.

Câu đối trải dài, âm điệu đầy buồn thương, miêu tả chị dạy học ngôn ngữ đông tây, anh nghiên cứu sử học, văn hóa kim cổ, nhưng sao mà tình cảm người viết lại sâu lắng, ngậm ngùi đến thế!

Câu đối viếng Phạm Huy Thông

Tưởng cầm kỳ thi họa thong dong, bỗng bát ngát Ô giang hồn Hạng Tịch
Đang nam bắc đông tây hò hẹn, sao vội vàng tiên cảnh gót Lưu Lang.

Lưu lang: rất có thể là chàng Lưu, trong tích Lưu, Nguyễn lạc Thiên Thai.

Người đọc vừa ngậm ngùi vừa nhận ra phong thái lãng tử ngày nào của chàng thi sĩ Phạm Huy Thông (1916-1988) đầy tài hoa mà mơ mộng!

Câu đối tặng bạn ngày xuân

Vũ Khiêu cũng viết những câu đối thâm thúy, sâu sắc pha âm hưởng hài hước mà phải suy nghĩ đôi chút mới thấu hiểu hết. Ông có một người bạn thân rất tài hoa, am hiểu văn hóa sâu sắc nhưng bỏ việc về nhà, đọc sách ngâm thơ và làm thợ đồng hồ kiếm sống. Đồng cảm với bạn, ông viết tặng câu đối ngày xuân:

Bảy mươi xuân, quay ngược thời gian, từng giờ, từng phút, từng khắc, từng giây, nghĩ mình chẳng thẹn
Mồng một tết, nhìn ngang thế lộ, ai chậm, ai nhanh, ai sai, ai đúng, rót rượu cùng say
.

Đọc câu đối, ban đầu chỉ thấy toàn là thời gian và đồng hồ, nhưng suy ngẫm kỹ mới nhận ra ông thợ đồng hồ này không tầm thường chút nào, đầy khí phách, đầy tài hoa, vậy mà vẫn thấy có gì đó làm ta cay cay sống mũi, một cái gì đó như oan trái , như bi thương…

Câu đối mừng thọ Võ An Ninh

Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết (1907-2009). Ngay từ hồi còn trẻ chưa đến tuổi đôi mươi, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh. Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, Võ An Ninh làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm lâm. Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh.

Nhân dịp mừng thọ Võ An Ninh 70 tuổi, Vũ Khiêu viết tặng đôi câu đối sau:

Nửa mắt nhìn đời, thu cả tinh hoa trời đất lại
Bảy tuần thưởng Tết, bày đầy cảnh sắc cổ kim chơi.

Đây là đôi câu đối có tứ khá hay. Cụm từ “Nửa mắt nhìn đời…” khiến vế đầu không trở thành câu cầu khiến, mà có thể hiểu là cách ngợi ca, đánh giá khả năng khái quát tài tình của người nghệ sĩ trong những bức ảnh nghệ thuật.

Câu đối viết tưởng nhớ bạn đời đã đi xa

Mưa gió từng vui ba chén cám
Trúc mai hãy rót một ly vàng.

và:

Nửa mảnh trăng tà soi lạnh gối
Một nhành mai nhỏ thức thâu canh.

Nguyễn Bính

nguyenbinhbNguyễn Bính (1918-1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.

Lúc sinh thời khó khăn về kinh tế, câu đối sau đây đăng ở Báo Phong Hóa, số Tết 1934, phản ánh tâm trạng vui mừng của nhà thơ, có một sắc thái riêng:

Tết tung túng tắng tiền tiêu Tết
Xuân siếc sênh sang sắm sửa Xuân.

Bố vợ Nguyễn Bính là ông đồ sống vào buổi giao thời nên hiểu cả Tây học, cụ quý chàng rể Nguyễn Bính ham đọc sách và biết ngoại ngữ. Một bữa bắt được con ba ba, định bụng gọi chàng rể đến làm thịt, nấu nướng rồi cùng nhau nhâm nhi. Nhưng thấy con rể vẫn cắm đầu vào quyển sách ngoại ngữ dày cộm, cụ lại thôi.

Nấu nướng xong xuôi, cụ sang gọi chàng rể: “Ham đọc sách thế là tốt. Nhưng đọc sách thì phải biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Ta ra cho anh một vế đối, nếu đối được thì sang đây đánh chén”.

Hầm ba ba đã chín

Câu đối quả là hóc búa, vì “ba ba” là con ba ba nhưng được hiểu ba lần ba là chín. Chín vừa là tính từ (đã được hầm chín), lại vừa là số 9. Phải đối sao cho có phép tính nhân với tích số mang hai nghĩa như vế đối ra.

Nguyễn Bính đang bí, bỗng có chiếc xe bò chở cát đi qua, ông đối lại:

Chở cát cát đầy xe

Tiếng Pháp “cát” (quatre) là số 4, “cát cát” là 4×4=16, số 16 trong tiếng Pháp là seize, đọc là xe, nên “xe” ở đây vừa là chiếc xe bò vừa là số 16, tích của phép nhân.

Thật tài tình! Vế ra chơi chữ tiếng Việt, vế đối lại chơi chữ cả tiếng Việt-Pháp.

Đinh Hùng

Đinh Hùng (1920-1967) sinh tại làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội), dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Khi Đinh Hùng mất, Vũ Hoàng Chương làm câu đối đặt trước áo quan:

Hồn sáu đường mê tìm Phật độ
Tình muôn trang sử mặc Trời ngâm

Và trong bài ai điếu trước mộ, có câu:

Mênh mang một tiếng cười dài
Hồn lay bốn vách dạ đài cho tan

Vũ Hoàng Chương bao quát đời Đinh Hùng, từ Dạ đài đến Mê hồn ca, Đường vào tình sử trong bốn câu thơ rung động trời, đất, phật đài.

Nguyễn Tài Đại

Trong chiến tranh, Nguyễn Tài Đại (1921-2005) là Trưởng ty Giáo dục Nghệ An.

Thách đối Phó ty

Hội ý Ban Lãnh đạo Ty, Trưởng ty Nguyễn Tài Đại phân công cho Phó ty Nguyễn Tiêu đi giám sát thi cấp 3 ở huyện Tân Kỳ. Có việc nhà, Tiêu muốn xin ở lại.

Đại vừa cười vừa nói: Nếu ông đối được câu này mình sẽ phân công người khác:

Ty cần đi Tân Kỳ

 Một lát suy nghĩ, ông Tiêu đối:

Ai đụng đến ông Đại.

Mọi người cười vang khen ông Tiêu đối nhanh, và lần ấy ông Tiêu không phải đi Tân Kỳ.

Đôi bạn

Nhân chuyến đi công tác tại huyện Hưng Nguyên, Trưởng ty Nguyễn Tài Đại tranh thủ đến Rú Thành (Thành Sơn) thăm thú. Mải “cảnh cũ người xưa” chập tối mới ra về, nhưng khốn nỗi chiếc xe đạp của ông hai bánh đều hết hơi. Dắt xe vòng quanh mãi mới tìm được hiệu sửa xe.

Cụ già sửa xe đang soạn đồ nghề vào nghỉ, nhìn thầy Đại chằm chằm một lúc rồi bảo:
– Nhìn ông ra dáng túc nho, vậy đối được câu này thì tui vá xe cho, không đối được mời ông đi chỗ khác.

Chắc là gặp phải cụ Đồ xứ Nghệ rồi đây! Vừa lau mồ hôi thầy Đại vừa thưa:
– Huynh cứ xuất đối, nếu đối được đệ xin đối ngay.

Ông thợ sửa xe ra vế đối:

Đi Rú Thành rành thú

Câu đối kiểu nói lái xứ Nghệ biến danh từ riêng thành tính từ vốn là “tủ” của Đại, nên ông đối ngay:

Đến Đèo Ngang đang nghèo.

Ông thợ sửa xe khen:

– Nhanh, sát nhưng “rành thú” nghĩa kép là “rành thích thú”, “rành muông thú”. “Đang nghèo” của ông chỉ nghĩa đơn. Nhưng rứa cũng là tài rồi, ông dắt xe vào tui vá cho.

Trời nóng nắng, hai chiếc săm xe của thầy Đại bị bong gần chục miếng vá nên phải chờ lâu. Hai bậc túc nho qua dăm câu chuyện đã trở nên thân thiết. Ông sửa xe hỏi thầy Đại:

– Mấy năm nữa ông nghỉ hưu?

– Năm sau là được nghỉ rồi cụ ạ.

– Nghỉ hưu ông định làm gì?

Không ngần ngại, Đại đọc luôn:

Đại về hưu, Đại trồng bù, ai hỏi bù ai, thưa rằng: bù Đại.

Cả hai cụ cười vang.

Một số câu đối khác

Nguyễn Tài Đại được Ty Giáo dục phân cho 2 gói trà, 2 bao thuốc lá Tam Đảo và 2 cân thịt lợn. Đó là tiêu chuẩn Tết năm 1970 cho Trưởng ty. Đại có ngay câu đối Tết:

Trà hương hai gói, thuốc lá hai bao, thịt lợn hai cân, ừ cũng Tết!
Thược dược một bông, hoa đào một lọ, rượu mùi một chén, úi chà Xuân!

Nói đến tài đối đáp của Nguyễn Tài Đại, không thể nào không nói tới sự kiện ông “trả nợ” câu đối trên báo Lao động. Đó là vào năm 1989, báo Lao động đăng một vế thách đối:

Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy

Đây là một vế thách đối hắc búa, mấy năm liền chưa ai đối được.

Mãi sau tám năm (1997), Nguyễn Tài Đại được nghe Tỉnh ủy Nghệ An nói chuyện về tình hình kinh tế, thu chi ngân sách của tỉnh nhà. Thế là sau khi nghe nói chuyện thời sự, ông sáng tác ngay vế đối lại như sau:

Lấy thu bù chi, lấy chi bù thu, bù thu lấy chi?

Cái tuyệt tác của vế đối lại ở chỗ nghĩa bóng của nó: “bù chi” có nghĩa là bù sự chi tiền, còn có nghĩa như bù cái gì; “lấy chi”: lấy sự chi tiền, còn có nghĩa là lấy cái gì mà bù thu, muốn bù thu thì lấy cái gì mà bù? Vế đối khiến mọi người trầm trồ thán phục.

Thập kỷ 80, Nguyễn Tài Đại ra một vế đối vui bằng những cặp từ lái, nói về khó khăn của thầy giáo thời bao cấp:

Thầy giáo tháo giày, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo

Rất nhiều người loay hoay nghĩ để đối lại nhưng Văn Như Cương (1937-2017) ra vế đối nhanh nhất và hay nhất:

Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương, lĩnh lương hưu lưu hương

Nguyễn Sư Giao

Nhà thơ Nguyễn Sư Giao (1935 – ) sinh tại làng Tịnh Yên, tổng Đại An, (nay là làng Tịnh Đông Tây, xã Đại Lãnh), huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông có tham gia đối lại một số câu đối khó.

Cỏ đầu cầu Đỏ xanh biêng biếc (khuyết danh)
Than vùng thung Vàng đen thui thui (Nguyễn Sư Giao)

Nhờ quần che không thấy què chân (Nguyễn Kim Âu)
Bởi đốt cháy mới lòi đáy chốt (Nguyễn Sư Giao)

Một thằng trẻ ranh bán tranh rẻ, mời kẻ độc đinh (Bùi Tịnh)
Hai ngựa gầy đói, chở gói đấy cậy xe song mã (Nguyễn Sư Giao)

Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ (khuyết danh)
Trời Sóc Trăng sáu khắc sắc trong (Nguyễn Sư Giao)

Vế ra trên có dị bản như sau:

Trai Thủ Đức năm canh thức đủ

Vế đối:

Gái Đồng Tranh sáu khắc đành trông

Gái Giồng Trôm tháng tháng dòm trông

Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ

Nhận xét: Vế đối thứ ba không chỉnh lắm: cụm từ đầu phải là địa danh, cụm từ sau là động từ.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.

Tánh lặng đất trời chung một cõi
Tâm không trăng gió trải muôn phương.

Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội
Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây.

thien_trang-sen

Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy, thấy không tùy mắt ngắm
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem.

Tôn vinh thánh tử đạo Việt Nam

Lòng nghẹn ngào than điệu gieo hạt giống
Miệng hoan hỉ hát bài gặt lúa vàng.

Cuộc sống thế trần hy sinh dâng hiến
Triều thiên vinh phúc nhận lãnh vĩnh hằng.

Câu đối ở đền, chùa, di tích

Câu đối ở Chùa Diệu Đức, Huế

Tùng thanh trúc thanh chung khánh thanh thanh thanh tự tại
Sơn sắc thủy sắc yên hà sắc sắc sắc giai không

Câu đối ở Chùa Láng, Phường Láng Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội

Tương truyền chùa được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông (trị vì từ 1138 đến 1175). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Bát diệp cơ đồ không hạo kiếp
Nhất am tùng trúc độc thiên thu

Dịch:

Cơ nghiệp tám đời còn hoạn lớn
Một am tùng trúc vẫn ngàn thu

Tám đời: chỉ các vị vua nhà Lý truyền được 8 đời thì mất

Viện ngoại thanh phong hinh đạo vị
Môn tiền minh nguyệt diệu thiền đăng

Dịch:

Ngoài sân gió mát thơm mùi đạo
Trước cửa trăng trong tỏ đèn thiền

Câu đối ở Chùa Linh Mụ, Huế

Nhập bất thoái kim thành y bát ưu du tùy cơ thuyết pháp
Đăng vô phùng bảo tháp xuân thu tự tại nhiệm ý tham thiền

Dịch:

Trong tường vàng, y bát thong dong tùy cơ thuyết pháp
Lên tháp báu, xuân thu tự tại theo ý tham thiền.

Câu đối về Thánh Gióng

Đó là câu do Cao Bá Quát viết:

Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng không do hận cửu thiên đê

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Phá giặc hiềm ba tuổi đã muộn
Cưỡi mây hận chín tầng chưa cao.

Nhận xét: Câu đối toát ra khí phách hiên ngang như tính ngông cuồng của Quát: người ta bảo ba tuổi là giỏi nhưng đối với Thánh Gióng thì đã là muộn; người ta ngỡ cưỡi mây chín tầng là tài nhưng Thánh Gióng còn hận chưa được cao.

Nhiều sách vở chép “đằng vân” nhưng tại đền Thánh Gióng xã Phù Đổng thì chép là “đằng không”.

Câu đối ở Đại nội Huế

Ở Thái Bình lâu:

Đàn tâm vạn kỷ lao thần bách tính
Hy tung nhị đế hoán mỹ tam vương

Dịch:

Hết lòng muôn việc, nhọc nhằn cho dân
Theo gương hai đế, đẹp lòng ba vua

Hai đế: Nghiêu và Thuấn; Ba vua: ba đời vua trước: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị

Ở điện Thái Hòa:

Vạn vật khí hoa tư phát dục
Cửu châu quang bị tự hòa quân

Dịch:

Vạn vật xinh tươi đều nẩy nở
Nước non hòa điệu nắng xuân vui

Câu đối ở Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử

Tiếng chuông trầm lặng khuyên răn mọi người mau tỉnh giác
Hồi trống vang rền thúc giục tăng chúng gắng công phu

Câu đối ở đền thờ Hai Bà Trưng

Đồng trụ triết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cấm Khê doanh hạt Hát Giang tràng.

Dịch:

Đồng trụ gãy tan, núi Giao cao chót vót
Cấm Khê khơi mạch, sông Hát chảy ngộn ngàn.

Phủ trấn thần uy đồng trụ Bắc
Phù an quốc thế thạch bàn Nam.

Dịch:

Thần uy phủ mờ cột đồng phía Bắc
Quốc thế phù trì bàn thạch trời Nam.

Câu đối ở đền thờ Nguyễn Trãi

Câu đối ở đền thờ Nguyễn Trãi tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội:

Huân nghiệp hách Nam bang văn mô vũ lược
Khoa danh lưu Việt sử quốc miếu lương từ

Dịch:

Công lớn dậy trời Nam, tài văn mưu võ
Danh cao ghi sử Việt, miếu nước đền làng.

Câu đối ở đền thờ Trần Nhật Duật

Nhân dân địa phương lập đền thờ Trần Nhật Duật dưới chân núi Vân Trinh, thuộc xã Quảng Hợp, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Trong đền, có đôi câu đối sau:

Tích phù Việt địa trung hưng tướng
Danh chấn Nam thiên thượng đẳng thần

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Tướng trung hưng công phù đất Việt
Thần thượng đẳng danh nức trời Nam.

Trần Nhật Duật được an táng tại mảnh đất Song ngư ở làng Miễu, xã Mạt Lăng, có đôi câu đối ca ngợi như sau:

Công thủ Hàm quan lẫm liệt huân danh Nam kỵ Bắc
Ân đàm Miễu ấp côn hoàng ban cổn cổ nhi kim

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Công đầu cửa Hàm (A), uy danh vang lừng Nam ra Bắc
Ân ban thôn Miễu (B), rực rỡ hoa cổn xưa đến nay

(A) Cửa Hàm: cửa Hàm Tử hay Hàm Tử quan, nơi xảy ra trận Hàm Tử dưới sự chỉ huy của Trần Nhật Duật.
(B) Thôn Miễu: thôn Miễu, xã Mạt Lăng, huyện Tây Chân (nay thuộc Nam Trực, Nam Định), sinh quán và cũng là nơi dựng lăng mộ cùng đền thờ Trần Nhật Duật.

Câu đối ở đền thờ Phạm Ngũ Lão

Tại đền Phù Ủng ở Hà Nội, nơi vọng thờ Phạm Ngũ Lão, có đôi câu đối cổ ca ngợi tài đức và sự nghiệp kỳ vĩ của ông:

Văn thi thao lược thiên cổ tịnh hiền hào dược thạch minh bi hải hồ vịnh sử
Mông Thát Chiêm Lao nhất thời giai úy phục Trần triều kỷ tích Việt quốc lưu danh.

Dịch:

Văn thơ thao lược, muôn thuở ngợi hùng tài, lời răn khắc đá, biển sông ca vịnh
Nguyên – Mông, Chiêm – Lào, một thời đều úy phục, triều Trần ghi công, nước Việt lưu tên.

Câu đối ở nhà thờ Lương Thế Vinh

Ở nhà thờ Lương Thế Vinh làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, còn giữ được 9 cặp câu đối, trong số đó có đôi câu sau:

Tam khôi thải kỳ thiên tử chế
Cửu chương toán học nhân gian truyền

Dịch:

Tam khôi cờ biển vua ban tặng
Phép toán cửu chương chúng dân truyền.

Câu đối ở Miếu Trung Liệt (Gò Đống Đa, Hà Nội)

Thử thành quách, thử giang san, bách chiến phong trần dư xích địa
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự cộng thanh thiên

Dịch:

Đó thành quách, đó giang sơn, trăm trận phong trần còn thước đất
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Câu đối ở Đền Cổ Loa

Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim, lòng đã trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ, mắt rơi châu.

Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia

Tuệ Tĩnh tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương ngày nay). Năm 22 tuổi, ông đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng, có tượng Tuệ Tĩnh, ngoài cổng có khắc đôi câu đối như sau:

Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái Lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang

Câu đối ở mộ phần

Đất vĩnh viễn chở che thân xác mẹ
Trời thiên thu ôm ấp tấm thân cha

Nơi cát địa tổ tiên an nghỉ
Chốn mộ phần con cháu viếng thăm

Ơn đức cha ngàn thu ghi tạc
Nghĩa tình con muôn thuở khắc sâu

Câu đối ở bàn thờ, từ đường

Lấy trung hiếu trì gia bền vững
Dùng đức nhân xử thế lâu dài

Nghiệp tổ vững bền nhân, trí, dũng
Gia phong muôn thuở đức, thảo, hiền.

Ngước mắt nhớ tổ tông công đức
Ghi lòng làm hiếu tử hiền tôn

Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu hiếu đạo vạn kiếp thờ

Tổ tiên xưa vun trồng cây đức lớn
Con cháu nay giữ gìn nhớ ơn sâu

Ngọt đắng sẻ chia, tình sao cực
U minh vĩnh cách, xót nhường bao

Câu đối vịnh cảnh vật

Hai câu đối đề Hồ Hoàn Kiếm (khuyết danh):

Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

Dịch:

Gươm quý ngàn vàng, nước xanh giữ
Tấm lòng trong trắng, ngọc hồ in

Những câu đối thú vị

Đối nói lái

Cá đối nằm trên cối đá
Cò lửa đứng trước cửa lò

Thêm nữa:

Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo

và:

Xem tư liệu để tiêu lự
Giả tú tài bị tái tù

Nghĩa tiêu lự: đỡ buồn; tái tù: tù lần thứ hai.

và:

Cháy chợ, chớ chạy!
Bể vò, bỏ về!

Câu đối điệp phụ âm đầu

Câu đối tết Đinh Hợi (1947)

Đôi câu đối này khá độc đáo:

Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế (Nguyễn Khoa Vy)
Mùa mới mạnh mã mề, mon men muốn mời mặt mạo muội (Thiền Long)

Vế ra hiểm hóc ở hai cụm từ “tay tử tế” có nghĩa người con rể xét nghĩa từng từ đơn Hán-Việt) và cũng có nghĩa người tốt bụng (từ ghép-Hán Việt).

Ghi thêm: Có nguồn cho rằng vế ra là của nhà văn Khái Hưng.

Vế đối dùng cụm từ “mặt mạo muội” vì chữ “mặt” gần giống nghĩa chữ “tay” trong trường hợp dùng để chỉ người nào đó (vd: “cái mặt đó lì lợm lắm”). Từ “mạo muội” cũng có hai nghĩa: Xét từ đơn nghĩa là dung mạo của em gái, xét từ ghép nghĩa là đường đột (cách nói khiêm nhường). Ngoài ra chữ “muội” đối chữ “tế”.

Ý vế đối là: Vào mùa mới, sửa soạn bề ngoài (mã mề) cho đẹp, đi tán tỉnh người con gái trẻ hơn, hoặc đi tìm người khờ khạo để chòng ghẹo cho vui.

Các vế đối khác:

Ái ân êm ấm ấy, ỡm ờ uốn éo ý yêu ai (khuyết danh)

Cô kia còn kênh kiệu, kỹ càng cố kén cậu căn cơ (khuyết danh)

Đời đang đà đung đưa, đắn đo đón đợi đấng đứng đầu (Nguyễn Khắc Phê)

Hội hè hòng hý hửng, hỏi han hàng họ hẳn hay ho (khuyết danh)

Lễ lạc lòng lẽ loi lưỡng lự liệu lánh làng lạt lẽo (Võ Quang Yến)

Lụt lên lo lúa lút, lu loa la lối lũ lâu la (khuyết danh)

Mới mẻ mừng mợ mạnh, mỹ miều mà mở mặt môn mi (khuyết danh)

Xuân sang xong xóa sổ, say sưa sắm sửa sẵn xu xài (khuyết danh)

Đúng là những vế đối thú vị, nếu ta không nghiêm khắc lắm về luật đối, như cụm từ “tính toán toan tìm” không được đối lại cho chỉnh.

Câu đối khác

Thẳng thắn, thiệt thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương

Giai thoại Lý Toét và Xã Xệ

Đã đánh đập đồng đội đau đớn, đệ đơn đến đây đền đi, điều đình đâu được
Xảy xô xát Xã Xệ xuềnh xoàng, xin xếp xuống xem xét xử, xí xóa xong xuôi.

Câu đối khác trong dân gian

Tục ngữ

Họa hổ họa bì nan họa cốt
Tri nhân tri diện bất tri tâm

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Khi vẽ cọp, chỉ vẽ được da, khó vẽ xương
Muốn biết người, chỉ biết được mặt, không biết lòng

Dân than vãn

Thế chiến 14-18 chấm dứt, Pháp thắng Đức. Triều đình Huế làm lễ mừng thọ ngũ tuần cho mẹ vua Khải Định, cùng lúc công sứ (chủ tỉnh) Ninh Bình ra lệnh mỗi xã góp ba chục đồng để mua cờ Pháp (tam sắc). Đồng bạc lúc ấy lớn lắm. Tiệc hay cờ gì, dân cũng phải chịu.

Có đôi câu đối rằng:

Tiệc thọ năm mươi mừng mẹ nước
Lá cờ ba chục chết cha dân

Khóc vợ

Một ông đồ Nghệ, không đỗ đạt gì, nhưng cũng để lại một câu đối khóc vợ thật thống thiết:

Đất chẳng phải chồng, đem gửi thịt xương sao đặng
Trời mà chết vợ, thử xem gan ruột mần răng!

Học trò viếng thầy

Một đời phấn trắng bảng đen, lên cõi tiên vạn niềm thương tiếc
Hai ngả trò ngoan thầy giỏi, tiễn sư phụ ngàn nỗi nhớ nhung

Câu đối của học trò (1)

Chuyện kể rằng vào thời Pháp thuộc, có một ông giáo dạy văn học khá nghiêm khắc. Một ngày, ông thấy anh học trò tên Hàn phá phách nên ra câu đối, bảo nếu không đối được thì ông phạt.

Hàn là rét, hàn là lông, Hàn không lông, Hàn rét

Ý ông giáo mắng anh học trò như loài thú!

Anh đối lại:

Cụ là sợ, cụ là đủ, Cụ không đủ, Cụ sợ

Anh Hàn là người xứ Nghệ, nên anh cố tình phát âm chữ “đủ” theo tiếng Nghệ có âm giọng nặng, thành nghĩa khác, rất tiếu lâm! Cả bọn học trò trong lớp cười hả hê, ông thầy giận tím mặt nhưng không bắt bẻ được cái anh học trò quỷ quái!

Câu đối của học trò (2)

Có anh học trò sắp đi thi nên phải trốn phu. Quan bắt vợ anh ta phải đi thay. Thấy vợ bị lôi đi, anh ta thương xót nhảy xổ ra nắm tay vợ lại. Viên quan nổi giận liền thét lính nọc đánh.

Anh ta đành khai hết sự tình, lại kêu la rầm rĩ là sức học trò mỏng manh không chịu nổi đòn. Viên quan bảo nếu vậy phải đối một câu thì mới tha, và hứa là nếu hay thì sẽ miễn phu cho cả hai vợ chồng, nhược bằng không đối được thì sẽ tăng thêm tội.

Rồi quan đọc rằng:

Phụ là vợ, phu là chồng, vì chồng vợ phải đi phu

Đọc xong viên quan có vẻ tự đắc lắm. Mà câu này oái ăm thật, vừa chữ Hán lại vừa chữ Nôm, chữ “phu” cuối thì lại là Nôm (phu phen). Nhưng anh học trò đâu phải tay xoàng. “Nhân dịp này phải giáng cho hắn một đòn nên thân chứ!” Anh học trò nghĩ vậy, rồi đọc:

Ngã là ta, nhĩ là mày, tại mày nên ta mới ngã

Nghe xong, viên quan lẩm bẩm nhắc lại từng chữ: “Ngã ta, nhĩ… mày, tại mày… ta… ngã… Chậc! Cũng Hán cũng Nôm… hay thật!” Rồi quan truyền tha cho cả hai vợ chồng.

Nhưng về sau, ngẫm nghĩ lại, quan ta mới cảm thấy choáng váng như vừa bị một cái tát. Quan nhẩm lại nhiều lượt: “Tại mày… ta… ngã”, thì ra… mới thấy chỗ xỏ lá của anh học trò. Vế đối ấy là lời anh ta nói với vợ, nhưng cũng chính là lời anh ta chửi vào mặt viên quan.

Câu đối chiết tự

Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn

Dịch:

Chợ đặt trước cửa thì náo nhiệt
Trăng đến trước cửa thì nhàn hạ

han_thi mon nao

Ngoài nghĩa đen mà ai cũng công nhận, đây còn là một lối chiết tự. Lấy chữ “thị”  巿 (chợ) đặt dưới chữ “môn” 門 (cửa) thì có chữ náo  鬧  (náo nhiệt), còn lấy chữ nguyệt 月(mặt trăng) đặt dưới chữ “môn” 門 thành ra chữ “nhàn” 閒 (nhàn rỗi).

Câu đối của Văn Quế

Xưa ở làng Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương có cụ tú mở trường dạy học. Trong số học trò có Văn Quế là người xuất sắc, văn bài bao giờ cũng được thầy khen bạn phục. Quế không những hay chữ Hán mà còn có tài Nôm.

Gần trường có ông phủ về hưu, có một tiểu thư kiều diễm đã đến tuổi lấy chồng. Học trò bên cụ tú thường vẫn ngấp nghé. Quế ta vẫn thầm yêu trộm nhớ, ngặt vì thân phận hàn sĩ nên “đũa mốc”chẳng dám chòi “mâm son”vẫn rụt rè chưa dám gì.

Tình cờ một buổi tối nọ, quan phủ sang chơi. Cụ tú liền đem bài của học trò ra khoe.

Quan xem xong, quay ra đám học trò nói: “Con bé Sen nhà tôi cũng đã theo đòi được ít nhiều nghiên bút đang muốn kén bạn trăm năm. Nó có ra một vế đối, nếu ai đối được thì nó xin nâng khăn sửa túi”.

Cả bọn học trò đều nhao nhao xin đối. Ông phủ liền đọc:

Cô Sen mặc yếm hoa sen, đứng ở hồ sen chờ người quân tử

Các trò khác đều ngẩn người, kẻ tính bằng, người nhẩm trắc còn đang bí thì Văn Quế đã mau lẹ đáp:

Cậu Quế mặc đồ cánh quế, trèo lên cung quế bế chị Hằng Nga

Ðối xong, cả trường đều cười ầm, quan phủ cũng cười rồi tấm tắc khen và hứa nếu Quế học thành tài thì sẽ gả con gái cho.

Cô dâu thử tài chú rể

Lễ cưới xong, rượu ngà ngà, chú rể mới về động phòng thì thấy cửa phòng khóa. Ngó đi ngó lại không thấy lối vào, anh bèn gọi hầu gái của cô dâu. Cô hầu cười, chỉ một tờ giấy đỏ dán trên cột:
– Cô nói tướng công đối được câu này thì mới cho con mở cửa.

Câu đối viết:

Hang Thiên Thai then khóa động đào, đóng chặt lại kẻo chàng Lưu quen lối cũ.

Cô dâu tả cảnh mình lúc ấy mà lại dùng điển tích Lưu Nguyễn lạc thiên thai, kể ra không dễ đối.

Rượu phất phơ, nghĩ một hồi anh nói:
– Tưởng gì, ngươi mang giấy ra cho ta đối.

Giấy mang ra rồi, anh cầm bút viết:

Cửa Hàm Cốc lỏng khuôn tạo hóa, mở toang ra cho ông Bái dẫn quân vào!

Chú rể lấy sự kiện Bái Công nhà Hán dẫn quân vào cửa Hàm Cốc để chọi lại. Câu của cô dâu ra tuồng gây khó khăn, nhưng câu của chú rể tỏ rõ mệnh lệnh, vừa chỉnh vừa tỏ lộ tính cách vượt trội.

Vế thách đối của cô chủ hàng phở

Có một góa phụ trẻ đẹp và có học, sau khi chồng qua đời bèn đứng ra mở một hiệu phở để làm kế sinh nhai. Thôi thì vương tôn công tử thời nay rủ nhau lui tới dập dìu, vì phở ngon cũng có mà vì sắc đẹp của chủ nhân cũng có, lại vì thu nhập hàng phở không ít. Hễ anh chàng nào có ý tán tỉnh là nàng xòe ra một vế thách đối kể trên, hứa rằng hễ ai đối được thì em sẵn sàng sửa túi nâng khăn. Nghe nói em còn nhờ giám khảo đánh giá các vế đối lại.

Nạc mỡ nữa mà chi, em nghĩ chín rồi, đừng nói với em câu tái giá

Một số vế đối được chọn vào vòng trong là như sau:

Muối tiêu tuy đã vậy, anh còn gân chán, thử vui cùng tớ miếng gầu dai

Nhận xét của giám khảo: “nạc mỡ” có nghĩa bóng trong cụm từ “nửa nạc nửa mỡ” tức là băn khoăn, do dự. “Nạc mỡ nữa mà chi” có nghĩa em đã nhất quyết. Cụm từ “muối tiêu” không đối lại được ý này, lại lạc đề so với “gân” và “gầu”.

Một câu nữa:

Tim gan đà bày tỏ, anh nói lòng thành, chẳng nghe cùng nàng lời thủ tiết

Nhận xét của giám khảo: nghe cũng hay, nhưng “tim gan” không đối chỉnh với ý “nạc mỡ” như nêu trên, còn gan không thể bày tỏ mà chỉ là minh chứng cho tinh thần (như gan dạ hoặc to gan), lại thêm vấn đề ở chỗ hai từ “anh” và “nàng” không đối với “em” và “em”.

Thêm một câu:

Tỏi hành chi mãi thế, xuân gần tiêu hết, hãy mở buồng xuân đón tương lai

Nhận xét của giám khảo: ý em nói từ nguyên nhân không “nạc mỡ” dẫn đến kết quả “em nghĩ chín rồi”, còn anh nói từ nguyên nhân đừng “tỏi hành” dẫn đến kết quả “xuân gần tiêu hết” nghĩa là sao?

Rốt cuộc, giám khảo khe khắt khiến cho cô nàng tiếp tục ế chồng. Hay là chủ ý nàng muốn thế?

Linh tinh (1)

Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.

Vế này khó đối vì phụ tử (có nghĩa cha con) đồng thời là tên gọi vị thuốc, hồi hương (có nghĩa về quê), đồng thời cũng là tên vị thuốc, riêng chữ “gánh” đầu là động từ và “gánh” sau là danh từ.

Phan Châu Trinh (1872–1926) đối lại:

Vàng bạc nhà nông chuộc đất, trồng đôi hàng thục địa, kim ngân

Nhận xét: “trồng đôi hàng” không đối chỉnh với “gánh một gánh”.

Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối lại:

Chị em trồng hoa trông trời, bó hai bó hướng dương, tỉ muội

Linh tinh (2)

Một câu đối 14 chữ ngồ ngộ, thuần Hán mà không cần diễn nôm, vì nghĩa nôm cũng… y như thế:

Đại đại biểu, tiểu đại biểu, đại đại biểu đại biểu tiểu đại biểu
Nam chiêu đãi, nữ chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ chiêu đãi

Linh tinh (3)

Đôi câu đối song ngữ Việt-Pháp đồng âm:

Tám giờ xe lửa huýt (huit là 8)
Hai cẳng nằm ngay đơ (deux là 2)

Đôi câu đối song ngữ pha trộn Việt-Pháp:

Đi vêlô bị voler
Học philô thành folie

Vế trên: vêlô là xe đạp (vélo), voler là ăn cắp
Vế dưới: philô là triết học (philosophie), folie là điên

Đôi câu đối song ngữ Hán-Việt – Pháp:

Bác ngủ
Ông đui

Vế trên: bát là tám (khiên cưỡng đổi từ bác), ngũ là năm
Vế dưới: onze là mười một, douze là mười hai

Linh tinh (4)

Trong giờ sinh học, thầy giáo đang giảng bài thì nổi hứng ra một vế đối:

Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp đúng chỗ bò và bò đúng chỗ cạp

Một học sinh ấp úng, thầy mời đứng dậy, cậu học trò đối:

Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật đúng chỗ sinh và sinh đúng chỗ vật

Thầy đỏ mặt tía tai.

Một học trò khác:

Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương đúng chỗ tiểu và tiểu đúng chỗ thương

Anh học trò khác thêm vào chút xíu:

Anh cà phê cà chị cà phê, cà đúng chỗ phê và phê đúng chỗ cà

Một câu khác:

Thầy thủ công công cô thủ công, công đúng chỗ thủ và thủ đúng chỗ công

Linh tinh (5)

Học giả Hứa Hoành kể câu chuyện sau.

Năm 1982, tôi có lần lên thăm người bạn ở Suối Đá, tức quận lỵ của một quận mới: Dương Minh Châu. Đang lúc đó mùa khô, có phong trào làm thủy lợi, đắp con đê vòng quanh lòng hồ của đập Trị An. Sáu tỉnh xung quanh Sài Gòn đều phải gởi người đến làm sưu, tự túc cơm gạo.

Bạn tôi kể, có một lần vào giờ giải lao, một người dân Hóc Môn vừa đốt điếu thuốc, nhả khói lên trời rồi ra câu đối:

Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc

Lập tức bên cạnh có người đáp lại:

Gái Gò Công vừa gồng vừa co

Linh tinh (6)

Đôi câu đối dựa theo hai câu thơ trong Truyện Kiều:

Khi vào dùng dắng, khi ra vội
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng

Bỏ hai chữ “vàng” và “chung”, có thể miêu tả hoàn cảnh đàn ông đối với vợ lẻ (ngày xưa) hoặc bồ nhí (bây giờ).

Linh tinh (7)

Đôi câu đối chơi chữ:

Bánh cả thúng, sao gọi là bánh ít?
Trầu cả khay, răng lại gọi trầu không?

Linh tinh (8)

Chuyện kể rằng có một ông đồ sống thanh cao, vui cùng sách vở. Đối diện nhà ông là một trọc phú có dinh cơ đồ sộ, kín cổng cao tường, trước cửa hắn lại có ba cây tre cao như để khoe… mình là quân tử!

Ngày Tết, ông đồ tức cảnh viết đôi câu đối rồi dán ở cổng nhà:

Gia trung vạn quyển thư
Môn ngoại tam can trúc

Dịch:

Trong nhà muôn cuốn sách
Ngoài cửa ba cành tre

Có kẻ vào nhà lão trọc phú mách lẻo: “Nó khinh ông ra mặt đấy: nhà nó thì chữ nghĩa, nhà ông chỉ có ba cành tre gộc.”

Lão trọc phú tức tối cho người chặt phăng bụi tre, chỉ còn trơ gốc.

Hôm sau, người ta thấy sau mỗi vế đối kia thêm vào một chữ, thành đôi câu mới:

Gia trung vạn quyển thư trường
Môn ngoại tam can trúc đoản

Dịch:

Trong nhà muôn cuốn sách dài
Ngoài cửa ba cành tre ngắn

Thế là, lão trọc phú lại nghe lời thầy dùi: Nhà nó thì muôn cuốn sách dồi dào, còn nhà ông chỉ trơ ba đoạn tre cụt ngủn.

Không chịu được, lão trọc phú cho người đào phăng cả gốc tre đi.

Sáng hôm sau, lại câu đối cũ nhưng mỗi vế có thêm một chữ nữa:

Gia trung vạn quyển thư trường hữu
Môn ngoại tam can trúc đoản vô

Dịch:

Trong nhà muôn cuốn sách dài mãi
Ngoài cửa ba cành tre ngắn không

Lão trọc phú nghe lời dịch thì tức giận vô cùng, nhưng đã hết phép!

Linh tinh (9)

Thủ thỉ chén đầu lợn
Hung hổ vỗ bụng hùm
.

Vế trên: thủ là đầu, thỉ là lợn.
Vế dưới: hung là bụng, hổ là hùm.

Giai thoại đối đáp

Người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, gặp một cô gái trẻ, bèn trêu:

Cô kia, cô kỉa, cô kìa, mặt mũi xinh xắn, cái kia thế nào?

Cô gái không phải tay vừa, đáp:

Cũng xinh, cũng xỉnh, cũng xình, cũng như chúng mình có tóc, có lông,

Rồi hỏi lại ông ta:

Anh kia, anh kỉa, anh kìa, dáng dấp chững chạc, cái kia thế nào?

Ông trả lời:

Cũng cưng, cũng cứng, cũng cừng, cũng nhảy tưng bừng khi thấy cái kia

Phủ Hào – Câu đối không người đáp

Thời Hậu Lê, Văn Miếu chiếm một khu vực rất rộng. Một bên là khu học xá, nơi trú ngụ của các cống sĩ về học ở Quốc Tử Giám. Văn Miếu nằm cạnh Thái hồ. Thời xưa, hồ này rộng mênh mông, sau bị lấp chỉ còn phần phía nam trước cổng Văn Miếu, gọi là Văn Hồ, tuy nhỏ nhưng được tu sửa thành một cảnh khá đẹp.

Tương truyền, một người tên Phủ Hào lập một tòa nhà ở phía đông Văn Hồ, gọi là Nho sinh quán, để đón mời các sĩ tử ở xa về trọ học. Những ai không có nơi quen biết, hoặc nghèo túng không có tiền thuê nhà, vào đó ở đều được đối xử tử tế. Vì vậy người ta cũng gọi quán ấy là quán ông đồ. Phủ Hào còn dựng một cái dinh con trên một gò nhỏ giữa hồ, làm theo hình chiếc hồ rượu, gọi là Nhất hồ đình. Ðôi khi Phủ Hào vẫn mời các danh sĩ chèo thuyền ra đó, uống rượu, làm thơ.

Có lần Phủ Hào treo giải, ra một vế đối để thách các bạn làng văn đối chơi cho vui. Vế đối ấy như sau:

Nước Văn Hồ tha hồ tắm mát, rượu Hồ Ðình thơm ngát đón làng văn

Câu đối ra yêu cầu nho sĩ phải đối với một cảnh đẹp cũng ở đất Thăng Long. Nhưng thật oái ăm vì câu ra có những ba chữ “hồ” và hai chữ “văn” lại có thêm một nghĩa riêng không giống nhau.

Vì vậy luôn mấy năm liền năm nào cũng treo giải mà vẫn chưa ai đối được.

Câu đối trong thơ

Chúng ta cũng nên thưởng thức câu đối trong thơ, bởi vì câu đối làm tăng thêm chất thi vị do từ ngữ và âm vần độc đáo. Khi đọc một bài thơ thể hát nói hoặc thể thơ Đường, đọc đến câu đối ta có cảm tưởng như tâm hồn mở ra một cảm xúc mới.

Nguyễn Công Trứ có nhiều câu đối hay trong thơ của ông, như một số ví dụ dưới đây.

Nợ nam nhi – Nguyễn Công Trứ

Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng

Bỡn cô đào già– Nguyễn Công Trứ

Chia đôi duyên nọ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười

Hàn nho phong vị phú – Nguyễn Công Trứ

Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no
Đêm năm canh, an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ

Ấm chè góp lá bàng, lá vối, pha mùi chát chát chua chua
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.

Hành tàng – Nguyễn Công Trứ

Đánh ba chén rượu khoanh tay giấc
Ngâm một bài thơ vỗ bụng cười

Cầm kỳ thi tửu bài 1 – Nguyễn Công Trứ

Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời

Cầm kỳ thi tửu bài 2 – Nguyễn Công Trứ

Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng

Dịch Nôm:

Cung đàn hay, cuộc cờ thú
Câu thơ vui, chén rượu nồng.

Cầm kỳ thi tửu bài 3 – Nguyễn Công Trứ

Thơ một túi gieo vần Đỗ(A) (B)
Rượu lưng bầu rót chén Lưu Linh(C)

Đàn Bá Nha(D) gẩy khúc tính tang tình
Cờ Đế Thích(E) đi về xe pháo mã

(A) Đỗ Mục (803-852?), nhà thơ thời Vãn Đường trong lịch sử văn học Trung Quốc.

(B) Lý Bạch (701-762), một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.

(C) Lưu Linh: người đời Tấn trong nhóm Trúc lâm thất hiền (7 nhân tài trong rừng trúc), có tính phóng khoáng, thích uống rượu và uống không biết say.

(D) Bá Nha có ngón đàn thất huyền cầm nổi tiếng đương thời. Có giai thoại gắn với Tử Kỳ, một danh sĩ ẩn dật, được Bá Nha xem là bạn tri âm. Sách Liệt Tử đời Xuân Thu Chiến Quốc ghi: “Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi”.

(E) Đế Thích: trong thần thoại được xem là vua cờ, vị thần cao cờ nhất.

Nhàn nhân với quý nhân – Nguyễn Công Trứ

Cơn chếch choáng xoay vần trời đất lại
Chốc ngâm nga xáo trộn cổ kim đi

Khóc Thị Bằng – Nguyễn Gia Thiều

Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng
Khép manh áo lại để riêng hơi.

Ghi chú: Trong một thời gian dài, nhiều người vẫn cho rằng Vua Tự Đức làm một bài thơ tên Khóc Bằng phi tỏ lộ niềm luyến tiếc một cung phi, trong đó có hai câu:

Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại, để dành hơi.

Phan Thuận An (2015) dẫn chứng nhiều tư liệu để cho rằng tác giả bài thơ đó không phải là vua Tự Đức.

Sở dĩ có sự gán ghép cho Tự Đức là vì có vẻ như ông vua này thường ưa sửa thơ thiên hạ, khi nhuận sắc có sửa hai chữ “mảnh gương” thành “cổ kính” và “manh áo” thành “tàn y”, rồi xếp vào hồ sơ của mình. Dương Quảng Hàm nhầm ra đó là thơ Tự Đức, khi soạn giáo trình văn học ghi như thế, rồi người sau cứ truyền tụng nhầm lẫn này. Ngoài Ngô Tất Tố, các chuyên gia thơ cung đình triều Nguyễn – như Phan Văn Dật, Bửu Cầm – đều nói không phải của Tự Đức, vì trong thư khố không tìm thấy vết tích gì của bài thơ này, và cũng không thấy ghi chép tên họ một bà phi nào tương tự. Hơn nữa giọng thơ trữ tình bay bướm, khó có thể là giọng Tự Đức. Học giả Hoàng Xuân Hãn cũng nói vậy.

Còn có thể tìm thấy câu đối của những tác giả khác, như một ít ví dụ dưới đây.

Mẹ Mốc – Nguyễn Khuyến

Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc
Tâm trung thường thủ tự kiên kim

Dịch:

Ngoài mặt không cần đẹp như ngọc
Trong lòng hằng giữ bền như vàng

Chim chích chòe – Nguyễn Khuyến

Quyên đã gọi hè quang quác quác
Gà rừng gáy sáng tẻ tè te

Thăm quan Tuần mất cướp – Nguyễn Khuyến

Lấy của, đánh người quân tệ nhỉ!
Thân già, da cóc có đau không?

Thanh minh ngẫu hứng – Nguyễn Du

Thôn ca sơ học tang ma ngữ
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh

Nguyễn Thạch Giang dịch

Dân ca mới mọc lời thôn dã
Than khóc dường nghe tiếng chiến tranh

Uống rượu tiêu sầu bài 1 – Cao Bá Quát

Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu
Trầm tư bách kế bất như nhàn

Dịch:

Dứt bỏ một đời, chỉ có rượu
Suy tư trăm lối, không bằng nhàn

Ý lấy từ bài Khiển hứng của Hàn Dũ đời Đường.

Hương Sơn phong cảnh ca – Chu Mạnh Trinh

Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

và:

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây.

Vịnh khoa thi Hương – Trần Tế Xương

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa

Khi gặp câu đối trong thơ, bạn hãy đọc chậm lại, để không những thấu hiểu ý thơ mà còn thưởng thức vần điệu và từ ngữ.

Một số câu đối dùng chữ Hán-Việt có thể khó hiểu đối với nhiều người. Nên tìm hiểu thêm trên trang web về thơ có chú thích, ví dụ như:

https://www.thivien.net/

Vế ra hóc búa trong lịch sử văn học

Để kết thúc bài này, người tổng hợp trình bày một vế ra thách đối làm tốn nhiều giấy mực cho đến tận bây giờ.

Giai thoại dân gian kể, bà Đoàn Thị Điểm đang tắm thì Trạng Quỳnh đòi vào tắm chung. Bà ra điều kiện: Nếu ông đối được vế ra của bà thì bà sẽ cho ông vào.

Trạng nhà ta tự hào chữ nghĩa đầy mình, nên háo hức nghe.

Bà Điểm ra một vế thách đối nổi tiếng theo thời gian vẫn mãi hóc búa:

Da trắng vỗ bì bạch

Bì là da, bạch là trắng, và bì bạch theo nghĩa Nôm là để tượng thanh tiếng vỗ vào da.

Trạng Quỳnh chịu thua.

Vế đối lại cần đáp ứng những điều kiện sau:

1/ Cả vế là thuần Nôm. “Bì bạch” không phải là tiếng Hán-Việt, bởi “bạch bì” mới là tiếng Hán-Việt và có nghĩa là da trắng (ví dụ như “bạch mã” là ngựa trắng, “thanh long” là rồng xanh…)

2/ Có 2 chữ đầu dịch nghĩa theo thứ tự từng chữ thành 2 chữ cuối, giống như “bì = da” và “bạch = trắng”.

3/ Đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt rồi dịch Nôm từng chữ theo thứ tự, giống như “bì bạch” đảo ngược thành “bạch bì” rồi dịch Nôm từng chữ theo thứ tự là “da trắng”.

4/ Hai chữ cuối là từ Nôm tượng thanh.

5/ Cả vế tạo ý nghĩa và ngôn từ tự nhiên, không gượng ép.

6/ Vế ra có âm tiết bằng-trắc-trắc-bằng-trắc, vì thế vế đối phải có âm tiết ngược lại: trắc-bằng-bằng-trắc-bằng.

Vế đối được biết đến nhiều là:

Rừng sâu mưa lâm thâm

Riêng về vế này, học giả An Chi (người phụ trách mục “Chuyện Đông – Chuyện Tây” trên tạp chí Kiến thức Ngày nay) cho rằng: “da trắng” không đối bằng “má hồng”, “môi son”, “mắt huyền”, “máu đỏ”… thì thôi, chứ làm sao lại đối bằng “rừng sâu” được? Rồi ông hóm hỉnh hơn: “mưa” mà đối được với “vỗ” thì “nắng” tất phải đối được với “sờ” trong “sờ mó”, “tạnh” tất phải đối được với “xoa” trong “xoa bóp”, “chớp” tất phải đối được với “vê” trong “vê râu”… Nghệ thuật đối mà đạt được đến những kết quả cụ thể như thế thì chẳng còn gì thảm não cho bằng!

Nếu theo nhận xét của An Chi thì e rằng không vế đối nào khác được chấp nhận.

Ta thử xem qua một số vế đối khác trong việc đáp ứng các điều kiện cụ thể từ 1/ đến 6/ nêu trên.

Áo xanh lay lục phục: vi phạm điều kiện 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành từ tiếng Hán, 5/ (“lục phục” là gượng ép), 6/ về âm tiết.

Bảy tiếng kêu thất thanh: vi phạm điều kiện 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Con thầy săn sư tử: vi phạm điều kiện 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Đại gia ở nhà to: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Đá chàm sờ lam nham: vi phạm điều kiện 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 5/ (“lam nham” là gượng ép), 6/ âm tiết.

Đêm đen sờ dạ thâm: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 5/ ý nghĩa cả vế gượng ép, 6/ âm tiết.

Gà đen kêu ô kê: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 5/ ý nghĩa cả vế gượng ép, 6/ âm tiết.

Lên núi gặp Thượng Sơn: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết, hơn nữa tên người Thượng Sơn không đối chỉnh với tiếng tượng thanh “bì bạch”.

Lụa đỏ phủ hồng nhung: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Mập phù thở phì phò: vi phạm điều kiện 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 5/ (“mập phù” là gượng ép), 6/ âm tiết.

Nhà vàng ngồi đường hoàng: vi phạm điều kiện 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Quạ vàng đội kim ô: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Quần áo vung phùng phục: vi phạm điều kiện 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 5/ (“phùng phục” là gượng ép), 6/ về âm tiết.

Sen xấu mọc liên tục: vi phạm điều kiện 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 46/ về âm tiết. Hơn nữa, “xấu” không đồng nghĩa với “tục”, ví dụ như người trần tục đâu phải là người xấu.

Trời xanh màu thiên thanh: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 4/ tượng thanh, 5/ ý nghĩa lẩm cẩm giống như nói “trời xanh màu xanh da trời”, 6/ âm tiết. Có nguồn cho rằng đó chính là vế đối của Cống Quỳnh, nhưng như thế cô Điểm không cho anh ta tắm cùng!

Suốt đỏ khoan thông hồng: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Tay tơ sờ tí ti: vi phạm điều kiện 2/ dịch nghĩa từng chữ theo thứ tự, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Vợ hiền buồn thê lương: vi phạm điều kiện 1/ thuần Nôm, 3/ đảo ngược hai chữ cuối thành cụm từ Hán-Việt, 4/ tượng thanh, 6/ âm tiết.

Ta thấy trong số các vế đối trên, không có vế đối nào vi phạm chỉ hai điều kiện để được châm chước.

Tóm lại, Bà Đoàn Thị Điểm vẫn chưa có đối thủ xứng tầm.

Ví dụ trên cũng cho thấy chơi câu đối tưởng dễ, nhưng thật ra có thể rất khó. Nếu áp dụng tất cả luật chơi thì nhiều đáp án bị bác hết!

Đúc kết

Câu đối là một mảng thú vị trong văn học, có khi khôi hài, có khi trầm buồn, tạo cho ta nhiều cung bậc cảm xúc hoặc sướng khoái hoặc sâu lắng. Ngoài ra, câu đối thể hiện điều kiện xã hội-nhân văn và bối cảnh lịch sử qua mỗi thời kỳ, giúp ta hình dung thêm ít sắc màu linh động ngoài chính sử khô khan. Trong một số trường hợp, người tạo ra câu đối vô hình trung cũng là chứng nhân lịch sử, bổ sung cho chính sử.

Ta cần biết qua về mảng văn học này để làm giàu thêm kiến thức và cũng có phương tiện thư giãn. Khi ly rượu, khi tách trà, khi cốc cà phê, tại sao không thưởng thức kèm câu đối?

Tuy nhiên, thiết tưởng cần tránh bị lôi cuốn vào – theo ngôn ngữ của  TS Nguyễn Thanh Tùng – “bối cảnh nhiễu loạn thông tin trên không gian ảo”, ví dụ như đối với những hàng tít giật gân: “Chiêu ‘độc’ khiến sứ thần Tống triều… run sợ”, hoặc “Đối đáp của sứ thần VN khiến giặc phương Bắc ‘xanh mặt’”, hoặc “câu đối khiến sứ thần nhà Thanh vái lạy”. Là sứ thần một nước lớn có bề dầy văn hóa-lịch sử đi đến một nước bé tí tẹo mà nhiều năm phải lo tiến cống thì lẽ nào họ lại hèn yếu đến thế?!? Ta tự thổi phồng mình và đè bẹp họ trong chữ nghĩa để rồi trên thực tế mất mát nhiều hơn!

Ghi chép sự kiện trong tinh thần dân tộc cực đoan để người đọc hiểu nhầm đó là sử liệu thì không hay. Yêu nước trong sự tỉnh táo thì hơn.

Tài liệu tham khảo

Anon. Bốn giai thoại trong một đôi câu đối. https://www.maxreading.com/sach-hay/giai-thoai/bon-giai-thoai-trong-mot-doi-cau-doi-4743.html

Anon. Câu chuyện danh nhân Việt Nam. http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/chuongtrinhcauchuyencuadanhnhan.htm

Anon. Câu đối có giai thoại sự tích và Thơ đối đáp Việt Nam. https://www.phatan.org/p245a3099/cau-doi-co-giai-thoai-su-tich-va-tho-doi-dap-viet-nam

Anon. (2018). Những câu đối chúc tết cổ truyền hay của cha ông. http://vinhphuctv.vn/tin-bai/cau-doi-tet/nhung-cau-doi-chuc-tet-co-truyen-hay-cua-cha-ong/57-777-206695

Dương Thu & Trinh Phúc (2013). Danh sĩ Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường đã từng là những người bạn đồng môn thuở thiếu thời. https://www.nguoiduatin.vn/ve-doi-sinh-tu-va-su-ung-nghiem-cua-loi-tien-tri-la-a101789.html

Đào Tam Tỉnh (2010). Câu đối Phan Bội Châu viết về xứ Nghệ và xứ Nghệ viết câu đối về Phan Bội Châu. http://www.vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/dat-nuoc-xu-nghe/cau-doi-phan-boi-chau-viet-ve-xu-nghe-va-xu-nghe-viet-cau-doi-ve-phan-boi-chau

Đặng Đình Nguyên (2008). Danh sĩ Đặng Trần Thường và nỗi oan thế sự. http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Danh-si-Dang-Tran-Thuong-va-noi-oan-the-su-310556/

Đặng Đức Thư (2012). Đừng nhầm lẫn giai thoại với lịch sử. http://vietsuky.blogspot.com/2012/03/ung-nham-lan-giai-thoai-voi-lich-su.html

Đặng Xuân Vĩnh (2011).  Ngô Thời Nhiệm và Đặng Trần Thường: sự hiểu lầm cần làm rõ. http://hodangvietnam.com/site/NewDetails/361

Đặng Xuân Vĩnh (2014). Đặng Trần Thường: Một con người hai nỗi oan. http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Dang-Tran-Thuong-Mot-con-nguoi-hai-noi-oan-316106/

Đinh Văn Niêm (2010). Vị Phó bảng duy nhất được dựng bia tiến sĩ. https://baomoi.com/vi-pho-bang-duy-nhat-duoc-dung-bia-tien-si/c/4456572.epi

Hoàng Quế Nam (2016). Câu đối – một phương diện tài năng và đức độ của Huỳnh Thúc Kháng. https://baodanang.vn/channel/5433/201610/cau-doi-mot-phuong-dien-tai-nang-va-duc-do-cua-huynh-thuc-khang-2515286/

Hoàng Tuấn Phổ (2014). Trạng Quỳnh, ông là ai?  https://dannews.info/2014/12/14/trang-quynh-ong-la-ai/

HT Thích Thiện Siêu (2015). 32 câu đối Việt của HT Thích Thiện Siêu. https://phathocdoisong.com/32-cau-doi-viet-cua-ht-thich-thien-sieu.html

Hoàng Ngọc Phách & Kiều Thu Hoạch (1988). Giai thoại văn chương Việt Nam. Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội.

Hoàng Quế Nam (2016). Câu đối – một phương diện tài năng và đức độ của Huỳnh Thúc Kháng. https://baodanang.vn/channel/5433/201610/cau-doi-mot-phuong-dien-tai-nang-va-duc-do-cua-huynh-thuc-khang-2515286/

Hứa Hoành. Các giai thoại Nam kỳ Lục tỉnh. Nhà Xuất bản Đại Nam.

Lãng Nhân (1964). Giai thoại làng nho. Nam Chi Tùng thư, Sài Gòn.

levinhhuy (2015). Giang Văn Minh – Vị sứ giả “bất nhục quân mệnh”? https://levinhhuy.wordpress.com/2015/05/15/giang-van-minh-vi-su-gia-bat-nhuc-quan-menh/

Lê Thị Hương & Nguyễn Văn Thạo (2018). Thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ và điển cố trong câu đối Nôm của Nguyễn Khuyến.  http://hpu2.edu.vn/vi/khoa-ngu-van/nghien-cuu-khoa-hoc/thanh-ngu-tuc-ngu-quan-ngu-va-dien-co-trong-cau-doi-nom-cua-nguyen-khuyen-162.html

N.D. (2016). Chuyện về Nguyễn Hữu Cầuhttp://baobinhphuoc.com.vn/Content/chuyen-ve-nguyen-huu-cau-68945

Nguyễn Hồng Lam (2012). Một chữ, nửa thế kỷ tranh cãihttp://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Mot-chu-nua-the-ky-tranh-cai-329952/

Nguyễn Mộng Giác (1995). Ngô Thì Nhậm, Khuôn mặt trí thức lớn thời Tây Sơn. https://nguyenmonggiac.com/tieu-luan-tuy-but/95-ngo-thi-nham-khuon-mat-tri-thuc-lon-thoi-tay-son.html

Nguyễn Sơ Đông (2013). Cuối năm nói chuyện câu đốihttp://www.advite.com/Cuoi_Nam_Noi_Chuyen_Cau_Doi.htm

Nguyễn Thanh Tùng (2014). Cống người vàng thế thân: Từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian (phần 2)http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamtrungdai/tabid/102/newstab/323/Default.aspx

Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2018). Một số truyền thuyết sai lầm về Cao Bá Quát. https://trithucvn.net/van-hoa/mot-so-truyen-thuyet-sai-lam-ve-cao-ba-quat.html

Phan Nam Sinh (2015). Cha tôi, ông Phan Khôihttps://banvannghe.com/a5940/phan-nam-sinh-cha-toi-ong-phan-khoi

Phan Thuận An (2015). Tác giả bài thơ “Khóc Bằng phi” không phải là vua Tự Đức. https://www.dutule.com/a6422/phan-thuan-an-tac-gia-bai-tho-khoc-bang-phi-khong-phai-la-vua-tu-duc

Phạm Thuận Thành (2012). Đưa ca dao sánh với Kinh Thihttp://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx?newsId=259683

Phạm Đức Duật (2001). Câu đối Nôm viếng Phan Chu Trinh. http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=187&Catid=480

Phạm Hy Sơn. Ý nghĩa câu đối ở đền thờ Hai Bà Trưnghttp://www.hungsuviet.us/lichsu/Phamhysoncaudoihaiba.html

Shiroi (2009). Câu đối và cách chơi chữhttp://www.daovien.net/t92-topic

Tống Hoa (2016). Chuyện ngạo nghễ của Chu Thần Cao Bá Quáthttps://news.zing.vn/chuyen-ngao-nghe-cua-chu-than-cao-ba-quat-post686045.html

Trần Thị Thanh (2000). Câu đối ở chùa Linh Mụhttp://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=390&Catid=480

Trần Thị Thanh (2009). Câu đối Hán Nôm hiện còn ở đại nội Huế. http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1252&Catid=480

Vi Khuê (2005). Ngày xuân nói chuyện câu đốihttp://www.vietbang.com/index.php?c=article&p=1262

Vương Hồng Sển (2004). Sài Gòn năm xưa. Nhà Xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.

Wikipedia. Giang Văn Minhhttps://vi.wikipedia.org/wiki/Giang_V%C4%83n_Minh

Wikipedia. Hoàng Cao Khảihttps://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_Cao_Kh%E1%BA%A3i

Wikipedia. Liễu Hạnh công chúahttps://vi.wikipedia.org/wiki/Li%E1%BB%85u_H%E1%BA%A1nh_c%C3%B4ng_ch%C3%BAa

Wikipedia. Phan Khôi. https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Kh%C3%B4i

Wikiquote (2017). Câu đối của các sĩ phu yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_c%E1%BB%A7a_c%C3%A1c_s%C4%A9_phu_y%C3%AAu_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_n%E1%BB%ADa_cu%E1%BB%91i_th%E1%BA%BF_k%E1%BB%B7_XIX#Phan_Thanh_Giản

Wikiquote (2017). Câu đối khắc tại các đình, chùa, đền, miếu, phủ, điện tại Bắc Bộ Việt Nam. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_kh%E1%BA%AFc_t%E1%BA%A1i_c%C3%A1c_%C4%91%C3%ACnh,_ch%C3%B9a,_%C4%91%E1%BB%81n,_mi%E1%BA%BFu,_ph%E1%BB%A7,_%C4%91i%E1%BB%87n_t%E1%BA%A1i_B%E1%BA%AFc_B%E1%BB%99_Vi%E1%BB%87t_Nam

Wikiquote (2017). Câu đối và giai thoại đối đáp về Phan Bội Châu. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_v%C3%A0_giai_tho%E1%BA%A1i_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A1p_v%E1%BB%81_Phan_B%E1%BB%99i_Ch%C3%A2u

Wikiquote (2017). Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua chúa triều Nguyễnhttps://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_v%C3%A0_nh%E1%BB%AFng_giai_tho%E1%BA%A1i_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A1p_c%E1%BB%A7a_c%C3%A1c_v%E1%BB%8B_vua_ch%C3%BAa_tri%E1%BB%81u_Nguy%E1%BB%85n

Wikiquote (2018). Câu đối có giai thoại sự tích và thơ đối đáp Việt Nam. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_c%C3%B3_giai_tho%E1%BA%A1i_s%E1%BB%B1_t%C3%ADch_v%C3%A0_th%C6%A1_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam#C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A3_s%C6%B0u_t%E1%BA%A7m_%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c_giai_tho%E1%BA%A1i_s%E1%BB%B1_t%C3%ADch_v%C3%A0_nhi%E1%BB%81u_%C4%91%C3%A1p_%C3%A1n

Wikiquote (2018). Câu đối của các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_c%E1%BB%A7a_c%C3%A1c_nh%C3%A0_ho%E1%BA%A1t_%C4%91%E1%BB%99ng_c%C3%A1ch_m%E1%BA%A1ng_Vi%E1%BB%87t_Nam_n%E1%BB%ADa_%C4%91%E1%BA%A7u_th%E1%BA%BF_k%E1%BB%B7_20#Phan_Văn_Trị_(1830-1910)

Wikiquote (2018). Câu đối của các nữ sĩhttps://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_c%E1%BB%A7a_c%C3%A1c_n%E1%BB%AF_s%C4%A9

Wikiquote (2018). Câu đối và giai thoại đối đáp của Nguyễn Khuyến. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_v%C3%A0_giai_tho%E1%BA%A1i_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A1p_c%E1%BB%A7a_Nguy%E1%BB%85n_Khuy%E1%BA%BFn

Wikiquote (2018). Câu đối về các danh nhân đương đạihttps://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_danh_nh%C3%A2n_%C4%91%C6%B0%C6%A1ng_%C4%91%E1%BA%A1i

Wikiquote (2018). Câu đối về các danh nhân thời Lê, Mạc. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_danh_nh%C3%A2n_th%E1%BB%9Di_L%C3%AA,_M%E1%BA%A1c

Wikiquote (2019). Câu đối sử dụng chung trong các trường hợp cụ thể cố định. https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i_s%E1%BB%AD_d%E1%BB%A5ng_chung_trong_c%C3%A1c_tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_h%E1%BB%A3p_c%E1%BB%A5_th%E1%BB%83_c%E1%BB%91_%C4%91%E1%BB%8Bnh

Tổng hợp: Diệp Minh Tâm – 29-Jan-2019

One thought on “Câu đối

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *