Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn học phương Đông – A đến H
Diệp Minh Tâm
2020
Giới thiệu
Trong khi thưởng thức văn học kể cả cổ thi và tài liệu lịch sử, tôi thường tìm hiểu thêm về điển tích, thành ngữ, nhân vật, địa danh và đặc ngữ khác, rồi qua đó lại say mê với các mẩu chuyện có liên quan. Vì thế, tôi tập trung lại các thông tin vào một hồ sơ để tiện tham khảo khi cần. Sự lựa chọn chủ đề là do ngẫu nhiên, thấy gì hay hay thì thu thập, chứ không tìm kiếm có hệ thống. Vì lý do này mà bạn đừng thắc mắc tại sao bài viết đề cập đến người này mà bỏ sót người kia, hoặc tại sao nêu ra quyển sách này mà phớt lờ quyển sách nọ.
Qua bao năm tháng thu từ bốn phương để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, tôi không ghi tất cả các nguồn tham khảo. Nhưng việc này nhiều khi không có ý nghĩa lắm bởi vì cùng một câu chuyện có những dị bản, và các nguồn thường phát tán và đăng lại nguồn trước nên khó truy ra nguồn nguyên thủy. Nhất là khi bài viết không có tên tác giả và không ghi năm đăng tải.
Lại có tài liệu ghi nguồn không rõ ràng, ví dụ như chỉ ghi tựa sách và tên nhà xuất bản, trong khi không có tên tác giả và năm xuất bản. Tôi không ghi nguồn như thế để tránh độc giả bị rối trí vì những nguồn mơ hồ, chẳng hạn như khi tư liệu thứ hai ghi cùng tựa sách nhưng nhà xuất bản khác và tư liệu thứ ba ghi cùng tựa sách nhưng có tên tác giả. Ta không thể nhận ra đó là cùng một sách hoặc hai, ba sách khác nhau. Thông tin trên Internet xô bồ là vậy!
Có thể xem đây là một từ điển, và hơn thế nữa: là những mẩu chuyện hoặc được ghi trong chính sử hoặc được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Ý nghĩa nằm ở các mặt văn học, hoặc lịch sử, triết lý, ngôn ngữ, âm nhạc nghệ thuật, v.v.
Tùy bạn xem qua để có thông tin sơ bộ, từ đó bạn có thể tìm hiểu thêm. Tôi giới hạn trong các nguồn cổ văn Việt Nam và Trung Quốc.
Các đề mục
am mây: am là nhà thờ Phật nhỏ, mây có ý chỉ chỗ xa xôi yên tĩnh, ít người lui tới. Am mây chỉ nơi tu hành yên tĩnh.
Lục Vân Tiên, lúc Hớn Minh đem Vân Tiên về chùa:
Lão tiều trở lại lâm sơn
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.
An Dương Vương: GS TS Lê Mạnh Thát (tức Thượng tọa Thích Trí Siêu) đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử Việt Nam. Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt sử lược, rồi Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục… cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện.
Theo GS TS Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu không rõ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ 6, thứ 7), riêng Nam Việt chí thì có nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ 5), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đã rõ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu.
Kết luận là: Nước Nam Việt không bao giờ lan ra khỏi địa phận Tỉnh Quảng Đông, một phần Tỉnh Hồ Nam và Quý Châu cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không phải mới. “Tư không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí cũng ghi: “Nước Nam Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp biển. Đất Giao Chỉ gọi là Nam duệ”. Viết như thế, Giao Chỉ rõ ràng không thuộc đất Nam Việt. Một khi đã kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ gì đến nước ta. Phần gọi là “Triệu kỷ” trong các cuốn sử ta từ Đại Việt sử lược trở đi do thế đáng nên loại bỏ”.
Theo GS TS Lê Mạnh Thát, việc dùng những tài liệu không đáng tin cậy – từ Đại Việt sử lược trở đi – để ghi vào sử sách nước nhà rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, là do “những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng”. Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng “những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thư như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát…, dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn”. Tuy nhiên, theo ông, “nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần” so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm.
Nguồn: H.H.V. (2008).
An Nam chí lược: Theo Wikipedia_An Nam chí lược, đây là một bộ sách sử viết bằng văn xuôi chữ Hán do Lê Tắc (? – ?) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14. Lê Tắc trước là họ Nguyễn sau đổi thành họ Lê, là một sử quan sống ở thời triều Vua Trần Thái Tông. Khi người Nguyên phát binh xâm lược Đại Việt lần thứ hai, Lê Tắc cùng chủ là Trần Kiện đầu hàng. Quân Nguyên bại, Lê Tắc chạy sang Trung Quốc, được Vua Nguyên phong chức. Quân Nguyên phát binh lần 3, Lê Tắc theo sang, lại phải bỏ chạy về Trung Quốc, sau lấy vợ và sống ở Hán Dương. Ông soạn sách An Nam chí lược trong thời gian sống lưu vong trên đất Đại Nguyên.
Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa, v.v… của An Nam (Việt Nam ngày nay) từ ban đầu đến cuối đời Trần. Nguyên bản có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển. Có lẽ đây là một công trình khảo cứu về Việt Nam lâu đời nhất còn lại, do một người Việt viết.
Không biết chính xác năm khởi soạn. Tuy nhiên, căn cứ vào ba bài Tựa viết cho An Nam chí lược vào năm Đinh Mùi (1307), có lẽ bộ sách được biên soạn trước đó, đến năm ấy thì tác phẩm đã cơ bản hoàn thành, và còn được tiếp tục bổ sung thêm trong nhiều năm sau. Một số nhà nghiên cứu cho rằng bộ sách đã hoàn tất vào năm 1333.
Một số nhà nghiên cứu người Việt có ý kiến cho rằng tác giả đã đứng trên quan điểm của người Nguyên để soạn An Nam chí lược, bằng lời lẽ xu phụ, nên đã bị một số sĩ phu khinh miệt là “tiểu nhân nho”, là “phản bội tổ quốc”. Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng, tuy làm quan cho nhà Nguyên, nhưng tác giả vẫn có lòng tưởng nhớ cố hương, và cách soạn sách theo quan điểm nhà Nguyên là việc bắt buộc phải uốn theo triều đại mà ông phục vụ. Mặc dù có những hạn chế về mặt quan điểm, nhưng An Nam chí lược vẫn được coi là một bộ sách lớn, xuất hiện sớm, có giá trị nhiều mặt, do một người có trình độ học vấn cao viết về thời đại mình đang sống (thời nhà Trần) trở về trước. Khái quát về mặt ưu và khuyết của tác phẩm, GS. Nguyễn Huệ Chi, viết:
Đây là một bộ sách tập hợp sử liệu và văn liệu về Việt Nam, thiên về một phương diện: trình bày mối quan hệ lịch sử nhiều mặt giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do được viết trong thời gian quy phụ “Thiên triều”, tác giả phải tô đậm tính chất lệ thuộc trong mối quan hệ ấy. sử bút của tác giả vì thế mất tính khách quan, và ngôn từ trong sử cũng như trong thơ thường lộ rõ giọng người quy phụ. Tuy nhiên, cũng nhờ được tiếp xúc với sách vở Trung Quốc thuở ấy, tác giả đã ghi lại được khá nhiều tư liệu hiếm hoi liên quan đến lịch sử, văn hóa Việt Nam. Phần thư tín ngoại giao giữa hai nước cũng cung cấp được ít nhiều tác phẩm văn học thuộc loại hình văn xuôi luận chiến vốn có truyền thống rất sớm ở nước ta…
an nguy: an là yên ổn, nguy là cao, ý nói ngồi cao thường hay sợ. Hai chữ có nghĩa trái ngược nhau, chỉ những tình huống khác nhau trong đời.
Hạnh Thục ca:
Giúp lành còn cậy, an nguy có trời.
an thổ: an có nghĩa bình yên, thổ có nghĩa đất. Cụm từ này chỉ việc chôn bình yên dưới đất.
Lục súc tranh công:
Khi muông thác, tống chung an thổ.
Anh Vũ Châu: một bãi có tên gọi theo loài chim anh vũ, nằm trên Sông Trường Giang, phía tây-nam Huyện Hán Dương, Tỉnh Hồ Bắc. Thời Tam quốc, Nễ Hành (173–198) có tài văn thơ và hùng biện nhưng tính ngạo mạn khinh người, bị Tào Tháo ghét, mượn tay Hoàng Tổ giết chết, xác chôn tại bãi này.

Anh Vũ Châu – Lý Bạch, Lê Nguyễn Lưu dịch thơ
Sóng Ngô, Anh Vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh Vũ về tây qua Núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!
Anh Vũ cũng được nhắc đến trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu bất hủ. Xem mục: Lầu Hạc Vàng.
ác vàng: Do chữ kim ô có nghĩa quạ vàng, chỉ mặt trời, theo truyền thuyết trên mặt trời có con quạ vàng.
Đoạn trường tân thanh, tả mộ Đạm Tiên:
Trải bao thỏ lặn, ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Đoạn trường tân thanh, khi Kiều nghĩ về số phận của mình:
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
“Thỏ” hoặc “thỏ bạc” chỉ mặt trăng vì theo truyền thuyết trên mặt trăng có con thỏ ngọc giã thuốc trường sinh, “ác” tức ác vàng hay “kim ô” chỉ mặt trời vì theo truyền thuyết trên mặt trời có con quạ vàng. Hai đoạn có nghĩa: trải bao lần mặt trăng lặn, mặt trời xế bóng, tức thời gian dài đã trôi qua.
Xem thêm mục: thỏ bạc.
ái hà: nghĩa đen: sông yêu. Chữ Phật có nghĩa lòng dục như sông dài, người trần chìm đắm không thể thoát ra được.
Văn tế thập loại chúng sinh:
Cầu ái hà kẻ ngược người xuôi.
Án Anh: Theo Wikipedia_Yến Anh, Án Anh (578 –501 tCN) có khi được gọi là Yến Anh do kỵ húy (?), là một nhân vật lịch sử sống và làm quan hai triều vua Tề Trang Công và Tề Cảnh Công thời Xuân Thu. Ông có dáng thấp nhỏ nhưng có trí tuệ thông minh và là một vị quan tài ba. Ông có tài xử thế và ngoại giao giỏi. Một số sách viết trại tên ông thành Án Anh.
Khi Án Anh đi sứ nước Sở, Sở Vương muốn làm mất mặt nước Tề nên bày nhiều trò để hạ nhục. Nhưng Án Anh bằng tài trí của mình đã vượt qua tất cả để giữ quốc thể.
Khi đến nước Sở, Vua Sở muốn thử tài Án Anh nên khi Án Anh định vào cung thì Vua Sở truyền lệnh không mở cửa lớn, chỉ cho người bảo vệ bảo Án Anh chui vào cửa nhỏ (cửa dành cho chó đi) với lý do là sứ giả nước Tề thấp bé, đi vào cửa nhỏ ở bên cũng được. Án Anh đáp: “Nay ta sang nước Sở thì phải đi vào cổng lớn mới đến nước Sở, nếu chui vào cổng chó này chẳng nhẽ ta lại đến nước chó chứ hả?” Sở Vương nghe được bèn mở cổng lớn cho ông vào.
Khi Sở Vương vời tiếp kiến, ông hỏi Án Anh: “Nước Tề hết người rồi sao lại cử sứ giả bé nhỏ thế kia?”. Án Anh đáp: “Nước Tề dân đông, xẻ vạt áo có thể che mặt trời, phun nước bọt có thể gây lụt, thiếu gì người tài, thân hình cao lớn. Nhưng lệ nước: Đi sứ sang nước nào thì cử người có thân hình, trí dũng tương ứng với nước đó”. Vua Sở chịu phục
Đến giữa chừng, Sở Vương đang tiếp Án Anh thì có mấy tên lính dắt một tù binh đi ngang qua, Sở Vương liền kêu lại hỏi người kia là người nước nào, bị tội gì, thì một tên lính cho biết người này nguyên là người nước Tề, bị bắt vì phạm tội ăn trộm ngựa. Sở Vương cho lui rồi quay sang hỏi Án Anh: “Người nước Tề hay trộm cắp vậy sao?”
Án Anh đáp: “Cây quýt trồng ở phương bắc thường cho quả ngọt, trái sai, nhưng khi đem trồng ở phương Nam thì quả đã chua, lại còn ít nữa. Tại sao thế? Đó là do phong thổ vậy. Người nước Tề giữ đạo luân thường, xưa nay vốn không trộm cắp, nhưng khi sang làm dân nước Sở lại sanh tật xấu. Tại sao thế? Âu cũng là do phong thổ vậy”. Sở Vương phải chịu phục.
Án Anh nổi tiếng nhờ vụ án chia đào, theo đó trong một dịp Vua Tề mở tiệc chiểu đãi Lỗ Chiêu Công cùng quan đại phu Thúc Tôn Nhược, Án Anh dùng một quả đào kết hợp với thủ thuật phân chia, nói khích khiến cho Tam Kiệt của nước Tề thi nhau tự sát, qua đó trừ được cái gai trong mắt của Án Anh.
Tam Kiệt (ba dũng sĩ nổi tiếng, đó là Công Tôn Tiệp, Cổ Giả Tử, Điền Khai Cương) vốn có sức mạnh lại có công lớn, thường hay ỷ mình nên kiêu ngạo với bá quan. Họ liên kết với nhau, lại còn liên kết một số cường thần trong triều, có ý không tốt. Từ lâu Án Anh muốn trừ khử mà chưa có dịp.
Nhân dịp đang chiêu đãi này, Án Anh tâu: “Nay vườn đào đã có quả chín, xin Chúa công cho trẩy để chúc thọ hai vua.” Nhà Vua sai người đi hái, Án Anh đi theo. Một lúc Án Anh đem đào vào, và cho biết giống đào quý này có tên là “Vạn thọ Kim Đào”, còn gọi là Bàn Đào, trồng đã ba mươi năm, từng ra hoa mà chưa từng kết trái. May sao năm nay được lứa đầu tiên. Toàn cây đào có chín quả, chỉ có sáu quả chín.
Án Anh dâng rượu và mời Lỗ Chiêu Công một quả đào. Tiếp đó Án Anh dâng rượu và mời Tề Cảnh Công một quả. Cảnh Công lại ban cho Thúc Tôn Nhược và Án Anh mỗi người một quả (còn dư lại hai quả). Ai nấy ăn vào thấy mùi vị ngon ngọt sảng khoái.
Án Anh quay xuống các quan, nói: “Theo lệnh C,húa công truyền cho các quan, quan nào thấy mình có nhiều công trạng được phép tâu lên để lãnh đào.”
Dũng sĩ Công Tôn Tiệp đứng ra nói: “Ngày xưa chúa công đi săn bị con cọp gấm chụp, tôi ra sức giết nó, cứu được chúa công, công ấy như thế nào?” Án Anh nói: “Cái công bảo giá ấy cao ngất trời, còn gì hơn, đáng được ăn đào lắm.” Nói rồi cho Công Tôn Tiệp một quả.
Cổ Giả Tử đứng ra nói: “Ngày xưa chúa công qua sông Hoàng Hà bị con giải yêu quái làm nổi sóng, sắp đắm thuyền hại chúa công, tôi nhảy xuống nước giết giải. Công ấy thế nào?” Tề Cảnh Công nói: “Đó mới là cái công to lớn nhất đời. Đáng được uống rượu và ăn đào.” Án Anh cho Cổ Giả Tử uống rượu và ăn đào.
Đào đã hết. Điền Khai Cương giờ bước ra nói: “Tôi phụng mệnh Chúa công đi đánh nước Từ, bắt được tướng sĩ nước Từ. Các vua Từ, Đàm, Cử cả sợ mới tôn Chúa công tôi làm minh chủ. Cái công ấy có xứng đáng để được ăn đào không?”
Án Anh nói: “Công của tráng sĩ lớn gấp mười so với hai người trước, nhưng giờ đào đã hết, tạm uống chén rượu, chờ năm khác vậy.” Điền Khai Cương nói: “Giết hổ, chém giải chỉ là cái công vặt, còn ta xông pha mũi tên hòn đạn, biết bao khó nhọc, thế mà không được ăn đào, chịu nhục trước mặt hai vua, để tiếng cười về sau, còn mặt mũi nào sống nữa!” Nói rồi rút gươm tự vẫn.
Công Tôn Tiệp giật mình nói lớn: “Công ta nhỏ mọn mà được ăn đào, không nhường cho bạn sao gọi là liêm, không chết theo bạn sao gọi là dũng?” Công Tôn Tiệp cũng đâm cổ chết theo.
Cổ Giả Tử la lên: “Ba chúng ta đã kết nghĩa với nhau. Nay hai bạn đã chết rồi, ta sống làm gì!” Nói rồi cũng tự sát.
Yến Tử xuân thu kể một câu chuyện răn đời. Một hôm Án Anh đi việc quan, như thường lệ dùng xe ngựa kéo, có anh đánh xe theo hầu. Vợ anh đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt ngước lên trời, vẻ dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng toan bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: “Tại làm sao?”
Nàng nói: “Án Tử, người gầy thấp bé nhỏ làm quan nước Tề, tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông ấy vẫn rất khiêm nhường, xem mình như chẳng bằng ai. Chớ như chàng, cao lớn đẫy đà, chỉ mới làm một kẻ đánh xe tầm thường, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi”.
Từ đó, anh đánh xe bỏ được bộ tịch vênh váo, chữa được tính nông nổi. Án Anh thấy thế lấy làm lạ hỏi. Anh đánh xe đem việc nhà kể lại, Án Anh bèn cất cho làm đại phu.
án đồ: Từ chữ an đổ (yên vách). Nói về chính sách yên dân, theo lề thói cũ là làm cho dân được an cư lạc nghiệp.
Hán thư: Bái Công đóng quân ở Bái Thượng, triệu tập hào kiệt lại nói: “Ta cam kết với các vị phụ lão: Pháp luật rút gọn lại 3 điều: Ai giết người thì phải chết, làm người bị thương và ăn trộm thì phải tội. Bỏ tất cả luật pháp nhà Tần, quan dân sống yên ổn như cũ.”
án đồ sách ký: án có nghĩa xét theo, đồ là hình vẽ, sách có nghĩa tìm tòi, ký là giống ngựa hay, chạy được nghìn dặm. Cả câu có ý nói dựa vào hình vẽ để tìm ngựa.
Bá Nhạc sống vào thời Xuân Thu là người có tài xem tướng ngựa, có một quyển Mã kinh (Kinh điển về ngựa) còn truyền ở đời. Con của Bá Nhạc lấy quyển sách của ông, vẽ đồ hình và miêu tả ngựa rồi theo đó để đi kiếm ngựa. Không ngờ chỉ kiếm được một con ngựa hung tợn, không sao cưỡi được.
Thành ngữ trên chỉ cách làm việc theo lý thuyết suông mà thiếu trải nghiệm thực tế.
án lệ chi viên: có nghĩa là vụ án vườn vải, ở đây là vườn vải của Nguyễn Trãi, nơi xảy ra một vụ án lớn.
Nước Đại Việt, Vua Lê Thái Tông (trị vì 1434–1442) tuy còn trẻ tuổi nhưng thông minh. Song cũng vì ít tuổi lại không có người chính trực phò tá, cho nên say đắm tửu sắc, làm lắm điều không được chính đính. Thấy Nguyễn Thị Lộ là nàng hầu của Nguyễn Trãi, dung mạo đẹp, văn chương hay nên đòi vào cung, cho làm chức Lễ nghi Học sĩ.
Tháng 7 âm lịch, năm 1442, Vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Bấy giờ, Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở Côn Sơn, Huyện Chí Linh, nhà Vua ghé vào thăm. Mùng 4 tháng 8 Vua về đến Lệ Chi viên ven sông Thiên Đức thuộc Huyện Gia Định (nay thuộc Huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ. Rồi ông qua đời ở Lệ Chi viên.
Về sau, có người làm một bài thơ tứ tuyệt:
Xung linh tiễn tộ tại tiền quy
Nội ngoại tu nhương, vọng hữu vi
Nhất tự Lễ nghi thừa sắc tiếu
Lệ Chi viên lý nguyệt ba di
Nghĩa:
Tuổi trẻ lên ngôi giữ phép nhà
Trong ngoài sửa đẹp trổ tài ba
Từ khi nữ sữ vào hầu chực
Vườn vải đêm khuya bóng nguyệt tà.
Theo Nguyễn Công Lý (2013) và Wikipedia_Vụ án Lệ Chi viên, có 3 nguồn chính sử đề cập đến việc Thái Tông qua đời:
- Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi ngắn gọn: “Vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng”.
- Lịch triều hiến chương loại chí kết án Nguyễn Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua.
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi Vua bị sốt rét.
Hoàng hậu đổ tội cho Nguyễn Trãi âm mưu cùng Thị Lộ giết vua, cùng triều thần kết tội tru di ba họ Nguyễn Trãi. Thương thay một vị lão thần có tài kinh bang tế thế, một tay rường cột trong công cuộc giải phóng đất nước và dựng nên sự nghiệp Lê triều!
Theo Khâm định…, ngay khi Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, nhiều người đã cho là ông bị oan.
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử đầu tiên viết về vụ án Lệ Chi viên. Bộ sử này được sử thần Ngô Sĩ Liên biên soạn vào năm 1479 theo lệnh Vua Lê Thánh Tông, tức 37 năm sau khi xảy ra vụ thảm án. Bộ sử này ghi: “Trước đây, Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy rất ưa, liền cợt nhả với thị. Đến đây, Vua đi tuần về miền đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy.”
Nguyễn Công Lý (2013) cho rằng việc này nên xem xét lại. Bởi lẽ, trong hậu cung của Lê Thái Tông thiếu gì phi tần mỹ nữ trẻ trung đẹp đẽ, tại sao nhà Vua lại mê đắm một phụ nữ đã có chồng, lớn hơn mình đến 30 tuổi, tức hơn tuổi của mẹ mình?
Ngược lại, việc mê đắm một phụ nữ lớn tuổi nhưng tài hoa là chuyện vẫn có thể xảy ra, bởi vì người phụ nữ ấy nổi bật trong đám phi tần, càng đoan trang càng tạo sự thu hút khó cưỡng đối với một ông vua đa tình.
Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt không lâu thì Vua Lê Nhân Tông có lần đến Bí thư các, đọc Dư địa chí của Nguyễn Trãi rồi phát biểu rằng: “Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp loạn tặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng, không may bị người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội rất là đáng thương”. Lời nói trên của nhà Vua hàm ý minh oan cho Ức Trai, dù đó chỉ là lời phát biểu, có thể xem như lời dụ, chứ chưa phải là văn bản chính thức, mà sau này Lý Tử Tấn, người bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi có ghi lại trong phần Thông luận sách Dư địa chí. Nhưng lời phát biểu đó lại đổ hết mọi tội lỗi cho bà Nguyễn Thị Lộ!
Đến năm 1464, Vua Lê Thánh Tông mới chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng tước Tán trù bá, sai tìm con cháu còn sót lại của ông để bổ chức quan, cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Rồi ba năm sau (1467) ban chiếu sai văn thần Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn còn lại của ông (bộ sưu tầm này đã mất, hiện chỉ còn bài Tựa viết năm 1480).
Tiếp theo, năm 1494, nhà Vua còn ngợi ca Nguyễn Trãi qua câu thơ:
Quân minh thần lương – Lê Thánh Tông
Vua sáng tôi hiền – dịch Nôm:
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh.
Dịch:
Lòng Ức Trai rạng tỏa văn chương
Bụng Vũ Mục chứa đầy binh giáp.
(Về Vũ Mục, xem: Nhạc Phi)
Câu thứ nhất từng được dịch sai là:
Ức Trai lòng sáng tựa Sao Khuê
Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi Nguyễn Trãi về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách: khuê tảo là từ kép đối với binh giáp; khuê là ngôi sao chủ về văn chương, tảo là rong rêu. Nếu dịch ra là “Sao Khuê” tức là bỏ từ “tảo” trong từ kép, làm lạc nghĩa của từ kép này.
Cách dịch (sai cố tình?) ví Nguyễn Trãi với Sao Khuê đem đến cho đời một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi, có lẽ vì thế mà lời dịch dễ được thiên hạ chấp nhận?
Câu hỏi đặt ra ở đây là, tại sao Thánh Tông chỉ chiêu tuyết cho cụ Nguyễn Trãi mà không minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ, lại truy tặng tước thấp hơn trước một bậc, trong khi vợ chồng Nguyễn Trãi lại là ân nhân của mẹ con nhà vua? Đây có lẽ là một vấn đề tế nhị trong nội bộ hoàng tộc, lại là chuyện đã lỡ rồi và có lẽ nhà Vua không muốn khơi lại chuyện đau lòng đã qua, tốt nhất là cứ theo lời kết tội cũ cho yên chuyện.
Sau đó, các triều đại nhiều lần minh oan Nguyễn Trãi bằng cách gia phong tước, chẳng hạn: năm 1512, Lê Tương Dực truy thăng tước Tế Văn hầu (ngang như cũ); năm 1822 Minh Mạng truy thăng tước Khê Quận Công (cao hơn cũ), ban chiếu sai văn thần Dương Bá Cung là người cùng làng Nhị Khê sưu tầm di văn của Nguyễn Trãi, dịp này ông cùng Nguyễn Thâm (cháu trực hệ của Nguyễn Trãi) soạn lại gia phả họ Nguyễn và viết lời Tựa. Công trình của Dương Bá Cung Ức Trai di tập gồm 07 quyển được Phúc Khê đường khắc in vào năm 1868.
Về tội danh, giữa chính sử đã ghi và chiếu của triều đình minh oan có mâu thuẫn. Bởi lẽ, sau năm 1442, Lê Nhân Tông khi đọc Dư địa chí phát biểu với ý minh oan Nguyễn Trãi và trách bà Lộ, rồi đến năm 1464 và 1467, Lê Thánh Tông chính thức ban chiếu minh oan. Điều đó cho thấy trong suy nghĩ của các vua bấy giờ, Nguyễn Trãi là vô tội. Vậy mà khi phụng chiếu viết sử vào năm 1479, Ngô Sĩ Liên lại gán cho bà Lộ cái tội đã giết vua, làm vạ lây đến Nguyễn Trãi và ba đời của tộc họ này! Điều đó có nghĩa: bà Lộ là thủ phạm và Nguyễn Trãi là tòng phạm.
Trong khi đó, Ngọc phả họ Đinh chép lại lời của Hoàng Thái hậu rằng: “Nguyễn Trãi chủ mưu sai Thị Lộ đầu độc nhà vua”, tức Nguyễn Trãi là thủ phạm và bà Lộ là tòng phạm.
Trong giới sử học hiện nay, có ý kiến của các nhà chuyên môn như Vũ Khiêu, Phan Huy Lê, Hoàng Đạo Chúc, Phan Văn Các, Đinh Xuân Lâm cho rằng: còn một người nữa chịu oan khuất chưa từng được minh oan là bà Nguyễn Thị Lộ. Trong hội thảo khoa học về Nguyễn Thị Lộ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bà đã bị triều đình nhà Lê đương thời (do Thái hậu Nguyễn Thị Anh chấp chính cho Vua nhỏ Lê Nhân Tông mới lên 2 tuổi) vu khống.
Nhóm tác giả nghiên cứu lịch sử đương đại Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ trong tác phẩm Nhìn lại lịch sử, xuất bản năm 2003, cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ của Vua Lê Thái Tông.
Lần theo manh mối từ những mảnh vụn lịch sử rồi chắp nối lại, người ta có thể nêu lại đầu mối sự việc như sau.
Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi, nhưng trước khi mất đã có bốn con trai. Con lớn nhất là Lê Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên việc tranh chấp ngôi thái tử xảy ra giữa các bà vợ Vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh là mẹ của Bang Cơ.
Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được Vua sủng ái nên năm 1441 Vua truất ngôi thái tử của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được Vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con Vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà phi khác của Vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách vu hãm bà Ngọc Dao, khiến bà Ngọc Dao bị giam ở lãnh cung. Tuy nhiên vợ chồng Nguyễn Trãi lại hết lòng bảo vệ, xin Vua tha cho bà Ngô Thị Ngọc Dao.
Xin được rồi, vợ chồng Nguyễn Trãi lại tiếp tục đưa bà Ngọc Dao ra tá túc tại chùa Huy Văn (nay ở đường Chùa Bộc, Hà Nội) rồi bà sinh Hoàng tử Tư Thành ở đấy vào ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (dương lịch 24-8-1442). Sau đó lại đưa mẹ con bà Ngọc Dao về tá túc tại một ngôi chùa ở Từ Liêm (hiện chùa mang tên Thánh Chúa, nằm trong khuôn viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tên chùa là do Vua Lê Thánh Tông đặt khi mới lên ngôi, ý nói nơi đây vị chúa thánh minh đã từng tá túc; việc này văn bia ở hai ngôi chùa trên có ghi lại). Tiếp theo Nguyễn Trãi mới đưa mẹ con bà Ngọc Dao ra trú ở vùng An Bang (nay là Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh), nơi ông trị nhậm với cương vị Ngự sử Đông Bắc đạo.
Việc làm của vợ chồng Nguyễn Trãi khiến họ trở thành cái gai trong mắt Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh.
Hơn nữa, lúc bấy giờ có nhiều lời đồn đại rằng Bang Cơ không phải là con của Vua Thái Tông, vì Nguyễn Thị Anh được tiến cung rồi chỉ sáu tháng sau sinh ra Bang Cơ! Các nhà nghiên cứu nói trên tìm được cuốn gia phả họ Đinh mang tựa Ngọc phả họ Đinh của Thái sư Đinh Liệt, trong có chép bài thơ nói về chuyện này, dịch nghĩa:
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
Bất thức hà nhân chủng bảo đa
Chủ kháo Tống khai vi linh dược
Cựu binh tân tửu thịnh y khoa.
“Nhung tân” đọc lái là Nhân Tông, tức chỉ Thái tử Bang Cơ, “thịnh y” tức là Thị Anh. Bài thơ trên được Nguyễn Công Lý dịch thơ như sau:
Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa
Dòng máu ai đây quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha.
Việc này ngoài vợ chồng Nguyễn Trãi, Đinh Phúc và Đinh Thắng, còn có vài đại thần khác có thể đã biết như Thái sư Đinh Liệt, Thái úy Trịnh (Lê) Khả và con là Trịnh (Lê) Quát (bởi được ban quốc tính), Tư khấu Trịnh Khắc Phục và con là Phò mã Đô úy Trịnh Bá Nhai. Chính việc biết rõ này là mầm mống tai vạ về sau cho Nguyễn Trãi và tộc họ của ông cùng các vị trên.
Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, trong lúc con mình còn đang ở ngôi thái tử, Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước. Nhân dịp Vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên bà sai người sát hại Vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.
Sau khi Vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm Thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải chịu án tru di tam tộc.
Nhưng như thế là chưa đủ với Nguyễn Thị Anh. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 9, ngày 9, [năm 1442] giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình có nói là hối không nghe lời của Thắng và Phúc.”
Có lẽ hai hoạn quan Đinh Thắng và Đinh Phúc (là người ghi chép những chuyện cụ thể ở nội cung) đã khuyên Nguyễn Trãi sớm nói cho Vua biết thái tử không phải con vua, nhưng Nguyễn Trãi đã chần chừ không thực hiện. Sau khi hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh giết Đinh Phúc, Đinh Thắng, lại tiếp tục bắt giam Thái sư Đinh Liệt (Đại Việt sử ký toàn thư không nêu lý do): “Mùa thu, tháng 7 [năm 1443] bắt giam Thái phó Lê Liệt (Đinh Liệt).”
Mãi đến tận 5 năm sau là Mậu Thìn, Thái Hòa năm thứ 6 (1448), mới thả: “Mùa hạ, tháng 6 tha cho Lê Liệt ra khỏi lao hầm. Vì cớ bọn người là Lê (Trịnh) Khắc Phục và Công chúa Ngọc Lan, tám người làm trạng tâu khẩn khoản xin nới phép rộng ơn.”
Tại sao sử gia Ngô Sĩ Liên lại ghi chép vụ án khác đi? Có thể ông không có đủ dũng khí!
Cũng có lẽ do Ngô Sĩ Liên đã vướng mắc vào một uẩn khúc khác. Đó là chuyện trước đây ông có dính líu đến vụ Lê Nghi Dân giết em là Bang Cơ để soán ngôi vào năm 1458, nhưng hiện ông vẫn được tân vương Lê Thánh Tông tin dùng, cho trông coi Sử quán. Vì thế mà khi chép sử, ông không thể không cân nhắc cách viết, sao cho hợp với nhà vua, với tâm lý chung của triều thần, nên tốt nhất là viết theo lời luận tội của triều đình trước kia do Bà Nguyễn Thị Anh làm chủ trì.
Về phần Bà Nguyễn Thị Lộ (1400–1442), hậu thế có phán xét riêng. Ít ra trên miền Bắc hiện đã có ba nơi lập đền thờ: ở Thanh Trì (gần nơi vợ chồng bà bị hành quyết khi xưa), ở Xã Tân Lễ, Huyện Hưng Hà, Thái Bình (quê hương bà), và ở Đông Triều (Quảng Ninh).

án Mạnh ngang mày: Nói việc nàng Mạnh khi dâng cơm cho chồng thường nâng ngang mày. Xem mục: Mạnh Quang.
án tuyết: Bàn đọc sách nhờ bóng sáng của tuyết. Tấn thư: Tôn Khang ham học, nhà nghèo không có tiền mua dầu thắp, phải nhờ ánh sáng của tuyết để đọc sách.
áo gấm đi đêm: từ bài đồng dao của Trương Lương đời Tây Hán có nghĩa “Nay có người cách vách rung lục lạc, chỉ nghe tiếng mà không thấy hình; giàu sang mà không về xứ, như áo gấm đi đêm”. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, nguyên Hạng Vũ xưng là Sở Bá Vương chiếm đất Quang Trung là đất hưng vượng, núi non hiểm trở; còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.
Hạng Vương đem binh về hướng tây làm cỏ thành Hàm Dương, giết Vua Tần đã đầu hàng là Tử Anh, đốt cung thất nhà Tần, lửa cháy liền ba tháng không tắt, thu của cải châu báu, phụ nữ đem về đông. Có người (Theo Tiền Hán thư, thì người thuyết khách này là Hàn Sinh, Hán Sở Xuân Thu gọi là Thái Sinh.) nói với Hạng Vương: “Đất Quan Trung bốn phía có núi sông che chở, đất đai phì nhiêu, có thể đóng đô ở đấy để xây dựng nghiệp bá.”
Hạng Vương thấy cung thất nhà Tần đều bị đốt phá, lòng chạnh nhớ, muốn về miền đông, liền nói: “Được phú quý mà không trở về làng cũ thì cũng như mặc áo gấm đi đêm, còn ai biết gì?”
Người ấy nói: “Người ta nói rằng người nước Sở giống ‘những con khỉ đội mũ người’ , quả thực là đúng!”
Hạng Vương nghe vậy, bỏ người đó vào trong vạc dầu.
Tiểu thuyết Hán Sở tranh hùng đưa ra câu chuyện ly kỳ hơn.
Sau khi tiễn Lưu Bang vào Bao Trung, Trương Lương thay áo quần, giả làm một đạo sĩ, lẻn vào thành, lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát, lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu, lúc vào đình chùa, làng mạc, lúc đến nơi chợ búa, phố phường, lưng đeo mấy đồng tiền, tay cầm năm quả táo, hát nghêu ngao, nói vơ nói vẩn. Bọn trẻ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày.
Một hôm, Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng, cho mấy đồng tiền, mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau:
Hổ trong nước lặng, cá lội thảnh thơi
Dầu ai phú quý trong đời
Quê hương chẳng biết, lẽ trời chưa thông
Bóng tối mông lung, người mang áo gấm
Áo kia dầu đẹp chẳng được tiếng khen.
Chỉ dạy vài lượt, đứa bé đã thuộc lòng.
Trương Lương dặn: “Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng: ‘Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát’, đừng nói ta dạy nhé! Nếu em nói như vậy, em sẽ được sống lâu, giàu có, còn nói ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi, em nghe rõ chưa?
Ðứa bé đáp: “Thưa sư cụ, cháu xin vâng. Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng?”
Trương Lương nói: “Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt.”
Nói xong, Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chỗ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức.
Từ khi Bá Vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính.
Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá Vương. Ông không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, ông trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi: “Ai dạy chúng bay hát thế?”
Một đứa trẻ trả đáp: “Trời dạy chúng tôi hát đấy.”
Bá Vương kinh ngạc nghĩ thầm: “Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành. Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy.”
Hôm sau, Bá Vương hội quần thần, phán: “Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết? Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành. Bành Thành thuộc nước Sở, từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc, đất vuông nghìn dậm, chính là chỗ nên đóng đô đó. Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được!”
Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can: “Tâu Bệ hạ, những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra, tuyên đồn nhảm nhí, xin Bệ hạ chớ tin. Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng, chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có Hoàng Hà. Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ. Nhà Châu dùng làm đất hưng vương, nhà Tần lấy chỗ này làm nơi đồ bá. Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa.”
Bá Vương lắc đầu nói: “Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết: Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay.”
Hàn Sinh nói: “Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất, dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh?”
Bá Vương nói: “Thôi, ngươi không cần nói nữa, đành rằng: ‘Bốn phương đâu cũng là trời, người trong bốn bể là tôi một nhà.’ Nhưng ta thích ở đâu thì đóng đô ở đó, hề chi!”
Hàn Sinh nói: “Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà.”
Bá Vương cười lớn, nói: “Ta là vua, đem chí dọc ngang, tung hoành bốn bể, há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao?”
Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm, ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói: “Thường nghe người ta nói: ‘Người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ.’ Lời nói ấy nay xét thấy không sai.”
Bá Vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình: “Hàn Sinh muốn nói gì vậy?”
Tràn Bình không dám giấu, tâu: “Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở.”
Bá Vương vỗ án, hét: “Thế là ý gì?”
Trần Bình nói: “Tâu Bệ hạ, câu nói có nhiều ý. Con khỉ mà cho mặc áo đội mũ vào, tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai.”
Bá Vương nghe xong nổi giận mắng lớn: “Súc sanh! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao?”
Liền truyền Chấp kích lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài. Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy.
Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói: “Hỡi người xứ Hàm Dương ơi! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán Vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ.”
Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh: “Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa! Ông bảo là ông chết oan, nhưng theo tôi, tôi cho là ông chết đáng lắm.”
Hàn Sinh trợn mắt cãi lại: “Tại sao ngươi dám nói thế?”
Hàn Tín nói: “Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa, ông không can?; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt, ông không can?; lúc giết Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng, đốt cung A Phòng, ông không can? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng, dẫu Trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián. Như thế chết là đáng lắm. Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia, chớ có oán hận kẻ hành hình này.”
Nói xong, ném Hàn Sinh vào vạc dầu. Dân chúng đều nhắm mắt thở dài. Trương Lương đứng bên cạnh nghe Hàn Tín nói, kinh sợ, biết không phải là người thường
Hạng Vũ mắc kế Trương Lương vì một câu đồng dao. Hạng Vũ bỏ Hán Trung (nơi địa lợi) cho Lưu Bang, về Bành Thành (nơi hãm địa) đóng đô nên về sau thất bại.
Áp Nha: tức Cảo Áp Nha, người giúp Lưu Vô Song đoàn tụ cùng chồng.
ả Hàn Than: tức Ðào Thị.
ả Lý: Nàng Lý Ký sống vào thời nhà Đường. Theo Sưu thần ký, gia đình Lý Ký rất nghèo, chỉ có nàng là con một. Nàng vẫn cày cục, lam lũ mà không đủ nuôi sống cha mẹ. Bấy giờ trong làng có một cái miếu hoang, trong đó có một con trăn to, đêm đêm vào làng bắt gà vịt, lại còn đón người đi đường. Người làng khủng khiếp, tôn thờ là thần trăn. Quá mê tín, họ lại bày ra tế lễ hàng năm cho thần trăn một người con gái đồng trinh, để thần đừng quấy phá, hại người. Họ tìm mua gái nhà nghèo để làm lễ vật tế thần.
Nàng Lý thấy mình không nuôi sống nổi cha mẹ lấy làm buồn khổ. Tương lai đen tối, nàng thấy cần có một số tiền để cho cha mẹ an dưỡng lúc tuổi già, nên nàng lén cha mẹ, bằng lòng xin bán mình làm vật hy sinh
Ðến ngày lễ, người làng dẫn Lý Ký đến gần miếu, trói nàng vào một cội cây rồi hối hả bỏ chạy về. Lý Ký vốn con nhà nghèo, hằng ngày phải vào rừng đốn củi đổi gạo về nuôi cha mẹ nên có sức mạnh, tinh thần cứng cỏi, không sợ gì. Nàng liền tự cởi trói mình, bẻ cây làm gậy quyết sống chết với thần trăn.
Cuối cùng Lý Ký giết được trăn. Người trong làng rất hoan nghênh nàng, chẳng những là người con có hiếu mà còn là vị cứu tinh của dân. Vì từ đó không còn phải lo sợ nạn trăn dữ gieo rắc tai họa, làm hao tổn mạng người vô lý nữa. Tiếng đồn vang đến Ðông Việt Vương, nhà Vua truyền vời nàng về triều phong làm thứ hậu.
Đoạn trường tân thanh:
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
ả Tạ: xem Tạ Ðạo Uẩn.
Ải Du: Cửa ải phía Tây Bắc Trung Quốc. Mông Ðiềm đời Tần từng dựng ải ở đây để chống Hung Nô.
ải mây: ải là cửa nơi biên giới, mây chỉ ý xa xôi như ở tận trên mây. Ải mây chỉ nơi chốn xa mịt mù.
Hoa tiên:
Ải mây tin tức khơi ngàn.
ải nhàn: ải là cửa nơi biên giới, nhàn: chim nhạn tức ngỗng trời. Ải nhàn dịch tên Nhạn môn quan, cửa ải thông thương với rợ Hồ, đường rất nguy hiểm, núi non chập chùng, riêng chim nhạn bay ngang tự do. Về sau ải nhàn chỉ cửa ải xa xôi diệu vợi mà người ở trung nguyên khó đi tới.
Hoa tiên:
Rợ Hồ bỗng thói con kiêu
Ruỗi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn.
ải vân: ải là cửa nơi biên giới, vân là mây. Cụm từ này do chữ Vân Quan, là tên một cửa ải. Lúc Vương Chiêu Quân bị đưa sang cống cho Thuyền vu (vua) người Hồ, cô đi ngang cửa ải này, ngồi trên ngựa ôm đàn tỳ bà gảy nhiều đoạn não nùng ai oán.
Hoa tiên:
Ải vân oán điệu tỳ bà
Giấu giày non mã sương pha nên đồ.
ăn bắc nằm nam: từ câu “Ðông gia thực phạn, tây gia mân” (Ăn cơm ở nhà đông, ngủ ở nhà tây). Xưa có người con gái, có hai người hàng xóm đến hỏi. Người phía đông giàu có nhưng xấu trai, người phía tây đẹp trai nhưng nghèo. Cha mẹ hỏi ý kiến nàng thì nàng đáp câu trên, ý nói muốn ăn với người bên đông, và ngủ với người bên tây.
Thành ngữ có nghĩa bóng: tham lam thái quá đến mức vô liêm sỉ, hoặc ăn ở hai lòng chỉ cốt có lợi cho mình.
ăn gió nằm sương: do câu Xan phong túc lộ, nghĩa là ăn giữa gió nằm giữa sương. Ý chỉ sự gian nan của người đi đường.
Đoạn trường tân thanh:
Quản bao tháng đợi năm chờ
Nghĩ người ăn gió nằm sương xót thầm.
ăn quả vả trả quả sung: Thành ngữ này dựa trên sự kiện là quả vả và quả sung trông khá giống nhau nhưng quả vả ăn ngon hơn còn quả sung chát hơn.
Thành ngữ này có ý nói chỉ nhận của người nhiều mà trả lại thì ít, tức nợ ơn to nhưng trả ơn nhỏ.
âm cực dương hồi: có nghĩa khi khí âm đến một mức cực thịnh thì khí dương trở về. Ý nghĩa nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.bóng: hết suy đến thịnh, hết cực khổ đến an lạc.
Đoạn trường tân thanh:
Đời người đến thế thì thôi!
Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay.
âm nhai: âm có nghĩa im, nhai là hang sâu. Ý chỉ nơi tăm tối, thăm thẳm.
Cung oán ngâm khúc:
Đuốc vương giả chí công là thế
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.
âm phong: âm là âm phủ, phong là gió. Ý nói gọn gió lạnh lẽo như từ cõi âm đưa lại.
Nhị độ mai:
Nửa ngày nổi trận âm phong.
Ân Hạo: Theo Wikipedia_Ân Hạo, Ân Hạo (? – 356) là đại thần, tướng lĩnh dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình thế tộc. Cha của ông là Ân Tiện, làm quan đến chức Thái thú Dự Chương trong triều đình. Lúc sinh thời Ân Tiện chiêu tập nhiều bậc danh sĩ, trí giả hơn 100 người, trở nên rất nổi tiếng.
Ân Hạo được sử sách mô tả là người có tài năng và cũng khá nổi tiếng ngay từ lúc nhỏ. Ông có quan hệ tốt với chú là Ân Dung. Do thanh danh của mình nên Ân Hạo được Chinh Tây Tướng quân Dữu Lượng (cậu ruột của Tấn Thành Đế) tuyển mộ, sau đó ít lâu bổ làm Tư đồ tả trưởng sử. Về sau, Ân Hạo lại được Chinh Tây Tướng quân mới là Dữu Dực tiến cử. Triều đình nghe theo, bổ nhiệm ông làm Thị trung, An Tây quân ti, nhưng ông xưng có bệnh, không nhận chức quan rồi trở về quê, ẩn cư hơn 10 năm.
Trong vòng 10 năm ẩn cư, Ân Hạo nhiều lần được mời về triều đình nhưng ông đều từ chối. Tướng Giang Hạ là Tạ Thượng và Huyện lệnh Trường Sơn Vương Mông thường khuyên ông nhận chức cũng không được. Trong triều, các đại thần liên tiếp tiến cử Ân Hạo. Năm 346 thời Tấn Mục Đế, Vệ tướng quân Trữ Bầu tiến cử ông làm Kiến Vũ tướng quân, Thứ sử Dương Châu nhưng Ân Hạo viết thư chối từ.
Đầu thời Tấn Mục Đế, các trọng thần Dữu Băng, Dữu Dực rồi Hà Sung lần lượt qua đời. Tuy nhiên lúc này lại nổi lên thế lực của tướng quân Hoàn Ôn. Sau khi tiêu diệt được nước Thành Hán vào năm 348, uy tín của Hoàn Ôn trong triều ngày càng lớn mạnh, đe dọa đến triều đình trong khi Mục Đế còn quá nhỏ tuổi. Cối Kê Vương Tư Mã Dục, người quản lý triều đình lo sợ, bèn nghe theo đề nghị của Trữ Bầu, mời Ân Hạo vào triều. Ân Hạo từ chối suốt từ tháng nhiều lần, cuối cùng chấp nhận.
Ân Hạo được triều đình phong làm Kiến Vũ Tướng quân, Thứ sử Dương Châu, trở thành tâm phúc của Tư Mã Dục và nắm quyền quản lý triều chính. Ông có ý chống đối với Hoàn Ôn, nên từ đó giữa hai người sinh ra hiềm khích.
Tuy nhiên ít lâu sau, cha qua đời, Ân Hạo tạm thôi chức để chịu tang. Triều đình gia cho Thái Mô tạm quản lý Dương Châu thay ông. Đến khi hết tang, ông về triều, được giữ chức cũ và quyền lực cũng lớn hơn. Ông phong cho Chinh bắc trưởng sử Tuân Tiện làm Ngô quốc nội sử, Giang châu thứ sử Vương Hi Chi làm Hộ quân tướng quân để cùng đối kháng Hoàn Ôn. Nhưng Vương Hi Chi thường khuyên ông không nên gây hiềm khích. Ân Hạo không nghe.
Năm 350, Ân Hạo dâng sớ kể tội Thái Mô phạm tội bất kính, giáng làm dân thường. Từ đó quyền lực của Ân Hạo bao trùm triều đình, ai nấy đều phải sợ.
Năm 349, hoàng đế Hậu Triệu là Thạch Hổ qua đời, Hậu Triệu phát sinh rối loạn. Ân Hạo bèn quyết định cử binh bắc phạt để thống nhất Trung Quốc. Năm 350, ông được phong làm Trung quân Tướng quân, Giả tiết, Đô đốc năm châu quân sự là Dương, Dự, Từ, Duyện, Thanh. Cùng năm đó, Hoàn Ôn thượng biểu bắc phạt nhưng triều đình không xem xét và hạ lệnh xuống. Hoàn Ôn biết rằng Ân Hạo muốn chống mình, nên rất tức giận. Sau đó, Hoàn Ôn lại nhiều lần thỉnh cầu bắc phạt nhưng triều đình không phê chuẩn. Đến năm 352, Ôn đưa 50.000 quân tiến về phía đông, hướng đến Kiến Khang định diệt trừ Ân Hạo. Ân Hạo định cầu hòa, nhưng sau đó Hoàn Ôn tự động lui quân trước do sự khuyên ngăn của Vương Bưu Chi.
Năm 352, đến lượt Ân Hạo thượng biểu bắc phạt. Ông đưa quân tiến công các vùng Hứa Xương, Lạc Dương và sai thái thú Hoài Nam Trần Quỳ, Thứ sử Duyện Châu Thái Duệ làm Tiên phong, Tạ Thượng, Tuân Tiện là Đốc thống, lấy lúa hơn 1.000 khoảnh ruộng ở phía tây Trường Giang làm quân lương, rồi dẫn quân bắc phạt.
Quân của Ân Hạo tiến về thành Hứa Xương thì tướng vừa quy hàng là Trương Ngộ làm binh biến phản lại, Ân Hạo đành phải dừng việc tiến về phía bắc để lo diệt Trương Ngộ. Ông sai Tạ Thượng cùng Diêu Tương tiến đánh Trương Ngộ nhưng do Ngộ được Tiền Tần giúp sức nên quân Tấn bị đại bại. Ân Hạo đành lui về Thọ Xuân.
Không chịu thất bại, đến tháng 9 cùng năm, Ân Hạo lại một lần nữa khởi binh bắc phạt nhằm vào nước Tiền Tần, đóng quân ở Tứ Khẩu. Ông sai thái thú Hà Nam Đái Thi đóng ở Thạch Môn, thái thú Huỳnh Dương Lưu Độn đóng ở Thạch Môn, để làm hậu bị. Khi đến Thọ Dương, Ân Hạo dụ các đại thần của Vua Tiền Tần Phù Kiện là Lương An, Lôi Nhương đến, bảo nếu giết Phù Kiện sẽ phong cho chức to. Tuy nhiên sau đó hai người này bị Phù Kiện giết chết. Trong khi đó, Ân Hạo nghi kỵ tướng dưới quyền Diêu Tương nên muốn giết đi, bèn sai Lưu Khải giữ Tiếu Thành, dời ông đi Lê Đài, Lương quốc, dâng biểu xin cho ông thụ chức Lương quốc nội sử.
Ân Hạo thượng biểu xin Mục Đế cho mình đóng ở Lạc Dương, tu sửa viên lăng, lại sai Quan Quân tướng quân Lưu Hiệp giữ Lộc Thai, Kiến Vũ tướng quân Lưu Đôn đóng ở Thượng Viên, xin triều đình cho mình thôi chức ở Dương châu để đóng ở Lạc Dương. Triều đình không chịu. Hạo lại rút quân về Thọ Dương.
Sang tháng 9 năm 353, Ân Hạo dẫn 70.000 quân bắc phạt lần nữa. Tuy nhiên lần này Diêu Tương có ý làm phản, bèn nhân lúc Ân Hạo đưa quân đến, cho thủ hạ giả làm dân ban đêm bỏ trốn để phục kích. Khi vào đến núi, quân của ông bị Diêu Tương đánh dữ dội, bản thân ông phải chạy đến Tiếu thành, hơn vạn quân bị Diêu Tương sát hại, quân lương và vật tư trong quân bị lấy đi hết. Ân Hạo lại sai Lưu Khải và Vương Bân tiến công trở lại Diêu Tương, nhưng bị thua trận, Khải và Bân bị giết.
Việc Ân Hạo liên tiếp thua trận làm Hoàn Ôn không thể nhịn được, đến năm 354 thì thượng biểu lên Tấn triều đòi cách chức Ân Hạo. Triều đình đành phải nghe theo, phế ông làm Thứ nhân, đày sang Huyện Tín An, Quận Đông Dương. Ân Hạo không than vãn nửa lời. Nhiều người thương tiếc cho ông.
Trong thời gian bị lưu đày, Ân Hạo nhứ lại lúc mình còn phú quý, đau buồn vô cùng, vịnh một bài rằng, đại ý nói khi giàu sang thì nhiều người tìm đến, khi nghèo hèn thì thân thích cũng rời xa.
Không lâu sau, Hoàn Ôn lại mời ông về làm Thượng thư lệnh. Ân Hạo vui mừng đồng ý, viết thư đáp lại, nhưng lời lẽ không vừa lòng Hoàn Ôn nên bị Ôn ghét, không cho gọi nữa.
Năm 356, Ân Hạo mất ở Tín An, không rõ bao nhiêu tuổi. Triều đình cho khôi phục quan tước cho ông.
ân trạch: ân có nghĩa ơn, trạch là đem nước vào ruộng, chỉ ân huệ. Ngày xưa, nói đến ân trạch là để chỉ ân huệ của vua ban cho thần dân giống như nước chảy vào ruộng đồng.
Ðại Nam quốc sử:
Hạ phương ân trạch ngấm nhiều.
ân uy: ân có nghĩa ơn, uy có nghĩa oai. Cụm từ có nghĩa vừa ra ân huệ khi thưởng, vừa tỏ oai phong để phạt, như bây giờ người ta nói “thưởng phạt phân minh”.
Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu:
Chữ ân uy lớn nhỏ đều phu.
Âu Dương Tu: Theo Wikipedia_Âu Dương Tu, Âu Dương Tu (1007–1072) là nhà thơ nổi tiếng thời Bắc Tống ở Trung Quốc. Quê ông ở Lư Lăng (nay thuộc Tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm 1030, ông đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự… Dưới thời Vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng thư.
Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm từ xuất sắc đời Tống. Ông là người khai sáng ra thể loại “thi thoại” (bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,…), cuốn Lục Nhất thi thoại là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông còn viết những bài rất nổi tiếng khác. Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là “Lục nhất cư sĩ” (cư sĩ với sáu cái “một”: một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).
Về sử học, Âu Dương Tu là tác giả chính của bộ sử Tân Đường thư, được xem là một trong 24 bộ sử chính (Nhị thập tứ sử) của Trung Quốc.
Xem thêm: Nhị thập tứ sử.
Dưới đây là một bài từ được yêu thích.
Trường tương tư – Âu Dương Tu, Dịch thơ: Điệp luyến hoa
Cỏ ngập khe
Liễu khắp đê
Đưa tiễn người đi suối não nề
Trăng lơ lửng lối về.
Khói mờ mờ
Gió lê thê
Ngựa hí, ngồi lâu tựa cửa nghe
Hải âu từng cặp đi.
âu lộ: âu là một loài chim nước, đầu to, mỏ cứng, thường ở những nơi hoang vắng, nên được dùng để ví với người ở ẩn; lộ là con cò, cũng dùng để ví với người ở ẩn. Có câu: Âu lộ vong cơ: bạn với con âu, con lộ mà quên việc đời.
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Âu lộ cùng ta như có ý.
ấp cây: ôm chặt trụ cầu. Theo Tình sử và Luận ngữ, chàng Vĩ Sinh, người nước Lỗ, vốn là một nho sinh thuần hậu, luôn giữ chữ tín dầu đối với một cậu bé con. Chàng nổi tiếng chữ tốt văn hay. Trong trường, bài của Sinh thường được thầy đem ra bình. Giọng đọc của Sinh trong trẻo được nhiều người chú ý ngợi khen. Gần trường là nhà viên ngoại họ Triệu có nàng con gái tên Thường Khanh. Giờ bình văn, nàng thường sang trường, đứng sau vách nghe trộm, cảm thấy lâng lâng.
Vĩ Sinh có linh tính, biết có người đẹp nghe trộm, nên vừa đọc văn vừa thỉnh thoảng liếc nhìn phía sau vách. Bốn mắt chạm nhau, bấy giờ giọng của Sinh càng ngân vang lên như gởi cả tâm hồn mong được người đẹp nghe lén kia thưởng thức.
Rồi có lúc, Vĩ Sinh đi đến trường ngang qua vườn hoa của Triệu viên ngoại, nhìn thấy thấp thoáng bóng nàng tha thướt hái hoa. Chàng bạo dạn đứng lại, thỏ thẻ xin nàng một cành hoa.. Thường Khanh nhoẻn nụ cười e lệ, cầm hoa trao tặng chàng.
Cứ thế, mỗi khi chàng đi ngang vườn hoa đều thấy nàng dường như sẵn đón chờ. Họ không hẹn nhưng như có hẹn. Tuy có đôi khi vắng nàng, chàng cảm thấy một nỗi nhớ nhung, bâng khuâng vô cùng. Một hôm gặp nhau, chàng đánh bạo nói với nàng sẽ gặp nhau trong đêm bên một đầu cầu phía tây thôn, để có thì giờ trao đổi tâm sự kết niềm giao ước. Nàng rất vui vẻ bằng lòng.
Chàng chờ tối mau đến, rồi đến bên cầu chờ nàng. Bỗng mây kéo đen kịt một góc trời, rồi mưa rơi mỗi lúc càng nặng hạt. Vì giữ chữ tín, Vĩ Sinh vẫn đứng chờ. Chàng xuống dạ cầu để tránh mưa. Gió giật mạnh từng hồi, Vĩ Sinh phải ôm lấy cột cầu mà chịu. Nước dưới cầu mỗi lúc dâng cao, dòng nước chảy siết. Chàng nho sĩ yếu đuối không chịu nổi, cuối cùng chết đuối dưới sông bên cột cầu chờ đợi, thân bị cuốn theo dòng.
Hoa Tiên:
Ấp cây một mực trần trần.
Đoạn trường tân thanh, khi Kim Trọng quyết định số phận mình như Vĩ Sinh thề đợi Kiều:
Tháng tròn như gởi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều.
ẩm chí: ẩm có nghĩa uống, chí có nghĩa đến. Ngày xưa sau khi đoàn quân chiến thắng trở về, triều đình làm lễ uống rượu mừng tại tôn miếu gọi là ẩm chí. Nghĩa chung là lễ mừng công.
Văn tế trận vong tướng sĩ:
Lệ huân thưởng, chẳng đợi ngày ẩm chí.
ẩm khôi tẩy vị: ẩm: uống, khôi: tro, tẩy: rửa, vị: dạ dày. Nghĩa đen: Uống tro vào để rửa sạch dạ dày. Cảnh Tư đời Hán phạm tội bị bắt giam. Hán Cao Tổ hỏi Tuân Bá Ngọc nên xử tội gì. Bá Ngọc tâu: “Tôi rầy la nó thì nó đáp rằng: ‘Nếu cho nó được ăn năn cải quá thì nó nguyện nuốt dao để nạo ruột, uống tro để rửa dạ dày”. Vua nghe lời nói chân thành ấy nên tha mà không bắt tội Cảnh Tư nữa. Nghĩa bóng: quyết tự sửa đổi.
ẩn tích: ẩn có nghĩa che giấu, tích có nghĩa dấu vết. Ý nói giấu giếm thân phận.
Lục Vân Tiên, lúc Hớn Minh giấu giếm thân phận sống trong chùa:
Vừa may mà gặp chùa này
Mai danh ẩn tích bấy chầy nấu nương.
Nấu nương: chữ nói trại ra từ nương náu.
ba đào: ba là sóng nhỏ, đào là sóng to. Nghĩa bóng: cảnh gian truân, khổ ải.
Đoạn trường tân thanh:
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Phan Trần:
Non xanh sấm dậy, ba đào gió rơi.
Ba đào cũng liên quan đến một giai thoại.
Nguyễn Giản Thanh đời vua Lê Uy Mục, lúc còn đi học, thầy là Đàm Thận Huy thấy học trò sắp ra về thì trời đổ mưa to, học trò không về được, thầy bèn ra vế đối để thử tài học trò:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách (Mưa không có then khóa vẫn giữ được khách).
Nguyễn Giản Thanh liền đối lại là:
Sắc bất ba đào dị nịch nhân (Sắc đẹp không là sóng nhỏ sóng to vẫn nhấn chìm người).
Thầy Đàm Thuận Huy nói: “Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng sắc dục làm hại sự nghiệp.”
Vế đối của Nguyễn Giản Thanh Câu lấy ý từ điển cố Trung Quốc: đời vua Minh Huệ Đế, Trần Hóa Chiêu ở Huyện Tế Hàng, Tỉnh Sơn Đông có người vợ là Lương Tiểu Nga rất xinh đẹp. Ở cùng huyện có nhà phú hộ tên là Trát Hiếu Sắc. Ông này thấy Tiểu Nga đẹp, tìm cách kết bạn với Hóa Chiêu. Lập tâm chiếm cho được vợ bạn, Hiếu Sắc bỏ ra rất nhiều tiền để giúp bạn trong việc làm ăn hoặc lúc nguy khốn. Qua hai năm, sau khi chiếm được cảm tình của nhà bạn, Hiếu Sắc rủ Hóa Chiêu ngồi thuyền đi buôn, mọi vốn liếng đều do mình chịu cả. Thuyền đi một tháng đến Hàng Châu, Hiếu Sắc phục rượu cho Hóa Chiêu say rồi xô xuống biển. Mấy lần Hóa Chiêu trồi lên đều bị tên phản bạn nhấn xuống cho chìm, cuối cùng chàng phải vùi thây dưới đáy biển. Chừng ấy, Hiếu Sắc mới tri hô lên cho bè bạn hay và mượn thuyền đến vớt bạn nhưng không được. Hiếu Sắc cho thuyền trở về, khóc lóc báo tin dữ cho mẹ và vợ Hóa Chiêu, bỏ tiền cúng bái và cùng Tiểu Nga để tang. Từ đó, Hiếu Sắc càng tỏ ra hết lòng lo lắng mọi việc nhà cho vợ bạn khiến mẹ Hóa Chiêu cảm động và ép dâu là Tiểu Nga ưng Háo Sắc làm chồng đền công ơn giúp đỡ. Hai người ăn ở với nhau ít lâu, nhân lúc vô ý, Hiêú Sắc để lộ việc mình âm mưu hại bạn. Tiểu Nga đến huyện đường đầu cáo và trả được thù cho chồng cũ. Nhưng nàng nhận thấy vì nhan sắc của mình mà cả hai người chồng đều bị chết, Tiểu Nga thắt cổ tự tử.
Trở lại câu chuyện của Nguyễn Giản Thanh, tương truyền ông chỉ đậu Bảng nhãn còn Hứa Tam Tỉnh (làng Ngọt) đậu Trạng nguyên. Trong buổi lễ ra mắt vua, các tân khoa phải làm một bài phú dâng tặng vua và hoàng thái hậu (mẹ của vua). Hoàng thái hậu thấy Hứa Tam Tỉnh dung mạo xấu xí thì không ưng lắm, trong khi đó Nguyễn Giản Thanh khuôn mặt khôi ngô thanh tú nên bà muốn cân nhắc ông lên làm trạng nguyên. Vua vì muốn chiều lòng mẹ nên đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu trạng nguyên cho ông. Cuộc đời Nguyễn Giản Thanh sau này ứng với lời của người thầy: làm quan đến Lễ Bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở kinh thành mà đến thân bại danh liệt.
ba hồn bảy vía: quan niệm này có nguồn gốc từ Đạo giáo. Họ cho rằng con người sống được là nhờ “tam hồn thất phách” điều chỉnh mọi hoạt động và tư duy. Tam hồn là ba bộ phận tổ hợp thành thần khí của con người. Thất phách là bảy vía, có vai trò quan trọng trong việc điều tiết cơ thể con người, mỗi phách đảm đương một nhiệm vụ khác nhau như: hô hấp, tiêu hóa, sinh sản, nhịp tim…
Người Việt cho rằng nam có 7 vía, nữ có 9 vía. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm thân thể nam có “thất khiếu” (7 lỗ: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, miệng), còn nữ có “cửu khiếu” (9 lỗ, vì có thêm âm đạo và hậu môn).
ba quân: Ngày xưa một số triều đình phân chia hàng ngũ một lực lượng quân đội thành ba đạo quân: trung quân, tả quân, hữu quân. Về sau, ba quân chỉ quân đội nói chung.
Đoạn trường tân thanh:
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Chuy.
ba que xỏ lá: Theo sachhayonline.com, trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những “trò chơi có thưởng”. Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá, mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống. Người chơi cầm cái que nhỏ xỏ vào ba vòng này. Mỗi người chỉ được xỏ một lần. Người nào xỏ vào được một lúc cả ba lá và nhấc được chúng lên thì được lĩnh thưởng. Ai xỏ trật, tức xỏ không vào lá nào hoặc chỉ vào một trong ba lá, sẽ mất toi số tiền đặt cược.
Cũng liên quan tới trò này, có người kể lại cách thức chơi của bọn chủ trò có khác chút ít. Chúng thường dùng ba que nhỏ, trong đó chỉ có một que xỏ vào chiếc lá rồi chìa cho mọi người xem. Chúng tuyên bố rằng nếu ai rút trúng que có chiếc lá khi chúng nắm tay lại thì người đó trúng thưởng. Ngược lại, người chơi sẽ mất số tiền đặt cược trước. Dù chơi theo cách thức nào đi nữa, thì bọn chủ trò vẫn có nhiều mưu mẹo, khiến cho người chơi bao giờ cũng thua cuộc.
Từ cách thức chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng hình thức ban đầu của thành ngữ “ba que xỏ lá”’ là “xỏ lá ba que”. Sở dĩ có sự thay đổi này là do việc đọc chệch cho thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ.
Thành ngữ trên dần dần được mở rộng phạm vi sử dụng. Nó được dùng để chỉ người lừa lọc, bịp bợm, đểu cáng.
ba sinh: do chữ tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển, kiếp này sang kiếp khác.
Sách Truyền đăng lục và sách Quần ngọc chú chép: Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đang cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp: “Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời Vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời Vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.”
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giật mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ.
Lại có một điển tích khác. Theo Cam Trạch Ðạo, Lý Nguyên đời Ðường (618-907), cùng nhà sư Viên Trạch đến chơi Núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh vó đi lấy nước giếng. Viên Trạch nói: “Bà đó là nơi thác thân của tôi. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. 12 năm sau tôi sẽ gặp lại bác tại mé ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng.”
Ðêm hôm đó Viên Trạch mất.
Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn.
12 năm sau, Lý Nguyên tìm đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, gặp một đứa trẻ chăn trâu hát rằng (dịch thơ):
Là tinh hồn cũ đã ba sinh
Trăng gió làm chi để bận mình
Thẹn với người quen xa viếng hỏi
Thân này tuy khác, tính nguyên lành.
Lý Nguyên biết đứa trẻ chăn trâu đó chính là Viên Trạch.
“Ba sinh” có nghĩa là số kiếp tiền định. “Nợ ba sinh” là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.
Đoạn trường tân thanh, Kim Trọng tương tư Kiều sau chuyến du xuân:
Vì chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
(Về khuynh thành, xem mục: nghiêng thành)
Kiều nhớ đến Kim Trọng khi ở lầu xanh tại Lâm Tri:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Ðến lúc Kiều tái hợp cùng Kim Trọng:
Ba sinh đã phỉ lời nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Phong bài 10 – Tản Đà:
Gặp em đây, anh dặn mấy nhời
Ba sinh hương lửa muôn đời chớ quên.
Khóc ông phủ Vĩnh Tường – Hồ Xuân Hương:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
ba voi không được bát nước xáo: Theo Trịnh Mạnh (2003), nhiều từ điển giải thích nghĩa là “nói khoác, không đúng sự thật”, hoặc “huênh hoang, hứa nhiều nhưng không làm đúng như lời đã hứa”. Cơ sở cho cách hiểu này là sự tương phản về khối lượng. Đó là nghĩa bóng của thành ngữ này.
Nhưng về nghĩa thực (nghĩa đen) thì khác. Trong bài “Kể chuyện về loài voi” của Bá Thành (Tuần tin tức số 15-1993) có thông tin rất đáng chú ý: “Thịt voi là loại thịt săn, chắc, đặc biệt là thịt ở vòi. Khi nấu thịt voi, dù có đổ nhiều nước, thịt nở ra vẫn hút hết nước”. Nhờ tính chất hút rất nhiều nước của thịt voi mà ta hiểu thêm về nghĩa đen của thành ngữ trên.
Ban Chiêu (45–117): Theo Liệt nữ truyện, Ban Chiêu hoặc Ban Cơ là nữ sử gia đầu tiên của Trung Quốc. Cô là con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố (Ban Siêu), sống dưới triều Hán Hòa Ðế (trị vì 88–105). Sinh trong gia đình Nho học, cha anh đều học thức tài giỏi. Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cặp kê, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà nho lỗi lạc.
Được 10 năm, Thế Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng. Hán Hòa Ðế nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung để dạy học; các hoàng tử, hoàng hậu, quý nhân ai cũng tôn trọng là bậc thầy.
Lúc bấy giờ, Ban Bưu đang làm quan tại triều, được Vua cử soạn bộ sử Hán thư. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lệnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong thì mắc bệnh rồi mất.
Thấy cha và anh bỏ dở công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà Vua cho nàng được tiếp tục biên soạn bộ Hán thư. Vua Hòa Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán thư mà cha và anh chẳng may bỏ dở. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập Nữ giới gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
Xem thêm: Hán thư.
Đoạn trường tân thanh, buổi đầu Thúy Kiều gặp Kim Trọng, Kiều đề thơ trên bức họa và Kim Trọng nức nở khen:
Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này
Nàng Ban ở đây chỉ tài văn hoa, so sánh với Ban Cơ giỏi thi phú.
Về ả Tạ, xem mục: Tạ Ðạo Uẩn.
Ban Siêu: người đời Hậu Hán, có chí lớn, lúc nhỏ nhà nghèo viết thuê nuôi mẹ không màng khó nhọc. Ông thường ném bút than rằng: “Ðại trượng phu nên bắt chước Phó Giới Tử, Trưởng Khiên lập công ở Tây Vực để được phong hầu chứ lẽ đâu lại chịu phụng thờ nghiên bút mãi hay sao!” Về sau, ông cầm quân đi đánh miên Tây Vực, dẹp yên 50 nước, được phong tước hầu. Ông ở Tây Vực 31 năm, vì tuổi già nên xin về. Mất năm 71 tuổi.
Chinh phụ ngâm:
Phận trai già ruỗi chiến trường
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Ban Tiệp dư: cung nhân tước Tiệp dư, họ là Ban, không rõ tên, của Hán Thành Đế (32-8 tCN), có nhan sắc, có tài làm thơ, được Vua yêu lắm,
Một hôm Thành Đế đi du ngoạn ngoài thành, gọi Ban Tiệp dư cùng ngồi chung xe. Nàng vốn tính khiêm tốn với thân phận và chức vụ của mình, sợ bên ngoài dị nghị và trong cung ganh ghét, nên từ chối. Không ngờ thái độ khiêm tốn này bị một thứ phi là Triệu Phi Yến gièm pha, tâu với Vua khép nàng vào tội khi quân.
Thành Đế nghe lời Triệu Phi Yến liền phế Ban Tiệp dư ra cung Trường Tín chầu bà Thái hậu, không được ở trong cung hầu hạ nhà Vua nữa. Bấy giờ, nhà Vua say mê Triệu Phi Yến, sự sủng hạnh đối với Ban Tiệp dư ngày càng phai dần.
Tủi cho thân phận lâm cảnh phũ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa trắng gọi là Tề hoàn (lụa nước Tề) do nàng tự dệt lấy và làm thành một cây quạt tròn. Trên quạt, nàng đề một bài thơ như sau.
Oán hành ca – Ban Tiệp dư
Khúc ca ai oán – Tản Đà dịch thơ
Xé ra vuông lụa nước Tề
Phau phau sạch trắng khác gì tuyết sương
Cắt làm cái quạt buồng hương
Tròn xinh vành vạnh như gương trăng rằm.
Liền tay anh để anh cầm
Hằng khi phe phẩy riêng thầm gió bay
Trời thu như sợi hơi may
Lạnh lùng cơn gió đổi thay nực nồng.
Trong sương quạt bỏ nằm không
Giữa đường dứt hết mối lòng thương yêu.
Bài thơ nói về thân phận chiếc quạt: Khi mùa thu đến bị người ta xếp xó, không ai dùng, giống như tình cảnh người cung nữ lúc được yêu, lúc lại bị ruồng bỏ.
Vương Xương Linh (? – khoảng 756), một thi hào danh tiếng thời Thịnh Đường, cảm xúc nỗi duyên phận ghẻ lạnh của nàng cung phi họ Ban, mà đây cũng là số kiếp chung của khách hồng nhan vô phúc sa vào cung cấm, nên có làm 3 bài thơ gồm 3 đoạn, đề là để vịnh nàng:
Trường Tín thu từ – Vương Xương Linh, Lam Giang dịch thơ:
I
Giếng ngọc cành khô rụng lá vàng
Buông rèm đêm đã lạnh hơi sương
Lò hương, gối ngọc vô duyên quá
Lắng giọt đồng rơi xiết đoạn trường.
II
Ban mai quét tước mở đền vàng
Nâng quạt nhìn thôi luống thở than
Mặt ngọc không bằng con quạ rét
Nó còn sưởi nắng điện Chiêu Dương.
III
Đã đành phận bạc, ôi đau đớn
Thấy vua trong mộng, tỉnh nhớ nhung
Tây cung rộn rực đêm yến tiệc
Mơ màng nhớ lúc được vua ban.
Ba bài theo điệu nhạc phủ. Tác giả tả tâm trạng u hoài của Ban Tiệp dư: nỗi buồn đêm thu, mối buồn sáng thu lại mối sầu đêm thu.
Đêm trước u buồn, sáng dậy bâng khuâng, đêm đến sầu não, cả ba bài đều cực tả một nỗi buồn tha thiết. Mà nỗi buồn ấy mãi vương vấn, không bao giờ chịu buông tha người bạc mệnh ở lãnh cung.
Cung oán ngâm khúc:
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung.
“Gấm nàng Ban” ở đây chỉ số phận không may của người phụ nữ phải sống kiếp cô đơn.
Bao Chửng hoặc Bao Chẩn: tức Bao Công, còn được dân gian gọi là Bao Thanh Thiên (999-1062). Tục Thông Chí: Bao Chửng, người đất Hợp Phì đời Tống, đỗ tiến sĩ thời Tống Nhân Tông, có tiếng là xét xử án giỏi, án khó mấy xét cũng ra khi làm tri phủ Khai Phong. Tính ông cương nghị, không a dua. Các quý thích hoạn quan kính sợ ông mà không dám buông tuồng phóng đãng. Ông rất ít cười, có tập sách nhan đề: Long đồ công án.
Theo truyền thuyết, Bao Công là một vị thần, một trong 7 vị Bắc Đẩu tinh quân, giáng trần, tên gọi là Văn Khúc Tinh Quân. Vì vậy, ngoài việc xử án ban ngày ở dương gian, ban đêm, ông còn phải xử án ở âm phủ. Trong văn hóa dân gian, vầng trăng trên trán ông tựa như ánh trăng soi sáng công lý ngay cả ở những nơi tăm tối nhất.
Do ảnh hưởng từ hình tượng dân gian, ông còn được gọi là Bao Đãi Chế do ông từng làm chức Đại chế của Thiên Chương các, sau lại nhậm chức Học sĩ ở Long Đồ Các mà được gọi thành Bao Long Đồ. Đặc biệt nhất, Bao Chửng được lưu truyền trong dân gian với hình tượng mặt đen mà còn gọi là Bao Hắc Tử hay Bao Hắc Than.
Chức vụ lớn nhất của Bao Công trước khi qua đời là Khu mật Phó sứ, tương đương phó tể tướng.
Theo Wikipedia_Bao Công, Bao Công lâm bệnh mất ở nơi làm việc. Điều đáng nói là thời gian từ lúc lâm bệnh cho đến khi mất chỉ có 13 ngày, nên người ta nghi ngờ rằng ông mất một phần do thuốc của hoàng đế ban cho, bởi lúc sinh thời Bao Chửng từng xử những vụ án vạch mặt bọn thái y, nên bị bọn chúng căm ghét. Sau này, các nhà khoa học thuộc Phòng Nghiên cứu năng lượng vật lý cao, Học viện Khoa học Trung Quốc, phối hợp với Viện Bảo tàng Tỉnh An Huy tiến hành xét nghiệm những mảnh xương của Bao Công. Kết quả cho thấy: Hàm lượng các nguyên tố thủy ngân, sắt và canxi trong xương Bao Công cao hơn nhiều so với xương của người hiện đại, trong khi đó hàm lượng chì và arsen (thạch tín) lại thấp hơn người thường. Ngày xưa, độc dược được sử dụng chủ yếu là tì sương (thạch tín) và chu sa (thủy ngân), có độc tính mạnh. Kết quả này sơ bộ loại trừ khả năng Bao Công bị trúng độc cấp tính do uống phải thạch tín.
Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, phong trào Phá tứ cựu, lập Tứ tân lan rộng khắp Trung Quốc. Bao Công bị xem là đáng trừng trị hơn tham quan vì đã ủng hộ, duy trì chế độ phong kiến, bị xếp vào loại “ngưu quỷ xà thần” phải quét sạch. Từ đường trở thành nhà nấu ăn của hợp tác xã, từ trong ra ngoài bị đập phá. Bia đá, hoành phi, liễn đối, tượng Vương Triều, Mã Hán đều nát vụn. Bức tượng Bao Công được làm từ gỗ đàn hương, lớn như người thật, bị Hồng vệ binh dùng dao chém nát. Bộ gia phả Bao thị tông phả và bức họa truyền thần Bao Công lúc sinh tiền được truyền từ đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Dân quốc bị treo lên cây đốt cháy thành tro. Bức họa Bao Công từng được đưa vào Tử Cấm Thành triển lãm, nhờ đó còn giữ được tấm ảnh chụp lại.

Sau này, điện ảnh dựa theo hình tượng Bao Công mà hư cấu nên nhiều vụ án ly kỳ với nhiều tình tiết cũng hư cấu. Ví dụ như khuôn mặt đen và vết sẹo hình Mặt Trăng trên trán của Bao Công, Thượng phương Bảo kiếm, ba bộ cẩu đầu đao, hổ đầu đao và long đầu đao đều không có thật. Nhân vật Bao Miễn là cháu của Bao Công cũng không có thật, bởi vì tra hết gia phả cũng như khu mộ gia tộc họ Bao không thấy có ai tên Bao Miễn, và Bao Công lại là con một, không có anh em nên không thể có cháu ruột. Các nhân vật Trần Thế Mỹ và Bàng Dục cũng là hư cấu.
Trong các bộ phim, Bao Công xử các vụ án với cương vị Phủ doãn (tương đương thị trưởng bây giờ) phủ Khai Phong (kinh đô nhà Tống). Trên thực tế lịch sử, ông làm việcở chức vụ này khoảng 1 năm nên không thể nào xử được tất cả những vụ án như trong điện ảnh. Chính sử cũng không hề chép chuyện phá án nào của Bao Công trong giai đoạn này.
Bao Tự cười: Do tích Vua U Vương nhà Chu say mê nàng Bao Tự nhưng chưa bao giờ thấy nàng cuời. U Vương ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng.
Xem U, Lệ.
Thơ Lý Bạch:
Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim
(Một nụ cười người đẹp đáng đổi nghìn lạng vàng)
Cung oán ngâm khúc:
Hương trời sá động trần ai
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.
Bá Di, Thúc Tề: xem mục gia gia.
bá đạo: đạo làm bá chủ chư hầu, được giảng giải bởi Thương Ưởng (khoảng 390-338 tCN), nhà chính trị theo tư tưởng Pháp gia, thừa tướng nước Tần của thời Chiến Quốc (kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 tCN tới khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc năm 221 tCN). Bá đạo tức là đường lối làm bá chủ chư hầu như Tề Hoàn Công (715 tCN – 643 tCN), Tần Mục Công (? – 621 tCN) thời Xuân Thu.
Theo Thương Ưởng, so với đế đạo và vương đạo, bá đạo cho kết quả nhanh hơn nhưng không lâu dài bằng đế đạo và vương đạo. Lý do là vì bá đạo chủ trương lấy thưởng phạt làm công cụ trị dân mà không chú trọng đến công tác thuyết phục hoặc giáo dục; và cũng có phần độc tài: dân không được khen chê gì về vương pháp mà bị bắt buộc phải tuân hành.
Xem thêm: Thương Ưởng.
Sau này, từ “bá đạo” được dùng theo nghĩa giỏi một cách khác thường, đôi khi mang nghĩa xấu là không qua phương cách thông thường được chấp nhận.
Bá Đạo: người đất Thương Lăng đời Tấn. Theo Thông chí, Khi ông giữ chức Thái thú đất Hà Ðông, một năm có biến ông phải đưa cả vợ con và đứa cháu (con người em đã chết, để lại ông nuôi) chạy trốn. Giữa đường gặp bọn cướp lấy hết cả xe ngựa, vợ chồng phải đi bộ thay nhau gánh các thứ còn lại, kể con và đứa cháu. Khi gánh chạy sang sông, ông liệu không thể nào bảo toàn được cả con và cháu mới nói với vợ rằng: “Em ta chết sớm, chỉ có một đứa con, lý không thể để tuyệt, ta phải bỏ con lại, may mà sống, chúng ta còn có thể có con khác.” Vợ khóc mà nghe theo.
Khi chạy đến đất Giang Ðông, ông được cử làm Thái thú Ngô Quận. Ông làm quan nổi tiếng thanh liêm, một lòng lo việc chung nên rất được lòng dân. Ông từ khi bỏ con đem cháu chạy trốn, vợ không chữa đẻ gì nữa, cho đến lúc chết vẫn không có con nối dõi. Người đương thời có ý thương ông mà có câu rằng: Thiên đạo vô tri sử Ðặng Bá Ðạo vô nhi (Ðạo trời không còn khiến Ðặng Bá Ðạo không con).
Bá Nha, Tử Kỳ: hai người bạn tri âm thời Xuân Thu.
Trên đường đi sứ từ nước Sở trở về, quan Thượng Ðại phu Bá Nha đời nhà Tấn (265-419), qua vàm sông Hàn Dương, trên bờ là Núi Mã An, trăng trung thu sáng tỏ; ông truyền lệnh dừng thuyền lại để ngắm cảnh đẹp. Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, ai nghe cũng ngơ ngẩn, cây cỏ đắm say, song ông vẫn buồn và cảm thấy cô đơn vì nghĩ: “Có ai thấu hiểu tiếng đàn của mình”? Ông gửi vào tiếng đàn lý tưởng cuộc sống, tình yêu, khát vọng, giấc mơ. Dưới trăng thu, Bá Nha ôm cây đàn, lựa dây gẩy một khúc. Khúc nhạc đang ngân vang rộn rã thì đàn đứt một dây. Ông ngạc nhiên thầm nghĩ: “Lạ lùng thật, ở nơi vắng vẻ, thâm u này lẽ nào có người biết nghe đàn ta khiến dây đàn ta phải đứt. Hay là có kẻ độc ác nào manh tâm hại ta, nên đàn đứt dây?” Ông truyền lệnh cho quân lên bờ tìm bắt kẻ gian phi.
Chỉ thấy một chàng tiều phu trẻ tuổi đang ngồi trên phiến đá, bên gánh củi, đang đắm đuối trong một giấc mơ. Biết vậy, quan gọi lên bờ hỏi; chàng đốn củi đáp: “Thưa đại nhân, tôi đâu phải người độc ác; tôi gánh củi qua đây, thấy tiếng đàn hay tuyệt vời, nên đứng lại nghe”.
Bá Nha mỉm cười chế giễu: “Người biết nghe đàn của ta? Nơi đây hoang vu, lẽ nào có một tiều phu biết nghe đàn!”
Chàng trẻ tuổi nói: “Thưa đại nhân, tôi nhớ người xưa bảo: ‘Hễ trong nhà có quân tử, thì ngoài cổng có quân tử đến chơi.’ Nếu nơi núi sông hoang vắng này không có người biết nghe đàn, thì hỏi tại sao nơi đó lại có người biết đánh đàn?”
Ðể thử thật hư, Bá Nha hỏi: “Vậy vừa rồi, ta gẩy đàn bài gì mà ngươi dừng lại nghe?”
“Dạ, tôi vừa nghe những tiếng đàn buồn bã trong khúc Đức Khổng Tử than tiếc thầy Nhan Hồi. Bài ấy như vầy:
Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong
Dạy người tư tưởng tóc như sương
Ðàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo
Ðến cuối câu ba thì dây đàn đứt, còn lại câu bốn là:
Lưu mãi danh hiền với kỹ cương.
Bá Nha kinh ngạc vô cùng; đúng như vậy, ông vừa chơi bản nhạc lấy cảm hứng ở cuộc đời thanh bạch của Nhan Hồi. (Xem thêm mục: Nhan Hồi)
Bá Nha vội xin lỗi chàng tiều phu và mời chàng xuống thuyền uống rượu, nghe đàn.
Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói: “Xin quý hữu miễn lễ cho.”
Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách, hỏi: “Quý hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?”
“Mong ơn ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình. Khi xưa, Vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quý, hấp thụ tinh hoa trời ðất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Ðịa, Nhơn. Ðoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là dao cầm. Lúc đầu dao cầm có 5 dây, sau thêm 2 dây văn và võ nữa thành 7 dây, gọi là thất huyền cầm.
Ðàn ấy có sáu kỵ, bảy không, tám tuyệt, kể ra: sáu kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều; bảy không là bảy trường hợp không đàn: nghe tiếng bi ai và đám tang, lòng nhiễu loạn, việc bận rộn, thân thể không sạch, y quan không tề chỉnh, không đốt lò hương, không gặp tri âm; tám tuyệt là: thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.”
Bá Nha nghe xong, kính phục bội phần, hỏi thêm: “Quý hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, đức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền hỏi Ðức Khổng Tử. Ngài đáp: ‘Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng.’ Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quý hữu có thể đoán biết chăng?”
“Ðại nhân thử dạo một khúc xem.”
Bá Nha thay dây đàn, tập trung đến chốn non cao, đánh lên một khúc. Nghe hết bản nhạc, chàng tiều phu reo lên: “Ôi tuyệt, thật tuyệt, tiếng đàn cao vòi vọi lướt trên đỉnh núi.”
Bá Nha giật mình nhìn chàng: thật thế, ông vẫn mơ màng đến những ngọn núi cao.
Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa, lấy cảm hứng ở một giấc mơ rạo rực mênh mông. Chàng tiều phu lại reo: “Ôi tuyệt, thật tuyệt, tiếng đàn cuồn cuộn mênh mông như nước chảy”.

Bá Nha kinh hãi, lệ quanh khoé mắt. Ông đứng dậy xốc áo và cầm tay chàng trẻ tuổi nói: “Xin chàng thứ lỗi và cho biết quý danh; từ nay xin kết bạn tri âm”.
Chàng tiều phu, nét mặt hớn hở, con mắt long lanh, xưng tên là Chung Tử Kỳ. Bá Nha sai người bày tiệc đối ẩm. Ông quý người trai tài hoa, nên xin kết nghĩa anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa tri âm mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Bá Nha ngỏ ý mời người em kết nghĩa về thành đô; đôi bạn sẽ cùng nhau vui sống. Tử Kỳ buồn rầu thưa: “Tôi xin cảm tạ tấm lòng nhân ái của ngài, tôi còn cha mẹ già, tôi phải ở lại phụng dưỡng”. Bá Nha hẹn đến ngày này sang năm sẽ trở lại nơi này, đón cả gia quyến Tử Kỳ về kinh đô. Hai bên từ biệt nhau, vừa sung sướng vừa xúc động. Bá Nha tìm được người tri kỷ, Chung Tử Kỳ được nghe đàn.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến Vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới Núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vầng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm ra đón. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi.
Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân Núi Mã Yên. Dọc đường, gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa: “Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.”
“Có Tập Hiền thôn thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào?”
“Thưa lão trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?”
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn: “Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc, ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời rồi…
Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão nghẹn ngào “Kẻ hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây”. Ông lão thảng thốt: “Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăng lại: ‘Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân Núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này’. Con đường mà đại nhân vừa đi qua phía bên phải có nấm đất nhỏ, chính là ngôi mộ của Tử Kỳ đó. Hôm nay vừa đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Bá Nha thương xót vô cùng. Ông cùng Chung Công ra mộ Tử Kỳ, khóc lóc rất thảm thiết. Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy vong linh bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc Thiên thu trường hận. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẫm, tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán cũng dần lặng tiếng.
Bá Nha nhìn Chung lão thưa: “Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Tiểu sinh mới vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này.”
Thiên thu trường hận – Bá Nha (dịch thơ):
Từ nhớ đến mùa thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Dòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi?
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm!
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi.
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
Tử Kỳ ơi! Tử Kỳ ơi!
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can.
Thôi từ nay, thôi phím đàn!
Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân!
Ông lấy cây đàn, so dây to, dây nhỏ. Tiếng đàn cất lên nỉ non kể cuộc gặp gỡ thần kỳ năm trước. Nước mắt Bá Nha rơi lã chã. Ðàn xong, ông đập đàn vào một tảng đá; đàn vỡ tan nát. Sau đó Bá Nha ngâm (dịch thơ):
Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
Từ ngày ấy không ai nghe được tiếng đàn của Bá Nha nữa.
Cổ thi:
Bất tích ca giả khổ
Đãn thương tri âm hy
Nghĩa:
Không tiếc người hát khó nhọc
Chỉ đau đớn người tri âm ít.
Đoạn trường tân thanh, đoạn Kim Trọng yêu cầu Kiều đánh đàn cho nghe:
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài(A)
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
(A) cầm đài: nhà cao dùng làm nơi đánh đàn
Lục Vân Tiên:
Than rằng: “Lưu thủy cao san
Ngày nào nghe động tiếng đàn tri âm?”
“Nước non”, “lưu thủy cao san” nhắc đến những lời bình của Chung Tử Kỳ khi nghe Bá Nha đánh đàn dưới thuyền. “Bá Nha, Chung Kỳ” và “tri âm” (hiểu âm thanh) chỉ tình bạn tri kỷ.
bách bộ xuyên dương: có nghĩa: đứng xa trăm bước bắn trúng lá dương. Bộ là đơn vị đo chiều dài ngày xưa của Trung Quốc, dài khoảng một bước đi, tức tương đương với foot (0,34 m) của Anh-Mỹ.
Đời Xuân Thu (551-479 tCN), tướng Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng đều là người nước Sở, có tài thiện xạ. Một hôm, cả hai thử tài nhau chơi.
Phan Đảng bắn luôn ba phát đều trúng đích bia.
Dưỡng Do Cơ nói: “Nhà người bắn trúng đích bia, chưa lấy gì làm lạ. Ta trăm bước bắn trúng lá dương.”
Mọi người đứng quanh lấy làm lạ, hỏi. Dưỡng nói: “Đánh dấu vào một lá dương, ta đứng xa trăm bước, bắn một phát trúng giữa lá ấy nên mới gọi là ‘bách bộ xuyên dương’.”
Để thưởng thức tài họ Dưỡng, mọi người kéo nhau đến cây dương. Một người lấy mực đánh dấu vào một chiếc lá. Dưỡng Do Cơ đứng xa trăm bước, giương cung lắp tên, bắn ra một phát. Không thấy tên rơi xuống đất, mọi người đổ đến cây xem. Thì ra cây tên ấy vướng trên cành cây dương, còn cái mũi xuyên qua chiếc lá đã bôi mực.
Phan Đảng nói: “May được trúng đấy thôi. Bây giờ, ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba chiếc lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay kiệt hiệt.”
Phan Đảng liền đánh dấu ba chiếc lá. Mỗi chiếc mỗi chỗ: chiếc đề chữ “nhất”, chiếc đề chữ “nhị”, chiếc đề chữ “tam”. Dưỡng Do Cơ nhìn qua một lượt, đoạn lui ra ngoài trăm bước, lại theo thứ tự của mỗi chiếc lá: một, hai, ba mà bắn luôn ba phát, đều trúng cả.
Mọi người chắp tay xá, nói: “Quả thật là thần nhân.”
Trong Lục Vân Tiên, đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi, có lời khuyên:
Chàng dầu cung quế xuyên dương
Thiếp xin vẹn chữ tao khương đạo hằng.
“Xuyên dương” do điển tích trên và có nghĩa mưu việc đều thành tựu.
Về “tao khương”, xem tao khang.
Ghi chú: cây dương trong truyện không phải là cây dương hoặc dương liễu, thùy dương ở Việt Nam có lá kim. Cây dương ở Trung Quốc có lá rộng cho nên mới có thể bắn mũi tên xuyên lá dương.
Bách Lý Hề (? –?): chính trị gia nổi tiếng, tướng quốc (tể tướng) của nước Tần thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người nước Ngu, rất nghèo khổ, có tài nhưng không người tiến cử. Khoảng ông ở độ tuổi 30, do sự khuyến khích của người vợ, ông rời nhà để tìm kiếm cơ hội cho sự nghiệp.
Bách Lý Hề có lúc ở nước Tề muốn theo Công Tôn Vô Tri nước Tề. Lúc đó, chính quyền nước Tề tham nhũng và ông không có tiền để hối lộ các quan chức. Chẳng bao lâu, ông dùng hết tiền bạc của mình và buộc phải ăn xin trên đường phố. Ông quen người bạn mới là Kiển Thúc, nghe theo lời can ngăn của bạn mà thoát nạn (do sau này Vô Tri bị người nước Tề giết).
Bách Lý Hề sang nhà Chu. Biết nhà Vua rất thích trâu, ông mượn cơ hội nuôi trâu để tìm cách tiếp cận. Ông định theo giúp Vương Tử Đồi, Kiển Thúc lại can ngăn, Bách Lý Hề cũng nghe theo. Quả nhiên sau này Tử Đồi làm loạn và bị giết, Bách Lý Hề do không theo Tử Đồi nên thoát nạn.
Sau đó Bách Lý Hề sang nước Ngu làm đại phu. Kiển Thúc lại can gián nhưng lần này Lý Hề không đồng ý. Năm 655 tCN, Tấn Hiến Công đem quân diệt nước Ngu. Bách Lý Hề bị quân nước Tấn bắt đem về. Tấn Hiến Công sai ông làm người hầu con gái mình là Mục Doanh.
Cùng năm 655 tCN, Tần Mục Công sang nước Tấn, hỏi cưới Mục Doanh làm phu nhân. Bách Lý Hề được phái theo hầu Mục Doanh về nước Tần. Giữa đường, Bách Lý Hề bỏ trốn sang đất Uyển, bị dân biên giới nước Sở bắt được và giam giữ. Có người biết Bách Lý Hề là nhân tài, tiến cử ông với Tần Mục Công. Ông này dùng 5 tấm da dê để xin chuộc Bách Lý Hề, mà không dùng hậu lễ vì e nước Sở biết Bách Lý Hề là nhân tài mà giữ lại. Người nước Sở bằng lòng cho chuộc. Bách Lý Hề được về nước Tần. Năm đó ông đã hơn 70 tuổi.
Tần Mục Công đích thân ra đón Bách Lý Hề, lập tức phóng thích ông, và cùng bàn quốc sự suốt ba ngày. Sau đó, Vua Tần phong ông làm Thượng khanh, cai quản quốc chính, gọi là Ngũ Cổ đại phu (đại phu năm dê; “cổ” nghĩa là dê đực).
Bách Lý Hề tâu với Tần Mục Công:
Tài năng của tôi không bằng người bạn của tôi là Kiển Thúc. Ông ấy là nhân tài nhưng ít người biết đến. Hai lần tôi nghe theo lời khuyên của Kiển Thúc, đều tránh được tai họa, một lần không nghe theo lời khuyên của ông ta liền gặp phải tai họa mất nước của nước Ngu. Vì thế tôi biết Kiển Thúc là người có tài.
Trước đây, khi tôi đi khắp nước Tề, rơi vào cảnh khốn cùng phải xin miếng ăn qua ngày, Kiển Thúc giúp đỡ tôi. Khi tôi muốn phụ giúp Vua Tề, Kiển Thúc ngăn cản tôi, nên tôi tránh được nạn loạn lạc trong triều. Vì thế tôi đến với Chu Thiên tử. Chu Thiên tử rất thích trâu, tôi mượn cơ hội nuôi trâu để tìm cách tiếp cận với ông ta. Sau này khi ông ta trọng dụng tôi rồi, Kiển Thúc khuyên can tôi, tôi bèn rời xa triều Chu, vì thế tránh được tai họa chết người.
Tôi làm quan ở nước Ngu, Kiển Thúc lại kịp thời khuyên ngăn tôi. Lúc đó dẫu biết vua nước Ngu không trọng dụng mình nhưng vì cái lợi trước mắt, tham tước lộc, tiền tài, cho nên tôi vẫn ở lại.
Tần Mục Công liền sai người đem lễ vật nghênh đón Kiển Thúc, trọng dụng ông ta để ông ta làm Thượng đại phu.
Bách Lý Hề cùng với Kiển Thúc đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Tần Mục Công đưa nước Tần từ vị trí một chư hầu xa xôi hẻo lánh ở phía tây-bắc Trung Quốc vươn lên địa vị bá chủ thời Xuân Thu, trở thành một trong Ngũ bá. Sử sách xác nhận Bách Lý Hề hoạt động từ thời Tề Vô Tri năm 686 tCN đến khoảng năm 628 tCN thời Tần Mục Công, tất cả gần 60 năm. Sống khiêm nhường, tận tụy, khoan dung với dân, ông được người đời sau ca tụng.
bát canh Ðản thổ: theo Sử ký, Hạng Vũ đại phá quân Hán trên dòng Tuy Thủy. Quân Hán bị giết nhiều, dòng sông bị nghẽn lại không chảy được. Hạng Vũ bèn bắt cha và vợ Hán Vương ở đất Bái đem theo trong quân để làm con tin. Về sau, khi đã bình định xong miền đông, Hạng Vương đem binh sang hướng Tây gặp quân Hán ở Quảng Vũ, hai bên giữ nhau mấy tháng. Lúc bấy giờ, Bành Việt Thường làm phản ở đất Lương, cắt đứt lương thực của Sở. Hạng Vương lo lắng dựng một cái thớt cao, đặt Thái Công lên trên và sai người nói với Hán Vương: “Nếu không đầu hàng ngay thì ta nấu chết Thái Công.” Hán Vương nói: “Ta và Hạng Vũ đều ngoảnh mặt về hướng Bắc, chịu mệnh lệnh của Hoài Vương và đã giao ước là anh em. Cha ta tức là cha ngươi, ngươi muốn nấu canh cha ngươi thì chia cho ta một bát canh với.”
Bát Tiên: tám vị tiên gồm ba nhân vật có thật và năm nhân vật hư cấu, theo truyền thuyết bắt đầu từ triều đại nhà Đường đều đã nếm qua rượu và đào tiên nên bất tử, được coi là biểu tượng của sự trường sinh và những điềm lành.

Tám vị tiên là như sau (câu chuyện thay đổi qua các triều đại).
- Hà Tiên Cô: hay Hà Quỳnh, một phụ nữ trẻ đẹp, người Tỉnh Quảng Châu. Khi còn bé, vị tiên này có sáu cái xoáy trên đầu mà ai cũng cho là kỳ tướng. Sách Đạo phả nguyên lưu đồ chép rằng Hà Tiên Cô vốn là một chàng trai, họ Từ, tên là Thánh Thần (bề tôi của bậc thánh), thường xuất thần mà đi nơi khác nên người nhà bèn liệm xác. Lúc trở về, nhân nhà họ Hà có người con gái vừa mới chết, bèn nhập vào, sau đắc đạo lên tiên, được nhà Nguyên phong là nguyên quân (nguyên quân là tiếng dùng để chỉ người phái nữ tu đắc đạo lên tiên, tương đương với chân nhân dùng để gọi nam giới). Sau khi thành tiên, Hà Tiên Cô thường cầm hoa sen linh thiêng và cây phất trần. Bà tượng trưng cho hạnh phúc và may mắn.
- Lý Thiết Quả (còn được gọi là Thiết Quải – cây sắt), có tật ở chân nên bước đi với một cây gậy. Ông tên Lý Huyền, hiệu Ngưng Dương, nên thường được gọi là Lý Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tính tình hào sảng, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu tiên. Biết được Lão Tử đang dạy đạo trên Hoa Sơn, Lý Ngưng Dương liền tìm đến xin học. Hình ảnh của ông tượng trưng cho trí tuệ và sự sáng suốt.
- Chung Ly Quyền: làm đại tướng trong triều đình nhà Hán nên còn được gọi là Hán Chung Ly. Ông có hình dáng mập mạp, trong chiếc áo phanh trần để lộ bụng tròn, luôn được nhìn thấy với một tay phe phẩy quạt lá. Ông tượng trưng cho sức khỏe và quyền năng chữa bệnh.
- Tào Quốc Cữu: tên thật là Tào Hữu, em ruột của Tào Thái hậu đời Tống. Tào Hữu có một người em ruột là Tào Nhị, ỷ thế của anh và chị, lập phe đảng hại dân, bắt hiếp gái lành, sang đoạt tài sản. Tào Hữu rất giận, thường la mắng Tào Nhị, nhưng Tào Nhị vẫn chứng nào tật nấy, lại đem lòng oán trách. Tào Hữu thường than rằng: “Chứa lành có phước, chứa dữ mang họa. Em mình làm dữ mười phần, lẽ nào không bị hại, tuy qua đặng dương pháp, chớ chạy sao khỏi luật Trời. Nếu tai họa tới thì mình phải tội liên can, chi bằng nên lánh trước kẻo nhơ danh và mắc nạn.” Suy nghĩ rồi, liền bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi mặc áo quần đạo sĩ đi lên núi, tìm chỗ thanh vắng để tu hành. Thường được thể hiện trong một chiếc áo nhà quan quý phái, ông toát ra một sự cao quý, thanh nhã. Ông tượng trưng cho quyền cao chức trọng của trưởng tộc.
- Trương Quả Lão, tên thật là Trương Quả, từ “Lão” được thêm vào tên có nghĩa là “ông già”, nguyên mẫu là nhân vật có thật trong lịch sử, xuất hiện từ khoảng giữa hay cuối thế kỷ 7. Thường được minh họa với tay cầm ngư cổ (trống tre hình ống với 2 dùi trống bằng sắt), cưỡi ngược trên lưng lừa hàm ý Phản bổn quy chân, tiến về phía trước chính là thụt lùi. Ông nắm giữ sự thông thái của tuổi già và có khả năng tự biến mất. Ông được tôn trọng như một nhà hiền triết. Vì trông khỏe mạnh ở tuổi già, ông tượng trưng cho sự thông thái, minh mẫn ở người cao tuổi.
- Hàn Tương Tử: dựa theo nhân vật tên Hàn Tương (794-?),cháu trai của Hàn Dũ, một văn nhân nổi tiếng ở triều đại nhà Đường. Ông thích thổi sáo, sáng tác những bài nhạc êm dịu từ ống sáo thần. Tiếng sáo thu hút điềm lành bao quanh ông, vì thế mà tất cả muông thú, côn trùng, cây cỏ đều phát triển mạnh mẽ khi ông xuất hiện. Hình ảnh Hàn Tương Tử với rất nhiều những mầm cây trong chiếc bao tải đeo sau lưng tượng trưng cho cuộc sống viên mãn.
- Lam Thể Hòa: không rõ nam hay nữ, thường được minh họa với y phục dễ gây mơ hồ về giới tính. Một số tài liệu cho rằng Lam Thể Hòa là một vị tiên nữ mang đến sức khỏe và niềm vui cho gia đình.Thường mặc áo màu xanh, mang theo lẵng hoa, cầm cặp sanh đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp xin tiền bố thí. Tiền xin được, cột vào dây lưng, lại vừa đi vừa ca, khi tiền rớt không màng ngó lại, dùng tiền xin được bố thí cho người nghèo. Có tính thuần hậu, những bài ca tự đặt ra đều có ý khuyên đời bỏ dữ theo lành. Về sau, Lam Thể Hòa gặp Lý Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở Quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước hai vị tiên về thượng giới.
- Lã Động Tân, người Tỉnh Sơn Tây, sinh vào đời Đường, một học giả ẩn dật được tôn sùng như thần hộ mệnh của những người bệnh. Ông thường mang sau lưng một thanh kiếm phép để xua đuổi những linh hồn quỷ dữ và loại bỏ những loại bỏ những đau khổ do các nguồn năng lượng xấu gây ra. Ở tay phải, ông cầm một cây phất trần thường để chữa bệnh.
Bát Tiên quá hải: Bát Tiên vượt biển. Sự tích bát tiên của đạo Lão (Đạo giáo) dựa theo Từ Hải, là hư cấu trong một vở kinh kịch thời nhà Nguyên có tựa Bát Tiên quá hải. Vở này có lẽ làm cơ sở cho một phần truyện Đông du ký đời nhà Minh, trong đó kể truyện Bát Tiên vượt biển Đông Hải đi dự hội vườn đào của Tây Vương Mẫu. Bấy giờ không có thuyền, Lã Động Tân liền đề nghị mỗi người cứ cưỡi báu vật của mình mà vượt qua biển, mọi người đồng ý. Thế là Hà Tiên Cô thả cái lờ tre xuống biển, Lý Thiết Quả thả cái gậy xuống, Chung Ly Quyền thả chiếc trống, Tào Quốc Cữu thả xuống tấm giấy ngọc bản, Trương Quả Lão bèn cưỡi con lừa giấy, Hàn Tương Tử thả cái giỏ hoa xuống, Lam Thái Hòa thả tấm gỗ bách xuống, Lã Động Tân thả chiếc khèn xuống. Tám vị thần tiên đứng lên trên các bảo vật vượt qua Đông Hải bình an.
bát trân: Theo Wikipedia_Bát trân, bát trân là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm và cầu kỳ chỉ dành cho giới quý tộc cung đình, chủ yếu là bậc vua chúa. Xưa kia, sự khác biệt của ẩm thực nơi hoàng triều với chốn bình dân thể hiện qua hai yếu tố quý hiếm và cầu kỳ. Bát trân là ví dụ điển hình cho điều này. Đây là tám món ăn thuộc hàng tuyệt phẩm mà chỉ riêng vua chúa mới có cơ hội “chạm đũa” đến. Nhờ vào bàn tay của các ngự trù, bát trân thành mỹ vị. Nhờ vào sự quý hiếm (được coi là tinh túy của thế giới muôn loài) cùng sự kết hợp y lý của các nguyên liệu đi kèm, bát trân còn là những liều thuốc bổ, mang đến sức khỏe và sự trường thọ cho các bậc vua chúa. Thật ra, tính chất bổ dưỡng của bát trân thời gian sau này mới được chứng minh. Thời xa xưa, bát trân nổi tiếng vì đều là các loại thực phẩm cực kỳ hiếm. Mà đã hiếm thì ắt là quý, rồi quý nên tất phải ngon miệng và bổ dưỡng.
Quan niệm thế nào là quý hiếm và cầu kỳ trong ẩm thực cung đình, theo thời gian, có nhiều thay đổi.
Bát trân của thời Đường (618-907) là: gan rồng, chả phụng, báo, bao tử cọp, đuôi cá gáy, chả thịt cú, môi đười ươi, bàn tay gấu, mí mắt heo con.
Bát trân của thời Tống (950-1275) và Minh (1368-1628) là: gan rồng, chả phụng, thịt chim dủ di lộn, đuôi cá lý ngư (cá chép), môi đười ươi, thỏ hà nàm, vành (mí) mắt heo con, bàn tay gấu.
Bát trân Việt Nam xưa gồm những món sau.
Việc thống nhất các món ăn được liệt vào danh sách bát trân trong ẩm thực cung đình nước ta vẫn chưa có hồi kết, bởi hầu hết các tư liệu về ẩm thực cung đình xưa đã thất truyền khá nhiều, mặt khác thỉnh thoảng lại có thêm những nghiên cứu làm nảy sinh vài món lạ. Tuy nhiên, có thể tạm liệt kê tám món trân quý thời xưa, bao gồm: nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Danh sách bát trân này rất gần với “Trung Quốc thập trân” của người Hoa, được lưu truyền từ đời Tần, Hán.
* Nem công: Công (còn gọi là khổng tước) thường sống trên đồi, gò cao hoặc trong rừng tre trúc rậm rạp. Bởi vậy, việc săn bắt chim công khi xưa không phải dễ dàng. Nem công của người Việt được chế biến không qua nấu nướng, mà bằng cách cho thịt đùi công đã được giã mịn lên men vi sinh do tác động của các gia vị có tính nóng (riềng, tỏi, tiêu…). Thịt công là “thuốc giải” nhiều độc tố trong thiên nhiên mà con người lỡ ăn phải, nên được xem như “thần hộ mệnh” của các bậc đế vương thời trước.
* Chả phượng: Loài chim phượng chỉ sống ở vùng núi cao, ít người trông thấy, nói gì đến bắt được chúng. Người xưa còn cho rằng chim phượng xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Chả phượng là món ăn cực hiếm, cách chế biến lại rất cầu kỳ. Chim phượng bắt được thì cắt tiết, nhổ lông sống chứ không dùng nước sôi như các loại gia cầm khác. Thịt phượng được giã mịn, nêm gia vị, gói lá chuối thật kín rồi hấp chín rồi lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu. Thịt chim phượng giàu dinh dưỡng, cũng là “vị thuốc” bảo vệ sức khỏe tối đa.
* Da tê ngưu: Lấy phần da gần nách tê giác, ngày phơi nắng, tối sấy lửa suốt 100 ngày, rồi tẩm rượu một tháng, phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Khi muốn chế biến da tê ngưu, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm.
* Bàn tay gấu: Nhúng tay gấu vào mỡ đun sôi đủ một trăm lần để làm lông, sau đó nấu cùng nhiều vị thuốc bổ khác trong thời gian dài.
* Gân nai: Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Sau đó luộc cho mềm rồi xẻ lấy sợi gân, tách ra khỏi bắp thịt. Ngâm gân nai vào nước có pha ít muối và dấm cho trắng và mềm. Khi đã mềm thì cho hầm chung với những nguyên phụ liệu khác như tôm khô, củ đậu, măng tươi, chả lụa… trong nước gà hầm đã lọc lấy nước trong rồi nêm gia vị.
* Môi đười ươi: Bắt đười ươi rất khó, môi đười ươi là món ăn chỉ dành cho vua chúa.
* Thịt chân voi (có thuyết nói là “vòi voi”): Thịt gân ở chân voi săn chắc, giòn, chế biến món ăn vừa ngon vừa bổ dưỡng.
* Yến sào: Con chim yến làm tổ bằng nước bọt vào vách đá/gỗ tạo nên cái tổ có hình dạng một nửa chén trà. Tổ yến mới làm xong gọi là tổ yến thô. Qua quá trình vệ sinh, tinh chế tổ yến, ta có yến sạch để làm nguyên vật liệu chế biến thành các món ăn. Tổ yến có công dụng bồi bổ thần kinh, gân cốt đến chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ.
bài vị: bài là tấm gỗ, vị là ngôi thứ. Bài vị là một tấm gỗ ghi tên tuổi, chức tước người chết để đặt lên bàn thờ, người thờ cúng khi đi xa khỏi nhà lâu ngày thường mang bài vị đi theo. Còn gọi là linh vi hay thần vị, bài vị có khung thường được đẽo gọt hoa mỹ. Sau này, bài vị được chế tác bằng chất liệu khác, như đồng.
Đoạn trường tân thanh:
Sang nhà cha, tới trung đường
Linh sàng, bài vị thờ nàng ở trên.
Bàng Mông, Hậu Nghệ: tên hai nhân vật thiện xạ trong truyền thuyết cổ Trung Quốc, Bàng Mông là học trò Hậu Nghệ. Tương truyền thời xưa có 10 mặt trời, Hậu Nghệ dùng cung thần bắn rơi hết 9.
Bành Hàm: Hiền thần của nhà Ân, can Vua Trụ nhưng Trụ không nghe, Bành Hàm nhảy xuống sông tự tử. Trong bài thơ Ly tao, Khuất Nguyên nhiều lần nhắc đến Bành Hàm, chứng tỏ ông rất đau khổ bế tắc và có ý cư xử theo lối của Bành Hàm: “Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo”.
Bành Tổ: chỉ người sống lâu. Thần tiên truyện: Bành Tổ, họ Tiên tên Khanh, là cháu xa đời Vua Chuyên Húc. Vua Nghiêu phong cho ông đất Ðại Thành (tức Bành Thành) vì thế nên gọi ông là Bành Tổ. Trải qua nhà Hạ đến cuối nhà ân, ông đã 767 tuổi mà vẫn còn khoẻ, được mời ra giữ chức Ðại phu. Thuở nhỏ, ông thích điềm tĩnh, không thiết gì công danh phú quý, chủ việc dưỡng sinh. Khi phải ra làm quan, ông thường cáo ốm ở nhà, không dự gì đến chính sự.
Bạch Cư Dị (772-846): người Hạ Thành (nay là Thiểm Tây), là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động. Từ khi làm quan, ông được sung túc, nhưng cũng bất bình vì nỗi bất công trong xã hội: Kẻ thì quá xa xỉ, kẻ thì chết đói (bài Khinh phì). Bài “Ông lão gãy tay ở Tân Phong” (kể nỗi khổ của một người lấy đá đập gẫy cánh tay để khỏi bị bắt lính) nhiều người thời nay đọc tất phải mủi lòng.
Ông đậu Tiến sĩ, nhận chức Hàn lâm học sĩ và Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với Tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo dạy dỗ Thái tử.
Năm Nguyên Hòa thứ 10 (Đường Hiến Tông), do hạch tội việc Tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và Ngự sử Bùi Độ bị hành hung, quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Trong tâm tư đó và qua một gặp gỡ ngẫu nhiên, ông sáng tác bài Tỳ bà hành. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ Thượng thư.
Ông để lại hàng ngàn bài thơ. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông nói: “Làm văn phải vì thời thế mà làm… Làm thơ phải vì thực tại mà viết”, mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.
Vì thế, thơ ông mang đậm tính hiện thực phê phán theo con đường “phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xã hội và đất nước, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca nói về mối tình đẹp giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ).
Bạch Cư Dị đại diện cho dòng thơ hiện thực vì khi ông đã phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến đồi trụy, ông dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để dân chúng đều hiểu được, để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xã hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quý tộc. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi..
Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).
Thơ ông cũng giàu tính trữ tình. Khi bị đi đày từ Trường An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường ông thấy trường học, chùa chiền, quán trọ… đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.
Riêng hai bài Tỳ bà hành và Trường hận ca đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hòa đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người đàn–người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.
Ngoài ra, ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã chán ngán về nhân tình thế thái.
Xem thêm mục: Tỳ bà hành.
Bạch Ðằng: Theo Wikipedia_Sông Bạch Đằng, Sông Bạch Đằng là một con sông chảy giữa Thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và Huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách Vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống Dông Thái Bình. Điểm đầu của sông là Phà Rừng, Hải Phòng (ranh giới Hải Phòng và Quảng Ninh), điểm cuối là Cửa Nam Triệu, Hải Phòng. Sông có chiều dài 32 km.
Sông Bạch Đằng là đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền Nam Trung Quốc, qua Sông Nam Triệu đi vào Sông Kinh Thầy, Sông Đuống và cuối cùng là Sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. Ngày nay, các loại tàu thuyền có tải trọng 300-400 tấn đi được cả hai mùa trên sông.
Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công thủy chiến của Việt Nam:
- Năm 938: Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán;
- Năm 981: Hoàng đế Lê Đại Hành phá tan quân Tống xâm lược;
- Năm 1288: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba).
Bạch Đế: Thành Bạch Đế, nơi Lưu Bị rút về sau khi bị Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại, một năm sau qua đời ở đây. Thành nằm ở bờ bắc giòng Trường Giang, Trùng Khánh. Đây là một trong ba cảnh quan du lịch trọng yếu của Trường Giang Tam Hiệp. Thành một mặt dựa vào núi, ba mặt là nước bao quanh. Sau khi có đập Tam Hiệp thì mực nước dâng cao, thành Bạch Đế bốn mặt đều có nước bao quanh, nằm trên một hòn đảo được nối với bờ bắc Dương Tử qua một cây cầu.

Bạch Đế nổi tiếng qua nhiều bài thơ, đặc biệt là bài dưới đây.
Tảo phát Bạch Đế thành – Lý Bạch
Sáng sớm rời Bạch Đế – Nam Trân dịch thơ:
Sáng rời Bạch Đế rực ngàn mây
Nghìn dặm Giang Lăng, tới một ngày
Vượn hót bên sông nghe rỉ rả
Thuyền qua muôn núi vượt như bay.

Bạch Hạc: tên một đoạn sông Hồng, ở chỗ ngã 3 của Sông Lô, Sông Ðà, Sông Thao hợp dòng, thuộc địa phận Huyện Bạch Hạc, Vĩnh Phú ngày nay.
Bạch Hàm, Như Hoành: tên hai nhân vật nổi tiếng thơ văn, tài hoa trong truyện Bình Sơn lãnh Yến, tức Yến Bạch Ham và Bình Như Hoành, cùng với Sơn Ðai và Lãnh Giáng Tuyết là 4 nhân vật tài hoa.
Bạch Liên Hoa: Sư Huệ Viễn đời Tấn cùng các bạn tu hành 18 người hội họp gọi là hội Bạch Liên Hoa, viết thơ mời Ðào Uyên Minh đến dự. Uyên Minh bảo có cho uống rượu mới đến. Viễn nhận lời, nhưng khi đến nơi không có rượu, Uyên Minh không bằng lòng, cau mày bỏ đi.
Bạch Mi, tức Thần Mày Trắng. Ở các lầu xanh ngày xưa, các mụ tú bà thường dựng một bàn hương án giữa nhà, có treo một tượng đồ. Tượng này vẽ hình người có đôi lông mày trắng gọi là thần Bạch Mi (thần Mày Trắng).
Sách Dã Hoạch biên chép: các thanh lâu thường thờ thần Bạch Mi. Thần này mặt to, râu dài, cưỡi ngựa cầm dao, xem na ná như hình Quan Công, nhưng lông mày trắng và mắt đỏ.
Không ai hiểu được tranh vẽ ai và lai lịch thần Mày Trắng ra sao. Nhưng các thanh lâu đều quen thờ như vậy, coi là một vị tổ sư để cầu phù hộ cho nghề được phát đạt, cửa hàng được đông khách, cũng như tất cả các nghề khác. Có người cho rằng thần mày trắng là Quản Trọng thời Xuân Thu, người đầu tiên nghĩ ra cách tập họp một nhóm con gái mua vui vho khách đàn ông để thương gia các nơi tìm đến, nhờ thế mà xứ sở trở nên phồn thịnh.
Thời nhà Minh (1368-1628), các cô bán dâm ở lầu xanh có cách đuổi vía lạ lùng. Khi nào một cô xui xẻo, ế khách thì đến trước thần Mày Trắng, trút bỏ áo quần, đốt hương van vái cầu xin. Đoạn lấy hoa mới đổi lấy hoa đã cúng trên bàn thờ đem lót dưới chiếu mình nằm. Như vậy cô sẽ đắt khách trở lại. Theo quan niệm của họ như thế, không biết có thực đắt khách không.
Đoạn trường tân thanh, đoạn tả thanh lâu của Tú Bà:
Giữa thì hương án hẳn hoi
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày
Lầu xanh quen thói xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
Hương hoa hôm sớm phụng thờ
Cô nào xấu vía, có thưa mối hàng
Cởi xiêm trút áo sỗ sàng
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi.
bạch kỳ Nhan Uyên: có nghĩa là cây cờ trắng hòa giải của Nhan Hồi.
Một ngày kia, Đức Khổng Tử hỏi các môn đệ rằng: “Thảng như trường hợp nước nọ chẳng hòa với nước kia, đến nỗi phải gây chiến với nhau, thì các môn đệ nghĩ làm sao?”
Các môn đệ đều lần lượt trả lời, cũng không ngoài cái ý thường tình là ai vì chúa nấy, cất binh đánh nhau. Duy có Nhan Hồi thì có tư tưởng khác hẳn, đáp rằng: “Nếu gặp trường hợp ấy, tôi nguyện cầm cây cờ trắng, xông ra giữa vòng binh để giải hòa hai bên, hầu ngăn chặn cuộc tương tàn tương sát.”
Đức Khổng Tử nghe xong thì rất hài lòng, còn các môn đệ khác thì ngạc nhiên.
Do đó, thành ngữ bạch kỳ Nhan Uyên chỉ ý tưởng hòa giải thay vì gây chiến tranh.
bạo chúa xem quỳnh hoa: Đời nhà Tùy (587-617), ở Dương Châu thuộc Huyện Giang Ninh, một phồn hoa đô hội nước Tàu, có ngôi chùa tên Dương Ly. Một đêm giữa lúc canh ba, ngoài chùa bỗng có ánh sáng lòe như lửa dậy. Trên không lại có tiếng nổ vang, rồi có một vật gì sa xuống như sao rơi, mùi thơm xông nên nực mũi.
Người trong nhà mở cửa đổ ra xem. Gần bên giếng của chùa bỗng mọc lên một cây hoa lạ. Cây cao một trượng, trên ngọn có một đóa hoa ngũ sắc cực kỳ tươi đẹp. Trên hoa chia làm 18 cánh lớn, dưới có 24 cánh nhỏ. Người ta gọi là Quỳnh Hoa.
Lúc bấy giờ có người tên Vương Thế Sung ở thành Lạc Dương, nguyên trước can án giết người nên chạy trốn đến chùa trú ngụ. Vương vốn biết vẽ, thấy thế mới lấy bút mực ra vẽ đóa hoa ấy.

Vua nhà Tùy là Dương đế, nhân một đêm nằm mộng thấy hoa, nay được tin có hoa lạ trổ tại Dương Châu mới yết bảng nếu ai vẽ được đóa hoa ấy, đem dâng cho nhà Vua thì sẽ được trọng thưởng. Vương Thế Sung mang bức tranh ấy đến dâng, được nhà Vua tha tội giết người, lại được phong chức Quỳnh Hoa Thái thú.
Chùa Dương Ly đổi thành chùa Quỳnh Hoa.
Vì hoa trong tranh còn đẹp lộng lẫy, cố nhiên hoa thực còn đẹp gấp ngàn lần. Gợi lòng tò mò ham thích nên nhà Vua định ngự giá ra Dương Châu xem hoa.
Đường đất từ Lạc Dương (kinh đô nhà Tùy) đến Dương Châu ở Giang Nam rất xa xôi, khó đi. Nhà Vua cho đi xe giá nhọc nhằn nên truyền cho người đốc uất dân chúng lao dịch khai kinh bắc cầu từ Long Trì thẳng qua ải Trường Bình, thông với sông Huỳnh Hà cho đến Dương Châu để ngự thuyền rồng cho tiện. Đồng thời lại truyền cho người xây cất cung điện nơi ấy để nghỉ ngơi.
Việc lực dịch quá gian lao, bọn quan lại tham tàn thừa nước đục thả câu càng bóc lột nhũng nhiễu dân chúng. Nhân dân cực khổ chết chóc, tiếng thán oán kêu khóc ngập trời. Vì dục vọng xem hoa mà làm khổ trăm họ. Nhưng nhà Vua không nghĩ đến, lại ra lệnh cấp tốc hoàn thành công việc đào kinh trong vòng một tháng. Chậm trễ hoa sẽ tàn mất. Đàn ông cung cấp không đủ thì đàn bà cũng bị bắt đi làm. Sử chép: đào con kinh ấy lao dịch có đến một triệu dân phu. Cung phi, mỹ nữ, ngự binh, cước điện (người kéo thuyền) có đến 80 ngàn người. Dân chúng trong vòng 500 dặm dọc theo kinh phải mang thức ăn cung phụng cho đoàn du hành quý phái ấy.
Nhưng khi thuyền rồng ngự đến Dương Châu và chuẩn bị ngày mai Tùy đế xe giá đến xem thì khuya hôm ấy, mưa gió đầy trời, hoa thần rụng mất.
Vì đây là thần hoa, hiện ra không phải để cho bạo chúa xem mà là để cho nhân dân và chơn chúa xem; đồng thời để chỉ rõ sự diệt vong của nhà Tùy. Mười tám cánh trên của hoa biểu hiệu 18 vị phản vương, 24 cánh nhỏ dưới biểu hiệu 24 trấn khởi loạn chống lại Tùy đế. Và, cơ nghiệp nhà Tùy sẽ chuyển sang nhà Đường do con của vị đại thần Lý Uyên là Lý Thế Dân khai sáng, đánh bại 18 phản vương và dẹp yên 24 trấn, thống nhất lãnh thổ. Đó là một chân chúa.
Vì vậy, trong khi lãnh sứ mạng bảo giá Tùy đế ra Dương Châu, Lý Thế Dân đến chùa trông nom lính dọn dẹp, chuẩn bị cho ngày mai Tùy đế đến xem, Thế Dân thừa dịp đến xem hoa trước. Quỳnh hoa nhún lên xuống ba lần như đón chào. Rồi ngay đêm hôm ấy, sau một cơn mưa to, hoa tàn rụng. Mộng xem hoa của tên bạo chúa tan vỡ. Dục vọng ngông cuồng của nhà Vua đã làm cho hàng vạn sinh linh điêu đứng, chết chóc, lầm than!
băng đệm (chiếu băng): ý nói chiếu trúc mát lạnh (trúc tịch chi lương).
băng nhân: Người đứng trên băng, chỉ người làm mối.
Theo Thông chí, Sách Ðảm người đời Tấn, giỏi thuật số, chuyên nghề đoán mộng. Bấy giờ có Lệnh Hồ Sách mộng thấy mình đứng trên băng nói chuyện với người đứng dưới băng, bèn đem chuyện đến hỏi. Ông nói: “Trên băng là dương, dưới băng là âm, đó là việc âm dương. Kẻ sĩ muốn đưa vợ về mà băng chưa tan: Ðó là việc hôn nhân. Bác ở trên băng nói chuyện với người dưới băng tức là dương nói với âm, đó là chuyện môi giới. Bác nên vì người mà làm ông mối đi, băng tan thì việc thành.” Về sau, quả có quan Thái thú Ðiển Báo nhờ Lệnh Hồ Sách làm mối hỏi con gái Trương Công Trưng cho con trai mình và đến tháng hai thì thành hôn.
Đoạn trường tân thanh:
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
bắc khuyết hoặc bắc quyết: bắc là phương bắc, quyết là lầu canh ở cửa cung. Bắc khuyết chỉ cung vua.
Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu:
Sửa mũ áo lạy về bắc quyết
Ngọn quang minh(A) hun mát tấm tâm can.
Ngọn quang minh chỉ ngọn lửa Võ Tánh nhảy vào để tuẫn tiết.
Bắc kim thang: bài đồng dao rất phổ biến có ca từ như sau:
Bắc kim thang cà lang bí rợ
Cột qua kèo, kèo qua cột
Chú bán dầu qua cầu mà té
Chú bán ếch ở lại làm chi
Con le le đánh trống thổi kèn
Con bìm bịp thổi tò tí te tò te.
Về le le, xem Diệp Minh Tâm (2020b). Về bìm bịp, xem Diệp Minh Tâm (2020a).
Bài đồng dao được nhiều thế hệ con trẻ vô tư hát và nhiều thế hệ người lớn cổ vũ, nhưng ít ai biết câu chuyện là như thế nào.
Bài đồng dao có xuất từ vùng Tây Nam Bộ, do tên “bí rợ” là từ đậm chất vùng này; người Bắc Bộ gọi là “bí ngô”.
“Kim thang” là cái thang đối xứng hình chữ kim 金 (như trong từ “kim tự tháp” có nghĩa là tháp đối xứng). Kim thang trong bài hát là do hai thanh tre dài bắt chéo vào nhau tạo thành một hình tam giác cân rồi cắm xuống đất. Cách vài mét lại đặt một cái thang như vậy tạo thành một hàng dài cho đối xứng. Những cái thanh tre được nối vào nhau chạy dọc theo giàn, lây dây buộc cột qua kèo và kèo qua cột, cứ thế tạo thành một hệ thống cho các cây cà, cây khoai lang và bí rợ leo lên mà phát triển.

Văn hóa Nam Bộ thể hiện trong những bài hát vè của trẻ con ở quê, người lớn nghe nhiều rồi đúc kết thành văn hóa miền sông nước miền Nam Việt Nam. Câu chuyện kể về tình bạn giữ một anh bán dầu và một anh bán ếch, họ gắn kết và chia sẻ với nhau. Anh bán ếch muốn có ếch thì phải đi bẫy. Trong một chuyến đi bẫy anh trông thấy con bìm bịp và con le le đang tranh nhau miếng mồi, rồi hai con sụp luôn vào cái bẫy đó. Bài học đầu tiên là về sự tranh giành, tranh giành mà bất chấp thì chết luôn cả đám. Khi hai con này sập bẫy, anh kia muốn bắt về ăn thịt nhưng rồi nhìn mặt chúng đáng thương quá, anh lại thả.
Một bữa trưa, anh bán ếch nằm ngủ thì thấy con le le với bìm bịp bay tới báo mộng là “Anh ơi, bên dưới cái cầu mà anh với anh bán dầu bán có hai con ma muốn hai anh xuống đó để thế mạng cho chúnng, chuyện đó xảy ra trong vòng bảy ngày tới nên hai anh hãy coi chừng”. Hai con ma thấy hai anh này thích hợp nhất vì khi trời vừa rạng sáng anh bán dầu ra chợ, còn anh bán ếch về nhà sau một đêm đi bắt ếch, thời điểm đó chúng mới có thể ra tay được, nếu mặt trời lên phép thuật sẽ chúng biến mất, nên trong vòng 7 ngày chúng phải hại hai người cho chết.
Anh bán ếch sợ hãi chạy qua nhà anh bán dầu kể hết mọi chuyện. Oái oăm thay, anh bán dầu không tin, cho rằng đó là mê tín vớ vẩn, làm gì có ma quỷ trên đời. Thái độ này khiến anh bán ếch rối bời. Anh từng có người mẹ đã mất rồi, lúc đó anh bán dầu có đem tiền phúng điếu nên anh bán ếch nhớ ơn.
Vì thế, dù anh bán dầu không tin thì anh bán ếch vẫn cố gắng bảo vệ anh bán dầu. Theo kế của le le và bìm bịp, anh bán ếch bày tiệc suốt 7 ngày, nhằm ngăn chặn anh bán dầu đi qua cây cầu đó. Sau mỗi cử nhậu anh bán dầu say mềm và trì hoãn việc đi qua cây cầu kia.
Hai anh bạn cứ thế nhậu với nhau mỗi ngày và ngủ mê man cho tới ngày cuối cùng của định mệnh. Do say xỉn mấy ngày liền, anh bán ếch ngủ quên, còn anh bạn bán dầu chợt choàng tỉnh dậy vào sáng ngày thứ 6 và sửa soạn đồ đi bán vào đúng lúc sáng sớm mà anh bán ếch không hề hay biết. Hậu quả là anh té chết thật.
Anh bán ếch biết vậy nhưng ngày thứ 7 mới dám qua vớt xác bạn mình lên làm đám. Trong đám tang đó, con bìm bịp và con le le đến kêu giống như đang than khóc cho anh bán dầu, tạo nên một âm thanh ma chay như là đánh trống thổi kèn.
Nguồn: CreepypastaVN (2019), NT – Thanh Tuyền (2019).
Bắc Lý: chỉ Bình Khang, nơi ở của các kỹ nữ.
bắn nhạn ven mây: ý nói trổ tài thi đỗ cao dù bài thi có khó. Chữ Nhạn có thể lấy ý từ chữ Nhạn Tháp hay Nhạn tháp đề danh là nói sự thi đỗ đại khoa.
Ðời Ðường từ sau những năm Thần Tông (705-707), những người mới đỗ Tiến sĩ bắt chước Trương Cử đến tháp Nhạn ở chùa Từ ân (Nay thuộc Trường An, Thiểm Tây) đề tên mình lên tháp.
Lục Vân Tiên:
Chí lăm bắn nhạn ven mây
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa
bắn sẻ: từ chữ xạ tước, đúng ra có nghĩa bắn chim công, chỉ việc cầu hôn.Theo Ðường thư, Ðậu Nghi đời Ðường có cô con gái yêu muốn kén rể bèn sai người vẽ hình một con chim tước (chim công) trên bức bình phong, giao ước ai bắn trúng mắt chim sẽ gả con gái cho. Bấy giờ Lý Uyên (về sau lên ngôi hoàng đế là Ðường Cao Tổ) bắn trúng nên được lấy con gái Ðậu Nghi.
Bất Chu: tên núi trong thần thoại, nguyên là cột chống trời ở góc tây-bắc. Cung Công giành ngôi đế của Chuyên Húc, bị Chuyên Húc đánh bại, Cung Công bèn đập đầu vào cột chống trời để tự tử. Cột bị đổ, trở thành Núi Bất Chu. (Vì cột chống trời đổ, trời bị rách nên Nữ Oa phải đội đá vá trời).
bất như nhất Khang: có nghĩa: không bằng một Khang. Khang tức Trần Nguyên Khang, người Bắc Tề, làm chức Ðại thừa tướng Công tào. Khi Văn Tương Ðế (Cao Trừng) đến đất Nghiệp thì Thôi Tiếm, Thôi Quý Thư, Thôi Ngang, Trương Lượng, Trương Huy Toản được giao phó làm Thần vũ. Họ gặp nhau nơi ngoại môn của Văn Tương, cùng đàm luận với Nguyên Khang nhưng họ thấy không bì kịp, do đó người ta nói: “ba Thôi hai Trương không bằng một Khang”.
Bần nữ thán: có nghĩa “Lời than của một người con gái nghèo”, là một tác phẩm trong văn chương Việt Nam viết theo thể song thất lục bát bằng chữ Nôm. Tác giả cuốn sách này nay không lưu danh nên Bần nữ thán được liệt vào hạng khuyết danh. Năm sáng tác cũng không được minh xác, có thể vào thế kỷ 18 hoặc muộn hơn, như vào cuối thế kỷ 19 triều Tự Đức nhà Nguyễn.
Tác phẩm dài 216 câu song thất lục bát. Nội dung là tự tình của một người con gái trách số phận vì nghèo túng mà thua thiệt không lấy được người chồng sang cả. Dù vậy đoạn kết vẫn có hậu, vì vẫn tin tưởng đến một ngày mai tươi sáng hơn.
Bần nữ thán từng được dùng làm sách giáo khoa vì có giá trị văn chương, và được Phạm Xuân Độ dịch sang Pháp văn do nhà xuất bản Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ thư xã) in năm 1945 ở Hà Nội; họa sĩ Mạnh Quỳnh minh họa.
Đoạn đầu: Cất tiếng than
Kiếp phù thế(A), nhân sinh thấm thoắt
Vì chữ bần nên ngắt chữ duyên!
Ai làm số phận xui nên?
Há thua sắc thắm, há hèn màu tươi.
Con tạo hóa trêu ngươi chi tá?
Đem sắc, tài thu cả vào khuôn
Hiên tây thấp thoáng trăng suông
Gió vàng(B) hiu hắt như tuôn mạch sầu.
Niềm tâm sự thấp cao mọi nỗi
Tình cảnh này biết nói cùng ai?
Chống tay ngồi ngẫm sự đời
Bực mình mà gửi mấy lời vân vân.
(A): Phù: nổi, thế: đời. Phù thế cũng như phù sinh: đời trôi nổi, ý nói người sống gửi trên cõi đời chẳng căn cứ vào đâu, cũng như vật trôi nổi trên mặt nước, lênh đênh không định chỗ.
(B): Gió vàng bởi chữ kim phong (gió mùa thu). Theo ngũ hành thì mùa thu thuộc về hành kim, nên gió mùa thu được gọi là kim phong.
Đoạn cuối: Đợi chờ
Phượng chắp cánh kia còn đợi gió
Rồng sinh răng cũng biến lên mây
Trăm năm phải có một ngày
Ôm cầm lựa lọc so dây bốn bề.
Nên kết tóc xe tơ cho phải
Đáng văn nhân tài tử mới trao
Ngọc lành còn đợi giá cao
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc
Khó đành khó, khó chẳng lụy ai
Giận duyên nói bấy nhiêu lời
Ai khen cũng mặc, ai cười mặc ai.
bầu Nhan Uyên: bầu nước của Nhan Uyên, ý nói cảnh nghèo mà vẫn vui việc học.
Theo Sử ký, Nhan Uyên tức Nhan Hồi, người nước Lỗ thời Xuân Thu, học trò giỏi của Khổng Tử, rất ham học, được xếp vào bậc đại tài. Ông sống trong cảnh nghèo mà vẫn vui đường học đạo, được Khổng Tử khen: “Hiền thay là anh Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở nơi ngõ hẹp. Người ta không kham nỗi cảnh nghèo hèn mà lo buồn còn Nhan Hồi thì không thay đổi điều vui của mình.” Ông chết sớm, lúc chỉ mới 32 tuổi. (Trọng Ni đệ tử liệt truyện).
Sau đến đời Tấn, Tô Thiểu chết đi rồi lại hồi tỉnh, người em là Tiết hỏi chuyện dưói đất thì Thiểu nói: “Hai ông Nhan Hồi và Bố Thượng được làm chức Tu Văn Lang ở dưới đất.” (Văn Uyển).
Quốc âm thi tập:
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt
Ðỗ Phủ thi nên có bút thần.
Bạch Vân Quốc âm thi tập:
Kìa ai đủng đỉnh trong làng Hạnh
Cơm một giỏ, nước một bầu.
Lục Vân Tiên:
Quản bao thân trẻ dãi dầu
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
bèo hợp mây tan: Nghĩa đen là những cánh bèo tụ hợp với nhau trên mặt nước bất kỳ lúc nào có thể bị sóng nước đánh tan ra, còn đám mây bất kỳ lúc nào có thể bị gió thổi bay. Nghĩa bóng nói về những cái gì không có tính bền vững, khi hợp khi tan không thể nào biết trước.
Đoạn trường tân thanh:
Rồi đây bèo hợp mây tan
Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?
bèo nước gặp nhau: từ câu bình thủy tương phùng, chỉ việc tình cờ, không hẹn mà gặp.
Bài Ðằng Vương Các tự của Vương Bột:
Quan sơn nan việt
Thùy chi thất lộ chi nhân
Bình thủy tương phùng
Tận thị tha hương chi khách.
Dịch thơ của Đinh Vũ Ngọc:
Núi non quan ải khó qua
Nào ai thương kẻ bôn ba lạc đường?
Chừ đây bèo nước tương phùng
Cũng đều là khách tha hương xa nhà.
Hoa Tiên:
May đâu bèo nước gặp nhau
Thôi thì hợp phố cho châu lại về.
[Xem thêm: châu về Hợp Phố]
Đoạn trường tân thanh:
Lâm Truy chút nghĩa đèo bồng
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
bẻ liễu: Từ chữ chiết liễu, chỉ cảnh tiễn biệt. Ngày xưa, khi tiễn biệt nhau người ta thường bẻ cành liễu tặng nhau để tỏ lòng lưu luyến.
Sách Tam Phụ Hoàn đồ: Nơi Bá Kiều (cầu gần kinh đô Tràng An), người đưa nhau đến đó bẻ liễu tặng nhau để làm roi ngựa.
Hoa Tiên:
Rằng “Từ bẻ liễu lên đường
Gửi mà sao hãy trễ tràng đến nay?”
bẻ quế: Từ chữ chiết quế, chỉ việc thi đỗ, công thành danh toại.
Phạm Tải Ngọc Hoa:
Những mong bẻ quế nên danh
Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.
Sơ kính tân trang:
Lăm le giật giải thanh vân
Trèo trăng bẻ quế gọi xuân mở đường.
bến mê từ chữ mê tân: Đạo Phật ví chúng sinh luân hồi trong vòng sinh tử như là chìm đắm trong bến mê, hình dung cuộc đời con người hết sức thê thảm, phải dựa vào con thuyền trí tuệ (sách Phật gọi là thuyền Bát nhã) mới qua được.
Cung oán ngâm khúc:
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Nhà nho cũng dùng từ “bến mê” nhưng với nghĩa người phàm lạc đường trong cảnh tiên.
Thơ Mạnh Hạo Nhiên:
Đào Nguyên hà xứ thị
du tử chỉnh mê tân.
Dịch nghĩa:
Đào Nguyên là xứ nào
khách chơi quên bến mê.
bể ái: bể chỉ một cái gì mênh mông rộng lớn, ái: tình yêu. Bể ái chỉ tình yêu mênh mông như bể.
Đoạn trường tân thanh:
Vẻ chi chút phận bèo mây
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
bể dâu: biển và nương dâu, từ câu Thương hải biến vi tang điền (Biển xanh biến thành nương dâu), chỉ việc đời biến đổi sâu rộng.
Thần tiên truyện: Vào thời Ðông Hán, tiên nhân Vương Phương Bình giáng cho mời tiên nữ Ma Cô đến để dùng tiệc. Giữa bữa tiệc, Ma Cô bảo Phương Bình rằng: “Từ lần gặp gỡ trước đến nay, đã thấy Đông Hải ba lần biến thành nương dâu, hướng đến Đảo Bồng Lai thì lại thấy nước cạn đi so với trước, xem thời gian thì ước đoán đã cạn đi một nửa, lẽ nào lại sắp biến thành gò đống, lục địa ư?” Phương Bình cười nói: “Thánh nhân đều nói, Đông Hải sắp sửa nổi lên thành cồn đất rồi đó!”
Thành ngữ “Thương hải tang điền” biểu thị sự biến đổi lớn của tạo vật, đồng thời cũng thể hiện một khoảng thời gian rất dài của vũ trụ. Hơn nữa, sự biến đổi có tính chất tuần hoàn, tức biển xanh biến thành nương dâu và rồi nương dâu lại biến thành biển biếc, nên nàng Ma Cô mới nhìn thấy sự biến đổi đến ba lần.
Đoạn trường tân thanh:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Các thành ngữ “bể dâu”, “tang thương” chỉ cuộc xoay vần rộng lớn của vũ trụ và con người.
Thành ngữ “dâu bể” có cùng nghĩa tuy không đúng trình tự thay đổi từ biển thành ruộng dâu.
Sau này, có người dùng từ “tang thương” chỉ nghĩa tang tóc và đau thương là không đúng với nghĩa nguyên thủy.
bể khổ: do chữ khổ hải, chữ nhà Phật ví nỗi khổ ở đời mênh mông như biển cả.
Cung oán ngâm khúc:
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
bệ phong: xem phong.
bệnh Tề Uyên: bệnh hiếu sắc. Theo sách Mạnh Tử, thời Chiến Quốc, Tề Uyên Vương trong một lần nói chuyện với Mạnh Tử có nói rằng ông mắc phải 3 chứng bệnh là: hiếu dũng (thích sức mạnh), hiếu hóa (thích của cải) và hiếu sắc (thích gái đẹp).
Cung oán ngâm khúc:
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn
Bệnh Tề Uyên đã nổi lên đùng đùng.
bệnh thầy Trương: Trương Lương theo Lưu Bang, được Lưu Bang cho làm tướng. Lương đem binh pháp của Thái Công ra trình bày với Lưu Bang, Lưu Bang khen, thường dùng sách lược ấy. Trương Lương hay ốm, chưa từng làm tướng một mình, thường làm kẻ bày mưu kế và luôn đi theo Lưu Bang. Khi Lưu Bang bình định được thiên hạ, phong tướng cho các công thần, ông nói: “Bàn mưu kế ở trong màn trướng, quyết định sự thắng lợi ngoài ngàn dặm, đó là công lao của Tử Phòng”. Bèn phong cho Trương Lương làm Lưu Hầu.
Trương Lương hay ốm, thường học phép đạo dẫn (phép tu luyện của người theo đạo Lão, tập thở, luyện gân cốt để sống lâu), không ăn cơm, đóng cửa không ra ngoài. Bấy giờ Trương Lương nói: “Gia đình tôi đời đời làm tướng quốc nước Hàn. Ðến khi Hàn mất, tôi chẳng tiếc số vàng vạn lạng mà đối phó với nước Tần mạnh để báo thù cho Hàn làm rung động cả thiên hạ. Nay tôi lấy ba tấc lưỡi mà làm thầy bậc đế vương, được phong vạn hộ, ở ngôi chư hầu, kéo áo vải, được thế là tột bậc. Ðối với Lương thế là đủ rồi. Vậy xin bỏ việc nhân gian, chỉ muốn giao du vơi Xích Tùng Tử mà thôi.”
Thành ngữ “bệnh thầy Trương” chỉ lý do được viện dẫn (thường chỉ là cái cớ) để không tham gia vào việc gì đó.
Bi ca tán Sở: một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Vũ.
Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán, đời Tần Hán (221 tCN-195), phò Bái Công Lưu Bang. Lúc bấy giờ, Hạng Vũ bị tướng soái nhà Hán là Hàn Tín bao vây tại Cửu Lý San ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập: thiếu lương, nhưng bên cạnh vua còn 8 ngàn tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Đông tu chỉnh binh mã để tiếp tục cuộc chiến đấu.
Như vậy là một mối nguy cho Hán, dù có đại thắng bằng binh lực tất phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8 ngàn tử đệ để cô lập Hạng Vũ. Có thế mới bắt Hạng Vũ được.
Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng, trời cuối thu lạnh lẽo, Trương đi qua lại từ Kê Minh san đến Cửu Lý san, vừa thổi tiêu vừa hát (dựa theo lời dịch của Hải Âu Tử):
[…]
Mười năm xa quê, cha mẹ đau buồn
Vợ con mong nhớ, gối chiếc chăn đơn
Đồng ruộng bỏ hoang, ai người trông nom?
Xóm có rượu ngon, cùng ai thưởng thức?
Tóc bạc mong con, tựa cửa sớm hôm
Trẻ khóc gọi cha, nước mắt trào tuôn
Gió bấc kia thổi, ngựa Hồ nhớ chuồng
Người xa quê hương, nỡ quên xóm làng!
Một sớm giao phong, thân bỏ sa tràng
Xương thịt như bùn, trên bãi trong mương
Hồn phách bơ vơ, không nơi tựa nương
Tráng khí lừng danh, phó trả hoang đường!
Đêm trường canh vắng, tự hỏi thiên lương
Mau bỏ Sở tan, tránh chết tha phương
Ta vâng ý trời, soạn ca thành chương
Ai biết mạng trời, xin đừng mơ màng!
Hán Vương nhân đức, không giết quân hàng
Ai muốn về quê, tha cho lên đường
Chớ giữ trại không, Sở đã tuyệt lương
Khi Vũ bị bắt, ngọc đá khôn lường!
[…]
Trương Lương tập quân Hán học tiếng Sở hát theo.
Canh khuya, đêm vắng, khí trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát bi thảm đồng vọng vào dinh Sở. Ban đầu, lính Sở chỉ buồn bã than thở, nhưng sau cùng, nghe đến chừng nào thì càng cảm thấy như ruột gan tan nát, rồi nước mắt đầm đìa… đoạn bàn nhau bỏ trốn.
Chỉ trong một đêm, tám ngàn tử đệ Sở cùng quân sĩ các dinh, mười phần bỏ trốn hết bảy tám.
Binh Sở không đánh mà tự nhiên vỡ tan để Sở Vương phải ôm hận đầy lòng, buông lời than ai oán:
Sức nhổ núi, khí hơn đời
Thời bất lợi, ngựa chẳng đi.
bia Tấn Phúc: Phạm Trọng Yêm đời Tống khi làm Trấn phủ Nhiêu Châu có người học trò vào yết kiến, nói tình cảnh đói rét nghèo khổ. Bấy giờ người ta đang mộ lối chữ đẹp của Âu Dương Xuất Canh viết khắc ở tấm bia chùa Tấn Phúc. Ông Phạm bèn đem giấy mực định cấp cho người học trò ấy đến chùa rập lấy nghìn bản rồi đến kinh mà bán lấy tiền. Người học trò chưa kịp đến rập bản, bỗng một hôm mưa gió, tấm bia bị sét đánh vỡ mất.
Cổ thi:
Thời lai phong tống Ðằng Vương Các
Vận phú lôi oanh Tấn Phúc bi.
Dịch:
Vận đến thì gió đưa đến Gác Đằng Vương
Vận đi thì sét đánh đổ bia Tấn Phúc.
Ý nói việc đời tùy theo thiên mệnh, con người khó làm chủ được.
(Về việc gió đưa đến Gác Đằng Vương, xem Vương Bột)
biết thời làm biết: Luận ngữ: Tử nói: Tử Do dạy cho người cách hiểu biết chăng? Biết cái gì thời nhận là biết, chẳng biết cái gì thì nhận là chẳng biết, như thế là biết vậy.
Biển Thước: Theo Wikipedia_Biển Thước, Biển Thước tên thật là Tần Việt Nhân, là một thầy thuốc trứ danh thời Chiến Quốc và được xem là một trong những danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch của lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y. Tác phẩm của ông còn có Biển Thước nội kinh, Biển Thước ngoại kinh và Nạn kinh.
Theo Đông Chu liệt quốc, Biển Thước (tức là Tần Hoãn) sang chơi nước Quắc, gặp thế tử nước Quắc ngộ cảm mà chết. Biển Thước nói chuyện với người nội thị rằng: “Tôi có thể chữa được thế tử.” Người nội thị nói: “Thế tử đã chết rồi, còn sống lại thế nào được nữa!” Biển Thước nói: “Hãy thử cho tôi chữa xem.”
Người nội thị vào báo với vua nước Quắc. Vua nước Quắc cho triệu Biển Thước vào. Biển Thước sai học trò là Dương Lệ đem cái kim đá chích cho thể tử. Được một lúc, thế tử sống lại.
Biển Thước lại cho thuốc chén; hơn hai tuần nữa thì khỏi hẳn. Từ bấy giờ Biển Thước nổi tiếng có tài cải tử hoàn sinh. Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm.
Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn Công, nói với Hoàn Công rằng: “Chúa công có bệnh ở thớ thịt; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng.”
Hoàn Công nói: “Tôi chẳng có bệnh gì cả!”
Biển Thước lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến, nói với Tề Hoàn Công rằng: “Bệnh Chúa công đã ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa.”
Hoàn Công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn Công rằng: “Bệnh Chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi.”
Hoàn Công lại không trả lời. Biển Thước lui ra.
Hoàn Công than rằng: “Tệ quá! Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò! Người ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh!”
Qua năm ngày nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Tề Hoàn Công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn Công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn Công sai người hỏi.
Biển Thước nói: “Bây giờ bệnh Chúa công đã vào đến tủy rồi! Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh ở mạch máu thì còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời vẫn không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.”
Lại qua năm ngày nữa. Hoàn Công quả nhiên bệnh nặng, sai triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói: “Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi.”
Hoàn Công hối hận vô cùng.
biện oan: biện có nghĩa tranh luận điều phải trái, oan có nghĩa bị khuất tất, bất bình về một việc không có mà người ta nghi cho mình.
Nhị độ mai:
Thiên lao biết có bao giờ biện oan.
Bích Câu kỳ ngộ: có nghĩa “Sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu”, là truyện Nôm của Việt Nam, dài 678 câu thơ lục bát. Bích Câu (có nghĩa: ngòi biếc) trước thuộc Làng Yên Trạch, Tổng Yên Hòa, Huyện Thọ Xương, Tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện ở đây còn đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là di tích của câu chuyện thần tiên này.
Trước đây, nhiều người (trong đó có Dương Quảng Hàm, Thanh Lãng) cho rằng truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ là của một tác giả khuyết danh; nhưng theo các nhà nghiên cứu văn học Việt hiện nay (trong đó có Trần Văn Giáp, Nguyễn Phương Chi, Hoàng Hữu Yên, Phạm Ngọc Lan), thì người sáng tác ra truyện thơ này là Vũ Quốc Trân (? – ?), người Làng Đan Loan, Huyện Bình Giang, Hải Dương; nhưng sống ở Phường Đại Lợi (một phần Phố Hàng Đào thuộc Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa thế kỷ 19. Vũ Quốc Trân sống đồng thời với Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát. Ông đi đỗ mấy khoa tú tài nên thường được gọi là “cụ (ông) Mền Đại Lợi”.
Bích Câu kỳ ngộ nguyên là một tiểu thuyết bằng chữ Hán, xuất hiện trong tập Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Có người cho rằng tập truyện này là của Đặng Trần Côn (? -1745), nhưng học giả Trần Văn Giáp dựa vào nhiều tài liệu lại khẳng định là của Đoàn Thị Điểm.
Truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ tuy chỉ là bản dịch ra chữ Nôm, song do thành công về nghệ thuật nên được phổ biến rộng rãi hơn so với nguyên bản.
Theo Dương Quảng Hàm, phần nhiều các truyện Nôm cũ của Việt Nam thường mượn sự tích ở sử sách hoặc tiểu thuyết của Trung Quốc, nhưng truyện Bích Câu thì không thế, tức nội dung hoàn toàn là của Việt Nam.
Truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ gồm 648 câu, có thể chia làm 4 hồi:
I- Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (1–272): Vào đời Hồng Đức, có một người học trò nghèo, cha mẹ mất sớm, thường hay đi chơi những thắng cảnh. Một lần đến Bích Câu, chàng thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì nhưng người ta vẫn gọi là Tú Uyên.
Vào một ngày mùa xuân, chàng đi xem hội làm chay ở Chùa Ngọc Hồ, thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ họp lại rất đông. Chiều đến, chàng ngồi bên gốc đa gần chùa, định ra về. Bỗng một chiếc lá đa bay đến trước mặt, chàng nhặt lên xem thì thấy mặt sau có đề một bài thơ có ý ghẹo mình. Tú Uyên ngạc nhiên tưởng có người nào trên lầu ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, mãi cũng không thấy gì cả. Trông ra Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Chàng bèn đi theo, đến Quảng Văn Đình thì chợt người ấy biến mất. Tú Uyên ngơ ngẩn mãi một lúc rồi mới trở về nhà. Từ đấy, Tú Uyên sinh ra ốm tương tư, ngày đêm mơ tưởng đến bóng dáng người thiếu nữ ấy, không thiết gì đến việc ăn uống, học hành.

II- Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (273–428):
Một người bạn học là Hà sinh đến thăm, khuyên chàng không nên tơ tưởng nữa, nhưng Tú Uyên vẫn không sao quên được.
Nghe người ta bảo là Đền Bạch Mã rất thiêng, chàng liền đến xin quẻ thẻ rồi ngủ đêm lại đền để cầu mộng. Đêm hôm ấy, vị thần giữ đền hiện ra trong giấc mơ của chàng nói rằng: “Này anh chàng hào hoa kia, sáng mai hãy đến cầu Đông ta sẽ cho biết một tin rất tốt.” Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, nhưng đợi mãi không thấy ai cả. Đến chiều, chàng mới gặp một ông già bán tranh, ông mời chàng mua một bức tranh tố nữ. Chàng mở ra xem thì không ngờ hình dạng tố nữ trong tranh trông chẳng khác gì người mà mình đã gặp hôm trước.

Quá mừng rỡ nên Tú Uyên mua ngay bức tranh mà không cần hỏi thăm xuất xứ từ đâu nữa. Dù không gặp được người thật, nhưng người trong tranh cũng làm cho chàng hoan hỉ trong lòng. Tú Uyên muốn lúc nào cũng được nhìn ngắm chân dung người đẹp, nên chàng treo bức tranh bên cạnh chỗ ngồi, để khi học, hay khi thưởng thức chén trà ngon, thậm chí khi ăn cơm chàng cũng đem ra hai cái bát, hai đôi đũa rồi mời người thiếu nữ trong tranh như mời thật. Mỗi lần say đắm ngắm nhìn người tố nữ trong tranh như thế, Tú Uyên hơi ngạc nhiên khi thấy tố nữ cũng say đắm nhìn lại, cũng như những lúc chàng nói những lời hoa bướm với người đẹp thì thấy hai má tố nữ trong tranh đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, khi Tú Uyên đi học về thì thấy giữa bàn đã dọn sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu là của ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn một cách ngon lành. Chàng không ngờ thiếu nữ trong tranh cũng nhìn chàng một cách trìu mến và mãn nguyện.

Tiếp mấy ngày hôm sau, chàng luôn được chăm sóc bằng cách đó, cơm canh lúc nào cũng được dọn sẵn sàng trên bàn. Tú Uyên vừa mừng lại vừa lo, không hiểu vì đâu mà mình được ưu đãi như thế!
Hôm khác chàng giả vờ đi học, được nửa đường rồi quay trở về, nấp ngoài cửa nhìn vào.
Chợt thấy tố nữ trong tranh bước ra, dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Thế là chàng đã biết rõ nguyên nhân, liền đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt lấy tay nàng mà rằng: “Sao nàng lại nỡ để tôi trông đợi mỏi mòn đến thế! Bây giờ tôi đã gặp lại nàng, tôi nhất quyết không cho nàng ra khỏi đây đâu!”
Thiếu nữ trong tranh e thẹn, má đỏ hồng, không dám nhìn mặt Tú Uyên.
Tú Uyên đã biết nàng từ đâu ra nên giật lấy bức tranh trên tường xé nát để nàng không còn nơi trú ẩn. Người con gái se sẽ nói: “Sao chàng ác thế! Thiếp đã lạc vào đây rồi nên đâu dám không vâng lời.”

Rồi nàng cho biết mình là tiên nữ tên là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không còn có gì vui sướng hơn nữa, chàng đưa tay lên trời thề yêu nàng trọn đời. Thế là hai người được thành thân với nhau, dưới sự chứng kiến của các bạn tiên của nàng.
Rồi Giáng Kiều làm phép biến nhà của chàng thành nguy nga tráng lệ với đầy đủ người hầu hạ.
III- Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về (429–558):
Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên buông thả không màng gì đến đèn sách. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt là thích được uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi, nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật nấy.
Ba năm trôi qua, chàng không hề lai vãng đến nhà học. Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống thì uống đến say, không còn biết trời đất là gì nữa, thậm chí nhiều khi còn chửi mắng vợ.

Giáng Kiều giận lắm! Song nàng không biết làm sao hơn, kiên nhẫn chờ dịp quay về trời.
Một hôm Tú Uyên từ tửu quán khật khưởng trở về, Giáng Kiều đưa chồng vào giường rồi nhân lúc chàng ngủ thiếp đi, nàng liền bay về trời.
Lúc tỉnh rượu, không thấy vợ đâu, Tú Uyên hết sức đau khổ và hối hận. Suốt một tháng trời, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè thân thiết hết lời khuyên nhủ nhưng chàng cũng không sao giảm được u sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn từ giã cõi đời mà thôi.
Nhưng khi khăn vừa vắt lên xà nhà để thắt cổ tự vẫn thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến…
Thì ra đó chính là Giáng Kiều hiện ra cứu chàng. Tú Uyên vừa thẹn vừa mừng, thề xin chừa hẳn rượu và chăm lo học hành. Hai vợ chồng lại sum họp đầm ấm như xưa.
IV- Tú Uyên và Giáng Kiều lên cõi tiên (559–648):
Từ bấy giờ Tú Uyên đối đãi tử tế với Giáng Kiều. Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một trai, đứa bé lớn lên thông minh tuyệt đỉnh, học đâu nhớ đó, được đặt tên là Chân Nhi, Giáng Kiều khuyên chàng nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để chàng tu luyện.
Rồi một hôm bỗng có hai con hạc từ trên trời bay xuống, đến đón hai người ở trước sân. Hai vợ chồng dặn dò con ở lại học cho tốt, rồi cưỡi hạc bay về trời.
Về sau con của hai người đỗ đạt cao, làm quan vinh hiển.
Nhận định
Bích Câu kỳ ngộ là câu chuyện tình mang màu sắc hoang đường. Nhưng phía sau câu chuyện tình là một vấn đề xã hội. Tác phẩm bộc lộ một quan niệm nhân sinh muốn thoát ly thế giới thực tại. Tư tưởng yếm thế này ít nhiều thể hiện cái nhìn phê phán xã hội của tác giả trong hoàn cảnh một đất nước loạn lạc, chiến tranh, đầy dẫy bất trắc. Mặt khác, ở đây cũng là một xu hướng giải tỏa tâm thức của những con người lúc bấy giờ: muốn rời bỏ đạo Nho mà tìm đến Phật giáo và Đạo giáo.
Về hình thức, Bích Câu kỳ ngộ là câu chuyện thuần túy Việt Nam, với những tên đất, tên người Việt Nam. Nhờ đó, âm hưởng dân tộc của truyện khá đậm nét. Hơn nữa, tác phẩm còn đạt tới một bút pháp nghệ thuật tinh vi: kết hợp tả cảnh với tả tình (có những chỗ còn táo bạo trình bày cả quan hệ nhục cảm) và khắc họa thành công tâm trạng nhân vật… Đặc biệt, ngôn ngữ truyện trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu do biết vận dụng tục ngữ, ca dao và nhất là tiếp thu những thành tựu của ngôn ngữ Truyện Kiều.
Bích Câu kỳ ngộ là câu chuyện ly kỳ thần bí xảy ra ở trên đất Thăng Long (Hà Nội bây giờ). Hiện nay, ở Phố Cát Linh gần Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) còn có tòa nhà Bích Câu đạo quán, tương truyền được dựng trên nền nhà cũ của Tú Uyên thuở xưa. Ngoài ra, còn nhiều sự tích trong truyện, nào là Sông Tô Lịch, Chùa Bà Ngô (ở Phố Sinh Từ, tức Chùa Ngọc Hồ ở trong truyện), Đền Bạch Mã (nay ở Phố Hàng Buồm), Gò Kim Quy (Tháp Rùa), Cầu Đông (nay ở Phố Hàng Đường), Đình Quảng Văn (vườn hoa Cửa Nam, Hà Nội ngày nay), v.v…Tên các di tích ấy, theo học giả Trần Văn Giáp, đã đủ chứng thực tính dân tộc của truyện .
Nguồn: Ngô Hồng Chi (no date); Wikipedia_Bích Câu kỳ ngộ.
bình bồng: bình là bèo, bồng là cỏ bồng – hai loài thực vật thường trôi nổi theo nước và gió. Bình bồng chỉ cuộc sống trôi nổi, bất định. Sau này người ta nói trại ra là “bềnh bồng.”
Thành ngữ Trung Quốc:
Bình phiêu bồng chuyển
Có nghĩa:
Bèo nồi, cỏ bồng chuyển dịch.
Đoạn trường tân thanh:
Bình bồng còn chút xa xôi
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Cánh bèo – Tản Đà
Bềnh bồng mặt nước chân mây
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa.
bình khang: Bình Khang nguyên là tên một phường ở kinh thành Trường An đời Ðường, đây là nơi ở của các kỹ nữ.
Khai Thiên di sự: Thành Trường An có phường Bình Khang là nơi ở của các kỹ nữ. Hàng năm các tân khoa tấn sĩ đến đó chơi. Phường Bình Khang ở gần cửa Bắc nên cũng gọi là Bắc lý.
Về sau, “bình khang” trở thành danh từ chung chỉ chỗ kỹ nữ ở.
Đoạn trường tân thanh:
Bình khang nấn ná bấy lâu
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang
bình lôi: Chữ trong Kinh Thi, ý nói con cái nhất nhất đều bẩm thụ ở cha mẹ, cũng giống như ve rượu con (bình) đều được rượu từ bình lớn (lôi) rót ra.
Bình Nguyên Quân: thời Chiến Quốc (479-221 tCN), con của Vũ Linh Vương nước Triệu. Ông tên Thắng, làm Tướng quốc và được phong đất Bình Nguyên nên thường được gọi là Bình Nguyên Quân (quân là một tước, tương tự như tước hầu).
Cũng như Mạnh Thường Quân (người nước Tề) và Tín Lăng Quân (tướng nước Ngụy), Bình Nguyên Quân là người rất hiếu khách, tính hào hiệp, trong nhà bao giờ cũng có tân khách đến hàng ngàn người. Vào thời này, một số quý tộc có nhiều tiền của đón người có tài đến nuôi ăn ở, gọi là tân khách, để khi cần giao việc cho họ làm, nhưng mục đích chính là tạo thanh thế.
Ông làm Tướng quốc cho Huệ Văn Vương và Hiếu Thành Vương, 3 lần thôi không làm Tướng quốc, 3 lần trở lại địa vị, được phong đất ở Ðông Vũ Thành.
Khi quân Tần vây kinh đô Triệu là Hàm Đan, Vua Triệu sai Bình Nguyên Quân đến Sở cầu cứu bằng cách liên minh. Bình Nguyên Quân định chọn lấy 20 người đủ sức khỏe, mưu mẹo trong số tân khách cùng đi. Nhưng chỉ chọn được 19 người.
Một tân khách trên Mao Toại bước ra, tình nguyện đi cho đủ số. Bình Nguyên Quân hỏi: “Tiên sinh ở nhà này được bao lâu rồi?”
Mao Toại đáp: “Đã được 3 năm.”
Bình Nguyên Quân nói: “Phàm bậc hiền sĩ ở đời chẳng khác gì cái dùi ở trong cái túi, bao giờ mũi nhọn cũng thò ra ngoài. Tiên sinh ở đây đã đến 3 năm mà tôi chưa từng thấy người chung quanh tôi khen ngợi điều gì, thế là tiên sinh không có đặc tài thì xin mời tiên sinh ở lại nhà.”
Mao Toại nói: “Chính ngày nay tôi mới xin làm cái dùi trong cái túi đó. Nếu tôi sớm được như cái dùi trong túi thì chẳng những chỉ thò mũi nhọn ra, mà lại còn nhảy tuột cả ra ngoài nữa.”
Nghe lời đáp lạ lùng, Bình Nguyên Quân bằng lòng cho đi. Mười chín tân khách kia nhìn nhau có vẻ xem thường, cười thầm.
Đến nước Sở, Bình Nguyên Quân cùng Vua Sở bàn việc liên minh, giải bày lợi hại, từ sáng sớm mãi đến trưa mà vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Mười chín tân khách kia bèn bảo Mao Toại rằng: “Xin mời tiên sinh lên đi.”
Mao Toại cầm kiếm, bước lên thềm, nói với Bình Nguyên Quân rằng: “Việc liên minh lợi hại thế nào, chỉ nói vài lời cũng quyết định được, thế mà bàn bạc từ sáng đến trưa vẫn chưa ra bề nào là cớ làm sao?”
Vua nước Sở hỏi ai, thì Bình Nguyên Quân cho biết đó là người nhà. Vua Sở quát: “Sao không lui xuống? Ta đang nói chuyện với chủ ngươi, lên đây làm gì?”
Mao Toại vẫn cầm kiếm, tiến lên, đĩnh đạc nói: “Nhà Vua quát tháo với tôi vì cậy nước Sở có đất rộng người nhiều. Nhưng từ chỗ nhà Vua đến chỗ tôi đứng chỉ trong 10 bước, thì tính mạng của nhà Vua là ở trong tay tôi. Cậy thế nào được đất rộng người nhiều kia? Hiện có chủ tôi ngồi đó mà nhà Vua quát tháo tôi thì còn lễ độ gì? Vả tôi có nghe rằng: Vua Thang chỉ nhờ khoảng đất 70 dặm mà làm vua thiên hạ; Vua Văn chỉ nhờ một vùng 100 dặm mà khuất phục được chư hầu, có phải đâu là vì nhiều sĩ tốt? Nay nước Sở nếu biết giữ được thế, trấn được huy thì sẵn đất vuông 5 ngàn dặm, dưới cờ kể có 100 vạn quân, đủ sức để làm bá vương đó. Sức mạnh như thế, đáng lẽ thiên hạ không sao địch nổi, thế mà thằng nhãi Bạch Khởi, tướng của nước Tần, chỉ đem có vài vạn quân đánh nhau với nước Sở, trận đầu đã chiếm được đất Yên Sinh, trận thứ hai lại đốt mất Di Lăng, trận thứ ba phạm đến cả lăng tẩm của tiên vương nước Sở. Đó là mối thù muôn đời, ngay nước Triệu chúng tôi còn hổ thẹn thay, thế mà nhà vua không biết căm giận. Vậy ngày nay, liên minh chính là vì nước Sở chứ không phải vì nước Triệu. Chủ tôi ngồi đó, nhà Vua quát tháo tôi là nghĩa làm sao?”
Vua Sở gật gù bảo: “Phải, phải! Công việc nước tôi, đúng như lời tiên sinh nói. Vậy tôi xin đem cả nước để liên minh.”
Đoạn tất cả tôi chúa đều uống máu ăn thề.
Mao Toại cười nói với bọn 19 người: “Đối với sự thành công này, các ông chỉ là theo đuôi, vấy máu ăn phần đó thôi.”
Thược hiện được cuộc liên minh, Bình Nguyên Quân trở về nước Triệu, nói: “Ta không còn dám xét đoán người nữa. Xưa nay ta đã từng xét thiên hạ, kể số nhiều thì đến hàng ngàn người, mà ít thì cũng hàng trăm, vẫn tự hào rằng chưa hề bỏ sót ai cả. Thế mà đến nay tự biết mình trước kia đã không nhận rõ đặc tài của Mao tiên sinh. Khi sang nước Sở, Mao tiên sinh đã làm cho nước Triệu được vô cùng tôn kính. Mới biết tiên sinh đã khéo dùng ba tấc lưỡi mạnh hơn trăm vạn quân. Thôi, từ đây ta không dám xét người nữa.”
Ông liền cất Mao Toại lên hàng Thượng khách.
Tuy dùng người mà Bình Nguyên Quân vẫn tự nhận đã thiếu sót trong việc xét người. Lời nói đó thật tri bỉ tri kỷ vậy.
Đoạn trường tân thanh tả cảnh Từ Hải đến gặp Kiều ở lầu xanh, cả hai cùng đối đáp nhau. Qua lời Từ Hải ngỏ ý khen Kiều thì nàng đáp lại và Từ trả lời:
Nàng rằng: “Người dạy quá lời
Thân này còn dám xem ai làm thường
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.”
Lời lẽ của hai người mượn ý ở hai câu liền nhau trong bài Hàm Đan thiếu niên hành của Cao Tứ đời Đường (dịch Nôm):
Biết ai gan ruột như mình
Khiến người lại nhớ đến Bình Nguyên Quân.
bình phong xạ tước: chỉ việc kén vợ.
Xem bắn sẻ.
Sơ kính tân trang:
Nguyện lòng này với lửa hương
Rạng bình xạ tước nổi giường thừa long.
Bình sa lạc nhạn: tên bản đàn được xếp vào “Thập đại danh khúc” (Mười khúc đàn có tiếng tăm nhất) của Trung Quốc. Bài nhạc này liên quan đến câu chuyện của Vương Chiêu Quân đi gả cho Thiền vu Hung Nô. [Xem thêm mục: Vương Chiêu Quân.]
Theo cảm nhận của Thanh Phong (2018)): Mặc dù nhận lời lấy Thiền vu, nhưng thực chất Vương Chiêu Quân vẫn rất đau lòng khi phải đi tới tận vùng đất khách quê người xa biệt mù, sống trong một dân tộc với nền văn hóa khác biệt mà người Trung Quốc khinh miệt là man di mọi rợ.. Trên đường ra Nhạn Môn Quan, đi tới một hoang mạc, Vương Chiêu Quân dừng chân để gảy một khúc đàn bi thiết. Tiếng đàn bi ai động lòng người khiến cho các thành viên trong đoàn không cầm được nước mắt. Tương truyền, một con nhạn (ngỗng trời) lạc bầy bị tiếng đàn u uất tác động mà rơi xuống mặt đất. Đó cũng chính là lý do vì sao khúc Bình sa lạc nhạn ngày nay lại có nỗi man mác nhớ nhung, da diết không muốn rời xa.
Bình sa lạc nhạn có giai điệu du dương, trầm bổng, ẩn hiện như cánh nhạn lưng trời. Bản nhạc bắt đầu với những thanh âm ngắt quãng, không liền mạch, nốt trầm nốt bổng, tựa như nỗi sầu cố nhân năm nào đang nuốt thầm những giọt nước mắt thương nhớ quê hương. Tiếng đàn nghe như ai oán, xót thương rồi đều dần đều dần lên, tựa hồ xuất hiện một hơi thở, một cánh nhạn bay giữa lưng chừng không gian, chao liệng đầy tâm trạng.
Trong điệu khúc dập dìu, ta nghe thấy cả tiếng nhạn đập cánh, khi thì ngập ngừng, khi lại tĩnh lặng đến tuyệt đối, như một nét chấm phá tĩnh trong bức tranh với vạn vật đang chuyển động không ngừng. Bất chợt, sau cái chao nghiêng ngập ngừng, cánh nhạn quay đầu lại, ngắm cảnh, ngắm vật, và ngắm cố nhân trong nỗi tiếc nhớ khôn nguôi. Như thể sau cái ngoái đầu này, mọi vật sẽ xa rời tầm mắt vĩnh viễn, như cố nhân ngày nào suốt bao năm chẳng được một lần thăm lại quê cũ.
Ấy là cái đẹp luôn đi song hành với cái bi. Giây phút này còn ở đây, còn lưu luyến cảnh sắc này, biết ngày mai sẽ đi đâu về đâu giữa dòng đời phiêu bạt gian truân? Khúc nhạc có cái phóng khoáng rộng lớn của đất trời, có cái bao trùm của một tâm tư buồn nhớ.
Những cánh nhạn cứ bay liệng trên không trung, ngập ngừng, tần ngần, muốn dừng lại như chính tâm trạng của con người trong cái thời khắc ấy. Ưu tư, hoài cổ, xót xa và tiếc nuối – những mạch tâm trạng đan xen vào từng nốt nhạc, điệu phách. Và phải chăng, điều này đã làm nên một bản đàn bất hủ?
Video trình diễn sống, bản Bình sa nhạn lạc Trung Quốc, guqin:
https://www.youtube.com/watch?v=8PPysC6MHGo
Video âm thanh, bản Bình sa nhạn lạc Trung Quốc:
https://www.youtube.com/watch?v=cGnQVloVZ6A
Video âm thanh, bản cổ nhạc Việt Nam Bình sa nhạn lạc, Hoàng Cơ Thụy:
https://www.youtube.com/watch?v=vsYxlUM2aR0
Bình Than: xem Hội nghị Bình Than.
bình thành: Do chữ trong sách Kinh Thư: địa bình thiên thành. Làm cho thủy thổ được điều hòa gọi là địa bình; khiến cho ngũ hành (thủy, hỏa, kim, mộc, thổ) theo thứ tự mà ổn định gọi là thiên thành. Ðó là nói công đức trị lũ lụt của Vua Hạ Vũ.
Nghĩa rộng hơn, bình thành có ý nói công đức to lớn của vua lo sửa sang việc nước, ra ơn cho dân.
Đoạn trường tân thanh:
Bình thành công đức bấy lâu
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao
bình thủy tương phùng: xem bèo nước gặp nhau.
bỉ sắc tư phong: do câu Phong ư bỉ, sắc ư thử (Hơn bên này, kém bên kia). Ý nói được bên này mất bên kia.
Đoạn trường tân thanh:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời cao quen thói má hồng đánh ghen.
bĩ cực, thái lai: ý nói vận tới chỗ cùng cực thì vận thông đến, khổ hết lại sướng, rủi hết lại đến may.
Bĩ và Thái là hai quẻ trong Kinh Dịch, Bĩ tượng trưng cho cùng khốn, bế tắc; Thái tượng trưng cho hanh thông, thuận lợi.
Hai ý niệm đưa ra quan điểm lạc quan: khi bế tắc đến cùng cực (bĩ cực) thì thuận lợi sẽ tới (thái lai).
Thơ Vi Trang (Tiền Thục):
Bĩ khứ thái lai chung khả đãi
(Vận bĩ đi vận thái đấn, rốt cuộc cứ đợi.)
Ðại Nam quốc sử diễn ca:
Mới hay con tạo xoay vần
Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
bói phượng: kén được chồng tốt.
Sách Tả Truyện chép: Trần Trọng Kính sang nước Tề, được vua nước này cho coi việc công chính. Quan Đại phu nước Tề có ý muốn gả con gái cho Trọng Kính. Người vợ liền bói một quẻ, bảo rất nên. Vì quẻ bói nói: Phượng hoàng vu phi, hòa minh tương tương, nghĩa là phượng hoàng cùng bay, cùng hót vang vang.
Theo sách cổ, phượng là một trong 4 con thú linh thiêng: long, lân, qui, phượng, đem lại điềm lành, và chỉ khi nào có đời thái bình hay thánh nhân ra đời thì mới xuất hiện. Phượng là chúa loài chim. Con trống là phượng; con mái là hoàng. Loan là một giống chim cùng loại với phượng hoàng. Vì là đồng loại nên người ta hay dùng để ví với vợ chồng.
Đoạn trường tân thanh:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
bóng câu qua cửa sổ: xem ngựa qua cửa sổ.
bóng chim tăm cá: Khó tìm như bóng chim giữa trời thẳm hay tăm cá ở vực sâu. Lấy ý từ chữ tin nhạn, tin cá, chỉ tin tức, thư từ nói chung.
Đoạn trường tân thanh:
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu
Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm!
bóng hạc châu hoàng: chỉ sự xa xôi.
Ðời Tống, Tô Ðông Pha khi bị trích xuống Hoàng Châu (làm quan có lỗi phải dời đến chỗ xa xôi hay rừng thiêng nước độc gọi là bị trích), mùa thu cùng bạn đi chơi thuyền trên sông Xích Bích, thấy một con hạc bay qua trên thuyền.
bóng thừa: bởi chữ dư quang (dư: thừa, quang: sáng). Theo Sử ký: Người con gái nhà nghèo, cùng một người con gái nhà giàu dệt vải chung với nhau. Người con gái nhà nghèo nói: “Tôi không có tiền để mua đèn, mà đèn của chị thì sáng dư thừa, vậy chị cho em cái ánh sáng thừa ấy”. Nghĩa bóng: ân huệ mà không tốn kém gì.
Hoa tiên:
Chút trong buổi mới láng giềng
Gần soi may được nhờ riêng bóng thừa.
bóng xé nhành dâu: bóng mặt trời gác lại trên ngọn tang du (dâu), tức cảnh trời chiều, chỉ tuổi già.
Thơ Ðỗ Phủ:
Ế ế tang du nhật
Chiếu ngã chinh y thường.
Dịch:
Mặt trời chiều mờ mờ
Chiếu vạt chinh y của ta.
Phan Trần:
Mẹ già bóng xế nhành dâu
Phòng khi sốt ruột váng đầu cậy ai.
Lục Vân Tiên:
Tuổi già bóng xế nhành dâu
Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?
Bố Chính: tên một cửa bể giữa hai huyện Bố Trạch và Bình Chính, Quảng Bình, còn có tên là cửa Linh Giang.
bố kinh: Từ chữ bổ quần kinh thoa, có nghĩa quần dệt bằng vải và trâm lấy từ gai để cài tóc, là những thứ mà phụ nữ nghèo ngày xưa hay dùng.
Đoạn trường tân thanh, lúc Kim Trọng có chiều lả lơi, Kiều khuyên:
Ðã cho vào bậc bố kinh
Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Đoạn trường tân thanh, khi Kiều gặp lại Kim Trọng:
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu(A) dự vào bố kinh!
(A) Trần cấu: bụi nhơ. Ở đây, ý Kiều nói: không thể đem tấm thân nhơ làm vợ hiền.
Bố kinh chỉ người vợ hiền, biết cách sống giản dị nhưng trọng lễ nghĩa.
Xem thêm mục: Mạnh Quang.
bốc phụng: bốc là bói; phụng là chim phụng, một trong bốn con vật linh thiêng (long, lân. quy, phụng), đem lại điềm lành và chỉ có đời thái bình mới xuất hiện, con mái gọi là hoàng và con đực phụng. Tả truyện: Ý Thị xem bói thử có nên gả con gái cho Kim Trọng không. Bói được một quẻ rất tốt: “Chim phụng, chim hoàng cùng bay, hòa hợp tiếng kêu nghe lanh lảnh”.
Bần nữ thán:
Kìa như đông bích lân gia(A)
Kẻ đà bốc phượng người đà mộng lan!(B)
(A): đông bích lân gia: nhà làng giềng tường đông
(B): Ý nói người có quẻ bói tốt đường tình duyên, người có mộng lành vì thấy kỳ lân.
Bốc Thương: tức Tử Hạ, học trò Khổng Tử.
bốc trời: do chữ thao thiên (ngập trời). Nghĩa đen: nước lụt lớn như ngập cả trời. Nghĩa bóng: tính khí ngông nghênh, bốc đồng.
Đoạn trường tân thanh:
Thúc Sinh quen thói bốc trời
Trăm nghìn đổ một trận cười như không!
bốn lão Thương Sơn: Thương Sơn là dãy núi ở Tỉnh Thiểm Tây, nơi ở ẩn của bốn ông già đời Hán gọi là Thương Sơn Tứ hạo. Theo Sử ký, Hán Cao Tổ muốn bỏ thái tử, lập con của Thích Phu nhân là Triệu Vương Như Ý lên làm thái tử, các quan đại thần phần nhiều đều can ngăn, nhưng không thấy vua quyết định hẳn. Lữ Hậu sợ, không biết làm thế nào.
Có người nói với Lữ Hậu: “Lưu Hầu [tức Trương Lương tự Tử Phòng] khéo bày mưu tính kế, vua tin dùng ông ta!” Lữ Hậu bèn sai Kiến Thành Hầu là Lữ Trạch ép Trương Lương: “Ngài thường làm mưu thần cho hoàng thượng, nay hoàng thượng muốn đổi thái tử, ngài nằm khểnh điềm nhiên thế sao được!”
Trương Lương trả lời: “Xưa kia hoàng thượng thường ở trong cảnh nguy khốn cấp bách, nhờ đó mà có dùng mưu kế của tôi. Nay thiên hạ đã yên ổn rồi, hoàng thượng vì cớ yêu thương, muốn thay đổi thái tử, đó là việc ở trong gia đình, cốt nhục, tuy có hơn trăm người như tôi cũng không ăn thua.”
Lữ Trạch cố nài.
Cuối cùng, Trương Lương nói: “Việc này khó lòng lấy miệng lưỡi mà can ngăn. Thế nhưng trong thiên hạ có bốn người, hoàng thượng không sao mời nổi. Bốn người này đã già, họ đều cho rằng nhà Vua khinh người, nên bỏ trốn vào ở ẩn trong núi, giữ nghĩa không làm tôi nhà Hán, nhưng hoàng thượng rất tôn trọng bốn người này. Nay nếu ông không tiếc vàng, ngọc, lụa là; bảo Thái tử viết thư, dùng lời lẽ nhũn nhặn, sắp xe êm, sai người biện sĩ cố mời, thì họ sẽ đến. Họ đến, cho họ làm khách, thường cho vào triều để cho hoàng thượng trông thấy, thì thế nào hoàng thượng cũng lấy làm lạ và hỏi. Khi hoàng thượng hỏi, biết bốn người kia là nhân tài, thì chính là một cách giúp đỡ đó!”
Lữ Hậu liền sai Lữ Trạch cho người mang thư của Thái tử, dùng lời lẽ khiêm nhường, lấy lễ, lạt hậu, để đón bốn người kia. Bốn người đến làm khách ở nhà Kiến Thành Hầu.
Năm thứ mười một nhà Hán (196 TrCN), Kình Bố làm phản. Vua ốm muốn sai Thái tử cầm quân đi đánh. Bốn người bàn nhau: “Chúng ta đến đây là cốt để bảo hộ địa vị của Thái tử. Thái tử cầm quân thì việc nguy mất!”
Bèn nói với Kiến Thành Hầu: “Nếu Thái tử cầm quân, có công thì địa vị vẫn không thêm hơn được nữa, nhưng nếu không có công quay về thì sẽ vì đó mà mang vạ. Vã chăng, các tướng cùng đi với Thái tử, đều là những mãnh tướng thường cùng hoàng thượng bình định thiên hạ cả. Nay cho Thái tử điều khiển họ thì nhất định sẽ không có kết quả. Nghe nói: ‘Mẹ được yêu thì con được bế,’ nay Thích Phu Nhân ngày đêm chầu chực, Triệu Vương Như Ý thường được bế ở trước mặt. Hoàng thượng nói: ‘Thế nào cũng không để đứa con hư ở trên đứa con yêu,’ như thế thì rõ ràng định thay thế Thái tử. Tại sao ông không nói với Lữ Thần mau mau tìm cơ hội khác mà can nhà Vua rằng: ‘Kình Bố là một mãnh tướng trong thiên hạ, giỏi về việc dùng binh. Nay các tướng đều là hạng ngang vai vế với hoàng thượng, thế mà lại sai Thái tử điều khiển bọn họ thì khác nào cho dê điều khiển sói, chẳng ai chịu ra sức. Vả lại, nếu Kình Bố nghe điều đó, thì hắn sẽ gióng trống kéo quân sang hướng tây mất! Hoàng thượng tuy bệnh, cũng xin gượng trở lên xe, để nằm mà điều khiển. Như vậy các tướng sẽ không ai không dám hết sức. Hoàng thượng tuy già yếu, nhưng xin vì vợ con mà gắng gượng’.”
Lữ Trạch ngay đêm ấy vào yết kiến Lữ Hậu. Lữ Hậu nhân lúc rảnh khóc lóc nói với nhà Vua theo như ý bốn người nói.
Vua nói: “Ông thấy có sai thằng bé sẽ chẳng làm nên gì, thôi ông phải làm lấy thôi.”
Vua liền thân hành cầm quân đi về hướng đông, các quan ở lại đều tiễn đến Bái Thượng.
Trương Lương ốm cũng gắng gượng dậy đi đến Khúc Bưu, ra mắt nhà Vua và nói: “Đáng lý thần phải đi theo, nhưng thần ốm nặng. Quân Sở hung tợn, xin bệ hạ chớ có tranh phong với chúng.”
Nhân lại nói với nhà vua: “Nên cho Thái tử làm tướng quân coi quân ở Quan Trung.”
Vua nói: “Tử Phòng tuy ốm, hãy cố gắng nằm mà giúp Thái tử.”
Bấy giờ Thúc Tôn Thông làm thái phó, Trương Lương làm thiếu phó.
Năm thứ mười hai, nhà Hán (195 TrCN), sau khi đánh phá quân Kình Bố về, Vua ốm càng nặng, muốn thay thái tử. Trương Lương can, Vua không nghe, mượn cớ ốm xin nghỉ việc. Thúc Tôn Thông dẫn chuyện xưa nay, cố chết bảo toàn ngôi cho Thái tử. Vua giả vờ nhận lời, nhưng vẫn muốn thay Thái tử. Đến khi ăn tiệc, rót rượu, thái tử đứng chầu. Bốn người theo Thái tử tuổi đều ngoài tám mươi, mày râu bạc phơ, áo mũ rất đẹp.
Vua lấy làm lạ hỏi: “Họ làm gì thế?”
Bốn người tiến đến thưa, kể họ tên, là Đông Viên Công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Thạch Công.
Nhà Vua hoảng kinh: “Ta tìm các ông mấy năm nay, các ông trốn tránh ta. Nay tại sao các ông lại từ đâu đến chơi với con ta như vậy?”
“Bệ hạ khinh kẻ sĩ, hay mắng người, bọn thần nghĩa khí không chịu nhục, cho nên sợ mà trốn tránh. Nay trộm nghe Thái tử là người nhân đức hiếu thảo, cung kính, thương yêu kẻ sĩ, trong thiên hạ không ai không vươn cổ muốn vì Thái tử mà chết, vì vậy chúng tôi đến đây.”
Vua nói: “Phiền các ông phò tá Thái tử cho trót.”
Bốn người chúc thọ xong, đứng dậy đi ra.
Vua đưa mắt tiễn, cho gọi Thích Phu nhân vào, chỉ bốn người kia bảo rằng: “Ta muốn đổi nó, nhưng bốn người kia giúp nó. Lông cánh nó đã thành, khó mà lay chuyển được. Lữ Hậu là chủ của ngươi rồi đấy!”
Thích Phu Nhân khóc. Vua nói: “Nàng hãy múa lối Sở cho ta xem! Ta sẽ hát lối Sở cho nàng nghe.”
Rồi hát:
Chim hồng hộc by cao
Một cất cánh ngàn dặm
Lông cánh đã đầy đủ
Bốn bể bay xa thẳm
Bốn bể bay xa thẳm
Bây giờ biết làm sao?
Tên dây tuy có đó
Biết đặt ở nơi nao?
Hát mấy lần, Thích Phu nhân nức nở chảy nước mắt. Vua đứng dậy, quay đi, bãi tiệc rượu. Cuối cùng Vua không thay đổi Thái tử, đó là nhờ công Lưu Hầu mời bốn người kia.
Chỉ có điều, Trương Lương giúp được Thái tử nhưng không thể bảo vệ hai mẹ con Thích Phu nhân sau khi Hán Cao Tổ qua đời. Cũng theo Sử ký, Lữ Hậu hết sức oán giận Thích Phu nhân và người con của phu nhân là Triệu Vương, bèn sai giam Thích Phu nhân ở cung Vĩnh Hạng và mời Triệu Vương đến. Sứ giả ba lần trở về. Kiến Bình Hầu Chu Xương, làm tướng quốc nước Triệu, bảo sứ giả: “Cao Đế giao phó Triệu Vương cho tôi. Triệu Vương hãy còn ít tuổi, tôi trộm nghe Thái hậu oán giận Thích Phu nhân, muốn mời Triệu Vương về để giết cả hai mẹ con, tôi không dám cho nhà Vua đi. Nhà Vua lại bị bệnh, không thể vâng theo chiếu.”
Lữ Hậu cả giận, bèn sai người gọi tướng quốc nước Triệu về. Tướng quốc nước Triệu về đến Trường An, thái hậu lại sai người mời Triệu Vương lần nữa. Triệu Vương ra đi. Chưa đến kinh đô thì Hiếu Huệ Đế vốn là người nhân từ, biết Thái hậu giận, nên thân hành đón Triệu Vương ở Bá Thượng, rồi cùng vào cung, luôn luôn kèm Triệu Vương. Lúc Triệu Vương đi đứng, ăn uống, Huệ Đế đều ở bên cạnh. Thái hậu muốn giết Triệu Vương nhưng không có dịp nào.
Tháng mười hai, năm thứ nhất của Hiếu Huệ Đế (194 TrCN), nhà Vua buổi sớm ra đi săn. Triệu Vương nhỏ không thể dậy sớm. Thái hậu nghe tin Vương ở một mình bèn sai người mang thuốc độc đến cho Vương uống. Lúc mờ sáng, Hiếu Huệ về thì Triệu Vương đã chết.
Thái hậu còn cho chặt chân tay Thích Phu nhân, móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu, gọi đó là “con người lợn.”
bồ liễu: tên một loài cây rất mềm, còn được gọi là thủy dương, ưa mọc gần nước, rụng lá sớm nhất vào chớm đông. Cô Duyệt và Giản Văn cùng tuổi, nhưng Duyệt râu tóc đều bạc cả. Giản Văn hỏi vì sao. Duyệt đáp: “Thể chất của bồ liễu thấy mùa thu đến thì đã đủ héo rụng rồi, còn tùng bách thì trải qua sương tuyết vẫn còn tốt tươi.
Chữ bồ liễu dùng để chỉ thể chất yếu đuối, nhất là phụ nữ.
Đoạn trường tân thanh:
Tạ ân, lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có rày.
bồ luân: bổ là cỏ bồ, một loại cây lác; luân là bánh xe. Ngày xưa người ta dùng cỏ bồ bọc bánh xe đi cho êm để đi đón hiền sĩ, tỏ sự trọng vọng.
Hoa tiên:
Rõ ràng áo gấm về quê
Vó câu lỏng khấu, bánh xe êm bồ.
bồ tiên: bồ là cỏ bồ, một loại cây lác; tiên là roi; bồ tiên la roi bằng cỏ bồ kết lại. Hình phạt khoan hồng không làm cho kẻ phạm tội đau đớn, chỉ cốt làm cho xấu để biết lỗi mà chừa. Sách Hán thư: Lưu Khoan làm Thái thú Nam Dương khoan dung độ lượng, người trong hạt có lỗi chỉ dùng roi bồ trừng phạt để biết lỗi mà thôi.
bồi thần: bầy tôi hai lần. Theo Sử ký, Việt Vương Câu Tiễn sai đại phu tên là Chủng đến cầu hòa với Ngô Vương Phù Sai. Chủng đi bằng đầu gối, đập đầu nói: “Kẻ bầy tôi trốn tránh của bệ hạ là Câu Tiễn, sai bồi thần là Chủng mạo muội nói với các quan rằng Câu Tiễn xin làm bầy tôi, vợ xin làm thiếp của bệ hạ”.
Vì Câu Tiễn là tôi của Phù Sai, mà Chủng lại là bầy tôi của Câu Tiễn, nên Chủng là bồi thần của Phù Sai.
Bồng Lai hoặc Bồng Châu, Bồng Sơn: chỗ của tiên ở, chỉ cảnh tiên. Theo Hán thư, Từ thời Tề Uy Vương đã cho người ra biển tìm các hòn núi Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Tương truyền 3 hòn núi thần đó ở Bột Hải, cách bờ không xa lắm nên thường có người tìm đến nơi. Các tiên nhân luyện thuốc trường sinh cũng ở núi này. Ở đây súc vật, chim muông lông đều màu trắng. Cung khuyết toàn bằng vàng bạc, ở xa trông như mây.
Lời chú sách Sơn Hải kinh cũng nói: Núi Bồng Lai ở giữa bể, trên i có tiên, cung thất toàn bằng vàng ngọc, chim muông đều trắng cả, ở xa trông như mây. Bồng Lai nằm trong bể Bột Hải.
Theo Thập dị ký: Bồng Lai còn có tên là Bồng Hồ.
Phan Trần:
Kể từ đến cảnh Bồng Lai
May thay đã trộm thấy người tiên cung.
bợm già mắc bẫy cò ke: Theo Trịnh Mạnh (2003), bẫy cò ke là loại bẫy thô sơ dùng để bẫy chim. Bẫy bằng tre, có cần và lẫy. Mồi gắn với lẫy. Hễ chim ăn mồi thì lẫy bật ra và cần tre sẽ sập xuống.
Bợm già là những tay lọc lõi trong nghề lừa đảo, thế mà có khi còn mắc bẫy loại thô sơ, mắc những mưu lừa tầm thường vì thiếu cảnh giác.
buồng văn: do chữ văn phòng, phòng riêng của học trò học hay nơi nhà văn đọc sách làm văn.
Đoạn trường tân thanh:
Buồng văn hơi lạnh như đồng
Trúc se ngọn thỏ, tơ trùng phím loan.
Ý cả câu: buồng văn lâu ngày không dùng, bút để lâu không viết đến nỗi ngọn bút khô đi, đàn để lâu không gẩy đến nỗi dây chùng lại. Mô tả tâm trạng Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.
bút Lâm Xuyên: ý nói người viết chữ tốt. Vương Hy Chi đời Tấn là người viết chữ rất tốt, thường làm chức Nội sử ở Lâm Xuyên, nên người ta thường nói những người viết chữ tốt là bút Lâm Xuyên. Xem thêm: Vương Hy Chi.
Bùi Hàng:
Phan Trần:
Chốn Lam Kiều cách nước mây
Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào.
Xem mục: Lam Kiều.
ca trù: còn được gọi nôm na là hát cô đầu hoặc hát nhà trò, là loại hình diễn xướng bằng âm giai nhạc thính phòng thịnh hành tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Đây là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Một chầu hát cần có ba thành phần chính:
- Đào hay ca nương (nữ ca sĩ), sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp,
- Kép (nhạc công nam giới), chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát. Có lúc kép còn hát thể cách hát sử và hát giai, vừa đàn vừa hát.
- Quan viên (người thưởng ngoạn, thường là tác giả bài hát), đánh trống chầu chấm câu và tán thưởng đoạn đắc ý bằng tiếng trống.
Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là “tức tịch,” nghĩa là “ngay ở chiếu.”
Ca trù vừa là loại thanh nhạc (vocal music), vừa là loại khí nhạc (instrumental music). Có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, tinh vi.
- Thanh nhạc: Ca nương phải có giọng thanh và cao, khi hát phải biết ém hơi, nhả chữ và hát tròn vành rõ chữ, biết nảy hạt (đổ hột), đổ con kiến. Ca nương vừa hát, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và tiếng phách phải ăn khớp với nhau.
- Khí nhạc: Kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn, khổ phách và tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca chân phương – theo lề lối hay hàng hoa – sáng tạo và bay bướm.
- Quan viên cầm chầu và chấm câu có tính chất phê bình, khen chê đúng chỗ, để khích lệ ca nương và kép, giúp thính giả biết được đoạn nào hay và như thế được học hỏi cách nghe.

Bài hát ca trù có nhiều loại. Phổ thông nhất là hát nói, một thể văn vần có tính cách văn học cao. Những bài hát nói nổi tiếng phải kể đến:
- Cao Bá Quát với Hơn nhau một chữ thì, Nhân sinh thấm thoắt, Phận hồng nhan có mong manh, Tự tình.
- Nguyễn Công Trứ với Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Kiếp nhân sinh, Ngày tháng thanh nhàn, Trần ai ai dễ biết ai.
- Dương Khuê với Hồng hồng, Tuyết tuyết tức Gặp đào Hồng đào Tuyết.
- Chu Mạnh Trinh với Hương Sơn phong cảnh.
- Tản Đà với Chưa say, Đời đáng chán, Gặp xuân, Trần ai tri kỷ, Xuân tình.
- Nguyễn Khuyến với Duyên nợ, Hỏi phỗng đá.
- Nguyễn Thượng Hiền với Chơi Chùa Thầy.
- Trần Tế Xương với Hát cô đầu.
Ngoài ra còn có những làn điệu cổ điển khác như Tỳ bà hành (bản diễn Nôm của Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị). Những điệu huê tình, gửi thư, bắc phản, hát giai… cũng thuộc thể ca trù.
Khi hai miền còn chia cắt, Miền Bắc xem ca trù là “trò chơi hư hỏng, trụy lạc” và cấm đoán vì xem là liên quan đến mại dâm, cũng gán cho bộ môn ca trù là “phong kiến, trưởng giả”; còn Miền Nam không cấm đoán nhưng thiếu nghệ nhân để trình diễn.
Mãi đến thập niên 1980, môn ca trù mới được cho phép trình diễn cho công chúng, nhưng trong khuôn khổ đề tài chính trị chứ không giữ được thể văn truyền thống.
Nghệ thuật ca trù sau đó được khai thác trong nhiều bộ phim cũng như trong các chủ đề âm nhạc Việt Nam. Có thể bắt gặp ca trù trong phim Mê Thảo, thời vang bóng, Trăng tỏ thềm lan, Trò đời, Thương nhớ ở ai.
Ca trù cũng được đưa vào các ca khúc đương đại như Nắng có còn xuân của Đức Trí, Trên đỉnh Phù Vân của Phó Đức Phương, v.v. Năm 1997, lần đầu tiên Trên đỉnh Phù Vân được ra mắt công chúng qua tiếng hát của Mỹ Linh. Âm hưởng dân gian đương đại, cùng những thanh âm lên xuống liên tục chưa khi nào dễ dàng đối với một giọng ca nhạc nhẹ, chính vì thế việc lựa chọn ca khúc này để hát đã là một quyết định vô cùng dũng cảm của Mỹ Linh trong những ngày đầu lập nghiệp. Cách xử lý phần nào nhuốm màu ca trù có lẽ là dụng ý nhằm làm nổi bật chất ma mị trong mỗi câu hát.
Xem video:
Ca trù: Hồng Hồng Tuyết Tuyết – Ca nương Kim Luyến: https://www.youtube.com/watch?v=41z5HiWIAOs
Ca trù: Trăng Nguyên Tiêu – Ca nương Thu Hà: https://www.youtube.com/watch?v=DSc6ouU8Pj4
Trên đỉnh Phù Vân – Mỹ Linh: https://www.youtube.com/watch?v=uoOG03JNZc8
Nắng có còn xuân – Lệ Quyên: https://www.youtube.com/watch?v=gllidWlhrAc&t=116s
Cam La: cháu của Cam Mậu, Thừa tướng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Cam La được mệnh danh là thần đồng chính trị khi mới 12 tuổi. Cam La tư chất thông minh hơn người, ngay từ khi còn nhỏ đã làm môn hạ dưới chướng Lã Bất Vi, Tướng quốc nước Tần.
Trong một lần Lã Bất Vi gặp chuyện buồn bực vì không thuyết phục được Trương Đường đi sứ nước Yên. Cam La biết chuyện nên tỏ ý muốn thay mặt Lã Bất Vi đến thuyết phục Trương Đường. Lã Bất Vi cho rằng Cam La chỉ là một cậu nhóc 12 tuổi mà ngông cuồng vọng ngữ, không biết tự lượng sức mình, nói: “Bản thân ta là Thừa tướng còn không thuyết phục được, nói chi đến một đứa trẻ như ngươi?”
Cam La mới đáp rằng: “Hạng Thác 7 tuổi đã làm thầy Khổng Tử, vậy tại sao cháu lại không đủ tài trí cơ chứ?” (Xem: Hạng Thác)
Lã Bất Vi thấy lời lẽ của cậu mạch lạc, dứt khoát, vẻ mặt lại tự tin không một chút do dự, nên đồng ý để Cam La đến phủ Trương Đường làm thuyết khách.
Khi Cam La đến, Trương Đường đang nghỉ trong thư phòng. Người hầu vào báo có môn hạ phủ Thừa tướng đến thăm, Trương Đường vội vàng ra đón, không ngờ gặp một cậu bé tuổi mới hơn mười nên coi thường ra mặt. Cam La thấy vậy bèn nói: “Ta đến đây là để cứu mạng tướng quân, cớ sao tướng quân lại xem thường ta như vậy?”
Trương Đường nghe xong đứng ngẩn người một lúc, trong lòng nghi hoặc, không hiểu chuyện gì, hỏi: “Ta làm sao mà phải để một cậu nhóc như ngươi đến cứu?”
Cam La đáp: “Năm xưa Vũ An Quân vì không phục tùng Ứng hầu Phạm Thư đi đánh nước Triệu mà bị Ứng hầu giết chết. Tướng quân cho rằng công lao của mình so với Vũ An Quân thế nào?”
Trương Đường đáp: “Vũ An Quân đánh Đông dẹp Bắc, chiếm được vô số thành trì đất đai cho giang sơn Đại Tần chúng ta, làm sao ta có thể so bì?”
Cam La lại hỏi: “Vậy tướng quân cho rằng Văn hầu [Lã Bất Vi] bây giờ so với Ứng hầu năm xưa thì ai là người nóng tính hơn, có quyền lực lớn hơn? Bây giờ tướng quân không chịu vâng lệnh Văn hầu đi sứ nước Yên, ngày tháng sau này của tướng quân e rằng cũng không còn được bao lâu nữa!”
Trương Đường nghe xong sợ quá toát hết mồ hôi, chân run lập bập đáp: “Không phải là ta không muốn đi, ngặt một nỗi muốn đến nước Yên thì phải qua nước Triệu. Trước đây ta đem quân đi đánh nước Triệu chiếm bao nhiêu đất đai, thành trì của họ. Ngươi nghĩ xem, bây giờ ta đi qua đó liệu có thể yên bình được không?”
Cam La nói: “Chỉ cần tướng quân đồng ý đi sứ nước Yên, ta đảm bảo sẽ đến nước Triệu làm thuyết khách cho tướng quân đi qua an toàn”. Trương Đường nghe vậy hết sức vui mừng, cảm tạ Cam La rồi đồng ý đi sứ đến nước Yên.
Cam La trở về bẩm báo. Lã Bất Vi vui mừng, bội phục cậu, sau đó dâng sớ bẩm báo Tần Vương cho Cam La đi sứ nước Triệu.
Bấy giờ, Triệu Vương nhận được tin mật báo Tần Vương cho Trương Đường đi sứ nước Yên để hai nhà liên kết đánh mình nên vừa lo lắng vừa giận dữ khi nhớ lại thù xưa. Triệu Vương đang cho người chặn đường đánh Trương Đường thì nghe tin sứ thần của nước Tần vào yết kiến.
Đến nước Triệu, đoán được Triệu Vương đang lo lắng Tần Yên liên minh sẽ bất lợi cho mình, Cam La bèn nói: “Tần Yên liên minh chẳng phải cũng là muốn chiếm đất đai nước Triệu hay sao? Nếu như Triệu Vương có thể cắt 5 thành trì của mình dâng cho nước Tần, tôi có thể quay về bẩm báo Tần Vương hủy bỏ sứ mệnh của Trương Đường. Đảm bảo Tần Vương sẽ không kết minh với nước Yên nữa. Lúc đó một nước mạnh như Triệu đây đem quân đánh Yên thì có khó khăn gì. Lúc đó cái được còn có thể nhiều hơn 5 thành trì kia biết bao nhiêu!”
Triệu Vương nghe xong hết đỗi vui mừng, lấy bản đồ cắt 5 thành trì cho nước Tần, giao cho Cam La mang về dâng cho Tần Vương, đồng thời còn tặng cho Cam La vàng bạc châu báu tỏ lòng cám ơn. Tần Vương không tốn một binh một sĩ mà có được 5 thành trì tại Hà Giản.
Tần Vương vô cùng khâm phục tài trí của Cam La, phong cậu làm Thượng khanh, đồng thời đem toàn bộ đất đai mà trước đây thu hồi của Cam Mậu trao trả lại cho cậu. Đương thời, Thượng khanh là chức quan tương đương với Thừa tướng, đây là quả tài không đợi tuổi vậy.
Lục Vân Tiên:
Cam La sớm gặp cũng xinh
Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời.
Khương Tử: xem mục Khương Tử Nha.
cam đường: tên cây và cũng là tên một bài thơ. Thiệu Bá tuần hành các nước ở phương Nam để ban bố chánh trị hay tốt của Vân Vương, làm nhà dưới cây cam đường. Về sau người ta cảm ân đức của Thiệu Bá mới làm một bài thơ đại ý: Ðừng đốn cây cam đường vì đã che cho Thiệu Bá. Nghĩa bóng: vị quan hay tốt.
Nhị độ mai:
Ðọc ca mạch tuệ, ngâm thơ cam đường.
Xem thêm mục: mạch tuệ.
can chi: gồm thiên can và địa chi. Can có thập can, là 10 dấu hiệu về trời, gồm có: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Chi có thập nhị chi, là 12 dấu hiệu thuộc về đất, gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Can và chi chỉ ngày, giờ tháng, năm, được dùng trong bói toán.
Lục Vân Tiên, thầy bói khoe khoang với tiểu đồng của Lục Vân Tiên:
Can, chi đều ở trong tay
Đă thông trời đất, lại hay việc người.
can qua: can là cái mộc làm bằng da dùng để che thân thể, qua là cái giáo. Ngày xưa dùng hai thứ này làm khí giới thông thường trong các trận đánh. Về sau, hai chữ can qua chỉ chiến tranh.
Đoạn trường tân thanh:
Dấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử, họa là thấy nhau.
Can Tương, Mạc Gia: tên hai vợ chồng người rèn kiếm, cũng là tên hai thanh kiếm báu ngày xưa bên Tàu.
Nguyên thời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư muốn có những thanh kiếm báu, mới đắp một tòa thành ở Ngưu Thủ Sơn để đúc mấy ngàn thanh kiếm, gọi là Biển Chư. Tuy vậy chưa vừa ý, nhà Vua tìm được người nước Ngô tên Can Tương, cho ở cửa Tượng Môn để đúc những thanh kiếm thật sắc, chém đá như chém bùn.
Can Tương được lệnh nhà Vua cho vào kho và đi khắp toàn quốc tìm vàng và sắt thật tốt. Đoạn chọn ngày giờ, Can Tương sai các đồng nam và đồng nữ trinh tiết cả thảy 300 người, ngày đêm đốt than nấu. Nhưng suốt cả ba tháng trời, vàng sắt vẫn không chảy. Can Tương lấy làm lạ, không biết tại sao. Người vợ là Mạc Gia bảo rằng: “Những vật báu của thần linh tất phải đợi nhân khí mới thành tựu được. Nay phu quân đúc kiếm suốt ba tháng không thành, hoặc giả thần linh còn chờ đợi nhân khí chăng?”
Can Tương nói: “Ngày xưa thầy ta cũng đúc mãi mà kiếm không thành, nên cả hai phải nhảy vào lò, bấy giờ mới kết quả. Về sau, ai đúc kiếm ở chân núi ấy cũng phải làm lễ tế lò. Nay ta đúc kiếm mãi không được, hay là cũng phải thực hành như thế?”
Mạc Gia nói: “Thầy ta còn bỏ thân để đúc nên thần kiếm, khó gì mà ta không noi gương.”
Đoạn, Mạc Gia tắm gội sạch sẽ ra đứng ở bên lò. Sai các đồng nam, đồng nữ kéo bễ đốt than. Giữa lúc lửa cháy phừng phực, Mạc Gia liền nhảy ngay vào lò. Được một lúc, vàng và sắt đều chảy ra cả.
(Theo Chính tự thông, Ngô Việt Xuân Thu: Mạc Gia cắt tóc, cắt móng tay mình bỏ vào lò, sắt thép mới chảy ra).
Bấy giờ, Can Tương đúc được hai thanh kiếm. Thanh đúc trước lấy tên là Can Tương; thanh đúc sau lấy tên là Mạc Gia. Can Tương giấu lại một thanh kiếm, chỉ đem thanh kiếm Mạc Gia dâng cho Hạp Lư. Vua Ngô cầm thanh kiếm chém thử vào viên đá thì viên đá đứt đôi ra. Nhà Vua thưởng cho Can Tương 100 nén vàng.
Sau, Vua Ngô biết Can Tương giấu lấy một thanh, mới sai người đến đòi và bắt buộc nếu không chịu giao trả thì sẽ xử tử.
Can Tương đem thanh kiếm ra xem. Thanh kiếm ở trong bao nhảy ra, hóa thành một con rồng xanh. Can Tương cưỡi con rồng ấy bay lên trời đi mất. Sứ giả về tâu với Hạp Lư. Nhà Vua thở dài, luyến tiếc, lại càng quý trọng thanh kiếm Mạc Gia, mới thuê người làm kim câu để đeo thanh kiếm vào mình. Lại truyền lệnh: ai làm kim câu giỏi, giá trị thì được thưởng 100 nén vàng.
Người trong nước đua nhau làm kim câu để dâng. Có một câu sư tham giải thưởng to, giết chết hai con còn trinh, lấy máu tươi hòa với sắt đúc thành hai cái kim câu đem dâng cho Hạp Lư. Qua mấy hôm sau, câu sư đến cửa cung nhà Vua xin lãnh thưởng. Hạp Lư hỏi: “Kim câu của nhà ngươi có gì đặc biệt hơn của người ta không mà đến đòi lãnh thưởng?”
“Có. Vì muốn được thưởng, tôi đã giết chết hai con để đúc thành hai cái kim câu ấy. Người khác bì thế nào được!”
Nhà Vua truyền đem hai cái kim câu ấy ra. Nhưng thị vệ tâu rằng: vì bỏ lẫn vào đám kim câu khác, cái nào cũng giống nhau, không thể nào tìm được. Câu sư lại van nài xin cho xem tất cả. Thị vệ đem một đống kim câu.
Nhưng câu sư cũng không nhìn được cái nào là của mình, mới cất tiếng kêu lên: “Ngô Hồng và Hổ Kê ơi! Ta đây, sao hai con không hiển linh trước mặt đại vương?”
Vừa dứt lời, lạ thay, hai cái kim câu trong đống nhảy ra, ấp vào ngực câu sư.
Hạp Lư kinh sợ, bảo: “Ừ, thế thì nhà ngươi nói thực.”
Đoạn thưởng cho câu sư 100 nén vàng. Từ bấy giờ, nhà Vua quý trọng hai kim câu như thanh kiếm Mạc Gia, và đeo chúng hẳn bên mình.
Về sau, thanh kiếm này không biết lạc về đâu.
Cách hơn 600 năm, đến triều nhà Tấn (265-419), có quan thừa tướng tên Trương Hoa trông thấy trên trời có khí lạ, liền triệu một người giỏi về thiên văn là Lôi Hoán đến hỏi. Lôi Hoán nói: “Đó là cái tinh bảo kiếm ở về địa phận Phong Thành.”
Trương Hoa lập tức bổ Lôi Hoán làm huyện lệnh ở Phong Thành. Lôi Hoán đào nền ngục thất, bắt được một cái rương bằng đá, dài hơn 6 thước, rộng hơn ba thước. Mở ra xem, trong có hai thanh kiếm. Lấy thứ đất ở Núi Tây Sơn mà chùi đánh thì ánh sáng rực rỡ. Lôi Hoán đem dâng cho Trương Hoa một thanh, còn một thanh giữ lại cho mình.
Trương Hoa xem thanh kiếm, bảo: “Đây tức là thanh kiếm Can Tương, còn thanh kiếm Mạc Gia đâu mất. Tuy vậy, thần vật thế nào rồi cũng hợp nhau.”
Một hôm, Lôi Hoán và Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diên Bình Tân. Tự nhiên hai thanh kiếm nhảy xuống nước mất. Vội vàng sai người lặn xuống nước tìm thì thấy có hai con rồng ngũ sắc, vểnh râu, trừng mắt, làm cho người này hốt hoảng vội trồi lên.
Từ đó, hai thanh kiếm hoàn toàn mất tích.
Cang mục: Bản thảo cương mục do Lý Thời Trân đời Minh soạn, gồm 52 quyển nói về tính chất các vị thuốc.
canh đà: đà là tên một giống cá có chân (như kỳ đà), dài vài trượng, da bền có thể bưng làm trống được, tiếng kêu rất lớn, mỗi lần kêu rất đúng với mỗi trống canh.
cao đình: Theo Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì tạm cho rằng “cao đình” là chỗ chia rẽ. Cổ thi có câu: Cao đình tương biệt xứ, nghĩa là: “Chỗ ở biệt nhau ở cao đình”.
Ông Hồ Đắc Hàm cho rằng: Núi Cao Đình ở tại Tỉnh Chiết Giang, phía đông bắc Hàng Châu, chính là một chỗ người ta thường qua lại nghỉ chân và làm nơi tiễn biệt nhau.
Đường phú có câu: Đình cao hề mộc diệp lạc, nghĩa là “Chốn Cao Đình kia lá xanh rụng”.
Trong Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều tiễn Thúc Sinh trở về quê cũ Huyện Vô Tích, Tỉnh Giang Tô với vợ cả là Hoạn Thư, có câu:
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Cao sơn lưu thủy: tên bản đàn được xếp vào Thập đại danh khúc (Mười khúc đàn có tiếng tăm nhất) của Trung Quốc. Đây là bản Bá Nha đàn cho Tử Kỳ nghe, qua đó hai người trở thành đôi bạn tri âm. [Xem thêm mục: Bá Nha, Tử Kỳ.]

Theo Thanh Phong (2018a), Cao sơn lưu thủy lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái thời nhà Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh ghi lại trong Thiên văn các cầm phổ (năm 1876).
Khúc nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển và hợp (gần giống như bố cục một bài thơ Đường).
Tính chất và ý nghĩa các đoạn được nhiều người nhận định như sau:
- Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, biểu hiện được những cảnh tượng kỳ diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.
- Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh.
- Phần chuyển (6 và 7), xung động mạnh, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn.
- Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng, thú vị.
Thời nhà Đường, Cao sơn lưu thủy phân ra thành hai khúc, không phân đoạn. Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.
Lục Vân Tiên:
Than rằng: “Lưu thủy cao san
Ngày nào nghe động tiếng đàn tri âm”
Hãy nghe bản đàn:
Thất huyền cầm – Quan Bình Hồ:
https://www.youtube.com/watch?v=eww9mdFSBIY
Guzheng – High mountain flowing water
https://www.youtube.com/watch?v=ffCKlqWOewo
hoặc:
https://www.youtube.com/watch?v=4mvPCzyfQKM
Cao Thích (702-765): người Thương Châu (nay là Tỉnh Hà Bắc). Năm Khai Nguyên thứ 22 (Đường Huyền Tông), ông theo giúp Tín An Vương lên biên tái đánh giặc Khiết Đan, sau đó lại đi du ngoạn ở vùng Hà Nam. Cho đến năm 40 tuổi, Cao Thích còn lận đận, sống đời áo vả lang thang đây đó. Sau đó được người cất nhắc, thi đỗ hữu đạo quan và được lên làm quan ở Trường An. Ông được giữ chức huyện úy. Tâm tính ông không hợp với chức này, thường làm thơ than thở. Sau đó thăng Tiết độ sứ ở Hà Tây. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông tắt đường đến với Huyền Tông ở Hà Trì, dâng thư nói về nguyên nhân thất bại ở cửa ải Đồng Quan, được làm Gián nghị đại phu. Sau có công đánh dẹp Vĩnh Vương Lý Lân, được Đường Túc Tông (756-762) thăng tước hầu ở Bột Hải.
Ông đi nhiều, thông cảm với nỗi khổ của dân chúng nên thơ có tính hiện thực khá cao. Ông miêu tả đời sống điêu linh của dân chúng và phơi trần những cảnh bất công, bất hợp lý của xã hội đượng thời.
Cao Thích cũng thích lối thơ cảm hoài, vịnh sử, nhưng đặc sắc của thơ Cao Thích chính là những bài thơ đầy khí phách về biên tái. Yên ca hành là bài thơ được các binh sĩ truyền tụng và nhiều người yêu thích.
cá chép hóa rồng / cá vượt vũ môn: Theo Tiêu Hà Minh (2008), Tương truyền ở Trung Quốc hằng năm vào ngày mồng 1 tháng 11 và ngày 21 tháng 12 âm lịch, mưa to gió lớn. Khi ấy, các loài tôm cá tụ tập nhau về cửa sông Trường Giang thuộc đất Tứ Xuyên để thi tài. Vùng này hiểm trở, nước đổ vào chân núi có ba vực sâu do Hán Vũ Đế đào để trị thủy nên còn được gọi là Ba Tầng Cửa Vũ hay Vũ Môn Long Vân.
Các loài thủy sinh khắp nơi đổ về đăng ký thi tài trong cuộc thi được gọi là vượt vũ môn. Con nào vượt được 3 vực sâu có sóng lớn tức là thắng cuộc. Tất cả các loài cá lớn, cá bé đều ra sức thi tài nhưng lần lượt bị loại. Duy chỉ có con cá chép ở phía nam Sông Thanh Lãnh ba lần nhảy đều được chấm điểm ưu, vì nó vượt qua được ba vực sâu sóng lớn.
Giám khảo ếch oang oang tuyên bố: “Anh chép lực lưỡng Sông Thanh Lãnh là thí sinh được giải. Mọi người nghe đây: Chép đã dầy công ôn luyện mấy năm nay, nhờ vậy giành phần thắng và được hóa thành Xích Long [rồng đỏ]”.
Nói xong, giám khảo ếch khoác lên mình cá chép những vẩy bạc long lanh.
Thành ngữ “cá vượt vũ môn” và “cá chép hóa rồng” có ý răn dạy việc học hành: nếu quyết tâm sẽ thành đạt. Tuy nhiên cũng có kẻ may mắn, gặp thời, phải nhớ tuy thân là rồng nhưng gốc gác chỉ là bình thường, chớ lấy cái danh giá của hiện tại mà coi thường người khác.
Ca dao:
Phận gái lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng.
cá lạnh đông câu: do chữ thủy hàn ngư bất nhị (nước lạnh cá không ăn câu), ý chỉ việc làm không ăn thua với ý muốn.
các lê: các là cái gác, lê là cây lê. Lưu Hướng đời Hán giữ việc coi sóc văn thơ ở gác Thiên Lộc. Ban đêm thường thấy một ông lão, chống gậy gỗ lê, đầu gậy có lửa sáng. Ông lão xưng với Lưu Hướng là sao Thái Ất. Về sau chữ các lê được dùng để chỉ nơi duyệt lãm sử sách.
Ðại Nam quốc sử:
Các lê lần giở sử xanh muôn đời.
cách duy: Cách bức màn, nói sự xa cách âm dương. Hán Vũ đế nhờ một tay phù thủy chiêu hồn người vợ yêu họ Lý hiện về sau một bức màn.
Ký mộng – Nguyễn Du:
Ðời khấp bất chung ngữ
Phảng phất như cách duy.
Dịch nghĩa:
Nghẹn ngào không nói hết lời
Phảng phất như cách bức màn.
cái sẩy nẩy cái ung: Theo Trịnh Mạnh (2003), Sẩy là nốt rôm nhỏ nổi trên da, nếu không biết chăm sóc thì có thể trở thành cái ung (cái nhọt) nguy hiểm.
Câu này khuyên ta đừng coi thường việc nhỏ, hoặc dừng để gặp một tai nạn lớn từ việc nhỏ gây nên.
cánh hồng: cánh của chim hồng, ví người tài cao học rộng. Chim hồng bay thường cao hơn các loài chim khác (Hồng đoàn, Hồng phí).
Phú Tào thực: Nhẹ nhàng bay vút như chim hồng khi kinh hãi, uyển chuyển mềm mại như con rồng khi lượn chơi. Ý tả hình dáng nhẹ nhàng, uyển chuyển của nữ thần sông Lạc.
Tề Công dã ngữ: Ðau lòng khi thấy lớp sóng biếc dưới cầu nơi đã từng có bóng con hồng kinh hãi rọi xuống.
cáo họ Nhâm: Liêu trai chí dị: Nữ yêu họ Nhâm rất đẹp, lấy chàng Trịnh Sinh. Sau mấy tháng vợ chồng đưa nhau ra ngoài thành chơi, gặp người đi săn dắt chó. Nàng Nhâm chợt ngã ngựa hóa thành cáo rồi bị chó săn cắn chết. Thành ngữ “cáo họ Nhâm” ý nói sự thay hình đổi dạng.
cáo mượn oai hùm: dựa theo một truyện cổ tích.
Có một con hùm đói mồi, đang lang thang kiếm ăn, thì gặp ngay con cáo. Hùm chắc mẩm sẽ được bữa ăn. Nhưng con cáo vốn gian ngoan, nói với hùm: “Ông đừng ăn thịt tôi. Thượng đế đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Ông mà ăn tôi là làm trái ý của Thượng đế! Không tin, ông cứ đi đằng trước, tôi đi theo sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ!” Và hùm làm theo. Quả nhiên, chúng đi đến đâu, mọi con vật đều chạy trốn. Hùm tin lời cáo, mà không biết nó chỉ mượn oai mình!
Thành ngữ trên chỉ người gian ngoan mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực để hù dọa, lòe bịp người khác, hoặc lấy đó làm lá chắn để lộng lành.
Cáo tật thị chúng: tựa bài thơ của Thiền sư Mãn Giác (1052–1096). Ông tên tục là Nguyễn Trường, thân phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. Thiếu thời, Vua Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu. Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào thiền học. Đến khi Vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên Vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi. Sư là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được Vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Sư làm trụ trì.
Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ mà sau này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng. Đọc xong, Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45 tuổi. Sau lễ hỏa táng, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, Vua đặt thụy hiệu là Mãn Giác.
Cáo tật thị chúng – Thiền sư Mãn Giác
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Có bệnh bảo mọi người – Ngô Tất Tố dịch thơ:
Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn, hoa rụng hết
Ðêm qua, sân trước, một cành mai.
Theo cảm nhận của Trí Bửu (2010), bài kệ–thơ nói lên quy luật của sự sống và thiên nhiên, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. “Có bệnh bảo mọi người” gồm 6 câu, cứ 2 câu kết thành một liên đăng đối, hài hòa để lại nhiều ấn tượng thú vị. Hai câu đầu nói lên sự tuần hoàn của 4 mùa, tiêu biểu là sự chuyển vần của mùa xuân.
Mỗi độ xuân về, “trăm hoa cười” tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, cho vẻ đẹp của cây cỏ thiên nhiên và mùa xuân. Và khi mùa xuân đi qua, ngày tháng sẽ trôi nhanh theo mùa hạ, chuyển sang mùa thu rồi đến mùa đông, chẳng bao lâu lại trở về mùa xuân… Cỏ cây, hoa lá, tạo vật cũng biến đổi, sinh trưởng hay phai tàn theo 4 mùa, năm tháng. Khi mùa xuân trôi qua, “trăm hoa rụng” theo quy luật của thiên nhiên. Hai câu thơ mang màu sắc triết lý, khái quát quy luật tồn tại của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Mùa xuân cũng như sự sống thiên nhiên chuyển biến bất tận: “xuân đi” rồi “xuân đến”, “hoa cười” rồi “hoa rụng”… Cỏ cây, trăm hoa cũng như vạn vật, con người đều bị chi phối theo quy luật khắc nghiệt của tự nhiên:
Bước đi của mùa xuân “qua… tới”, cũng như trăm hoa “rụng… cười”, một lối nói đầy cảm xúc, làm cho câu kệ vốn khô khan đã trở thành câu thơ đẹp và hay. Qua đó, ta thấy tâm hồn vị Thiền sư quả là đẹp!
Hai câu tiếp theo, Mãn Giác nói về chuyện người, chuyện đời. Trong cõi nhân sinh, vạn vật biến diễn không ngừng, vận động theo năm tháng “Trước mắt việc đi mãi”. Cũng như con người, có sinh tất có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh tật; có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như thế, vốn thế! Vị cao tăng đang nằm trên giường bệnh, đọc bài kệ này cho các đệ tử nghe. Ông muốn nhắc nhở họ với tất cả sự thanh thản: Ông đã về già, đang “có bệnh”, nhất định sẽ chết. Đó là lẽ thường tình, có gì đáng sợ, đáng lo! Ý tưởng và triết lý của câu kệ cao siêu vô cùng. Hãy biết yêu cuộc đời với sự thanh thản – hãy làm chủ cuộc sống:
Trước mắt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi.
Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú, xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi:
Đừng bảo xuân tàn, hoa rụng hết
Ðêm qua, sân trước, một cành mai.
Hai tiếng “mạc vị” (chớ tưởng) như một lời nhắc khẽ, thấm thìa. Câu thơ cấu trúc liên hoàn, tương phản: “hoa rụng hết” và “một cành mai” nở ra. Hình ảnh “nhất chi mai” (một cành mai, cũng là tên một loài mai) là một thi liệu ta thường bắt gặp trong thơ cổ. Cành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao, lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật, nhà thơ lấy nó để nói về mình, chỉ về mình, biểu lộ một quan niệm nhân sinh của vị chân tu: vạn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử… nhưng nhà tu hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, ngoài quy luật tự nhiên như cành mai nở hoa buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết!

Nhất chi mai
Vậy thì ta (Thiền sư Mãn Giác) đang “có bệnh” là chuyện thường tình, theo quy luật của thiên nhiên có gì đáng băn khoăn! “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Truyện Kiều). Ngoài triết lý sâu xa của đạo Phật, được cụ thể hóa và hình tượng hóa qua hình ảnh “nhất chi mai”, câu thơ còn ẩn chứa một ý nghĩa đẹp: nhà sư rất lạc quan yêu đời. Với ông, thì thiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống, tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy thời gian.
Bài kệ Cáo tật thị chúng thể hiện một cốt cách, một quan niệm sống đẹp của vị Thiền sư đức trọng tài cao. Tư tưởng Phật giáo hòa quyện với chất thơ, tầm cao sâu triết lý đạo Phật được trang phục bằng lời thơ đẹp, giàu hình tượng và cảm xúc.
Đọc bài Cáo tật thị chúng, ta trân trọng tinh thần yêu đời, yêu sự sống của vị Thiền sư, chúng ta yêu thêm vẻ đẹp trắng muốt của cành mai nở hoa buổi xuân tàn. Dư vị của bài thơ như một lời nhắc khẽ: hãy làm chủ cuộc đời và biết làm chủ bản thân mình.
cát, cát đằng hoặc cát lũy: Theo Bửu Kế (1968), cát là một loại dây leo, thân dài, lá lớn, mùa thu nở hoa màu đỏ và tím, rễ cây dùng để làm phấn trang sức, thân cây dùng dệt vải gọi là vải cát (cát bố; bố: vải). Ngày xưa về mùa hè người ta thường dùng vải cát để mặt cho mát. Vì là giống cây leo nên người ta dùng để ví với một kẻ yếu đuối nương nhờ kẻ thế lực hơn. Ghi chú: theo mô tả này và cũng phù hợp với những mô tả dưới đây, cát tương ứng với sắn dây.
Đoạn trường tân thanh, Thúy Kiều nói với Từ Hải:
Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây”.
Theo Đào Duy Anh (2009), cát là dây sắn, đằng là cây mây, hai giống cây leo nương tựa vào cây to mà mọc, ví von với người thân phận nhỏ mọn, người vợ lẽ.
Đoạn trường tân thanh,
Lúc trao thân cho Mã Giám sinh:
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Lúc nương tựa nhà Thúc sinh:
Sắn bìm chút phận cỏn con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? (1634)
Về “sắn bìm”, Lê Văn Hòe (1953) chú giải “là dây leo, là cát lũy, đây ví phận lẽ mọn”, nhưng không giải thích nghĩa đen. Một số nguồn cũng ghi “sắn bìm” là vợ lẽ, và cũng không giải thích nghĩa đen.

Kinh Thi:
Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi
Lạc chi quân tử, phúc lý luy chi.
Nghĩa:
Núi nam có dây sắn, dây bìm leo quanh gốc cây
Vợ cả vui vẻ, làm yên vui người khác.
Tóm lại, “cát đằng” và “cát lũy” chỉ người vợ lẽ.
Càn Khôn hoặc Kiền Khôn: hai quẻ trong Kinh Dịch, tượng trưng trời, đất.
Lời sớ của Trình Di nói: Càn là đầu muôn vật cho nên là trời, là dương, là cha… Khôn là quẻ đối nhau với Càn. Càn lấy chính bền làm trinh, không thì mềm thuận làm trinh. Việc làm của người quân tử mềm thuận mà lợi… Lợi cho muôn vật đều chủ ở khôn. Vì cuộc sinh thành đều là công của đất cỏ, nên khôn là đất, là âm, là mẹ.
Bích Câu kỳ ngộ:
Ra vào kim khuyết quỳnh lân
Treo tranh Yên thủy, giắt bầu càn khôn.
Cảm Chân phú hay Lạc Thần phú: tựa bài phú của Tào Thực (192–232), con trai của Tào Tháo thời Tam Quốc. Tào Thực sử dụng nhiều mỹ từ, trí tưởng tượng phong phú, kể lại sự tương ngộ lãng mạn trong mơ của ông với Phục Phi (có một số sách ghi là Mật phi hoặc Bật phi). Nàng là vị nữ thần của Sông Lạc, được thể hiện từ vóc dáng tiêu sái thoát tục, phẩm hạnh đoan chính trang nhã, bước đi uyển chuyển nhẹ nhàng, đến chuyện tác giả được nữ thần đem gối đầu ra tặng, và nỗi lòng thương nhớ của ông khi hai người chia tay nhau.
Cảm Chân phú tuy chịu ảnh hưởng từ bài Thần nữ phú của Tống Ngọc nhưng về kỹ thuật thì có tỷ dụ sinh động, tiến bộ, đẹp đẽ hơn. Tình tiết như sóng gợi dạt dào, lúc lên lúc xuống. Ngôn ngữ cấu tứ ly kỳ diễm tuyệt, người đọc xong vẫn còn cảm thấy dư vận lan man bất tận.
Theo bài tự của tác giả trong sách Văn tuyển, vào năm Hoàng Sơ tam niên, tức năm 222, tác giả từ kinh sư trở về đất phong, trên đường đậu thuyền nghỉ đêm bên bờ Sông Lạc, thông qua sự tưởng tượng mộng ảo, cấu tứ ly kỳ, lời văn mỹ lệ, viết bài Cảm Chân phú (sau đổi ra Lạc Thần phú), mô tả sự tương ngộ của tác giả với nữ thần Sông Lạc, rồi hai người yêu nhau, nhưng cuối cùng, vì thần và người khác biệt nhau, không thể sống với nhau được, đành phải chia ly trong đau xót.

Cảm Chân phú hay Lạc Thần phú – Tào Thực, trích đoạn dịch Nôm
. . .
Hình dáng của nàng
Nhẹ nhàng như chim hồng bay
Uyển chuyển như rồng lượn
Rực rỡ như cúc mùa thu
Tươi rạng như tùng mùa xuân
Phảng phất như mặt trăng bị mây nhẹ che lấp
Phiêu diêu như tuyết bị gió thổi cuốn lên
Từ xa ngắm nhìn, trắng như ráng mặt trời lên trong sương sớm.
. . .
Rồi thần nữ cảm động
Bồi hồi ngập ngừng
Vẻ thần thái lúc ly lúc hợp
Chợt sáng chợt tối
Thân thể nhẹ nhàng lên cao như chim hạc đứng
Như sắp bay đi mà còn chưa dứt
Giẫm lên đường có hoa tiêu mùi nồng đượm
Đi trên đường cỏ ngát thơm
Buồn bã ngâm nga mãi lòng ái mộ
Tiếng ca buồn bã thống khổ kéo dài.
. . .
Hận vì cảnh ngộ của người và thần không cùng
Oán nỗi năm tháng tươi đẹp không tương xứng
Nâng tay áo che ngấn nước mắt
Lệ chảy thấm áo không ngừng.
Buồn buổi gặp gỡ tốt lành đã tuyệt
Tiếc rằng một khi đã qua rồi mỗi người một nẻo
Không có vật gì biểu thị ái tình
Dâng tặng khuyên tai ngọc của Giang Nam.
Tuy ẩn trú tại Thái Âm
Nhưng mãi gửi tấm lòng nơi vương tử
Chợt chưa kịp nhận ra thì đã dứt
Nàng biến mất vào giữa làn ánh sáng che phủ.
Sau đó (ta) quay xuống núi
Nhưng chân vẫn còn lưu luyến lại
Tình hoài tưởng tượng
Ngoảnh lại buồn bã nhớ nhung
Hy vọng hình bóng nàng lại xuất hiện
Cưỡi thuyền nhẹ trên mặt nước
Trôi trên sông dài quay trở lại
Nhớ miên man mãi khôn nguôi.
Đêm thao thức không ngủ được
Để sương thấm đẫm đứng ngóng cho đến sáng
Lệnh cho đày tớ chuẩn bị xe ngựa
Ta tìm lại nơi đường hướng đông
Cầm cương, đặt yên lên ngựa
Buồn bã bàng hoàng nhưng không đi được.
Có bài thơ vịnh câu chuyện này:
Vịnh mỹ nhân tại Thiên Tân kiều – Lạc Tân Vương, dịch thơ: kimthoty
Giai nhân từ phía đông hàng xóm
Cầu Thiên Tân nhàn hạ bước lên
Chỉnh xiêm y đầy đường hương bám
Bụi bay khi nàng chuyển gót sen
Trên mặt nước dung nhan ẩn hiện
Đôi mày cong vòng nguyệt trăng non
Mượn thơ xưa của Tào Tử Kiến
Gửi tâm tư đến Lạc Xuyên thần.
Tương truyền nữ thần Sông Lạc trong bài phú này chính là Đào Chân. Có thuyết cho rằng Tào Thực viết Cảm Chân phú là vì thương nhớ nàng, người chị dâu, vợ Tào Phi. Sau khi Tào diệt Viên Thiệu ở Nghiệp Thành, vì đã nghe đến sắc đẹp của nàng nên sai quân vào tìm kiếm, nhưng Tào Phi đã tự vào trước bắt được Đào Chân mang về, rồi xin Tào Tháo cho cưới nàng làm vợ. Sau này Tào Phi lên ngôi Nguỵ Văn Đế (năm 220) thì nàng là chính phi.
Tuy nhiên khi Đào Chân về cung nhà Ngụy, Tào Thực gặp nàng cũng si mê tha thiết. Đào Chân đối với Tào Thực cũng có chút chân tình, nhưng về cơ bản đó chỉ là mối tình đơn phương vô vọng. Hôn nhân của Đào Chân với Tào Phi về sau không có hạnh phúc do Tào Phi sủng ái một phi tần khác là Quách thị. Phần vì Đào Chân bị Quách thị gièm pha, phần vì Tào Phi cũng nghi ngờ tình cảm giữa Đào Chân và Tào Thực, nên đày Đào Chân ra Nghiệp Thành rồi sau đó ép phải chết (năm 223).
Sau khi Đào Chân chết, có lần Tào Thực vào cung, Tào Phi đem một số đồ dùng của Đào Chân đưa cho, trong đó có chiếc gối ngọc chẩm. Tào Thực thấy vật nhớ người, khi trở về đất phong ở Quyên Thành, qua Sông Lạc, đêm trú trong thuyền, mơ thấy nàng. Khi tỉnh dậy hạ bút viết bài Cảm Chân phú. Bài phú này, như trong phần nội dung có ghi rõ, chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Cao Đường phú và Thần nữ phú của Tống Ngọc.
Bài Cảm Chân phú cũng trở thành đề tài tranh luận lâu đời về mối u tình của Tào Thực với Đào Chân. Xem thêm mục: Đào Chân.
Bài Cảm Chân phú được các nhà phê bình văn học Trung Quốc xưng tụng là một tác phẩm kiệt xuất của Tào Thực, nếu đem so sánh với bài Cửu ca của Khuất Nguyên thì có thể ngang ngửa. Bài phú này là bài phú đại biểu cho thời kỳ văn học Kiến An.
Cảnh Vi: tự Hồng, người Hà Đông (nay thuộc Sơn Tây, Trung Quốc), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Ứng thứ 2 (764) đời Đường Đại Tông, làm quan tới chức Tả thập di, thơ tề danh với Tiền Khởi, Lư Luân, Tư Không Thự, trong Đại Lịch thập tài tử.
Cảo Khanh: tức Nhan Cảo Khanh, người đất Lâm Nghi, tự Mãn, tính cương trực. Theo Tục thông chí, thời Ðường Huyền Tông, ông làm Thái thú Thường Sơn. Khi có biến An Lộc Sơn, giặc bất ngờ đánh úp thành. Cảo Khanh chưa nghĩ ra kế chống thành thì lương thực, tên bắn đã cạn, thành bị vây hãm rồi ông bị bắt. An Lộc Sơn dụ ông, nói: “Nếu đầu hàng ta sẽ cho làm Thái thú”. Cảo Khanh trừng mắt mắng rằng: “Ta làm tôi nhà Ðường, giữ lòng trung nghĩa, vì nước trừ bọn giặc chúng mày. Giận nổi chưa chém được đầu mày để tạ vua chứ lòng nào theo chúng mày làm phản?” Cảo Khanh chửi mắng không ngớt, bị chúng cắt lưỡi rồi giết chết.
cảo thơm: Do chữ phương cảo: sách thơm, hàm ý sách hay.
Đoạn trường tân thanh:
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh
cạn tàu ráo máng: Theo Trịnh Mạnh (2003), máng là dụng cụ đựng thức ăn cho lợn. Tàu là dụng cụ dùng đựng cỏ cho ngựa. Về sau tàu có nghĩa là chuồng ngựa, như trong câu: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”.
Thành ngữ này lúc đầu chỉ sự chăm sóc thiếu chu đáo đối với vật nuôi vì tàu và máng không có thức ăn. Về sau, thành ngữ này chỉ sự đối xử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người, như trong câu “Ăn ở với nhau cạn tàu ráo máng”.
cắp dùi Bác Lãng: Theo Sử ký, Trương Lương là người nước Hàn, cha và ông của ông làm tướng quốc trải 5 đời Vua Hán. Khi cha chết, Lương còn ít tuổi, chưa từng làm quan nước Hàn. Khi Hàn bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt, Lương bèn đem tất cả gia tài, tìm thích khách giết Vua Tần để báo thù cho nước Hàn. Lương tìm được một lực sĩ, làm một cái chùy sắt nặng 120 cân. Tần Thủy Hoàng đi chơi ở miền đồng, Lương và người thích khách rình đánh Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng nhưng đánh nhằm phải xe tùy tùng. Tần Thủy Hoàng nổi giận sai lùng khắp thiên hạ, cốt lùng cho được Trương Lương. Lương bèn đổi tên họ, sau theo Bái Công bày mưu lập kế giúp Bái Công diệt Tần, Sở, dựng nghiệp nhà Hán.
cân đai: cân là chiếc khăn dùng để bao quanh đầu cho tóc không xổ xuống khi đội mũ; đai là thắt lưng choàng ra ngoài cho áo gọn lại. Cân đai chỉ y phục của quan quyền.
Đoạn trường tân thanh, lúc Từ Hải ăn mặc theo cung cách quan quyền:
Lữa mình lạ vẻ cân đai
Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa.
Lữa mình: quen mình lắm rồi, ý nói Kiều đã biết rõ Từ Hải lắm rồi.
cây quế: được nhiều người cho là ám chỉ Huyền Trân Công chúa trong câu ca dao dưới đây:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo!
Từ đó Phạm Duy viết nên đoản khúc Nước non ngàn dặm ra đi trong trường ca Con đường cái quan:
Nhưng ánh tháp vàng
Cây quế giữa rừng
Chỉ một mùa tang là hương là sắc tan
Tàn cả tình yêu
Vì hận còn gieo
Đất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu.
Theo Tôn Thất Thọ (2017a), thực tế có lý giải rằng câu ca dao trên không liên quan gì đến câu chuyện của Huyền Trân Công chúa. Để giải thích câu ca dao này, Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1852-?), Bố chánh Thanh Hóa, chép trong cuốn Việt Nam phong sử được in dưới thời Duy Tân thứ 8 (1914) như sau: (phần dịch nghĩa của Tạ Quang Phát):
Quế là cây ngọc quế. Mán–Mường là những bộ lạc người Thượng ở Bắc Kỳ. Triều nhà Lý khi đi kinh lý miền thượng du, cho những tù trưởng các phiên trấn làm thủ lãnh coi việc binh dân, nhưng lại lo ngại khó chế ngự được họ, mới mượn việc hôn nhân mà ràng buộc họ.
Trong thời kỳ đầu Vua Lý Thánh Tông, Công chúa Bình Dương gả cho tù trưởng Lạng Châu là Thân Thiệu Thái, Công chúa Kim Thành gả cho tù trưởng Phong Châu là Lê Ninh Thuận, Công chúa Trường Ninh gả cho tù trưởng Thượng Oai là Hà Thiện Khoan. Trong thời Vua Lý Nhân Tông, Công chúa Khâm Thánh gả cho tù trưởng Vị Long là Hà Di Khánh. Trong thời Vua Lý Anh Tông, Công chúa Thiếu Dung gả cho tù trưởng Phú Lương là Dương Tự Minh.
Đó là mưu kế dùng mỹ nhân để khống chế các tù trưởng người Mán vậy.
Lúc xe đưa Huyền Trân Công chúa cung kính hòa thuận lên miền thượng du, nhân dân trông thấy. Họ thương cho nàng, cho nên lấy cây đan quế mà ví von.
Có ca dao dị bản:
Tiếc thay cây quế Châu Thường
Để cho thằng Mọi thằng Mường nó leo!
Câu ca dao này biến đổi hình thức trên đường Nam tiến để thích ứng với địa phương phong thổ. Câu này từ miền Bắc vào vùng Thanh–Nghệ–Tĩnh với cây quế có vỏ đỏ (đan quế) mọc nhiều ở hai châu Thường Xuân và Trịnh Vạn (Thanh Hóa), thường gọi là quế Thanh, vừa dày vừa thơm, danh tiếng lâu đời nhất và được triều đình dùng làm cống phẩm.
cất vạc nhổ núi: chỉ sức mạnh của Hạng Vũ. Hạng Lương khiến Hạng Vũ chiêu tập bọn Vu Anh ở Đồ Sơn. Anh nói: “Trong miếu Vũ Vương có 3 chiếc vạc đá, nếu xô đổ rồi nhấc bổng lên được thì ta sẽ hàng.” Vũ bèn xô đổ rồi lại dựng lên, sau đó cho một tay vào trong vạc nhấc lên đi vòng trước cửa miếu ba lần, bọn Vu Anh đều bái phục.
Chữ nhổ núi (bạt sơn), xuất phát từ bài ca tuyệt mệnh của Hạng Vũ: Lực bạt sơn hề khí cái thế (sức có thể nhổ núi, khí trùm trời đất).
cầm đuốc chơi đêm: Do chữ bỉnh chúc dạ du, ý nói thời gian qua mau, đời người ta quá ngắn, phải tranh thủ mà vui chơi.
Cổ thi: “Ngày ngắn khổ nỗi đêm dài, sao không cầm đuốc chơi đêm?”
Bài tự Xuân dạ yến đào lý viên tự của Lý Bạch (bản dịch của Phổ Đồng):
Trời đất là quán trọ của muôn vật; thời gian là khách ghé của trăm đời. Mà phù sinh như giấc mộng, vui được là bao? Người xưa cầm đuốc chơi đêm, tin rằng có vậy.
cầm đường: nghĩa đen là đánh đàn; nghĩa bóng là nơi làm việc của quan huyện. Nguyên sách Lữ thị xuân thu có câu: “Bật Tử Tiện cai trị Huyện Ðơn Phủ, gảy đàn cầm, thân không xuống khỏi thềm công đường mà Huyện Đơn Phủ được yên trị.” Ý khen chính lệnh của Bật Tử Tiện.
Bật Tử Tiện là học trò của đức Khổng Tử, làm quan nước Tấn đời Xuân Thu, giữ chức Tri huyện. Khổng Miệt là cháu đức Khổng Tử cùng làm quan một thời với Bật Tử Tiện. Một hôm Khổng Tử đến viếng Khổng Miệt, hỏi: “Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì?”
Khổng Miệt thưa: “Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì mà mất ba điều: việc quan bận, không còn thì giờ học tập, vì thế mà học vấn không tiến; bổng lộc ít không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ hàng không thân thiết; công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với bầu bạn không trọn vẹn.”
Nghe nói, Khổng Tử không bằng lòng.
Khi đến viếng Bật Tử Tiện, Khổng Tử cũng hỏi như thế. Bật Tử Tiện thưa: “Từ khi tôi ra làm quan chưa có điều gì mất mà có ba điều được. Những điều trước học nay đem ra thực hành, vì thế mà sự học càng rõ; bổng lộc dầu bạc cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ hàng càng gần; việc quan tuy bận nhưng cũng bớt được ít nhiều thì giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân.”
Khổng Tử nghe, khen cho là bậc quân tử.
Bật Tử Tiện giữ chức tri huyện, hằng ngày thường gẩy đàn rất thanh nhã mà công việc cai trị vẫn chạy đều, dân trong huyện được yên ổn làm ăn, đời sống vẫn no ấm. Về sau, ông được thăng bổ đi nơi khác, có Vu Mã Tử Kỳ đến thay. Tử Kỳ lại tất bật công việc ngày đêm, không lúc nào được thanh thản nghỉ ngơi, trong huyện mới được yên ổn. Tử Kỳ lấy làm lạ, thân đến hỏi Tử Tiện: “Tôi làm việc không nghỉ, đầu tắt mặt tối, công việc được thanh thản đã đành. Còn ông chỉ ngồi gảy đàn, uống trà, chẳng phải bận rộn gì mà công việc vẫn được chu tất là nghĩa làm sao?”
Bật Tử Tiện đáp: “Tôi chia việc và điều khiển những kẻ khác làm, còn ông tự làm lấy nên việc khó nhọc. Vả, việc cai trị là việc lớn cần phải có nhiều người làm. Ta cần biết dùng người tùy tài sức, tùy công việc mà giao trách nhiệm. Ðối với việc công có ích lợi cho nước, ích lợi cho mình, ai lại chẳng muốn gánh vác, riêng mình bao biện là tranh lấy việc người, tạo lòng căm ghét cho người thì mình cá nhân làm sao nên được việc. Ðó là tự mình gây mối loạn và gây khổ lấy mình.”
Tử Kỳ chắp tay bái phục: “Như thế quả tôi không bằng được ông.”
Đoạn trường tân thanh, Kim Trọng được bổ làm tri huyện:
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
cầm sắt: nói về vợ chồng. Cầm sắt là đàn cầm và đàn sắt, hai thứ đàn thường đánh hòa âm với nhau, chỉ cảnh vợ chồng êm ấm.
Lễ nhạc kỳ: Vua Thuấn chế đàn cầm 5 dây, đến đời Chu thêm 2 dây nữa là 7.
Sách Quang Nhã: Ðàn cầm dài 3 thước 6 tấc, rộng 6 tấc.
Thế Bản: Bào Hy chế ra đàn sắt 50 dây, đến đời Hoàng đế bỏ đi còn 25 dây.
Kinh Thi:
Rau hạnh dài ngắn, hái cả bên phải, trái
Thục nữ yểu điệu, đàn cầm đàn sắt cho nghe.
Vợ con hòa hợp như đàn cầm, đàn sắt hòa nhau.
Vương Dung – Nam Tề:
Hợp nhau tình bạn tốt
mới vui tình vợ chồng.
Đoạn trường tân thanh:
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Ðem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ.
Ý nói tình vợ chồng đổi ra tình tri kỷ.
Cầm Tháo: ả ca kỹ ở Tây Hồ thuộc đất Hàng Châu. Một lần tiếp văn sĩ Tô Ðông Pha, nghe ông đọc 2 câu thơ, dịch Nôm: Ngoài cửa lạnh lùng xe ngựa vắng, tuổi giá duyên kết chú phường buôn, Cầm Tháo tỉnh ngộ bèn cắt tóc đi tu.
cần bộc: do câu Hiến cần, hiến bộc (Dâng rau cần, dâng ánh nắng).
Cần là tên một thứ rau. Ngày xưa có người ăn rau cần, lấy làm ngon, mới mời một người hào phú trong làng ăn, người hào phú nếm vào thấy dở lại đau bụng nữa nên mới trách người kia. Người kia lấy làm hổ thẹn. Thì ra có vật, đối với mình thì ngon, mà đối với kẻ khác thì dở. Khi nào đem tặng ai một vật gì mà mình nói khiêm là vật ấy không ngon, không tốt, thì dùng chữ hiếu cần.
Bộc là ánh nắng mặt trời. Xưa có một người làm ruộng nước Tống, nghèo cực, mùa đông mặc áo quần mong manh. Đến khi có ánh nắng chiếu xuống, anh ta cởi trần ra sưởi. Thấy ánh nắng ấm áp anh ta thích lắm mới bảo vợ: “Ánh nắng ấm áp như thế mà không ai biết, nếu chúng ta lấy đem dâng Vua chắc được trọng thưởng”. Nghĩa bóng cũng như chữ hiến cần.
Hạnh Thục ca:
Tấm lòng cần bộc đều ra dâng thành.
Cầu Lam:
Đoạn trường tân thanh, trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói:
Chày sương chưa nện Cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?
(Nghĩa bóng: hai bên chưa là vợ chồng, như khi chưa đưa chày sương về Cầu Lam tức Lam Kiều)
Xem mục: Lam Kiều.
Cầu Lá Buông: Gia định thành thông chí: Cầu Lá Buông ở Tỉnh Biên Hòa, bắc ngang qua cái rạch gọi là Rạch Lá Buông. Buông là một thứ cây thấp mọc thành rừng, lá to trắng dùng lợp nón, làm áo tơi và buồm thuyền. Từ Bình Thuận đi Biên Hòa nhiều nơi có mọc lá buông.

cầu ô / cầu ô thước: cầu do quạ đen (ô thước) nối với nhau để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau mỗi năm. Xem mục: Ngưu Lang, Chức Nữ.
chàng Siêu:
Chinh phụ ngâm:
Phận trai già ruỗi chiến trường
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Xem: Ban Siêu.
chàng Tiêu hoặc Tiêu lang: Theo MaxReading, thời Khai Nguyên nhà Đường, có chàng Tú tài Thôi Giao, văn tài trác tuyệt, nhưng thế cô, nhà lại nghèo xơ xác nên khó bề lập thân. Tuy vậy chàng Tú vẫn thiết tha yêu đời vì có người yêu Lục Châu [dị bản: họ Lương tên Bích Nga], một dung nhan kiều diễm đang tuổi trăng tròn, giỏi thi phú, đàn ca xướng hát.
Gia cảnh Lục Châu vào thuộc loại bần hàn, nên nàng phải làm thị tỳ cho người cô của Thôi Giao. Cũng là một cơ may để cho đôi lứa có nơi chốn mà tình tự. Bà cô cũng có ý muốn tác hợp cho hai trẻ, nên cô gắng buôn bán vài chuyến lớn kiếm lãi, tổ chức hôn lễ đàng hoàng và cho đôi tân hôn chút của hồi môn. Chẳng may, chuyến buôn này rồi chuyến buôn khác cứ bị lỗ lã nặng. Gia sản bà sa sút quá nhanh chóng, rồi sinh nợ chồng chất. Đường cùng, để khỏi bị con nợ tịch biên nhà cửạ bà cô phải bán Lục Châu cho quan Liên súy Vũ Địch, giá bốn mươi vạn tiền.
Vậy là từ đó, đôi uyên ương như chim cụt cánh, như cây cụt cành.
Quan Vũ Địch đưa nàng Lục Châu vào dinh nhưng vẫn không làm điều chi sỗ sàng quá đáng. Còn chàng Thôi Giao thì lang thang thất thểu đó đây, tự đặt tên cho mình là Tiêu Lang. Nhưng dù có nghêu ngao ở đâu, sáng nào chàng ta cũng đứng ngấp nghé ngoài cổng dinh phủ, mong được nhìn thấy người yêu. Nhưng mỗi lần may mắn gặp mặt, Tiêu Lang lại phải nén lòng, quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ hờ hững. Lục Châu cũng bị xé nát tâm cang, cắn răng cúi đầu, lẫm lũi bỏ đi. Giọt châu lã chã khôn cầm.
Một hôm, vào tiết Hàn thực trời rét như cắt, Lục Châu có việc ra ngoài, chợt trông thấy Tiêu Lang đứng dưới gốc liễu rũ, thân thể gầy gò run rẩy. Không cầm lòng được, nàng chạy đến ôm chầm lấy chàng. Thôi thì tha hồ mà khóc, kể lễ nỗi nhớ thương. Lâm ly lắm rồi cũng phải ngậm ngùi chia tay. Lục Châu choàng áo bông ôm ấp hơi ấm cho chàng. Thôi Giao cởi chiếc áo rách, viết lên đó mấy câu thơ tặng nàng (Ngô Tất Tố dịch):
Theo chân bao kẻ ngộp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.
Lục Châu ôm thơ về, đêm đêm gối đầu chờ mộng.
Trong phủ Liên Súy Vũ Địch có một tên hầu, ngày trước đã từng rắp tâm bắn sẻ Lục Châu, nhưng đâu được toại nguyên, nên sinh thù ghét. Gặp dịp may đưa đến, hắn trộm chép bài thơ, dán gần cửa thư phòng Vũ Địch. Quan đọc được thơ, tra hỏi kẻ hầu người hạ, biết được tác giả là Tiêu Lang Thôi Giao. Vũ Địch cho lính truy tìm, đưa được Thôi Giao vào phủ đường. Tiêu Lang nghĩ rằng mạng sống sắp tiêu tùng, nhưng dù có được chết vì tình, vẫn không khỏi run sợ.
Nhưng khi tiếp kiến Vũ Địch, quan không bắt quì chịu tội, mà lại chỉ ghế mời ngồi. Quan bước lại gần, cầm lấy tay Tiêu Lang, cười độ lượng: “Một tới cửa hầu sầu tợ biển, Chàng Tiêu từ đó khách qua đường. Hai câu thơ này hẳn là của Tiêu Lang rồi. Từ lâu ta vẫn nghe danh Tú tài Thôi Giao tài hoa. Nhưng chỉ vì tội nghèo mà không tiến thân được, lại không giữ được người yêu. Sá gì bốn mươi vạn tiền mà ta phải làm tan nát một mối tình.”
Vũ Địch cho người hầu chuẩn bị một số tiền bạc, nữ trang và mộ t cổ xe ngưa, rồi cho mời Lục Châu: “Nay ta ban tặng cho người con gái thủy chung chút vốn liếng và lễ vật. Nàng hãy lên xe cùng với Thôi Giao, về quê cũ xây tổ ấm.”
Đoạn trường tân thanh, khi Thúy Kiều và Kim Trọng tái hợp, chàng Kim lý luận về chữ trinh của Kiều để bác bỏ cái ý tự ti mặc cảm của người yêu cũ khi chàng xin chấp nối lại mối tơ tình:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu.
Ý của Kim Trọng muốn nói nếu Kiều không ưng kết duyên với chàng là nàng cố ý bắt buộc chàng phải hờ hững không nhận nàng nữa. Hay nói một cách khác là tại sao Kiều lại cố ý làm cho chàng phải coi nàng như chàng Tiêu coi vợ cũ?
TchyA (Đái Đức Tuấn) có đoạn:
Đỡ ly ân ái qua môi thắm
Uống chẳng vơi cho mới bẽ bàng
Khổ nhục mảnh thân vì bát gạo
Đường tình kia lại số Tiêu lang.
chàng Vương: Vương Duy, một nhà thơ đồng thời là họa sĩ nổi tiếng đời Ðường. Tô Thức đời Tống khen Vương Duy trong thơ có họa, trong họa có thơ (Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi). Ðồng Kỳ Xương đời Minh thì cho Vương Duy là ông tổ của lối họa sơn thủy “Nam Tông”.
chày kình: chày được làm hình con cá kình. Tương truyền giữa bể có con cá lớn gọi là cá kình, tức cá voi sát thủ. Trên bờ biển có con thú tên là con bồ lao tức hải cẩu. Bồ lao vốn sợ kình vì kình thường lội vào bờ để đánh bồ lao, nên bồ hét lên. Vì thế muốn cho chuông kêu tiếng thật lớn, người ta chế hình con bồ lao trên chóp chuông, còn cái chày thì hình con cá kình. Mỗi khi kình đánh vào thì bồ lao lại hét lên.
Hương Sơn phong cảnh ca – Chu Mạnh Trinh:
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
chày sương: cái chày ngọc để giã linh dược Huyền sương.
Đoạn trường tân thanh, trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói:
Chày sương chưa nện Cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?
(Nghĩa bóng: hai bên chưa là vợ chồng, như khi chưa đưa chày sương về Cầu Lam tức Lam Kiều)
Xem thêm mục: Lam Kiều.
Theo Trịnh Mạnh (2003), ngày xưa, trên đường thiên lý có các trạm, các cung. Ở đây, các phu trạm phải chuyển công văn từ trạm này tới trạm khác. Nếu công văn khẩn (hỏa tốc) thì người phu trạm phải mang theo một sợi lông đuôi của con công và phải chạy thật nhanh (về sau, thiếu lông công, phải thay bằng lông gà có buộc cục than).
Nhân dân thấy trên đường, các phu trạm mang cờ lông công chạy từ cung này đến cung kia nên có thành ngữ này để diễn đạt ý chạy rối rít, chạy hộc tốc mà không màng đến việc gì khác.
chăn loan: chăn được thêu hình chim có bộ lông năm sắc, con mái gọi là loan, con trống gọi là phụng. Vì thế phụ nữ thường dùng chim loan làm biểu hiệu (gối loan, chăn loan, trường loan…)
Ca dao:
Ngồi trong cửa sổ chạm rồng
Chăn loan gối phụng không chồng cũng hư.
chắp cánh, liền cành: hoặc chim chắp cánh, cây liền cành, từ tỷ dực liên chi, nói việc vợ chồng gắn bó thương yêu lâu dài, mãi mãi có nhau.
Sách Nhĩ Nhã (Kinh Nhã) chép: Chim kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam. Mỗi khi muốn bay thì hai con phải chắp cánh với nhau mới bay được. Chim này được gọi là tỷ dực điểu, cũng được gọi là kiêm kiêm.
Thời Chiến Quốc (479-221 tCN), vua nước Tống tên Yển là người hiếu sắc, dâm bạo. Một hôm đến chơi ở gò Phong Phụ, bắt gặp một phụ nữ hái dâu rất đẹp. Vua dọ hỏi biết là vợ của nho sĩ Hàn Phùng, người họ Tức. Vua liền cho đòi Hàn, bảo đem vợ lại hiến mình. Hàn sợ uy quyền, về thuật cho vợ nghe và khóc hỏi có bằng lòng không? Tức Thị làm thơ để tỏ ý mình:
Núi nam có con chim
Núi bắc giăng lưới bắt
Chim mặc sức bay cao
Lưới kia đành quăng vất.
Vua Tống say mê sắc đẹp của nàng, theo đuổi không thôi. Liền sai người đến tận nhà Hàn, cướp lấy người ngọc. Hàn thấy vợ bị bắt đưa lên xe đi, lòng như dao cắt, biết không phương giải cứu, kiếp này khó họp, đau đớn quá mà tự tử.
Vua Tống đem Tức Thị lên đài Thanh Lăng, cưỡng bách, bảo nàng: “Ta đây là vua một nước, có đủ uy quyền sinh sát trong tay. Muốn phúc, ta cho phúc. Muốn họa, ta cho họa. Phương chi chồng nàng đã chết, nàng còn ở với ai? Nếu bằng theo quả nhân, cùng tay bắt mặt kề thì sẽ được phong hoàng hậu.”
Tức Thị nổi giận làm thơ tỏ ý mình:
Chim có trống mái
Chẳng theo phượng hoàng
Thiếp là thứ dân
Chẳng thích Tống Vương.
Vua Tống tức quá, bảo: “Nàng đến đây rồi, dẫu không muốn theo ta cũng không thể được.”
Tức Thị thấy thế cùng, nói: “Để thiếp tắm gội, thay áo, lạy linh hồn chồng cũ rồi sẽ xin hầu đại vương.”
Vua Tống bằng lòng cho.
Tức Thị tắm gội, thay áo xong, ngửa trông lên không, chắp tay vái hai vái rồi từ trên lầu đâm đầu xuống. Vua Tống hoảng hốt, vội níu lại nhưng không kịp, trông nàng đã tắt thở rồi. Khám xem trong mình nàng có một bức thư. Đại ý nói: sau khi chết xin cho đem thi thể cùng chôn một mộ với chồng, dưới suối vàng sẽ đội ân sâu.
Vua Tống cả giận, cho người chôn riêng một nơi, làm hai mộ cách xa nhau. Được ba hôm, bỗng một đêm có giống cây Văn Tử mọc ở cạnh hai ngôi mộ. Chỉ trong tuần nhật, cây ấy dài hơn ba thước, những cành quấn quýt lấy nhau như một. Thỉnh thoảng có một đôi chim uyên ương đậu ở trên cành, giao đầu kêu nhau một giọng bi thương. Người trong xóm thương xót, cho đó là oan hồn của vợ chồng Hàn Phùng hóa sinh; và gọi thứ cây ấy là “Cây tương tư”.
Sưu thần ký: Hàn Bằng làm quan đại phu nước Tống, vợ là Hà thị sắc đẹp hơn người bị hôn quân Tống Khang Vương cướp đi mất. Hà thị bí mật để lại cho Hàn Bằng bức thư tỏ ý liều chết. Khang Vương cầm tù Hàn Bằng. Hàn Bằng tự sát. Hà thị biết chuyện bèn ngầm bận áo đẹp cùng Khang Vương lên đài cao chơi rồi bất thình lình lao mình xuống tự tử. Hà thị có để lại thư xin cùng được chôn chung với Hàn Bằng. Khang Vương căm giận sai chôn Hà thị ở chỗ khác đối diện mộ Hàn Bằng. Qua một đêm bỗng mộ nào cũng có cây Tử mọc lên, rễ liền nhau ở dưới, ngọn cành liền nhau ở trên, thường có đôi chim uyên ương đến đậu, tiếng hót rất thảm thiết.
Truyện khác: Trương Liêm Xuân ở Dương Châu lấy Tào Bích là người cùng làng. Giặc đến, hai vợ chồng chạy trốn bị rơi xuống hồ chết. Năm sau, ở hồ ấy mọc lên 2 hoa sen cùng chung một đài.
Đoạn trường tân thanh:
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
“Chắp cánh, liền cành” ý nói: vợ chồng gắn bó.
Chinh phụ ngâm:
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh, như cây liền cành
Trường hận ca, đoạn thuật lời thề giữa đêm thất tịch của Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý phi, có câu (dịch Nôm):
Trên trời nguyện hóa chim chắp cánh
Dưới đất nguyện làm cây liền cành.
Cung oán ngâm khúc:
Tranh tỷ dực nhìn ra chim nọ
Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia.
chằm Vân Mộng: một hồ lớn ở Tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, xưa là 2 đầm Vân và Mộng. Ðầm Vân ở Giang Bắc, đầm Mộng ở Giang Nam, sau cả hai bị bồi đắp thành một vùng đất màu mỡ, dân cư đông đúc, cảnh vật rất đẹp nên gọi chung là Vân Mộng.
Tư Mã Tương Như có câu: “Nuốt 8, 9 đầm Vân Mộng vào bụng”, ý nói chí khí lớn lao.
châm chước: châm là rót chén rượu qua, chước là rót chén rượu lại, cốt cho hai bên bằng nhau. Nghĩa bóng: Tính toán thêm đi bớt lại cho cân phân. Sau này, từ châm chước được dùng với nghĩa khoan dung đối với người có lỗi chứ không còn có nghĩa hai bên bằng nhau.
chân ướt chân ráo: Theo Trịnh Mạnh (2003), thành ngữ này do phong tục rước dâu ngày trước tạo nên. Khi cô dâu bước chân về nhà chồng, mẹ chồng ra đỡ nón cho cô dâu, nhúng chân cô dâu vào một chậu nước để rửa làm phép (trong chậu có bỏ mấy đồng tiền ngầm chúc tiền của sẽ vào như nước). Sau đó, cô dâu phải bước qua một chậu than hồng (để trừ ma quỷ) trước khi vào buồng.
Vì vậy, thành ngữ này có nghĩa là: thời gian chưa lâu (cô ấy mới chân ướt chân ráo về nhà chồng), hoặc chưa chuẩn bị đủ làm việc gì.
Chân Vũ: vị thần cai quản phương Bắc. Theo thần thoại cổ thì thần Chân Vũ là tướng nhà trời được đưa xuống giúp trần gian trị Hồ tinh.
châu chín khúc: tên một loại ngọc quý, hình như con ốc, có chín lớp xoáy.
Châu Diệc: xem Chu Dịch.
châu lệ: nước mắt.
Triệu Hổ (đời Ðường): Thiếp cữu thùy châu lệ (Thiếp nước mắt đã tuôn lâu rồi). Xem giọt hồng.
Đoạn trường tân thanh:
Giọt châu thánh thót quyên bào
Mầng mầng, tủi tủi, biết bao sự tình!
Giọt châu tức là giọt nước mắt.
Châu Mãi Thần: người đất Cối Kê, đời nhà Hán, nhà nghèo, nhưng ham đọc sách. Thuở hàn vi, chàng phải đi đốn củi rừng đem bán để sinh sống, thường treo sách nơi đầu gánh, vừa đi vừa đọc.
Vợ của Châu Mãi Thần không thể chịu nổi cảnh nghèo túng mãi như vậy được nên đòi thôi chồng, để đi lấy chồng khác khá giả hơn mà nương nhờ tấm thân.
Châu Mãi Thần khuyên vợ: “Năm nay tôi 49 tuổi rồi, qua năm 50 tuổi, tôi biết thế nào cũng lập được công danh. Bấy lâu nay, chúng ta sống trong cảnh cơ cực cũng đã quen rồi, nay nàng ráng chờ tôi một năm nữa thì nàng sẽ hưởng được phú quí.”
Người vợ liền trả lời: “Ðến chừng ông làm quan thì tôi đã chết đói rồi.”
Thế là vợ của Châu Mãi Thần nhất quyết bỏ chồng, đi lấy một anh nông dân khá giả trong làng.
Châu Mãi Thần rất đau buồn. Chàng lại càng quyết tâm học tập hơn nữa, bất luận ngày đêm, cuốn sách đều kế bên mình.
Năm sau, Châu Mãi Thần được Nghiêm Trợ tiến cử lên Vua Hán Vũ Ðế, được Vua thâu dụng, phong chức Trung Ðại phu. Lúc bấy giờ xảy ra giặc giã ở vùng Ðông Việt. Hán Vũ Ðế sai Châu Mãi Thần lo chuẩn bị khí giới, thuyền bè, để cho binh sĩ đi dẹp giặc. Sau đó, Châu Mãi Thần được thăng chức làm Thái thú Cối Kê.
Cối Kê là quê hương của họ Châu. Khi Châu Mãi Thần đến nhậm chức Thái thú Cối Kê, quân dân địa phương phải ra nghênh đón. Tới nơi, bỗng thấy người vợ cũ chạy đến đón trước đầu ngựa, xin Châu Mãi Thần bỏ qua chuyện lầm lỗi xưa của nàng, cho nàng trở lại làm vợ chàng.
Châu Mãi Thần bèn lấy một bát nước đầy, đổ xuống đất trước đầu ngựa, rồi bảo người vợ cũ: “Nếu nàng hốt nước lại cho đầy bát như trước thì tôi sẽ đem nàng về với tôi như trước.”
Bát nước đã đổ, làm sao hốt lại cho đầy! Bởi vậy, người vợ biết ý Châu Mãi Thần đã quyết, nên hổ thẹn bỏ đi.
Tuy vậy, để đáp đền tình nghĩa vợ chồng ngày trước, Mãi Thần cấp cho người vợ cũ và chàng nông dân một ngôi nhà và một số tiền đủ để sống suốt đời. Nhưng người vợ cũ cảm thấy quá xấu hổ, nên treo cổ tự tử. Người nông dân đem xác nàng táng bên bờ ao gần đường lộ.
Người đời khắc một bài thơ 4 câu trên cái bia đặt trước mộ nàng để làm gương cho phụ nữ đời sau, dịch Nôm:
Một nấm mộ xanh cạnh vũng bờ
Ngàn năm chôn xác chẳng chôn nhơ
Ðinh ninh nhắn gởi đoàn nhi nữ
Từ cổ vợ chồng trọn tóc tơ.
Lục Vân Tiên, đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi, Vân Tiên nhắn nhủ nàng có câu:
May duyên rủi nợ dễ phô
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần.
Xem thêm mục: Ngô Khởi.
Từ điển tích về Châu Mãi Thần, trong văn học có thành ngữ thông dụng phúc thủy nan thu, tức nước đổ khó hốt lại.
Châu Trần: chỉ sự giao kết hôn nhân bền vững, lâu đời.
Thời xưa ở Huyện Phong thuộc Từ Châu bên Trung Quốc có thôn Châu Trần, trong thôn chỉ có hai dòng họ là họ Châu và họ Trần, đời đời kết hôn với nhau.
Đoạn trường tân thanh:
Thực là tài tử giai nhân
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
(Khi phủ đường ca ngợi muối lương duyên giữa Thúc sinh và Kiều)
Mụ càng xua đuổi cho liền
Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần.
(Khi Bạc Bà ép Kiều thành thân với Bạc Hạnh)
Ca dao:
Chợ Dóng một tháng sáu phiên
Bắt cô hàng xén kết duyên Châu Trần.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Gặp nàng anh muốn kết duyên Châu Trần.
Anh nghe ai nhón gót đưa chân
Sao không nhớ nghĩa Châu Trần ngày xưa?
châu về Hợp Phố: Từ chữ châu hoàn Hợp Phố, nói vật đã mất nay trở về chủ cũ.
Hậu Hán thư: Quận Hợp Phố xưa thuộc Tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông, có nhiều ngọc trai quý, dân mò lấy ngọc đem đổi lấy lương thực. Nhưng quan quân ở đây tham ô quá lắm, bắt dân đi mò ngọc đem về cho chúng không biết bao nhiêu mà kể. Trai lần hồi cạn kiệt. Vì thế dân không có gì đổi lấy cái ăn. Khi Mạnh Thường đến làm Thái thú bãi bỏ những tệ cũ, lo mưu lợi cho dân. Không bao lâu, trai sinh sản lại ở, dân trở về nghề khai thác ngọc trai như xưa, trong đầu óc đơn giản của họ cho rằng ngọc về lại Hợp Phố.
Hoa tiên:
May đây bèo nước gặp nhau
Thôi thì Hợp Phố cho châu lại về.
chém rắn: Nói việc đạp bằng những khó khăn để giành thiên hạ. Sử ký viết câu chuyện truyền kỳ như sau.
Cao Tổ (Lưu Bang) lấy chức vụ đình trưởng thay mặt huyện đưa những người bị đày đến Lịch Sơn. Giữa đường nhiều người bỏ trốn. Cao Tổ tự xét đến nơi thì tất cả đều sẽ trốn hết, dễ bị tội chết, cho nên khi đến cái đầm ở phía tây ấp Phong thì bảo dừng lại uống rượu. Đang đêm, thả tất cả những người bị đày, nói: “Các ông trốn hết đi, tôi từ nay cũng trốn.”
Nhiều tráng sĩ trong số những người bị đày tình nguyện trốn theo Cao Tổ.
Cao Tổ uống rượu say, đang đêm đi qua đầm. Cao Tổ sai một người đi trước, người này quay về bảo: “Đằng trước có con rắn chắn ngang đường. Xin ông quay lại.”
Cao Tổ đang say nói: “Tráng sĩ đã đi thì sợ cái gì!”
Bèn tiến lên rút kiếm chém rắn. Rắn bị chặt làm đôi. Con đường mở rộng. Đi được vài dặm, nhân say nên ngủ.
Người đi sau đến chỗ con rắn, thấy một bà già khóc trong đêm tối. Người ấy hỏi tại sao lại khóc. Bà già đáp: “Người ta giết con tôi cho nên tôi khóc.”
Người ấy hỏi: “Tại sao con bà bị giết?”
Bà già đáp: “Con tôi là con của Bạch Đế, hóa làm rắn nằm ngang giữa đường, nay bị con của Xích Đế chém, cho nên tôi khóc.”
Người ấy cho là bà già nói dối, định đánh thì bà ta bỗng biến mất.
Người sau đến. Cao Tổ tỉnh dậy. Anh ta kể cho Cao Tổ nghe đầu đuôi câu chuyện. Cao Tổ trong bụng mừng rỡ, lấy làm tự đắc.
Những người theo Cao Tổ ngày càng sợ Cao Tổ.
chén rượu Hồng Môn:xem hội Hồng Môn.
chén thù chén tạc / chén tạc chén thù: trong cuộc rượu đãi khách, trước tiên chủ nhà thường rót chén mời khách uống. Chén rượu từ tay người chủ rót để mời khách ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách tự tay rót chén rượu nâng lên mời chủ để trả lễ. Chén rượu do khách rót nâng lên mời chủ ấy là chén tạc.
Thành ngữ trên có nghĩa sự tiếp đãi nhau khi ăn uống.
Đoạn trường tân thanh:
Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Chế Bồng Nga: Theo Wikipedia_Chế Bồng Nga, Po Binasuor hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi Chế Bồng Nga (? – 1390), theo cách trong các tài liệu Trung Quốc, là tên hiệu của vị vua thứ ba thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Vương quốc Chiêm Thành. Là một vị vua kiệt xuất, có tài võ bị, trong thời gian cầm quyền ông chấn hưng Chiêm Thành từ một quốc gia suy đồi trở nên hùng mạnh.
Trong giai đoạn 1367–1389, ông từng 12 lần xua quân đánh Đại Việt nhằm tái chiếm các vùng đất Châu Ô và Châu Lý vốn được chuyển giao sang Đại Việt trong thời gian cai trị của Vua Chế Mân. Năm 1377, Vua Trần Duệ Tông dẫn đại quân phản công vào đất Chiêm. Chế Bồng Nga nhử quân Đại Việt đến thành Đồ Bàn, rồi đổ phục binh ra giết Vua Trần Duệ Tông cùng phần lớn quân Việt.
Thắng lợi này khiến triều đình Đại Việt khiếp đảm, sau này hễ Chế Bồng Nga bắc tiến là thượng hoàng Trần Nghệ Tông, các Vua Trần sau Duệ Tông, và bình chương Lê Quý Ly bỏ kinh thành chạy dài. Trong cuộc chiến này, Chế Bồng Nga ba lần đánh vào tận kinh đô Thăng Long.
Năm 1389, ông tử trận sau khi trúng phải đạn tại trận Hải Triều. Cái chết của ông khép lại một trang hùng sử trong lịch sử Chiêm Thành. Chế Bồng Nga được xem là vị vua vĩ đại cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành, bởi vì sau khi ông mất Chiêm Thành không còn quật khởi như trước được nữa.
chế khoa: khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
Đoạn trường tân thanh:
Chế khoa gặp hội tràng văn
Vương, Kim, cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Ý nói hai chàng Vương Quan và Kim Trọng cùng đỗ trong một khoa thi do vua đặc cách mở ra.
Chế Thắng phu nhân: nàng Nguyễn Bích Châu, cung nữ của Vua Trần Duệ Tông. Nhà Vua nam chinh tới Kỳ Hoa gặp gió to thuyền đi không được. Vua bèn trai giới bí mật cầu đảo, đặt người cung nữ ấy lên chiếc mâm vàng, để trôi trên mặt nước dâng cho Thủy thần. Do có chuyện báo ơn đó nên thường linh ứng. Người dân bèn lập đền thờ ở bên ngoài cửa bể. Nàng được phong là thượng đẳng thần. Vũng dưới gọi là Vũng Nàng (Nương loan).
chi thất: nhà ướp cỏ chi, ý chỉ nơi người quân tử.
Khổng Tử gia ngữ: ở cùng người quân tử như vào nhà ướp cỏ chi lam, lâu ngày hóa thơm mà không hay.
Hoa tiên:
Cạn lời lưu mới thưa rằng
Từ vào chi thất xem bằng long môn.
Chiêu Quân cống Hồ: xem Vương Chiêu Quân.
Chiêu Vương: thời Chiến Quốc, Yên Chiêu Vương xây một cái đài cao bên bờ Dịch Thủy, chứa hoàng kim ở trên đài để cung cấp cho hiền sĩ bốn phương, đặt tên là Chiêu Hiền đài, cũng gọi là Hoàng Kim đài. Bởi vậy tiếng Vua Yên trọng hiền truyền đi khắp nơi. Yên Chiêu Vương còn viếng người chết, thăm kẻ bồ côi, tôn lễ hiền sĩ, đồng cam cộng khổ với quân lính, vì vậy hào kiệt bốn phương theo về đông. Sau Chiêu Vương vì ham thuật thần tiên, sai phương sĩ luyện kim thạch làm thuốc thần, uống vào lâu ngày bị ngộ độc mà chết.
Kế khâu lãm cổ của Trần Tử Ngang:
Khâu lăng tận kiều mộc
Chiêu Vương an tại tai
Tản Đà dịch:
Cây cao phủ hết quanh đồi
Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?
chiến tranh Hán Sở: cuộc chiến giữa hai nước chư hầu là Hán do Lưu Bang (256–195 tCN) cầm đầu và Sở do Hạng Vũ (232–202 tCN) cầm đầu, diễn ra trong giai đoạn 205–202 tCN. Cuối cùng Lưu Bang thắng, thống nhất Trung Quốc, lập nên nhà Hán, xưng là Hán Cao Tổ.
Năm 220 tCN, Tần Thuỷ Hoàng (259–210 tCN) sau khi gồm thâu 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn, thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Một số vị vương từ các đất khác nhau nổi dậy sau sự sụp đổ của nhà Tần.
Trong giai đoạn đầu, Lưu Bang được biết đến với danh hiệu Bái Công, với chữ “Bái” là đề cập đến quê hương của ông.
Hạng Vũ xưng là Lỗ Công, bắt đầu nổi lên khi mang quân Sở đánh đánh bại tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (Tỉnh Hà Bắc). Bấy giờ thanh thế quân Sở át cả quân các nước chư hầu. Khi Sở đánh Tần, các tướng chư hầu đều đứng trên tường mà nhìn. Các chiến sĩ nước Sở ai cũng đủ sức một người chống lại mười người, tiếng reo hò của quân Sở vang trời, quân chư hầu không ai không run sợ. Do đó, sau khi đánh tan quân Tần, Hạng Vũ triệu tập tướng các nước chư hầu. Khi vào cửa viên môn, mọi người đều quỳ gối xuống mà đi tới, không ai dám ngẩng lên nhìn! Vì vậy, Hạng Vũ làm thượng tướng quân của chư hầu, các chư hầu đều ở dưới quyền Vũ.
Lưu Bang thừa dịp, đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần nhưng tha chết cho Vua Tần và không làm hại gì đến cung điện, châu báu…
Hạng Vương đem binh về hướng tây làm cỏ thành Hàm Dương, giết Vua Tần đã đầu hàng là Tử Anh, đốt cung thất nhà Tần, lửa cháy liền ba tháng không tắt, thu của cải châu báu, phụ nữ đem về đông.
Trở thành người đứng đầu chư hầu, Hạng Vũ phân chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu, và phong 19 người làm vua. Trong đó có Lưu Bang bị đẩy đi làm Hán Vương cai trị đất Ba, đất Thục và đất Hán Trung xa xôi, đóng đô ở Nam Trịnh. Lại chia Quan Trung (vùng đất trung tâm của nước Tần cũ) làm ba phần, phong vương cho ba tướng Tần đã đầu hàng gọi là Tam Tần, để họ chẹn đường của Hán Vương:
- Chương Hàm làm Ung Vương, cai trị trung tâm Thiểm Tây và phía đông Cam Túc ngày nay.
- Tư Mã Hân làm Tắc Vương, cai trị phía đông bắc Cam Túc.
- Đổng Ế làm Địch Vương, cai trị phía bắc Cam Túc.
Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở Bá vương, cai trị chín quận, đóng đô ở Bành Thành. Năm 206 tCN, các chư hầu đều bãi binh và trở về nước mình. Từ đây, Hán của Lưu Bang và Sở của Hạng Vũ tạo nên hai phái kình địch nhau rõ rệt.
Hạng Vũ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bậc hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt…
Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 7 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt.
Hán bắt đầu chiến dịch bằng cách cất quân đánh bại Tam Tần.
Năm 204 tCN, Hạng Vương mấy lần đem quân đánh cướp đường ống của Hán. Hán Vương thiếu lương thực, lo sợ xin hòa, cắt đất từ Huỳnh Dương sang phía đông về Hán. Hạng Vương muốn nghe theo. Phạm Tăng tham mưu đánh Hán. Hạng Vương bèn cùng Phạm Tăng vây Huỳnh Dương rất gấp.
Hán Vương lo lắng, bèn theo kế của Trần Bình ly gián Hạng Vương. Kết quả là Hạng Vương nghi Phạm Tăng tư thông với Hán nên tước bỏ quyền của Tăng. Phạm Tăng từ chức, rồi nổi ung ở lưng mà chết. Từ đây, không có ai làm quân sư cho Hạng Vũ.
Năm 203 tCN, Hạng Vương tiến quân vây Thành Cao, Hán Vương bỏ trốn ra khỏi cửa bắc Thành Cao với Đằng Công, vượt qua Hoàng Hà, chạy đến Tu Vũ, nhập vào quân của Trương Nhĩ, Hàn Tín. Các tướng đều dần dần ra khỏi Thành Cao, đi theo Hán Vương.
Dần dà bên quân Hán mạnh lên, lương nhiều, còn quân của Hạng Vương mệt nhọc, lương hết. Lưu Bang sai sứ nói với Hạng Vương xin trả lại cha của Lưu Bang là Thái Công đang bị bắt làm con tin. Hạng Vương không nghe. Hán Vương bèn giao ước chia đôi thiên hạ: từ Hồng Câu về tây là thuộc Hán, từ Hồng Câu về đông là thuộc Sỏ,
Sau khi giao ước, Hạng Vũ rút quân về hướng đông.
Lưu Bang muốn đi về hướng tây. Trương Lương, Trần Bình can: “Hán đã có được hơn một nửa thiên hạ, chư hầu đều theo. Nước Sở quân sĩ mệt, lương thực hết, chính là lúc trời làm mất nước Sở. Chi bằng nhân cơ hội này mà đánh lấy. Nay tha không đánh, tức như lời người ta nói: ‘nuôi hổ để lại gây mối lo cho mình về sau’!”
Hán Vương nghe theo.
Năm 202 tCN, Hán Vương theo đánh Hạng Vũ đến phía nam Dương Hạ, đóng quân lại đấy, hẹn với Hàn Tín, Bành Việt, hứa phong vương cho hai người.
Hàn Tín, Bành Việt đều báo: “Xin tiến quân tức thì.”
Năm 202 tCN, Hàn Tín và Bành Việt mang đại quân đến họp. Các cánh quân cùng vây đánh Hạng Vũ ở Cai Hạ. Quân Hán quá đông khiến Hạng Vũ không địch nổi, phải rút vào thành Cai Hạ, binh ít, lương hết! Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng Vũ nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở. Hạng Vương kinh hoảng nói: “Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở đông như thế?”
Hạng Vũ lên mình ngựa, tráng sĩ cưỡi ngựa ở dưới cờ hơn tám trăm người, đang đêm phá vỡ vòng vây, xông ra phía nam, phi ngựa chạy. Đến tảng sáng, quân Hán mới biết, sai kỵ tướng là Quán Anh mang năm ngàn kỵ binh đuổi theo. Hạng Vũ vượt qua Sông Hoài, quân kỵ theo kịp chỉ còn hơn trăm người.
Hạng Vũ đến Âm Lăng lạc đường, hỏi một cụ già làm ruộng. Cụ già nói dối, bảo: “Đi qua bên trái.”
Hạng Vũ rẽ qua bên trái, sa vào trong đồng lầy, cho nên quân Hán đuổi kịp. Hạng Vũ lại đem quân đi về phương đông, đến Đông Thành, bấy giờ chỉ còn hai mươi tám kỵ binh. Kỵ binh Hán đuổi theo mấy ngàn.
Hạng Vũ muốn đi sang phía đông, vượt Ô Giang. Người đình trưởng Ô Giang cắm thuyền đợi, bảo Hạng Vương: “Giang Đông tuy nhỏ, đất hàng ngàn dặm, dân vài mươi vạn, cũng đủ làm vương. Xin đại vương mau mau vượt sông. Nay chỉ một mình thần có thuyền, quân Hán đến không có cách gì vượt qua.”
Hạng Vũ cười mà rằng: “Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa! Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?”
Bèn bảo đình trưởng: “Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này, năm năm nay đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nỡ giết, xin biếu ông.”
Hạng Vũ bèn sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Một mình Hạng Vũ giết mấy trăm quân, thân bị hơn mười vết thương. Cuối cùng, sức tàn lực kiệt, Hạng Vũ tự đâm cổ chết.
Hạng Vũ chết rồi, đất Sở đều hàng Hán, riêng Lỗ không chịu hàng. Hán liền đem quân cả thiên hạ đến muốn tiêu diệt dân Lỗ. Nhưng vì Lỗ biết giữ lễ nghĩa, vì chúa chịu chết để giữ khí tiết, Lưu Bang bèn sai mang đầu Hạng Vũ đến cho dân Lỗ xem. Phụ huynh nước Lỗ bèn đầu hàng. Lúc đầu, Sở Hoài Vương phong Hạng Vũ làm Lỗ Công, đến khi Vũ chết, nước Lỗ đầu hàng cuối cùng cho nên chôn cất Hạng Vũ ở Cốc Thành theo lễ Lỗ Công. Lưu Bang cử ai, khóc, rồi đi.
Dòng họ Hạng Vũ đều không bị Hán Vương giết. Hán Vương phong bốn người họ Hạng tước hầu, cho đổi họ làm họ Lưu.
Năm 202 tCN, Lưu Bang lên làm Hoàng đế nhà Hán. Triều đại Hán kéo dài đến năm 220.
Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều đàn cho Kim Trọng nghe:
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.
Có một giai thoại liên quan tới Hán, Sở.
Một ông quan cùng triều với Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), có hai bà vợ mà hai bà lại hay ghen tuông cấu xé nhau, thành ra trong nhà cứ lục đục luôn, có khi om sòm, làm kinh động cả chung quanh.
Mạc Đĩnh Chi thấy vậy liền làm tặng ông quan ấy một câu đối để dán ở hậu đường như sau (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):
Sang Đông Vua Hán thắng, sang Tây Vua Sở thắng, quyền ở nơi bác
Đánh Đông rợ Tây oán, đánh Nam rợ Bắc oán, sao không đến ta?
Chỗ khéo léo của đôi câu này là hoàn toàn lấy trích dẫn trong sách, mà lại vẫn bao hàm được ý nghĩa trào lộng bóng bẩy tả cảnh khổ của một ông hai bà. Cho nên ông quan biết vậy mà vẫn không giận vào đâu được.
Vế trên từ câu trong Hán thư, Trương Lương bảo Hàn Tín: “Sang Đông thì Hán thắng, sang Tây thì Hạng được, tùy ở ông đấy.”
Vế dưới từ câu trong Kinh Thư: “Vua một nước yêu thích đức nhân sẽ là người vô địch trong thiên hạ. Ông ấy đánh Nam thì Bắc địch oán, đánh Đông thì Tây di oán, ai cũng trách sao không đến với mình trước.”
Có một giai thoại khác thời cận đại.
Lễ cưới xong, rượu ngà ngà, chú rể mới về động phòng thì thấy cửa phòng khóa. Ngó đi ngó lại không thấy lối vào, anh bèn gọi hầu gái của cô dâu. Cô hầu cười, chỉ một tờ giấy đỏ dán trên cột: “Cô nói tướng công đối được câu này thì mới cho con mở cửa.”
Câu đối viết:
Hang Thiên Thai then khóa động đào, đóng chặt lại kẻo chàng Lưu quen lối cũ.
Cô dâu tả cảnh mình lúc ấy mà lại dùng điển tích Lưu Nguyễn lạc thiên thai, kể ra không dễ đối.
Rượu phất phơ, nghĩ một hồi chú rể nói: “Tưởng gì, ngươi mang giấy ra cho ta đối.”
Giấy mang ra rồi, anh cầm bút viết:
Cửa Hàm Cốc lỏng khuôn tạo hóa, mở toang ra cho ông Bái dẫn quân vào!
Chú rể lấy sự kiện Bái Công nhà Hán dẫn quân vào cửa Hàm Cốc để chọi lại. Câu của cô dâu ra tuồng gây khó khăn, nhưng câu của chú rể tỏ rõ mệnh lệnh, vừa chỉnh vừa tỏ lộ tính cách vượt trội.
Câu đối của Vũ Khiêu viếng thi sĩ Phạm Huy Thông (1916-1988):
Tưởng cầm kỳ thi họa thong dong, bỗng bát ngát Ô Giang hồn Hạng Tịch
Đang nam bắc đông tây hò hẹn, sao vội vàng tiên cảnh gót Lưu lang.
Lưu lang: rất có thể là chàng Lưu, trong tích Lưu, Nguyễn lạc Thiên Thai.
Chiết liễu: bài nhạc phổ cho sáo, tương truyền do Trương Khiên đem về từ Tây Vực. Còn có tên là Chiết dương liễu, gợi nỗi buồn người đi chinh chiến hoặc kẻ xa nhà.
Chiếu Dời đô: năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn (974–1028) được đưa lên làm vua, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý.
Lý Công Uẩn thấy thành Hoa Lư (Ninh Bình) chật hẹp, kinh tế (nông, công, thương) kém phát triển, giao thông gặp nhiều khó khăn…, không đủ làm chỗ ở của đế vương, bởi vậy ông quyết định dời đô ra Đại La (Hà Nội) vào năm Thuận Thiên thứ nhất (1010). Nhà Vua tự tay viết Chiếu Dời đô tức Thiên đô Chiếu. Bài Chiếu Dời đô được bố cục chặt chẽ, lời văn khúc triết, đầy sức thuyết phục. Đầu tiên nhà Vua đưa ra một vài ví dụ xưa, ca ngợi và chứng minh sự dời đô của các vua Trung Quốc đã đem lại sự phồn thịnh cho đất nước:
Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy.
Mục đích và lợi ích của việc dời đô của các vua Trung Quốc là:
mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh.
Sau đó nhà Vua phê phán và nêu tác hại của việc không dời đô của các vua đời trước:
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây.
Và hậu quả là:
đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt.
Sau khi nghiên cứu từ cổ tới kim, tác giả xem xét hiện tại, phân tích vị trí thành Đại La và thấy rằng:
thành Đại La … ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu–hổ phục, chính giữa nam–bắc–đông–tây, tiện nghi núi sau–sông trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh”.
Nhà Vua khẳng định vị trí trọng yếu của thành Đại La đối với việc xây dựng và phát triển đất nước:
Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Và cuối cùng nhà vua quyết định:
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở.
Tháng 7 năm ấy, Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Đại La. Thuyền đỗ ở dưới thành, thấy Rồng Vàng hiện lên Thuyền Ngự, nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long (nghĩa là rồng bay lên). Sau đó, ông cho xây dựng kinh thành đàng hoàng, nhân dân các nơi đổ về làm ăn sinh sống vui vẻ. Trong những năm trị vì, ông thường xuyên chăm lo ổn định tình hình chính trị, củng cố thống nhất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, ngoại giao, cải cách chế độ thuế khóa, đề cao Phật giáo, tổ chức lại bộ máy nhà nước, v.v…
Chiếu Dời đô tức Thiên đô chiếu là bài văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Có ý kiến cho rằng Chiếu Dời đô thể hiện ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước, khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia.
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên viết:
Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này.
Theo ý kiến của GS Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long, là tác phẩm khai sáng văn học triều Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được tinh thần dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
Ca dao vùng Hoa Lư ngày nay còn lưu truyền về sự tiếc nuối của người dân cố đô khi tiễn đoàn thuyền dời đô cũng như tâm trạng của Thái tử Lý Phật Mã như sau:
Dập dìu cánh hạc chơi vơi
Tiễn thuyền Vua Lý đang dời kinh đô
Khi đi nhớ cậu cùng cô
Khi về lại nhớ cá rô Tổng Trường.
Bản khắc mộc ghi lại nguyên bản toàn bộ nội dung Chiếu Dời đô của Vua Lý Công Uẩn được tìm thấy năm 2010 trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt, Lâm Đồng).
Phạm Thị Huệ (2015) ghi:
Mộc bản bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó khắc Chiếu Dời đô của Lý Công Uẩn đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV có thể là bản khắc từ thời Lê (1697). Cũng có giả thiết cho rằng, Đại Việt sử ký toàn thư được khắc lại vào thời Nguyễn (khoảng 1802-1807). Về vấn đề này, để đi đến kết luận, cần phải có thời gian và có sự nghiên cứu kỹ hơn của các nhà chuyên môn.
Năm năm sau khi phát hiện mộc bản mà vẫn “cần phải có thời gian” để xác định mộc bản này được khắc vào thời Lê hay thời Nguyễn. Công việc khó khăn đến thế sao? Trong khi phương pháp đồng vị phóng xạ có thể định niên đại của bản gỗ được dùng để khắc chữ, và có thể được thực hiện nhanh chóng. Cho đến tháng 78-2020, không tìm thấy thông tin trên Internet cho biết chính xác niên đại của mộc bản Chiếu Dời đô.
PGS TS Trần Ngọc Vương – Chủ nhiệm bộ môn Văn học Trung Đại, Khoa Văn học Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN – và dịch giả Thế Anh cho biết, việc quan sát qua hình ảnh chụp lại chưa thể khẳng định hết mọi chi tiết nhưng sơ bộ thì khắc mộc Chiếu Dời đô có hai điểm khác biệt so với các bản thường dùng hiện nay.
Trước hết, đây có thể là văn bản khắc trước đời Nguyễn vì không thấy kiêng húy chữ “hoa” đời Nguyễn, bởi chữ “hoa” là tên của mẹ Vua Minh Mạng.
Đây cũng không phải là ván khắc đời Chính Hòa, vì bản Chính Hòa dùng chữ Đế vương, trong khi ở đây dùng chữ Kinh sư.
Như vậy, với những cơ sở trên có thể khẳng định rằng mộc bản Chiếu Dời đô nằm trong khoảng lịch sử trước thời Nguyễn và sau thời Chính Hòa (1697).
Nguồn: Phạm Thị Huệ (2015), Trần Tuấn (2010), Wikipedia_Bản khắc mộc Chiếu Dời đô, Wikipedia_Chiếu Dời đô.
Chiếu Dời đô được đưa vào giảng dạy trong sách Giáo khoa Ngữ Văn 8, THCS từ 2004, với mục đích cho thấy “sức thuyết phục to lớn của Chiếu dời đô” và nhấn mạnh “Lý Công Uẩn là người thông minh, nhân ái , có chí lớn”.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Minh Khiêm (2012), trong thực tế có không ít những phân vân, những điều khó lý giải thấu đáo, trong quá trình giảng dạy bài Chiếu dời đô.
1/ Về tác giả:
Trong tác phẩm Chiếu Dời đô, không có dòng nào thể hiện rõ Lý Công Uẩn là người “thông minh, nhân ái, có chí lớn”. Như vậy là, sách giáo khoa (SGK) cũng như sách giáo viên (SGV) nhấn mạnh cái không hề có trong tác phẩm Chiếu Dời đô.
Câu kết của bài Chiếu Dời đô, tác giả viết : “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” Vấn đề nảy sinh câu hỏi ở đây là, “chỗ ở” của vua khác kinh đô một nước như thế nào? Nó có khác không? Tại sao Lý Công Uẩn không nói “Trẫm muốn chọn nơi này làm kinh đô Đại Việt”? Khi giảng, dù giáo viên có cố lái chỗ ở của vua cũng là kinh đô, đồng nhất với kinh đô của đất nước thì cái tầm của vua, cái chí của vua không rạng rỡ được, không có sức thuyết phục bởi cái thực tế rất đơn giản, rất tầm thường của con chữ: “định chỗ ở”.
Còn câu hỏi: “Các khanh nghĩ thế nào?” hoàn toàn là hình thức. Nó thể hiện hai ý: Một, tính quyết đoán của vua không cao, không dứt khoát, không mạnh mẽ; Hai, nó thể hiện vua chỉ hỏi lấy lệ. Bởi vì, chiếu vua không phải là chỗ tham khảo ý kiến. Chiếu vua là chỉ thị, là mệnh lệnh. Chiếu vua không phải là thứ còn trưng cầu ý kiến. Sự thật, vua không lắng nghe ai cả ở câu hỏi này.
2/ Về tác phẩm:
Lý Công Uẩn viết: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành vương cũng ba lần dời đô”… Giảng như thế nào về các dẫn chứng Lý Công Uẩn nêu ra trong bài ? Mục đích chỉ vì đóng đô ở trung tâm, mưu nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu? Đây là cách lập luận để dời đô của Lý Công Uẩn. Nhưng khi giảng về sự kiện này có rất nhiều vấn đề nảy sinh. Rất nhiều câu hỏi nghịch được đặt ra. Khoan hãy nói tới tính chính xác các lần dời đô của hai nhà Thương, Chu. Hãy nhìn vào thực tế lịch sử Trung Quốc cổ đại xem dời đô nhiều thế có phải là do muốn cháu con hưng thịnh hay không ? Không phải thế. Sở dĩ nhà Thương, nhà Chu phải dời đô nhiều như thế vì giặc dã quấy phá liên miên, chiến tranh huynh đệ tương tàn liên miên. Các nước thi nhau xưng hùng xưng bá. Vua này lên ở kinh đô cũ không ổn, không được lòng dân ở đó, sợ bị tiêu diệt nên phải dời đến nơi đất mới. Và cuối cùng bị tiêu diệt. Đó là sự thật. (Điển hình cho sự thật này là trường hợp Hồ Quý Ly ở nước ta sau này). Học trò không biết điều đó nhưng giáo viên biết. Lịch sử biết. Người thầy không thể vì sự áp đặt của SGV hướng dẫn mà làm sai lệch sự thật lịch sử. Một khía cạnh khác ẩn trong lập luận là, học sinh dễ hiểu một quy luật tất yếu: muôn đất nước hưng thịnh thì phải dời đô; không dời đô là bảo thủ. Trong thực tế nước ta, thời đại các vua Hùng hàng nghìn năm, sản sinh ra nền văn minh trống đồng rực rỡ, có dời đô lần nào đâu?
Mở đầu đoạn 2, Lý Công Uẩn viết: “Huống gì thành Đại La, Kinh đô cũ của Cao Vương”… Cao Vương là Cao Biền. Đây là viên tướng của nhà Đường, được vua Đường phong chức Tiết Độ Sứ, cai quản Giao Châu (tức Đại Việt) năm 866–875. Sau Cao Biền làm phản nhà Đường, bị vua Đường bắt, giết năm 887. Cao Biền tàn sát dân tộc ta vô cùng tàn khốc trước khi đặt được ách đô hộ. Trong thời gian cai trị (10) năm, Cao Biền cho đắp thành Đại La, (sau gọi là La Thành). Đại La là Lỵ sở của Cao Biền chứ không phải là Kinh đô của Cao Vương như Lý Công Uẩn ghi. Vả lại, nói Kinh đô cũ của Cao Vương là không đúng. Vì Cao Biền chỉ được phong tước Vương, là quan, được nhà Đường cử sang cai trị nước ta chứ Cao Biền không phải là Vua. Nơi quan ở làm việc sao gọi là Kinh đô được? Vậy khi giảng đến các chi tiết này, giáo viên có dám nói thật cho học sinh hay không? Ai bảo học sinh không hỏi về Cao Biền? Ai bảo không có những câu hỏi Đại La là đất muôn đời tại sao Cao Biền chỉ cai trị được 10 năm? Dẫn chứng và lập luận của Lý Công Uẩn chỗ này đầy mâu thuẫn. Nó thể hiện, Lý Công Uẩn không có kiến thức sâu, rộng, uyên bác; tác giả cố nói lấy được. Nếu giảng theo kiểu bưng bít thì học trò phải chịu. Nhưng lương tâm người thầy không cho phép thế. Phương pháp giảng dạy văn chương là phải để cho câu chữ tự nói, tác phẩm tự nói. Học sinh tự thấm.
Sau khi đưa một loạt dẫn chứng dời đô của các triều Thương, Chu (Trung Quốc), Lý Công Uẩn giáng một câu: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền!”… Tại sao Lý Công Uẩn lại mỉa mai, chê bai hai nhà Đinh, Lê ghê thế? Lý Công Uẩn có phải được sinh ra từ Tiền Lê hay không ? Vậy chỗ này giảng về đạo lý làm người, uống nước nhớ nguồn; giảng về nhân cách làm người, cho học sinh như thế nào ? Quả là vô cùng khó. Còn nguyên nhân ai làm cho nhà Tiền Lê không được lâu bền? Có phải Lý Công Uẩn không? Tại sao khi còn là đại thần trong triều, Lý Công Uẩn không hiến kế cho Lê Hoàn dời đô? Rất nhiều câu hỏi học sinh có thể hỏi.
3/ Về gợi ý, hướng dẫn giảng dạy:
Sách giáo khoa có 4 câu hỏi lớn cho học sinh “đọc–hiểu” bài văn. Cả bốn câu đều chung một chiều thuận là hướng học sinh trả lời đến cái đích mà yêu cầu đặt ra. Chỗ nào SGV cũng định hướng GV “nhấn mạnh” theo chủ quan người biên soạn chứ không xuất phát từ tác phẩm. Điển hình cho loại dẫn dắt đó là câu 4: “Chứng minh Chiếu Dời đô có sức thuyết phục to lớn bởi có sự kết hợp giữa lý và tình”. Có nghĩa là, tất cả cùng một dạng áp đặt, trả lời ý chung chung. Không hề có một câu hỏi nào tìm, cảm nhận cái hay, cái đẹp của từ ngữ, hình ảnh.
Nhìn vào toàn bộ hệ thống câu hỏi định hướng cho học sinh, cả SGV và SGK không hề dẫn dắt cho học sinh tự khám phá tác phẩm, tự tìm ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà định ra một hệ thống câu hỏi, một hệ thống các ý trả lời mang tính sắp đặt. Thực tế “mệnh trời” và “cái đúng của người xưa” lại là những cái rất mơ hồ, không hề có căn cứ. Điều này trái với phương pháp dạy văn và học văn, trái với phương pháp dạy học hiện đại là phát huy trí lực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học trò; người thầy chỉ làm nhiệm vụ gợi mở, dẫn dắt.
Không có tác phẩm văn chương nào được đưa vào chương trình Ngữ Văn THCS mà tính hai mặt của nó lại rõ, phức tạp, nhiều phân vân trong giảng dạy như Chiếu Dời đô của Lý Công Uẩn.
chim chắp cánh, cây liền cành: xem chắp cánh, liền cành.
chim sa, cá lặn từ lạc nhạn, trầm ngư: Theo một diễn dịch ẩn dụ từ truyền thuyết liên quan đến hai người đẹp có vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
“Chim sa” liên quan đến Vương Chiêu Quân. Tương truyền, trong chuyến đi Hung Nô gả cho Thiền vu, khi Vương Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, Chiêu Quân cầm cây đàn tỳ bà, đàn một khúc gọi là Xuất tái khúc. Có một con nhạn (ngỗng trời) bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ “lạc nhạn” (chim nhạn sa) do đó mà có để liên kết với thần thái của Vương Chiêu Quân.
“Cá lặn” liên quan đến Tây Thi. Tương truyền, khi Tây Thi giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong vắt làm cô thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng cô là “trầm ngư”, tức khiến cho “cá lặn”.
Ðời sau, các nhà văn thường dùng cụm từ “chim sa cá lặn” để nói về sắc đẹp quyến rũ của phụ nữ.
Xem thêm các mục: Vương Chiêu Quân và Tây Thi.
Bích Câu kỳ ngộ, mô tả vẻ đẹp của Giáng Kiều:
Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời.
Cung oán ngâm khúc:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng lưng trời, nhạn ngẩn ngơ sa.
Theo diễn dịch khác (ít được biết đến): Nam hoa kinh của Trang Tử thời Chiến Quốc chép Mao Tường và Lệ Cơ là hai phụ nữ rất đẹp, cá thấy thì chìm vào chốn hang sâu, chim thấy thì bay cao (ngư kiến chi nhập thâm, điểu kiến chi cao phi). Ý Trang Tử muốn nói rằng mọi sự trên đời đều là tương đối. Mao Tường, Lệ Cơ tuy đẹp, song chỉ đẹp đối với người, chứ biết đâu trông thấy họ cá chẳng sợ mà lặn sâu, chim chẳng sợ mà bay cao?
Người sau hiểu khác hẳn nguyên ý ấy của Trang Chu. Sách Thông tục biên dùng thành ngữ “trầm ngư lạc nhạn” tức “ cá lặn chim sa” để chỉ nhan sắc phụ nữ cực đẹp.
chim Việt: loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn, vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín, lại thêm có nhiều hoa quả. Trái lại ở phương Nam vì mới giao mùa, lúa vừa đọng sữa, cây trái hiếm. Do đó, chim Việt phải đổ sang đấy kiếm ăn.
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm tổ, chúng chọn cành cây hướng về phương Nam, tức là phương của quê nhà mà chim sinh trưởng.
“Chim Việt” và “chim Việt cành Nam” chỉ lòng nhớ nước.
Trinh thử – Hồ Huyền Qui:
Chỉ con chim Việt đỗ rày cành Nam.
Cổ thi:
Hồ mã tê Bắc phong
Việt điểu sào Nam chi
Nghĩa là:
Ngựa Hồ hí gió Bắc
Chim Việt đậu cành Nam
Xem thêm: ngựa Hồ.
chim xanh: chỉ người đưa tin. Hán Vũ cố sự: Ngày mồng 7 tháng 7, Vua Hán Vũ Ðế ngồi ở điện Thừa Hoa bỗng có con chim xanh bay đến đậu trước điện. Vua hỏi, Ðông Phương Sóc tâu: “Thế chắc Tây Vương Mẫu sắp đến đấy!” Một lát sau, quả nhiên Tây Vương Mẫu đến, có hai người thị nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước. (Lời chua sách Ðường Thi).
Đoạn trường tân thanh:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
Xem thêm mục: lá thắm.
chín chữ: do từ Cửu tự cù lao, cù: siêng năng, lao: khó nhọc; chỉ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ.
Theo Thích Viên Thành (2014), chín chữ này là:
1/ Sinh: Cha mẹ đẻ ra
2/ Cúc: Nâng đỡ
3/ Phủ: Vỗ về vuốt ve
4/ Súc: Cho ăn bú mớm
5/ Trưởng: Nuôi dưỡng thể xác
6/ Dục: Giáo dưỡng tinh thần
7/ Cố: Trông xem – nhìn ngắm
8/ Phục: Quấn quít – săn sóc không rời tay
9/ Phúc: ẳm bồng, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, sợ con bị ăn hiếp.
Kinh Thi: Xót thương cha mẹ ta, sinh ta ra siêng năng khó nhọc… Cha ta sinh ta ra, mẹ ta nâng đỡ ta từ trong bụng, Cha mẹ ta đã vỗ về, nuôi nấng cho ta bú mớm, bồi bổ cho ta khôn lớn, dạy cho ta lời khôn lẽ phải, lo lắng theo dõi khi ta đi đâu, dựa theo tính ta mà khuyên răn ta, che chở, giữ gìn cho ta. Muốn báo đền ơn đức cha mẹ, công đức đó như trời rộng, không có giới hạn.
Thạch Sanh:
Ðội ơn chín chữ cù lao
Ba xuân tấc cỏ nghĩ sao cho đành.
Lục Vân Tiên:
Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
chín cõi: Gọi chung cả thiên hạ, vì Trung Quốc xưa chia làm chín châu (Ký, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Ung, Lương).
Ly tao:
Nghĩ chín cõi mênh mông rộng rãi
Phải riêng đây có gái kén chồng?
Ðường xa xin chớ ngại ngùng
Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
chín trời: cửu thiên: chín phương trời, ý nói sự bao la.
Lã Thị Xuân Thu: Trung ương là Quân thiên, Ðông là Thượng thiên, Ðông bắc là Biến thiên, Bắc là Huyền thiên, Tây Bắc là U thiên, Tây là Hạo thiên, Tây Nam là Chu thiên, Nam là Viêm thiên, Ðông Nam là Dương thiên,
chính khí: chí khí của người ngay thẳng, khí chất lớn lao mạnh mẽ của trời đất phú cho con người.
Văn Thiên Tường đời Tống có bài Chính khí ca, ca ngợi những người trung nghĩa lẫm liệt thời xưa, đều giữ toàn được cái chính khí của trời đất phú cho.
Bài Chính khí ca được cụ Phan Bội Châu dịch để cổ vũ lòng yêu nước, nhưng người đầu tiên truyền bá tư tưởng Chính khí ca là cụ Nguyễn Đình Chiểu (Chú Nguyễn Ðình Chiểu toàn tập).
Ở Việt Nam, sau khi thành Hà Nội thất thủ, Nguyễn Văn Giai cũng mượn ý làm thành bài Hà Thành chính khí ca biểu dương việc Hoàng Diệu tuẫn tiết.
chỉ hồng: từ chữ xích thằng, do điển xích thằng hệ túc (dây đỏ buộc chân), chỉ việc nhân duyên do trời định.
Đoạn trường tân thanh, lúc Kim Trọng ướm chuyện trăm năm. Thúy Kiều thưa:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Ý nói cho dù Nguyệt lão có khi xe duyên, mẹ cha vẫn có quyền quyết định.
Xem mục: Nguyệt lão.
Ghi chú: có diễn giải cho rằng “chỉ hồng” liên quan đến điển tích “tơ hồng” mà Quách Nguyên Chấn rút ra theo may rủi để chọn vợ. Tuy ý nghĩa gần giống nhau là liên hệ với nhân duyên, có sự khác biệt về cơ bản: điển tích “tơ hồng” là về sự chọn lựa của đôi lứa theo may rủi, còn “xích thằng” hoặc chỉ hồng chỉ sự ràng buộc về nhân duyên đã định sẵn mà con người không thể chọn lựa.
Xem thêm mục: lá thắm.
chỉ Nam xa: Một loại xe có máy nhận ra phương hướng thời xưa. Theo Tống sử, năm thứ 5 đời Vua Nhân Tông, quan Lang trung bộ Công là Yên Thúc bắt đầu chế tạo chỉ Nam xa, có sớ tâu lên Vua nói: “Hoàng đế đánh nhau với Xuy Vưu ở Trác Lộc. Xuy Vưu ra phép làm sương mù dày đặc, quân lính không còn biết phương hướng nào nữa. Hoàng đế mới bày chế ra chỉ Nam xa. Ðến đời Chu Thành Vương, Việt Thường khi đưa đồ cống phải 2 lần dịch khi nói chuyện. Ðến lúc trở về, sứ giả quên mất đường. Chu Công lấy chỉ Nam xa cho đưa sứ giả về.”
chị Hằng: xem Hằng Nga.
chó gà Tề khách: chỉ những người có tài vặt nhưng hữu dụng.
Trong số các tân khách nhà Mạnh Thường Quân nước Tề có người có tài vặt bắt chước tiếng chó sủa, gà gáy.
Ðông Chu Liệt Quốc: Mạnh Thường Quân là tướng nước Tề được phái sang sứ nước Tần. Mạnh Thường Quân cùng hơn nghìn tân khách, hơn 100 cỗ xe theo hướng Tây mà đi đến Hàm Dương vào yết kiến Vua Tần. Vua Tần nghe gièm có ý định giết Mạnh Thường Quân.
Mạnh Thường Quân muốn có chiếc áo cầu lông trắng để biếu Yêu Cơ (Thiếp yêu của Vua Tần) để nhờ nàng xin hộ Vua Tần. Mạnh Thường Quân dò hỏi khắp tân khách xem có ai có thể kiếm được chiếc áo cầu đó hay không. Ai nấy đều im không đáp. Sau đó có người khách nói là có thể giả làm chó vào kho trộm lại chiếc áo cầu đã biếu Vua Tần để biếu Yêu Cơ. Người khách quả đã làm được điều đó. Nhờ đó Yêu Cơ mới nói giúp Vua Tần cho Mạnh Thường Quân về Tề.
Mạnh Thường Quân sợ Vua Tần đổi ý bèn ngay đêm hôm ấy gấp đường ra đi. Ðến cửa Hàm Cốc mới vào nửa đêm, cửa quan đã khóa chặt từ lâu rồi. Mạnh Thường Quân sợ có quân đuổi theo, mong ra khỏi cửa quan ngay nhưng cửa quan đến gà gáy mới mở. Mạnh Thường Quân lo sợ, bồn chồn. Trong đám hạ khách có người khác bắt chước được tiếng gà gáy bèn cất tiếng gáy lên. Bao nhiêu gà quanh đó đều gáy theo. Cửa quan mở, Mạnh Thường Quân cùng quan khách qua cửa quan gấp đường về Tề.
Ông bảo hai người khách kia rằng: “Từ nay được thoát khỏi miệng hùm là nhờ sức chó sủa gà gáy đó.”
Xem thêm Mạnh Thường Quân.
Chu: Nhà Chu thời cổ Trung Quốc (1122–249 tCN), tính ra 874 năm. Khởi đầu từ Chu Vũ Vương nhà ân tới khi Chu Noãn Vương bị nhà Tần diệt. Tổng cộng truyền 31 đời, 35 vị vua.
Nhà Chu gồm Tây Chu và Ðông Chu.
Theo Nguyễn Hiến Lê (1983), nhà Chu chỉ thịnh được trong khoảng trăm năm đầu, rồi từ đời Mục Vương thế kỷ 10 tCN, các vua đều tầm thường, tới đời vua thứ 12, U Vương (thế kỷ 8 tCN) thì vào hạng Kiệt, Trụ, vì mê nàng Bao Tự, bị bộ tộc Khuyển Nhung ở phía tây vào chiếm kinh đô rồi giết, chư hầu lập con là Bình Vương lên thay. Bình Vương sợ bị bộ tộc phía tây tấn công nữa, năm 770 tCN dời đô sang phía đông, tới Lạc Ấp, nơi Vũ Vương đã cho lập một thị trấn để dời một số dân nhà Thương lại đó vì ngại họ nổi loạn. Từ đây bắt đầu thời Đông Chu, và cũng bắt đầu thời suy vi của chế độ phong kiến.
Chế độ này tuy có ưu điểm như đã kể nhưng cũng có nhược điểm.
- Nó không thể vững lâu được vì phải dựa vào quyền của thiên tử nhà Chu. Mà nhà Chu thì phải cắt dần đất đai phong để cho các vương hầu công khanh nên mỗi ngày một hẹp lại, trông vào sự cống hiến của chư hầu thì không được bao nhiêu, vì danh nghĩa còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh, do đó càng ngày càng nghèo đi.
- Chư hầu trái lại, ở xa kinh đô nhà Chu, tự ý mở mang đất đai, thôn tính kẻ yếu ở chung quanh, hùng cứ một phương. Vì vậy số bộ lạc cứ giảm dần từ 1600 xuống 1000, 500… 100, mà các chư hầu hùng cường đất đai mỗi ngày một rộng, gấp năm gấp mười thiên tử. Những chư hầu nhỏ bị chư hầu lớn ức hiếp, cầu cứu với thiên tử, thiên tử không cứu nổi, thế là chế độ chỉ còn có cái danh mà không có cái thực.
- Một lẽ nữa là đế quốc rộng quá, sự cai trị khó quá. Các chư hầu lo giải quyết những khó khăn của chính họ, khuếch trương thế lực của họ, không quan tâm tới chính quyền trung ương nữa, không biết tới thiên tử nữa.
Do những lẽ kể trên mà nhà Chu ở Lạc Dương mỗi ngày một thu nhỏ lại, nhà vua chỉ còn cái danh là thiên tử, mất hết quyền hành, không có quân đội, tuy khỏi lo bị các bộ tộc xâm chiếm vì có các chư hầu ở Bắc và Tây che chở, nhưng lại phải tùy thuộc bọn chư hầu hùng cường đó, có khi chính họ đặt mình lên ngôi thiên tử nữa để thi hành mỗi một chức vụ là tế Trời, Đất mỗi năm và lâu lâu đóng một vai trò trọng tài bất lực và bất đắc dĩ trong những vụ xung đột nhỏ giữa các chư hầu. Triều đình nhà Chu chỉ có một số quan ít ỏi và vô tài, chẳng có việc gì để làm và quyền hành không lan ra khỏi miền lân cận của kinh đô.
Tới thời Chiến Quốc, Tần có lần đòi chín cái đỉnh (tượng trưng cho quyền lực) của Chu, Triệu lấy tế điền (ruộng mà hoa lợi dùng vào việc tế lễ) của Chu; và khi các chư hầu đều tự xưng vương cả – tức tự coi mình ngang hàng với Vua Chu – thì Vua Chu cũng phải khép nép tâng họ lên là vương và tự xưng là tiểu quốc.
Xem thêm: Xuân Thu Chiến Quốc.
Chu Bột: Người chép sử thời Hán. Xem Viết Châu biên sách Hán.
Chu Công: Theo Thông Chí, Chu Công người đời nhà Chu (1135-221 tCN), họ Cơ tên Ðán, là em Chu Vũ Vương, chú Chu Thành Vương, có tài trị nước. Nhà Thương (Ân) truyền được 600 năm thì đến Vua Trụ tên Ân Thọ là người dâm bạo. Văn Vương Cơ Xương vẫn phò tá nhà Ân nhưng đến con là Vũ Vương tên Cơ Phát hội các chư hầu phạt Trụ, diệt nhà Ân lên ngôi, đóng đô ở Cảo Kinh, đặt quốc hiệu là Chu, tức là Tây Chu.
Vũ Vương làm vua, em là Chu Công Đán giúp việc chính trị, tôn trọng chiêu đãi người hiền. Chu Công xem gương hưng vong của các đời Đường, Ngu, Hạ, Thương, thấy rằng chỉ là do chư hầu (các tù trưởng) phục hay bất phục nên đem đất đai chiếm được phong lại cho các tù trưởng cũ. Chỉ có các địa điểm trọng yếu thì phong cho các công thần cùng con em để khống chế chư hầu cũ và làm hàng rào cho vương thất.
Chư hầu mới cũ đều theo đất phong lớn nhỏ mà chịu tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Đất phong của Công, Hầu là 100 dặm vuông, của Bá là 70 dặm, của Tử, Nam là 50 dặm. Người được đất không đến 50 dặm gọi là phụ dung.
Chu Công lại đặt ra lễ nhạc, mỗi nghi thức ở triều đình, mỗi trật tự trong gia tộc đều được quy định chặt chẽ. Về nông nghiệp, Chu Công đặt ra phép tỉnh điền: một khoảng đất rộng chừng 5, 6 trăm mẫu chia làm 9 khu theo hình chữ “tỉnh” 井, tám gia đình chia nhau 8 khu ở chung quanh và phải chung sức cày cấy khu ở giữa, gọi là công điền, để nộp cho vua. Phép tỉnh điền có lợi là làm cho đất đai tài sản nhân dân khỏi chênh lệch.
Sử chép dưới triều này, nước Việt Nam lúc bấy giờ gọi là Việt Thường, sai sứ sang cống chim bạch tử. Chu Công chế xe chỉ nam (nguồn gốc của địa bàn) để đưa sứ ta về nước, phòng lạc đường. Đây là một thời cực thịnh của đời nhà Chu mà phần lớn do tài đức của Chu Công xây dựng.
Ở ngôi được 13 năm, Vũ Vương mất, Thành Vương còn nhỏ. Chu Công giữ quyền nhiếp chính để phò ấu chúa. Có bọn bầy tôi cũ của Vua Trụ phao ngôn là ông sẽ cướp ngôi của cháu. Thấy Thành Vương không trị tội kẻ phao vu tin nhảm mà còn tỏ ý hoài nghi, ông bèn trả chức vị lui về ấp riêng. (Có sách chép: Quản Thúc là em Vũ Vương ganh tị mới đặt điều tung lời gièm pha, ý nói Chu Công sẽ làm hại Thành Vương. Thành Vương nghe lời gièm. Chu Công phải lánh sang Ðông Ðô.)
Chu Công soạn tập thơ Xuy hiền gởi cho nhà vua. Thành Vương xem xong, lấy làm hối hận, lại rước Chu Công về làm phụ chính.
Chu Công chẳng những có tài về chính trị còn có đức tính quý trọng kẻ sĩ người hiền. Khi tắm gội hay đương ăn cơm, nghe có kẻ sĩ đến, ông liền bới tóc hay nhả cơm ngay để ra đón tiếp.
Theo Sử ký, Chu Công răn ông Bá Cầm rằng: “Một buổi tắm gội, ta phải bới tóc ba lần, một bữa ăn ta phải nhả cơm ba lần để đứng dậy ra tiếp kẻ sĩ. Thế mà còn lo không thu phục được người hiền trong thiên hạ đấy!” Từ đó, có câu Chu Công thổ bộ (Chu Công nhả cơm), ý nói trọng vọng kẻ sĩ. Đó là một tấm gương sáng cho những người lãnh đạo việc nước cần phải quý trọng kẻ sĩ, trọng người hiền để tìm bậc hiền tài cùng mình lo đại cuộc cho đất nước.
Bài Đoản ca hành của Tào Tháo thời Tam Quốc có câu (Tử Vi Lang dịch thơ):
Núi sông cách trở là bao
Chu Công trọng vọng, anh hào về theo.
Chu Dịch: Theo Kinh Dịch đời nhà Chu, đây là bộ sách triết học rất cổ của Trung Quốc nói về lẽ biến chuyển (dịch) của tự nhiên và xã hội. Sách có 8 quẻ chính (Bát quái), mỗi quẻ nguyên có 3 hào (3 vạch), sau chồng lên thành 6 hào. 8 quẻ có 6 hào này lại giao đối với nhau thành 64 quẻ, 384 hào, thể hiện lẽ biến chuyển của vũ trụ và xã hội loài người.
Trong xã hội cũ, Chu Dịch thường được khai thác theo các mặt huyền bí dùng làm sách bói toán.
Chu Đôn Di: thủy tổ nền lý học nhà Tống, có làm quyển Thái cực đồ thuyết và Thông thư, thầy của hai ông Trình Di, Trình Hạo.
Chu Hy: đỗ tiến sĩ đời nhà Tống, học hiểu thấu mọi sự vật rồi sau quay vào thực tiễn. Nền lý học đời nhà Tống đến ông này mới thực hoàn toàn.
Chu Khánh Dư (797-825): người Việt Châu (nay là Thiện Hưng, Chiết Giang) đỗ Tiến sĩ năm 826. Trước khi đi thi, Khánh Dư làm bài thơ Khuê ý với câu đầu là “Ðộng phòng tạc dạ đình hồng chúc” dâng lên Trương Tịch, lúc này đang làm chức Thủy Bộ lang trung. Trương Tịch làm thơ đáp lại, nhờ đó tiếng tăm họ Chu lan rộng khắp nơi, được Trương Tịch rất hâm mộ đề cao.
Chu Lang cố: có nghĩa Chu Lang ngoảnh lại. Chu Lang tức Chu Du, năm 24 tuổi làm Đô đốc thống lĩnh toàn quân đội Đông Ngô (thời Tam Quốc). Chu Du rất sành âm nhạc, nghe đàn đến chỗ nào có nhầm lẫn dù đang ngà say cũng ngoảnh lại nhìn người biểu diễn. Ở nước Ngô có câu Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố (Khúc đàn có điểm lạ, Chu Lang ngoảnh lại). Trong bài thơ Minh tranh (Gảy đàn tranh), Lý Đoan dùng điển cố này để miêu tả tâm tình của người nhạc kỹ – cố tình gảy sai để được người say chú ý.
Chu Tử: Chu Hy, một nhà luận lý học đời Tống, thuyết của ông được gọi là Khảo Đình học phái.
Chung tư trập trập: tên một bài thơ trong Kinh Thi chúc tụng cảnh con đàn cháu đống. Chung tư là tên một loài châu chấu, mỗi lần đẻ rất nhiều, trứng nở thành đàn châu chấu con. Lời tự nói: “thơ Chung tư là thơ chúc tụng các bà hậu phi con cháu đông đúc, là nói các bà như loài châu chấu, không lòng ghen ghét nên con cháu đông đúc vậy”.
Chuyện trại Tây: Truyền kỳ mạn lục: Xưa có người học trò tên Hà Nhân, quê ở Thiên Trường. Khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư tòng học cụ Ức Trai (Nguyễn Trãi). Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc Giang. Trong phường có cái trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái sư triều Trần, thường gặp hai người con gái trong vườn. Sinh làm quen và đi lại ân ái, cuối cùng mới vỡ lẽ ra đó là hồn ma của những cây hoa, cây liễu trong vườn.
Chúa Chổm: mỹ danh mà dân gian ưu ái đặt cho Vua Lê Trang Tông (1515–1548), là vị hoàng đế thứ 12 của nhà Hậu Lê và là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết. Tương truyền, Vua Lê Chiêu Tông bị giam nhưng vẫn giấu được ấn “ngọc tỷ truyền quốc”. Có cô bán rượu xinh đẹp, ăn nói có duyên, người làng Lủ (Kim Lũ) gần bên sông Tô Lịch thường mang rượu, bánh đến bán cho lính canh ngục, thấy nhà Vua bị giam cô rất thương tình. Cha cô trước là một viên quan nhỏ của nhà Lê, đau lòng trước cảnh nhà Lê gặp vận suy vong mà nhà Vua chưa có con nối nghiệp, nên bày cho con gái chuốc rượu cho quân canh, rồi lẻn vào ăn nằm với nhà Vua.
Một hôm, nàng cho nhà Vua biết là nàng đã có thai, đồng thời lại báo tin là họ Mạc định bức tử nhà vua. Vua vẫn bình thản trao cho nàng một ngọc ấn mà từ lâu đã giấu kín trong đai áo, đoạn buồn bã dặn: “Nếu đứa con của chúng ta sau này là trai thì đó là ý trời muốn nhà Lê còn cơ hội trung hưng và đây là một chứng vật, không ai chối cãi được nó là dòng dõi đế vương. Còn nếu nó là gái thì nàng hãy liệng ngọc ấn giữa dòng, đừng để cho một kẻ nào lợi dụng!”
Sau đó, Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết. Cô gái làng Lủ nhớ lời dặn của vua, trốn đi nơi khác, sinh ra một con trai đặt tên là Chổm. Cậu bé lớn lên, vẻ người tuấn tú khác thường, ai cũng tấm tắc khen. Nhà nghèo, Chổm phải đi làm thuê và kiếm củi nuôi mẹ. Có lắm khi phải nhịn đói, uống nước lã cầm hơi. Nhưng Chổm mắc phải cái tật ăn chơi ngông nghênh, nợ nần nhiều, mẹ con thiếu thốn vất vả. Tương truyền người nào được Chổm mua mở hàng cho thì bán rất đắt. Các chủ hàng cho là Chổm nhẹ vía nên khi thấy Chổm thì thi nhau mời chào bán hàng cho kỳ được. Chổm bảo không tiền và hẹn chừng nào Chổm làm ăn khá giả sẽ trả. Họ rất đồng ý. Do đó, Chổm thiếu nợ ngày càng nhiều.
Sau đó vài năm, có Nguyễn Kim là vị tướng trung thành với triều Lê, muốn phù Lê diệt Mạc. Ông muốn tìm dòng dõi Vua Lê để tái lập triều đình nên mới nhờ một bốc sư suy đoán việc tiền trình. Bốc sư trịnh trọng tuyên bố: “Dòng Lê nào đã hết đâu! Hiện nay Chiêu Tông vẫn còn một hoàng tử cuối cùng và vẫn sống lang thang khắp xứ. Nếu có ý muốn tìm, thật chẳng khó. Cứ thấy một thanh niên có tiếng tốt, đầu đội mũ sắt, mình ngồi kiệu cối xay thì hẳn là đúng đó. Người ấy sẽ đem nhà Lê và non sông trở về với phong thái cũ.”
Nguyễn Kim mừng lắm, hạ lệnh cho nha lại đi tìm.
Bấy giờ Nguyễn Kim đóng binh ở biên giới Việt–Lào để chống với Mạc Đăng Dung, cũng là lúc Chổm đang lang bạt ở đấy. Một hôm, Chổm vừa trong một quán rượu đi ra bỗng gặp một trận mưa rào đổ xuống. Chổm không dù không nón, nhân tìm thấy một cái chảo bỏ không, liền chụp ngay đội lên đầu che mưa. Tiếng náo động của trận mưa làm con chó đương ngủ bên đường thức dậy. Nó lại thấy Chổm lạ kỳ quá nên sủa vang lên và đuổi theo. Chổm đâm hoảng, chạy bổ vào nhà người, nhảy ngay lên một cái cối xay lúa ở hàng ba mà tránh.
Quân sĩ của Nguyễn Kim vừa từ trên đường đi tập trận về, xa xa trông thấy dáng Chổm thì la lớn: “Vị hoàng tử mà tướng công ta tìm kiếm, chắc là người đội chảo sắt và ngồi kiệu cối xay kia!”
Chổm nghe được, tưởng là quân Mạc đuổi bắt mình nên hoảng hốt, ù té chạy. Từ đấy, mẹ con Ninh thấp thỏm lo âu, đem nhau sang đất Lào, tạm sống bằng nghề thợ nhuộm. Tuy cuộc sống không sung túc gì, nhưng ở đây xa lạ, không ai biết được tông tích nên mẹ con Chổm tự thấy đỡ khổ đôi phần.
Một hôm, nhân bại trận, Nguyễn Kim rút binh sang Lào. Ông rất ngạc nhiên khi đi ngang qua một căn nhà nhỏ, vách đất cột tre, trước cửa có dán một câu đối bằng chữ Hán:
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều đình chu tử tận ngô môn.
Dịch:
Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Đỏ tía triều đình tự cửa ta.
Đọc sơ qua, ý nghĩ tuy biểu lộ được chủ nhân làm nghề thợ nhuộm, nhưng suy ngẫm kỹ thì bên trong còn hàm súc một khí phách phi thường làm cho Nguyễn Kim chú ý. Ông liền ghé vào nhà ân cần gạn hỏi và nói thật nguyện vọng của mình.
Quả thật Nguyễn Kim không lầm. Người mà ông mơ ước từ lâu bỗng nhiên xuất hiện. Mẹ con Chổm kể lại đoạn đời đau khổ vừa qua và trao ngọc ấn làm tin.
Nguyễn Kim rước Chổm về Thanh Hóa, cử đại binh đánh Mạc. Chổm được suy tôn đế vị, tức là Lê Trang Tông.
Tương truyền lúc Chổm được Nguyễn Kim xe giá rước về Thanh Hóa, khi ngang qua làng cũ, chỗ mẹ con Chổm lánh nạn, một số người bán chịu cho Chổm ngày xưa đổ lại đòi tiền. Họ không biết Chổm làm ông gì nhưng thấy được đi xe giá, quân lính hộ vệ thì chắc là Chổm đã thành đạt, nên họ nhắc lại lời hứa của Chổm. Có nhiều người không phải là chủ nợ nhưng thừa nước đục thả câu, cũng đổ xô lại yêu cầu, đòi hỏi. Người người tấp nập đầy đường.
Nhà Vua không biết ai và cũng không biết làm sao mà trả cho hết nên truyền miễn thuế một năm cho dân cả làng để trừ. Mặt khác, triều đình ra lệnh cấm những người đòi nợ chỉ tay xúc phạm nhà Vua. Do đó con đường nhỏ có tên là Cấm Chỉ – ngõ có tên tồn tại đến ngày nay ở Hà Nội.
“Nợ như chúa Chổm” trở thành một thành ngữ chỉ những người thiếu nợ quá nhiều.
Ca dao:
Vua Ngô ba sáu tấn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm mắc nợ tì tì
Thác xuống âm phủ kém gì Vua Ngô!
Chùa Bà Đanh: xem: vắng như Chùa Bà Đanh.
Chùa Thầy: Theo Wikipedia_Chùa Thầy, Chùa Thầy là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, Xã Sài Sơn, Huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía tây-nam, đi theo đường cao tốc Láng– Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là Núi Thầy, nên chùa được gọi là Chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, người có công lớn trong việc dạy học, chữa bệnh cho dân và sáng lập ra bộ môn múa rối nước, lúc Núi Thầy còn được gọi là Núi Phật Tích. Phần chính của Chùa Thầy gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất.
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.

Giữa Ao Long Chiểu có thủy đình, là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.
Chùy Bác Lãng sa: xem cắp dùi Bác Lãng.
Chương Đài: địa danh. Theo sách Thái bình quảng ký: Hàn Hoành, đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được, có gửi cho Liễu thị bài từ (Nguyễn Chí Viễn dịch):
Liễu Chương Đài, liễu Chương Đài
Ngày trước xanh xanh nay có lẽ
Dù vẫn cành dài nguyên vẹn rủ
Cũng tay người khác vin cành bẻ!
Liễu thị sau đó đáp lại bằng bài Dương liễu chi, lời lẽ rất bình dị nhẹ nhàng, mà ý nghĩa hàm súc. “Cành dương liễu đáng hận năm năm tặng ly biệt” cũng như nàng mấy năm bị Hàn viên ngoại bỏ đi xa, khiến nàng phải sầu. Một lá vàng báo tin thu, là liễu bị tàn tạ, cũng như nàng cũng đã giảm dung nhan, thời đâu còn xuân sắc, chắc chàng có thể trở lại cũng không còn tha thiết, trả lời châm đối chua cay, mai mỉa rất thấm thiết.
Đoạn trường tân thanh:
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi thăm về Thúy Kiều.
Chức cẩm hồi văn: có nghĩa “Bài văn trên gấm”, tác giả là nàng Tô Huệ. Về nhân vật này có khá nhiều truyền thuyết khác nhau. Theo Phạm Xuân Hy (2013), Tô Huệ sinh khoảng 357 dưới triều Tiền Tần trong thời kỳ “Ngũ Hồ thập lục quốc”. Tô Huệ từ nhỏ dung mạo mỹ lệ, thông minh hơn người. Nàng được cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thời giờ trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúc và hết sức ngợi khen nàng.
Theo Tấn thư và “Chức cẩm hồi văn thi tự” trong Biệt phú của Giang Yểm, Đậu Thao làm An Nam Tướng quân nhà Tiền Tần có nhiều thành tích, được thăng đến Thứ sử Thần Châu, sau bị nịnh thần đố kỵ hãm hại, bị giáng chức và đầy đến Lưu Sa (nay là vùng sa mạc Bạch Long Thán ở Tân Cương).
Đậu Thao từ biệt vợ lên đường. Tô Huệ thề nguyền một lòng chung thủy. Nàng ngày đêm tưởng nhớ chồng, hôm nào cũng làm thơ để tả nỗi lòng thương nhớ chồng của mình. Chẳng ngờ, lòng người thay đổi, Đậu Thao ở Lưu Sa lại lấy một sủng thiếp khác là Triệu Dương Đài, một người con gái xinh đẹp và có tài ca múa.
Tô Huệ được tin đó, dồn nén tất cả thương nhớ vào tâm hồn, bằng tài thi văn của mình nàng viết Chức cẩm hồi văn và dệt lên lụa với nội dung diễn đạt hết sức bi thiết về nỗi nhớ chồng. Bài Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ khá độc đáo bởi sự thể hiện qua một đồ hình lạ lẫm với tất cả 280 chữ (trong đó có 32 chữ lớn, 248 chữ nhỏ). Thoạt tiên, khi nhìn vào, người ta có cảm giác như một họa đồ trang trí, nhưng kỳ thực đây lại là một bài thơ hồi văn được sắp xếp theo một quy ước, một trật tự do người sáng tác tự nghĩ ra.

Có người ra biên ải, Tô Huệ nhờ trao bài thơ ấy cho Đậu Thao. Nhưng người đưa thư mà không hiểu nội dung viết gì, e ngại trong thư có lời lẽ phản nghịch, lo sợ vạ lây, nên chuyển thư về triều đình.
Thư Chức cẩm hồi văn đến tay vua Hán. Thấy lạ, Vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng.
Đứng giữa triều, nàng Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm.
Dưới đây là bản dịch thơ của TS Hồ Ðắc, mà Hồ Đắc Duy (2010) cho rằng có các chữ và nghĩa gần giống và sát nghĩa nhất của Tô Huệ:
Chàng lãnh chiếu, dẹp yên ngoài cõi
Tiễn đưa người tới lối cầu sông
Ngậm buồn, ngăn lệ, nhủ cùng
Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau
Từ dạo ấy tin đâu vắng vẻ
Ðể phòng the lạnh lẽo đêm xuân
Trước thềm rêu phủ xanh dần
Trong màn bụi bám mấy lần nào hay.
Buổi chia tay lòng đầy kinh hãi
Biết làm sao gặp lại chàng ơi!
Xin làm biển nọ trăng soi
Xin làm mây lạnh trên đoài non xa.
Mây lạnh đó năm qua còn thấy
Biển năm năm trăng trẩy biên cương
Tới lui trăng vẫn bên chàng
Nghìn trùng vạn dặm có nhường thấy chăng?
Ðường thăm thẳm quan sơn cách trở
Hận vì chàng sao ở quá lâu
Ngày đi vàng cánh hoa lau
Mà chừ trắng xóa cả màu bạch mai.
Hoa nghiêng ngã gặp ngày xuân sớm
Nỗi niềm xuân biết ngỏ cùng ai
Thùy dương lá rụng chàng ơi
Hoa rơi ngập đất ai người quét đây?
Trước sân đầy cỏ xuân thơm ngát
Chốn họa đường ôm chiếc tần tranh
Giang Nam dạo khúc vì chàng
Gởi tình em đến Bắc phương cõi ngoài.
Nơi phương Bắc xa xôi vời vợi
Vạn dặm đường tin tới hay không?
Gối, khăn lệ đẫm từng dòng
Áo vàng, lụa vẽ hoa cùng rưng rưng.
Ba xuân đến, qua sông tiếng nhạn
Khác chi người xa bạn người ơi!
Ruột đứt, đàn vẫn còn hoài
Ðàn chưa trọn khúc, đau nay đã thành.
Chàng nhớ thiếp nặng tình như núi
Thiếp nhớ chàng khôn nỗi nào khuây
Cúi dâng một bức gấm này
Vua tha chàng sớm được quay trở về.
(10 bài thất ngôn có tất cả 280 chữ, 10 bài thơ dịch thất ngôn cũng có tất cả 280 chữ)
Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Bài thơ thật sự gây được ấn tượng thẩm mỹ cho người xem, người đọc từ hình thức trình bày đến nội dung chữ nghĩa. Nhà Vua cảm động trước tấm lòng sắt son và tài thi phú của một người phụ nữ, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Tần Thao, tuy chỉ là một viên tướng võ, hiểu được ngay tấm chân tình của Tô Huệ đối với mình. Tần Thao lập tức trả nàng Triệu Dương Đài về nhà, và đón Tô Huệ đến sống với mình.
Từ đó phu thê hết mực ân ái mặn nồng như cũ.
Lối thơ hồi văn có nhiều biến thể: hoặc đọc xuôi hoặc đọc ngược hoặc quay đi quay lại nhiều vòng) để có nhiều bài thơ khác nhau; hoặc có nhiều biến thể về hình thức như xếp trong hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình thoi… tạo nên những đồ hình (vừa phô diễn trí tuệ của người thể sáng tạo, vừa thách đố trình độ thưởng thức của khách thể thẩm mỹ). Để tìm ra cách đọc, người ta phải mất nhiều thời gian trong quá trình tìm phương pháp, mỗi một bài thơ lại có một phương pháp đọc được quy ước theo nhiều cách riêng.
Cách đọc Chức cẩm hồi văn: Bắt đầu từ góc trên bên trái (theo hình bản chữ hán) đi men theo đường biên trên cùng sang đến góc phải rồi lần xuống men theo hết đường biên bên phải. Rồi từ đây đọc ngược lên theo hướng ngoằn ngoèo chữ chi. Cứ theo đường chữ chi lên xuống dần dần từ bên phải sang, khi đến đường biên bên trái thì đọc ngược lên đến hàng chữ lớn. Bắt đầu từ đây đọc theo vòng xoáy ốc từ ngoài vào giữa ngược chiều kim đồng hồ.
Chinh phụ ngâm khúc:
Đề chữ gấm phong thôi lại mở
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trong nghệ thuật đờn ca tài tử Việt Nam có một số điệu dựa theo nội dung của bài Chức cẩm hồi văn.
Chức cẩm hồi văn điệu Nam ai–Nam xuân:
NSƯT Út Bạch Lan – https://www.youtube.com/watch?v=dga69BJEJaU
Tô Huệ chức cẩm hồi văn điệu Nam ai:
Kim Thanh – https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/nam-ai-to-hue-chuc-cam-hoi-van-don-ca-tai-tu-kim-thanh.mOBgrs520SeH.html
Tô Huệ chức cẩm hồi văn điệu Đảo ngũ cung:
Kim Thanh – https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/to-hue-chuc-cam-hoi-van-kim-thanh.wYLt0x2dgJB7.html
Chức Nữ: xem Ngưu Lang Chức Nữ.
Chữ Ðồng Tử: Truyền thuyết dân gian: Thời Hùng Vương, ở vùng Khoái Châu có người tên Chữ Ðồng Tử, nhà nghèo, không có cả chiếc khố che thân. Tình cờ Chữ Ðồng Tử gặp được Công chúa Tiên Dung, con gái Vua Hùng trên bãi sông. Hai người lấy nhau rồi thành tiên bay lên trời. Nơi ấy còn để lại dấu tích là bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ.
con cà con kê: Theo Trịnh Mạnh (2003), Nông dân ta thường gieo hạt cà, hạt kê thành từng đám. Khi cây non mọc, người ta nhổ lên, bó từng bó nhỏ gọi là con, rồi mới đem cấy ở luống. Công việc trồng cà, trồng kê rất lâu, rề rà, vì phải tách ra từng cây giống trước khi cấy vào luống.
Vì vậy thành ngữ này thường dùng với từ để chỉ thói quen nói dài dòng hết chuyện này đến chuyện khác, ví dụ như các câu “kể lể con cà con kê” hoặc “nói chuyện cà kê”.
con gái hiền trong sách: Theo Liêu trai chí dị, Lang Ngọc Trụ là một thư sinh ở Bành Thành rất mê sách, suốt ngày chỉ cặm cụi đọc sách. Lúc còn sống, thân phụ anh có viết một bài “khuyến dụ” dán ở chỗ ngồi có câu: Lấy vợ đừng giận vì không có người nối dõi, trong sách có người đẹp mặt như ngọc.
Ngọc Trụ ngày thường ngâm đọc, ngoài 30 tuổi vẫn chưa lấy vợ vì anh ta một lòng tin tưởng trong sách sẵn có mỹ nhân, lo gì mà chẳng có vợ.
Một hôm, đêm đã khuya, chàng đang còn mải mê đọc bộ Hán thư đến nửa quyển thứ 8 thì thoáng thấy một hình mỹ nhân nhỏ nằm ép trong sách. Chàng giật mình nghĩ bụng chắc cô gái dung nhan như ngọc ở trong sách là đây chăng? Nhìn kỹ mặt mày thấy như người, một lúc thì mỹ nhân cử động rồi mỉm cười, lớn lên bằng người thật, rõ ràng là tuyệt thế giai nhân, từ từ bước xuống.
Ngọc Trụ kính cẩn hỏi rằng: “Nàng là vị thần tiên nào giáng thế?” Người con gái đáp: “Thiếp họ Nhan, tên Như Ngọc, vốn biết chàng đã từ lâu và cũng đã được chàng để ý đến. Nếu thiếp không đến gặp chàng thì chắc sẽ làm chàng không còn tin lời cổ nhân nữa” Ngọc Trụ mừng lắm bèn cùng Như Ngọc kết làm vợ chồng.
Lấy nhau được 2 năm, Như Ngọc từ biệt đi mất vì Ngọc Trụ không bỏ được thú mê sách.
Bích câu kỳ ngộ:
Ðã người trong sách là duyên
Mấy thu hạt ngọc Lam Điền chưa đông.
Xem thêm: Lam Điền.
con tạo / hóa nhi: chỉ tạo hóa với ý cuồng phóng, trách móc tạo hóa như đứa trẻ hay đặt bày cho người đời lắm chuyện oái oăm, bất thường như trò trẻ con, là do chữ tạo hóa tiểu nhi trong tiếng Hán.
Ðường thư: Ðỗ Thẩm Ngôn bệnh nặng, Tống Chí Vấn đến thăm hỏi. Họ Ðỗ nói: Thậm vi tạo hóa tiểu nhi sở khổ (Thật bị trẻ tạo hóa làm đến khổ).
Đoạn trường tân thanh:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Để xem con tạo xoay vần đến đâu
con thỏ trên cung trăng: Theo sách Ngũ thông kinh nghĩa, trong mặt trăng có con thỏ hay con cóc.
Cỏ Ngu hay Cỏ Ngu mỹ nhân: Ngu mỹ nhân (Ngu Cơ) là vợ Sở Vương Hạng Vũ.
Hán, Sở giao binh tại Cai Hạ. Đây là trận cuối cùng quyết định thắng bại của đôi bên.
Tướng soái của Hán Vương Lưu Bang là Hàn Tín đem hùng binh siết chặt vòng vây, quyết tiêu diệt Sở Bá Vương Hạng Vũ. Bị vây suốt mấy hôm, quân Sở, người thiếu lương, ngựa thiếu cỏ, trong một đêm chúng bỏ trốn gần hết. Chỉ còn hai tướng là Hoàn Sở và Chu Lan.
Sở Hạng Vũ được tin báo, ra trướng nhìn quanh. Quân Sở bấy giờ chỉ còn độ hơn ngàn người. Sở Vương kinh hãi, buông tiếng thở dài não ruột, quay trở vào. Sở hậu là Ngu Cơ đón tiếp, hỏi: “Việc quân hôm nay ra sao mà thiếp thấy sắc diện đại vương có chiều ê ủ?”
Sở Vương nói: “Lưu Bang thất phu, ngờ đâu có chí lớn. Quân ta sinh biến đã bỏ đi hết. Nay binh Hán đánh phá rất gấp, một mình ta khó mong địch lại. Nếu thoát khỏi vòng vây trở lại đất Giang Đông mới mong mưu đồ khôi phục, nhưng nghĩ đến nàng, lòng ta vô cùng chua xót.”
Ngu Cơ nghe nói nghẹn ngào, tức tưởi khóc: “Thiếp mong ơn đại vương luyến ái, tình sâu ghi khắc vào lòng. Nay bước cùng, đại vương muốn bỏ thiếp đi xa làm lòng thiếp như dao cắt ruột.”
Đoạn nàng nắm chặt lấy áo Sở Vương, nước mắt lai láng. Cả hai bịn rịn không muốn lìa nhau. Sở Vương khiến kẻ tả hữu bày rượu ra, uống với Ngu Cơ vài chén, đoạn cất tiếng ca, lời rất bi tráng (dịch Nôm):
Sức khổ núi chừ khí hơn đời
Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi
Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao?
Ngu ơi! Ngu ơi! biết làm sao?
Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hòa lại (dịch Nôm):
Binh Hán cướp lấy đất
Bốn bề tiếng Sở kêu
Đại vương ý khí hết
Mạng sống thiếp phải liều.
Chu Lan và Hoàn Sở vào trướng, thúc giục, yêu cầu nhà Vua sớm ra đi. Trời sắp sáng. Sở Vương nhìn Ngu Cơ nghẹn ngào: “Thôi, từ nay vĩnh biệt, xin nàng bảo trọng!”
Ngu Cơ hỏi: “Đại vương ra khỏi vòng vây, vậy còn thiếp?”
Sở Vương say đắm nhìn Ngu Cơ, nói: “Cứ như nhan sắc của nàng, Lưu Bang trông thấy tất phải lưu dụng, liệu không đến nỗi chết, nàng có lo gì!”
Ngu Cơ đầm đìa nước mắt, nói: “Thiếp xin đi lẫn với ba quân, theo ra khỏi vòng vây. Nếu không ra được, xin chết trước mặt bệ hạ để âm hồn được theo bệ hạ về đất cũ.”
Sở Vương ngậm ngùi bảo: “Dũng sĩ áo giáp dày, khí giới sắc còn khó mong đi thoát, huống chi thân kiều mị như nàng đương nửa chừng xuân, để hoa rụng thật muôn vàn đáng tiếc. Ta không nỡ.”
Ngu Cơ nói: “Thiếp xin mượn thanh gươm của đại vương, sẽ thay áo đi theo đại vương.”
Sở Vương rút gươm đưa cho. Ngu Cơ cầm lấy, khóc nói rằng: “Thiếp chịu ơn đại vương rất hậu, không lấy chi báo đáp, thôi xin liều một chết báo đền.”
Vừa dứt lời, nàng mạnh tay đưa gươm vào cổ, kết liễu một đời tài sắc. Sở Vương bưng mặt khóc.
Thương cảm người liệt nữ, người ta chôn xác Ngu Cơ tử tế. Trên mộ nàng mọc 2 khóm cỏ, ngày đêm cứ quấn quýt vào nhau, tục gọi “cỏ Ngu mỹ nhân” (Ngu mỹ nhân thảo).
Tăng Tử Cố, một văn sĩ đời nhà Tống làm bài Ngu mỹ nhân thảo có câu (Hoàng Khôi dịch thơ):
Hương hồn theo ánh gươm vàng
Huyết rơi nay hóa mấy hàng cỏ xanh.
cô quả: cô và quả đều có nghĩa đen là đơn độc (như trong cụm từ “cô nhi quả phụ”), được dùng trong tiếng tự xưng khiêm tốn “cô” và “quả nhân” của vua chúa đời xưa, cho rằng mình là người đơn độc, tỏ ý cần được bầy tôi phù trợ. Nói là khiêm tốn nhưng không phải ai tự xưng như thế cũng được, nếu tự xưng mà không có danh chính ngôn thuận sẽ bị trừng phạt.
Đoạn trường tân thanh, mô tả Từ Hải có vị thế như vua chúa:
Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.
Cô Tô:
1/ Tên cũ của kinh đô nước Ngô dưới triều Vua Hạp Lư (trị vì: 514-496 tCN), sau này mang tên Tô Châu.
2/ Bến Cô Tô, được nhắc đến trong bài thơ Phong Kiều dạ bạc.
3/ Tên đài do Ngô Vương Phù Sa xây cho Tây Thi, nằm trên Núi Cô Tô bên ngoài Thành phố Tô Châu, bị phá hủy vào năm 473 tCN. Về sau, Cô Tô gắn liền với tên tuổi Tây Thi.

Viên Viên khúc – Ngô Vĩ Nghiệp, đoạn so sánh Trần Viên Viên với Tây Thi
Nhà ở Cô Tô làng giặt vải
Tên tự Viên Viên đẹp lộng lẫy
Thường mơ tới chơi vườn Phù Sai
Cung nữ đưa vào vua đứng dậy.
(Cô Tô ở đây vừa là tên Thành phố Tô Châu sau này, vừa nhắc đến Đài Cô Tô do Phù Sa xây cho Tây Thi.)
Côn Lôn nô: hiệp khách thường giúp cho những lứa đôi chia lìa nhau được sum họp (Tình sử).
Côn Sơn: Núi ở xã Chi Ngại, Phương Sơn, Hải Hưng, nay là Huyện Chí Linh, Hải Hưng.
Thời Trần Ðế Nghiễn, Hồ Quý Ly tiếm quyền. Ông ngoại Nguyễn Trãi là quan Tư đồ Trần Nguyên Ðán, thấy vận nhà Trần sắp mất bèn xin về nghỉ hưu ở núi này và đặt tên là Thanh Hư động, ông mất ở đây năm 1390.
Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở Côn Sơn với ông ngoại, thời Minh chiếm cũng có lần về Côn Sơn. Kháng Minh thành công, ông làm quan triều Thái Tổ, Thái Tông. Có thời gian ông xin về ở ẩn nơi đây.
công cốc: Cốc là một loài chim mình đen như quạ, có tài lặn dưới nước để bắt cá mà ăn. Nhiều nông dân thuần dưỡng cốc để kiếm cá cho gia đình. Họ cho cốc đeo một chiếc vòng bằng đồng quanh cổ. Hễ bắt được cá nhỏ, cốc có thể nuốt được. Nhưng nếu bắt được cá to, cốc đành chịu. Cũng có người chủ huấn luyện cho cốc bắt cá mà không cần đeo vòng cổ. Cốc bắt được con cá nào sẽ mang lên cho chủ. Thỉnh thoảng chủ cho cốc ăn một con cá nhỏ, hoặc cá to không có giá trị. Chủ nuôi sẽ được cá to đem bán.
Truyền thống bắt cá bằng chim cốc bắt nguồn từ xưa ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Người ta thường thấy phương pháp câu này trên các dòng sông và lòng hồ, với hình ảnh ngư dân chim cốc đã được huấn luyện chăm chỉ hụp lặn bắt từng con cá, ngậm trong mỏ rồi trồi lên nhả cá vào thuyền. Phương pháp này được nhắc tới lần đầu trong văn bản ghi chép vào năm 636 về lịch sử triều đại nhà Tùy ở Trung Quốc.

Hiện nay, hình thức bắt cá bằng chim cốc thường áp dụng chủ yếu cho mục đích du lịch. Du khách có dịp đi trên sông, hồ có cảnh đẹp, lại có thể xem hoạt động cốc bắt cá đầy lý thú.
“Công cốc” nói lên ý tốn nhiều công sức mà không được hưởng thành quả.
công danh chi nữa, ăn rồi ngủ: Lấy ý câu thơ Phù thế công danh thực dữ biên khi Tô Ðông Pha ca ngợi Trương Hàn nhân việc Hàn tiên đoán việc Quýnh bị giết hại.
Bài thơ gọi là Tam hiền tán (dịch Nôm):
Công danh cõi đời không gì bằng ăn với ngủ
Quý Ưng thực là người tiên trong miền sông nước
Không cần phải nói là sớm tri cơ
Chỉ việc ăn canh thuần gỏi vược đã là người giỏi.
Miền sông nước: chỉ miền Ngô Giang, quê hương Trương Hàn
Quý Ưng: tên hiệu của Hàn
Xem thêm: Thuần Vược.
công khanh: do chữ tam công cửu khanh, những chức quan to nhất ngày xưa bên Tàu. Tam công là: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Cửu khanh là: Thiếu sư, Thiếu phó, Trung tể, Tư đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư khấu, Tư không.
Cung oán ngâm khúc:
Mồi phú quý dử làng xa mã
Bã vinh hoa lừa gã công khanh.
cố danh tư nghĩa: đoái trông cái danh mà nghĩ đến cái nghĩa của nó, nghĩa là danh phải đúng với thực.
cốt nhục tử sinh: Làm mọc thịt lại ở xương tàn, làm sống lại người đã chết. Chỉ ơn cứu nguy, cứu sống rất sâu nặng.
Tả truyện: Vi Tử Phùng nói: Ta xem thân thúc phu tử như là người đã làm sống lại kẻ đã chết, làm đâm thịt lại ở xương tàn”.
Lời chú nói: Ta đã chết mà thân thúc cứu ta sống, ta đã là đống xương tàn mà thân thúc làm cho đâm thịt ra, ý nói cái ơn cứu sống lại.
Đoạn trường tân thanh:
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!
cổ lai hi: có nghĩa “xưa nay hiếm”. Vào đời Đường, tuổi thọ trung bình của con người lúc bấy giờ chỉ vào khoảng 40-45, cho nên Đỗ Phủ mới hạ câu “Nhân sanh thất thập cổ lai hy” bất hủ, để đời cho đến hiện nay, hễ nhắc đến tuổi cổ lai hy, cổ lai, hay cổ hy là người ta biết ngay là thọ được 70 tuổi rồi.
Khúc giang Bài 2 – Đỗ Phủ (dịch thơ):
Tan chầu cầm quách áo xuân hồng
Say khướt trở về với bến sông
Nợ rượu khắp nơi đều có được
Người đời bảy chục hiếm xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại
Nọ lũ chuồn chuồn bỡn nước trong
Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận hưởng
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công!
cổ nhạc: ở đây có nghĩa cụ thể – như thường gọi trong dân gian bấy lâu nay – là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, để phân biệt với tân nhạc.
Cổ nhạc là loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động. Cổ nhạc xuất hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền ầm bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia cổ nhạc phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục…
Loại âm nhạc này đúng ra là loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng.
Cổ nhạc Nam Bộ hình thành vào cuối thế kỷ 19 khi các nhạc sư, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần Vương vào Nam đem theo truyền thống ca Huế vào vùng Nam Bộ. Trên đường đi, các nhạc sư dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, từ đó tiếng đafn cùng với giọng ca xứ Huế mang thêm chút hương vị xứ Quảng. Khi vào đến miền Nam thì tiếng đàn miền Trung tiếp tục thay đổi, một số bài bản tuy cùng tên nhưng nét nhạc đã khác xa so với ban đầu.
Bản chất phóng khoáng của con người và nếp sống tại miền Nam khiến cho các bài bản không y khuôn bản gốc. Người đàn, người ca cũng không muốn giữ nguyên như thầy đã dạy mà luôn có đôi nét thêm thắt, thay đổi, tô điểm, khiến những bài bản đậm đà thấm thía hơn. Mặt khác do lòng luôn luôn nhớ thương cội nguồn nên các điệu của cổ nhạc đều phảng phất nỗi buồn và được người mộ điệu ưa thích.
Nhạc cụ trong cổ nhạc gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, đàn tam, sáo thường là sáo bảy lỗ (phụ họa). Dần dà có một loại đàn do các nghệ nhân Việt Nam cải biến là guitar phím lõm mà dân gian thường gọi là guitar vọng cổ. Loại nhạc cụ này được khoét lõm các ngăn sao cho khi đánh lên nghe giống nhạc cụ Việt Nam nhất (âm cao)… Loại guitar này trở nên phổ thông đến mức lấn áp các loại nhạc cụ khác, và sau này đa số các buổi biểu diễn chỉ dùng duy nhất loại guitar này.
Các điệu cổ nhạc còn được dàn dựng thành cốt truyện trên sân khấu, trở thành loại hình nghệ thuật cải lương. Tiến thêm bước nữa, một số trích đoạn ca khúc tân nhạc được trình diễn chung với điệu cổ nhạc (thường là điệu Vọng Cổ) trong thể thức mà dân gian quen gọi là “tân cổ giao duyên)
Sau này, chính quyền Việt Nam tạo ra từ ngữ mới thay những cho từ ngữ dân gian đã quen dùng từ lâu, ví dụ như: “đờn ca tài tử” thay cho “cổ nhạc”, và điệu “ca cổ” thay cho “vọng cổ”. Ngôn ngữ của dân gian bao đời nay, tại sao phải thay thế? Đúng là “cổ nhạc” có nghĩa rộng là “nhạc thời xưa” nhưng dân gian không dùng nghĩa này, còn nghĩa hẹp thì ai cũng hiểu. Riêng cái tên “vọng cổ” từ lâu chỉ một điệu đặc trưng của cổ nhạc, đổi ra thành “ca cổ” nghe ra có nghĩa quá chung chung mà nhiều người không nắm bắt được.
Xem video:
Điệu Khốc Hoàng Thiên – Lê Thùy Dương: https://www.youtube.com/watch?v=m_JBQpImxtk
Nhớ mẹ (điệu Lý Con Sáo) – Thích Trung Đạt: https://www.youtube.com/watch?v=CTy6kSq3MLw
Trích đoạn tuồng cải lương Lan và Điệp (điệu Nam Ai) – Lê Thùy Dương: https://www.youtube.com/watch?v=-f0M4t8uBu4
Trích đoạn tuồng cải lương Lan và Điệp (điệu Nam Xuân) – Lê Thùy Dương: https://www.youtube.com/watch?v=041mMWYc0dw
Tân cổ giao duyên: điệu Vọng Cổ Điệu buồn phương Nam – Trinh Trinh: https://www.youtube.com/watch?v=jq40zWgtb6c
Cổn: Thân phụ của Vua Hạ Vũ. Cổn trị thủy không thành công, bị Vua Thuấn giết ở núi Vũ. Khi rạch bụng Cổn, một đứa trẻ nhảy ra; vì ra đời ở núi Vũ nên được đặt tên là Vũ. Thuấn sai Vũ trị thủy, Vũ thành công, Thuấn truyền ngôi cho Vũ.
Ly tao:
Bướng như chàng Cổn ngày xưa
Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
cổ xúy: cổ là những nhạc khí dùng để đánh như chiêng, trống’ xúy là những nhạc khí để thổi, như kèn sáo. Cổ xúy nói chung là nhạc khí dùng để phụ họa lời ca tiếng hát, dần dần mang nghĩa lời phụ họa theo lời người khác.
cổn hoa: cổn là áo lễ phục của vua ngày xưa, sau đến bậc tam công trở lên mới được mặc; hoa: bông. Nghĩa bóng: Sắc vua ban để được vinh hiển.
Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu:
Hai chữ cương thường nghĩa nặng
Rõ cổn hoa cũng thỏa chốn u minh.
cỗ thái lao: cỗ bàn ngày xưa có thịt bò, thịt dê, thịt lợn, dần dà cỗ thái lao có ý nói chung là một bữa tiệc long trọng.
Cột đồng Mã Viện. Trần Trọng Kim (1971) chép: Mã Viện đánh được Trưng Vương đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành lũy đến đấy và biến cải mọi cách chính trị trong các châu quận. Đem phủ trị về đóng ở Mê Linh và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt, nghĩa là cây đồng trụ mà đổ thì người Giao Chỉ mất nòi.
Sử chép rằng người Giao Chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột ấy ở vào chỗ nào.
Tôn Thất Thọ (2017) giải đáp câu hỏi “Có hay không Cột đồng Mã Viện” như sau.
Thật ra, trong các sách sử cổ của Trung Quốc, không có sách nào chép có ghi sáu chữ nói trên trên cột đồng mà Mã Viện dựng nên để làm mốc biên giới.
Vậy từ đâu mà có có sáu chữ đó?
Khi soạn Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, các sử gia của Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi: Sách Nhất Thống chí nhà Đại Thanh chép: Tương truyền, cột đồng ở về đông Cổ Sâm châu Khâm, Mã Viện có thề rằng “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Đó là vì sợ cột đồng ấy bị gãy đổ.
Như thế, các sử thần nhà Thanh nhấn mạnh rằng sáu chữ này chỉ là tương truyền!
Có lẽ nội dung này không phải do sử gia triều Thanh viết nên, lý do là trước đó, Lê Tắc khi soạn An Nam chí lược (khoảng đầu thế kỷ XIV) ghi với nội dung tương tự: Xưa có truyền lại rằng: Ở động Cổ Sum, tại Khâm Châu có cái cột đồng của Mã Viện và lời thề rằng: “Hễ cái trụ đồng này gãy, thì nước Giao Chỉ tiêu diệt”, vì thế, người Giao Chỉ mỗi khi đi ngang qua đều lấy đá, ngói, ném vào dưới chân cột đồng, nên chẳng bao lâu, nơi ấy hóa thành gò.
Cần nói thêm về Lê Tắc: đây người mà khi quân Nguyên sang xâm chiếm nước ta dưới triều Trần, y đã cùng với Trần Ích Tắc theo đầu hàng Thoát Hoan và chạy trốn sang Trung Quốc. Trần Ích Tắc được phong An Nam Quốc vương, còn Lê Tắc được phong Thị lang. Năm 1961, khi Viện Đại học Huế xuẩt bản tác phẩm An Nam chí lược, Linh mục Cao Văn Luận nhận định về Lê Tắc như sau:
Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm của người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn như những lời nịnh nọt a dua của soạn giả, những đoạn văn kiêu ngạo, tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ của nhà Nguyên và trong các bài tựa các danh nhân hồi ấy, đều khiến chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.
Về cuốn sử này, nhà văn Trần Thanh Mại có nhận định rất nghiêm khắc và gay gắt trên tạp chí Tao Đàn số 3 ngày 1-4-1939 với bài viết tựa đề “Một nhà viết sử bán nước, một quyển sử nhục nhã”. Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng tán thành cách đánh giá của Trần Thanh Mại.
Qua đó ta thấy, có lẽ dựa vào những điều mà Lê Tắc đã viết, các sử thần nhà Thanh cũng như các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư (cuối thế kỷ 15) ở nước ta đã căn cứ vào đó để ghi lại, từ đó được lưu truyền về sau.
Tóm lại, các sách cổ sử Trung Quốc chép là cột đồng Mã Viện ghi những đức tốt của nhà Hán hoặc nêu rõ pháp chế để cai quản chứ không hề có đến sáu chữ Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt như đã được chép trong An Nam chí lược và Đại Việt sử ký toàn thư mà sau này Trần Trọng Kim (1971) dùng làm căn cứ để ghi lại.
Vì thế, có thể nói rằng sáu chữ nói trên được cho là ghi trên cột đồng Mã Viện chỉ là một giai thoại, chứ không có căn cứ trong lịch sử.
cờ tiết hoặc mao tiết: tên gọi một thứ nghi trượng. Gồm một cây trượng, có sợi dây nối vào đầu trượng, trên dây kết 5 chùm lông thú để tượng trưng cho ngũ hành. Do hình dạng của những chùm lông trông giống bông tuyết, nên cờ còn được gọi là mao tuyết.

Cờ tiết thường được các sứ thần mang theo trong chuyến công cán khi nhận mệnh từ vua, khi trưng ra thì có quyền thay vua mà ra lệnh.
Cung A Phòng: một tổ hợp cung điện đồ sộ, cực kỳ xa hoa tráng lệ, do Tần Thủy Hoàng cho xây dựng vào năm 212 tCN. Cung điện cách thành cổ Trường An (nay là Thành phố Tây An, Tỉnh Thiểm Tây) hơn 30 km về phía tây.
Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng sai xây Cung A Phòng ở phía nam Sông Vị để tiếp các triều thần. [Nhưng có tài liệu ghi cung này là để chứa cung tần mỹ nữ). Trước tiên Tần Thủy Hoàng sai xây tòa điện phía trước Cung A Phòng dài 500 bộ [hơn 800 m] từ đông sang tây, rộng 50 trượng [hơn 150 m] từ nam đến bắc, ở trên có thể ngồi một vạn người. Khi cung chưa xây xong, nhà Vua muốn tìm một cái tên đẹp mà gọi. Vì cung này gần cung thất nhà Vua cho nên thiên hạ gọi nó là Cung A Phòng [từ A có nghĩa là gần].
Sử ký chỉ ghi Hạng Vũ “đốt cung thất nhà Tần, lửa cháy liền ba tháng không tắt.” Nhưng từ đó, các tác giả sau này suy diễn ra rằng “Hạng Vũ đốt Cung A Phòng!”
Sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời, công trình này tiếp tục được xây dựng nhưng không thể hoàn thành vì nhà Tần sụp đổ.
Có một số nghiên cứu khảo cổ học, kết quả đưa ra chưa rõ ràng.
Một nhà thơ có tiếng thời Đường là Đỗ Mục viết bài A Phòng cung phú, trong đó miêu tả Cung A Phòng như một cung điện nguy nga tráng lệ, phòng lâu san sát, tất cả đều được chạm trổ những nét điêu khắc và hoa văn rất độc đáo với diện tích hơn ba trăm dặm. Đoạn kết nêu cảm nghĩ của tác giả khá sâu sắc về lẽ thịnh–suy trong giai đoạn lịch sử này.
A Phòng Cung phú – Đỗ Mục
Phú Cung A Phòng – Nguyễn Hiến Lê dịch Nôm:
Sáu vua bị diệt, bốn bể thống nhất
Núi xứ Thục trọi, cung A Phòng xuất.
Cao muốn đụng trời xanh, ba trăm dặm che lấp
Xây từ đời Ly Sơn ở phương Bắc, vòng qua Tây, chạy thẳng xuống Hàm Dương
Hai con sông mông mênh chảy vào tới chân tường
Năm bước lại một lầu, mười bước lại một gác
Hành lang uốn cong như tấm lụa, mái nhà cao nhọn như mỏ chim
Đều ôm địa thế, góc thì đâu vào nhau, giữa như cái móc
Quanh co chằng chịt như tổ ong, như xoáy nước, không biết là mấy nghìn nóc.
Cầu dài vắt ngang sông: chưa có mây sao có rồng?
Đường đôi bắc trên không: không phải mưa tạnh, sao có cầu vồng?
Cao thấp hỗn loạn, nào biết tây đông
Xuân quang ấm áp, tiếng ca vui vầy
Gió mưa lạnh lẽo, tay áo hết bay
Cùng trong một cung, cùng trong một ngày, khí hậu khác thay!
Phi tần thị nữ, vương tử hoàng tông, từ lầu xuống điện, ngồi xe tới Tần
Sáng ca tối đàn, và thành cung nhân.
[…]
Than ôi!
Kẻ diệt lục quốc không phải Tần mà là lục quốc
Kẻ diệt Tần chính là Tần, không phải là thiên hạ.
Buồn thay!
Người lục quốc nếu biết yêu nhau thì đủ sức để chống cự với Tần
Nếu Tần lại yêu người lục quốc thì truyền từ ba đời đến vạn đời
Làm chủ thiên hạ, ai diệt Tần được?
Người Tần không kịp tự thương cho mình mà đời người sau than thở cho họ
Người đời sau than thở cho họ mà không biết lấy đó làm gương
Khiến người đời sau nữa lại phải than thở cho người đời sau nữa.
cung bích: Bởi chữ: cung tường, chỉ cửa thầy dạy học.
Luận ngữ: Thầy Tử Cống nói rằng: thí dụ tài đức như những bức tường trong cung thất. Tứ tôi là bức tường cao đến vai, nên người ta có thể đứng ngoài nhìn thấy những cái tốt đẹp trong nhà. Thầy tôi là bức tường cao mấy nhận, nếu người ta không tìm được cửa tiến vào thì không thấy cái tốt đẹp trong nhà tông miếu, cùng sự phồn vinh của bá quan.
Cung Công: quan trị thủy đời Vua Nghiêu, trễ biếng công việc, bị đày ra U Châu. Cùng thời với hắn có: Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn, gọi là Tứ hung.
cung eo nhỏ: từ chữ Tế yêu cung. Vua nước Sở thích những người eo nhỏ lưng ong. Cung eo nhỏ là cung vua nước Sở.
cung ngao lầu thẩn: chỉ hiện tượng sinh ra do chiết xạ quang tuyến (mirrage) thường thấy trên mặt biển hay sa mạc, ý nói những cảnh tượng hư ảo.
Từ Hán có chữ: Thẩm lâu, Hải thị thẩm lâu.
Tam Tề lược ký nói: Nơi con thẩn trên mặt biển kết thành lâu đài gọi là “chợ biển” (hải thị).
Bản thảo: Cùng thuộc loại giao long có con thẩn, dáng tựa con rắn nhưng to hơn, có sừng, có thể phun khí ra làm thành lâu đài thành quách.
Cung Quán Oa: Cung điện của Ngô Vương Phù Sai xây cho Tây Thi (thời Xuân Thu).
Cung Quảng: do chữ Quảng Hàn cung, chỉ cung trăng. Long Thành lục: Ðường Minh Hoàng nhân đêm Trung thu cùng đạo sĩ Hồng Ðô Khánh lên chơi cung trăng, thấy có biển đề: Quảng hàn thanh hư chi phủ (Phủ rộng, sạch, trong, rỗng).
cung quế: cung trăng, vì tục truyền trên mặt trăng có cây quế. Theo sách Dậu dương tạp trở, trên mặt trăng có cây quế cao 500 trượng, dưới gốc cây có một người ngồi chặt mãi, nhưng chặt xong, dấu chặt lại liền như cũ. Người ấy tên Ngô Cương, quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi, bị phạt chặt cây.
Theo kịch thần thoại Lên cung trăng của Ngô Tổ Quang, Ngô Cương và Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ. Nghệ sinh ở bờ biển Đông tức nước Hữu Cùng, võ nghệ phi thường, sức có thể nhổ núi lấp sông lại giỏi về kỵ xạ. Hai người học trò cũng đều tài ba xuất chúng. Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giật của cải của nhân dân. Ngô Cương lại tòng theo thầy làm nhiều điều tàn ác, giết chóc sinh linh vô số. Phùng Mông là người hiền, can thầy can bạn không được, bỏ đi theo dân nghèo chống lại thầy.
Hậu Nghệ bắt Hằng Nga làm hoàng hậu. Sợ nàng trốn, Nghệ giam một nơi và bắt Ngô Cương canh giữ. Một hôm, Nghệ đi săn, Hằng Nga lấy cỏ Linh chi (cỏ trường sinh) của Nghệ uống vào, mình nhẹ bổng nên nàng cùng con Ngọc Thố bay lên cung trăng. Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga nên tức giận, bóp cổ Ngô Cương cho đến chết. Vong hồn Ngô Cương bay lên cung trăng gặp Hằng Nga, định giết nàng báo thù. Hằng Nga hoảng hốt thì vừa lúc ấy Nguyệt Lão đến, quát to: “Ngày trước nhà ngươi giết hàng triệu sinh linh, ngày nay phải chịu quả báo, thế chưa biết ăn năn hối cải sao?”
Ngô Cương đáp: “Tôi chết rồi… vì Hằng Nga trốn nên đại vương giết tôi. Tôi chết oan uổng nên hồn không tiêu tan, tôi muốn trả thù.”
Cụ già mỉm cười: “Nhà ngươi chết như thế phải lắm, còn muốn sống làm sao nữa?”
“Tôi hết lòng trung vì chúa, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo việc trị dân.”
Cụ già gật gù hỏi: “Nhà người có trị được không? Hay càng trị càng rối.”
“Tại đại vương quá giận giết tôi. Nếu không, tôi có cách trị an thiên hạ.”
“Cách gì?”
Ngô Cương tỏ vẻ cương quyết: “Giết.”
Cụ già cười ha hả: “Nhà ngươi giết mấy chục năm rồi mà càng giết càng đông, càng loạn. Đồ khùng! Thân xác đã chết rồi mà hồn chưa tỉnh ngộ. Ngô Cương, có thấy cây quế kia không?”
Cụ già vừa nói vừa đưa tay trỏ cây quế. Ngô Cương đáp: Thấy, mà có quan hệ gì tới tôi?”
“Nhà ngươi chặt cây kia ngã được thì mới có thể giết người để bình thiên hạ được.”
Cụ già vừa nói xong, đưa tay móc túi lấy ra một cây búa trao cho Ngô Cương. Hắn tiếp lấy búa, đưa thẳng tay lên chặt vào cây quế. Lửa trong cây quế văng ra. Cương buông búa, xuýt xoa kêu: “Cây cứng quá!”
Cụ già cười xòa: “Phải. Nó còn cứng hơn nhà ngươi.”
Ngô Cương thẹn thùa, đưa tay nhặt lấy búa đưa thẳng tay chặt lia lịa. Lửa lại bắn ra tứ tung. Mỗi lần giở búa ra thì dấu chặt lại dính liền như cũ.
Cụ già bảo: “Thôi, chặt không được đâu.”
Ngô Cương càu nhàu: “Thây kệ tôi.”
“Đồ ngu đến chết vẫn không tỉnh. Nhà ngươi không thấy cây quế ấy, mày càng chặt thì cây càng lớn, càng cao, càng đẹp sao? Được. Mặc kệ cho mày chặt. Ta đi đây.”
Cụ già nói xong biến mất.
Ngô Cương vẫn cầm búa chặt mãi… chặt mãi mà cây quế kia không bao giờ đứt, vẫn tươi sống kiếp kiếp đời đời.
cung quế xuyên dương: chỉ việc thi đỗ, công thành danh toại.
Từ Hán có chữ: Chiết Quế, Thiềm cung cũng chỉ nghĩa thi đỗ.
Dưỡng Do Cơ thời Xuân Thu làm Quản đại phu nước Sở nổi tiếng giỏi, đứng cách xa lá liễu trăm bước (bách bộ) mà bắn trăm phát trúng cả trăm (bách bộ xuyên dương). Khi Tấn Sở đánh nhau ở đất Yên Lăng, Do Cơ ngồi xổm mà bắn quân Tấn chết rất nhiều.
Trần Nguyệt Lão (đời Ðường):
Chiết quế nhất chi tiên hứa ngã
Xuyên dương tam tiễn tận kinh nhân
Dịch:
Bẻ quế một nhánh, nhường ra trước
Xuyên dương ba phát, kinh mọi người.
Xem khóc dây cung, Dưỡng Do Cơ.
Lâm tuyền kỳ ngộ:
Lá dương một phát đưa tên bắn
Ðèn sách cho cam thuở học hành.
cung thiềm: thiềm là con cóc, cung là cung điện. Chỉ mặt trăng, nghĩa bóng chỉ việc thi đỗ.
cúc hề: Lấy ý từ bài Thu phong từ của Hán Vũ Đế làm khi đi tế ở Hà Phần:
Lan hữu tú hề cúc hữu phương
Hoài giai nhân hề bất năng vươn
Dịch:
Lan có hoa, cúc tỏa hương,
Nhớ người đẹp, lòng vấn vương.
cù lao: cù là siêng năng, lao là khó nhọc. Ý nói cha mẹ siêng năng khó nhọc để nuôi dưỡng con. Kinh Thi có câu: Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao (Thương xót thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc).
cù mộc: cây cù, một loài cây to lớn có cành sum suê xủ xuống, dây bim dây sắn có thể vin để leo lên được. Nghĩa bóng: Vợ cả hiền đức che chở cho vợ bé. Xem cát, cát đằng hoặc cát lũy.
Đoạn trường tân thanh:
Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc, một sân quế hòe.
Ý nói Thúy Vân là vợ cả hiền đức, sau này sinh nhiều con hiển đạt.
Cù thị: người đàn bà trắc nết trong sử Việt, nhưng được nhà thơ Trung Quốc ca ngợi như một liệt nữ.
Hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy nước Việt nằm sát nách Trung Quốc đất rộng người nhiều, đây là mối lo đời đời cho dân Việt. Gọi là lịch sử đưa đẩy vì thời xa xưa, Trung Quốc dựng nước tại miền châu thổ sông Hoàng Hà cách xa ta nhiều ngàn dặm; dân tộc này có nền văn hóa cao và sức bành trướng mãnh liệt, lần lượt thôn tính các lân quốc để trở thành một nước lớn. Về phía nam, thế lực của họ vượt qua sông Dương Tử, thôn tính nước Sở; rồi đến đời Tần Thủy Hoàng, vào năm Đinh Hợi (214 tCN) tiến chiếm các vùng Quế Lâm, Tượng Quận, Giao Chỉ tức Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, quần hùng nổi lên khắp nơi giành ngôi bá chủ, giống như đám thợ săn đuổi bắt hươu nên sử gọi là “trục lộc”. Phương bắc có Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Vũ) tranh hùng; phương nam, Nam Hải Úy Triệu Đà, vốn người đất Chân Định (Trung Quốc), nổi lên giết quan lại nhà Tần giành quyền tự chủ, lập nên nước Nam Việt, rồi tự xưng là Nam Việt Vương vào năm Giáp Ngọ (207 tCN). Họ Triệu xưng vương gần 100 năm, cho đến đời Triệu Ai Vương thì mối họa xảy ra.
Nguyên mẹ Ai Vương là Cù thị, người đất Hàm Đan (Trung Quốc); trước khi lấy thân phụ của Vương (Minh Vương tức Thái tử Anh Tề, con của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ, cháu Triệu Đà) có người tình tên là An quốc Thiếu quý. Sau khi Minh Vương mất, Vương lên ngôi nhưng còn nhỏ tuổi, quyền bính nằm trong tay Thái hậu Cù thị.
Hán Vũ đế muốn nhân cơ hội này để thôn tính Nam Việt, bèn sai Thiếu quý làm sứ giả đến gặp Thái hậu. Hai người thừa dịp tiếp tục tư thông, rồi cùng âm mưu dâng Nam Việt cho nhà Hán. Thừa tướng Lữ Gia đưa thư can gián mấy lần nhưng không hiệu quả, bèn nổi giận cất quân giết Ai Vương, Cù thị, cùng sứ giả nhà Hán; rồi tôn người con trưởng của Minh Vương là Vệ Dương hầu Kiến Đức lên nối ngôi.
Nhà Hán sai Hàn Thiên Thu mang một đạo quân đến uy hiếp, bị Lữ Gia đánh tan. Hán Vũ đế tức giận sai Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức, cùng Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc mang đại quân đến đánh, bắt Kiến Đức cùng Lữ Gia. Kể từ đó (năm 111 tCN) nước ta bị nhà Hán cai trị.
Việc làm nhơ nhuốc, cùng cái chết của Cù thị được viên Gián nghị Đại phu đời Tống tên là Chu Chi Tài hết sức ca tụng qua khúc Hành nhan đề Nam Việt hành (theo Lê Trắc – An Nam chí lược). Sử dụng bút pháp trữ tình, tác giả diễn tả nỗi lòng Thái hậu Cù thị tưởng nhớ đến người tình An quốc Thiếu quý, rồi hai người được Vua Hán sắp xếp cho hội ngộ, họ sung sướng trải qua những đêm hoan lạc trong cung điện. Cả hai âm mưu dâng nước ta cho nhà Hán, nên đều bị Thừa tướng Lữ Gia giết. Cái chết của Cù thị dẫn đến việc nhà Hán giành được đất Nam Việt, nên tác giả cho rằng nàng có công với Trung Quốc, sánh ngang hàng với các Liệt nữ như Nga Hoàng, Nữ Anh cung phi của Vua Thuấn.
củi đậu đun hột đậu: thời Tam Quốc (220-264), Tào Thực là con thứ ba của Tào Tháo, có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán, nhưng có tính phóng túng. Tào Tháo thương lắm nhưng không thể truyền ngôi cho một chàng giàu tâm hồn nghệ sĩ ấy được.
Tháo chết, truyền ngôi cho con cả là Tào Phi. Thực bản tính ngông nghênh bất phục, có ý chống lại vua anh. Phi giận lắm, truyền người bắt Thực đến định làm tội. Bà mẹ can gián, không muốn thấy anh em hại nhau. Cũng vì yêu tài Thực nên Phi bảo: “Ta với mày tuy tình anh em nhưng nghĩa vua tôi, sao dám cậy tài miệt lễ? Ngày tiên quân còn, mày thường đem văn chương khoe giỏi lòe đời. Ta rất nghi, có lẽ mày nhờ người khác làm giúp. Vậy giờ đây ta ra hạn: đi bảy bước phải làm xong một bài thơ. Nếu làm được thì tha tội chết; bằng không xong, ta quyết chẳng dung.
Thực nói: “Xin ra đề cho.”
Trên điện sẵn có treo bức tranh thủy mặc, vẽ hai con trâu chém nhau bên bức tường đất, một con rơi xuống giếng chết. Tào Phi trỏ vào bức tranh, bảo: “Hãy lấy bức họa kia làm đề. Nhưng trong thơ cấm phạm vào những chữ Ngưu, Đẩu, Tường, Trụy, Tỉnh, Tử (Trâu, chọi, tường, rơi, giếng, chết).”
Thực đi khoan thai. Vừa hết bảy bước, liền cất tiếng ngâm (dịch thơ):
Hai tấm thân đi đường
Trên đầu bốn khúc xương
Gặp nhau tựa sườn núi
Bỗng đâu nổi chiến trường
Đôi bên đua sức mạnh
Một địch lăn xuống hang
Đâu phải thua kém sức
Chẳng qua sự lỡ làng.
Tào Phi cùng tất cả quần thần đều giật mình, nức nở khen.
Phi lại hỏi: “Bảy bước thành thơ, ta còn cho là nhàm. Mày có thể ứng khẩu đọc ngay một bài được chăng?”
Thực đáp: “Xin ra đề cho.”
Phi nói: “Ta với mày là anh em. Cứ lấy câu đó làm đầu đề. Nhưng cấm dùng hai chữ huynh, đệ.”
Thực chẳng cần nghĩ ngợi một giây, ứng khẩu đọc ngay (dịch thơ):
Củi đậu đun hột đậu
Đậu trong nồi khóc kêu:
“Cùng sinh trong một gốc
Bức nhau chi đến điều!”
Phi nghe cảm động, liền tha cho, nhưng giáng Tào Thực làm An Hương Hầu.
Thành ngữ “củi đậu đun hột đậu” chỉ cảnh huynh đệ tương tàn.
Xem thêm mục: nồi da nấu thịt.
cương thường: Gồm Tam cương và Ngũ thường, là các đạo lý sống ở đời (theo đạo Khổng).
Tam cương: Quân thần cương (Ðạo vua, tôi), Phu thê cương (Ðạo vợ chồng), Phụ tử cương (Ðạo cha con).
Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
cười nắc nẻ: Theo Trịnh Mạnh (2003), nắc nẻ là loại côn trùng hình như con bướm, ban đêm hay bay vào nơi thắp đèn, luôn đập cánh, xè xè trên vách.
“Cười nắc nẻ” hoặc “cười như nắc nẻ” ý nói cười không dứt. (Có sách giải nghĩa cười giòn giã là không chính xác).
cưỡi rồng: chỉ việc lấy được chồng tốt.
1: Sở quốc tiên hiền truyện: Hoàng Hiếu (Sách Sử học ký chép là Hoàng Thương) và Lý Ưng là 2 danh sĩ đời Hậu Hán, đều lấy con gái Thái úy Hoàn Yên. Người đương thời bảo rằng 2 cô con gái họ Hoàn được cưỡi rồng (thừa long).
2: Đời Chu Tương Vương (651-617 tCN), Tần Mục Công làm bá chủ các nước ở tây phương. Nhà Vua có một người con gái. Lúc mới sinh, gặp có kẻ dâng viên ngọc phác, Tần Mục Công sai thợ giũa, thành một viên ngọc sắc biếc và đẹp lắm. Đến khi cô gái đầy tuổi tôi, trong cung bày đồ toái bàn, nàng nhặt ngay viên ngọc rồi ngắm nghía mãi, mới đặt tên nàng là Lộng Ngọc.
Lớn lên, Lộng Ngọc nhan sắc đẹp tuyệt trần. Tính trời thông minh, nàng có tài thổi ống sinh hay lắm, không học ai mà thành âm điệu. Tần Mục Công sai thợ làm ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổị Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.
Tần Mục Công cưng lắm, lập cái lầu để cho nàng ở, tên là Phượng Lâu. Trước lầu có xây một đài gọi là Phượng Đài. Năm Lộng Ngọc lên 15, Tần Mục Công muốn tìm một người giai tế, Lộng Ngọc thề: nếu có người nào có tài thổi ống sinh họa được với nàng thì mới chịu lấy làm chồng.
Tần Mục Công sai sứ đi tìm, nhưng không có ai cả.
Một hôm, Lộng Ngọc ngồi trên lầu, vén rèm ngắm cảnh. Bấy giờ trời quang mây tạnh, vừng trăng sáng tỏ như gương, nàng truyền cho thị nữ đốt một lò hương rồi đem ống sinh ra thổi. Bỗng nghe tiếng tiêu từ đâu họa lại, lúc gần lúc xa. Lộng Ngọc lấy làm lạ, dừng ống sinh lại không thổi nữa, lắng tai nghe giọng tiêu ấy chỉ còn dư âm văng vẳng. Lộng Ngọc ngẩn ngơ, lưỡng lự thao thức canh chầy, đoạn đặt ống sinh ở đầu giường rồi nằm ngủ.
Giữa lúc ấy, nàng bỗng thấy trên trời về phía tây nam, cửa mở rộng, hào quang ngũ sắc rực rỡ như ban ngày, có một chàng thiếu niên, mũ lông áo bạc, cưỡi con chim phượng từ trên trời sa xuống, đứng trước Phượng Đài. Chàng bảo nàng: “Ta đây là chủ núi Họa (tên Hán-Việt: Họa Sơn), Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta kết duyên với nàng. Đến ngày Trung Thu này thì đôi ta gặp nhau. Ấy là duyên số đã định sẵn như vậy.”
Nói xong, chàng đưa tay rút ống ngọc tiêu bên mình, rồi đứng tựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên cũng giương cánh ra vừa hót vừa múa. Tiếng phượng hót cùng với tiếng tiêu xướng họa hòa nhau như một theo điệu cung thương, nghe rất thâm trầm. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần hỏi: “Khúc tiêu này là khúc tiêu gì?” Chàng thiếu niên đáp: “Đây là khúc Họa sơn ngâm.” Nàng lại hỏi: “Khúc này có học được không?” Chàng đáp: “Khi cả hai kết duyên rồi thì có gì không học được.” Đoạn chàng bước đến gần đưa tay cầm lấy tay nàng…
Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy. Sáng lại, nàng thuật lại điềm chiêm bao cho cha nghe. Tần Mục Công liền sai người cứ theo hình dáng người trong mộng đó dò tìm đến Họa Sơn. Có người nông phu chỉ rằng: Từ rằm tháng bảy vừa qua, có một chàng trẻ tuổi lạ mặt đến làm nhà ở đỉnh núi, hằng ngày thường xuống chợ mua rượu uống, chiều lại thổi chơi một khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng rất lấy làm thích.
Người của Tần Mục Công mừng rỡ tìm đến, trông thấy chàng thiếu niên mũ lông áo bạc, cốt cách thần tiên, vái chào hỏi tên họ. Chàng xưng là Tiêu Sử. Người của nhà Vua thuật lại sự tình và yêu cầu Tiêu Sử về triều. Sau mấy lần từ chối không được, Tiêu Sử cùng theo về triều ra mắt Tần Mục Công. Tần Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh nhã, có vẻ bằng lòng, cho ngồi bên cạnh, hỏi: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi ống tiêu, tất có tài thổi ống sinh nữa.”
Tiêu Sử đáp: “Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, chứ không biết thổi ống sinh.”
Vua bảo: “Ta định tìm một người có tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu, vậy không thể làm rể ta được.”
Đoạn bảo người đưa Tiêu Sử ra.
Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Tần Mục Công: Tiêu với sinh cũng tương tự nhau, người ta có tài thổi ống tiêu thì sao không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài.
Tần Mục Công lấy làm phải, truyền Tiêu Sử thổi nghe.
Tiêu Sử mới thổi qua một khúc thì thấy có gió mát hây hẩy. Đến khúc thứ nhì thì mây che bốn mặt. Đến khúc thứ ba thì có đôi bạch hạc múa lượn trên không, đồng thời có đôi khổng tước bay đến rồi các giống chim đua nhau kêu hót…, một lúc mới tan. Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng. Lộng Ngọc đứng bên rèm trông thấy vui tương nói: “Người ấy thật đáng làm chồng ta!”
Tần Mục Công lại hỏi Tiêu Sử: “Nhà ngươi có biết ống sinh và ống tiêu có từ đời nào không?”
Tiêu Sử thưa: “Ống sinh làm ra từ đời Nữ Oa; ống tiêu làm ra từ đời Phục Hi.”
Tần Mục Công bảo kể rõ nguyên ủỵ Tiêu Sử nói: “Nghề tôi vốn ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguồn gốc ống tiêu. Ngày xưa Vua Phục Hi ghép ống trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng. Tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn ghép liền 23 ống, dài 1 thước 4 tấc gọi là Nhã Tiêu; thứ nhỏ ghép liền 16 ống, dài 2 thước 1 tấc gọi là Tụng Tiêu. Cả hai thứ gọi chung là Tiêu Quản. Còn một thứ không đáy gọi là Đổng Tiêu. Về sau Vua Huỳnh Đế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê chế làm ống địch, ống này có 7 lỗ, cầm ngang mà thổi, tiếng cũng giống chim phượng, trông rất giản tiện. Người đời sau thấy ống Tiêu Quản phiền phức quá nên chỉ dùng ống địch. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch. Bởi vậy, ống tiêu ngày nay không giống ống tiêu ngày xưa.”
Tần Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có các giống chim bay đến?”
Tiêu Sử thưa: “Ống tiêu dẫu mỗi đời mỗi khác nhưng tiếng thổi bao giờ cũng giống tiếng chim phượng. Chim phượng là chúa các giống chim, vậy khi nghe tiếng chim phượng tất nhiên các giống chim đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa Vua Thuấn chế ra khúc nhạc tiêu thiều mà chim phượng còn bay đến, huống chi là các giống chim khác.”
Tiêu Sử ứng đối lưu loát. Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng, sai quan Thái Sử chọn ngày để làm lễ thành hôn.
Tiêu Sử kết hôn cùng Lộng Ngọc, được phong làm Trung Đại Phu. Tuy làm quan nhưng Tiêu Sử không dự gì đến quyền chính, ngày ngày vui chơi ở Phượng Lâu. Lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu. Lộng Ngọc học được phép tiên của chồng cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy vợ thổi tiêu.
Ở nhau được non nửa năm, nhân một đêm trăng sáng vằng vặc, vợ chồng đem tiêu ra thổi. Bỗng thấy một con phượng xuống đậu bên tả, và một con rồng xuống phủ phục bên hữu. Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc: “Ta vốn là tiên ở thượng giới, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách trần gian nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để san định lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ ở Họa Sơn, vì ta cùng nàng có tiền duyên nhau, nhờ khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.”
Lộng Ngọc định vào từ biệt cha. Tiêu Sử ngăn: “Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.”
Đoạn Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng cùng bay lên trời.
Đoạn trường tân thanh:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
cử án tề mi: có nghĩa: nâng mâm ngang mày. Xem mục: Mạnh Quang.
cửa hầu: cửa của bậc hầu, ý nói nhà quyền quý khó đến gần. Theo Toàn Ðường thi thoại, Thôi Giao Hán đời Ðường có người tỳ thiếp yêu đoan trang xinh đẹp, sau vì nghèo mà phải đem bán cho Vu Ðịch là người có tước hầu. Thôi Giao thương nhớ vô cùng. Nhân tiết Hàn thực, nàng phải ra ngoài thì gặp Thôi Giao đứng dưới gốc cây liễu. Nàng khóc rồi hẹn với Thôi Giao là sẽ giữ trọn lời ước cũ. Thôi Giao làm thơ tặng nàng có câu (dịch Nôm):
Cửa hầu khi vào mất hút sâu như bể
Từ đấy chàng Tiêu như người qua đường.
Hoa tiên:
Vã nơi rốn bể cửa hầu
Ra vào vì chút thẳm sâu ngại ngùng.
cửa sài: do chữ sài môn: Ðóng chặt cửa. Hậu Hán thư: Ư thị sài môn tuyệt tân khách. (Thế là đóng chặt cửa không tiếp khách).
cửa Trình: bởi chữ Trình môn (cửa họ Trình). Trình Di hiệu là Y Xuyên, một bậc danh Nho đời Tống bên Tàu, học trò là Du Thù và Dương Thi mới đến học, thấy Trình lim dim mắt ngồi im, hai người cứ đứng chờ không dám động. Khi Trình biết đến, thì ngoài cửa tuyết dày 3 thước. Nhân tích ấy người ta dùng chữ Trình môn lập tuyết để ví người học trò chăm học theo thầy. Ta có thành ngữ “cửa Khổng sân Trình” cũng do tích này.
Bích Câu kỳ ngộ:
Thông minh sẵn có tư trời
Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình.
cửu đỉnh: chính cái đỉnh, tượng trưng cho quyền lực. Tương truyền Vua Ðại Vũ nhà Hạ thu thập đồng trong thiên hạ đúc thành 9 cái đỉnh tượng trưng cho 9 châu (vùng đất). Các vua thời Tam Đại đời trước đời sau cứ truyền mãi cho nhau 9 cái đỉnh, tượng trưng cho quyền lực trị vì thiên hạ.
Dựa theo ý niệm cửu đỉnh của nhà Hạ, triều Nguyễn cho làm chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu đỉnh được Vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào năm 1835 và khánh thành vào năm 1837.

Trên cửu đỉnh có 17 nhóm hình ảnh vừa cụ thể vừa tượng trưng. Các nhóm hình ảnh gồm có trời, đất, núi sông, sản vật, vũ khí… Trời trên gồm các hình tượng mặt trời, mặt trăng, gió, mây, sấm, sét, các sao kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đối diện với trời là đất gồm các hình ảnh sông (Tiền Giang, Hậu Giang, Sông Mã, Sông Hồng, Sông Bạch Đằng, Sông Hương…), Núi (Hồng Lĩnh, Tản Viên, Đèo Ngang, Núi Đại Lãnh, Hải Vân…), Kênh (Vĩnh Tế, Bến Nghé…) Sau sông núi là các loài thực vật như cây gỗ lim, cây lúa, cây mít, hành, trầm hương, tường vi…, muông thú trong rừng như hổ, chim trĩ…, tôm cá dưới nước, vật nuôi, cây thuốc, thuyền buồm… Nhóm hình ảnh thứ 17 là vũ khí gồm kiếm, cung, giáo, súng thần công…

Tổng cộng có 153 hình ảnh chạm khắc nổi với hàng ngàn đường viền, đường lượn, hoa văn vô cùng tinh xảo. Cũng có những hình ảnh sản vật liên quan đến thời cam go của Nhà Nguyễn như cây nam trân mà người dân Quảng Nam gọi là cây lòn bon. Thời Nguyễn Ánh và tùy tùng bị quân Tây Sơn truy đuổi phải trốn vào rừng, nhờ trái lòn bon mà khỏi chết đói. Cây lòn bon được chạm nổi, đặc tả từ thân cây, cành lá và chùm quả.
Để làm được 9 đỉnh này, phải huy động hàng trăm nghệ nhân đúc đồng nổi tiếng khắp nước về Kinh đô làm việc trong suốt hơn năm trời. Tổng số đồng để đúc 9 đỉnh là 22.473 kg. Mỗi đỉnh người thợ phải hiệp 60 lò nấu đồng lại, mỗi lò chỉ nấu chảy được 30-40 cân đồng. Khuôn đúc lật ngược và người thợ rót nước đồng nóng chảy vào chân đỉnh. Đúc xong đỉnh mới gắn quai và các hình chạm nổi. Nhà nghiên cứu người Pháp P. Chovet nhận xét: “Nhìn chung toàn bộ giống hệt hình thu gọn hệ thống hiện đại của lò đúc sắt hiện nay ở Pháp (1914). Cách làm của các thợ chạm An Nam không khác biệt các phương pháp áp dụng của thợ chạm Châu Âu. Có một chi tiết khá thú vị là các đũa và dao chạm đều do thợ tự làm bằng tay một cách thô sơ bằng cách dùng búa tán!”
cửu khanh: chín chức quan cấp cap đời xưa bên Tàu. Các đời vua khác nhau dùng các chức vụ khác nhau để gọi cửu khanh. Đời Thanh – tức đời phong kiến cuối cùng có cửu khanh gồm: Ðô sát viện, Ðại lý tự, Thái thường tự, Quan lộc tự, Hồng lô tự, Thái bộc tự, Thông chánh ty, Tôn nhơn phủ, Loan nghi vệ.
cửu nguyên: dịch nghĩa là chín suối. Thời Xuân Thu, cửu nguyên là chỗ quan khanh đại phu nhà Tấn để mả, về sau hai chữ này có ý như nghĩa địa, dần dà mang nghĩa nơi chốn của người chết.
cửu trùng: cửu là chín, trùng là lớp. Phải qua chín lớp cửa mới đến nơi được, tức là nơi vô cùng thâm nghiêm. Cửu trùng chỉ nơi vua ở.
Cung oán ngâm khúc:
Ðóa lê ngon mắt cửu trùng
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.
cửu tuyền: có nghĩa là chín suối, nơi mai táng người chết, là tên gọi khác của huỳnh tuyền (suối vàng), địa ngục hay âm ty theo thuyết nhà Phật. Từ này xuất xứ từ bài thơ Thất ai của Nguyễn Vũ nhà Hán, dịch nghĩa: Mịt mờ nhà cửu tuyền, mênh mang đài đêm trường.
Về con số 9, theo quan niệm của cổ đại Trung Quốc, nó biểu thị ý nghĩa nhiều, cực lớn. Từ đó, người ta thêm số 9 vào chữ tuyền để chỉ một nơi sâu thẳm.
Đoạn trường tân thanh:
Trên tam đảo, dưới cửu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Tam đảo tức ba đảo tiên: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu, chỉ cõi tiên.
Xem thêm mục: suối vàng.
cữ gió tuần mưa: Theo cách chia thời gian ngày trước, một cữ là 7 ngày. Ngày nay vẫn còn nói về một sản phụ “mới ở cữ”, tức mới sinh con được một vài cữ. Một tháng chia ra ba tuần, mỗi tuần 10 ngày: thượng tuần, trung tuần, và hạ tuần.
Đoạn trường tân thanh:
Não người cữ gió tuần mưa
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Ý nói phải chịu khổ cực như bị gió mưa trong thời gian dài.
da ngựa bọc thây: Theo Hậu Hán thư, danh tướng Mã Viện trả lời Vua Hán Quang Vũ: “Đại trượng phu nên chết nơi biên giới, chốn chiến trường, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, chớ sao lại nằm ở trên giường trong tay bọn trẻ con đàn bà mà được ư?”
“Da ngựa bọc thây” có ý nói về chí làm trai của bậc nam nhi, sẵn sàng hy sinh thân mình.
Chinh phụ ngâm:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn, nhẹ tựa hồng mao.
Đến giờ quân đội dù không dùng ngựa nữa vẫn dùng thành ngữ “da ngựa bọc thây” để chỉ ý chí sẵn sàng hy sinh trên chiến trường.
Dao Đài: tiếng nôm dịch thành Đài Dao (đài mang tên Dao): nơi ở của Tây Vương Mẫu, đại khái là thiên đường cực lạc.
dao trì: nghĩa đen là ao ngọc nói chung, nghĩa cụ thể chỉ cái ao trong vườn trên thiên đình, nơi bà Tây Vương Mẫu ở. Dao Trì là nơi Tây Vương mẫu trồng cây Bàn Ðào 3000 năm mới kết quả, ai ăn được sẽ thành tiên, sống mãi không chết. Có lúc Đông Phương Sóc lẻn vào ăn trộm đào tiên ở Dao Trì.
Hoa đào – Nguyễn Trãi:
Yến sở Dao Trì đà có hẹn
Chớ cho Phương Sóc đến lân la.
Xem thêm: Đông Phương Sóc.

dải đồng: đồng tâm kết, chỉ sự khăng khít. Người xưa dùng dải gấm thắt nút nối tiếp nhau ngụ ý thương yêu nhau, gọi đó là “đồng tâm kết”.
Đoạn trường tân thanh:
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
…
Bấy lâu khăng khít dải đồng
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Dã Tràng: một nhân vật trong cổ tích.
Dã Tràng kể với vợ: “Tôi vừa bắn chết con rắn hổ mang cái ở vườn nhà ta. Chả là mấy tháng trước, tôi có kể chuyện với mình rồi đấy, khi rắn vợ lột xác, rắn chồng hàng ngày bắt nhái về cho vợ ăn. Thế mà mấy hôm nay, đến lượt rắn chồng lột xác, rắn vợ ngày ngày ra khỏi hang, đi chơi với một con hổ mang đực, chẳng tha được con mồi nào về cho chồng ăn. Tôi thấy ả hổ mang quấn quýt với cậu rắn đực, ả ở ngoài hang, con đực một mình len lén bò vào cửa hang, chắc nó định vào cắn chết hổ mang chồng. Tôi liền giương cung nhằm bắn, chẳng may mũi tên lại trúng đầu con hổ mang cái, con đực chạy biến mất, thế có tức không?”
Chị vợ vừa nói:”Tội nghiệp nhỉ!” thì một vật sáng loáng rơi từ trên mái nhà xuống, lăn dưới võng. Bỗng nhiên Dã Tràng nghe tiếng nói từ trên vọng xuống: “Tôi biếu ông viên ngọc rắn này để trả ơn ông; tôi vẫn tưởng ông độc ác giết vợ tôi, nhưng vừa rồi, nghe chuyện ông kể, hóa ra ông là ân nhân của tôi. Có viên ngọc này, ông hiểu được tiếng của tất cả các loài chim thú”. Nói xong, hổ mang luồn qua mái nhà đi mất, nó không ở trong hang vườn nhà Dã Tràng nữa.
Từ hôm có viên ngọc, Dã Tràng tò mò nghe đủ các thứ chuyện, chuyện dưới ao của ếch nhái, chuyện chim chóc trong vườn, chuyện lợn ủn ỉn, chuyện trâu bò thủ thỉ với nhau; vợ chàng hay lấy trộm viên ngọc, nghe gà vịt cãi nhau ỏm tỏi, nghe chó mèo chửi bới ra trò. Hóa ra, thế giới loài vật cũng lộn xộn, khoẻ bắt nạt yếu, quan hà hiếp dân, chẳng khác gì thế giới loài người. Chỗ đẹp, chỗ cao ráo thì quan chiếm đoạt, cống rãnh bùn lầy thì dành cho dân.
Một hôm, Dã Tràng đến chân núi để xem cuộc sống các loài chim muông khác. Ðàn quạ bay lượn trên đầu chàng, bảo: “Ven rừng bên kia có một con dê bị hổ vồ, đến mà lấy thịt về ăn, còn bộ lòng để cho bọn quạ chúng tôi nhé!”
Về đến nhà, chàng bảo mấy ông hàng xóm mang dao và rổ ra lấy thịt dê về. “Chớ lấy bộ lòng, của đàn quạ đấy” – Chàng dặn kỹ. Song họ tham lam, lấy cả thịt, cả đầu, cả bộ lòng về. Hôm sau, đàn quạ sà xuống thì thấy khoảng đất trống trơn, bọn quạ tức quá, bay đến nhà Dã Tràng chửi bới om xòm. Chàng phân trần, xin lỗi, hứa hẹn nọ kia, song chẳng ăn thua; bầy quạ càng nhiếc móc thậm tệ.
Tức mình, Dã Tràng mang cung tên ra dọa. Chàng bắn một mũi tên, quạ đớp luôn. Chúng bay tản đi, kêu lên mấy tiếng cuối cùng: “Chúng tao sẽ báo thù!” Quạ bay qua sông, thấy một xác người đang trôi, liền cắm mũi tên có khắc chữ “Dã Tràng” vào cổ xác chết. Quan huyện cho vớt xác, thấy cái mũi tên của Dã Tràng, cho bắt giam và tra hỏi. Chàng biện bạch thế nào cũng vô ích.
Quan cho giải chàng lên kinh để vua xử. Sớm hôm sau, chàng bị đàn chim sẻ bay ào ào đánh thức; chàng lắng nghe xem chúng nói chuyện gì. Chúng rủ nhau hàng đàn, hàng đàn bay ra biên giới vì xe chở thóc cho quân lính nước láng giềng bị đổ tung tóe; nước láng giềng thừa cơ nước bên này không phòng bị, định đánh úp và chiếm tỉnh biên giới rồi tiến về kinh đô. Chim sẻ kháo nhau như vậy. Biết tin bí mật trọng đại này, Dã Tràng xin với quản ngục cho chàng được gặp quan Tổng đốc tỉnh. Ðược tin, quan một mặt điều quân ngay tức khắc ra biên giới, mặt khác cho đội quân do thám phóng ngựa đi trước. Quả đúng như vậy, nước láng giềng thấy việc quân bị lộ, liền rút quân và tướng về.
Dã Tràng lập công lớn, tức khắc được trả tự do. Chàng trở về quê nhà; đến tối mới được nửa đường. Chàng vào ngủ nhờ nhà một bạn cũ. Lâu ngày không gặp, lại nghe Dã Tràng kể nỗi oan của mình, anh bạn vừa mừng vừa thương bạn. Hai người nói chuyện đến khuya. Trước khi đi ngủ, anh bạn bảo vợ: “Sáng mai anh Dã Tràng về, mình dậy sớm làm thịt con ngỗng, mình nhé! Bao nhiêu năm nay mới gặp nhau.”
Dã Tràng nằm ở cái giường kê cạnh cửa sổ trông ra vườn. Chàng trằn trọc không ngủ được. Bỗng chàng nghe thấy ở ngoài vườn tiếng khóc thút thít, thoạt đầu nho nhỏ, sau to dần; chàng lắng nghe. Một con ngỗng vừa khóc vừa nói: “Anh ở lại trông các con, để em chết, anh ở lại…”, tiếng nức nở làm ngỗng cái nghẹn lời. Ngỗng đực nói: “Em là mẹ, em phải sống để trông con; sớm mai, anh đứng ngoài cửa vườn, đợi bà chủ đến bắt, em nghe anh!” Tiếng khóc sẽ dần.
Dã Tràng không thể nào chợp mắt, chàng thức cho đến rạng sáng. Khi thấy anh, chị bạn mở cửa, chàng nhỏm dậy, chạy ra bảo: “Anh chị chớ làm thịt ngỗng, tôi không dám phiền anh chị đâu; anh chị cho ăn cơm rau thì tôi xin ở lại; nếu làm thịt ngỗng thì xin phép anh chị cho tôi đi ngay”. Thấy Dã Tràng kiên quyết như vậy, anh bạn đành thôi; chị chủ nhà vào vườn hái mớ rau dền để nấu canh; nhà đã có tép và cá. Sau bữa cơm, Dã Tràng cám ơn vợ chồng bạn ra về.
Ðến đầu ngõ, chàng thấy hai con ngỗng cùng với đàn con đã chờ sẵn. Ngỗng đực nhả ra từ miệng một viên ngọc, nói: “Xin đội ơn ngài đã cứu mạng, tôi biếu ngài viên ngọc ngỗng này; mang ngọc trong người, ngài rẽ sóng mà đi dưới nước như đi trên cạn; khoắng mạnh, ngọc sẽ làm rung động cả biển rộng”. Cả nhà ngỗng vươn cổ cúi rập đầu xuống rồi chạy ra bãi cỏ. Dã Tràng bỏ viên ngọc vào túi.
Ðến con sông ngăn trước mặt, chàng bước xuống sông; lạ lùng thay, nước rẽ thành một con đường, chỉ một loáng, chàng đã sang đến bờ bên kia. Chàng dừng lại, bước xuống nước; lần này chàng đi xuống đáy sông; chàng cầm viên ngọc khoắng thật mạnh.
Ngày ấy, triều đình Long Vương ở biển Ðông đang mở hội, bỗng thấy lâu đài, cờ lọng, cây vàng, lá ngọc bỗng rung lên dữ dội nghiêng ngả như sắp đổ. Long Vương cho mấy triều thần cưỡi rùa đi dò la. Ðoàn người băng băng theo những làn sóng dữ đang gầm thét, bơi ngược dòng sông, chỉ chốc lát đã đến nơi gây tai họa. Dã Tràng đang vung tay khoắng viên ngọc dưới nước thì thấy một vị quan xuất hiện. Vị quan cúi rạp người xuống, nói: “Xin Ngài chớ khoắng nữa, chúng tôi mời ngài đi yết kiến Ðại Long Vương chúng tôi ngoài biển”. Chàng thấy một con rùa khổng lồ bơi lại gần chàng, chàng ngồi lên lưng rùa. Ðoàn người rẽ sóng đi sâu xuống mãi dưới đáy biển.
Bỗng nhiên trước mắt Dã Tràng một đô thành với những cung điện nguy nga, vàng bạc sáng ngời. Long Vương oai nghiêm từ ngai vàng bước xuống, mời chàng ngồi vào bàn tiệc. Trong khi uống rượu, Long Vương hỏi Dã Tràng và biết bí mật của chàng, viên ngọc Ngỗng có thể làm rung chuyển thủy cung. Sau khi bàn bạc với Tể tướng, Long Vương cho Tể tướng mang tặng Dã Tràng không biết bao nhiêu vàng, ngọc trai đựng trong một tay nải bằng gấm thêu rồng, thuồng luồng, mực, san hô, sóng biển… Cuộc tiễn đưa rất linh đình. Tể tướng và Dã Tràng vượt sóng, đến bên sông. Quan đại thần nhất định xin đưa chàng về đến tận nhà. Ðến nhà Dã Tràng, Tể tướng quan sát khắp gian nhà, nhìn kỹ và chào phu nhân Dã Tràng rất cung kính, rồi xin cáo lui.
Dã Tràng vốn người hào hiệp, được xóm làng yêu mến đến mừng đông nghịt; chàng tặng mỗi người một hạt ngọc trai hoặc một hột vàng bằng hạt lựu mà chàng chứa đầy trong tay nải. Vợ Dã Tràng đeo một vòng hạt trai nơi cổ, mấy vòng vàng ở tay, chị ngắm viên ngọc Rắn và ngọc Ngỗng suốt cả ngày không chán mắt. Dã Tràng sợ mất, chàng khâu một cái túi đựng hai viên ngọc quý, luôn luôn đeo ở cổ.
Một hôm, Dã Tràng sang làng bên ăn giỗ. Giữa chừng, chàng chợt nhớ là khi tắm ở nhà, chàng để quên túi ngọc trên mặt tủ, chàng tái xanh mặt mũi, tìm cớ xin về. Chàng vừa đi vừa chạy, trống ngực đánh thình thình. Về đến ngõ, cổng ngõ mở toang; vào nhà, cửa nhà cũng mở mà không thấy vợ đâu; chàng hốt hoảng tìm túi ngọc trên tủ, trên bàn, ngoài giếng, chàng lục tung hòm đựng quần áo, hòm sách, giường nằm; mồ hôi chàng vã ra như tắm.
Chợt chàng trông thấy một mảnh giấy có mấy dòng chữ nguệch ngoạc để trên án thư. Thư viết: “Anh Dã Tràng, quan Tể tướng của Long Vương đến nhà, bảo nếu em mang hai viên ngọc dâng cho Long Vương, em sẽ được làm hoàng hậu nơi thủy cung. Anh đừng tìm em làm gì”. Dã Tràng kinh hãi, nghĩ: “Mình không còn gì!”, rồi nằm vật xuống giường; chàng ôm mặt khóc. Chàng oán vợ, căm tức lão Tể tướng và Long Vương đã âm mưu cướp ngọc của chàng.
Ngày lại ngày trôi qua. Dã Tràng không thể nguôi; chàng đau đớn và gầy võ vàng. Mặc những lời can ngăn của làng xóm, chàng bán nhà, bán vườn, ra bờ biển dựng nhà mới; chàng mua một cái xe. Và hàng ngày chàng chở cát lấp biển, chàng định đắp một con đường xuống Thủy cung đòi lại hai viên ngọc. Mỗi ngày chàng đắp được một dải cát, chiều đến lại bị sóng biển đánh tan. Chàng đắp mãi năm này qua năm khác; sóng đánh, không để lại một dấu vết. Chàng đã già, đầu tóc bạc phơ vẫn ngày ngày xe cát. Dã Tràng xe cát cho đến khi chết.
Chết rồi nhưng ông vẫn không thôi xe cát; ông hóa thành một con cua nhỏ, yếu ớt, ngày ngày đào cát lấp biển; sóng triều lên, đánh tan công trình đơn sơ của nó. Người ta gọi nó là con dã tràng.
Ca dao:
Dã tràng xe cát biển Ðông
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Và:
Công dã tràng hàng ngày xe cát
Sóng biển dồn tan tác còn chi!
Dạ cổ hoài lang: bản nhạc cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành điệu vọng cổ đầu tiên.
Bối cảnh ra đời của bài Dạ cổ hoài lang được kể lại với những chi tiết khác nhau. Cũng có nhiều ý kiến không tương đồng về thời điểm ra đời của bài hát; nhiều nghệ sĩ cho rằng đó là năm 1918.
Bởi vì có quá nhiều người hát sai ca từ, tôi chép lại đây bản chuẩn như sau, theo Nguyễn Thị Ngọc Hân (2010):
Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàng
Vào ra luống trông tin nhạn (A)
Năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi! Gan vàng thêm đau
Đường dầu xa, ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang (B)
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng
Chàng là chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Bao thuở đó đây sum vầy?
Duyên sắt cầm đừng lợt phai
Là nguyện cho chàng
Hai chữ an – bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.
Chú thích:
(A): theo nghĩa cổ, nhạn là ngỗng trời. Tin nhạn: tin tức nói chung, từ điển tích Tô Vũ chăn dê trên hoang mạc, cột thư vào chân ngỗng trời cho bay mang về trung nguyên.
(B): phát âm trại từ tao khang: tao là bã rượu, khang là cám gạo, là những thức ăn của người cùng khổ; nghĩa tao khang là nghĩa tình từ lúc sống khốn khó.
Một số lỗi về ca từ thường thấy là như sau.
- “sắc phong lên đàng”: ý nghĩa sai lệch. Đúng ra là “phán” tức là đưa lệnh từ trên xuống cho binh sĩ lên đường, còn “phong” như phong thưởng thì không đúng trong bối cảnh này.
- “luôn trông”: chữ “luống” hợp với nốt nhạc hơn và cũng hợp với văn cổ hơn.
- “Vào ra luống trông tin chàng”, không theo đúng cách dẫn dụ gián tiếp thời xưa: ban đầu phải nói “trông tin nhạn” rồi sau đó mới nói “trông tin chàng” để thể hiện ý tình kín đáo, chứ một phụ nữ có nết na mà từ đầu nói “trông tin chàng” thì quá đường đột.
- “Gan vàng quặn đau” nghe quá mãnh liệt đối với phụ nữ hiền hòa; “thêm đau” vừa thâm trầm vừa nghe như đau triền miên.
- “Đường dù xa”: chữ “dù” là tiếng Bắc, tiếng Nam Bộ của ông Cao Văn Lầu là “dầu”.
- “Đường dầu say ong bướm”: nói như thế thì đành chấp nhận cho chàng say ong bướm hay sao? “Đường dầu xa, ong bướm” ý nói tuy đường xa xôi và có ong bướm, xin chàng…
Cho nên chỉ thay đổi ca từ một chút, ý tình và ngữ cảnh khác nhiều.
dạ đài: chỉ nơi âm phủ.
Xem suối vàng, cửu tuyền, cửu nguyên.
Lục Vân Tiên:
Ðã đành đá nát vàng phai
Ðã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau,
Lục Cơ (Tấn):
Tiễn người về chốn dạ đài.
Đoạn trường tân thanh:
Kiếp này duyên đã phụ duyên
Dạ đài còn biết, sẽ đền lai sinh,
dâu bể: xem tang thương.
dầu cháo quảy: từ tên du trá quỷ (油 炸鬼). Theo Anon. (2016). sau cái chết của Nhạc Phi, lòng dân khắp nơi oán hận, căm thù Tần Cối…
Ở kinh thành, có người bán bánh rong, trong lúc ế khách lấy bột ra nặn 2 chiếc bánh hình người, một hình đàn ông là Tần Cối, một hình đàn bà là Vương Thị vợ hắn. Nặn xong, 2 cái bánh bị ném vào chảo mỡ sôi sùng sục. Ông rán chiếc bánh như đang hành hình hai kẻ bán nước hại dân để thỏa lòng căm tức.
Dân chúng đi ngang qua, thấy lạ bèn đặt làm vài chiếc. Một đồn mười, mười đồn trăm, món bánh này ngày một lan rộng. Ngày nào cũng có người đến xếp hàng để chờ rán và ăn ngay tại chỗ.
Chuyện đến tai Tần Cối, hắn cho quân lính đến bắt cửa hàng bán bánh nọ. Nhưng do binh lính cũng đồng tình với lòng dân nên họ cố tình trùng trình đánh động để người bán bánh trốn thoát. Ông trốn khỏi kinh thành và tiếp tục bán bánh kiếm ăn. Nhưng do ở trong tình thế bị săn đuổi, phải cảnh giác ngó trước ngó sau, nên ông không còn đủ thời gian nặn bánh thành hình người như trước nữa mà chỉ còn vê hai thỏi bột dài rồi quấn vào nhau, giả làm 2 vợ chồng Tần Cối.
Gần một nghìn năm trước, chiếc bánh này có một lịch sử huy hoàng, không phải ai muốn ăn cũng có mà phải chờ đợi, xếp hàng. Thời ấy người ta ăn bánh không phải vì ngon mà là muốn nhai kẻ thù trong miệng, nghe tiếng bánh rán dòn vỡ trong miệng mà tưởng là xương của vợ chồng Tần Cối.
Thấy bánh dễ làm, lại ăn ngon, món đó được lan truyền rộng rãi khắp nước. Tên của món bánh đó là du trá quỷ tức là con quỷ bị chan (trá) dầu (du) lên người. Món bánh này phổ biến sang tận Việt nam và “du trá quỷ” được phát âm thành “dầu cháo quẩy” hoặc “dầu chá quẩy”.
Ở Malaysia, Indonesia và Singapore, món bánh được gọi là “you char kway”; ở Cambodia là “cha kway”, ở Myanmar là “kya kway”. Món này được người Lào và người Thái phát âm thành “pa tóng cổ”, “pa” có nghĩa “ném” và “thóng cổ” hẳn là do nói trại từ “Tần Cối”.
Xem thêm mục: Nhạc Phi.
Di, Tề: Bá Di và Thúc Tề, là hai danh sĩ cuối đời nhà Thương (1783-1154 tCN). Xem mục: gia gia.
Dĩnh Xuyên: tên sông, tại Hà Nam. Xưa Hứa Do không chịu lời mời của Nghiêu, rửa tai ở bến sông Dĩnh.
Dị An cư sĩ: tên hiệu của nàng Lý Thanh Châu, con gái Lý Cảnh Phi, vợ của Triệu Minh Thành. Là người đất Tế Nam có tài thơ văn, nhất là lối từ, được coi là một đại thi gia đời Tống. Có quyển Thấu Ngọc từ còn truyền ở đời.
Dịch Thủy: Sông Dịch, vào thời Chiến Quốc ở nước Yên, chạy dài theo biên giới nước Triệu, ngày nay thuộc Tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
Dịch Thủy tống biệt: tựa bài thơ của Lạc Tân Vương về việc tiễn biệt Kinh Kha ra đi từ Sông Dịch để ám sát Vua Tần theo lệnh của Thái tử Đan nước Yên. Theo Sử ký, Thái tử và tân khách đều mặc áo mũ trắng để tiễn. Đến bên Sông Dịch (Tên Hán-Việt: Dịch Thủy), khi làm lễ tiễn hành Cao Tiệm Ly gẩy đàn trúc, Kinh Kha theo nhịp mà hát, kẻ sĩ đều sụt sùi nức nở.
Kinh Kha lại tiến lên hát (dịch thơ):
Gió đìu hiu Sông Dịch lạnh lùng ghê
Tráng sĩ một đi không trở về!
Lại hát theo điệu vũ khảng khái, mọi người trợn mắt, tóc đều dựng đứng xiên lên mũ.
Sau đó Kinh Kha lên xe đi, không hề nhìn ngoái lại.
Có bài thơ cảm khái thời Sơ Đường như sau:
Dịch Thủy tống biệt – Lạc Tân Vương
Thử địa biệt Yên Đan
Tráng sĩ phát xung quan
Tích thời nhân dĩ một
Kim nhật thủy do hàn.
Chia tay bên Sông Dịch – Lê Nguyễn Lưu dịch thơ:
Lìa Yên Đan chốn ấy
Tóc dựng mũ anh hùng
Người trước đã xa khuất
Sông nay vẫn lạnh lùng.
Xem thêm: Kinh Kha.
Do Vu: Tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Lúc Chiêu Vương lánh nạn gặp bọn cướp đuổi theo phải nấp vào bụi rậm, bọn cướp lấy giáo đâm vào bụi. Do Vu chìa lưng ra đỡ cho Chiêu Vương rồi lấy đất vuốt máu ở lưỡi giáo đi. Nhờ vậy mà Chiêu Vương thoát nạn.
doành nhâm: Dòng nước. Sử ký có câu: Bắc phương thủy, Thái âm chi tinh chủ đông nhật, nhâm qui (Nước ở phương bắc là tinh của Thái âm, chủ mùa đông, thuộc quẻ Nhâm quy). Do đó doành nhâm chỉ dòng nước.
Cung oán ngâm khúc:
Doành nhâm một dãi mây rông
Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này
dòng châu: Nước mắt. Xem châu lệ.
Lục Vân Tiên, Vân Tiên tâm sự với chủ quán:
Thế sao chẳng bớt cơn sầu
Mình đi đã mỏi, giòng châu thêm nhuần.
Đoạn trường tân thanh, khi Vương ông nghe tin về việc Kiều bán mình:
Theo lời càng chảy dòng châu
Liều mình, ông đã gieo đầu tường vôi.
dốc bồ thương kẻ ăn đong: Nông dân thường đựng thóc trong bồ. Dốc bồ là nhà hết thóc. Khi đó mới thương những người đi đong gạo ăn hằng ngày.
Câu này ý nói có cùng cảnh ngộ thì mới thương nhau, dễ thông cảm với nhau. Cũng có ý nói khi đầy đủ thì không thông cảm với người nghèo, chỉ khi sa cơ mới thấm thía.
dốt có chuôi / dốt có đuôi: Theo Trịnh Mạnh (2003), Thành ngữ này là do điển tích xưa. Một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Thầy không biết viết chữ Tròn nên khoanh một vòng. Có kẻ tinh nghịch sổ thêm một nét thành cái gáo. Gáo dừa thường có chuôi (cán) để cầm. Khi cúng, thầy lại quên, đọc bừa là “Gáo”!
dốt đặc cán mai: Mai là dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai làm bằng loại gỗ rất cứng để khi bẩy đất không bị gãy cán, lại không có khe nứt kẻo bàn tay bị thương.
“Dốt đặc cán mai” ý nói đầu óc bị đặc như cán mai, không có chỗ để nhét chữ vào được.
dở dở ương ương: “dở” là ở trạng thái chưa kết thúc; còn “ương” biểu thị trạng thái của trái cây chưa chín hẳn nhưng chẳng còn xanh.
Nghĩa rộng, thành ngữ trên biểu thị tính cách của người khôn chẳng ra khôn mà dại chẳng ra dại. Dĩ nhiên tính cách này thường thể hiện ở cách nói năng, ứng xử.
Du (cửa bể): Còn có tên Du Xuyên, cửa Bạch, thuộc Huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa.
Du Lượng: Đời Tấn từ chức Trung thư lệnh (tể tướng) ra ở Trấn Vũ Xương Giang… Bọn Ðoàn Hạo ở đó nhân đêm thu trong sáng cùng nhau lên Lầu Nam (Tên Hán-Việt: Nam Lâu). Lượng chợt đến, bọn họ đứng dậy tránh Lượng. Lượng nói: “Xin mời các ông ngồi yên. Tôi cảm thấy cảm hứng tránh đời của Lão Tử ở đây cũng không ít.” Bèn ngồi tựa giường cùng bọn Ðoàn Hạo đàm đạo, ngâm vịnh thâu đêm.
Du Quan: tức Sơn Hải quan, thuộc Huyện Lâm Du, Tỉnh Hà Bắc.
Duy Hàn: Duy Hàn thi trượt tiến sĩ, có người khuyên ông theo đuổi hướng khác. Hàn đúc một chiếc nghiên bằng sắt và nói với mọi người: “Nghiên hỏng thì sửa chứ không đổi hướng khác”. Cuối cùng ông đỗ Tiến sĩ.
duyên cầm sắt: xem cầm sắt.
duyên Châu Trần: Trung Quốc thời cổ ở Huyện Phong thuộc Từ Châu có thôn Châu Trần. Trong thôn chỉ có hai họ Châu-Trần đời đời kết hôn với nhau, vì thế trong văn chương Châu Trần thành điển cố để nói về chuyện hôn nhân.
duyên đằng: duyên có nghĩa mối liên lạc từ kiếp trước lưu lại kiếp này giữa đôi tình nhân hay giữa hai người bạn bè quen biết; Ðằng tức là Ðằng Vương các. Duyên Ðằng là duyên may ở gác Ðằng Vương, ý mở rộng chỉ duyên may hiếm có, cơ hội thuận lợi.
Gác Ðằng Vương là tên một tòa gác do Ðằng Vương Nguyên Anh cho xây dựng trên cửa sông Chương giang. Theo Ðường thư, về sau Diêm Bá Dữ làm quan Mục đất Hồng Châu, nhân tiết trùng cửu đặt tiệc lớn đãi các liêu thuộc ở gác Ðằng Vương. Vương Bột đi thuyền sang thăm cha đang làm quan ở đất Giao Chỉ. Thuyền về đến Núi Mã Dương, Bột nghe tin họ Diêm mở tiệc lớn ở gác Ðằng Vương liền thả thuyền sang Nam Xương dự tiệc. May gặp gió thuận, thuyền đi chỉ một đêm là đến nơi, vừa kịp dự. Giữa tiệc chủ nhân đưa giấy bút yêu cầu khách đề cho bài tự. Vương Bột viết luôn bài Ðằng Vương các tự nổi tiếng.
Đoạn trường tân thanh:
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Xem thêm: Vương Bột.
duyên Ngọc Tiêu: Vi Cao đời Đường thuở nhỏ chơi đất Giang Hạ có tình với nàng Khương Ngọc Tiêu. Lúc chia tay có hẹn chóng thì 5 năm, chậm thì 7 năm sẽ đến. Lưu tặng nàng một cái nhẫn ngọc và 2 một bài thơ. Sau 7 năm, Cao không đến, Ngọc Tiêu nhịn ăn mà chết. Cao nghe tin thương xót, lập đàn tụng kinh siêu độ. Ðêm chiêm bao thấy nàng hẹn sẽ thác sinh làm nàng hầu. Sau Cao làm quan to, gặp ngày mở tiệc sinh nhật, có người đem dâng con hát cũng tên là Ngọc Tiêu, ngón tay giữa có vòng thịt y như hình chiếc nhẫn ngọc mình tặng ngày trước.
duyên nợ ba sinh: xem ba sinh.
dùi đục chấm mắm cáy: Theo Trịnh Mạnh (2003), Câu đúng phải là: “Bầu dục chấm mắm cáy”. Bàu dục (cật heo) là món ăn ngon và bổ. Cáy là một loại cua mỏng vỏ, mắm cáy chính là loại mắm được làm từ con cáy đó. Tuy nhiên, đây là loại mắm không ngon, chỉ dành cho người nghèo: thường nặng mùi, có sắc đục, chấm không ngon. Bầu dục mà đem chấm mắm cáy thì phí mất cả chất ngon của bầu dục.
Đại ý câu này nói lên hai đối tượng không phù hợp, không cân xứng. Cũng còn có ý chê người có miếng ngon mà không biết cách ăn.
Về sau, thành ngữ này được hiểu theo nghĩa khác: cách ăn nói cộc cằn thô lỗ.
dục đông: muốn tiến về hướng đông, ý nói niềm ước muốn tha thiết. Theo Sử ký, Hạng Vũ phân phong chư hầu, đẩy Lưu Bang sang Tây Thục. Ở Thục, Lưu Bang có lần nói với Tiêu Hà rằng: “Dự diệc dục đông, an năng uất uất cư thử hồ” (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu uất ức mà ở mãi đây!)
Dục Thủy: Sông Dục, nơi tướng Hán là Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ dùng mẹo tháo nước đánh bại liên quân của tướng Sở là Long Thư của Tề Vương Ðiền Quảng (trong cuộc chiến tranh Hán Sở). Sông Dục (tên Hán-Việt: Dục Thủy) còn được gọi là Sông Duy (tên Hán-Việt: Duy Hà) ở Tỉnh Sơn Ðông, Trung Quốc.
Dư Thiện Văn: người học trò khoảng niên hiệu Chí Chính nhà Nguyên, giữa ban ngày thấy hai người lực sĩ đến nói là vâng mệnh của Quảng Lợi Vương (Thủy Vương) sai đón, Thiện Văn theo đi. Đến bến sông xuống một chiếc thuyền, thấy hai con rồng vàng cắp mà đem đi, rồi xuống đến Thủy phủ. Quảng Lợi Vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu đầu của tòa đền Linh Đức sắp dựng. Thiện Văn liền làm hộ một bài rất hay. Khi khánh thành, Thiện Văn được dự một bữa yến lớn.
Dương Châu: trong những bài thơ Đường là một vùng thị tứ nằm ở giao điểm Trường Giang với kênh Đại Vận Hà, từ đời xưa đã nổi tiếng là một nơi phồn hoa đô hội. Sau khi Tùy Dạng Ðế cho đào một con sông lớn mang tên Đại Vận Hà để chuyên chở sản vật vùng Giang Nam lên Bắc kinh cống nạp cho triều đình, thành Dương Châu ở đoạn giữa Đại Vận Hà nên càng náo nhiệt. Ðời Minh, Thanh, nơi đây qui tụ những nhà buôn bán lớn và trở thành một thị trấn phồn thịnh vào bậc nhất thiên hạ.
Một Dương Châu khác là thuộc địa phận Tỉnh Quảng Đông.
Dương Chu: người nước Vệ thời Chiến Quốc, tự Tử Cơ. Có người cho rằng Dương Chu là học trò Lão Tử và sống vào thời Mặc Tử. Ông là nhà tư tưởng đã đề xuất thuyết Vi ngã (vì mình) nghĩa là chỉ biết có mình thôi. Nho gia cho học thuyết của Dương Chu là dị đoan.
Dương Ðài: tên núi, nơi thần nữ Vu Sơn làm mây mưa, chỉ chốn trong mộng mị. Xem mục: mây mưa.
Hoa tiên truyện:
Người đương giấc bướm Dương Đài
Giấc tàn nhường thấy hiên cài ngẩn ngơ.
Dương gia tướng: theo Wikipedia_Dương gia tướng, Dương gia tướng là tiếng tôn xưng dòng họ Dương của danh tướng Dương Nghiệp thời Bắc Tống. Lịch sử Trung Quốc ghi lại, từ Dương Nghiệp cho đến Dương Tái Hưng (thế hệ cuối) đều là những người có nhiều công lao cho đất nước Trung Quốc thời Tống, chống lại sự xâm lăng của các bộ tộc phương Bắc như Liêu và Tây Hạ. Đây là một gia tộc cống hiến cho nhà Tống hầu hết các thành viên ba đời cho công cuộc bảo vệ đất nước đã lưu danh trong sử sách và được nhiều người biết đến.
Dương gia tướng được nhiều tác phẩm văn học, truyện tranh, điện ảnh đề cập đến và luôn được mô tả như một gia đình có truyền thống trung nghĩa, một gia đình võ học với tuyệt kỹ trứ danh “Dương gia thương” (cốt lõi là chiêu thức Hồi mã thương). Tuy vậy, gia đình này luôn bị triều đình nhà Tống nghi kỵ, gây khó khăn và thường bị các gian thần trong triều hãm hại.
Các thế hệ Dương gia tướng được bổ sung thông qua các tác phẩm kinh kịch, văn học và điện ảnh. Thực tế trong lịch sử, Dương gia tướng chỉ bao gồm: Đời thứ nhất Dương Kế Nghiệp, đời thứ hai Dương Diên Chiêu (con trai của Dương Kế Nghiệp) và đời thứ ba Dương Văn Quảng (con thứ ba của Dương Diên Chiêu). Tính theo các loại phỏng truyện và lịch sử thì nhà họ Dương phò vua tới 5 đời.
* Theo chính sử,
- Dương Nghiệp hay Dương Kế Nghiệp, còn được gọi là Dương Lệnh Công (923–986). Đảm nhiệm Thiếu sư thời hoàng đế khai quốc nhà Bắc Hán Lưu Sùng. Khi Tống Thái Tông bình định Bắc Hán, lệnh cho ông phòng ngự Khiết Đan. Trong cuộc chiến hang Trần Gia, chiến đấu đến kiệt sức mà bị bắt, tuyệt thực 3 ngày mà chết đền nợ nước, thọ 64 tuổi.
- Dương Diên Chiêu, con lớn của Dương Nghiệp, từng theo cha chinh chiến, bảo vệ Nhạn Môn Quan hai lần, tham gia Bắc Phạt, trấn giữ biên giới hơn 20 năm, quân Liêu đánh tới chỉ có đại bại dưới tay ông. Chết năm 57 tuổi.
- Dương Văn Quảng, con trai Dương Diên Chiêu. Theo Địch Thanh chinh Nam, theo Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm đánh Hạ thời đầu Nhân Tông; tham gia đánh Hạ vào thời Anh Tông, lập đại công, thường được xưng là danh tướng.
* Theo văn học, kinh kịch và điện ảnh kể cả cải lương Việt Nam
Đời thứ nhất
Dương Nghiệp hay Dương Kế Nghiệp, còn gọi Dương Lệnh Công: Được xây dựng là nguyên soái trấn biên cương của Tống quốc.
Xà Thái Hoa, còn được gọi Dương Lệnh Bà, Xà Thái Quân: vợ của Dương Nghiệp, có Long đầu trượng của triều đình ban thưởng để trên đánh hôn quân, dưới đánh loạn thần.
Đời thứ hai: gồm bảy con trai, hai con gái và một con nuôi
Đại Lang Dương Diên Bình hay Dương Uyên Bình, con trai cả của Dương Nghiệp.
Đại Nương Trương Kim Định, vợ của Dương Diên Bình.
Đại Nương Hoa Giải Ngữ, vợ của Dương Diên Bình.
Đại Nương Chu Vân Kính, vợ lẽ Dương Diên Bình.
Nhị Lang Dương Diên Định hay Dương Diên Quảng, Dương Diên Tông, con trai thứ hai của Dương Nghiệp.
Nhị Nương Vân Thúy Anh, vợ của Dương Diên Định.
Nhị Nương Cảnh Kim Hoa, vợ của Dương Diên Định.
Nhị Nương Lý Thúy Bình, vợ của Dương Diên Định.
Nhị Nương Trâu Lan Tú, vợ lẽ của Dương Diên Định.
Tam Lang Dương Diên An hay Dương Diên Khánh, Dương Diên Quang, con trai thứ ba của Dương Nghiệp.
Tam Nương La Tố Mai, vợ của Dương Diên An.
Tam Nương Đổng Nguyệt Nga, vợ của Dương Diên An.
Tam Nương Hoa Tạ Ngọc, vợ của Dương Diên An.
Tứ Lang Dương Diên Huy hay Dương Diên Lãng, con trai thứ tư của Dương Nghiệp.
Tứ Nương La Thị Nữ, vợ Dương Diên Huy.
Tứ Nương Mạnh Kim Bảng, vợ Dương Diên Huy.
Tứ Nương Vân Thúy Anh, vợ Dương Diên Huy.
Gia Luật Quỳnh Nga, công chúa nhà Liêu, vợ sau của Dương Diên Huy.
Ngũ Lang Dương Diên Đức, con trai thứ năm của Dương Nghiệp.
Ngũ Nương Mã Sài Anh, vợ của Dương Diên Đức.
Lục Lang Dương Diên Chiêu, con trai thứ sáu của Dương Nghiệp.
Lục Nương Sài Văn Ý hay Sài Thanh Vân, Sài Quận chúa, vợ của Dương Diên Chiêu.
Vương Lan Anh, vợ lẽ của Dương Diên Chiêu.
Hoài Nữ, vợ lẽ của Dương Diên Chiêu.
Trùng Dương Nữ, vợ lẽ của Dương Diên Chiêu.
Hoàng Quỳnh Nữ, vợ lẽ của Dương Diên Chiêu.
Thất Lang Dương Diên Tự, con trai thứ bảy của Dương Nghiệp.
Thất Nương Hô Diên Xích Kim, vợ của Dương Diên Tự.
Thất Nương Đỗ Kim Nga hay Đỗ Ngọc Nga, vợ của Dương Diên Tự.
Bát Lang Dương Diên Thuận hay Dương Hoài Lượng, con trai của Vương Tử Minh, bạn của Dương Nghiệp.
Bát Nương Khương Thúy Bình, vợ của Dương Diên Thuận.
Bát Nương Thái Tú Anh, vợ của Dương Diên Thuận.
Gia Luật Giao Nguyên, Công chúa nước Liêu, vợ sau của Dương Diên Thuận.
Bát Muội Dương Diên Kỳ, con gái lớn nhất của Dương Nghiệp.
Cửu Muội Dương Diên Anh, con gái út của Dương Nghiệp, gả cho Chỉ huy sứ Trương Văn.
Dương Bài Phong: con gái nuôi của Dương Nghiệp và Xa Thái Hoa.
Đời thứ ba
Dương Tông Hiển, con trai Đại Lang Dương Diên Bình.
Dương Tông Khôi hay Dương Tông Hiếu, con trai Nhị Lang Dương Diên Định.
Dương Tông Hiến hay Dương Tông Dao, con trai Tam Lang Dương Diên An.
Dương Tông Phong, con trai Tứ Lang Dương Diên Huy và Mạnh Kim Bảng.
Dương Tông Nguyên hay Gia Luật Trung Nguyên, con trai Tứ Lang Dương Diên Huy và Gia Luật Quỳnh Nga.
Dương Tông Hòe, con trai Ngũ Lang.
Dương Tôn Bảo, con trai Dương Diên Chiêu.
Mộc Quế Anh, vợ Dương Tông Bảo.
Dương Tông Miễn, con trai Dương Diên Chiêu.
Tiêu Nguyệt Nương, vợ Dương Tông Miễn, con gái Tiêu Tán.
Thất Tỷ Dương Thu Lan, con gái Lục Lang Dương Diên Chiêu.
Dương Thu Cúc, con gái Lục Lang Dương Diên Chiêu, em gái Dương Tông Bảo.
Nhâm Kim Đồng, con nuôi Lục Lang Dương Diên Chiêu.
Dương Tông Anh, con trai Thất Lang Dương Diên Tự.
Dương Tông Liên, con trai Bát Lang Dương Diên Thuận và Thái Tú Anh.
Dương Tông Thổ hay Gia Luật Trung Thổ, con trai Bát Lang Dương Diên Thuận và Thôi Vân Công chúa.
Đời thứ tư
Dương Văn Quảng hay Dương Tuyên Khải, con trai của Dương Tông Bảo và Mộc Quế Anh.
Đan Dương Công chúa, vợ Dương Văn Quảng.
Bách Hoa Nữ, vợ Dương Văn Quảng.
Mộ Dung Quế Anh, vợ Dương Văn Quảng.
Tiểu Đậu Tử, người Tây Hạ, vợ Dương Văn Quảng.
Triệu Linh Nhi, con gái của Tống Nhân Tông và một phụ nữ người Liêu, vợ Dương Văn Quảng.
Dương Kim Hoa, con gái duy nhất của Dương Tôn Bảo và Mộc Quế Anh.
Dương Văn Cơ hay Dương Tuyên Nương, con gái của Dương Tôn Nguyên.
Trong văn học có các tác phẩm Dương gia phủ diễn nghĩa và Dương gia tướng diễn nghĩa. Trải qua nhiều đời có rất nhiều phiên bản trong hí kịch cũng như tiểu thuyết bình thư. Mỗi phiên bản cũng khác nhau rất nhiều. Trong các truyện các trọng thần ủng hộ Dương gia tướng có Bát Hiền vương, Khấu Chuẩn, Bao Chửng, còn bọn người áp chế, hãm hại Dương gia lần lượt là Phan Nhân Mỹ (Phan Mỹ), Vương Khâm Nhược, Bàng Hồng (Bàng Tịch).
Trong tác phẩm Thủy Hử, Thanh diện thú Dương Chí, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, là hậu nhân của Dương Nghiệp.
Trong Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp của Kim Dung có Dương Thiết Tâm là hậu nhân của Dương Tái Hưng, Dương Khang là con của Thiết Tâm và Dương Quá là con của Dương Khang.
Dương Quan: tên một cửa ải ở biên giới Tỉnh Thiểm Tây, mạn tây-bắc Trung Quốc. Vào thời Thịnh Đường, có bài thơ tiễn biệt đặc sắc như sau.
Tống Nguyên Nhị sứ An Tây – Vương Duy
Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây – Hữu Vinh dịch thơ:
Vị thành mưa sáng mờ sương bụi
Lữ xá xanh màu sắc liễu xuân
Anh ơi hãy cạn ly này nhé
Qua khỏi Dương Quan ai cố nhân!
Vua Đường Huyền Tông lấy vào Nhạc phủ phổ thành một bài hát gọi là Khúc Dương Quan tam điệp (ba dịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn biệt nhau.
Dương Quan được dùng nghĩa bóng để chỉ nơi tiễn biệt hoặc là lý do cho sự tiễn biệt. Trong Kinh Thi có câu (dịch Nôm):
Dương Quan đứt ruột
Khuất bóng người đi
Dừng chân ứa lệ.
Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều tiễn Thúc Sinh trở về quê cũ Huyện Vô Tích, Tỉnh Giang Tô với vợ cả là Hoạn Thư, có câu:
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình
Sông Tần một dải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu, mấy cành Dương Quan
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cho rằng đại khái xuân đình là chỗ hợp vui; cao đình là chỗ chia rẽ.
Cổ thi có câu: “Chỗ biệt nhau là ở cao đình”.
Dương Quý phi: một trong “Tứ đại Mỹ nhân”, chỉ bốn phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sắc đẹp của họ được ca ngợi qua 4 cụm từ nổi tiếng để tả mỹ nhân, lần lượt là trầm ngư, lạc nhạn, tu hoa, bế nguyệt, tức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Bốn người gồm có:
1/ Vương Chiêu Quân “chim sa”
2/ Tây Thi “cá lặn”
3/ Dương Quý phi “hoa nhường”
4/ Điêu Thuyền “nguyệt thẹn”.
Dương Quý phi (719? – 756) tên thật không rõ, tuy thường được gọi là Dương Ngọc Hoàn hay Dương Thái Chân, sinh ở Tỉnh Tứ Xuyên, là sủng phi của Đường Huyền Tông tức Đường Minh Hoàng (685–762). Theo Wikipedia_Dương Quý phi và Sử Trung Quốc, Năm 733, khi 14 tuổi, Dương thị làm chính phi của Thọ Vương Mạo (con trai của Đường Huyền Tông), trở thành Thọ Vương phi. Ban đầu, phi tần được Huyền Tông sủng ái nhất là Vũ Huệ phi, một người cháu của Võ Tắc Thiên. Sau khi Vũ Huệ phi đột ngột qua đời, Đường Huyền Tông thường buồn rầu, ngày nhớ đêm thương mà không ai khuyên giải được.

Theo truyền thuyết: Cao Lực Sĩ thấy Dương thị là giai nhân tuyệt sắc, tinh thông ca vũ, nghĩ rằng có lẽ mỹ nhân này thay được Vũ Huệ phi. Nhân buổi hầu, Cao Lực Sĩ mật tấu với Huyền Tông, truyền đưa Dương thị vào để trông coi đèn nhang cho Vũ Huệ phi (tức là mẹ chồng). Do đó, Dương thị phải làm đạo cô. Huyền Tông trông thấy Dương thị, lập tức si mê ngay. Ông muốn chiếm đoạt nàng nhưng ngại nàng là con dâu. Cao Lực Sĩ bèn nghĩ ra cách đưa Vi thị thay thế làm vợ của Thọ Vương, do đó Huyền Tông mới nạp Dương thị vào cung, phong làm Quý phi. Lúc đó là năm 745; Huyền Tông đã 60 còn Dương thị 26.
Trong cung, theo lệ cũ của Vũ Huệ phi mà Dương Quý phi được cung phụng không khác gì Hoàng hậu. Dương Quý phi hiển quý, nên gia đình bà cũng được gia ân: cha được thụy phong, mẹ và ba người chị đều được phong tước Phu nhân đi kèm bổng lộc cao. Các em trai và cháu trai trong họ được gả công chúa, quận chúa.
Hoàng đế say đắm Dương Quý phi, chiều chuộng bà hết mực, như cuộc đi tắm suối nước nóng của bà tại Hoa Thanh Trì mỗi lần tốn hàng vạn bạc của quốc khố và làm chết hàng trăm mạng người, ông cũng thẳng tay, không chút tiếc rẻ. Dương Quý phi lại có tài gẩy tì bà, giỏi về âm nhạc. Bà lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn, nổi tiếng nhất là điệu múa Nghê thường y vũ khúc.
Đại thi hào lúc bấy giờ là Lý Bạch ca tụng Quý phi bằng ba bài Thanh bình điệu. Dưới đây là bài thứ nhất (Ngô Tất Tố dịch thơ):
Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt Đài Dao thử ngóng trông.
Minh Hoàng say đắm Dương Quý phi, suốt ngày đêm cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc triều chính. Nhà Vua lại tin dùng An Lộc Sơn (703–757) là một võ tướng Phiên, trong khi không nhận ra vị tướng này mang tư tưởng phản loạn.
Bấy giờ, anh họ Quý phi là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực. Sau khi lên đến bậc thượng thư và hai con trai sánh duyên cùng hai quận chúa, Dương Quốc Trung lại càng kiêu hãnh, tự đắc, có ý định phản nghịch, thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên định mưu hại. An Lộc Sơn biết được nên bỏ trốn. Rồi vào năm 755, Lộc Sơn cử binh chống lại quân triều đình.
Đường Huyền Tông lúc bấy giờ đã 70 tuổi, tinh thần không còn minh mẫn, thể chất suy nhược.
Vào mùa hạ năm 756, An Lộc Sơn nổi loạn, gây nên một cuộc binh đao tàn khốc. (Xem mục: loạn An Sử.) Do sự bất mãn của binh sĩ, Huyền Tông đau xót để cấm binh buộc nàng phải tự treo cổ trên một cành cây bằng một tấm khăn lụa trắng giữa thời 38 xuân xanh! Thật là một bi kịch chưa từng thấy trong lịch sử.
Rồi nhà Đường dẹp tan loạn An Sử, Minh Hoàng trở về Trường An, mục kích cảnh điêu tàn nơi đế khuyết. Đế đô còn đó mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa!
Nhị hồ – Xuân Diệu:
Tôi tưởng tôi là Ðường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý phi.
Dương Quýnh (650-692): sống vào khoảng đời Vua Đường Cao Tông (650-684), thời Sơ Đường, người Huyện Hoa Âm. Ông là một trong “Sơ Ðường tứ kiệt”: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương. Trong Toàn Đường thi có chép 33 bài của ông.
Dương Thành, Hạ Sái: tên hai huyện thuộc nước Sở đời Xuân Thu, là nơi các quý công tử được phong đến đấy. Bài phú của Tống Ngọc có câu: “Hoặc Dương Thành, mê Hạ Sái”.
Dương Tố: Người đời Tùy, dùng binh hay, có lối quyền lược. Khi sắp ra trận thường kiếm lỗi người mà giết hàng mấy trăm mạng. Lúc lâm địch, sai vài ba trăm người xông vào lâm trận, hễ không thành công mà quay về đều giết chết hết, sai đi loạt sau cũng xử như thế.
dược mã: con ngựa nhảy, chỉ Công Tôn Thuật, người nổi lên chiếm đất Thục rồi xưng đế, lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán.
Dự Nhượng: Người nước Tấn, trước phò tá Phạm Trung Hàn nhưng không ai biết đến. Dự Nhượng bỏ đi theo Trí Bá, được Trí Bá rất yêu quý và tôn trọng. Ðến khi Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng trốn vào núi quyết báo thù cho Trí Bá. Ông đổi tên họ, làm người khổ dịch lẽn vào cung dọn nhà xí, trong mình dấu sẳn cái chủy thủ để đâm tương Tử. Tương Tử vào nhà xí, bắt chột dạ mới hỏi người khổ dịch đang dọn nhà xí thì ra đó là Dự Nhượng, khám trong người có binh khí, Dự Nhượng nói: “Ta muốn báo thù cho Trí Bá”. Tả hữu muốn giết, Tương tử nói: “Hắn là người có nghĩa, ta chỉ cần cẩn thận tránh hắn là đủ. Vả chăng Trí Bá chết chẳng có con cái gì, hắn báo thù cho chủ vậy hắn là người hiền trong thiên hạ.” Cuối cùng tha cho đi.
Ít lâu sau, Dự Nhượng lại sơn mình làm người hủi, nuốt than làm người câm khiến không ai nhận ra hình dạng kể cả vợ con và bạn bè. Một hôm, ông dò biết Tương Tử sắp đi chơi bèn nấp dưới cầu chỗ Tương Tử phải đi qua. Khi đến cầu, con ngựa thốt nhiên sợ hãi lồng lên. Tương Tử nói “Ðây chắc là Dự Nhượng rồi”. Rồi sai người tìm dưới gầm cầu quả bắt được Dự Nhượng.
Ông bèn trách Dự Nhượng: “Nhà ngươi đã từng phò tá Phạm Trung Hàn, Trí Bá diệt họ thế mà ngươi chẳng báo thù cho họ lại còn phải gửi mình làm tôi cho Trí Bá. Nay Trí Bá chết rồi, tại sao nhà ngươi lại một mình vì hắn mà báo thù sâu sắc như vậy?”
Dự Nhượng đáp: “Trước kia tôi phò tá Phạm Trung Hàn, nhưng Phạm Trung Hàn đãi tôi như bọn tầm thường nên tôi lấy cách tầm thường mà ở lại. Sau tôi phò tá Trí Bá, Trí Bá đãi tôi vào bậc quốc sĩ nên tôi lấy cách quốc sĩ mà ở lại.”
Triệu Tương Tử thở dài, ngậm ngùi khóc mà rằng: “Dự Nhượng, nhà ngươi vì Trí Bá mà báo thù, nay danh cũng đã thành rồi, quả nhân tha cho nhà ngươi như thế cũng đã đủ, nhà ngươi hãy tự liệu lấy, quả nhân không tha cho nhà ngươi nữa.”
Dự Nhượng nói: “Việc ngày hôm nay cố nhiên tôi xin chịu chết, nhưng nhà Vua cho tôi xin cái áo của ngài, để tôi được thỏa ý định báo thù, tuy chết mà cũng không ân hận.” Tương Tử khen là người có nghĩa và sai người cầm áo đưa cho Dự Nhượng. Dự Nhượng tuốt kiếm, nhảy lên đâm 3 lần và nói: “Ta có thể chết để báo ơn Trí Bá được rồi!”
Nói đoạn phục gươm tự sát.
dựng cờ nước Hán: Hán sử: Hàn Tín đánh Triệu, dùng quân kỳ binh, nhổ cờ Triệu dựng cờ Hán. Xem Hàn Tín.
đa đa: xem Di, Tề.
đai ly châu: đai ngọc quý. Ly châu: ngọc, ý từ sách Trang Tử: “Ngọc châu nghìn vàng tất ở dưới hàm con ly long, dưới vực sâu chín trùng” (Thiên kim chi châu, tất tại cửu trùng chi uyên, nhi ly long hàm hạ).
đa nghi như Tào Tháo: thành ngữ này xuất phát từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Tào Tháo vốn đa nghi, sợ bị ám sát nên thường dặn kẻ hầu: “Lúc ngủ, ta hay mơ thấy giết người, bọn bây chớ lại gần.”
Ðêm kia, Tào Tháo đang ngủ, làm rớt mền, có một tên quân canh tiến đến gần lượm mền lên đắp lại. Tào Tháo liền vung gươm chém anh ta chết, rồi nằm xuống ngủ lại. Khi thức giấc, Tào Tháo giả đò kinh ngạc, quát lớn: “Ai đã giết kẻ hầu cận của ta?”
Mấy người biết chuyện cứ ngay tình mà kể hết. Tháo khóc rống, dạy chôn cất tử tế.
Ai cũng tin Thao nằm mơ thấy giết người, duy có Dương Tu là rõ ý Tháo. Ðến khi chôn, Tu chỉ quan tài tên quân canh, nói: “Không phải Thừa tướng chiêm bao, nhưng thiệt ngươi chiêm bao mà ra.”
đai Tử Lộ: đai (đặt trên đầu) để đội gạo của Tử Lộ. Nói cảnh người hiền tài mà gặp lúc cùng chưa đạt.
Theo Sử ký, Tử Lộ là tên tự của Trọng Do, học trò Khổng Tử. Người đất Biện nước Lỗ thời Xuân Thu, tính hiếu dũng, thích nghe điều lầm lỗi của mình, thờ mẹ rất có hiếu, thường phải đội gạo thuê hàng ngày trăm dặm lấy tiền nuôi mẹ (Trọng Ni đệ tử liệt truyện).
Thơ Vương Nguyên Chi (dịch Nôm):
Nghèo hiếm gạo Trọng Do
nhiều người bỏ học Ðổng.
Ý nói bỏ cả việc học.
đan quế: cây quế vỏ đỏ, chỉ người con giỏi nối được chí cha ông mà làm nên.
Tống Sử: Ðậu Vũ Quân, người đất Ngự Dương, triều Hậu Tấn thời Ngũ Đại, giữ chức Tả gián nghị Ðại phu, nhà có danh vọng, khuôn phép, tính thích sưu tập sách vở, hậu đãi người hiền kẻ sĩ. Khi ông làm quan, hiều sĩ bốn phương được cất nhắc bổ dụng. Năm người con trai ông kế tiếp nhau thi đỗ cao. Người đời khen ngợi, gọi là Yên Sơn Đậu thị ngũ long (5 con rồng họ Ðậu đất Yên Sơn).
Đương thời vị Thị lang tên là Phùng Đạo làm tặng Đậu Yên Sơn bài thơ:
Yên Sơn Đậu thập lang
Giáo tử hữu nghĩa phương
Linh xuân nhất chu lão
Đan quế ngũ chi phương.
Nghĩa:
Đậu thập lang ở Yên Sơn
Dạy con rất có đạo lý
Một cội linh xuân già
Trổ ra năm cành quế thơm.
Hồng Ðức quốc âm:
Thơm tho dòng đậu cành đan quế
Ấm áp sân điền khóm tử kinh.
đá ba sinh: Đường thư: nhà sư Viên Quan gặp Lý Nguyên, trỏ viên đá ở Tam Giáo: “Đây là chỗ thác sinh của ta, 12 năm sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây”. Đến đêm, Viên Quan chết, 12 năm sau, Lý Nguyên lại đến chỗ cũ, gặp một mục đồng, tức là Viên Quan. Về sau người ta dùng điển này để chỉ cuộc tình duyên của một đôi trai gái, phải trải qua kiếp khác, có khi phải trải qua ba kiếp, vì thế gọi là ba sinh.
đánh trống qua cửa nhà sấm: từ câu bố cổ Lôi Môn. Thời Xuân Thu, Ngô Vương là Phù Sai đóng đô ở Cô Tô, cho xây thành trong đó có một cửa được gọi là Xà Môn (Cửa Rắn) nhằm trấn áp nước Việt. Người Việt làm Lôi Môn (Cửa Sấm) để chống lại. Vì thế, việc đánh trống thị oai trước Cửa Sấm không có tác dụng gì: hễ đánh trống lớn ở Cửa Sấm thì Cửa Rắn lập tức mở ra để dò xem động tĩnh.
Đồng nghĩa: Múa rìu qua mắt thợ, Múa búa trước cửa Lỗ Ban.
đáy giếng thang lầu: chỉ sự chung thủy của người phụ nữ.
1: Vợ Trần Trọng là Trương Thị cùng 2 người dâu gặp giặc, không chịu nhục bèn nhảy xuống giếng tự tử (Ðời Ðường).
2: Lạc Châu là hầu yêu của Thạch Sùng, có nha sắc tuyệt vời, bị Tôn Tú mưu hiếp làm tờ chiếu giả bắt Thạch Sùng. Nàng biết vì nàng mà Sùng bị nạn bèn nhảy xuống lầu tự tử (Ðời Tấn).
đà: tên một giống cá có chân (như kỳ đà), dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. Từ đó, thời gian một canh được gọi là “canh đà”.
đàm tiếu hôi phi: được rút gọn từ câu nói về Chu Du: “Khăn lượt quạt lông đang nói cười mà quân địch tan tác như tro bay khói bặt.” Lấy trong bài từ Xích bích hoài cổ theo điệu “Niệm Cô Kiều” của Tô Thức đời Tống. Ðàm tiếu hôi phi chỉ việc bị đánh tan tác một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Cả câu nói việc Tào Tháo bị Chu Du đánh bại ở trận Xích Bích. Ðây là trận đánh mà nhờ mưu trí, liên quân Tôn Quyền, Lưu Bị đã lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.
Đào Chân (183–221): còn được gọi là Chân Mật hoặc Chân Lạc, cũng thường được gọi là Chân thị hoặc Chân Phu nhân. Đào Chân tạo ra một số câu chuyện ly kỳ vì làm cả ba cha con Tào Tháo si mê, sau làm phi của Hoàng đế Tào Phi và là mẹ của Hoàng đế Tào Duệ, cuối cùng được truy phong làm Hoàng hậu. Thời đó, dân gian vẫn truyền tụng câu: “Giang Nam có hai Kiều thì Hà Bắc có Chân Mật quốc sắc”.
Theo Tam Quốc chí, Đào Chân người Huyện Vô Cực, Quận Trung Sơn, là hậu duệ của quan Thái bảo Chân Hàm thời nhà Hán, nhà nhiều đời làm quan. Đào Chân từ nhỏ đến lớn không thích đùa bỡn. Năm lên tám tuổi, ở ngoài nhà có kẻ đứng trên ngựa diễn trò, người nhà và các chị gái lên lầu ngắm xem, riêng Đào Chân không đi. Các chị lấy làm lạ mới hỏi, Đào Chân đáp rằng: “Đó há phải điều mà con gái xem sao”? Năm Đào Chân chín tuổi, thích viết chữ, nhìn chữ liền biết, nhiều lần dùng nghiên bút của các anh. Các anh bảo Đào Chân rằng: “Mi nên tập việc của con gái. Đụng vào sách vở học tập, muốn làm Bác sĩ nữ chăng?” Đào Chân đáp rằng: “Nghe nói các vị đàn bà thời xưa, không có ai không học những việc thành bại của đời trước, lấy đó để răn mình. Chẳng biết chữ, làm sao biết được việc ấy?”
Năm Đào Chân hơn mười tuổi, bẩm mẹ rằng: “Nay đang thời loạn mà lại mua nhiều vật báu, làm kẻ thất phu thì vô tội, người đeo ngọc là có tội. Lại nữa tả hữu đều đói thiếu, chẳng bằng đem lúa phát chẩn cho họ hàng làng xóm, để mở mang ân huệ.” Cả nhà khen hay, liền theo lời Đào Chân.
Năm Đào Chân mười bốn tuổi, anh giữa là Nghiễm mất, để tang qua kỳ, thờ chị dâu rất cung kính, chăm chỉ các việc, chăm sóc con của Nghiễm, thương yêu hết mực. Mẹ của Đào Chân bản tính nghiêm khắc, đối đãi các nàng dâu như đạo thường. Đào Chân mấy lần can mẹ rằng: “Anh con không may chết sớm, chị dâu còn ít tuổi mà vẫn giữ tiết, chỉ còn có một đứa con, theo nghĩa lớn mà nói, việc đối đãi phải như nàng dâu, yêu mến nên coi như con gái.” Mẹ cảm lời Đào Chân mà rơi lệ, liền sai Đào Chân và chị dâu cùng ở, ngủ nghỉ đứng ngồi cùng theo nhau, tình cảm càng thân thiết.
Đào Chân lớn lên có sắc đẹp tuyệt trần, nết na luôn đằm thắm, cầm kỳ thi họa tinh thông, tức là đủ các mặt công dung ngôn hạnh. Năm 191, Viên Thiệu cho con giữa là Viên Hy lấy Đào Chân. Viên Hy tuy thuộc loại quý công tử, nhưng chắc không phải là kẻ biết “thương hoa tiếc ngọc”, nên Chân thị có làm bài thơ Đường thượng hành kể cuộc sống buồn chán của mình.
Sau khi Viên Hy ra quản U Châu, Đào Chân ở lại chăm sóc mẹ chồng là Lưu phu nhân.
Bấy giờ Viên Thiệu chiếm cứ bốn châu là Ký, Tinh, U, Thanh, binh lực rất hùng hậu, oai trấn tứ hải. Nhưng năm 200, xảy ra Trận Quan Độ, Viên Thiệu bị Tào Tháo đánh cho cho đại bại thê thảm. Sau Viên Thiệu bị xấu hổ, uất ức sinh bệnh mà chết.
Hai người con của Thiệu là Viên Thượng và Viên Đàm tranh quyền kế vị, đem binh đánh lẫn nhau, làm tiêu hao thế lực còn lại của Viên Thiệu. Tào Tháo thừa cơ tấn công tiếp. Viên Đàm, Viên Thượng chống đỡ không nổi, bỏ chạy đến Nghiệp Thành. Nhưng hai anh em nhà họ Viên vẫn tìm đủ cách tiêu diệt lẫn nhau. Sau Viên Đàm phải chạy sang cầu cứu Tào Tháo. Cuối cùng Tháo tiêu diệt được toàn bộ lực lượng của Viên Thiệu.
Năm 204, Tào Phi cũng theo cha đánh đông dẹp bắc. Sau khi phá vỡ được Nghiệp Thành, Tào Phi vốn từng ái mộ tiếng Chân thị là người mỹ lệ nên xông thẳng vào phủ của họ Viên, rút kiếm nhảy xuống ngựa đi tìm. Lúc tiến vào hậu đường, Tào Phi chỉ thấy một phụ nữ vào tuổi trung niên, tự trói hai tay, ngồi khóc ở đấy. Kế bên có một người con gái trẻ mặt lấm lem, cũng đang run rẩy sợ hãi ôm chân mà khóc. Người đàn bà trung niên ấy chính là vợ của Viên Thiệu, họ Lưu. Còn người con gái là con dâu của Viên Thiệu, chính là Chân thị, bị Viên Hy bỏ lại khi vội vã đem đám tàn binh bại tướng chạy đi xa.
Tào Phi bảo rằng: “Lưu phu nhân sao lại làm như thế?” Rồi hỏi về người con gái kia. Lưu thị đáp rằng: “Là vợ của Hy”. Tào Phi bảo: “Để cho người đàn bà ngẩng đầu lên!” Mẹ chồng bèn ngoảnh sang vén búi tóc, lấy khăn lau mặt cho con dâu, rồi nâng mặt nàng lên. Tào Phi xem thấy Chân thị vẻ mặt tuyệt trần, khen ngợi và đâm ra si mê, xưng tên họ của mình, và bảo nàng cứ an lòng.
Vợ Viên Thiệu nghe nói là thế tử con của Tào Tháo, liền bảo với Chân thị vái chào. Chân thị e ấp thi lễ, khẽ đưa mắt kín đáo nhìn Tào Phi, thấy anh ta nghi biểu phong lưu anh tuấn, trong lòng bớt lo lắng. Còn Tào Phi lúc đó cũng ngây người ra, lòng bàng hoàng mừng rỡ.
Việc đã qua, Lưu thị bảo Chân thị rằng: “Chẳng lo chết nữa rồi!”
Chợt có tiếng người lao xao từ ngoài bước vào. Té ra là Tào Tháo. Ông này cũng từng nghe người ta nói đến sắc đẹp của Chân thị, nên hỏi ngay đến gia quyến thân thuộc của Viên Thiệu, nhưng lại chậm chân hơn con trai. Tào Phi bèn vào trong hậu đường dẫn Lưu thị và Chân thị ra.Tào Tháo nhìn thấy Chân thị quả là uyệt thế giai nhân, trong lòng cũng cảm thấy rung động, bèn hỏi Lưu thị: “Sao nhà chỉ có hai người thôi à?”
Lưu thị đáp: “Các con thiếp đều đã bỏ chạy cả. Duy còn lại có người con dâu thứ hai này ở lại hầu hạ mà thôi. Nay nhờ thế tử gia ân bảo toàn, thật là vạn hạnh.”
Tào Tháo nhìn sang bên cạnh thấy Tào Phi hai mắt cứ đăm dăm nhìn Chân thị, trong lòng thầm hiểu Tào Phi muốn gì. Tào Phi bèn vội vã thưa với Tào Tháo: “Đời con chẳng mong gì khác, chỉ xin được người con gái này làm vợ, được như vậy là đủ mãn nguyện rồi. Xin cha nghĩ đến phận con chưa có gia đình mà thành toàn cho.”
Tào Tháo không thể từ chối, miễn cưỡng đồng ý, liền nhờ mai mối hỏi Chân thị làm vợ cho Tào Phi (dù khi đó Viên Hy vẫn còn sống), rồi chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn. Nhất quyết lấy bằng được một người đã có chồng để làm vợ chứ không phải làm thiếp, lại hơn mình sáu tuổi, đủ cho thấy Tào Phi thật sự tha thiết với Đào Chân.
Tương truyền Tào Thực, em Tào Phi, tuy nhỏ hơn Đào Chân 10 tuổi nhưng cũng muốn lấy nàng làm vợ. Nhưng Tào Tháo đã quyết định rồi. Năm đó, Tào Phi 18 tuổi còn Đào Chân 22.
Nhiều năm đầu, cuộc hôn nhân giữa Đào Chân và Tào Phi vô cùng hạnh phúc. Đào Chân càng được Tào Phi sủng ái lại càng tỏ ra khiêm tốn, ở hậu cung có ai được sủng ái thì cô đến khuyến khích, người không được sủng ái thì cô an ủi. Hễ nhân lúc nhàn rỗi, cô thường khuyên Tào Phi: “Ngày xưa Hoàng Đế con cháu đầy đàn đó là bởi vợ lẽ đông đảo, mới có được cái lộc ấy vậy. Xin tìm rộng để có nhiều dòng nối tự”. Tào Phi khen ngợi.
Về sau, Tào Phi truất Hiến Đế, cướp ngôi nhà Hán, lên làm hoàng đế năm 220, phong Đào Chân làm Chân Phu nhân. (Phu nhân là tước vị bậc cao của phi tần, chỉ dưới hoàng hậu.) Bà là mẹ của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ và Đông Hương Công chúa.
Về cái chết của Chân Phu nhân năm 38 tuổi, Tam Quốc chí chép rằng Sơn Dương Công dâng hai người con gái cho nhà Ngụy, được Tào Phi sủng ái. Chân Phu nhân bất mãn, có lời oán than. Tào Phi cả giận, nên năm thứ hai sai sứ giả bắt bà phải chết. Riêng Ngụy thư chép rằng Chân Phu nhân chết vì bệnh, nhưng Tam Quốc chí cho rằng đó không phải là sự thật mà chỉ là che giấu cái ác của nhà Ngụy.
Các bộ sử Ngụy lược, Hán Tấn xuân thu cùng Tư trị thông giám đều cho rằng Quách Nữ Vương (vợ lẽ của Tào Phi) là người có dã tâm tranh sủng: chính bà đã tạo điều tiếng khiến cho Tào Phi đâm ra chán ghét vợ đầu là Chân phu nhân. Trước khi bị ban chết, Chân phu nhân đã gửi con trai là Tào Duệ cho một phi tần khác là Lý phu nhân. Sau cái chết của Chân Phu nhân, Tào Phi hạ chiếu cho Tào Duệ làm con của Quách Nữ Vương (sau được phong hậu). Bà này không sinh đẻ nên coi Tào Duệ như con để có chỗ dựa sau này. Sau khi Tào Phi qua đời, Tào Duệ lên nối ngôi năm 226, tuy Quách Hậu không phải là mẹ ruột của tân hoàng đế, thế nhưng do là Hoàng hậu của Tiên đế nên bà nghiễm nhiên trở thành Thái hậu.
Tam Quốc chí trích Hán Tấn xuân thu: Lúc trước Chân Phu nhân bị giết là do Quách Hậu được sủng ái. Sau khi chết, Chân Phu nhân không được táng liệm theo nghi thức cho đúng tước vị phu nhân. Lại còn bị Tào Phi nhẫn tâm, nhỏ nhen ra lệnh không cho phép phủ mặt bằng gấm lụa như nghi thức thời bấy giờ, mà chỉ cho phủ trên mặt nàng bằng chính tóc của nàng. Và phải chôn úp sấp, cho không hưởng được ánh dương. Còn miệng thì nhét đầy bã cám, không dùng ngọc ngà châu báu theo nghi thức chôn cất của các bậc quý phi vương hầu thời bấy giờ, vì sợ nàng tái hồi dương thế. Cái chết của Chân Phu nhân quả là một cái chết oan ức, đầy thảm khốc. Sau này Tào Duệ biết, lòng thường mang hận, nhiều lần khóc hỏi về cái chết của Chân Phu nhân. Quách Thái hậu nói: “Tiên đế tự bắt giết, sao lại trách hỏi ta? Vả lại mi là người con, đáng lẽ căm thù người cha đã mất, vì mẹ cũ mà giết uổng mẫu hậu sao”? Tào Duệ giận, bèn ép giết Quách Thái hậu. Do Quách Thái hậu đã mất, lúc này Lý phu nhân mới nói ra sự thật chuyện Chân Phu nhân cho Tào Duệ nghe. Ông bi thống không thôi, truyền đem tóc che hết mặt của Quách Thái hậu rồi mới an táng bà ta theo đúng như cách an táng Chân Phu nhân ngày xưa.
Biết mẹ chết oan, Tào Phi truy phong Chân Phu nhân là Văn Chiêu Hoàng hậu. Sử sách thương nàng, thường gọi là Chân Hoàng hậu, hay Chân Hậu.
Khi mẹ của Chân Hậu mất, Tào Duệ mặc áo tang đến viếng bà ngoại, trăm quan đứng quanh. Thương cảm mẹ chết oan ức, Tào Duệ phong thưởng trọng hậu nhiều người bên nhà ngoại.
Sau khi Chân Phu nhân chết được 2 năm, có lần Tào Thực vào cung, Tào Phi đem một số đồ dùng của Chân Phu nhân trao cho, trong đó có chiếc gối ngọc chẩm. Tào Thực thấy vật nhớ người, khi trở về đất phong ở Quyên Thành, dạo chơi bên dòng Sông Lạc rồi trú đêm trong thuyền và mơ thấy nàng. Tào Thực tỉnh giấc làm ra bài Cảm Chân phú, tả giấc mơ gặp nữ thần Sông Lạc (Lạc Xuyên thần), là hình tượng của Đào Chân, qua đó diễn tả nỗi lòng của mình. Với sự tưởng tượng thần kỳ và từ chương hoa lệ, tình cảm tha thiết chân thành, bài phú trở thành một kiệt tác tình yêu trong văn học Trung Quốc.
Có thuyết cho rằng Tào Thực viết Cảm Chân phú là vì thương nhớ nàng Chân thị, người chị dâu. Sau đó hơn bốn trăm năm, vào năm 658, Lý Thiện, một văn học gia thời Đường, làm chú giải sách Văn tuyển có viết như sau:
Tào Thực muốn lấy Chân thị nhưng không toại nguyện. Tào Tháo gả Chân thị cho Tào Phi, khiến cho Tào Thực hết sức bất bình, ngày đêm tơ tưởng, đến bỏ cả ăn ngủ.
Sau khi Chân thị chết được hai năm, đến năm 223, Tào Thực đến Lạc Dương để triều kiến Ngụy Văn Đế Tào Phi. Có lẽ vì hối hận, Phi sai con là Thái tử Tào Duệ – người con do Chân thị sinh ra – mở tiệc và bồi tiếp Tào Thực. Tào Thực nhìn thấy cháu, tưởng nhớ đến Chân thị, lòng đau xót miên man. Bất giác rơi lệ.
Sau bữa ăn, Tào Thực được Tào Phi ban cho di vật của Chân thị. Đó là một chiếc gối đầu có dát ngọc và đai bằng vàng. Tào Thực mang chiếc gối đầu của Chân thị trở về đất phong của mình. Trên đường về, Thực đậu thuyền bên bờ Sông Lạc. Nhân vì lòng quá bi thống thương nhớ Chân thị, lại thêm đường trường lao lụy mệt mỏi, thần trí mông lung hoảng hốt, đứng ngồi không yên, Tào Thực bỗng mơ màng cảm thấy bóng Chân thị yểu điệu thướt tha từ xa lướt gió xuất hiện, nói: “Lòng thiếp vốn phó thác cho chàng, mà không được toại nguyện. Chiếc gối đầu này là của thiếp mang theo khi lấy Ngũ quan trung lang tướng [chức của Tào Phi khi chưa cướp ngôi nhà Hán], nay xin hiến tặng chàng”. Sau đó nàng sai người đem châu báu tặng cho Thực. Thực cũng đem ngọc bội tặng lại. Rồi cùng nhau hoan lạc. Cả hai vừa xót xa vừa bi thống. Xong thì biến đi.
Lúc Tào Thực hoảng hốt tình dậy. Té ra chỉ là một giấc Nam Kha. Khi về đến đất phong của mình ở Chân Thành, hình ảnh tao ngộ trong mộng với Chân thị bên bờ sông Lạc vẫn còn làm cảm kích, tâm hồn, đầu óc Tào Thực, lại thêm văn tứ dồi dào, nhân thế, Tào Thực mới viết Cảm Chân phú.
Từ bài viết của Lý Thiện, người đời sau mới đặt thành nghi vấn Tào Thực vì quá yêu Chân thị mà viết Cảm Chân phú.
Có phải thật sự Tào Phi vì yêu Chân thị mà viết Cảm Chân phú? Câu hỏi này trở thành một đề tài tranh luận kéo dài cả ngàn năm nay, vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Có hai quan điểm chống đối lẫn nhau.
1/ Lý luận phủ nhận Tào Thực yêu Chân thị
Chân thị là vợ Tào Phi, mà Tào Thực là em của Tào Phi. Em trai mà dám ngang nhiên yêu chị dâu về mặt đạo lý gia tộc là điều bất nghĩa, và về mặt quân thần là điều bất trung, một tội mà cổ nhân thường gọi là đại nghịch bất đạo. Với lý luận như thế, một số nhà nho xưa phản bác giả thuyết trên dựa theo những sự kiện sau.
- Khó có khả năng Tào Thực lúc 12 tuổi cầu xin cha là Tào Tháo cưới một thiếu phụ 22 tuổi đang có chồng (tức Viên Hy) để làm vợ.
- Không thể nào Tào Thực dám yêu chị dâu vì anh ta phải lo giữ mạng sống của mình trong khi đang bị Tào Phi áp bức, nhân đang diễn ra tranh chấp về quyền hành chính trị và quyền nối ngôi báu.
- Trong khi đang áp bức Tào Thực, lẽ nào Hoàng đế Tào Phi an nhiên để cho em trai bôi nhọ vợ mình sao? Rồi kẻ làm con là Thái tử Tào Duệ, lẽ nào chịu để cho chú ruột làm mất danh dự của mẹ mình sao? Không có ghi chép nào về mâu thuẫn tình cảm giữa Tào Phi, Tào Thực và Tào Duệ.
- Bản chú thích Văn tuyển của Lý Thiện không có lời chú dẫn như trên đây, mà do Vưu Mậu, người đời Tống nhầm lẫn khi san đính lại.
2/ Lý luận đồng tình việc Tào Thực yêu Chân thị
Tào Tháo tiếp tục tiến hành chiến tranh để chinh phục miền nam, nên Tào Phi với địa vị con trưởng thường phải xa nhà, đi ra chiến trường. Vì thế, Chân thị trở thành phòng không lạnh giá. Tào Thực được ở nhà, sẵn có tâm hồn lãng mạn, hay mộng mơ, lại thường có cơ hội ở gần chị dâu Chân thị, tình cảm dần nẩy nở. Rồi thời gian trôi đi, Tào Thực lớn lên dần, sự cách biệt tuổi tác cũng dần xóa mờ. Khi Tào Thực 20 và Chân thị 30 thì hầu như khó thấy sự cách biệt.
Thời cận đại, nhà thơ Hoàng Cầm từng kể rằng lúc chỉ mới 12 tuổi, ông đã phải lòng một cô láng giềng xinh đẹp lớn hơn mình 8 tuổi. Ông cố đi tìm một thứ lá gọi là lá diêu bông, không biết là lá gì, để mong được làm chồng người chị hàng xóm xinh đẹp đó.
Về sau, Ngụy Minh Đế Tào Duệ, con của Chân thị, lên nối nghiệp Tào Phi, muốn tránh tiếng cho mẹ, mới đổi tựa Cảm Chân phú thành Lạc Thần phú.
Xem thêm: Cảm Chân phú hay Lạc Thần phú.
Ðào Công: tức Ðào Chu Công, tự hiệu của Phạm Lãi. Theo Sử ký, Phạm Lãi phò tá Câu Tiễn, khổ mình nhọc sức cùng Câu Tiễn mưu toan trong hơn 20 năm. Kết quả diệt được nước Ngô, rửa được cái nhục ở Cối Kê. Câu Tiễn làm Bá còn Phạm Lãi làm Thượng tướng quân. Khi về nước, Phạm Lãi cho là danh lớn khó lòng ở lâu được, vã lại Câu Tiễn là người hoạn nạn thì có nhau nhưng khi vui thì khó lòng mà ở được. Phạm Lãi bèn soạn gói các châu ngọc và của cải nhẹ mà cùng đầy tớ riêng ra biển đi sang Tề. Ở đó ông đổi họ tên, cày ruộng khổ công cố sức, cha con cùng lo làm ăn, không được bao lâu của cải đã có đến hàng mấy chục triệu. Người nước Tề nghe tiếng ông hiền bèn mời làm tướng quốc. Phạm Lãi trả ấn tướng quốc, đem tất cả tài sản cho bạn bè làng xóm, chỉ mang những của thực quý mà trốn đi. Phạm Lãi dừng lại ở đất Ðào, cho nơi đó là ở giữa thiên hạ, tiện đường đổi chác buôn bán để làm giàu. Phạm Lãi tự gọi mình là Ðào Chu Công.
Đào Duy Từ (1572–1634), hiệu là Lộc Khê, quê ở Thanh Hóa, là nhà quân sự, nhà thơ, nhà văn hóa, nhà kỹ thuật thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc họa hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một nghệ sư tài hoa, là người góp phần định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Vì vậy ông được coi là đệ nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.
Dưới thời chúa Trịnh, Đào Duy Từ thi hương đỗ Á nguyên khi mới chỉ 21 tuổi. Nhưng sau đó ông bị triều đình ra lệnh lột mũ, xóa tên bảng vàng vì bị phát giác là con nhà phường chèo, phải đổi họ đi thi, thuộc tầng lớp “xướng ca vô loại”, buộc ông phải lặn lội vào Nam lập nghiệp.
Khi vào ra mắt Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Đào Duy Từ cao đàm hùng luận, tỏ ra rất am hiểu việc đời. Nguyễn Phúc Nguyên mừng lắm, liền sau đó chúa họp bàn đình thần phong cho Đào Duy Từ làm Nha úy Nội Tán, tước Lộc Khuê Hầu, trông coi việc quân cơ ở trong và ở ngoài.
Từ đấy Duy Từ nói gì chúa Nguyễn cũng nghe. Ông bày mưu vạch kế giúp chúa Nguyễn làm nên nhiều việc lớn. Chúa Nguyễn thường nói với mọi người: Đào Duy Từ thật là Tử Phòng và Khổng Minh ngày nay.
Năm 1634, Đào Duy Từ lâm bệnh nặng rồi mất, thọ 63 tuổi. Đến năm 1807 đời Vua Gia Long thì được cho vào thờ ở Thái Miếu, đến thời Vua Minh Mạng được truy phong tước Hoằng Quốc Công.
* Giai thoại 1: Đối đáp của kẻ chăn trâu
Theo Nguyễn Thanh Điệp (2018), ngày mới vào Nam, vì chưa có chỗ trú chân nên Đào Duy Từ phải vào tận Hoài Nhơn (Bình Định) làm nghề chăn trâu cho phú ông. Chính tại đây, trong một lần giao lưu, ông bộc lộ được trí tuệ uyên bác của mình, khiến nhiều học giả phải nể trọng, tạo tiền đề cho con đường tiến thân sau này.
Sách Việt sử giai thoại chép rằng một hôm, khi nhà phú nông đang vui vẻ đàm luận kinh sử, Đào Duy Từ dắt trâu về chuồng. Biết đó là đám quan Nho, ông đặt chân lên bậc thềm và nhìn chằm chằm không chào hỏi gì.
Khi bị gia chủ mắng là “kẻ chăn trâu không biết gì”, Đào Duy Từ cười vang rồi nói: “Trong làng Nho cũng có quân tử, cũng có tiểu nhân. Trong bọn chăn trâu cũng có kẻ chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ”.
Khách nghe Đào Duy Từ đáp như thế rất lấy làm ngạc nhiên, bèn hỏi: “Ngươi bảo ai là Nho quân tử, ai là Nho tiểu nhân?”
Đào Duy Từ cười đáp: “Nho quân tử thì phải thông hiểu tam tài, ở nhà lo giữ đạo cha con, anh em và vợ chồng, khi ra giúp việc cho nước nhà phải biết tìm mưu lược để giữ yên lòng dân và cứu chỗ hiểm, phò chỗ nguy, bày binh bố trận, phải lập công danh sự nghiệp, để tiếng thơm lại cho mai sau, đời đời còn rạng rỡ, ngàn năm không phai mờ. Còn như Nho tiểu nhân, tài học nhiều lắm cũng ở mức tầm chương trích cú, chỉ muốn thong dong nơi bút mực văn chương để cầu danh lợi, mượn Nho để cười gió giỡn trăng, coi thường những kẻ hào kiệt ở đời.”
Khách nhà Nho nghe nói thì cả kinh, bèn hỏi tiếp: “Thế nào là kẻ chăn trâu anh hùng, thế nào là kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ, ngươi thử nói tiếp cho rõ ràng xem!”
Đào Duy Từ lại mỉm cười rồi nói: “Kẻ chăn trâu anh hùng thì như Ninh Thích (A) phục hưng được nước Tề, Điền Đan (B) dùng kế hỏa công mà thu phục những thành trì bị người nước Yên chiếm cứ, Hứa Do (C) dắt trâu ra khe uống nước mà cũng biết được lẽ hưng vong và thịnh loạn, Bách Lý Hề (D) đi chăn dê vùng miền trung nước Tần mà cũng nắm vững sự thịnh suy, bĩ thái… Còn như kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ thì chỉ biết đói thì ăn, no thì bỏ, ngày bỏ mặc trâu để đi ăn trộm quả, đêm ngủ say mà quên cả việc bỏ rơm cho trâu bò ăn thêm. Bọn ấy chỉ biết thân mình, dầm mưa dãi gió, ra không biết kính sợ quỷ thần, vào không biết làm gì cho mẹ cha nhờ cậy, lêu lổng chơi bời vô độ, khi vui thì mặc sức reo hò múa hát, khi giận thì chẳng kể ruột thịt thân sơ, làm xấu cả cha anh, gieo oán hờn cho làng xóm. Bọn ấy chẳng cần hỏi tới làm gì”.
Chú thích:
(A) Ninh Thích: Tướng quốc nước Tề là Quản Trọng gặp một người chăn trâu, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách ngồi trên lưng trâu, gõ sừng ca hát. Quản Trọng thử thách trình độ học thức. Ninh Thích ứng đáp rất rành mạch. Quản Trọng tiến cử Ninh Thích cho Tề Hoàn Công. Ninh Thích được phong Đại phu, cùng với Quản Trọng coi việc quốc chánh.
(B) Ðiền Ðan: Người thời Chiến Quốc, có tài sử dụng trâu vào chiến trận. Có lần Ðiền Ðan cho cắm dao nhọn vào đầu trâu rồi buộc giẻ tẩm dầu vào đuôi trâu mà đốt, đàn trâu bị đốt nóng điên cuồng xông vào trận địa giặc.
(C) Hứa Do: Ẩn sĩ danh tiếng sống vào thời Đường Nghiêu. Vua Nghiêu nghe tiếng người giỏi bèn đến tìm, cố thuyết phục để nhường ngôi cho. Hứa Do từ chối, rồi ra bờ suối rửa tai coi như mình chưa từng nghe thấy gì cả. Bấy giờ, Sào Phủ cũng là ẩn sĩ trứ danh đang dắt trâu xuống uống nước. Sào Phủ nghe chuyện của Hứa Do liền dắt trâu đi chỗ khác vì không muốn cho trâu uống phải thứ nước đã hoen ố.
(D) Bách Lý Hề: Người nước Ngu, rất nghèo khổ, không người tiến cử nên không thể thi thố tài năng, đành phải nhận công việc chăn dê, bò cho một nhà để chờ cơ hội, nhưng rồi bị nước Sở bắt. Có người biết Bách Lý Hề là nhân tài, tiến cử ông với Tần Mục Công. Ông này dùng 5 tấm da dê để xin chuộc Bách Lý Hề, mà không dùng hậu lễ vì e nước Sở biết Bách Lý Hề là nhân tài mà giữ lại. Tần phong Bách Lý Hề làm Hữu tướng (tương đương thừa tướng thứ nhất), lúc ông này đã 70 tuổi.
Khách nghe Đào Duy Từ ứng đối lưu loát, đã bác cổ lại thông kim, nên ai nấy đều ngồi nhìn và lòng thì lấy làm kinh hãi. Không ai bảo ai, tất cả đứng dậy khoanh tay thưa rằng: “Ông quả là bậc thầy cao minh”.
Nói rồi, mời Đào Duy Từ lên ngồi chiếu trên. Từ đó, gia chủ may sắm quần áo mới cho Đào Duy Từ, mời ngồi giảng sách, không bắt đi chăn trâu nữa.
Sau buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ lan truyền. Bấy giờ có một vị quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lý Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lý họ Trần nhận thấy Duy Từ có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.
Khi đã có chốn nương thân vững chắc, Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm Ngọa Long cương vãn của mình cho Trần Đức Hòa xem. Nội dung bài chính là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, vì chưa được thi thố tài năng nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long. Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:
Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên.
Khám lý Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài Ngọa Long cương của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, nên tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử Duy Từ với chúa.
Bấy giờ Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đang có ý định kén chọn nhân tài để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ cảm thấy tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lý Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.
Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề, nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng vì chưa có chức tước!
Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ nên mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.
Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ: “Người kia là ai vậy, thưa cha?”
Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời: “Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy. Người đang đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!”
Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại, chực không đi nữa. Khám lý Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu lại quở trách: “Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha!”
Duy Từ đáp: “Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.”
Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.
Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường chỉ cốt quỵ lụy được ra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến.
Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Nha úy Nội tán Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Từ đây, Đào Duy Từ chính thức bước vào con đường quan lộ.
* Giai thoại 2: Đối đáp với Chúa Trịnh
Sau khi dò la biết được Đào Duy Từ bày mưu cho chúa Nguyễn, chúa Trịnh tiếc người tài, tìm cách lôi kéo ông theo về với triều đình Đàng Ngoài, và việc này tạo nên một giai thoại.
Việt Nam có bài ca dao:
Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra!
Tương truyền bài ca dao này do Đào Duy Từ làm ra. Đào Duy Từ người gốc Bắc, không được Chúa Trịnh trọng dụng nên bỏ vào Nam rồi được Chúa Nguyễn trọng đãi. Rồng đủ vi cánh lại gặp gió to, tài thao lược của họ Đào vang dậy đến Bắc Hà. Chúa Trịnh Tráng bấy giờ lấy làm hối tiếc, cho người lén vào Nam, đem lễ vật quý báu tặng Đào, yêu cầu Đào trở lại giúp mình. Đào từ chối bằng mấy câu ca dao, mượn lời của một cô gái có chồng đã khéo léo từ khước người yêu mình để nhắn gởi chúa Trịnh.
Tuy vậy, chúa Trịnh không nản, vẫn tiếp tục theo đuổi, dụ dỗ. Đào Duy Từ lại phải gởi nhắn thêm hai câu thơ lục bát về Bắc, ý chí keo sơn kiên quyết của mình:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen
Đào Duy Từ hoạch định những chính sách như sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với lòng dân, giúp Đàng Trong có được nền tảng vũng chắc để mở rộng về phương nam và phát triển vượt bậc về sau này. Ông giúp chúa Nguyễn xây dựng bộ máy triều đình rất hợp lòng dân khi đó.
Công trình lớn lao nhất của Đào Duy Từ là hệ thống Lũy Thầy mà ông là tổng công trình sư, nhằm tạo ra những công sự phòng thủ chống lại những đợt tấn công của quân Trịnh.
Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2020a).
Đào Duy Từ còn có những đóng góp lớn cho hậu thế ở lĩnh vực nghệ thuật. Các tác phẩm như Hổ trướng khu cơ, Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá.
Lộc Khê Đào Duy Từ – Huỳnh Thúc Kháng:
Bể dâu thay đổi mấy triều cương
Lũy cũ xanh xanh một giải trường
Rêu đá lờ mờ kinh Hổ trướng
Gió lau leo lắt phú Long Cương
Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng?
Con cháu còn đây, giống vẫn cường
Công đức miệng người ghi tạc mãi
Ngàn thu mấy kẻ biết trông gương!
đào kia đành trả mận này: Thơ cổ nhạc Phủ, nghĩa là cây đào sinh trên giếng lộ, bên có cây lý. Con sâu đến cắn rễ đào, cây lý chết thế cho cây đào (lý tức là cây mận). Ví người thế chân cho nhau trong lúc hoạn nạn.
Ðào Khản: xem Họ Ðào vận bịch.
đào kiểm: đào tức là hoa đào, kiểm là gò má, đào kiểm có nghĩa má màu hoa đào, chỉ người đẹp.
Thời Vua Thuận Ðế nhà Nguyên (1280- 1368) có nàng cung phi tên Qua Tiểu Nga được phong chức Thục Cơ nhất phẩm phu nhân. Nàng có thể chất rất lạ: má trắng ửng hồng, mỗi khi rửa mặt hoặc ra mồ hôi thì mặt lại càng tươi như hoa đào, sắc đẹp lộng lẫy thêm. Vua Thuận Ðế gọi là “Yêu đào nữ” (gái đào tơ). Nhân đó, trong cung xưng tụng nàng là “Ðào kiểm phu nhân”.
Cung oán ngâm khúc:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành.
Xem thêm mục: thu ba.
Đào Nguyên: đào là hoa đào, nguyên là con suối, Đào Nguyên là địa danh chỗ tiên ở, còn được gọi là Động Đào, Động Bích hay Động Nguyên bích. Những từ này bắt nguồn ở bài Ðào hoa nguyên lý của Ðào Tiềm. Theo Đào hoa nguyên (Suối hoa đào) của Đào Uyên Minh, tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở Huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú. Định co người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.
Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: “Làm sao đến được chốn này?” Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.
Những bậc phụ lão lại nói: “Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà Tấn.”
Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây.
Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.
Từ đời nhà Tần (221 tCN) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi, trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.
Có tính hiếu kỳ, viên Thái thú sai người đi theo chàng ngư phủ tìm lại động Đào Nguyên, nhưng hai người bị lạc đường đành phải trở về.
Hoa tiên:
Nào hay là khách Đào nguyên đã về.
Đoạn trường tân thanh, Kiều nằm mộng thấy Đạm Tiên:
Rước nàng đón hỏi dò la:
Ðào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Đoạn trường tân thanh, Thúy Kiều lén sang chỗ ở của Kim Trọng trong khi nhà vắng:
Xắn tay mở khóa Động Đào
Rẽ mây trong tỏ lối vào Thiên Thai.
“Động Đào” là Động Đào Nguyên, Kiều dùng lối thậm xưng, đề cao chỗ ở của tình nhân như một cõi tiên, và nàng cũng vinh hạnh được vào… cõi tiên ấy.
Trong Tần cung nữ oán Bái Công văn của Nguyễn Hữu Chỉnh (?) có câu: “Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc ngư phủ đã đưa vào Động Bích”.
Ca khúc Thiên Thai – Văn Cao
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên.
. . .
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Video trình diễn sống, Lâm Nhật Tiến:
https://www.youtube.com/watch?v=hR6pi4EhxzU
Video trình diễn sống, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=uAe7R3wlux0
“Đào Nguyên”, “Động Bích”, “Động Đào” đều do điển tích trên.
Ðào thị: Theo Truyền kỳ Mạn lục, Ðào thị là ả danh kỷ ở Từ Sơn, tiểu tự Hàn Than. Niên hiệu Thiệu Phong thứ 5 (1345) đời nhà Trần, nhờ thông hiểu âm luật và chữ nghĩa mà được tuyển vào làm cung nhân nơi cung đình.
Vua Dụ Tông mất, nàng bị thải, thường đi lại tư thông với quan Hành khiển Ngụy Nhược Châu, bị vợ Nhược Châu đánh ghen, nàng bèn thuê thích khách trả thù, việc bại lộ phải cạo trọc đầu đến tu ở chùa Phật Tích, sau đó dựng am Cư Tĩnh, nhân dịp thuận tiện bỏ trốn đến chùa Lệ Kỳ (Huyện Chí Linh), quyến rũ sư Vô Kỷ, có thai rồi ốm chết. Vô Kỷ sau đó cũng ốm chết theo. Hàn Than lại đầu thai vào làm con Nhược Châu mưu tính trả thù xưa, cuối cùng bị sư Pháp Vân trừ khử.
Đào Tiềm (365-427): còn có tên là Uyên Minh, tự là Nguyên Lượng, quê ở Tử Tang, Tầm Dương nay thuộc Tỉnh Giang Tây. Ông thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc: ông cố là Đào Khản, một danh tướng của Đông Tấn làm đến chức Đại Tư mã, tước Quận công; ông nội và cha đều làm Thái thú; nhưng đến đời ông thì sa sút vì gặp thời loạn lạc, giặc giã liên miên mà sử Trung quốc ghi là Ngũ Hồ thập lục quốc; thời đắc thế của những kẻ gian hùng hoặc anh hùng.
Đào Tiềm là người tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. Bản chất thông minh, ham đọc sách. Lúc còn trẻ, ông mang rất nhiều hoài bão muốn ra giúp nước cứu đời, nhưng chẳng toại nguyện, cho nên nhiều lúc nhà không đủ cơm ăn. Nhà lại có cha mẹ già, nên năm 29 tuổi ông xin được chức Tế tửu ở Giang Châu – chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên chỉ được ít lâu từ quan về nhà cày ruộng; và việc cày cấy không đủ nuôi gia đình. Trước cửa nhà ông có năm cây liễu, nên ông còn lấy biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh, soạn truyện Ngũ Liễu tiên sinh để tự ví mình.
Năm 35 tuổi, vì sinh nhai ông lại xin làm tham quân, là một chức quan nhỏ cho Lưu Dụ (lúc bấy giờ là Tể tướng). Nhưng rồi ông thấy chốn quan trường ở Kinh đô Kiến Khang (thời Đông Tấn) đầy rẫy dã tâm tranh danh đoạt lợi dẫn đến sự tương tàn nên chán nản, xin đổi về địa phương.
Về sau, ông ra làm Huyện lệnh Bàng Trạch. Lương bổng Huyện lệnh chẳng là bao, mà Đào Tiềm vốn thanh liêm nên gia cơ chẳng mấy sung túc.
Dịch Quân Tả, một học giả người Trung Quốc, cho biết khi Đào Tiềm làm quan lệnh Bành Trạch, có quan đốc bưu (chỉ là một chức quan nhỏ giúp quan quận thú kiểm tra các huyện) đến huyện. Nha lại ở huyện đường vội thúc giục ông nên mặc quan phục với đai thắt lưng chỉnh tề để tiếp quan đốc bưu. Ông than rằng: “Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn lưng trước bọn hương lý tiểu nhi”. Nói rồi, nội ngày đó ông trả ấn từ quan đi về làng cũ. Trên đường ông hoàn thành bài Quy khứ lai để biểu lộ chí của minh. Quy khứ lai có nghĩa “Hãy đi về đi!” Chữ “từ” là do người sau thêm vào.
Quy khứ lai từ – Đào Tiềm
Bài văn về việc trở về – Bạch Thủy dịch thơ
Vườn xưa bỏ phế đã lâu
Người còn mê tỉnh nơi đâu chưa về?
Bấy lâu làm một chú hề
Mặc cho ngoại cảnh kéo lê thăng trầm
Hôm nay đã tỏ sai lầm
Không mau quay lại, kiếp tầm tiếc chi?
[…]
Ông lui về quê ở Tử Tang; bấy giờ đã 41 tuổi. Từ đó, khi thấy rằng chẳng ứng dụng được nho học vào đời, ông quyết ẩn cư nơi thôn dã, tìm vui vào đạo Lão Trang, lãng du thâm sơn cùng cốc. Ông sống cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm cúc để thưởng hoa. Ông có hai câu thơ (dịch Nôm):
Dưới cửa sổ mé nam nhà ta
nay mấy khóm cúc đã mọc.
Giai đoạn này ông sáng tác nhiều nhất, mà đến nay vẫn còn lưu bộ Đào Uyên Minh tập gồm 10 cuốn. Thơ ông có giọng siêu trầm, bạt tục, lời bình dị, điềm đạm, mà thú vị, nhất là những bài tả cảnh vui điền viên, đương thời không mấy người chú ý (vì không hợp với phong trào duy mỹ), nhưng đời sau ai cũng phải nhận rằng khoảng 400 năm trời Nam Bắc Triều, không ai sánh với ông được. Tô Đông Pha đời Tống rất quý ông.
Ông nghiêng về thơ, ít văn; nhưng thơ và văn của ông đều bình dị tự nhiên mà ý tứ lại thâm trầm, chứ không chuộng lối biền ngẫu của giới sĩ phu đương thời. Ông được xem như là nhà thơ điền viên đầu tiên của Trung Quốc đến nỗi những bậc kỳ tài về sau như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Liễu Tôn Nguyên, Vương An Thạch, Tô Đông Pha đều chịu ảnh hưởng của ông khi ca tụng thiên nhiên hay an vui ẩn dật.
Trong các trước tác của ông có bài Đào hoa nguyên ký (Chép chuyện suối hoa đào), vốn là bài tựa cho bài thơ Đào hoa nguyên thi hết sức nổi tiếng trên văn đàn.
Thơ Ðỗ Phủ:
Cúc trước cửa nhà quan lệnh họ Ðào
còn thừa hoa để tặng bác.
Quốc âm thi tập:
Ðầu tiếc đội món khăn Ðỗ Phủ
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh.
Ðào Uyên Minh: xem Đào Tiềm.
đào yêu: nguyên lấy chữ đào yêu trong Kinh Thi. Thơ Đào yêu gồm ba chương:
I
Đào chi yêu yêu
Thước thước kỳ hoa
Chi tử vu qui
Nghi kỳ thất gia
II
Đào chi yêu yêu
Hữu phần kỳ thật
Chi tử vu qui
Nghi kỳ gia thất
III
Đào chi yêu yêu
Kỳ điệp trăn trăn
Chi tử vu qui
Nghi kỳ gia nhân
Tạm dịch:
I
Mơn mởn đào non
Rực rỡ nở hoa
Cô ấy lấy chồng
Êm ấm cửa nhà
II
Mơn mởn đào non
Lúc lỉu quả sai
Cô ấy lấy chồng
Êm ấm nhà ai
III
Mơn mởn đào non
Lá xanh rườm rà
Cô ấy lấy chồng
Thuận với người nhà
(Bản dịch của Lê Văn Hòe)
Yêu đào tức là cây đào non mơn mởn. Người ta ví một người con gái dậy thì đến tuổi lấy chồng với yêu đào.
Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh Thúy Kiều sang thư phòng người yêu là Kim Trọng, khi chàng này sắp sửa không còn giữ vẻ đứng đắn, Kiều mới khuyên ý trung nhân, có câu:
Vẻ chi một đóa yêu đào!
Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh.
Đoạn Kim Trọng và Thúy Kiều tái hợp, Thúy Vân khuyên chị kết duyên lại cùng Kim Trọng, có câu:
Đào non, sớm liệu, xe tơ kịp thì.
Đại Nam liệt truyện: bộ sách lịch sử có quy mô khá đồ sộ, ghi chép gia phả nhà Nguyễn, các sự tích, công trạng của công thần, liệt nữ và danh tăng… viết bằng chữ Hán do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Đại Nam liệt truyện gồm 2000 trang bản thảo, chia làm hai phần chính: Tiền biên và Chính biên.
- Tiền biên ghi chép tiểu sử của các nhân vật hậu phi, hoàng tử, công chúa và quan văn võ của 9 đời chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng cho đến Nguyễn Phước Thuần.
- Chánh biên biên soạn từ năm Tự Đức thứ 5 (1852), bổ sung chỉnh lý liên tục, mãi đến đầu đời Thành Thái (1889) mới được khắc in.
Đại Nam thực lục: bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bằng chữ Hán. Ban đầu, bộ sách mang tên Đại Nam thật lục. Tới đời Vua Thiệu Trị, đổi thành Đại Nam thực lục để tránh kỵ húy với tên của thái hậu Tá Thiên, mẹ của Thiệu Trị.
Có những phần sau:
- Đại Nam thực lục Tiền biên: 9 chúa Nguyễn Đàng trong từ Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến hết đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777).
- Đại Nam thực lục Chính biên: các vua nhà Nguyễn, là phần chính yếu của bộ biên niên sử này, từ khi Nguyễn Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến đời Vua Khải Định (1925).
- Đại Nam liệt truyện tiền biên và Đại Nam chính biên liệt truyện.
Đại Nam thực lục là bộ sử liệu quan trọng của triều Nguyễn, nguồn tham khảo chính cho các bộ sách sử của Cao Xuân Dục (Quốc triều chính biên toát yếu) và Trần Trọng Kim (1971).
Trước năm 2003, bộ Đại Nam thực lục chính biên được lưu trữ tại Việt Nam chỉ gồm 6 phần từ đệ nhất kỷ đến đệ lục kỷ. Đến năm 2003, hai phần đệ lục kỷ phụ biên và đệ thất kỷ được ông Roger Ngô Thiết Hùng phát hiện ra là đang được lưu trữ tại trường Viễn Đông Bác cổ Paris, sau đó gửi tặng cho Viện Sử học Việt Nam bản sao chụp.
đại nghĩa diệt thân: tức vì nghĩa mà phải diệt trừ người thân.
Theo Đông Chu liệt quốc, một hôm Trịnh Trang Công nhận tin báo rằng Công tử nước Vệ là Chu Hu đã giết vua Vệ Hoàn Công mà soán vị. Trịnh Trang Công thất kinh, vỗ tay xuống bàn than: “Thôi rồi! Chẳng bao lâu nữa nước Trịnh ta xảy ra binh biến!” Các quan không hiểu, ngơ ngác hỏi: “Do đâu mà Chúa công lại tiên liệu như thế?”
Trịnh Trang công nói: “Chu Hu là một đứa hung hăng. Nay soán ngôi nước Vệ tất thị oai với các nước lân-bang. Nước ta trước kia có hiềm khích, chắc là bị va dấy binh đánh trước. Vậy phải đề phòng mới được.”
Chu Hu nầy nguyên là con thứ ba của Vệ Trang Công, lấy một cung nữ sinh ra Chu Hu. Chu Hu tánh hung bạo, nhưng Vệ Trang Công lại rất yêu quý. Do đó, Chu Hu mỗi ngày một lộng hành, bất chấp lời giáo huấn.
Thạch Thác thấy thế đã nhiều lần khuyên Vệ Trang Công: “Chúa công cần phải trấn áp Công tử, kẻo sau nầy khó tránh tai vạ!” Còn Thạch Thác cũng có một đứa con trai là Thạch Hậu, thường giao du với Chu Hu, rủ nhau săn bắn, luyện tập võ nghệ, làm lắm điều nhiễu hại dân chúng.
Thạch Thác cả giận đánh đập nhiều lần, nên Thạch Hậu bỏ nhà vào thành ở luôn với Chu Hu. Thạch Thác cũng đành bó tay trước đứa con ngỗ nghịch đó.
Sau Vệ Trang Công mất, con trai trưởng là Hoàn lên ngôi kế vị tức là Vệ Hoàn Công. Vệ Hoàn công vốn nhu nhược, không làm được việc lớn. Thạch Thác thấy thế cáo quan, không tham dự triều chính nữa.
Lúc bấy giờ Chu Hu không còn kiêng nể ai nữa, mưu tính với Thạch Hậu, toan việc cướp ngôi. Rồi gặp lúc Bình Vương nhà Châu mất, Vệ Hoàn Công sắp sửa đi điếu tang, Chu Hu được dịp bàn với Thạch Hậu.
Thạch Hậu nói: “Ðó là dịp tốt. Ngày mai Công tử bày tiệc tiễn hành đưa Chúa công. Tôi sẽ cho quân sĩ phục ở phòng tiệc. Lúc đang ăn uống Chu Công tử rút gươm ra mà hạ sát Chúa công đi thì lo gì không đoạt được ngôi báu.”
Chu Hu cả mừng, làm y kế.
Vệ Hoàn công không ngờ nên bị Chu Hu lén ra phía sau lưng rút gươm đâm một nhát bỏ mạng. Lúc đó, Thạch Hậu dẫn năm trăm quân giáp vây chặt Cung quán, nên không ai đám trái lệnh.
Giết Vệ Hoàn công xong, Chu Hu lên tức vị, và phong cho Thạch Hậu làm Thượng đại phu. Còn em ruột của Vệ Hoàn công là Tân bỏ trốn qua nước Hình lánh nạn.
Vừa lên ngôi được ba ngày, Chu Hu nghe dân chúng bàn tán về việc mình soán ngôi, lòng bực tức, kêu Thạch Hậu vào hỏi ý-kiến: “Nay ta mới tức vị, oai quyền trong thiên hạ chưa được bao nhiêu, muốn cho các nước nể vì, tất phải hưng binh chinh phạt. Vậy theo ý người nên đánh nước nào trước?”
Thạch Hậu tâu: “Trong các lân quốc, duy chi có nước Trịnh trước kia có thù hiềm với ta. Nay Chúa công muốn dựng binh, xin hãy đánh Trịnh trước.”
Chu Hu nói: “Nước Trịnh vừa lập minh thệ với nước Tề, nếu nay đánh Trịnh ắt Tề đem binh giúp, nước ta cự sao nổi?”
Thạch Hậu tâu: “Nếu muốn đánh Trịnh, Chứa công phải sai sứ sang nước Tống, nước Lỗ để cầu họ ra binh giúp sức. Rồi mượn thêm binh nước Trần, nước Sái hiệp lại mà đánh thì lo gì chẳng thắng!”
Năm nước họp lại cử nước Tống làm Minh chủ, Thạch Hậu làm Tiên phuông, Chu Hu đi hậu đạo. Thạch Hậu mới chỉ đạt một ít thắng lợi ban đầu đã ra lệnh rút quân về nước.
Chư tướng không rõ ý gì, kéo đến hỏi Chu Hu: “Binh ta thắng trận, lẽ ra phải thừa thế mà tấn công, sao lại lui binh?” Chu Hu nghe nói, đem lòng nghi ngờ, đòi Thạch Hậu đến chất vấn.
Thạch Hậu đuổi hết kẻ tả hữu ra ngoài, rồi nói với Chu Hu: “Binh Trịnh vốn đã mạnh, mà Trịnh Trang công lại là Khanh sĩ bên triều Châu. Quân ta đánh thắng một trận, danh vang trong thiên hạ, ấy là đã đạt được mục đích rồi. Nay Chúa công mới lên ngôi, việc nước chưa định, nếu ở ngoài lâu ngày e trong nước có biến.”
Chu Hu nghe nói, như sực tỉnh, vội vã đáp: “Lời ngươi luận rất phải lẽ. Nếu không có ngươi thực ta chưa nghĩ đến.”
Kế đó ba nước Trần, Sái, Lỗ đều đến chúc mừng Chu Hu thắng trận. Chu Hu xin các nước ban sư, ai rút quân về nước nấy. Kể từ ngày hưng binh đến ngày lui bình chỉ có năm ngày.
Thạch Hậu đắc thắng, lòng hiu hiu tự đắc trương cờ, gióng trống, rầm rộ trở về.
Chu Hu hỏi: “Người trong nước chưa chịu phục thì phải làm thế nào?”
Thạch Hậu nói: “Muốn cho dân phục thì bắt những kẻ được dân tin tưởng phục mình. Cha tôi trước kia làm Thượng khanh, ai cũng mến đức, nay xin Chúa công triệu cha tôi vào dự việc quốc chính, thì ngôi báu ắt vững.”
Chu Hu nghe theo lời, khiến người đem một cặp bạch bích và năm trăm hộc gạo trắng đến cầu Thạch Thác vào chầu nghị việc.
Thạch Thác giả đau, từ chối không nhận.
Chu Hu hỏi Thạch Hậu: “Cha của khanh không chịu vào chầu, ý ta muốn đến đó để hỏi kế, có nên chăng?”
Thạch Hậu tâu: “Chúa công đến đó vị tất đã được gặp mặt. Ðể tôi lấy lệnh vua mà triệu người đến thì hơn.”
Nói rồi trở về nhà, vào tỏ với Thạch Thác nỗi lòng kính mến của Chu Hu.
Thạch Thác hỏi: “Tân quân muốn triệu cha vào triều làm chi?”
Thạch Hậu thưa: “Vì lòng dân trong nước chưa phục, Tân quân sợ ngôi báu không vững nên muốn nhờ phụ thân chỉ giáo.”
Thạch Thác nói: “Mỗi chư hầu lên ngôi phải có mạng vua mới chánh đáng. Nay nếu Tân quân muốn được mọi người tùng phục thì phải vào chầu vua nhà Châu. Khi vua nhà Châu chấp thuận, ban áo mũ, thì người trong nước sẽ vâng mạng.”
Thạch Hậu nói: “Lời phụ thân dạy rất phải. Song vô cớ vào chầu nhà Châu e bị nghi ngờ. Vậy phải có người đến đó tâu trình trước thì mới xong.”
Thạch Thác nói: “Việc đó không khó khăn gì. Trần hầu là một người được Châu Vương yêu chuộng lâu nay, chưa hề bỏ phế một lễ triều sinh nào. Hơn nữa, vừa rồi, Trần lại đem binh giúp Vệ đánh Trịnh, thì tình giao hảo giữa Vệ và Trần đang mật thiết. Tân quân cứ sang nước Trần, nhờ Trần hầu vào tâu trước với nhà Châu, rồi Tân quân sẽ triều kiến sau thì việc ắt thành.”
Thạch Hậu trở về nói lại với Chu Hu. Chu Hu mừng lắm, vội vả sắm sửa lễ vật và hành trang rồi cùng với Thạch Hậu lên đường sang nước Trần.
Thạch Thác với quan Ðại phu nước Trần là Tử Hàm vốn là bạn thân. Bèn lấy máu viết một bức huyết thư, sai người tâm phúc đến đưa cho Tử Hàm, nhờ trình lên Trần Hoàn Công.
Ðược thư, Trần Hoàn Công vội mở ra xem. Thư rằng:
Tôi là Thạch Thác cúi dâng thư nầy đến Trần hầu ngự lãm:
Nước Vệ chúng tôi nhỏ nhen nhưng hiện lâm vào tai biến ấy, cũng bởi Chu Hu gian nịnh, giết anh soán nghiệp. Nhưng, tội ấy một phần lớn cũng tại đứa con tôi là Thạch Hậu xui nên. Ngày nào hai kẻ loạn tặc ấy chưa chết, thì dân nước Vệ tôi còn chịu canh thê lương.
Tôi, tuổi già, sức yếu không đủ tài trừng trị bọn chúng, thực đắc tội với Tiên công. Nay hai đứa loạn tặc ấy sắp sang quý quốc để cầu cạnh. Vậy xin Chúa công bắt chúng mà trị tội. Ðược như vậy, không những may mắn cho nước Vệ tôi, mà còn làm gương cho các nước khác.
Xem thư xong, Trần Hoàn công hỏi Tử Hàm: “Việc nầy khanh liệu làm sao?”
Tử Hàm tâu: “Kẻ phản loạn của nước Vệ chẳng khác nào như kẻ phản loạn của nước Trần, không thể dung tha được.”
Trần Hoàn Công cho là phải, bèn định kế bắt Chu Hu.
Còn Chu Hu và Thạch Hậu đâu rõ việc ấy. Khi đến nước Trần, hai người đi thẳng vào thành.
Trần Hoàn công sai Công tử Ðà ra đón rước, cầm lại nơi quán dịch nghỉ ngơi, hẹn đến ngày sau sẽ tiếp kiến nơi nhà Thái miếu. Thấy Trần Hoàn công có ý ưu đãi, Chu Hu rất vui mừng.
Sáng hôm sau Trần Hoàn Công vào nhà Thái miếu, bày nghi lễ rồi sai Tử Hàm ra rước Chu Hu vào.
Thạch Hậu đi trước, thấy đàng trước có đựng một tấm bảng lớn, đề chữ rằng: “Con bất hiếu, tôi bất trung, không được vào Thái miếu.”
Thạch Hậu trông thấy kinh ngạc, hỏi Tử Hàm: “Cái bảng nầy có ý nghĩa gì vậy?”
Tử Hàm nhìn Thạch Hậu, rồi mỉm cười đáp: “Ðó là lời của Tiên vương tôi dạy, và Chúa công tôi ghi nhớ.”
Thạch Hậu nghe nói, lòng bớt nghi ngờ, quay lại đón Chu Hu vào.
Vừa vào đền nơi, Chu Hu toan cúi mình thi lễ, thì bỗng có tiếng Tử Hàm hét lớn: “Ta phụng mệnh vua nhà Châu, bắt hai tên loạn tặc Chu Hu và Thạch Hậu, còn các đồ đảng đều được tha tội.”
Tức thì quân giáp sĩ áp lại bắt Chu Hu và Thạch Hậu trói lại lập tức. Lúc bấy giờ, Tử Hàm mới đem bức thư của Thạch Thác đọc cho mọi người nghe. Rõ ra đó là mưu của Thạch Thác muốn trừ loạn, ai nầy đều hài lòng.
Kế đó, Trần Hoàn Công định đem Chu Hu và Thạch Hậu ra chém, nhưng các quan can gián: “Thạch Hậu là con của Thạch Thác, chưa biết ý kiến của Thạch Thác thể nào, xin Chúa công mời sang nước Vệ nghị tội mới tránh khỏi điều oán trách sau nầy.”
Xét thấy câu nói ấy có lý, Trần Hoàn Công truyền đem giam Chu Hu nơi Bộc Ấp, Thạch Hậu nơi Trần Đô để khỏi liên lạc với nhau. Ðoạn cho người sang nước Vệ báo tin cho Thạch Thác biết.
Thạch Thác từ khi cáo quan dưỡng lão, không đi đâu nửa bước, nay được thư nước Trần vội vã vào triều thương nghị. Lúc đó bá quan đủ mặt, Thạch Thác mở thư ra đọc, mới biết Chu Hu và Thạch Hậu đều bị bắt, chỉ còn đợi người sang Trần quyết định mà thôi.
Các quan đều nói: “Ðấy là việc lớn cùa quốc gia, chúng tôi một lòng trông cậy vào ý kiến của Ngài cả.”
Thạch Thác nói: “Hai đứa phản loạn nầy không thể nào dung thứ được. Tội đáng chém đầu. Vậy ai có thể vì nước mà cán đáng việc này?”
Quan Thái tể Xủ bước ra thưa: “Kẻ loạn tặc ấy ai cũng có thể giết được. Tôi tuy phận hèn song cũng lấy làm ức. Xin cứ giao việc ấy cho tôi.”
Các quan đều đồng thanh nói: “Phải! Việc ấy mà giao cho quan Thái tể là phải lắm! Nhưng xét ra Chu Hu mới là chánh phạm, còn Thạch Hậu là kẻ a tùng tưởng nên châm chế.”
Thạch Thác nghe nói, nổi giận, hét: “Chu Hu phản nghịch, chính tại đứa con tôi mà ra. Nay các quan nghị như thế là nghi tôi có tình riêng với nó hay sao? Thôi, tôi phải thân hành đến đó mà chém đứa loạn thần ấy thì mới dám nhìn vào lăng miếu của tiền nhân tôi!”
Nhụ Dương Kiên nói: “Thôi, thôi, xin lão quan chớ giận, để cho tôi đi thay cho.”
Thạch Thác liền sai Thái-tể Xủ qua Bộc Ấp mà chém Chu Hu, còn Nhụ Dương Kiên thì sang Trần Đô mà chém Thạch Hậu. Rồi lại sai người sắm xe giá sang nước Hình mà rước Công tử Tân về.
Thái tể Xủ và Nhụ Dương Kiên qua đến nước Trần, vào ra mắt Trần Hoàn Công, đoạn thi hành sứ mệnh của mình. Khi Thái tế Xủ đến Bộc Ấp, truyền quân dẫn Chu Hu đến.
Trông thấy Thái tể Xủ, Chu Hu kêu lớn: “Có phải người đến đây để cứu ta chăng?”
Thái tể Xủ lắc đầu đáp: “Không phải để cứu, mà để giết.”
Chu Hu trợn mắt hỏi: “Ngươi làm tôi của ta, sao dám phạm đến ta?”
Thái tể Xủ mỉm cười, đáp: “Nước Vệ trước kia có ngươi bề tôi mà dám giết vua. Vì vậy, hôm nay ta bắt chước!” Nói xong, truyền quân chém đầu.
Còn Nhụ Dương Kiên khi đến Trần Đô cũng đem Thạch Hậu ra chém.
Thạch Hậu nói: “Muốn chém ta cũng được, song hãy đưa ta về nước để ta trông thấy mặt phụ thân ta đã.”
Nhụ Dương Kiên nói: “Ta vâng lệnh phụ thân của ngươi mà đến đây giám sát. Nếu ngươi muốn thấy mặt cha ngươi thì để ta chém xong, xách đầu về nước Vệ, hẳn ngươi sẽ được gặp mặt.”
Nói xong, vung gươm chém phứt.
Nhà chép sử về sau có thơ khen Thạch Thác:
Tình nhà, nợ nước giữa hai đường
Thà bỏ tình riêng cứu nước non
Khí phách còn lưu trong sử sách
Tấm gương đại nghĩa kẻ trung thần.
Về sau, thành ngữ “đại nghĩa diệt thân” được dùng để chỉ những người không vì tình riêng mà làm sai pháp luật.
Đại Việt sử ký toàn thư: bộ quốc sử bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 tCN đến năm 1675 đời Vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm 1697 trong triều Vua Lê Hy Tông. Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn.
Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên – một vị sử quan làm việc trong Sử quán dưới thời Vua Lê Thánh Tông – biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Sau đó, dù đã hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư lại không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm.
Đại Việt sử ký toàn thư cung cấp một nguồn tài liệu gốc quan trọng không riêng cho sử học, mà cho hầu hết các ngành khoa học xã hội, hay nói rộng ra là cho tất cả các ngành khoa học nào nghiên cứu về lịch sử, đất nước, xã hội, văn hóa, con người Việt Nam thời cổ đại và trung đại. Trong loại sử liệu viết, Đại Việt sử ký toàn thư giữ một vai trò hệ thống sử liệu gốc cơ bản nhất và xưa nhất của lịch sử dân tộc trong phạm vi thời gian và lịch sử được nó ghi chép.
Giá trị và tầm qua trọng của Đại Việt sử ký toàn thư có thể được so sánh với các bộ sử cổ điển của Trung Quốc như Sử ký của Tư Mã Thiên, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, hoặc với các bộ sử Cổ sự ký (Kojiki) và Nhật Bản thư kỷ (Nihonshoki) của Nhật Bản. Đó đều là những “bộ sử mẹ” mà giới sử học đều thông thuộc. Ngô Sĩ Liên để lại cho đời một tác phẩm sử học thật đáng giá.
Bộ sử được dịch ra Việt văn bởi Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và được xuất bản năm 1993.
đạo binh 80 mỹ nhân phá tan nước Lỗ: Đây là điển tích vua nước Lỗ bị mỹ nhân mê hoặc mà làm cho đất nước suy yếu.
Ban đầu, sau khi Vua Định Công nước Lỗ cử Khổng Tử làm Tướng quốc, nước Lỗ ngày càng cường thịnh. Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế: “Bản tính con người hễ được cường thịnh thì hay sinh lòng kiêu dật. Xin Chúa công lập bộ nữ nhạc dâng cho Vua Lỗ. Được bộ nữ nhạc, Vua Lỗ tất sinh lười biếng mà chán bỏ Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất bỏ Lỗ mà đi, Chúa công mới có thể ngồi yên được.”
Tề Cảnh Công bằng lòng, sai Lê Di chọn những nàng xinh đẹp độ 18-20 tuổi, cả thảy 80 nàng, chia làm 10 đội, đều cho trang phục gấm vóc lộng lẫy và dạy múa hát. Khúc hát ấy gọi là Khang nhạc, điệu bộ mới lạ, ẻo lả, có nhiều cử chỉ hấp dẫn, gợi tình. Khi luyện tập đã thành, lại dùng 120 cỗ ngựa cương vàng, yên nạm, mỗi con một sắc đẹp đẽ như gấm hoa, đem dâng cho Lỗ Định Công.
Tám mươi mỹ nữ đi qua các con đường trong kinh thành nước Lỗ, tha thướt như những nàng tiên trong những truyện truyền kỳ diễm ảo. Vua nước Lỗ ngự trên bờ hồ nhìn thân hình uyển chuyển của các nàng từ trên bờ nhảy xuống thuyền nhẹ nhàng, phất phới như một đàn bướm trắng lượn hoa. Thuyền vừa cặp bờ, các mỹ nữ ấy nhẹ nhàng nhảy lên, reo cười trong trẻo vui tươi như đàn chim non. Rồi người đàn, kể múa, họ nô đùa viên hoàng môn quan và tiến đến ngân loan điện. Vua mỉm cười khoan khoái kêu hỏi, cả bọn đồng thanh đáp: “Chúng tôi đều là thế nữ của nương nương đây.”
Vừa nói họ vừa trỏ vào một người đẹp nhất trong bọn, uy nghi, đường bệ như một bà chúa, một nữ hoàng. Nàng mặc một chiếc áo trắng thưa như màn sương khói mỏng để lộ ra những đường cong của da thịt, của một vóc hình thon chắc, yểu điệu tuyệt mỹ. Thật là một tác phẩm linh động, vĩ đại do một kỳ công kỹ xảo của Hóa công. Nhà Vua đến gần hoa khôi, ngập ngừng ngọt dịu hỏi tên. Nàng mỉm nở một nụ cười như hoa hàm tiếu e lệ dưới ánh trăng thanh, đoạn cất giọng oanh thỏ thẻ: “Tâu bệ hạ, thần thiếp chính là Văn Khương, nay được diễm phúc vào hầu bệ hạ.”
Lỗ Định Công ngây ngất, truyền ngay bãi chầu. Tiết xuân hòa ấm, cành quế đều mọc chồi non. Hai bên đường, hoa thủy tiên đâm chồi nẩy lộc. Nhà Vua cảm thấy như mình ở chốn Đào nguyên, được gần giai nhân là người mà nhà Vua đã từng khao khát mơ ước từ lâu. Trên đường về cung, nhà Vua nhẹ mình cúi xuống hái mấy cành thủy tiên, âu yếm trao cho mỹ nhân.
Người đẹp không từ chối. Nàng đưa bàn tay trắng nuột, xinh xắn cầm lấy cánh hoa. Hoa và bàn tay là một. Nàng ngoan ngoãn đưa hoa lên mũi, nhoẻn một nụ cười tươi thắm mê hồn.
Trông vào mỹ nhân, hai má ửng hồng, đôi mắt lóng lánh hữu tình như nước hồ thu, một nụ cười tươi thắm nở mãi trên đôi môi son hé ra bày đôi hàm răng trắng nhỏ đều như ngọc làm nhà Vua ngây ngất, bàng hoàng. Tâm trí rối loạn, thần hồn mê mẩn, tấm thân bảy thước, địa vị ngai vàng của Vua Lỗ bị nhận chìm trong sóng sắc biển tình. Cầm lấy cườm tay ngà ngọc của giai nhân, nhà Vua nhìn giai nhân bằng đôi mắt say đắm mờ mệt và chỉ lẩm bẩm được có một câu: “Ta yêu mỹ nhân lắm lắm!”
Rồi cả hai, đôi thân mình ép sát vào nhau lần bước vào chốn thâm cung.
Trời sâm sẫm tối. Bốn phía, đèn đuốc nổi lên sáng rực như một hội hoa đăng. Một đoàn mỹ nữ, trang phục bằng một thứ tơ trắng mỏng như sương lả lướt theo một vũ khúc mê ly trên con đường chung quanh hồ Thưởng Nguyệt. Thân hình uyển chuyển, tha thướt theo điệu nhạc, nhìn họ có lúc ẩn lúc hiện, lúc mờ như hình bóng của khói, của sương… đang bao phủ hoàng cung.
Bấy giờ, hàng võ quan bỏ cả binh thư, còn hàng văn thần quên hết kinh sách.
Trên hồ, thuyền bè đua nhau tấp nập, rượu trà yến ẩm, đàn dịu hát hay, tiếng nói giọng cười lả lơi, diêm dúa bay bổng đến mấy từng sao. Thỉnh thoảng, một vị hoàng thân, một viên đại tướng ghé thuyền vào bờ, ôm lấy một mỹ nữ đem về tư thất; rồi mày xanh tóc bạc bên cốc rượu nồng tha hồ ân ái phỉ tình.
Rồi từ ấy, tiếng đàn, điệu vũ từ giữa hồ trong thâm cung truyền đến ngoài thành, sự hoan lạc từ kẻ quyền quý trong vòng khuê các lan tràn đến hàng trưởng giả phong lưu. Chỉ có bọn dân đen ngày ngày tắm mưa gội gió, dãi nắng dầm sương, chui rúc trong những túp lều tranh xiêu vẹo thiếu cơm, thiếu thuốc ở chốn bùn lầy nước đọng.
Thói xấu, tật dâm là những ngòi thuốc rất nhạy, những chất men dễ cho con người tập nhiễm, say đắm. Thế rồi, ai ai cũng cởi bỏ đạo nghĩa, cho là một cái ách nặng nề quàng cổ bấy lâu. Những cửa phòng khuê bỗng mở to. Trong bóng tối, thấp thoáng những bóng nữ nhi đi tìm hoan lạc. Nhiều vị Lễ quan đang cúng tế ở Thái miếu cũng vội vàng ném hương, đốt giấy cho mau để bươn bả đi tìm đến chốn yêu hoa. Nơi Tam pháp tư, một viên Đô sát già lụ khụ dừng chân trước cửa viện, thở một hơi dài cất giọng phều phào thiểu não: “Hỡi ơi! Thời niên thiếu của ta đâu rồi!”
Không còn đủ sức ngăn cản được, Khổng Tử phải bỏ nước Lỗ mà đi. Lỗ suy nhược dần, cuối cùng bị Tề thôn tính. Đạo binh mỹ nhân 80 người phá tan nước Lỗ, quê hương của một đấng thánh nhân.
Ðạo cũ Kim Liên: chỉ việc trọng người tài.
Ðời xưa, vua trọng người có văn tài, đêm cho người mang đuốc Kim Liên đưa về nhà. Ðời Ðường có Lệnh Hồ Ðào, đời Tống có Vương Khâm Nhược, Tô Thức đều được vua vời vào cung rồi đêm vua cho người dùng đuốc Kim Liên đưa về.
Ðạo Chích: Ðạo Chích có tiếng thời xưa, em Liễu Hạ Huệ người nước Lỗ thời Xuân Thu. Tính người hung tợn, tụ tập đồ đảng đến mấy ngàn người đi ăn trộm trâu bò của cải, cướp đoạt đàn bà con gái, hoành hành thiên hạ. (Theo “Nhân danh đại từ điển”, “Từ Hải”).
Tư Mã Thiên trong Sử ký cho rằng Ðạo Chích là tên kẻ trộm nổi danh thời Hoàng Ðế. Ðến thời Xuân Thu, nhân em Liễu Hạ Huệ cũng là tên trộm khét tiếng nên người đời mới đặt tên cho hắn là Ðạo Chích.
Tư Dung vãn:
Kìa ai thói tục chẳng răn
Tiểu tâm Ðạo Chích ẩn thân Di Ðà.
Sau này, danh từ chung “đạo chích” chỉ bất kỳ kẻ trộm nào nhưng không có ý xấu.
Ðạt Ma: tức Bồ Ðề Ðạt Ma, người Ấn Ðộ đến Trung Quốc vào khoảng những năm 520–526 đời Lương Vũ Ðế, vua rất sùng mộ. Bồ Ðề Ðạt Ma trở thành sư tổ của Thiền Tông. Tại đây, ông truyền cho Huệ Khả nhị tổ tại Trung Quốc. Truyền thuyết nói sau 9 năm diện bích (quay mặt vào tường) trên Chùa Thiếu Lâm, ông vượt biển về quê hương hay đi đâu đó, lênh đênh trên mặt nước mênh mông bằng một cành lau, phó mặc cho những ngọn sóng phiêu bồng nhưng vẫn an nhiên tự tại. Cũng theo truyền thuyết, khi viên tịch, tay ông xách một chiếc dép về Tây Phương.
đằng la: dây tơ hồng, ý nói thân phận sống nhờ vào người khác, dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
Đoạn trường tân thanh:
Thế trong dầu lớn hơn ngoài
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
“Đằng la”: ý Kiều nói thân phận lẽ mọn. Xem thêm mục: hàm sư tử.
Ðặng Du: người đất Tương Lăng đời Tấn. Theo Thông chí: Khi ông giữ chức Thái thú đất Hà Đông, một năm có biến ông phải đưa cả vợ con và đứa cháu (con người em đã chết, để lại cho ông nuôi) chạy trốn. Giữa đường gặp bọn cướp lấy hết cả xe ngựa, vợ chồng phải đi bộ thay nhau gánh các thứ còn lại, kể cả con và đứa cháu. Khi gánh chạy sang sông, ông liệu không thể nào bảo toàn được cả con và cháu mới nói với vợ rằng: “Em ta chết sớm, chỉ có một đứa con, lý không thể để tuyệt, ta phải bỏ con lại, may mà sống, chúng ta còn có thể có con khác.” Vợ khóc mà nghe theo. Khi chạy đến đất Giang Đông, ông được cử làm Thái thú Ngô quận. Ông làm quan nổi tiếng thanh liêm, một lòng lo việc chung nên rất được lòng dân. Từ khi ông bỏ con đem cháu chạy trốn thì vợ không chữa đẻ gì nửa, cho đến lúc chết vẫn không có con nối dõi. Người đương thời có ý thương ông mà có câu rằng: Thiên đạo vô tri sử Đặng Bá Đạo vô nhi (Đạo trời không còn tri giác khiến Đặng Bá Đạo không con).
Ðặng Dung: người Huyện Thiên Lộc, Nghệ An (Nay là Cam Lộc, Nghệ Tĩnh), con Ðặng Tất, là một viên tướng giỏi của Trần Ngỗi – Giản Ðịnh Ðế (1407-1409). Giận vì Giản Ðịnh Ðế giết oan cha mình, Ðặng Dung kéo quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Quý Khoáng lên làm vua (tức Trần Trùng Quang, 1409-1413). Ông được Quý Khoáng phong chức Ðồng binh chương sự. Ông đánh nhau với quân Minh nhiều trận oanh liệt. Sau ông bị quân Minh bắt giải về Trung Quốc. Dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử chết.
Ðặng Dung có bài Cảm hoài nổi tiếng với 2 câu (dịch thơ):
Thù nước chưa xong đầu đã bạc
Bao lần mài kiếm dưới ánh trăng.
đặt cỏ: chỉ chút lễ viếng, lễ mọn.
Do chữ thúc sô (bó cỏ khô) hay sinh sô (cỏ mới cắt).
Kinh Thi: “Cỏ mới cắt một bó, chủ nó nết đẹp như ngọc”.
Sách Hậu Hán thư: “Thời Ðông Hán, mẹ Quách Lâm Tông chết, Từ Trĩ đến viếng đem một bó cỏ tươi đặt trước nhà họ Quách rồi về” là lấy ý đó của thơ Kinh Thi.
Văn tế Cao Thắng:
Chung thất tới tuần. Thúc sô dâng lễ.
đặt mồi lửa dưới đống củi: Do chữ Thố hỏa tích tân, chỉ nguy cơ ấp ủ.
Hán thư có câu: ôm mồi lửa mà đặt dưới đống củi rồi nằm ngủ ở trên, lửa chưa bén tới thì vẫn cứ cho là yên.
Ðầm Lộc mê Ngu Thuấn: Ðầm và núi ngàn làm Vua Nghiêu, Vua Thuấn quên mất đường về. Ý nói nói sức trời giúp Ngu Thuấn.
Kinh Thư chép: “Nghiêu sai Thuấn vào Núi Ðại Ngàn (Đại Lộc), gặp gió mưa mù mịt, sấm sét đùng đùng mà Thuấn vẫn không quên mất đường về). Sau việc đó, Vua Nghiêu thấy đức của Thuấn hợp với trời, có trời giúp nên nhường thiên hạ cho Thuấn.
Sử ký chép: “Vua Nghiêu khiến Thuấn vào rừng núi, sông đầm, gặp gió mưa, bão táp, sấm sét mà Thuấn vẫn không quên đường ra.
đầm Mộng: xem Vân Mộng.
đất cắm dùi: nông dân dùng một dụng cụ nhỏ là dùi chọc lỗ để gieo hạt. Phương thức canh tác này hiện còn lưu giữ trong việc làm nương rẫy của đồng bào một số dân tộc thiểu số. Các thành ngữ “miếng đất cắm dùi”, “mảnh đất cắm dùi”, “tấc đấc cắm dùi” chỉ diện tích đất ít ỏi đến mức cường điệu là chỉ đủ cắm một cái dùi. Nếu nói “không có đất cắm dùi” thì càng tệ hại hơn, ý nói chỉ một khoảnh đất để cắm một cái dùi vẫn không có!
đẩy xe: Từ chữ thôi cốc: Ðẩy trục bánh xe, là nói giúp sức cho người khác nên việc, phó thác việc lớn cho người.
Hán thư: Thần nghe nói, đời Thượng cổ vua sai tướng ra cõi ngoài thì vua quỳ xuống đẩy trục xe mà nói rằng: “Trong ngạch cửa ải quả nhân coi giữ, ngoài ngạch cửa ải tướng quân coi giữ”.
đè hươu: chỉ việc tranh thiên hạ, tranh ngôi vua. Xem đuổi hươu.
đêm uống rượu trong trướng: Theo Sử ký, Hạng Vương đóng quân trong thành Cai Hạ, binh ít tướng hết. Quân Hán và chư hầu bố vây mấy vòng. Ðang đêm, Hạng Vương nghe quân Hán ở 4 mặt đều hát giọng Sở liền kinh hoàng nói: “Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao người Sở lại đông như thế?” Ðang đêm, Hạng Vương thức dậy uống rượu trong trướng, có mỹ nhân thường đi theo là nàng Ngu Cơ, có con ngựa thường cưỡi tên là Chuy. Hạng Vương đau đớn, cảm khái làm bài thơ (dịch Nôm):
Sức nhổ núi chừ khí trùm đời
Thời không lợi chừ ngựa Chuy không chạy
Ngựa Chuy không chạy chừ biết tính sao?
Ngu Cơ chừ Ngu Cơ, biết tính sao?
Xem Hạng Vũ.
đế đạo: đạo của Ngũ Đế, tiêu biểu là chủ trương của hai vua Nghiêu, Thuấn.
Theo Sử ký, Công Tôn Ưởng nghe tin Tần Hiếu Công ra lệnh trong nước tìm người hiền, đem quân sang hướng đông lấy lại đất đai bị cướp, bèn đi sang hướng tây vào đất Tần. Ưởng nhờ một người tôi yêu của Hiếu Công là Cảnh Giám để xin yết kiến Hiếu Công.
Sau đó, Vệ Ưởng giải thích với Cảnh Giám: Tôi đem đế đạo ra nói với nhà vua, nhưng chỉ vì nhà vua không hiểu rõ đó thôi… Tôi đem vương đạo ra nói nhưng chưa lọt vào tai đó thôi… Tôi đem bá đạo ra nói với nhà vua, ý nhà vua là muốn dùng đấy.
đế hiệu: danh xưng của bậc vua chúa dựa theo các hoàng đế đi trước. Xem mục: tôn hiệu.
Đế Nghiêu: một vị vua huyền thoại của Trung Quốc thời cổ đại, một trong Ngũ Đế.
Trong thư tịch cổ, Đường Nghiêu thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của ông được coi là kiểu mẫu cho mọi bậc đế vương khác của Trung Quốc. Trong thời đại ban đầu của lịch sử Trung Quốc, ba gương mặt sáng suốt gồm: Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Đại Vũ thường được đề cập tới, và những nhà sử học thời sau tin rằng có thể họ đại diện cho những lãnh tụ của các bộ tộc liên minh đã thành lập nên một hệ thống trật tự chính phủ thống nhất trong một giai đoạn chuyển tiếp sang một xã hội phong kiến gia trưởng.
Theo Sử ký, Đế Nghiêu họ Y Kỳ, có tên là Phóng Huân, là con trai của Đế Khốc, mẹ họ Trần Phong. Ông có người em khác mẹ là Đế Chí. Vì Nghiêu trước khi lên ngôi từng làm tù trưởng bộ lạc Đào, sau lại cải phong ở đất Đường nên có khi được gọi là Đào Đường Thị hoặc Đường Nghiêu.
Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi khi 20 tuổi, thiện nhượng ở tuổi 90, mất ở tuổi 118 (có thể 117 hoặc 116) và ông truyền ngôi cho Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái từ trước. Trong nhiều cống hiến của mình, Đế Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây. Truyền thuyết Sào Phủ Hứa Do là một chuyện đời Đế Nghiêu. Nhân vật Bành Tổ cũng được cho là một nhân vật của thời Đế Nghiêu.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử ca ngợi Đế Nghiêu:
Làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại thay! Thật là cao quý thay! Chỉ có trời là cao lớn nhất, cũng chỉ có Nghiêu là người biết dựa vào đạo trời. Công đức của Nghiêu to lớn không cùng, dân chúng không thể ca ngợi cho xiết. Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi.
Đế quốc Mông Cổ: Theo Wikipedia_Đế quốc Mông Cổ, đây là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi đầu trên vùng thảo nguyên Trung Á, đế quốc cuối cùng trải dài từ Đông Âu đến biển Nhật Bản, bao gồm nhiều phần rộng lớn của Siberi ở phía bắc và mở rộng về phía nam đến Đông Nam Á, tiểu lục địa Ấn Độ, cao nguyên Iran, và Trung Đông. Ở thời điểm đỉnh cao, đế quốc Mông Cổ trải dài 9.700 km, diện tích lãnh thổ lên tới 24.000.000 km2 và thống trị 100 triệu dân.
Đế quốc Mông Cổ xuất hiện khi các bộ lạc Mông Cổ và Đột Quyết trên khu vực Mông Cổ lịch sử thống nhất đưới quyền lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn đã được tuyên bố là người cai trị của toàn thể người Mông Cổ vào năm 1206. Đế quốc phát triển nhanh chóng dưới quyền cai trị của ông cùng các hậu duệ về sau này, họ tiến hành các cuộc xâm lược theo mọi hướng. Đế quốc liên lục địa rộng lớn này đã kết nối phương Đông và phương Tây với việc thi hành hòa bình kiểu Mông Cổ, cho phép mậu dịch, công nghệ, hàng hóa, ý thức hệ trở nên phổ biến và được trao đổi khắp lục địa Á-Âu.
Đế quốc bắt đầu phân liệt do hậu quả của các cuộc chiến tranh kế vị, khi các cháu nội của Thành Cát Tư Hãn tranh chấp về việc liệu dòng Đại hãn nên theo một trong bốn dòng sau:
- Truật Xích: con trai cả của Thành Cát Tư Hãn, vì có nghi ngờ về huyết thống nên không được chấp nhận kế vị Thành Cát Tư Hãn.
- Sát Hợp Đài: con trai thứ hai, vì chống đối Truật Xích quá quyết liệt nên cũng không được chấp nhận kế vị.
- Oa Khoát Đài: con trai thứ ba, do hai người anh tranh chấp nhau rồi cuối cùng thỏa thuận cho Oa Khoát Đài kế vị. Giống như tất cả những người con khác của Thành Cát Tư Hãn, ông tham gia một cách tích cực vào việc chinh phục tại miền tây Trung Quốc và Trung Á. Ông là Đại hãn khi Đế quốc Mông Cổ đạt đỉnh cao.
- Đà Lôi: con trai út, cha của vua hãn quốc Y Nhi là Húc Liệt Ngột và 2 đại hãn khác là Mông Kha (Đại hãn thứ tư) và Hốt Tất Liệt (Đại hãn thứ năm, thành lập triều Nguyên ở Trung Quốc). Chính Hốt Tất Liệt là người điều quân đi xâm lăng ba lần Đại Việt của nhà Trần.
Dòng hậu duệ của Đà Lôi thắng thế sau một cuộc thanh trừng đẫm máu bè phái dòng hậu duệ của Oa Khoát Đài và dòng hậu duệ của Sát Hợp Đài, song tranh chấp đã tiếp diễn và thậm chí diễn ra ngay trong dòng hậu duệ của Đà Lôi. Khi một vị Đại hãn băng hà, các đại hội Hốt lý lặc thai kình địch có thể đồng thời bầu lên những người kế vị khác nhau, như trường hợp hai huynh đệ A Lý Bất Ca (Ariq Böke) và Hốt Tất Liệt (Kublai), họ đều được bầu làm Đại hãn và sau đó không những chỉ phải đối phó với nhau, mà còn đối diện với những thách thức từ những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn. Hốt Tất Liệt đã thành công trong việc đoạt lấy quyền lực, nội chiến đã xảy ra sau đó khi Hốt Tất Liệt tìm cách giành lại quyền kiểm soát đối với hai dòng hậu duệ của Sát Hợp Đài và Oa Khoát Đài, song đã không thành công.
Vào thời điểm Hốt Tất Liệt qua đời năm 1294, Đế quốc Mông Cổ bị phân chia thành bốn hãn quốc hay đế quốc riêng biệt, mỗi một hãn quốc theo đuổi lợi ích và mục tiêu riêng của mình. Cùng với lãnh thổ của triều Nguyên còn có ba lãnh thổ khác:
- Hãn quốc Kim Trướng, do Bạt Đô (cháu nội dòng trưởng của Thành Cát Tư Hãn) dẫn quân xâm chiếm mà dựng nên. Kim Trướng (tiếng Anh: Golden Horde) có nghĩa là “lều màu vàng,” tên bắt nguồn từ việc người Châu Âu có ấn tượng mạnh với lều trại màu vàng của đội quân Mông Cổ dựng lên san sát nhau dọc dài bờ sông mà họ đứng bên này sông nhìn sang. Lãnh thổ bao gồm hầu hết Đông Âu từ dãy Núi Ural tới hữu ngạn Sông Dnepr, kéo dài về phía đông sâu vào tận Siberi, và về phía nam kéo dài tới Biển Đen.
- Hãn quốc Sát Hợp Đài, do Sát Hợp Đài (con trai thứ hai của Thành Cát Tư Hãn) dẫn quân xâm chiếm mà dựng nên. Lãnh thổ trải dài từ Amu Darya ở phía nam biển Aral đến dãy núi Altai ở biên giới Mông Cổ-Trung Quốc ngày nay.
- Hãn quốc Y Nhi, do Thành Cát Tư Hãn chinh phạt và thành lập bởi Húc Liệt Ngột (cháu nội dòng thứ của Thành Cát Tư Hãn). Lãnh thổ bao gồm hầu hết các nước Iran, Iraq, Afghanistan, Turkmenistan, Armenia, Azerbaijan, Gruzia, Thổ Nhĩ Kỳ, và Pakistan ngày nay.

Trong một thời gian, ba hãn quốc chấp nhận quyền bá chủ của triều Nguyên, song đến khi triều đại này bị triều Minh của người Hán lật đổ vào năm 1368, Đế quốc Mông Cổ chính thức tan rã.
Ðế Thích: tên là Lý Chế, truyền thuyết nói rằng ông là người rất cao cờ, thường được gọi là Vua Ðế Thích.
Đế Thuấn: cũng được gọi Ngu Thuấn, là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Ông được Đế Nghiêu nhượng vị trở thành vua Trung Hoa, được khắc họa qua sự tích thiện nhượng đầu tiên trong lịch sử. Cùng với các Đế Nghiêu và Đại Vũ, Đế Thuấn được Nho giáo coi là một trong những vị quân vương kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức trong văn hóa Trung Hoa.
Nguyên tên là Trọng Hoa, được sinh ra ở Diêu Khư nên về sau lấy Diêu làm họ. Theo truyền thuyết, mẹ ông là Ốc Đăng, người hiền đức nhưng mất sớm, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác, sinh ra Tượng và một cô con gái khác. Mẹ kế của ông luôn gây phiền phức cho ông và chỉ cho ông ăn cơm hẩm, mặc áo rách tệ bạc. Cha của ông luôn mảy may quan tâm tình trạng của ông, còn nhẫn tâm đổ tội và làm khó ông trong mọi hoàn cảnh. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
Khi Thuấn gần đến tuổi trưởng thành, mẹ kế đuổi ông ra khỏi nhà, và khiến ông phải tự thân sống một mình. Do sự thương xót của mọi người và tài năng lãnh đạo xuất chúng, Thuấn hễ đi đến đâu cũng đều thu phục được người. Khi ông đến một xưởng gốm, ông chỉ dạy họ và xưởng gốm làm ăn ngày càng phát đạt. Khi ông đi qua một làng nghề chài lưới, ngôi làng đã có thể có phương thức đánh bắt cá hiệu quả và dần trở nên sung túc.
Danh tiếng Thuấn được người trong bộ lạc nể phục nên khi trưởng thành, ông được bầu làm thủ lĩnh bộ lạc.
Còn Nghiêu, khi về già thấy các người con của mình chỉ biết hưởng lạc và sa vào tửu sắc. Ông hỏi ý kiến của Tứ Nhạc, và họ đề nghị là Thuấn. Tuy có ấn tượng về Thuấn, nhưng Nghiêu không vội tin cẩn, ông thử thách Thuấn bằng việc gả cả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn và chỉ đưa một số hồi môn rất nhỏ, rồi trao cho Thuấn một vùng đất để quản lý. Vốn tính cần kiệm và tài năng, Thuấn ngày càng phát đạt và khuếch trương được thế lực của mình, điều này làm Nghiêu rất hài lòng, tặng cho lương thực và rất nhiều bò dê gia súc.
Cũng theo truyền thuyết, mẹ kế và em kế của Thuấn rất ganh ghét và muốn giết Thuấn. Một lần, Tượng đốt kho thóc và lừa Thuấn lên nóc nhà để dập lửa, sau Tượng lấy cái thang đi và để Thuấn mắc kẹt trong đám cháy. Thế nhưng Thuấn dễ dàng thoát ra được. Một lần khác, hai mẹ con Tượng âm mưu chuốc rượu Thuấn say để ném Thuấn vào giếng, họ sẽ lắp đá và đất lại khiến Thuấn chết. Em gái của Tượng, vốn không hề ưng việc làm của mẹ và anh, đã nói với hai người vợ của Thuấn, vì thế Thuấn đã có chuẩn bị trước. Dẫu vậy, chưa một lần nào Thuấn tố cáo hai mẹ con họ cả. Về sau, hai mẹ con họ ăn năn sai lầm của mình, và Thuấn sẵng sàng giúp Tượng có một chức quan trong triều đình.
Câu chuyện này của Thuấn được truyền tụng lâu đời, được gọi là Hiếu cảm động thiên ((lòng hiếu thấu cảm đến trời) trong Nhị thập tứ hiếu.
Bộ lạc Hữu Ngu dưới sự lãnh đạo của Thuấn ngày càng hùng mạnh, trở thành một trong những trụ cột chính trong liên minh các bộ lạc dưới quyền quân chủ của Đế Nghiêu.
Trong thời kỳ phục vụ Đế Nghiêu, Thuấn rất được tin cẩn. Ấn tượng bởi tài năng của Thuấn, Đế Nghiêu quyết định truyền ngôi lại cho Thuấn bất chấp lời can ngăn. Từ đó, Trọng Hoa thường được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn.
Việc Đế Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Tuy nhiên có ý kiến căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, cuốn biên niên sử nước Ngụy thời Chiến Quốc cho rằng Thuấn giam Nghiêu, không cho Đan Chu gặp cha, rồi cướp lấy ngôi vua.
Thời cổ đại, trị thủy để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thủy. Cổn trị thủy không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Vũ trị thủy. Sau nhiều năm, Vũ trị thủy thành công, vì thế Thuấn rất tin cẩn Vũ.
Về sau, Thuấn quyết định truyền ngôi cho Vũ thay vì con trai mình là Thương Quân. Vũ lập ra nhà Hạ.
Các triều đại tq] đều tôn Nghiêu, Thuấn là bậc minh quân thánh hiền. Trong văn học và sử liệu, thời kỳ Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, như ngoài đường không lượm của rơi và trong nhà khỏi lo đóng cửa.
đế tử: con vua, chỉ Nga Hoàng và Nữ Anh, con Vua Nghiêu, gả cho Đế Thuấn. Sau Thuấn đi tuần du phương nam, chết ở Thương Ngô, hai bà đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm tại Sông Tương. Tương truyền hai bà trở thành nữ thần Sông Tương.
đi săn đón người hiền: Vua Văn Vương nhà Chu đi săn để đón ông già Lã Vọng (tức Lã Thượng – Khương Tử Nha).
điêu: cái chiêng đồng, ngày xưa đi đánh giặc thường được dùng để ra hiệu lệnh cho quân sĩ, đêm gõ để cầm canh trong trại.
Hoa tiên:
Tình dài dễ ngắn canh đài
Tiếng điêu điểm trót, hiên cài bóng đông.
điêu đẩu: điêu là cái chiêng đồng như trên, đựng được một đấu gạo, khi dừng quân được dùng để nấu ăn nên còn được gọi là điêu đẩu.
Ðiêu Thuyền: một trong “Tứ đại Mỹ nhân”, chỉ bốn phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sắc đẹp của họ được ca ngợi qua 4 cụm từ nổi tiếng để tả mỹ nhân là trầm ngư, lạc nhạn, tu hoa, bế nguyệt, tức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Bốn người gồm có:
1/ Vương Chiêu Quân “chim sa”
2/ Tây Thi “cá lặn”
3/ Dương Quý phi “hoa nhường”
4/ Điêu Thuyền “nguyệt thẹn”.
Trái với ba người đầu là những nhân vật có thật, riêng Điêu Thuyền là nhân vật hư cấu. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa kể câu chuyện về Điêu Thuyền như sau.

Có một con hát trong phủ của quan Tư đồ Vương Doãn tên là Điêu Thuyền, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn nói với Điêu Thuyền rằng ông ta muốn dùng liên hoàn kế: trước đem nàng gả cho Lã Bố, sau lại đem nàng dâng Đổng Trác. Điêu Thuyền sẽ dùng mỹ nhân kế để làm mê hoặc và ly gián Trác và Bố, xui khiến thế nào cho Lã Bố giết Đổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn.
Điêu Thuyền nhận lời.
Trước nhất, Vương Doãn mời rượu và tâng bốc Lã Bố, sai “con gái” Điêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy ra mời rượu, rồi hứa sẽ cho Điêu Thuyền làm tỳ thiếp của Bố. Kế tiếp, Vương Doãn mời Đổng Trác đến nhà, tâng bốc Trác, “kêu con hát của nhà” Điêu Thuyền ra múa hát hầu Trác, thưa muốn dâng Điêu Thuyền lên thái sư, và sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ.
Bố biết chuyện, hỏi Vương Doãn. Doãn đáp rằng Trác đã nói tự đưa “con dâu” về cho Bố. Rốt cuộc Bố đau khổ biết Trác đã chiếm đoạt Điêu Thuyền. Còn Điêu Thuyền hết lòng hầu hạ, tận tình chiều chuộng Trác, nhưng lúc trông thấy Bố lại lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Đổng Trác, luôn gạt nước mắt.
Lý Nho khuyên Trác vì đại cục đem Điêu Thuyền cho Bố để Bố sống chết với cha nuôi Trác. Khi Trác tỏ ý muốn gả Điêu Thuyền cho Bố, cô này lại giả vờ giật mình, khóc lóc rằng mình “đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở”, lại toan tự vẫn, còn nói xấu Lý Nho về bè với Bố để lăng nhục mình.
Mặc cho Lý Nho khuyên giải, Bố vẫn muốn giữ Điêu Thuyền, mắng Nho: “Thế thì vợ mày, mày có đem cho nó không? Việc Điêu Thuyền cấm không được động đến nữa, còn nói tao sẽ chém đầu.”
Vương Doãn đào thêm hố sâu chia rẽ Trác và Bố, và thuyết phục để cuối cùng Bố thay lòng đổi dạ mà ra tay hạ sát Trác.
Nếu thật sự có câu chuyện chấn động khiến dẫn đến cái chết của Đổng Trác về sau thì đáng lẽ phải được ghi trong sử liệu, nhưng không có sử liệu nào nhắc đến tên nhân vật Điêu Thuyền.
Tam Quốc chí_Lã Bố truyện không hề nhắc đến Điêu Thuyền là một người, chỉ đề cập: “Trác thường dùng Bố giữ Trung các, Bố cùng với thị tỳ của Trác tư thông, sợ bị phát giác, nên tâm hay bất an”.
Hậu Hán thư, Lã Bố truyện viết: “Bố vụng trộm tư thông cùng thị tỳ của Doãn.”
Trong khi đó, các tài liệu chính sử về nhân vật Vương Doãn lại không nhắc tới Điêu Thuyền hoặc một “thị tỳ”, “ca kỹ”, “con nuôi” nào.
điếu đóm: động từ chỉ hành động mang điếu và châm đóm, tức làm những việc vụn vặt cho người khác.
Rộng hơn, có ý nghĩa cung phụng người theo cách bợ đỡ, cầu thân để mưu cầu lợi ích cho riêng mình.
Ðiền Ðan: Theo Wikipedia_Điền Đan, Điền Đan là họ hàng xa trong tông thất nước Tề. Thời Tề Mẫn Vương (319-284 tCN), Điền Đan làm người coi chợ ở Lâm Truy, không có danh tiếng gì. Dần dà ông nổi lên là người nhiều mưa lược, giúp đánh đuổi quân Yên đang tấn công Tề và sau cùng quật khởi được. Bởi vì Tề Mẫn Vương gây thù chuốc oán với nước Yên, Vua Yên mới là Yên Chiêu Vương phục thù. Năm 285 tCN, Yên Chiêu Vương sai Nhạc Nghị làm đại tướng, liên minh với Tần, Triệu, Ngụy, Hàn đồng loạt đánh phá nước Tề. Quân Tề không chống nổi liên quân 5 nước, Vua Tề Mẫn Vương trốn chạy, rút về giữ thành Cử. Quân Yên thừa thế đuổi đánh, lần lượt bình định nước Tề. Khi đó Điền Đan bỏ chạy vào thành An Bình, sai họ hàng cưa tất cả hai đầu trục xe, lấy sắt lắp vào để làm trục xe phòng khi chạy loạn.
Quân Yên tấn công An Bình. Thành vỡ, người Tề bỏ chạy, tranh nhau đường, đầu trục xe gãy, xe đổ nên bị quân Yên bắt làm tù binh. Chỉ có họ hàng nhà Điền Đan nhờ có đầu trục xe bịt sắt cho nên trốn thoát, đi về hướng Đông giữ đất Tức Mặc. Quân Yên chiêu hàng tất cả 70 thành của nước Tề, chỉ còn hai thành Cử và Tức Mặc là chưa hạ được.
Quân Yên vây Tức Mặc. Quan đại phu trấn thủ ở Tức Mặc ra giao chiến bị thua và chết. Người trong thành thấy Điền Đan có mẹo chặt trục xe để chạy thoát, biết ông là người mưu trí, bèn cùng nhau tiến cử Điền Đan làm quan giữ thành để chống lại quân Yên.
Tề Mẫn Vương bị giết, người thành Cử đi tìm người con của Mẫn Vương, bắt gặp công tử Pháp Chương đang làm người tưới vườn tại nhà quan Thái sử tên là Hiệu, bèn lập làm vua mới, tức là Tề Tương Vương. Người thành Cử theo lệnh của Tề Tương Vương, đồng lòng đánh vào dinh quân Sở giết chết Trác Xỉ, lại nghe tin Điền Đan đang giữ vững thành Tức Mặc nên kiên trì chống Yên.
Nhạc Nghị vây hai thành cuối cùng của nước Tề lâu ngày không hạ được. Năm 279 tCN, Yên Chiêu Vương chết, con là Huệ Vương lên ngôi. Ông này có hiềm khích với Nhạc Nghị.
Điền Đan nghe tin ấy bèn tung phản gián vào nước Yên, phao tin rằng: “Vua Tề đã chết, nước Tề chỉ còn hai thành nữa không lấy được mà thôi. Nhạc Nghị sợ bị giết nên không dám về, ông ta mượn tiếng đánh Tề, nhưng thực ra là muốn kết hợp binh lực để mong làm vua đất Tề. Người Tề chưa theo, vì vậy, ông ta đánh Tức Mặc không ráo riết để cho họ theo mình. Người Tề chỉ sợ viên tướng khác đến thì thành Tức Mặc sẽ bị tiêu diệt mất”.
Vua Yên cho là phải, bèn cách chức Nhạc Nghị, sai Kỵ Kiếp thay làm tướng đánh Tề.
Nhạc Nghị bị đoạt binh quyền không dám trở về Yên, nên đầu hàng nước Triệu. Sĩ tốt nước Yên phẫn uất vì tín nhiệm Nhạc Nghị.
Điền Đan bèn sai người ở trong thành, khi ăn thì phải cúng tổ tiên ở ngoài sân. Chim chóc ở ngoài đều bay vào thành lượn xuống ăn. Nước Yên cho là quái lạ. Nhân đó, Điền Đan lại phao tin rằng: “Có thần đến dạy bảo ta”. Rồi ông nói với người dân trong thành: “Sẽ có thần nhân làm thầy cho ta.”
Có một người lính nói đùa: “Tôi làm thầy có được không?” Nói xong, liền bỏ chạy.
Điền Đan đứng dậy kéo anh ta lại, đặt ngồi, tôn làm thầy. Người lính nói: “Tôi nói dối ông đấy, tôi thật không có tài cán gì!”
Điền Đan biết vậy nhưng để kích động tinh thần quân sĩ trong thành, ông nhất định để người lính đó ở vị trí quân sư và phò tá ông ta làm thầy, mỗi khi ra hiệu lệnh đều gọi là “thần sư”.
Sau đó, Điền Đan lại phao lên rằng: “Ta chỉ sợ quân Yên xẻo mũi lính Tề, đặt họ ra hàng đầu để cùng ta giao chiến, nếu họ làm thế thì Tức Mặc sẽ bị thua.” Quân Yên nghe vậy làm đúng lời Điền Đan nói. Người trong thành thấy tất cả những người Tề đầu hàng đều bị xẻo mũi nên nổi giận kiên quyết giữ thành, chỉ sợ bị quân Yên tóm được.
Điền Đan lại tung bọn phản gián nói: “Ta sợ người Yên đào mồ mả tổ tiên của ta ở ngoài thành làm nhục tổ tiên ta, nếu họ làm thế thì thật đáng sợ.” Quân Yên đào tất cả mồ mả của người Tề lên, thiêu xác chết. Người thành Tức Mặc ở trên thành nhìn ra thấy thế đều khóc, muốn ra đánh, giận gấp mười lần trước.
Điền Đan nhiều lần bày mưu phản gián và kích động quân dân, biết quân sĩ đã dùng được, bèn chuẩn bị đánh trận. Ông thân hành mang bai, thuổng, cùng sĩ tốt phân công, biên tên cả vợ và nàng hầu vào quân đội, phân tán tất cả thức ăn thức uống để nuôi quân sĩ.
Điền Đan sai tất cả quân sĩ mang áo giáp nấp một nơi, còn người già yếu, đàn bà con gái đều lên thành cho sứ sang trại quân Yên, giao ước với tướng Yên là Kỵ Kiếp sẽ đầu hàng Yên. Kỵ Kiếp mừng rỡ, ngỡ là Tức Mặc sắp hàng nên không lo phòng bị.
Điền Đan lại sai thu vàng của dân được một ngàn dật, bảo những người giàu có ở Tức Mặc đưa cho tướng sĩ Yên mà nói: “Thành Tức Mặc sắp đầu hàng, xin các ông chớ bắt bớ, cướp bóc vợ con của gia đình họ hàng chúng tôi để cho họ được sống yên ổn như trước.”
Kỵ Kiếp cả mừng, bằng lòng. Quân Yên vì thế lại càng trễ nải hơn.
Điền Đan bèn thu trong thành được hơn một nghìn con trâu, lấy vải quyến mặc lên mình trâu, vẽ vằn rồng ngũ sắc, buộc mũi nhọn ở đầu sừng, buộc lau vào đuôi đổ mỡ vào đấy rồi đốt những bó lau. Ông lại sai đục mấy mươi hang ở thành, ban đêm tung trâu ra, năm ngàn tráng sĩ tiếp theo sau. Đuôi trâu nóng, trâu nổi giận, xông vào quân Yên, quân Yên đang đêm cả sợ. Đuôi trâu bốc lửa, ánh sáng chói lòa. Quân Yên nhìn vào thì thấy toàn là vằn rồng, trâu húc vào ai thì người ấy đều bị thương và chết.
Điền Đan dẫn 5.000 quân theo đó ngậm tăm xông vào đánh, trong thành lại đánh trống reo hò trợ lực, người già cả, yếu đuối đều đánh đồ đồng, tiếng vang động trời đất. Quân Yên hoảng sợ thua chạy. Quân Tề đuổi theo giết Kỵ Kiếp, quân Yên chạy toán loạn, người Tề đuổi theo quân Yên. Quân Tề đi qua thành ấp nào thì thành ấy đều phản lại nước Yên mà trở về với Tề.
Quân của Điền Đan mỗi ngày một nhiều, thừa thắng đuổi theo. Quân Yên ngày càng thua lớn, bỏ chạy. Cuối cùng, quân Yên rút về trên sông Hoàng Hà, hơn bảy mươi thành của Tề đều trở về nước Tề như cũ. Điền Đan bèn đón Tề Tương Vương ở thành Cử vào thành Lâm Tri để cai trị. Tương Vương phong Điền Đan làm An Bình Quân.
Về sau, Điền Đan trở thành tướng quốc nước Tề. Theo Chiến Quốc sách, ông còn ra quân đánh quân nước Địch phía bắc, giữ yên bờ cõi nước Tề.
Bài Con trâu của Học Lạc (Nguyễn Văn Lạc):
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
Bài Con trâu già của Huỳnh Mẫn Đạt:
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai điếc buồn nghe Ninh Thích ca.
“Đốt đít” và “Điền Đan hỏa” là do điển tích trên.
Điền Hoành: người cuối đời Tần, vốn là họ của Tề Vương, từng đánh lui quân Hạng Vũ, nhưng khi nước Tề bị diệt xưng là Tề Vương. Sau Hán Cao Tổ lên ngôi, Điền Hoành cùng thuộc hạ chạy ra hải đảo. Hán Cao Tổ nhắn ra bảo: “Nếu bọn Hoành trở về, lớn thì cho tước vương, nhỏ thì cho tước hầu, không về thì sẽ đem quân ra diệt”. Hoành nghe lời, đem hai thuộc hạ cùng thần phục.
Đi chưa được ba mươi dặm, Hoành nói: “Ta lúc đầu cũng xưng vương như Hán Vương, nay mặt mũi nào thần phục người ấy.”
Nói xong, rút kiếm tự sát. Thuộc hạ đều chết theo.
Truyện Thủy Hử kể về Hoa Vinh, Ngô Dụng:
Một dòng máu nghĩa cùng sinh tử
Há một Điền Hoành khá nêu gương!
Ðiển Du: Một cửa bể xưa thuộc Thanh Hóa.
điểu tận cung tàng: nghĩa là: khi hết chim thì vứt cung, ý nói đến thói ruồng bỏ hoặc bức hại những người có công sau khi đạt mục đích. Người Việt có thành ngữ tương tự: “Được chim bẻ ná, được cá quăng nơm” để chỉ sự vong ân đối với kẻ giúp mình lập nên thân thế, địa vị.
Cuối thời Xuân Thu (722-479 tCN), nước Việt và nước Ngô giao tranh. Vua Ngô là Phù Sai thất bại, thế cùng lực tận và bị bao vây bức bách quá, định xin hàng. Phù Sai biết hai bề tôi có ảnh hưởng đến Việt Vương Câu Tiễn là Tướng quốc Phạm Lãi và Đại phu Văn Chủng, nên viết một bức thư, buộc vào mũi tên, bắn vào thành Việt, mong hai người tâu giúp Vua Việt cho hàng. Quân Việt lượm được đệ trình lên Phạm Lãi và Văn Chủng. Thư ấy nói: “Tôi nghe thỏ chạy nhanh chết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn. Sao quan Đại phu không lưu cho nước Ngô tôi còn lại một chút để làm dư địa sau này?”
Nhưng Phạm Lãi và Văn Chủng không cho hàng. Cuối cùng Phù Sai tự tử.
Việt Vương Câu Tiễn chiếm được nước Ngô, bày tiệc rượu. Các quan vui say đánh chén nhưng Câu Tiễn lại có vẻ không vui. Phạm Lãi biết ý nhà Vua không muốn nói đến công của kẻ phò tá đã diệt được Ngô mà lòng Vua lại mang mối nghi kỵ, nên xin từ quan mà nghỉ hưu sớm.
Nhưng trước khi bỏ nước đi du Ngũ Hồ, Phạm Lãi viết thư gởi cho bạn là Văn Chủng trong đó có hai câu:
Cao điểu tận, lương cung tàng
Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh.
Nghĩa:
Chim trên cao hết, cất cung đi
Thỏ chạy nhanh chết, mổ thịt chó.
Và thêm:
Hiện nay kẻ thù của nước Việt đã bị tiêu diệt, các đại thần có công người thì bị ruồng bỏ, kẻ bị bức hại. Việt Vương Câu Tiễn là một con người bạc tình bạc nghĩa, chúng ta chỉ có thể cùng ông ta hoạn nạn, chứ không thể cùng hưởng giàu sang phú quý. Nếu không sớm lo liệu thì ắt bị sát hại.
Văn Chủng xem thư phàn nàn Phạm Lãi, cho họ Phạm xử như thế là quá khí khái!
Quả thực như lời Phạm Lãi nói. Câu Tiễn không chia cho các quan một thước đất nào, lại có ý khinh miệt công thần. Văn Chủng buồn bã, cáo bệnh không vào triều. Thời gian lâu rồi Câu Tiễn cũng nảy sinh lòng nghi ngờ. Một hôm, sau khi tới thăm Văn Chủng, nhà Vua cố ý để lại môt thanh kiếm, Văn Chủng biết rõ ngày tận số của mình đã đến, ông hối hận thì đã quá muộn, chỉ đành nuốt hận cầm kiếm tự tử.
Thành ngữ điểu tận cung tàng được nhiều người về sau nhắc lại.
Đời Tây Hán (206 tCN – 23), Hàn Tín phò Hán Lưu Bang, có tài cầm quân nên diệt Triệu, phá Ngụy, thắng Sở, làm cho Sở Bá Vương Hạng Vũ phải bức tử ở Ô Giang. Hán Lưu Bang thấy tài của Hàn Tín quán thế thiên hạ và Tín có ý cậy công nên nghi Tín làm phản, lòng toan mưu mẹo chờ dịp giết Tín.
Trước đó, Khoái Triệt là tướng tâm phúc của Hàn Tín đã khuyên: “Tôi lo thầm cho túc hạ, vì thấy túc hạ chắc rằng Hán Vương chẳng hại thì là lầm lắm: Hễ thú rừng hết thì ắt làm thịt chó săn, túc hạ phải lo cho xa mới được. Vả lại, dũng lược mà rúng chúa thì mình khốn, công trùm thiên hạ lại chẳng được thưởng. Nay túc hạ mang cái oai rúng chúa, cầm cái công chẳng thưởng cho xuể mà muốn cho được an thân hay sao?”
Hàn Tín cho là phải, nhưng không nghe theo để đề phòng. Sau Hàn Tín bị Cao Tổ lừa bắt tại Vân Mộng, kết án mưu phản, toan đem xử tử. Hàn Tín thở dài, than: “Đúng như người ta nói: ‘Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời. Thiên hạ đã bình định rồi, ta bị nấu là đáng lắm!”
May nhờ trung thần là Đại phu Điền Khẳn can gián nhà Vua nên Tín được tha, nhưng bị tước hết binh quyền, từ tước Sở Vương bị giáng xuống Hoài Âm Hầu. Tuy vậy, cuối cùng, Tín bị vợ của Hán Vương là Lữ Hậu âm mưu dụ bắt Hàn Tín và xử tử.
Người đời sau có làm hai bài thơ tứ tuyệt tiếc Hàn Tín. Trong đó có những câu:
Mười năm chinh chiến công lao nặng
Một phút phủi rồi uổng xiết chi!
và:
Chim hết ná quăng đà chẳng biết
Hoài Âm sao chẳng sớm lo âu!
Nguyễn Hiến Lê (2012) cũng nêu ra hai trường hợp điển hình về điểu tận cung tàng trong lịch sử Trung Quốc.
- Hán Cao Tổ Lưu Bang (trị vì 202–195 tCN): vô tài mà lại độc tài, mới đầu thưởng cho công thần, như phong Hàn Tín làm Sở Vương, Bành Việt làm Lương Vương, Anh Bố làm Hoài Nam Vương…, sau nghi kỵ họ, chỉ sợ họ lật đổ mình, nên Tín, Việt, kế nhau đều bị tru di tam tộc; Bố sợ họa đến mình, cử binh làm phản, thua rồi chết. Chỉ có Trương Lương lả sáng suốt như Phạm Lãi thời Xuân Thu, biết tránh trước cái họa, công thành rồi thì bỏ hết danh lợi mà về ở ẩn.
- Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (trị vì 1368–1398): cũng như Lưu Bang và đa số các ông vua sáng nghiệp, khi thành công, Chu không muốn dùng các bạn chiến đấu nữa, vì họ quá thân với mình, họ biết sở trường cùng sở đoản của mình ra sao, khó mà trị họ. Sợ nhất là khi mình chết rồi, con mình còn nhỏ, họ chuyên quyền uy hiếp, nên ông tìm cách chia rẽ, vu hãm họ, lần lần họ bị giết hết, làm liên lụy đến mấy vạn người lương thiện nữa. Ông không khôn khéo như vua Thái Tổ nhà Tống, mà tàn nhẫn vô cùng.
Ở Việt Nam, trường hợp điển hình về điểu tận cung tàng là Vua Gia Long (trị vì 1802-1820), trong việc sát hại hai khai quốc công thần là Đặng Trần Thường (1759-1813) và Nguyễn Văn Thành (1758–1817).
Trần Trọng Kim (1971) chép về Vua Gia Long như sau: “… chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại vì những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy cũng nhớ đến Vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.”
Gia Long sau khi thống nhất đất nước có ý nghi kỵ các công thần có tài năng lật đổ ngai vàng của mình, nên tìm dịp để giết hại. Nguyễn Văn Thành có tài thao lược đã theo phò Gia Long từ lúc còn nhỏ, lận đận lao đao với nhà vua, cũng như Đặng Trần Thường có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định giúp vua, thế mà cả hai ông đều bị xử tử vì những lỗi tầm thường.
Đặng Trần Thường bị kết tội cất kẻ thủ ác là Hoàng Ngũ Phúc lên làm thần để cho vào điển thờ.
Đặng Trần Thường trước có hiềm khích với Lê Chất, nên Chất mới bới những việc sai phạm của Thường như khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Thường lại bị bắt giam.
Khi bị giam trong ngục, Đặng Trần Thường làm bài Hàn Vương tôn bằng quốc âm, có ý hờn giận, ví mình như Hàn Tín đời Hán, câu cuối bài phú có ý nói “Thầm trách Hán Cao tổ hay ngờ ghét công thần.” Đình thần xét án, ai cũng nói tội Thường đáng chết. Liền xử tội thắt cổ, tịch biên gia tài (Quốc triều chánh biên toát yếu). Tuy chính sử không chép Gia Long tự tay giết Đặng Trần Thường, nhưng hẳn triều thần biết ý nhà Vua như thế nên mới xử tội chết.
Diệp Minh Tâm (2019a) kể lại một giai thoại về đôi câu đổi nổi tiếng, khi Ngô Thì Nhậm bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu và người chủ trì cuộc hành phạt đó là Đặng Trần Thường.
Đặng Trần Thường ra vế đối:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm đối lại:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
Dư luận cho rằng chiếc roi đánh Ngô Thì Nhậm đã bị tẩm thuốc độc do mối thâm thù của Đặng Trần Thường. Điều này đến nay chưa được xác định, nhưng sau khi bị phạt, Ngô Thì Nhậm về lại quê nhà ít ngày thì qua đời.
Trước khi qua đời, Ngô Thì Nhậm làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường như sau (dịch Nôm):
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương!
Giảng nghĩa: Thương thay Đặng Trần Thường, khác nào chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy, rồi kết cục sẽ giống như sự kiện cung Vị Ương. Ý nhắc đến công thần Hàn Tín phò trợ Hán Cao tổ lên ngôi, rồi bị Lữ hậu (vợ Cao tổ) giết ở cung Vị Ương – nhắc đến trường hợp điểu tận cung tàng nêu trên.
Sau này, vì làm gian dối sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc, tướng của chúa Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình kết án phải tội chém. Nhưng ông được tha.
Đặng Trần Thường trước có hiềm khích với Lê Chất, Chất mới bới những việc sai phạm của Thường như khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Thường lại bị bắt giam. Trong ngục, Trần Thường tỏ ý mỉa mai, đến tai đình thần, nên khi kết án, đình thần xử tội giảo.
Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn Vương Tôn Phú bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán, vốn là công thần rồi bị giết..
Lộc đỉnh ký – Kim Dung:
Vi Tiểu Bảo lại cất tiếng hỏi: “Thi tướng quân! Đức Hoàng thượng lên chấp chính, việc đầu tiên của ngài là việc gì?”
Thi Lang đáp: “Việc đầu tiên của đức Hoàng thượng là hạ sát tên gian thần Ngao Bái.”
Vi Tiểu Bảo nói: “Đúng rồi! Ngao Bái cố nhiên là gian thần, nhưng hắn lại là cố mạng đại thần. Ngày trước hắn đã đánh thành phá giặc lập được rất nhiều công lớn cho nhà Đại Thanh ta.”
Rồi gã kể tiếp: “Lúc giết Ngao Bái, Hoàng thượng đã nói một câu: ‘Trẫm hạ sát Ngao Bái, e rằng có kẻ bảo trẫm không thể truất công thần.’ Ngài còn nói cái gì chim, cái gì cung nhưng bản tước không nhớ. Tướng quân có biết không?”
Thi Lang đáp: “Đó là câu: ‘Điểu tận cung tàng’.”
Vi Tiểu Bảo nói: “Phải rồi! Phải rồi! Cả tướng quân cũng nói như vậy.”
Thi Lang vội ngắt lời: “Không phải thế! Không phải thế! Ty chức chỉ nhắc lại câu thành ngữ mà Hoàng thượng thốt ra.”
Vi Tiểu Bảo hỏi: “Tướng quân đọc câu thành ngữ để hình dung Hoàng thượng lúc hạ sát Ngao Bái chứ gì?”
Thi Lang vội đáp: “Không phải thế. Vì đại nhân hỏi ty chức về câu thành ngữ đó, nên ty chức chỉ nói ra để đáp lại câu hỏi của đại nhân mà thôi. Ty chức có mười cái đầu cũng… chẳng khi nào dám buông lời phỉ báng Hoàng thượng.”
Vi Tiểu Bảo dương mắt lên nhìn chằm chằm vào mặt Thi Lang, khiến hắn cực kỳ hoang mang lo sợ.
Từ xưa đến nay, kẻ thần tử tự cho mình lập nên công lớn mà phần thưởng bạc bẽo không xứng đáng, Hoàng đế nhất định tức giận. Đạo làm tôi không bao giờ được thốt lời oán trách, chỉ trong lòng có ý oán hờn cũng đủ tội chết rồi. Thi Lang trong lúc tâm thần bàng hoàng, bị Vi Tiểu Bảo dẫn dụ phọt ra câu ‘Điểu tận cung tàng’, nghĩa là chim muông hết cung tên bỏ xó. Hắn biết là nguy rồi nhưng không thu về kịp nữa, huống chi ngoài Vi Tiểu Bảo, còn Lâm Hưng Châu và Hồng Triều ngồi đó làm chứng, thì dù hắn muốn chối cãi cũng không thể được.
Vi Tiểu Bảo hỏi: “Thi tướng quân nói câu ‘điểu tận cung tàng’ phải chăng là phỉ báng Hoàng thượng? Bản tước ít học không thể hiểu được. Ở triều đình chẳng thiếu gì đại học sĩ, thượng thơ học nhiều hiểu rộng, chúng ta sẽ xin các vị đó bình luận.”
Gã dừng lại một chút rồi tiếp: “Bản tước được kề cận Hoàng thượng trong những thời gian khá lâu, dường như ngài thích người ta xưng tụng là ‘điểu sinh dủy thang’ (Nghiêu Thuấn Vũ Thang), mà không thích ai nói câu ‘điểu tận cung tàng’. Đầu hai câu đều có chữ ‘điểu’, mà nghĩa lại trái ngược nhau, chắc là một hảo điểu, một ác điểu. Có đúng thế không?
Thi Lang vừa kinh hãi, vừa tức giận…
điệu ngã đình hoa: tên các điệu nhạc cổ: Ðiệu Ngã chuyển sang điệu Ðình Hoa tức điệu Hậu Ðình Hoa do Trần Hậu chủ đặt cho cung nữ hát.
đỉnh chung: đỉnh là cái vạc để nấu thức ăn; chung là cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung chỉ cảnh giàu có.
Đoạn trường tân thanh:
Bình bồng còn chút xa xôi
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
đỉnh Giáp non thần: chỉ nơi thần nữ ở.
Tương truyền, vua nước Sở đến chơi đền Cao Ðường, mộng thấy người đàn bà đẹp tự xưng là thần nữ Núi Vu Giáp xin đến hầu chăn gối.
Vu Giáp là một ngọn núi cao ở miền tây Trung Quốc, nằm trên cửa ngõ tiến vào cao nguyên Tứ Xuyên.
Xem thêm mục: mây mưa.
Đoạn trường tân thanh:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Địch Nhân Kiệt (630? – 700): một đại thần đời Đường cũng như của triều đại Vũ Chu do Võ Tắc Thiên lập ra, tính tình ngay thẳng, liêm chính. Thời Cao Tông, ông làm chức Đại lý, xử 17.000 vụ án tồn đọng mà không ai phàn nàn điều gì. Khi làm Tuần phủ sứ ở Giang Nam (có sách ghi là Hà Nam), ông sai phá hủy 1.700 tòa dâm từ. Năm Cửu Thị thứ nhất (700), Võ Tắc Thiên phong ông làm nội sử, đứng đầu phượng các. Vào thời điểm đó, Võ Tắc Thiên tôn trọng ông đến mức chỉ gọi ông là “quốc lão” mà không nhắc trực tiếp bằng tên. Cũng trong năm này, bệnh cũ của ông tái phát nên cuối cùng ông mất vào mùa thu năm đó. Hoàng đế Võ Tắc Thiên vô cùng thương tiếc, khóc và nói rằng triều đình từ nay trống không.
Trước khi mất, ông giới thiệu nhiều quan lại có tài năng, bao gồm Trương Giản Chi, Diêu Sùng, Hoàn Ngạn Phạm và Kính Huy. Những quan lại cao cấp này sau đó đóng vai trò then chốt trong việc buộc Võ Tắc Thiên thoái vị trong năm 705 và đưa Lý Hiển lên ngai vàng lần thứ hai, cho nên người ta cho rằng Địch Nhân Kiệt là người gián tiếp khôi phục lại nhà Đường.
Ðoan ngọ: đoan nghĩa là mở đầu, ngọ là khoảng thời gian từ 11 giờ sáng tới 1 giờ chiều, và ăn tết Đoan ngọ tức mồng 5 tháng 5 âm lịch là ăn vào buổi trưa. Ngày này cũng được gọi là Đoan dương, vì được xem là lúc dương khí bắt đầu lên cao nhất.
Nguồn gốc của ngày Đoan ngọ thường được cho là do việc tưởng niệm Khuất Nguyên, trung thần nước Sở gặp thuở đời suy, hết sức can vua, nhưng vua không nghe, lại cách chức ông và đày ông đi nơi xa. Ông buồn phiền việc nước, làm thơ bi phẫn như bài Ly tao rồi trầm mình ở Sông Mịch La nhằm ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch. Vì thế, người Hoa mỗi năm đến ngày Trùng ngũ tổ chức đua thuyền, ý là để vớt thây Khuất Nguyên.
Từ đó mà ngày mồng 5 tháng 5 thành ra tiết Đoan ngọ với những sinh hoạt văn hóa đặc thù ở Trung quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Vì vậy, người ta cho rằng Tết Đoan ngọ thực chất là một phong tục lễ tết Á Đông và gắn liền với quan niệm về sự tuần hoàn của thời tiết trong năm.
Người Việt có những truyền thuyết khác về Tết Đoan Ngọ (Hạnh Lê, no date). Đầu tháng 5 là kết thúc vụ lúa chiêm, bước vào đầu vụ mùa. Đây là giai đoạn nông dân làm lễ tạ ơn trời đất. Vì thế, người Việt còn gọi Tết Đoan ngọ là Tết Giết sâu bọ, với tập tục phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài gây hại cho cây trồng.
Người Việt cũng quan niệm rằng giữa trưa (giờ Ngọ) mồng 5 tháng 5 là thời điểm mặt trời tỏa ánh nắng tốt nhất trong năm, là lúc dương khí mạnh nhất, thực vật có được tinh túy của đất trời, có công dụng chữa được nhiều thứ bệnh. Vì thế mà có tục đi hái lá thuốc như ngải cứu, đinh lăng, tía tô, kinh giới… đem về phơi khô để dành dùng dần quanh năm. Ở thành phố, bạn hàng từ quê ra mang theo đủ thứ loại lá bày bán. Lá được xắt nhỏ, phân từng loại riêng biệt, người đi chợ chọn lấy những lá có mùi vị ưa thích mua về, đúng ngọ ngày mồng 5 đem ra phơi khô rồi bọc lại để trong tủ thuốc gia đình, dùng khi nhà có người ốm đau.
Theo truyền thống của từng miền, có những món ăn vào ngày Đoan ngọ, thường là rượu nếp, đặc biệt là rượu nếp cẩm, bánh ú tro (bánh gio), và quả đầu mùa. Theo quan niệm của ông bà xưa, sau khi các loài sâu bọ (tức ký sinh trùng) trong cơ thể bị cơm rượu nếp “chuốc say”, tiếp tục ăn các loại trái cây có vị chua, chát như vải, đào, mận sẽ khiến chúng chết nhanh hơn. Theo dân gian, rượu nếp được ăn ngay khi vừa ngủ dậy thì rất hiệu nghiệm.

Ở miền Nam, thịt vịt thường là một thứ không thể thiếu cho ngày Đoan ngọ. Ở một số nơi khác còn có cả xôi, chè hạt sen… Dân gian quan niệm rằng đây là thời điểm quả trên cây, lá trên cành bắt đầu đơm hoa kết trái để cúng tổ tiên và mong một mùa bội thu.
Ca dao:
Tháng Tư dong đậu nấu chè
Ăn tết Đoan ngọ nhớ về tháng Năm.
Xem thêm: Khuất Nguyên.
đoạn trường: có nghĩa đen là đứt ruột, chỉ nỗi đau đớn quằn quại như đứt từng khúc ruột, nghĩa bóng nỗi bi thảm cùng cực. Có điển tích như sau.
Ở đất Vũ Bình thuộc địa phận Phủ Ðịnh Châu Tỉnh Phúc Kiến, có giống vượn đỏ như rượu vang, nõn như tơ, xa trông lấp lánh rất đẹp. Có người thợ săn tên Trương Mậu Hiệp đánh bẫy bắt được vượn con nhưng không bắt được vượn mẹ. Biết vượn mẹ thương con nên anh ta đem vượn con ra làm mồi nhử để đánh bẫy. Vượn con kêu gào thảm thiết, nhưng vượn mẹ ở trên cây cứ từ cành này nhảy chuyền sang cành kia qua lại rối rít như con thoi tỏ vẻ muốn xuống cứu con, nhưng tinh khôn không xuống.
Người thợ săn họ Trương lấy roi quật vào vượn con, khiến nó kêu la thê thảm lên. Vượn mẹ trên cây cuống cuồng tuột xuống cứu con nhưng rồi lại trèo lên, cứ như vậy mãi. Có lúc lại ngồi trên cây nhìn xuống mặt mày buồn bã, kêu gào lên một giọng bi thảm rồi té xuống chết. Họ Trương đem về mổ thịt, thấy ruột của vượn mẹ đứt ra từng đoạn.
Trong bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, diễn tả diễn tả tình cảm bi ai của Ðường Minh Hoàng đối với Dương Quý Phi bị buộc thắt cổ chết, có câu:
Trường hận ca – Bạch Cư Dị (NGYM dịch thơ):
Cảnh thương tâm hành cung bóng thỏ
Nỗi đoạn trường mưa gió rung chuông.
Thi hào Nguyễn Du khi viết Đoạn trường tân thanh đặt luôn ra những chữ “Sổ Ðoạn trường”, “Số Ðoạn trường”, “Tập Ðoạn trường”, “Hội Ðoạn trường”, “Khúc Ðoạn trường”, đều chỉ ý niệm thương đau.
Tổng vịnh truyện Kiều – Phạm Quý Thích (dịch thơ):
Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mạng dứt cầm loan.
Thơ Tchya Ðái Ðức Tuấn:
Hững hờ xách gói qua đường vậy
Còn biết làm sao với đoạn trường
Ðời tựa bánh xe lăn chuyển mãi
Phong trần chọn mặt khách tang thương.
đôi sam: sam biển là loài giáp xác (có vỏ cứng), có hình thù lạ mắt, mình tròn vẹt, đường kính khoảng một gang tay (20cm), dưới bụng có 8 chân càng nhỏ, bơi rất chậm và bò như cua. Sam biển thường sống thành đôi, trên bãi biển thường thấy con cái lớn hơn bò trước, con đực nhỏ hơn bò sát theo sau bên trên con cái.

Vì đặc tính thường có sống thành đôi như thế nên có những thành ngữ so sánh: “đôi như sam” hoặc “như vợ chồng sam” chỉ vợ chồng khắng khít, “đeo như sam” chỉ tình trạng đeo bám (như nói về trẻ nhỏ cứ bám theo mẹ).
Ðông Chu: Triều đại Nhà Chu từ Chu Bình Vương dời sang đông ở đất Lạc cho đến đồi Chu Noãn Vương (770-256 tCN). Xem Chu.
Đông Chu liệt quốc chí: theo Wikipedia_Đông Chu liệt quốc, Đông Chu liệt quốc chí, thường được gọi Đông Chu liệt quốc, là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi được Sái Nguyên Phóng thời Thanh cải biên từ Tân liệt quốc chí khoảng trên 700.000 chữ của Phùng Mộng Long thời Minh mạt. Phùng Mộng Long căn cứ chủ yếu vào các sách Tả truyện và Quốc ngữ của Tả Khâu Minh và sách Sử ký của Tư Mã Thiên, có tham khảo thêm các sách Công dương truyện, Chiến Quốc sách và hơn mười bộ sử khác nữa, để biên soạn Đông Chu liệt quốc.
Đông Chu liệt quốc đề cập đến thời kỳ lịch sử rất dài, khoảng hơn 500 năm (770–221 tCN) của Trung Quốc, bắt đầu từ đời Chu Tuyên Vương cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung nguyên. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc đây là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến đến tập quyền. Đông Chu liệt quốc là bộ sách rất hay, trong truyện không những đề cập đến các mốc lịch sử rất dài đồng thời cũng mô tả nhiều nhân vật nổi tiếng của lịch sử Trung Quốc, từ các bậc anh hùng như Tín Lăng Quân, Lạn Tương Như, Ngô Khởi, Ngũ Tử Tư…, đến các nhà quân sự lỗi lạc như Tôn Tử, Phạm Lãi, Tôn Tẫn…, và các nhà chính trị–tư tưởng lớn như Khổng Tử, Quản Trọng…
Truyện lịch sử, quân sự này ngay từ khi vừa ra mắt nhận được sự chú ý và ủng hộ của đông đảo bạn đọc. Vốn dĩ tưởng là những đoạn văn khô khan, nhưng dưới ngòi bút của tác giả Phùng Mộng Long lại trở nên sống động, gần gũi.
Tư tưởng toát ra trong suốt bộ tiểu thuyết này là tư tưởng “dân bản” của nhà nho: dân là gốc của nước, là sức mạnh của nước; không phải vũ lực quyết định sự thành công hay sự thất bại mà chính là lòng dân. Trong truyện, những bậc anh hùng cứu nước (Huyền Cao, Tín Lăng Quân, Lạn Tương Như, v.v… ) những nhà trí thức chính trực (Đổng Hồ, Lỗ Trọng Liên, v.v… ); những người chấp chính có nhiệt tình với dân với nước (Quản Trọng, Tử Văn, Tôn Thúc Ngao, v.v… ) đều được tác giả nhiệt liệt ca ngợi và đề cao.
Mặt khác, tác giả miêu tả không dè dặt, không nể nang, cái bản chất xấu xa, bỉ ổi của giai cấp thống trị. Những mâu thuẫn sâu sắc giữa các tập đoàn thống trị, sự tranh giành quyền lợi giữa các cá nhân, gây nên vô số những cuộc chính biến và những cuộc tàn sát trong hơn bốn thế kỷ. Cũng không sao nói hết được sự dâm loạn vô sỉ ở chốn cung đình: quan hệ nam nữ bậy bạ giữa anh em ruột, giữa bố chồng và nàng dâu, con chồng và thứ mẫu, v.v…
Đông Phương Sóc (khoảng 154–93 tCN): mệnh quan của triều đình Hán Vũ Đế. Ông là người nổi tiếng nhanh trí, được Hoàng đế ưa chuộng, tin cẩn và đánh giá cao về những tham vấn của mình. Ông thuộc típ người bí ẩn khó hiểu và các câu chuyện về sự nhanh trí của ông là vô số kể. Có một lần, ông đánh cắp rượu tiên (được cho là có tác dụng bất tử) của Hoàng đế mà uống. Nhà vua tức giận và ban lệnh tử hình, nhưng Đông phương Sóc mỉm cười và nói: “Nếu rượu thật sự có tác dụng bất tử, ngài không thể làm hại được tôi; nếu không phải là thế thì tôi đã gây hại gì?” Hoàng đế lấy làm vui thích và tha thứ cho ông.
Theo truyền thuyết, một lần nọ Tây Vương Mẫu hạ giới và viếng thăm Hán Vũ Đế. Họ cùng uống rượu và ăn đào tiên. Các quan chức trong triều lập rào cản không cho ai tham dự cuộc gặp gỡ này. Vì tính tò mò, Đông Phương Sóc bí mật nhìn trộm từ một ô cửa sổ. Tây Vương Mẫu để ý thấy, cười lớn và lưu ý cho Hán Vũ Đế rằng kẻ nhìn trộm bị phát hiện kia đã từng ba lần ăn trộm đào tiên trong vườn của bà. Hoàng đế lấy làm kinh ngạc và nhận thức ra rằng Đông Phương Sóc là sự tái sinh hạ giới của một vị tinh quân (một vì sao trên trời). Tích về cảnh Đông phương Sóc ăn trộm đào tiên là chủ đề thường được vẽ trên gốm sứ Trung Quốc dưới các triều đại Minh và Thanh.
Giời mắng – Tản Đà:
Người đâu kiếp trước Đông Phương Sóc
Ăn trộm đào quen học thói ngày xưa
Trần gian đầy mãi không chừa!
Đông Quan: tên gọi Thăng Long dưới thời thuộc Minh.
đông sàng: giường phía đông, chỉ người rể quý, “rể đông sàng”. Theo Tấn thư, ddời nhà Tấn (265-419) có quan Thái úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo (Hạo?) là nơi có lắm học trò giỏi, xem trong đám này có người nào xứng đáng không.
Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp: “Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng nề nếp; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía đông nơi chái hướng đông nhà Vương Ðạo.”
Khước Giám bảo: “Người ấy mới thật đáng rể ta.”
Đoạn chọn làm rể. Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn cả thiên hạ, đến nay còn truyền.
Nhị độ mai:
Có Tây Tử đó, thiếu đông sàng nào?
Hoa tiên:
Khéo thay lời nói hữu tình
Sàng đông rày mới là đành có nơi.
Xem thêm: bút Lâm Xuyên, Thiếp Lan Ðình.
Ðông y Bảo giám: Sách thuốc do Hứa Tuấn người Triều Tiền, thâu thái những lý luận và phương pháp của các sách thuốc Trung Quốc mà soạn ra.
đống xương Vô Định: Ðống xương người chết trận bên bờ sông Vô Ðịnh, Tỉnh Thiểm Tây. Nước sông chảy xiết cuốn theo cát, lòng sông chỗ nông, chỗ sâu không nhất định, nên gọi là Sông Vô Định. Từ thời xưa, trên bờ sông này là bãi chiến trường.
Thơ Trần Ðào (dịch Nôm):
Ðáng thương đống xương sông Vô Ðịnh
như người trong mộng khách buồng xuân
Đoạn trường tân thanh:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Ðống xương Vô Ðịnh đã cao bằng đầu.
Đồ Bàn: tức Vijaya, là tên kinh đô của Chiêm Thành tức Champa. Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982, triều đình Chiêm Thành lánh nạn về phương Nam. Ở đây, người Chàm tôn một vị lãnh đạo của họ lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Đây là kinh đô cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành, và các vua Chàm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.
Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp (Campuchia ngày nay), Xiêm (Thái Lan ngày nay), và Nguyên Mông.
Năm 1376, Vua Trần Duệ Tông đem 120.000 quân bộ và thủy đánh Thành Đồ Bàn, nhưng bị Chế Bồng Nga đánh bại. Trần Duệ Tông tử trận.
Năm 1471, Vua Lê Thánh Tông đem một đoàn lục, thủy quân hùng mạnh sang đánh Chiêm Thành. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy Thành Đồ Bàn. Sự kiện này chấm dứt sự tồn tại của quốc đô Vijaya. Chiêm Thành mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam Đèo Cù Mông.
Trong khoảng thời gian này, các triều vua Chiêm Thành cho xây dựng khá nhiều công trình ở kinh đô của họ.
Theo ghi chép trong Doanh nhai thắng lãm của Mã Đoan, viên thông ngôn của Trịnh Hòa (người nhà Minh, Trung Quốc) đến Đồ Bàn khoảng năm 1413 thì kinh đô Chiêm Thành thời kỳ này được miêu tả như sau:
Đi theo hướng tây nam một trăm lý thì sẽ tới kinh thành nơi nhà vua ngự, người ngoại quốc gọi là “Chiêm Thành”. Kinh thành có lũy bằng đá bao quanh, ra vào qua bốn cổng, có lính canh gác. Điện vua thì cao và rộng, phần mái ở trên lợp ngói nhỏ hình thuẫn; bốn bức tường bao quanh có đắp trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, chạm trổ hình thù dã thú và cầm súc. Nhà cửa dân cư trong thành lợp mái tranh, chiều cao mái hiên (tính từ mặt đất) không quá ba “thước”, ra vào phải khom lưng cúi đầu, ai cao quá thì thật là bực mình.
Đến năm 1776, anh cả của Tây Sơn tam kiệt là Nguyễn Nhạc xưng Trung ương Hoàng đế, muốn đóng đô ở đây nên cho xây lại thành (nên thành còn có tên gọi Hoàng đế). Ông cho mở rộng về phía Đông, xây dựng một số công trình lớn.
Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm được thành, đổi tên là Thành Bình Định (thể hiện tư thế ngạo nghễ của kẻ chiến thắng trước triều Tây Sơn).
Năm 1816, Gia Long ra lệnh phá thành, chuyển thủ phủ về Quy Nhơn.
Đồ Bàn nằm tại vị trí mà hiện nay là Xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn, Tỉnh Bình Định. Cách quốc lộ 1A khoảng 2 km, toàn thể kinh thành nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh.
Ngày nay, trải qua bao chuyện bể dâu, Thành Đồ Bàn chỉ còn là rêu cũ dấu xưa. Thành gồm 3 lớp: Thành ngoại chu vi khoảng 7,4 km, thành nội 1,6 km, cấm thành 600 m. Trong thành hiện nay chỉ còn lại một số di vật như nghê đá, trụ cờ, cổng thành, hồ bán nguyệt… Bên trong thành có đặt miếu Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, là hai danh tướng của chúa Nguyễn Ánh đã tuẫn tiết tại đây.
Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2020b).
Ngày xưa có một nhóm thơ rất nổi tiếng hình thành trên đất Bình Định gồm bốn thành viên Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Nhóm thơ này lấy tên “Bàn Thành tứ hữu” nghĩa là bốn người bạn ở Thành Đồ Bàn. Trong số này, Chế Lan Viên sáng tác tập thơ Điêu tàn nêu ra những hoài cảm về Thành Đồ Bàn nói riêng và Chiêm Thành nói chung.
* Ca khúc Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên. Về hoàn cảnh sáng tác của ca khúc này, nhạc sĩ Xuân Tiên chia sẻ rằng thời trẻ ông đã nghiên cứu về âm điệu của các miền đất nước, trong đó có vùng Quy Nhơn, Bình Định. Sau này khi đã vào Sài Gòn, làm trong đài phát thanh, ông muốn sáng tác một ca khúc với chủ đề khác với chủ đề tình yêu đôi lứa của các nhạc sĩ khác nên mới tìm hiểu lại lịch sử của vùng đất Bình Định, về dân tộc Chàm và lịch sử Champa mấy trăm năm trước đó để sáng tác thành ca khúc Hận Đồ Bàn, nói thay lời của người dân nước Chiêm bị vong quốc.
Xem video:
https://www.youtube.com/watch?v=c0iCnAMiJ0g
đồ điếu: người hàng thịt, kẻ câu cá. Chỉ người mà thời phong kiến cho là thấp hèn.
Thời Tần ở Trung Quốc, Hàn Khoái làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín đi câu cá kiếm sống. Sau hai người này theo giúp Lưu Bang diệt Tần phá Sở, lập ra vương triều Hán.
đồng không mông quạnh: Từ điển Hán–Việt của Đào Duy Anh giải thích “mông” nghĩa là tối tăm còn “quạnh” là vắng vẻ.
Có diễn giải khác: “mông” là một từ cổ chỉ bãi trống giữa cánh đồng. Từ này còn được lưu giữ trong một số thổ ngữ ở Nghệ Tĩnh.
Thành ngữ trên chỉ nơi chốn vắng người, thậm chí khiến cho người ta không an tâm.
Dân ca Bình Trị Thiên:
Chàng về đồng không mông quạnh, gió lạnh sương sa
Em ở nhà lụy lâm, lâm lụy nước mắt sa theo chàng.
Ðồng Quan: Nói chỗ chinh phu ở. Ðồng Quan là tên một cửa ải quan trọng thuộc Tỉnh Thiểm Tây trên ranh giới hai tỉnh Hà Nam và Sơn Tây, bờ phải sông Hoàng Hà, là một đồn tiền tiêu bảo vệ thành Tràng Thi đời Hán.
Ðồng Thương thấm nước: Cao Tông nhà Thương chiêm bao thấy Thượng đế cho mình một người giúp việc rất tốt, bèn theo trong mộng vẽ một bức hình rồi sai người đi tìm, quả tìm thấy ông Phó Duyệt đang đắp bờ đập ở đất Phó Nham, đón về lập làm tướng. Vua bảo Phó Duyệt: “Trời khi nào đại hạn, dùng ngươi làm mưa rào”.
Xem Phó Duyệt.
Đồng Tước Đài: Tào Tháo đời Tam Quốc (220-264) cho xây một tòa đài đồ sộ, cực kỳ tráng lệ bên sông Chương Hà Tỉnh Hà Nam, đặt tên là Đồng Tước. Tháo sai người trang hoàng tô điểm rất lộng lẫy, rồi tuyển gái đẹp khắp vùng nuôi bên trong.
Tào Tháo có đứa con nhỏ tên Tào Thực, tự Tử Kiến, có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Đồng Tước, Tháo sai con làm bài phú Đồng Tước đài để ca tụng công nghiệp của Tào. Bài phú khá đặc sắc:
Đồng Tước đài – Tào Thực, Tử Vi Lang dịch thơ:
Noi đức sáng thánh quân rực rỡ
Lên lầu đài hớn hở lòng xuân
Xem công Thái thú chăn dân
Đức cao vời đã thấm nhuần nơi nơi
Dựng lên giữa lừng trời xanh ngắt
Đài nguy nga bát ngát không trung
Mỹ quan nào kém non Bồng
Gác cao, Tây Vực nhìn thông nẻo đoài
Dòng Chương Thủy chảy dài trong suốt
Tưới nhuần vườn cây tốt quả tươi
Hai bên tả hữu hai đài:
Ngọc Long, Kim Phượng sáng ngời ánh dương
Bắc hai cầu Tây Đông nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian
Ngồi cao nhìn xuống cõi trần
Đế đô mây ráng xoay vần nổi trôi.
[…]
Phò tá đấng Chí tôn gìn giữ
Xây thái bình thịnh trị bốn phương
Phép trời khuôn đất đo lường
Ánh trăng cùng với ánh dương điều hòa
Tôn quý ấy truyền xa mãi mãi
Thọ vô cùng, thọ với chúa Xuân!
Ngự long kỳ buổi an nhàn
Hoặc khi vội vã, xe loan trở về
Ơn giáo hóa tràn trề bốn biển
Vui mừng thay vật kiện dân khang!
Đài nầy đứng mãi hiên ngang
Điểm tô kim cổ, son vàng thắm tươi.
Bài phú Đồng Tước đài được truyền tụng rộng rãi và lâu dài. Tào Thực đáng là đệ nhất thi nhân trong hai đời Tần, Hán và mở đường cho lối thơ diễm lệ đời Lục Triều (sáu triều đại trong các thời kỳ Tam Quốc 220–280, Lưỡng Tấn 265–420, và Nam-Bắc triều 420–589).
Trong một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say, Tháo cao hứng nói: “Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng được chút vui mừng riêng. Số là trước kia ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có hai cô con gái, đều là trang quốc sắc thiên hương. Không ngờ về sau Tôn Sách và Chu Du cưới mất! Nay ta đã xây Đài Đồng Tước trên Sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đấy ở, để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện!”
Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Để khích Chu Du là đô đốc Đông Ngô đánh Tào Tháo, Khổng Minh sửa đổi ít chi tiết của bài phú Đồng Tước đài. Trong câu “Bắc hai cầu Tây Đông nối lại”, Khổng Minh đem chữ kiều (cầu) đổi ra chữ Kiều (nàng họ Kiều), đổi chữ Tây ra chữ Nam, đổi chữ liên ra chữ lãm để thành nghĩa “Nhốt hai nàng Kiều bên đông-nam”. Khổng Minh chủ ý lừa và chọc tức Chu Du, bởi vì hai chị em Ðại Kiều là vợ Tôn Sách và Tiểu Kiều là vợ Chu Du.
Sau Chu Du dùng hỏa công đốt phá binh Tào tại trận Xích Bích. Tháo thua to, mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều đẹp hoàn toàn tan vỡ.
Đoạn trường tân thanh:
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
đổ rượu ra sông thết quân lính: Từ chữ: đầu giao tướng sĩ. Chỉ giao tình giữa tướng và quân.
Thời Xuân Thu có lần nước Sở và Tấn đánh nhau, có người biếu Vua Sở một bình rượu. Vua muốn binh lính đều được uống cả bèn đổ rượu xuống đầu nguồn nước, binh lính đón dòng nước cầm thìa múc uống. Mọi người cảm kích với cử chỉ cùng chịu cam khổ của vua, dốc sức đánh bại quân Tấn.
đổi mỹ nhân lấy ngựa: thi hào Tô Đông Pha đời nhà Tống (950-1275 có một cô hầu tuyệt đẹp tên Xuân Nương. Vì bất đồng ý kiến với Tể tướng Vương An Thạch nên bị nhà vua trích đi Hoàng Châu. Lúc sắp lên đường, có người bạn làm chức quan Vận sứ họ Tưởng đến nhà Tô chơi để tiễn biệt.
Tô Đông Pha bảo Xuân Nương ra mời khách uống vài chén rượu biệt ly. Thấy Xuân Nương đẹp như tiên nga, họ Tưởng giật mình hỏi: “Cô bé này sẽ đi theo bác không?”
Tô bảo là Xuân Nương không muốn đi theo vì đường sá xa xôi khó nhọc nên xin trở về nhà nàng. Nhân đó, họ Tưởng nói: “Vậy thì bác cho phép tôi đem con ngựa bạch tuyệt hay để đổi lấy cô Xuân, được không?”
Đông Pha ưng chịu.
Họ Tưởng lấy làm khoan khoái vô cùng, liền ứng khẩu bài thơ tứ tuyệt (dịch thơ):
Tiếc gì con ngựa đẹp như mây
Ơn bác cho tôi đổi gái này
Giờ mất nhạt vàng rung bóng nguyệt
Nhưng thêm má phấn bạn làng say.
Và Tô Đông Pha ứng khẩu đáp lại (dịch thơ):
Xuân Nương đi vậy cũng xa xăm
Dầu chẳng kêu ca chớ giận ngầm
Vì nỗi non sông nhiều hiểm trở
Đổi người lấy ngựa phải đành tâm.
Xuân Nương nghe hai người đối đáp nhau và có một hành động khinh thường nàng như thế nên bực tức, đĩnh đạc nói: “Tôi nghe ngày xưa Vua Tề Cảnh Công muốn chém tên giữ chuồng ngựa mà Yến Tử cản ngăn. Chuồng ngựa nhà mình cháy, Khổng Phu Tử chỉ hỏi thăm có ai chết không, chớ không hỏi ngựa chết mất còn. Ấy là người ta quý người khinh vật. Nay học sĩ đem người đổi lấy ngựa, thì ra quý vật mà khinh người.”
Đoạn, Xuân Nương cũng ứng khẩu làm một bài thơ (dịch thơ):
Chém cha cái kiếp của đàn bà
Khổ sướng trăm bề há bởi ta
Giờ mới biết người thua giống vậy
Sống làm chi nữa trách ai mà!
Đọc xong, nàng vội lao mình ra sân đập đầu vào cây mà chết.
Thấy thân xác nàng quằn quại trên vũng máu đào bên cội cây, cả hai vô cùng hối hận, nhìn nhau ngậm ngùi, nhỏ lệ.
Nhưng đã muộn rồi!
Ðỗ Mục: tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên, người Vạn Niên Quận Kinh Triệu (nay là Trường An Tỉnh Thiểm Tây). Ông nội Đỗ Hựu vừa là một Tể tướng giỏi về lý tài, vừa là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh là Đỗ Sùng, Phò mã, làm đến Tiết độ sứ, rồi Tể tướng. Đỗ Mục có dáng dấp thanh tú, tính thích ca nhạc, ưa phóng túng, còn nhỏ đã nổi tiếng văn tài. Khi mới lên kinh sư, được Thái học Bác sĩ Ngô Vũ Lăng đưa thư văn đến cho quan chủ khảo là Thị lang Thôi Uyển xem. Thôi rất kinh ngạc về bài A Phòng cung phú. Năm 828, hai mươi sáu tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, sau đó đến Hoài Nam làm thơ ký cho tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ, lại đổi về làm giám sát ngự sử tại Lạc Dương. Năm 835, ông đi chơi Hồ Châu, rồi cứ bị đổi làm Thứ sử hết nơi này đến nơi khác (Hoàng Châu, Từ Châu, Mục Châu). Năm 849, ông nhờ một người bạn làm tướng quốc xin cho về Thái thú Hồ Châu, sau đổi Khảo công Lang trung Tri chế cáo, và cuối cùng làm Trung thư Xá nhân. Tác phẩm có Phàn Xuyên thi tập (20 quyển), chú giải Tôn Vũ binh pháp (13 thiên).
Đỗ Mục có lý tưởng khôi phục thịnh thế của nhà Đường nên chú ý nghiên cứu các vấn đề kinh tế, quân sự, viết những bài chính luận bàn về trị loạn, thủ chiến, chú giải cả bộ binh thư Tôn Vũ. Trong sinh hoạt ông phóng túng tự do, không câu nệ tiểu tiết, coi thường lễ giáo. Về văn học, ông có những kiến giải tiến bộ, “lấy ý làm chủ, lấy khí làm phụ, lấy từ ngữ chương cú làm binh vệ” (Đáp Trang Sung thư), làm văn vì sự việc chứ chẳng phải “không ốm mà rên” (vô bệnh thân ngâm). Ông cố gắng đem chủ trương ấy vào trong sáng tác nên có ý nghĩa hiện thực khá mạnh, khả dĩ nối tiếp dư phong Bạch Cư Dị.
Đỗ Mục có nhiều bài thơ ưu thời mẫn thế, nặng lòng lo cho dân cho nước (Cảm hoài, Quận trai độc chước, Hà hoàng, Tảo nhạn…) hoặc bi phẫn khiển trách bon hôn quân bạo chúa (Quá Ly Sơn tác, Quá Hoa Thanh cung…), cũng có bài cảm tác về đời người vì bản thân lận đận, bất đắc chí (Cửu nhật Tề sơn đăng cao, Lạc Dương trường cú…). Một số vần thơ ngắn trữ tình của ông là những bài xuất sắc nhất. Mỗi bài vừa là một bức tranh màu sắc tươi tắn, vừa là một tâm tình nhàn nhã, có khi phảng phất buồn, lãng mạn mà không suy đồi (Sơn hành, Bạc Tần Hoài, Thán hoa, Giang Nam xuân…) Thơ thất tuyệt của ông rất được ưu thích, ngay vịnh sử cũng không khô khan (Xích Bích hoài cổ, Kim Cốc viên, Đề Ô Giang đình…). Ông có thể dựng nên những cảnh đẹp trong một khuôn khổ ngắn gọn; ý tình hàm súc được diễn đạt qua những lời lẽ điêu luyện. Ông không trội ở ngôn từ hoa mỹ bóng bẩy, cũng không trội ở chỗ cầu kỳ, quái đản mà bằng ngòi bút nhẹ nhàng vẽ nên những cảnh sắc đẹp đẽ, rung động lòng người một cách rất tự nhiên…
Đỗ Phủ (712–770): nhà thơ nổi bật thời nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông thường được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Số thơ của Đỗ Phủ được truyền tụng đến nay khoảng 1400 bài. Thơ của Đỗ Phủ được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Đời ông rất long đong, nghèo khổ, chỉ làm một chức quan nhỏ, không chịu a dua, nhiều khi tỏ nỗi bất bình về cảnh huống xã hội, nên bị bãi chức. Có hồi đói, vợ con nheo nhóc. Không ai không cảm động khi đọc những bài: Cảnh ly biệt của cặp vợ chồng mới cưới, bài Lính lệ Thạch hào trong đó ông tả cảnh khổ của dân bị bắt lính.
Thơ luật của ông rất đẽo gọt mà hay. Danh ông ngang với Lý Bạch.
Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Trước khi trở nên nổi tiếng, những tác phẩm của ông bị ảnh hưởng nhiều từ cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Giống như nhiều nhà thơ người Hoa khác, Đỗ Phủ xuất thân từ một gia đình quý tộc (tự cho là dòng dõi Vua Nghiêu) đã sa sút. Giới phê bình văn học chú trọng tới tính sử, đạo đức và kỹ thuật sáng tác điêu luyện của ông.
Sinh thời và ngay sau khi mất, Đỗ Phủ đã không được đánh giá cao, phần vì những đổi mới trong phong cách và hình thức thơ ông. Một số bị coi là quá táo bạo và kỳ cục đối với giới phê bình văn học Trung Quốc. Chỉ một số ít tác giả đương thời có nhắc tới ông và miêu tả ông với tính chất tình cảm cá nhân, chứ không phải như một nhà thơ xuất chúng hay lý tưởng đạo đức. Thơ Đỗ Phủ cũng ít xuất hiện trong những hợp tuyển văn học thời kỳ đó. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông đối với thi ca Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và tới thế kỷ thứ 9 ông đã trở nên rất nổi tiếng. Những lời ngợi ca đầu tiên dành cho Đỗ Phủ là của Bạch Cư Dị, người đã ca ngợi những tình cảm đạo đức trong một số tác phẩm của Đỗ Phủ. Hàn Vũ đã viết bài bênh vực mỹ học trong thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch trước những lời chỉ trích nhằm vào họ.
Tới thế kỷ 11, trong giai đoạn Bắc Tống, danh tiếng Đỗ Phủ lên tới cực điểm. Trong thời gian này các nhà thơ trước đó đã được đánh giá lại một cách toàn diện, theo đó Vương Duy, Lý Bạch và Đỗ Phủ lần lượt được coi là đại diện cho xu hướng Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo trong văn hóa Trung Quốc. Cùng lúc ấy, sự phát triển của Tân Khổng giáo đặt Đỗ Phủ lên vị trí cao nhất, vì trong cả cuộc đời, ông đã không vì đói nghèo cùng khổ mà quên đi quân vương của mình. Ảnh hưởng của ông càng tăng do khả năng hòa hợp những mặt đối lập: phe bảo thủ chính trị bị thu hút bởi sự trung thành của ông với hệ thống tông ti trật tự sẵn có, còn phe cải cách nắm lấy mối quan tâm của ông đối với đời sống dân nghèo.
Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Đây vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn ly: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi, và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Thu hứng Kỳ 1 – Đỗ Phủ
Cảm xúc mùa thu Kỳ 1 – Nguyễn Công Trứ dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Thành Bạch: Thành Bạch Đế
đỗ quyên (tên cây và hoa): chỉ chung một số loài cây cho hoa có cánh hoa đơn hoặc kép, có màu sắc đa dạng như trắng, đỏ, hồng, tím…, mọc ở vùng ôn đới, được trồng làm cảnh (kể cả làm bonsai) và làm thuốc. Cây đỗ quyên lá xanh quanh năm hoặc là rụng lá. Cây có dạng bụi thấp hoặc có cây cao đến 7.5 m. Ở Việt Nam, đỗ quyên mọc ở khí hậu mát như vùng núi cao Tây-Bắc, đặc biệt là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Hoa đỗ quyên ta còn được gọi là sơn trà hoa, sơn thạch lựu hay mãn sơn hồng.
Dưới đây là hình ảnh 4 loài hoa đỗ quyên quý hiếm ở Việt Nam.

đỗ quyên (tên chim): Theo sách Thành đô ký, Ðỗ Vũ hoặc Thục Phán, vua nước Thục say đắm một thiếu phụ đẹp tuyệt trần là vợ của viên quan Biết Linh. Vua thường cho gọi nàng đến dạo vườn thượng uyển, hoặc ngồi uống rượu dưới trăng; vua mải mê sắc đẹp của nàng, chẳng hề giữ gìn. Biết Linh thấy vậy một đêm bàn với vợ: “Vua Thục say mê nàng; nàng cố tìm mọi cách làm cho vua si mê rồi nhường ngôi cho ta. Lúc bấy giờ, ta lên ngôi vua, nàng là hoàng hậu, còn hạnh phúc nào bằng!” Người thiếu phụ đẹp ưng thuận. Từ hôm ấy, nàng năng ra vào cung vua. Vua như người mê dại, những lúc vắng bóng người yêu, vua ngẩn ngơ chờ đợi, bỏ nhiều buổi chầu. Mặc những lời khuyên can của mấy quan đại thần trung thực, vua ngày càng say sưa trong các cuộc vui cùng người đẹp.
Một hôm, như đã hẹn với nhau, vua chờ nàng, nhưng không thấy, thời khắc trôi qua, vua ngóng trông, đứng, ngồi, đi lại, ruột rối như tơ vò. Bỗng, người đẹp chạy vào, quỳ dưới chân vua, ôm mặt khóc: “Thiếp xin quân vương tha tội; chồng thiếp… chồng thiếp có thân mẫu đến thăm, thiếp lo cơm nước nên sai hẹn”. Vua đỡ nàng dậy; nàng ở lại suốt ngày.
Một hôm khác, đang giữa yến tiệc, sáo đàn náo nhiệt, vũ nữ múa ca, nàng nghiêng mình, khẽ nói với vua: “Quân vương ôi, thiếp phải về, chồng thiếp… chồng thiếp hẹn thiếp không được đi quá ngọ… Thiếp xin quân vương tha thứ”; nàng gọi thị nữ đưa nàng hấp tấp lên xe ngựa.
Lần thứ ba, nàng đến, áo quần lộng lẫy, song đôi mắt buồn thăm thẳm; trước người đẹp, đẹp tuyệt vời, vua săn đón, mê say. Song, nàng buồn bã, chẳng đáp lại những cử chỉ và lời nói ân cần của vua… Vua thất sắc, căn vặn hỏi nàng mãi, cuối cùng nàng thưa: “Xin quân vương xét cho thiếp. Lần nào thiếp vào cung gặp quân vương cũng như người đi trốn, thiếp chẳng thể vui. Và quân vương thì phải nghe những lời ngăn cản, việc triều chẳng đầy đủ. Quân vương với thiếp chẳng được tự do yêu nhau, hạnh phúc chẳng vẹn toàn. Chi bằng quân vương từ bỏ ngai vàng, giã biệt cung đình phiền phức, cùng thiếp đi xa, thật xa xứ này, cùng nhau chung sống trọn đời. Quân vương nghe thiếp mới là thật lòng yêu thiếp, còn nếu quân vương tiếc ngôi báu phù hoa này, thì thiếp xin giã từ…” Thục Ðế chợt thấy nhói trong lòng, song dần dần cái đau nhói ấy biến thành những bức tranh màu xanh nhạt, nên thơ, có suối, có trăng.
Ðêm hôm ấy, người ngọc thỏ thẻ hết tâm tình. Biết bao cảnh đời quyến rũ, hai người yêu bên nhau trong một xóm núi yên tĩnh. Thế là vua quyết định xuống chiếu chỉ, nhường ngôi cho Biết Linh, chồng người đẹp. Nghe lời nàng, vua cùng nàng sắm sanh một cỗ xe nhỏ, một tráp vàng bạc, ít áo quần của dân thường; vài thị nữ cùng đi với đôi uyên ương.
Một hôm, chiếc xe ngựa ấy ra đi. Nó miệt mài đi, đi mãi. Ðến một vùng đồng lầy hoang dã, xe dừng lại. Vua Thục mệt nhọc, ngủ say trong xe. Mấy người đàn bà xuống xe, rảo bước, đi ngược lại con đường vừa đi. Lúc vua tỉnh giấc, xe trống không. Ở kinh đô, Biết Linh lên ngôi vua; vợ chàng đã trở về, làm hoàng hậu.
(Có sách chép khác: Biết Linh bực tức về việc vua yêu vợ mình, chiêu tập quân sĩ nổi dậy đánh bại Vua Thục; vua trốn vào rừng, Biết Linh lên ngôi vua).
Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hóa thành chim đỗ quyên, ngày đêm ra rả kêu “cuốc, cuốc” hay “quốc, quốc” (nước, nước), tiếng kêu ai oán như muốn đòi lại đất nước.
Đỗ quyên là con chim gì? Theo Bách khoa toàn thư Baidu (百度百科), đỗ quyên 杜鹃 là tên chung của một số loài chim thuộc Chi Cuculus, Họ Cuculidae (Họ Cu cu). Thí dụ: tiểu đỗ quyên 小杜鹃 tức cu cu nhỏ (tên khoa học: Cuculus poliocephalus); đại đỗ quyên 大杜鹃 tức cu cu thông thường (Cuculus canorus). (Vương Trung Hiếu, 2016)
Bửu Kế (1968) mô tả cụ thể đỗ quyên: Chim miệng lớn, đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng, không tự làm tổ lấy mà đẻ trứng vào tổ chim oanh, chim oanh nuôi cho khôn lớn. Mô tả này ứng với hai loài cu cu trên.

Một số nguồn cho rằng đỗ quyên là chim tu hú, tên Hán là táo quyên 噪鹃, cũng thuộc Họ Cu cu. Nhưng màu lông của tu hú không phù hợp với mô tả của Bửu Kế.
Trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, có hai câu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Có sự đồng thuận cho rằng “cái gia gia” là chim đa đa, nhưng đã có những tranh cãi về “con quốc quốc”. Một số nguồn cho rằng đó là con cuốc, nhưng tiếng kêu của cuốc chỉ gồm những âm đơn điệu ‘cuốc’ lặp đi lặp lại, không tạo cho người nghe cảm nghĩ gì đặc biệt:
https://www.xeno-canto.org/species/Amaurornis-phoenicurus
Tiếng kêu của cu cu vang vọng hơn, gồm hai âm ‘cúc cu’ lặp đi lặp lại đều đặn, dễ gây xúc động hơn so với tiếng kêu của chim cuốc:
https://www.xeno-canto.org/species/Cuculus-canorus
Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai con chim này.
Trần Danh Án, một di thần nhà Hậu Lê (1423-1788), nghe tiếng cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh… mà cuối cùng Vua Lê Chiêu Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói gém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:
Giá cô tại giang nam
Ðỗ quyên tại giang bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Nghĩa:
Giá cô ở bờ nam
Đỗ quyên ở bờ bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!
Giá cô 鷓鴣 là chim đa đa, thường gáy thành những tiếng vang vọng vào lúc sáng sớm và tầm 4-5 giờ chiều.
Ðứng trước Thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của Vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã:
Cổ Loa hữu cảm – Chu Mạnh Trinh
Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
Ðỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm.
Cảm xúc khi thăm Cổ Loa – Nguyễn Tấn Hưng
Triều xưa cung lạnh miếu ngoài
Hồn quyên khoắc khoải canh dài gọi trăng.
Cuốc kêu cảm hứng – Nguyễn Khuyến:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ!
Nguyễn Khuyến viết về chim đỗ quyên nhưng đặt tựa là chim cuốc, khiến cho về sau nhiều người tin chim đỗ quyên là chim cuốc.
Mượn tiếng kêu của đỗ quyên, hay Thục Ðế… để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.
Đoạn trường tân thanh:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa!
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình!
Ấy hồn Thục Ðế hay mình đỗ quyên?
Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thúy ở buổi đầu “có phải tiếc xuân mà đứng gọi…”
Khúc đàn “đầm ấm dương hòa” lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng “mình hóa làm bướm hay bướm hóa làm mình” qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải hồn Thục Ðế hóa thành thân hình đỗ quyên hay thân hình đỗ quyên hóa làm hồn Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.
Đỗ Thu Nương: sống vào khoảng thế kỷ 8-9, người Kim Lăng, hay thơ, trước là thiếp của Lý Kỳ (Tiết độ sứ Trần Hải) từ năm 15 tuổi. Sau Lý Kỳ làm phản bị giết, Đường Mục Tông (821-826) đem về làm Cung trung giáo tập.
Đỗ Tuân Hạc (846-904), thi nhân đời Vãn Đường, tự Ngạn Chi, hiệu Cửu Hoa sơn nhân, người Thạch Đại, Trì Châu (nay thuộc Thạch Đài, An Huy, Trung Quốc).
Đỗ Vũ: xem đỗ quyên (tên chim).
Ðỗng Hồ: sử quan nước Tần thời Xuân thu. Theo Tả Truyện, Tấn Linh Công lập mưu giết quan đại thần là Triệu Thuẫn, mới bày tiệc rượu ở trong cung, mời Triệu Thuẫn vào dự rồi phục sẵn quân giáp sĩ sẵn sàng giết đi. Viên Xa hữu (võ sĩ mang binh khí ngồi trên xe hộ vệ ở bên phải) của Triệu Thuẫn là Ðề Di Minh biết việc đó, bèn đi theo hộ vệ Triệu Thuẫn. Khi rượu uống được một tuần, Di Minh bèn tiến lên điện, nói to rằng: “Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá 3 chén…” Nói xong liền vực Triệu Thuẫn xuống điện chạy trốn thoát ra ngoài, giữa đường gặp Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi rồi bảo Triệu Thuẫn chớ sang nước khác vội, hãy đợi trong mấy ngày nữa sẽ rõ tin tức.
Triệu Xuyên về kinh thành, nghe biết Tấn Linh Công chơi ở Ðào Viên mới giả cách vào yết kiến rồi giết Tấn Linh Công, sau đó cho người đón Triệu Thuẫn về triều cùng các quan lập vua mới. Triệu Thuẫn vẫn làm tướng quốc, vẫn lấy việc giết vua ở Ðào Viên làm áy náy, mới đến sử quán đòi lấy bản chép của quan Thái sử là Ðỗng Hồ xem.
Ðỗng Hồ chép việc ở Ðào Viên như sau: “Ngày 27 tháng 9 năm Ất Sửu, Triệu Thuẫn giết Vua Linh Công ở Ðào viên.” Triệu Thuẫn nói điều đó không đúng. Thái sử Ðỗng Hồ nói: “Ngài làm tướng quốc, trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua, khi về lại không trị tội quân giặc, thế thì không phải tự ngài thì còn ai?”
Khổng Tử khen: “Ðỗng Hồ là quan Thái sử tốt thời cổ, chép việc không giấu giếm.”
Thành ngữ “ngòi viết Ðỗng Hồ” có ý nói việc làm chính trực.
Ðỗng Trác: người cuối thời Ðông Hán Trung Quốc. Thời Hán Linh Ðế giữ chức Tiền Tướng quân. Linh Ðế chết, Ðỗng Trác đem quân vào triều phế truất Thiếu Ðế, tự xưng là Thái sư, uy quyền hiển hách một thời. Sau bị Lã Bố giết chết.
Xem Lữ Phụng Tiên, Ðiêu Thuyền.
độc long: xưa ở Tây Phương có con rồng độc ác, ở một cái ao bên núi. Tương truyền có 500 người lái buôn đỗ ngủ lại bên ao bị rồng nổi giận dâng nước giết chết cả. Vua Bàn Xà đọc thần chú mới trị được rồng. Rồng xin cải hối và được nhà Vua tha cho. Ý nói: muốn rửa lòng tà thì hãy qui y chốn Phật môn.
Ðộng Ðình: tên hồ ở Thành Tây Môn, Thành phố Nhạc Dương, Tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, có Lầu Nhạc Dương nổi tiếng. Vùng hồ Ðộng Ðình có 12 ngọn núi đẹp. Bạch Cư Dị đời Ðường thường ví như 12 búi tóc mỹ nhân.
động khóa nguồn phong: có nghĩa bí lối vì cửa động tiên khóa chặt, như khi Lưu Trần, Nguyễn Triệu trở lại thì động đã lấp mất lối cũ. Nguồn Ðào niêm phong như khi người ngư phủ đời Tấn tìm đến thì không nhận được lối vào.
Hoa tiên:
Sinh rằng động khóa nguồn phong
đuốc hoa: do chữ hoa chúc là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. “Chúc” nguyên nghĩa là bó đuốc; thời cổ Trung Quốc, người ta dùng nứa hay cỏ khô kết lại thành bó để đốt sáng.
Bó đuốc chưa đốt gọi là tiêu; đuốc châm lửa cầm tay gọi là chúc. Các đời Lục triều, Đường, Tống có tục đốt hoa chúc trong lễ kết hôn. Về sau này, để nói việc chính thức kết hôn, người ta thường dùng từ hoa chúc.
Từ thời cận kim, người Hoa đều hiểu chúc là nến, chứ không hiểu là đuốc như thời cổ. Và, từ nghĩa đuốc hoa, hoa chúc dần dần biến nghĩa thành nến hoa, đèn hoa.
Trong bài thơ của một tác giả vô danh thời Bắc Tống (960–1127) hoặc sớm hơn nữa được chép trong sách Ấu học ngũ ngôn thi, nói về tứ hỉ (bốn điều vui):
Nắng hạn gặp mưa rào
Xa quê gặp bạn cũ
Động phòng đêm hoa chúc
Bảng vàng thi đỗ cao
Động phòng hoa chúc chỉ đêm động phòng của cô dâu chú rể, là một trong bốn chuyện vui. Trong phòng kín có đèn nến đốt trong đêm tân hôn. Dũ Tín, một thi hào đời Nam Bắc triều cũng có câu: Động phòng hoa chúc minh, nghĩa là: “Phòng kín đuốc hoa sáng”.
Đoạn trường tân thanh, đoạn diễn tả hành động cục súc lỗ mãng, ghẻ lạnh của tên Mã Giám Sinh đối với Kiều, sau cuộc truy hoan:
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ
Mặc dù họ Mã không dám nhận Kiều là vợ vì sợ Tú Bà, nhưng Kiều là gái mới lớn lên, đêm này là đêm đầu tiên, để thay đổi con người của nàng sang một giai đoạn khác, mà nàng coi đó là đêm bắt đầu làm việc vợ chồng với người đã bỏ tiền ra mua nàng. Có lẽ do đó mới có tiếng “đuốc hoa”.
Cũng như khi Kiều được đoàn tụ gia đình sau 15 năm lưu lạc, Kim Trọng xin Kiều cùng chàng xe tơ kết tóc, vì nghĩ tấm thân mình đã qua quá nhiều ong bướm, Kiều từ chối:
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa!
Cho nên nàng:
Đã hay chàng nặng vì tình
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
“Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”, và “Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru”, là ý Kiều đã cho rằng dù Kim Trọng còn nặng lòng yêu nàng, nhưng nếu nàng bằng lòng lấy chàng, thì rồi đây đêm động phòng, nhìn đuốc hoa hay hoa đèn (đèn hoa) kia quẩ là hổ thẹn lắm. Vì nàng đã cùng ai ở dưới hoa đèn…; cũng như hoa đèn đã chứng kiến… thì khi nàng nhìn hoa đèn (đuốc hoa) làm sao lại khỏi thẹn với lòng mình!
đuổi hươu: Do chữ trục lộc: đuổi bắt hươu, chỉ việc giành thiên hạ, tranh ngôi vua.
Theo Sử ký, Khoái Thông nói: “Kỷ cương nhà Tần bị đứt, miền Sơn Đông nổi loạn, các miền khác đều nổi lên. Anh hùng tuấn kiệt tụ tập lại nhiều như quạ. Nhà Tần mất hươu, cả thiên hạ cùng đuổi bắt nó. Bấy giờ ai tài cao, chân nhanh thì bắt được trước.”
Trương Án (Tam quốc – Ngụy) chú: “Lấy con hươu để ví ngôi vua”.
Thơ Lý Bạch:
Hươu Tần chạy sổng nội cỏ
Người đuổi nó như cỏ hồng bay.
Từ ngữ này tuy thông dụng từ đời Hán nhưng trước đó, từ đời Xuân Thu đã có lời ví ấy.
đục nước béo cò: Cò là loài chim kiếm ăn trong vùng nước, phải nhọc nhằn lắm, may ra mới được một ít thức ăn hàng ngày. Thế nhưng, trong các vụ cày bừa, ruộng nước đục ngầu làm cho các loài thủy sinh không chịu được phải ngoi lên mặt nước. Thế là chẳng vất vả bao công, cứ thế cò chén những con vật xấu số do hoàn cảnh “đục nước” mà phải làm mồi cho nó.
Thành ngữ chỉ hành động lợi dụng tình thế đặc biệt nào đó mà kiếm lợi lộc chứ không qua cách làm ăn đàng hoàng.
Đường Bá Hổ: người đời Minh, nhà nghèo nhưng thích bạn, văn hay, vẽ khéo, cùng bọn Từ Trinh Khang, Chúc Chi Sơn, Văn Trung Minh được gọi là bốn tài tử ở đất Ngô Trung.
Đường Huyền Tông (713-756): Theo Sử Trung quốc, Đường Huyền Tông còn được gọi là Đường Minh Hoàng, được xem là triều đại rực rỡ nhất của Trung Quốc về đời sống tinh thần (có lẽ cả vật chất nữa). Văn thơ, ca nhạc, họa, điêu khắc đều đua nhau phát triển trong khoảng 40 năm. Thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị được dịch ra khắp các ngôn ngữ, những nét chữ tươi mạnh trên các bức hoành, bức tranh, những tranh sơn thủy màu… thật nhã, nét thật rõ, những tượng nhỏ bằng ngọc thạch… được trưng bày trong các tàng cổ viện, các thư viện và được coi là những di sản quý báu của nhân loại, tiêu biểu cho văn minh và văn hóa Trung Quốc.
Minh Hoàng có lẽ là tên người đương thời tặng Vua Huyền Tông. Thực ra Huyền Tông yêu mỹ nhân, ca hát quá, yêu thơ văn quá, rất tầm thường về chính trị, không đáng gọi là minh quân; ông chỉ là một vị hoàng đế rất tài hoa, yêu tất cả cái gì đẹp, có nhiều nghệ sĩ tính, biết làm thơ, đặt ra ca nhạc, vũ nữa; nghệ sĩ tính đó làm cho đời ông về già thật bi đát, dân chúng lầm than, quốc gia điêu tàn, và nhà Đường suy luôn, để rồi sau cùng bị diệt.
Ðường Lang: đời Trần Phế Ðế, có người lộ Bắc Giang là Nguyễn Bồ xưng là Ðường Lang Tử Y, dùng pháp thuật tiếm hiệu xưng vương làm loạn, sau bị giết.
được voi đòi tiên: “voi” không phải chỉ con vật to lớn và “tiên” không phải chỉ thần tiên, nếu thế thì câu thành ngữ này chẳng có nghĩa gì cả, và nếu không lại có nghĩa khó hiểu. Theo SachHayOnline.com và quehuongonline.vn, trong tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, các con giống được nặn bằng bột màu bán ở chợ làm đồ chơi cho trẻ em, có nơi được gọi chung là voi. Trong câu hát đồng dao về con chim trả cũng có từ này. Khi bắt được con chim trả tranh, một loài chim bói cá nhỏ xinh đẹp, trẻ em thường cầm ngược cái mỏ dài của chim lên để chim lơ lửng và đọc câu hát “Tranh tranh trả trả, múa cho ả coi, đến mai đi chợ ả mua voi cho tranh tranh trả trả”.
Trẻ em địa phương có thể gọi voi là tên chung cho các con giống (miền Bắc có nơi gọi là tò he), hoặc gọi tên riêng của từng con giống: voi, ngựa, gà, vịt, ông tiên… Trong các mẹt hàng đồ chơi này ở nông thôn, voi là con giống phổ biến hơn cả. “Voi” ở đây không to lớn gì hơn so với các con giống khác, do đó cũng không đắt tiền hơn. Duy chỉ có “tiên” là loại con giống hiếm hơn, và dĩ nhiên là cũng đắt tiền hơn.
Cho nên “được voi đòi tiên” ban đầu có thể chỉ là câu trách các em bé có tính hay vòi vĩnh đối với thứ quà quê cụ thể đó. Dần dà, thành ngữ này có ý chỉ sự ham muốn, tham lam không có độ dừng.
Tú Xương viết:
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Ghi chú: thành ngữ “được chân lân đàng đầu” có ý nghĩa hơi khác, chỉ ý muốn lấn lướt thêm sau khi đã đạt đến mức nào đó không hẳn vì tham lam.
Gác Bồng Lai: tòa tháp nổi tiếng ở Bồng Lai, Sơn Đông, Trung Quốc. Đây là một trong “Tứ đại danh lâu” nổi tiếng ở Trung Quốc:
1/ Lầu Hạc Vàng ở Vũ Hán
2/ Lầu Nhạc Dương ở Nhạc Dương
3/ Gác Đằng Vương ở Nam Xương
4/ Gác Bồng Lai ở Bồng Lai
dù tháp này đôi khi không được liệt kê vào danh sách do không có thi ca về nó. Người ta tin rằng đây là nơi Bát Tiên giáng trần. Đường chia cắt Hoàng Hải và Bột Hải được nhìn thấy từ khu vực này.
Gác Ðằng Vương: tòa lầu có gác nằm bên bờ đông Cán Giang ở Nam Xương, Tỉnh Giang Tây, do con trai của Đường Cao Tổ Lý Uyên là Lý Nguyên Anh, được phong hiệu là Đằng Vương, bắt đầu xây dựng từ thời Sơ Đường, được trùng tu nhiều lần. Tòa lầu nổi tiếng do gắn liền với bài Đằng Vương Các tự của Vương Bột. Tòa lầu nằm trong “Tứ đại danh lâu” nổi tiếng ở Trung Quốc:
1/ Lầu Hạc Vàng ở Vũ Hán
2/ Lầu Nhạc Dương ở Nhạc Dương
3/ Gác Đằng Vương ở Nam Xương
4/ Gác Bồng Lai ở Bồng Lai.
Gác Ðằng Vương hiện tại là phiên bản trùng tu lần thứ 29. Năm 1989 công việc trùng tu hoàn thành với kiến trúc mô phỏng theo kiểu kiến trúc thời Nhà Tống, cao 57,5 m với 5 tầng và 9 lớp mái.
Xem thêm mục: Vương Bột.
Gác Ðường vẽ mặt: Tích Vua Thái Tông nhà Ðường dựng gác Lăng Yên vẽ tượng những bầy tôi công thần (Lăng Yên là Lăng cao vượt từng mây khói).
gái thương chồng đương đông buổi chợ
trai thương vợ nắng quái chiều hôm
Theo Nguyễn Đức Dương (2014), đây là một câu tục ngữ hết sức ý vị. Vậy mà cho mãi tới giờ, giới nghiên cứu chúng ta vẫn chưa thể nhất trí được với nhau về cái nghĩa đích thực của lời nhắn gửi này. Tại sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn ấy? Và làm cách nào để trả lời thỏa đáng câu hỏi: ông cha ta muốn nhắn nhủ gì cùng con cháu qua câu đang xét?
Trước khi trả lời mấy câu hỏi ấy, có lẽ chúng ta hãy cùng nhau đọc lại lời diễn giải từng được sách vở ở ta trích dẫn nhiều nhất: lời diễn giải của sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ (1988) do GS. Hoàng Văn Hành cùng các cộng sự biên soạn rất công phu và được in đi in lại nhiều lần kể từ ngày ra mắt tới nay.
Theo sách trên, câu tục ngữ nêu rõ ba điều:
- Sự chênh lệch, bất bình đẳng trong quan hệ yêu thương vợ chồng. Tình cảm người phụ nữ bao giờ cũng đậm đà, đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông, bởi ngoài lý do giới tính ra, người phụ nữ còn chịu sự ràng buộc của tam tòng tứ đức. Ngược lại, tình thương yêu của người con trai đối với vợ thường nhạt nhẽo, thoáng qua, ví như nắng quái chiều hôm le lói một lát rồi tắt ngấm khi mặt trời lặn;
- Mức độ khác nhau trong tình yêu vợ chồng. Người con gái luôn luôn thương yêu chồng bằng tình yêu đậm đà, mặn mà, đầy đặn khác nào đương đông buổi chợ. Còn tình cảm của người con trai chỉ đôi lúc nhưng mãnh liệt như cái nắng quái chiều hôm vậy. Nắng quái chiều hôm tuy ngắn ngủi nhưng sức nóng, sức cháy bỏng của ánh nắng xiên khoai này thật là ghê gớm;
- Biểu hiện trong tình thương vợ chồng. Khi đã thương yêu chồng, tình cảm của người con gái được thể hiện ra bằng sự hoạt bát, vui nhộn như đương đông buổi chợ. Và người chồng chẳng khó khăn gì trong việc tìm hiểu tình cảm của vợ đối với mình. Ngược lại, chàng trai thâm trầm hơn trong tình yêu. Thậm chí, có khi tình yêu thương của chàng được thể hiện cả bằng sự cáu gắt, khắt khe, nghiệt ngã như nắng quái chiều hôm”.
Mấy lời diễn giải kiểu “vọng văn sinh nghĩa” như trên là khó thuyết phục. Ấy là chưa kể lối diễn giải đó còn để lộ thêm hai điểm yếu quá lớn rất nên tránh khi diễn giải các tục ngữ.
Thứ nhất là quá sa đà vào việc miêu tả dài dòng, một lối biểu đạt hết sức xa lạ đối với tục ngữ, bởi vì tục ngữ, như tất cả chúng ta đều biết, là thể loại sáng tác dân gian chỉ chuộng đưa ra những nhận định súc tích (kiểu như Ruồi vàng; bọ chó; gió Than Uyên – Chó treo; mèo đậy – Vàng gió; đỏ mưa – Nhà gỗ xoan; quan ông nghè, v.v và v.v.) hoặc những lời nhắn nhủ cô đọng (kiểu như Chị ngã em nâng – Ăn đấu trả bồ – Ra đường hỏi già; về nhà hỏi trẻ – Yêu trẻ trẻ đến nhà; kính già già để tuổi cho – Ăn cây nào rào cây ấy…)
Thứ hai, có lẽ GS. Hoàng Văn Hành cùng các cộng sự đã nhầm khi coi câu tục ngữ này là câu so sánh (tức Gái thương chồng NHƯ đương đông buổi chợ; trai thương vợ NHƯ nắng quái chiều hôm), bất chấp một sự thật là trong câu chẳng hề có một từ NHƯ nào và câu cũng chẳng hề có một dấu hiệu hình thức tường minh hoặc ẩn mặc nào đòi hỏi chúng ta phải diễn giải như thế.
Lời diễn giải chẳng mấy sát sao đó còn đẩy tác giả tới chỗ phải phạm thêm một sơ suất nữa: buộc tác giả phải xử lý hai cụm từ “đương đông buổi chợ” và “nắng quái chiều hôm” như là hai bộ phận chỉ phương thức/mức độ của động từ “THƯƠNG” trong câu. Do đã lỡ xử lý thế rồi, nên các tác giả đành gán cho hai cụm này nhiều nội dung mà nó chẳng hề có và cũng khó lòng có thể có được cho dù xuất hiện trong bất cứ ngôn cảnh nào.
Sự khiên cưỡng quá lộ liễu ấy như thầm nhắc chúng ta: hãy tránh đi theo con đường mà các tác giả đã đi. Tức là nên tránh coi câu đang xét như là câu so sánh, mà hãy xử lý nó như là câu rút gọn, một lối diễn đạt còn thông dụng trong tục ngữ hơn cả so sánh gấp hàng trăm, hàng trăm lần.
Và một khi đã xử lý như thế rồi thì câu có lẽ sẽ được viết lại như sau:
“Gái thương chồng [thì hãy cư xử như thế nào để có thể bày tỏ được tấm lòng yêu thương ấy ngay cả khi] đương đông buổi chợ (tức đang lúc buôn may bán đắt); trai thương vợ [thì hãy cư xử như thế nào để có thể bày tỏ được tấm lòng yêu thương ấy ngay cả trong cái] nắng quái ác lúc xế chiều”.
Đến lúc này thì phần việc cần làm chắc hẳn chỉ còn là: đi tìm hai biểu thức ngôn từ [linguistic expression] súc tích nhưng vẫn đủ để diễn đạt thỏa đáng các phần đã bị lược bỏ kia. Do đề tài của câu là nói về tình yêu giữa vợ với chồng nên biểu thức ngôn từ đắc địa hơn cả chắc hẳn phải là: “Hãy hết lòng cùng chồng/Hãy hết lòng cùng vợ”.
Bây giờ ta thử thay hai biểu thức vừa đưa ra vào mấy chỗ bị rút gọn bên trên, và hãy kiểm nghiệm lại xem câu có còn đúng ngữ pháp nữa không và, nhất là, có còn giữ nguyên được cái nghĩa vốn có.
Kết quả thu được từ phép thử này tỏ ra rất đáng khích lệ: “Đã thương chồng thì người vợ HÃY HẾT LÒNG CÙNG CHỒNG ngay cả khi buổi chợ còn đang đông đúc [tức còn đang có cơ buôn may bán đắt]; đã thương vợ thì người chồng HÃY HẾT LÒNG CÙNG VỢ ngay cả khi đang phải khốn khổ với cái nắng quái ác lúc xế chiều”.
Từ những gì vừa trình bày, chắc hẳn chúng ta đã có thể đi đến nhận định: hai biểu thức ngôn từ vừa đề nghị trên đây chắc hẳn là những điều mà ông cha ta muốn nhắn gửi cùng con cháu mai sau. Nói cách khác, ông cha ta muốn nhắn nhủ cùng chúng ta rằng: đã thực lòng yêu nhau thì hãy hết lòng cùng nhau ngay cả khi khó có cơ may bày tỏ được tấm lòng yêu thương thắm thiết ấy.
gấu Vũ Uyên: Loại Tụ: Vua Tấn ốm, chiêm bao thấy con gấu chạy vào cửa sổ. Hàn Tuyên Tử hỏi Tử Sản, Tử Sản nói: “Ðời xưa Vua Nghiêu giết ông Cổn ở Vũ Sơn, hồn thiêng của ông Cổn hóa ra con gấu vàng vào ở Vũ Uyên, đời sau Tam đại vẫn cúng tế. Nước Tấn từ khi làm minh chủ, chừng chưa cúng tế phải không?”
gậy rút đất: Ở Núi Xuân Đài, Xã Thọ Vực, Huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) có Động Hồ Công, phía trước động ngoảnh về Sông Mã, trong động có hai tượng đá. Tục truyền khi xưa, có một ông già và một thằng bé đi bán thuốc ngồi nghỉ ở đó, rồi tự nhiên biến mất. Người ta cho là hậu thân của ông Hồ Công và Phí Trường Phòng. Bởi vậy họ tạc tượng để thờ.
Câu chuyện Việt Nam liên quan đến chuyện của Tàu, vì Hồ Công và Phí Trường Phòng đều là người Tàu.
Theo Liệt tiên truyện và Hậu Hán thư, Khoảng đời Tây Hán (206 tCN-8) có Thi Tồn người nước Lỗ, học được phép tiên, có một cái bầu, trong bầu là một thế giới riêng, có đủ trăng sao trời đất. Ông tự đặt hiệu là Hồ Thiên, người ta gọi là Huyền Hồ tiên sinh hoặc Hồ Công (Hồ là cái bầu). Hồ Công hằng ngày bán thuốc ở chợ Trường An, đầu quán thuốc treo một cái bầu và khi chợ tan thì ông ta chui vào trong cái bầu ấy.
Người trong chợ không ai biết cả, duy có Phí Trường Phòng, người đất Nhữ Nam, từng làm chức quan coi chợ, hằng ngày dâng bánh cho Hồ Công ăn, thấy thế làm lạ kỳ. Một hôm, yêu cầu Hồ Công cho mình vào bầu thử một lần xem sao. Hồ Công bằng lòng, đưa Phí vào bầu.
Trong bầu có những lầu đài tráng lệ, có những kẻ hầu hạ rất lịch sự trông như cảnh thần tiên, có rượu ngọt, đồ nhắm. Hai người cùng đánh chén say sưa.
Phí Trường Phòng cực kỳ kinh ngạc, nói: “Không ngờ đây lại chiếm riêng một cõi càn khôn.”
Hồ Công nói: “Ta vốn là tiên bị trích xuống trần nên tạm ngụ ở đây.”
Trường Phòng xin theo Hồ Công học đạo tiên. Hồ Công bèn dẫn vào núi dạy phép tu luyện. Khi từ biệt, Hồ Công trao cho Trường Phòng một cây gậy tre rút đất, có phép thâu ngắn đường đi, bảo cưỡi lên mây mà về, trong chốc lát Phòng đã đến nhà.
Từ đấy, Trường Phòng xách gậy, rày đây mai đó, công danh phú quý gác bỏ ngoài tai. Hằng ngày, Phí thường la cà nơi quán rượu; nhân đó quen biết một anh lính thú. Anh này rất kính trọng Phí, và thường trút túi đãi rượu thẳng tay.
Một hôm trên đường về chỗ trọ, Phí thấy anh lính vẻ mặt buồn bã, thỉnh thoảng lại thở dài thườn thượt, mới hỏi cớ sự. Anh lính thú thực là ba năm rồi, chẳng được phép về quê thăm vợ con, anh ta nhớ lắm. Phí vui vẻ nói: “Tưởng là việc gì khó, chớ muốn thăm vợ con thì ta giúp cho. Đêm nay về chung vui vợ con, sáng đến có mặt cho khỏi bị quan quở.”
Cho là lời bỡn cợt vô duyên, anh lính tức bực bảo: “Trông ông có vẻ tiên phong đạo cốt, tôi kính trọng ông, không ngờ ông lại tàn nhẫn chế giễu, cười cợt trước sự đau khổ của tôi. Từ đây về quê tôi, đường trải hàng vạn dặm lại gay go hiểm trở, phải đi trót tháng mới về đến nơi. Thế mà ông bảo đêm nay về, sáng đến!”
Phí Trường Phòng không hờn giận, vẫn vui vẻ, cười bảo: “Ta nói thật đấy. Ta có phép tiên. Từ trước đến nay, ta vốn thọ ơn hậu đãi, nay ta làm phép mọn để gọi là trả ơn chút ít đó.”
Đoạn, bảo anh lính ngồi lên cây gậy và nhắm mắt lại, chừng nào nghe hết hơi gió sẽ mở mắt ra. Và, khi sáng sớm cũng ngồi trên gậy trở lại, thực hành như lúc về. Anh lính mừng rỡ, vâng lời.
Vừa trèo ngồi lên gậy xong thì gió ù ù thổi đến, anh lính nhắm chặt mắt lại. Rồi cảm thấy thân mình nhẹ bổng như bay giữa thinh không. Thoáng chốc, gió lặng, anh mở bừng mắt ra thì trước mắt anh quả thực đây là nhà của mình.
Vợ chồng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi, tưởng chừng như sống trong mộng. Thế là đêm đó, vợ chồng mặc tình trút nỗi tâm sự những ngày xa vắng nhớ nhau.
Rồi sáng sớm, anh lại lên gậy trở về biên thú.
Phí Trường Phòng còn giúp anh lính được nhiều lần như thế nữa.
Một thời gian lâu sau, Phí Trường Phòng ném cây gậy tre ấy ở bãi Cát Pha, hóa ra rồng mà bay đi mất. Từ đó, người ta không tìm thấy hình bóng của Phí đâu nữa.
Chinh phụ ngâm:
Gậy rút đất dễ khôn học chước
“Trường Phòng”, “xúc địa thuật” (phép rút đất) hay “gậy rút đất” đều do điển tích trên.
Vua Lê Thánh Tông (1428-1788) có làm bài thơ về động Hồ Công (Thiện Đình dịch thơ):
Khuông thiêng khéo tạc núi muôn trùng
Cửa động thênh thênh gió dễ thông
Cuộc thế công danh mơ tưởng hão
Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng
Hạt châu rơi đất ghi rồng hóa
Giọt ngọc tuôn trời rõ suối trong
Muốn cưỡi gió lên chơi đỉnh núi
Trông mây, trông nước tít từng không
ghép liễu: chỉ việc Tôn Kính đời Hán ghép lá liễu lại viết sách mà học.
ghềnh Thái: Ðiển Lý Bạch, thi nhân đời Ðường, tương truyền khi đi thuyền đến Sông Thái Thạch thì thấy bóng trăng in trong lòng sông, bèn nhảy xuống để ôm bóng trăng, rồi có con cá kình đến rước đi mất.
gia gia: tên một loài chim có điển tích liên quan đến Bá Di và Thúc Tề, là hai danh sĩ cuối đời nhà Thương (1783-1154 tCN).
Theo Sử ký và Thông chí, Vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương – vốn là một chư hầu của nhà Thương – nhân từ đức hạnh, được các chư hầu và dân chúng kính phục. Văn Vương lại có một người tôi tài giỏi là Khương Tử Nha phò tá làm cho chính trị trong nước ngày càng hưng vượng. Văn Vương chết, truyền ngôi cho con là Cơ Phát, lấy hiệu Vũ Vương. Sau Vũ Vương nghe lời quần thần, hội chư hầu đem binh phạt Trụ mong cứu dân chúng thoát cảnh lầm than.
Bá Di và Thúc Tề là hai người con của Vua Cô Trúc, chư hầu của nhà Ân. Vua Cô Trúc muốn Thúc Tề nối ngôi nhưng khi ông mất, Thúc Tề nhường ngôi cho Bá Di. Bá Di không nhận, rồi bỏ đi nơi khác. Thúc Tề cũng bỏ nước mà đi, người trong nước phải lập con kế lên thay. Bá Di, Thúc Tề nghe tiếng Tây Bá (tức Chu Văn Vương) là người hiền nên mới theo về với ông ta. Ðến khi Tây Bá chết, Vũ Vương nghe lời quần thần, dùng mộc chủ Văn Vương hội chư hầu kéo quân sang đánh Trụ.
Bá Di và Thúc Tề nghe thấy, ra nắm dây cương ngựa của Vũ Vương, nói rằng: “Cha chết chưa chôn mà đã chăm việc chinh chiến, thế có gọi là hiếu được không? Bầy tôi giết vua để cướp nước, thì có gọi là nhân được không?”
Vũ Vương bảo: “Vua Trụ hoang dâm vô đạo, sát hại lê dân làm giận lòng người, trái ý trời. Nếu ta thủ phận, ngồi nhìn sự hà khắc của Vua Trụ thì muôn dân còn trông cậy vào đâu! Hơn nữa, giang san có riêng gì của Vua Trụ, ngày xưa Vua Thành Thang chẳng chinh phạt Vua Kiệt nhà Hạ để dựng nên nhà Thương đó sao?”
Bá Di, Thúc Tề chẳng nghe, cho Vũ Vương là bội chúa. Những cận thần của Vũ Vương tức giận, muốn giết cả hai. Tử Nha can: “Không nên. Hai ông là người nghĩa.” Đoạn, bảo quân lính đẩy hai ông ra.
Về sau, Vũ Vương diệt nhà Ân (Vua Trụ) mà dựng nghiệp nhà Chu, các chư hầu đều thần phục.
Bá Di, Thúc Tề lấy làm hổ thẹn, coi thóc gạo là của nhà Chu mà không ăn cơm nữa. Hai ông lên ẩn ở Núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn, và làm bài hát Thái vi (hái rau vi) rằng:
Lên núi Tây Sơn chừ, ta hái rau vi
Kẻ bạo thay bạo chừ, biết phải trái gì
Thần Nông, Ngu, Hạ đã qua chừ ta biết đâu mà quy y
Đành chịu vậy chừ, vận mạng ta suy.
Nhưng một hôm có người bảo hai ông: “Đất bây giờ là đất của nhà Chu, thiên hạ là thiên hạ của nhà Chu, hai ông đã chê, không ăn cơm gạo nhà Chu mà hái rau vi của giang san nhà Chu thì có khác gì!”
Hai ông cho là có lý nên từ ấy nhịn ăn mà chết trên Núi Thú Dương.
Tương truyền, hai ông vì uất ức, oan hồn chưa tan nên biến thành một loại chim, thường gào thét một giọng bi thảm: “Bất thực Túc Chu gia… Bất thực Túc Chu gia” …” có nghĩa “Không ăn lúa nhà Chu… Không ăn lúa nhà Chu…”, và tiếng cuối cùng “gia gia” âm vang trong núi.
Người ta bảo đó là chim đa đa, do âm “gia gia” mà ra.

Qua đèo ngang tức cảnh – Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Vịnh Di, Tề – Nguyễn Công Trứ:
Danh chẳng màng, lợi cũng chẳng mê
Ấy gang hay sắt hỡi Di, Tề?
Gặp xe Vua Vũ tay dừng lại
Thấy thóc nhà Chu mặt ngoảnh đi.
Cô Trúc hồn về sương mịt mịt
Thú dương danh tạc đá tri tri
Cầu nhân chẳng đặng nhân mà chớ
Chẳng trách ai chi, chẳng oán chi.
Gia Cát Lượng tự Khổng Minh (181–234): người đời Thục Hán (thời kỳ Tam Quốc), ồ côi từ thuở bé, tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có Núi Ngọa Long Cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc Lương Phủ Ngâm.
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Ðức Tháo bàn việc thiên hạ. Ðức Tháo nói: “Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Phục Long và Phụng Sồ. Phục Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phụng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên.” Câu chuyện tam cố thảo lư trong đó Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung tìm gặp Gia Cát Lượng là có thật. Lưu Bị mời được Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư.
Khổng Minh giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định Ích Châu, Hán Trung, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía tây làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán. Phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch. Nhưng đến năm 54 tuổi, ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia 3. (Theo Thông chí, Tam quốc chí).
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đưa ra nhiều hư cấu về Gia Cát Lượng. Những sự thật lịch sử liên quan đến tài năng của Gia Cát Lượng là như sau:
- Không dùng kế hỏa công đốt quân Tào ở Gò Bác Vọng; đây là chiến công của Lưu Bị.
- Không sắp đặt thiêu sống quân Tào ở thị trấn Tân Dã; đây là hư cấu.
- Không đấu khẩu với quần hùng Giang Đông; từ đầu Chu Du và Lỗ Túc đã có chủ ý liên minh Lưu chống Tào.
- Không thuyết phục Tôn Quyền đánh Tào; tất cả lập luận là từ Chu Du.
- Không dùng kế “thuyền cỏ mượn tên”; đây là kế của Tôn Quyền trong một sự kiện khác.
- Không nêu ý kiến đánh hỏa công ở Trận Xích Bích; đây là ý kiến của Hoàng Cái.
- Không làm phép “cầu gió đông”; đây là chuyện hư cấu.
- Không lập kế cho Quan Vũ đánh úp lấy Tương Dương. Thời Tam Quốc, Ngụy không hề mất Tương Dương lần nào.
- Không khuyên Lưu Bị giết Ngụy Diên vì tiên đoán Diên sẽ làm phản; thực chất Ngụy Diên là người rất trung thành, được cả Lưu Bị và cả Gia Cát Lượng quý mến và hậu đãi.
- Không biên thư cho Lưu Bị giới thiệu Bàng Thống; Lỗ Túc là người biên thư giới thiệu.
- Không có chuyện “3 lần chọc tức Chu Du” đến chết; Chu Du chết vì bệnh.
- Không dùng mẹo bắt Trương Nhiệm; chính Lưu Bị bắt sống được Trương Nhiệm.
- Bát trận đồ không có uy lực thần kỳ ngăn quân Lục Tốn.
- Có nhiều tình tiết phóng đại trong việc bắt rồi tha Mạnh Hoạch nhiều lần.
- Không lập mưu ly gián hàng phục Khương Duy; dân quân Ký Huyện khuyên Duy ra hàng.
- Không dùng “không thành kế” ; đây là hư cấu.
- Không dùng kế tăng bếp; đây là hư cấu.
- Không mắng khiến Vương Mãng chết trước trận; hai người không hề gặp nhau ngoài chiến trường.
- Không sắp đặt cái chết của Ngụy Diên.
- Sau khi chết không làm tượng gỗ trông giống người sống.
Đặc biệt, chính sử ghi trong Trận Xích Bích, Gia Cát Lượng chỉ có một vai trò nhỏ lúc đầu là thuyết phục Tôn Quyền đánh Tào, trong khi Lỗ Túc cùng Chu Du cũng thuyết phục Quyền, và Quyền quyết tâm đánh Tào chủ yếu là nhờ hai người sau. Kế tiếp, không thấy ghi chép gì về việc Lượng sáng suốt nhận ra “khổ nhục kế” của Hoàng Cái, biết mẹo Chu Du lập “quần anh hội” lừa Tưởng Cán, biết Tào Tháo mắc mẹo mà chém Sái Mạo và Trương Doãn, rồi vì Chu Du thấy Lượng biết quá nhiều nên lập mưu hại Lượng khiến cho Lượng phải dùng kế “thuyền cỏ mượn tên”, rồi Chu Du không tìm ra cách đánh Tào đến nỗi ngã bệnh và Lượng hiến kế hỏa công, rồi Lượng làm phép “cầu gió đông”. Gia Cát Lượng chẳng có vai trò gì cả trong những câu chuyện này, đơn giản bởi vì tất cả câu chuyện đều là hư cấu.
Có ý kiến cho rằng Gia Cát Lượng là nhân vật được hư cấu nhiều nhất trong Tam Quốc diễn nghĩa. Qua La Quán Trung mà Gia Cát Lượng hiện thân là người có trí tuệ và mưu lược quân sự xuất chúng, có năng lực dự tính siêu thường, có thêm quyền uy kỳ ảo có thể hô mưa gọi gió, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Lược bỏ những công trạng hư cấu như nêu trên thì còn gì cho Gia Cát Lượng?
Thật ra Gia Cát Lượng tài giỏi về các mặt chính trị, hành chính, kinh tế, thương mại – còn nổi bật hơn tài năng quân sự, như Trần Văn Đức phân tích một cách khúc chiết. Nhưng mang những chi tiết đó vào TQDN sẽ khiến cho độc giả buồn ngủ! Tương tự, Trần Văn Đức có những phân tích cặn kẽ về bài Xuất sư biểu của Gia Cát Lượng trình bày lập luận, cương lĩnh và chiến lược cho việc cất quân đánh Ngụy, nhưng một quyển tiểu thuyết không thể dài dòng những điều khô khan như thế. Hậu quả là độc giả TQDN chỉ hồi hộp theo dõi những tình tiết ảo nhưng không nắm bắt hết các tài năng thật sự của Gia Cát Lượng.
Bình phẩm về Gia Cát Lượng, bộ chính sử Tam Quốc chí của tác giả Trần Thọ viết khác với La Quán Trung:
Gia Cát Lượng giữ chức tướng quốc, vỗ yên bách tính, tỏ rõ nghi thức, sắp xếp quan chức, điều hành chính sự, khai sáng dân tâm cùng là ban bố pháp luật… Có thể nói ông là bậc hiền tài trị quốc, sánh được với các năng thần như Quản Trọng, Tiêu Hà, song liên tục nhiều năm huy động sức dân đánh mãi không thắng, nói về tháo vát ứng biến, có thể đó chẳng phải là sở trường vậy.
Giang Châu: một vùng có tên từ thời đầu công nguyên. Thời nhà Hán Tuyên Đế (năm 65), triều đình lấy một số vùng của Dương Châu, Kinh Châu mà lập ra Giang Châu, thủ phủ là Vũ Xương. Đó là một vùng xanh tươi, nhiều sông hồ, gồm Nhạc Dương, Động Đình Hồ, Khuông Sơn, Hán Thủy, Tầm Dương. Ngày nay tên Giang Châu đã biến mất trên bản đồ, nó đã được chia vào hai tỉnh Hồ Bắc và Giang Tây.
Vũ Xương một thời là thủ phủ của Giang Châu, là địa danh nổi tiếng. Hơn hai ngàn năm trước ở đây, diễn ra câu chuyện Bá Nha–Tử Kỳ (xem tri âm). Tại Vũ Hán ngày nay có một cái lâu các với biển đề bốn chữ Lưu thủy cao sơn, bên cạnh đó là một phiến đá, là nơi Bá Nha từng gảy đàn.
Phía đông Vũ Hán có Đông Hồ rộng mênh mông, cũng trong thời Chiến Quốc của Bá Nha Tử Kỳ có một thi hào đã đến đây, đó là Khuất Nguyên. Ngày nay nơi đây có tượng của ông và viện bảo tàng nghệ thuật nói về con người chí khí đó.
Giang Hán: Sông Thiên Hà hoặc Ngân Hán.
Ðỗ Phủ ghi: Làm sao có được bậc tráng sĩ kéo Sông Thiên Hà xuống, rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến”.
giang hồ: do Hán-Việt từ điển giản yếu giảng là tam giang và ngũ hồ. Đó là ba con sông Dương Tử, Mê kông và Salween (Nộ Giang); ngũ hồ là Thái Hồ ở Hồ Châu, Xạ Dương Hồ ở Sở Châu, Thanh Thảo Hồ ở Nhạc Châu, Đan Dương Hồ ở Nhuận Châu và Cung Đình Hồ ở Hồng Châu.
Ý nói đến nơi ẩn dật, không có chỗ định cư. Như vậy, từ “giang hồ” ban đầu chỉ cuộc sống rày đây mai đó.
Đoạn trường tân thanh:
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Ca khúc Qua bến năm xưa – Hoàng Giác:
Kiếp giang hồ đây đó
Biết đâu là bến bờ.
Ca khúc Đêm tàn bến Ngự – Dương Thiệu Tước:
Bao kiếp giang hồ ly biệt thường tình
Có ai nhớ ai nơi Hương Bình?
Khi Nguyễn Tuân (1910-1987) mất, Đồ Phồn làm câu đối phúng điếu như sau:
Vang bóng một thời tàn, khéo gợi thêm nao lòng lãng tử
Quê hương đâu hẳn thiếu, mải đi cho trọn kiếp giang hồ.
Dần dà, “giang hồ” được dùng với nghĩa xấu như là phi pháp, như “dân giang hồ” chỉ dân đâm thuê chém mướn, hoặc “gái giang hồ” chỉ gái buôn hương bán phấn.
Giang thần trảo trảo: Năm Nhâm Thân (1572), nhà Mạc sai tướng là Quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào. Thủy quân gồm có 60 chiến thuyền do cửa Việt đổ vào sông; lục quân độ 1000 người khởi hành từ Khang Lộc (giữa Quảng Bình) theo con đường Hồ Xá (con đường đại lộ số 1 bây giờ) tiến đến chùa Thanh Tướng thuộc làng La Nguyễn hạ trại. Chỉ còn cách xã Ái Tử, nơi Nguyễn Hoàng đóng binh chừng vài chục dặm.
Quân của Lập Bạo đi đến đâu là tàn phá nhà cửa ruộng vườn xơ xác đến đấy. Tài sản bị cướp đoạt, già trẻ trai gái bị giết chóc rất bi thảm. Thế lực của chúa Nguyễn bấy giờ còn yếu. Trước lực lượng quá hung bạo của địch, Nguyễn Hoàng rất lấy làm lo, chưa tìm được cách gì để phá địch.
Tương truyền, một đêm, Nguyễn Hoàng đang ngủ, chợt nghe như có tiếng kêu “trảo trảo” ở trên sông. Giựt mình thức dậy, chúa khấn rằng: “Nếu giang thần có quyền lực vô biên xin hãy giúp tôi kháng giặc.”
Ngay đêm đó, trong giấc mơ, chúa Nguyễn thấy một thiếu nữ mặc áo xanh hiện đến, bảo rằng: “Nếu tướng công muốn giết giặc phải dùng kế mỹ nhân để dụ nó đến đồi Cát, kẻ tiện tỳ này xin giúp sức.”
Đoạn nàng từ giã biến mất.
Nguyễn Hoàng tỉnh dậy, nhớ lời dặn, chọn người đẹp thân tín để thực hành kế hoạch. Lúc bấy giờ ở Huyện Hương Trà có nàng thanh nữ diễm lệ tên Ngọc Lâm được Nguyễn Hoàng chọn giao cho công tác ấy. Vì muốn chống giặc, Ngọc Lâm đành phải hy sinh. Chúa Nguyễn liền đưa Ngọc Lâm cùng vàng bạc gấm lụa sang dinh Mạc xin cầu hòa, hẹn uống máu ăn thề, kết nghĩa đồng minh với nhau.
Lập Bạo vốn người hiếu sắc, nghe giọng oanh thỏ thẻ của Ngọc Lâm rót vào tai nên rất tin lời Nguyễn Hoàng là thật. Hơn nữa, Bạo biết giữa Nguyễn và Trịnh vốn có mối thù bất cộng đái thiên, cho rằng Nguyễn muốn kết đồng minh với Mạc để đánh Trịnh nên Bạo mừng rỡ nhận lời chúa Nguyễn và đến ngay chỗ hẹn.
Nhờ Ngọc Lâm báo trước nên chúa Nguyễn cho người thiết lập một cái gò ngay bên bờ sông, chờ nghe thấy tiếng nước để làm nơi tế lễ và ăn thề.
Lập Bạo cùng đi với nàng Ngọc Lâm trên một chiếc thuyền nhỏ, bên cạnh có vài chiếc khác hộ vệ. Tuy vậy, Bạo vẫn còn ngờ, liếc mắt xem chừng đối phương có động tịnh gì không. Nhưng chỉ thấy Nguyễn Hoàng cùng vài người tùy tùng không võ khí, đứng trên bờ đưa tay vẫy. Bạo yên lòng, dưới thuyền bước lên tiến thẳng đến chỗ của đàn lễ. Nhưng vừa đến nơi thì thốt nhiên, quân Nguyễn đã núp sẵn dưới hố, đồng loạt nhảy lên xông vào bắt. Lập Bạo và bọn tùy tùng khiếp đảm vội chạy xuống thuyền.
Nhưng thuyền đã xa bờ quá rồi, Bạo vội vàng nhảy xuống sông. Chưa kịp lặn trốn thì đã bị quân Nguyễn đổ đến, rồi cả hàng chục cây giáo đâm bổ xuống. Máu tuôn đỏ trên mặt sông. Xác Bạo chìm luôn dưới đáy nước. Không để mất cơ hội, Nguyễn huy động quân lính tiến đến chùa Thanh Tướng tiêu diệt cả toán quân Mạc đóng ở đấy.
Những quân còn sống sót vội đổ xuống thuyền, tìm đường tẩu thoát. Bấy giờ vào tháng 10, gió bấc thổi mạnh. Thuyền bè không thể nào ra khơi cửa Việt khi có gió bấc nên chiến thuyền của Mạc vỡ lung tung. Những kẻ thoát chết đuối đều về hàng Nguyễn cả.
Quân Nguyễn đại thắng. Chúa Nguyễn trọng thưởng Ngọc Lâm và chọn hàng quan lại, gả Ngọc Lâm cho một kẻ xứng đôi vừa lứa với nàng. Lại truyền lập đền thờ vị giang thần đã báo mộng giúp mình bên khúc sông đó, gọi là miếu “Giang thần Trảo Trảo”.
Giao Hà: cách Thành phố Tô Lô Phan (Tân Cương, Trung Quốc) 10 km về phía tây. Nhìn từ trên không, Giao Hà nằm trên một sơn khối cù lao khổng lồ hình lá liễu, tách biệt và nổi bật trên cao nguyên hoàng thổ vùng Tô Lô Phan. Dòng sông chảy đến từ phía bắc, phân chia thành 2 nhánh bọc quanh Giao Hà và hợp dòng ở phía nam. Người Hoa gọi là Giao Hà vì thành nằm ở trong khu vực giao nhau của sông. Thời nhà Hán, sau khi đánh đuổi Hung Nô và chinh phục các nước Tây Vực, Hán Vũ Đế đặt một chức quan lãnh binh và doanh trại đóng quân tại Giao Hà. Nhà Đường cũng đã đặt phủ binh tại đây – được xem là vùng biên tái – khi thu phục Tây Vực. Rất nhiều di chỉ còn tồn tại cho đến ngày nay, đều là kiến trúc thời Đường.
giá áo túi cơm: do chữ y giá phạn nan. Cái giá để móc áo và cái túi để đựng cơm là hai vật dụng rẻ tiền trong nhà, chỉ phục vụ những mục đích tầm thường. Câu này có ý chê những kẻ tầm thường, giống như cái giá để móc áo và cái túi để đựng cơm chứ không giúp ích gì nhiều cho ai.
Đoạn trường tân thanh:
Phong trần, mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Giáng Phi cởi ngọc: Hai nàng tiên Giáng Phi chơi ở trên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà hai nàng tiên kia cũng biến mất.

giáp lá cà / xáp lá cà: Lá cà là mảnh bằng đồng giống hình chiếc lá cà trong áo võ quan để che ngực, và một mảnh lá cà khác để che bụng và hạ bộ.
Trong trang phục hát hội, các nghệ nhân cũng gọi mảnh này là lá cà.
Đánh giáp lá cà là mặt đối mặt, các lá cà của hai tướng sát vào nhau, tức là cận chiến.
già kén kẹn hom: Theo Trịnh Mạnh (2003), câu này chỉ thấy trong từ điển của Gensibrel (1893), ghi là “chẹn” thay cho “kẹn” và dịch tiếng Pháp là serer (tức xương hom bị chẹn lại). Câu này có nghĩa là kén chồng thì lấy chồng muộn và dễ mắc chứng chẹn hom. Một số thầy thuốc có nói trong chứng chẹn hom, khi sinh nở lần đầu xương hom không giãn nở đủ, khó sinh và dễ chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy, ngày trước có bài thuốc chữa bệnh chẹn hom để làm cho dây chằng dễ giãn khi đẻ.
Thành ngữ này khuyên phụ nữ đừng quá kén chọn trong hôn nhân, kẻo khi lớn tuổi khó sinh đẻ. Điều này phù hợp với quan điểm y khoa hiện đại.
giàu làm kép, hẹp làm đơn: hàm chỉ mức độ to nhỏ của việc làm giỗ: nhà giàu thì làm cỗ to (kép), còn nhà nghèo thì làm cỗ nhỏ (đơn). Có giai thoại sau đây.
Một cô đầu người Làng Bình Lục, Hà Nam, lúc luống tuổi bỏ nghề, về quê lấy một người chồng làm ruộng. Nhờ siêng năng cần cù, vợ chồng dựng được nhà mới. Ở gian giữa, cạnh bàn thờ gia đình, cô đặt bàn thờ mẹ nuôi, tức bà trùm ngày xưa khi cô còn theo nghiệp hát xướng.
Hôm ăn mừng nhà mới, vợ chồng cô mời bà con quen biết, trong đó có anh đồ vừa mới đến dạy học ở làng. Sau khi xem nhà cửa, chợt anh thấy câu đối nôm treo trước bàn thờ mẹ nuôi gia chủ, liền đến gần đọc. Câu đối viết:
Giàu làm kép, hẹp làm đơn, tống táng cho yên hồn phách mẹ
Cá kể đầu, rau kể mớ, tình tang thêm tủi phận đàn con.
Thầy đồ có vẻ thích thú lắm, quay lại hỏi chủ nhà: “Thưa bác, cháu hỏi thật, hình như hồi xưa bác có làm nghề hát xướng?”
Bà chủ ngạc nhiên, cười: “Quả đúng như thế. Nhưng tại sao thầy biết?”
Thầy đồ cười rồi hỏi tiếp: “Ai làm cho bác câu đối này?”
“À! Đấy là câu đối cụ Tam Nguyên [Nguyễn Khuyến] viết cho. Cụ chả là người huyện tôi. Trong huyện thuở đó hễ ai có việc hiếu hỉ gì đều đến xin câu đối của cụ. Mẹ nuôi tôi mất mà chẳng có con cái gì, chỉ có tôi là con nuôi nên tôi phải đứng ra lo liệu ma chay. Muốn cho được chu tất, tôi đến xin cụ đôi câu đối nôm để thờ, lúc ấy cụ còn sống. Mà thầy thấy câu đối thế nào?”
Thầy đồ cười: “À, thảo nào… Quả là kỷ vật vô giá cụ để lại, bác hãy giữ gìn trân trọng. Câu đối không những hay, đầy đủ tình nghĩa, mà còn tả được cuộc sống của người đã khuất. Bác để ý vế hữu có chữ “kép” đối với chữ “đầu” ở vế tả, chữ “tống táng” đối với chữ “tình tang”, chữ “phách” đối với chữ “đàn”. Đầu, kép, phách, đàn, tống táng, tình tang chẳng phải tả cảnh đàn hay sao?”
Chủ nhà nghe giảng bấy giờ mới hiểu, vừa mừng vừa cảm động.
Chú thích: Trong nghề hát xướng thời đó, người ca nam được gọi là “kép” và người ca nữ được gọi là “đầu”. Sau này, nghề cải lương gọi là “kép” và “đào”.
già néo đứt dây: Muốn gộp nhiều cây gỗ thành một bó chặt, hoặc kéo hai cây trụ lại gần nhau, mà sức tay không không làm nổi, người ta buộc một vòng dây thật bền rồi dùng một đoạn cây ngắn mà xoắn, càng xoắn thì càng chặt. Làm như vậy gọi là “néo”. Nhưng nếu xoắn quá mức thì dây sẽ đứt do “già néo”, tức là néo quá căng.
Thành ngữ trên khuyên người ta đừng quá găng trong cách cư xử, để tránh đổ vỡ, tránh hỏng việc.
Giả Chí (718-772): tự Ấu Lâm, người Lạc Dương.
Giả Đảo (779-843): tên chữ là Lãng Tiên, người Phạm Dương (nay thuộc ngoại ô Bắc Kinh, Trung Quốc).
giải cấu: có nghĩa không hẹn mà gặp. Tam quốc diễn nghĩa: Lưu Bị chắp tay nói với Thạch Quảng Nguyên và Mạnh Công Thành “Bị cửu văn nhị công đại danh, hạnh đắc giải cấu” (Bị này nghe đại danh của hai ngài đã lâu, lấy làm hân hạnh được gặp gỡ).
Đoạn trường tân thanh:
Sinh rằng: “Giải cấu là duyên
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều
giảm bếp, tăng bếp: hai mưu kế quân sự thời xưa, tuy thực hiện trái ngược nhau nhưng đều có kết quả đánh lừa được quân địch.
* Kế giảm bếp: đời Chiến Quốc, nước Ngụy và nước Tề giao tranh. Tướng Tề là Tôn Tẫn nói với Điền Kỵ: “Quân của Bàng Quyên vốn dũng mãnh mà khinh thường Tề, chi bằng nay ta giả ra thế yếu dụ nó.”
Điền Kỵ hỏi: “Dụ cách nào?”
“Ngày nay nên làm 10 vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi. Nó thấy bếp của quân ta bỗng bớt mất, tất cho quân ta nhát sợ mà trốn đi, sẽ gấp đường tiến đánh. Như thế khí nó tất kiêu và sức nó tất kiệt, ta sẽ dùng kế mà đánh tất thế nào cũng thắng.”
Tướng của Ngụy là Bàng Quyên khi thấy quân Tề rút lui để lại địa điểm cũ rộng rãi, cho người đến quan sát, xem chỗ bếp đun thấy 10 vạn bếp. Quân Tề báo cáo, Bàng Quyên lấy làm sợ hãi, cho rằng quân Tề quá nhiều, không thể khinh địch. Hôm sau, đến một chỗ dinh trại bỏ lại thì chỉ thấy có hơn 5 vạn bếp. Lại hôm sau nữa, chỉ còn thấy có 3 vạn bếp. Bàng Quyên mừng rỡ nói với Thái tử Thân: “Tôi vốn biết người nước Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có 3 ngày mà quân lính bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư!”
Đoạn truyền lệnh tấn binh.
Khi đi đến Mã Lăng thì mặt trời đã lặn. Đường Mã Lăng là một nơi hiểm yếu, ở giữa hai quả núi, hang khe sâu hẹp. Bấy giờ vào lúc hạ tuần tháng 10, trời không trăng… Tiền quân của Bàng Quyên báo cho Quyên hay là có nhiều cây bị chặt chận ngang đường, khó tiến lên được. Quyên bảo: đó là quân Tề sợ bị đuổi theo nên lập ra kế ấy.
Nhưng Quyên vừa ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng có dấu chữ; nhưng vì đêm tối không nhận rõ mới sai tên lính đánh lửa soi xem, nhận thấy hai câu: “Bàng Quyên chết dưới cây này” và “Quân sư Tôn bảo”. Bàng Quyên bây giờ hốt hoảng, biết là mắc mưu, vội vàng hạ lệnh cho quân lui mau. Nhưng chưa kịp lui, thì hai toán phục binh cung nỏ của Tề trông thấy lửa sáng, liền bắn ra như mưa. Quân Ngụy rối loạn hàng ngũ. Bàng Quyên bị tên trọng thương, liệu không thoát được, bèn rút kiếm đâm cổ tự tử.
* Kế tăng bếp: Đời Tam quốc, nhà Ngụy và Thục giao tranh. Thừa tướng nhà Thục là Gia Cát Lượng tự Khổng Minh cầm quân phạt Ngụy… Đô đốc nhà Ngụy là Tư Mã Ý cầm quân chống cự. Hậu chúa nhà Thục vì nghe lời gièm pha nên nghi kỵ Khổng Minh làm phản, liền giáng chiếu triệu Khổng Minh rút quân ngay về để tước hết binh quyền. Vì sợ trái lệnh vua mà bị nghi kỵ thêm, nên Khổng Minh phải đành rút quân.
Tướng là Khương Duy hỏi: “Đại quân rút lui. Tư Mã Ý thừa thế đuổi đánh thì làm thế nào?”
“Nay ta lui quân, phải chia làm 5 tốp mà rút dần. Như hôm nay rút khỏi một trại, nếu trong trại còn lại một ngàn quân thì phải đào hai ngàn cái bếp. Ngày hôm trước đào 3 ngàn bếp thì hôm sau đào thêm 4 ngàn. Cứ ngày ngày rút bớt quân, đào thêm bếp mà về.”
Đoạn ra lệnh nhổ trại lui quân.
Tư Mã Ý nghe tin sợ Khổng Minh đa mưu, chưa dám khinh tiến. Trước hết đem hơn trăm kỵ binh đến trại Thục quan sát. Đến nơi, sai quân sĩ đếm số bếp, rồi quay về trại nghỉ. Hôm sau, lại sai quân đến chỗ nền trại mới mà đếm. Quân về báo: “Số bếp trại này nhiều hơn số bếp trại hôm qua một phần ba”. Ý bảo các tướng: “Ta đoán Gia Cát Lượng lập mẹo giả lui dụ địch, nay quả nhiên hắn vừa lui vừa gọi thêm quân! Nếu ta đuổi đánh, ắt đã mắc mẹo phục binh. Thôi, giờ ta hãy rút về, rồi hãy hay.”
Đoạn rút quân về.
Thế là Khổng Minh không hao một tên lính, vẫn yên ổn kéo quân về Thành Đô.
Sau, có người ở cửa ngõ Tây Xuyên đến báo cho Tư Mã Ý hay việc ấy. Ý ngửa mặt than: “Thì ra Lượng dùng phép của Ngu Hủ mà đánh lừa được ta.”
giản nước Tề – ba phen chép giết vua. Theo Thông chí, Thôi Trữ là đại phu nước Tề thời Xuân Thu, có vợ là nàng Ðường Khương tuyệt đẹp. Tề Trang Công thường lén lút đi lại với nàng. Thôi Trữ ghét Tề Trang Công dâm loạn bèn thừa cơ giết hắn, lập Cảnh Công lên làm vua rồi tự mình làm Tướng quốc. Thôi Trữ truyền cho quan Thái sử Bá chép là Tề Trang Công bị bệnh sốt rét mà chết. Thái sử Bá chép rằng: “Ngày Ất Hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang [tên Tề Trang Công].” Thôi Trữ nổi giận giết Thái sử Bá.
Thái sử Bá có ba người em là Trọng, Thúc, Quý. Trọng thay anh làm Thái sử, cứ chép như cũ. Thôi Trữ lại giết đi. Ðến lượt Thúc cũng vậy.
Ðến lượt Quý cũng vẫn chép đúng như vậy. Thôi Trữ cầm lấy cái thẻ mà bảo Quý rằng: “3 anh mày đều chết cả, nay nếu mày chịu chép khác đi thì ta sẽ tha chết cho”. Quý nói: “Chép đúng sự thật là chức phận người làm sử. Nếu làm trái chức phận mà sống thì thà chết còn hơn.”
Thôi Trữ thở dài, ném cái thẻ đưa trả Quý. Nam sử thị nghe chuyện, nói: “Anh em quan Thái sử đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày Ất Hợi mới rồi, nay ta đem thẻ này đến để chép.” Nhưng khi đến nơi thấy Quý đã chép rồi, mới ra về.
giảo thố tam quật: nghĩa là “thỏ khôn có ba ngách hang”. Ý nói: thỏ có ba ngách hang để phòng khi kẻ thù vào một hang thì chạy tránh theo hang kia, cũng như con người phải có phương án dự phòng để ứng phó với nghịch cảnh. Câu này là do Phùng Huyên bày kế cho Mạnh Thường Quân.
Xem mục: Mạnh Thường Quân.
giấc bướm: xem hồ điệp mộng.
giấc hoàng lương: từ chữ hoàng lương mộng.
Đoạn trường tân thanh:
Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai
Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
Xem mục: giấc Nam Kha.
giấc hòe:
Đoạn trường tân thanh:
Tiếng sen khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Xem mục: giấc Nam Kha.
giấc kê vàng:
Cổ thi:
Trăm năm một giấc kê vàng.
Xem mục: giấc Nam Kha.
giấc mai: Theo Long thành lục và Thượng hữu lục, Triệu Sự Hùng đời Tùy, qua chơi Núi La Phủ, trời chiều sắp tàn thấy trong rừng có một quán rượu, Hùng liền ghé vào thấy có một người con gái đẹp trang điểm thanh nhã, bận đồ trắng ra tiếp. Hai người cùng nói chuyện uống rượu, hương thơm như phả nhẹ vào người… Sự Hùng say ngủ thiếp đi, lúc tỉnh dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai đang độ nở hoa, lòng bùi ngùi mới nhận ra rằng việc vào quán uống rượu với người đẹp chỉ là một giấc mộng.
Đoạn trường tân thanh:
Mơ màng phách quế hồn mai
Đạm Tiên, thoắt đã thấy người ngày xưa (2712)
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn (2728)
“Giấc mai” chỉ giấc ngủ nhẹ nhàng. “Hồn mai” chỉ hồn người đẹp trong cơn mê.
giấc mộng hươu: Liệt tử: Một người nước Trịnh giết được một con hươu, bèn lấy lá chuối đậy lại rồi bỏ đi kiếm củi. Khi trở về quên mất chỗ, lại cho mình nằm mơ bắt được hươu.
Tích này nói rằng đời người chẳng qua chỉ là giấc mộng mà thôi. (Có người gọi là “Giấc mộng đời”, “Giấc mộng thanh”).
giấc mơ Tần: Nói chuyện Thẩm A Chi nằm mơ thấy Tần Mục Công gã Lộng Ngọc cho mình.
Xem Lộng Ngọc.
giấc Nam Kha: Truyện này được kể trong Nam Kha ký thuật của Lý Công Tá đời nhà Đường và vở kịch Nam Kha mộng do Thang Hiển Tổ đời Minh soạn, hoặc trong sách Dị Văn lục.
Mé nam nhà Thuần Vu Phần có cây hòe to, tàn lá rậm rạp, bóng mát che cả một góc vườn. Họ Thuần thường ngồi uống rượu dưới gốc cây hòe đó. Nhân sinh nhật, Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ ở dưới cây hòe. Trong mơ mơ màng màng thấy có hai sứ giả đến nói: “Hòe An Quốc vương sai tiểu thần mời ngài lên xe đi đến nước Hòe An.” Thế rồi ba người lên xe, nhắm phía gốc cây hòe mà ruỗi đến và chui thẳng vào đó. Thuần Vu Phần giật mình nhìn lại thì thấy cây cỏ cảnh trí hai bên đường đều thay đổi cả.
Ðến nơi, vào một cửa thành lớn màu đò, trên có chữ đề: Ðại Hòe An Quốc. Thuần được Vua Hòe An cho vào bái yết. Thấy Thuần tướng mạo khôi vĩ nên nhà Vua gả con gái đẹp như tiên nga giáng thế. Từ đó Thuần Vu Phần đắm say trong hạnh phúc như từ trời rơi xuống. Một hôm, Công chúa hỏi Thuần có muốn làm quan không. Thuần bảo mình chỉ là một võ phu, đâu có biết việc an bang tế thế. Công chúa hứa sẽ hỗ trợ cho Thuần làm việc quan cho thật tốt. Nhân có Quận Nam Kha đang thiếu người cai quản, Công chúa bèn xin cho Thuần đến trấn nhậm nơi đó. Nhà Vua bèn phong cho Thuần làm Thái Thú Quận Nam Kha, cai trị cả một vùng rộng lớn. Sau khi nhậm chức, Thuần Vu Phần rất chăm chỉ việc quan, xem xét nhân tình phong hóa của địa phương, chăm lo đến đời sống của nhân dân trong quận, lại được sự hỗ trợ khuyến khích của Công chúa, nên chẳng bao lâu, đời sống của dân chúng được nâng cao hẳn lên. Mọi người dân đều ca tụng công đức của Thái Thú, tiếng đồn đến kinh đô, nhà Vua và Hoàng hậu cũng rất vui lòng. Vua lại ban hàm phong cho Thuần Vu Phần được ngang hàng với Tam Công Tể tướng trong triều.
Cứ thế, hai mươi năm trôi qua, Thuần Vu Phần và Công chúa sinh được năm trai hai gái, tất cả đều khôn lớn và nên người. Nhờ có phụ ấm, nên con trai cũng hiển đạt làm quan và con gái thì cũng gả về cho các bậc vương hầu quyền quý.
Đang lúc vợ chồng Thuần sống cuộc đời vương giả, cực kỳ vui sướng thì bỗng có giặc kéo đến vây Quận Nam Kha. Thuần đem quân chống cự. Giặc đông mạnh, Thuần thua chạy. Quân giặc vây thành đánh phá. Công chúa nước Hòe An, vợ của Vu Phần, chết trong đám loạn quân.
Thuần Vu Phần đem tàn quân về kinh đô tâu lại vua cha. Nhà vua nghi kỵ Thuần đã đầu hàng giặc, lạnh nhạt với Thuần, nên cả triều bá quan văn võ qua lại hai mươi năm nay rất thân thiết đều tỏ ra tẻ nhạt với Thuần. Buồn tình nên Thuần tối ngày chỉ biết uống rượu tiêu sầu. Nhà Vua cũng đâm ra bực mình nên tước hết phẩm hàm, truyền lệnh đuổi chàng về quê cũ. Thuần Vu Phần mới giật mình suy nghĩ đây là nhà của mình rồi, còn về quê cũ nào nữa?! Thuần vừa oan ức vừa tủi nhục, khóc lóc bi thương…
Khi xe tứ mã đưa Thuần Vu Phần ra khỏi hang động dưới gốc cây hòe, thì chàng ta mới mơ mơ hồ hồ lúc đầu cũng từ hang động này đi vào Đại Hòe An Quốc. Còn đang ngơ ngơ ngẩn ngẩn thì nghe tiếng gọi giật ngược bên tai của hai gia nhân đang quét dọn trong sân. Bừng tỉnh mở mắt ra thì thấy mình nằm dưới gốc cây hòe, trên đầu một nhánh cây hòe chĩa về phía nam, mặt trời chưa lặn, chén rượu hãy còn nguyên ở bàn. Ánh nắng buổi ban chiều còn chưa tắt hẳn, vài tia nắng yếu ớt còn len lỏi qua tàn lá của cây hòe rậm rạp ở góc sân. Cạnh Thuần lại có một tổ kiến lớn, trong hang có một con to hơn cả, đầu đỏ, cánh trắng. Bầy kiến kéo hàng đàn hàng lũ bò lên cây hòe. Vu Phần mới ngẫm ra: Thì ra Hòe quốc không gì khác hơn là cây hòe, Quận Nam Kha là cành cây hướng về phía nam, còn tổ kiến có lẽ là quân địch đã đánh bại Thuần Vu Phần.
Thuần Vu Phần cảm khái cho cuộc đời hư ảo tựa khói tựa mây, phú quý vinh hoa chỉ là một giấc mộng. Cho nên từ đó về sau chỉ chuyên tâm tu đạo, không uống rượu, không gần nữ sắc, theo thuyết thanh tịnh vô vi. Ba năm sau thì mất khi tuổi mới vừa 47, là tuổi trung bình của người đời lúc bấy giờ.
Cung oán ngâm khúc:
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không.
Tát nước –Tú Xương:
Giấc mộng Nam Kha khéo chập chờn
Giữa trời riêng một cảnh giang sơn.
Bích câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên mang bệnh tương tư:
Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chẳng an.
Đoạn trường tân thanh, khi Thúy Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để qua thăm Kim Trọng:
Gót sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
“Giấc Nam Kha” hay “giấc hòe” có ý nói cuộc đời là phù du mộng ảo, công danh phú quý như giấc chiêm bao.
giấc kê vàng: điển tích theo Thẩm trung ký của Thẩm Ký Tề đời Đường.
Lư Sinh trọ ở Hàm Ðan, đi thi không đỗ. Trở về nhà lo cày ruộng mưu sinh. Một ngày, chàng gặp đạo sĩ Lã Ông ở một quán ven đường.
Hai người cùng trao đổi và bàn bạc về nhân sinh rất là tâm đắc. Bỗng Lư sinh nhìn xuống áo quần lam lũ của mình mà cảm khái nói: “Đại trượng phu sống trên đời mà không đắc chí, đến nỗi phải như thế này!” Đạo sĩ nói: “Trông anh khỏe mạnh, ăn nói lại uyên bác, có điều gì còn phải than thở nữa?” Lư Sinh đáp: “Kẻ sĩ sống trên đời phải dương danh lập nghiệp, không làm quan văn thì cũng phải là võ tướng; như tôi đây học cả lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, lại phải chịu đi cày ruộng khốn khó thế nầy, nghĩ có ức không!”
Bàn luận một hồi lâu, vừa buồn vừa nản, Lư Sinh lại thấy buồn ngủ, khi đang đợi chủ quán bắt nồi kê vàng lên nấu. (Kê là một loại ngũ cốc, hạt có màu vàng nên còn được gọi là kê vàng, từ Hán-Việt là hoàng lương.)
Lư sinh nghiêng đầu nằm lên gối ngủ thiếp đi. Chợt chàng thấy có ánh sáng phát ra từ cái lỗ trống bên gối, ánh sáng và khoảng trống lớn dần. Chàng bèn nhảy vào trong ánh sáng đó, thì thấy mình đã về đến nhà.
Mấy tháng sau có người làm mối cho chàng cưới con gái nhà họ Thôi, thuộc gia đình giàu có lại trẻ đẹp, nên chàng yên tâm mà dồi mài kinh sử.
Năm sau lai kinh ứng thí, đậu ngay Tiến sĩ. Nhà Vua phái đi làm Huyện úy của Huyện Vị Nam, không bao lâu được thăng làm Giám sát Ngự sử. Ba năm sau, lại thăng làm Trưởng quan của đất Thiểm. Lư Sinh lại thích về thủy lợi, nên mở kinh đào 80 dặm cho đất Thiểm Tây, giải quyết vấn đề giao thông đường thủy cho dân chúng, nên dân chúng vùng đó làm bia ca tụng công đức.
Lại được cải nhậm làm Trưởng quan ở Biện Châu, làm Thái phỏng sứ ở Hà Nam Đao, rồi theo lời triệu của nhà Vua về kinh thành làm Kinh triệu doãn. Năm đó hoàng đế Huyền Tông chinh phạt Nhung Địch, mở rộng biên cương, nhằm lúc Tiết độ sứ Vương Quân bị giết, nhà Vua cần nhân tài thay thế, mới lệnh cho Lư Sinh làm Tiết độ sứ đất Hà Tây.
Lư Sinh cầm quân đại phá quân địch, mở rộng thêm biên cương chín trăm dặm, xây thêm ba thành trì để củng cố bờ cỏi. Nhân dân một dải biên cương lập bia ca ngợi công đức.
Lư Sinh ban sư về triều. Nhà Vua luận công phong thưởng, thăng chàng làm Lại Bộ Thị lang. Lại thuyên phong Hộ Bộ Thượng thư kiêm Ngự sử Đại phu. Trong một lúc mà danh vọng lên cao đến tột đỉnh. Trong khi mọi người đều hâm mộ thì Tể tướng đương triều lại đố kỵ, phao tin thất thiệt là Lư Sinh ỷ công hống hách không xem ai ra gì, nên Vua mới đày đi làm Thứ sử Đoan Châu.
Ba năm sau, nhà Vua xét oan tình, cho Lư Sinh về kinh phục chức Thường thị, hầu cận bên vua. Ít lâu sau lại được thăng làm Tể tướng, cùng ngang hàng với các Tể tướng đương thời là Tiêu Tung, Bùi Quang Đình, giúp nhà Vua thực thi sách lược an dân, được tiếng là Thừa tướng giỏi.
Nhưng lại bị đồng liêu tạo chứng cứ giả, vu cho thông đồng với các tướng ở biên cương định mưu phản. Nhà Vua lại hạ lệnh bắt hết cả nhà Lư Sinh giam vào ngục tối, tịch biên toàn bộ gia sản.
Lư Sinh rất kinh hoàng, nói với vợ con rằng: “Gốc gác nhà ta ở Sơn Đông, có đến 5 khoảnh ruộng, đủ để nuôi sống cả nhà một cách sung túc, đâu cần phải theo đuổi công danh phú quý mà chi để cho đến bây giờ nhà tan cửa nát, muốn sống yên thân bình thường cũng không được!”
Nói xong bèn rút dao ra khứa cổ tự vẫn, may mà Thôi Thị giựt dao lại kịp mới không chết, nhưng những người liên can đều bị xử tử hình. Nhà Vua xét Lư Sinh trong quá khứ có công nên miễn cho tội chết, chỉ đày đi Hoan Châu lao dịch.
Năm năm sau, Vua xét thấy oan tình, bèn triệu về kinh cho phục chức Tể tướng, sách phong Yên Quốc Công, được hưởng ân sủng đặc biệt của nhà vua.
Lư Sinh sinh được năm trai, người đều làm quan. Các thông gia đều là bậc quyền quý, cháu nội gần hai mươi đứa đều rất ngoan hiền. Cuộc sống vinh hoa phú quý của Lư Sinh kéo dài đến hơn 80 tuổi mới nhuốm bệnh mà qua đời…
Bấy giờ, Lư Sinh mới trở mình và ngáp dài một cái thức dậy. Mở mắt ra thấy đạo sĩ họ Lữ còn ngồi bên cạnh, và nồi kê mà chủ quán đang nấu vẫn còn chưa chín, mọi vật chung quanh đều vẫn y như cũ. Lư Sinh hoảng loạn như vừa từ thế giới khác trở về, hỏi rằng:” Đó chỉ là giấc mộng thôi sao?”
Lữ đạo sĩ đáp rằng: “Cái huy hoàng nhất của cuộc đời chẳng qua chỉ như thế mà thôi!”
Lư Sinh vô cùng cảm khái mà tạ rằng: “Vinh nhục của cuộc đời, cùng thông của vận mệnh, cái lý của được và mất, cái tình của sống và chết, ta đều đã trải nghiệm cả rồi. Cám ơn đạo sĩ đã điểm hóa cho ta, sao ta lại còn không tỉnh ngộ chứ?!”
Bèn lạy tạ đạo sĩ mà đi. Từ đó về sau không còn bận tâm về công danh phú quý nữa.
Đoạn trường tân thanh:
Tiếng sen khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Bích Câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên tương tư:
Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Cổ thi:
Trăm năm một giấc kê vàng.
Vịnh nhân sinh – Nguyễn Công Trứ
Ôi, nhân sinh là thế ấy
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào
Vừa tỉnh giấc nồi kê chửa chín.
Kê vàng tức hoàng lương, một thứ ngũ cốc hạt nhỏ, màu vàng. Nhà nghèo bên Tàu ngày xưa dùng kê để ăn thay gạo.
“Giấc Nam Kha”, “giấc hòe”, “giấc kê vàng”, “giấc vàng” hay “giấc hoàng lương” mang tư tưởng hư vô của đạo gia và triết lý vô thường của đạo Phật: những vinh hoa phú quý trong đời đều vô nghĩa.
giấc Vu Sơn: xem mây mưa.
giấm chua: chỉ đàn bà ghen. Theo MaxReading_Giấm chua, Hoàng đế nước Kim rất yêu quý hai nàng cung phi là Lệ Cẩm tây cung và Ngọc Sương ái phi. Hoàng hậu lấy làm ghen tức nhưng vì thấy nhà Vua quá sủng ái hai nàng, nên đành phải câm lặng. Khi nhà Vua lâm trọng bịnh, trước giờ lâm chung, trối lại với Hoàng hậu cùng quần thần là khi nhà Vua chết, phải chôn sống hai nàng ái phi theo vua.
Vài hôm sau, nhà Vua chết. Hoàng hậu tuân theo di ngôn của nhà vua, nhưng bà lại nghĩ rằng: nếu chôn hai vị phi tần tuyệt sắc nguyên vẹn này thì khi xuống âm cung, nhà Vua lại cũng âu yếm say sưa hai nàng như trước. Cái cảnh giao hoan này như diễn ra trước mắt hoàng hậu càng làm cho máu ghen thêm sôi sục hơn nữa. Bà quát tháo ầm ĩ, truyền cung phi thị vệ khoét đôi mắt, xẻo mủi, cắt đôi má mơn mởn của hai nàng Lệ Cẩm và Ngọc Sương. Làm như thế cốt để xuống âm cung, nhà Vua sẽ ghê tởm mà không dám nhìn đến nữa.
Nhưng, Hoàng hậu ngắm nghía thấy hai nàng còn đẹp. Mất mắt, mất mũi, mất má đào nhưng nước da hai nàng vẫn trắng nõn nà, thân hình cân đối, diễm lệ làm bà vẫn còn ghen. Bà mới nghĩ ra một cách làm hủy hoại tiêu mòn nhan sắc của hai nàng mới hả lòng. Bà đem ngâm hai nàng vào chum giấm chua rồi mới cho chôn theo nhà vua. Bấy giờ, Hoàng hậu mới yên tâm.
Theo Lư phu nhân truyện, Đời nhà Đường (618-907), Phòng Huyền Linh làm đến chức Tể tướng, có vợ là Lư Thị. Ông một niềm yêu mến vợ vô cùng, không lấy một tì thiếp nào cả. Người ngoài cho thế là tại ông sợ vợ ghen.
Vua Đường Thái Tông muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho hoàng hậu gọi nàng vào và bảo: “Theo phép thường, các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, Vua muốn ban cho một người mỹ nhân.”
Lư Thị nhất quyết không bằng lòng. Vua nổi giận, gắt: “Nhà ngươi không ghen thì sống, ghen thì chết.”
Đoạn sai người đưa cho một chén giấm, giả làm chén thuốc độc, phán rằng: “Nếu vậy thì phải uống chén thuốc độc này.”
Lư Thị không ngần ngại chút nào, cầm chén uống ngay.
Vua thấy thế, nói: “Ta cũng phải sợ, huống chi là Huyền Linh.”
Đoạn trường tân thanh, đoạn nói về Kiều khi ở với Thúc Sinh, nàng biết chàng đã có vợ nên lấy làm lo cho thân phận mình mà tha thiết nói với Sinh:
Thế trong dầu lớn hơn ngoài
Trước hàm sư tử gửi người đằng la
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm chua lại tội bằng ba lửa hồng.
“Giấm chua” chỉ sự ghen tuông của phụ nữ.
giấy sương: Do chữ lý sương, ý nói việc đời không phải tự nhiên đến, có căn do nên phàm việc gì cũng phải biết đề phòng lo liệu từ khi việc chưa đến.
giấy Tiết Ðào: Tiết Ðào đời Ðường là một danh kỹ đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thư, gọi là giấy Tiết Ðào. Xem thêm mục: Tiết Ðào.
giật gấu vá vai: Gấu áo là một phần của chiếc áo được may gấp lên để không lộ ra đường may. Khi vai áo rách, ai cũng thấy rõ. Người mặc áo rách vai nếu không có áo khác thay có thể dùng phần vải gấp lên ở gấu áo để vá lại chỗ rách trên vai, còn phần gấu áo bị lấy bớt vải thì người ta không thấy rõ.
Thành ngữ chỉ cảnh thiếu thốn phải dùng cách này cách khác để lấp vào chỗ thiếu. Rộng ra, thành ngữ chỉ việc làm ăn cò con, không tạo ra được thay đổi lâu dài mà chỉ có tính chắp vá nhất thời.
gieo cầu: Đời nhà Đường bên Tàu, nước Đại Huyền có Cửu Huyền Công chúa, người có sắc đẹp lại văn võ song toàn. Vua cha đang kén chọn phò mã. Nàng tâu với vua: “Nhân duyên là do trời định. Vậy xin cha cho người lập một cái đài cao tại giáo trường, và truyền cho toàn dân, bất kỳ xấu, đẹp đều phải dự kén phò mã. Riêng con có thêu một quả tú cầu; ngày ấy, con sẽ khấn vái trời đất rồi lên lầu mà quăng quả tú cầu ấy xuống giữa đám đông. Nếu ai lượn được thì sẽ kết duyên chồng vợ.:
Nhà Vua cưng con, nghe hữu lý nên bằng lòng.
Nghe được tin nhà Vua tuyển chọn phò mã bằng cách gieo cầu, các chàng trai, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, diện mạo tuấn tú hay xấu xa, dốt nát hay hay chữ đều tấp nập đổ xô đến trước đài. Họ hồi hộp, mong ngóng đón chờ…
Có chàng Tiết Cường, con thứ tư của Tiết Đinh San, vì bị nạn tru di ba họ dưới triều Vũ Hậu nên lưu lạc đến đấy. Chàng là người mỹ mạo tuấn tú, võ nghệ siêu quần. Thấy người đông đảo, chàng cũng đứng xem.
Đến giờ lành, Công chúa lên đài, quỳ trước bàn hương án, khấn vái, đoạn đứng lên, cầm quả tú cầu quăng xuống. Quả cầu nhào lộn trên không mấy vòng rồi sa trước mặt Tiết Cường. Mọi người đổ xô đến, lấn nhau chụp, làm té lăn sóng soài trên mặt đất. Tiết Cường đưa tay bắt lấy tú cầu, giữ chặt trong tay. Mọi người liền ào đến giựt lại. Chàng tay xô, chân đạp làm té nhào hết mấy người, rồi chen ra mà chạy, lại la lớn: “Ấy là nhân duyên trời định, may ai nấy nhờ, lẽ đâu làm điều vô lễ!”
Đoàn cấm binh liền đến can thiệp, xin rước phò mã. Bấy giờ họ mới tản ra, tiu nghỉu trở về.
Cấm binh thấy Tiết Cường mỹ mạo tuấn tú, nức nở khen: “Thật là trời khéo xui vợ xứng chồng hết sức!”
Thế là ngay hôm ấy, nhà Vua truyền cho Công chúa cùng Tiết Cường làm lễ giao bôi hợp cẩn.
Đoạn trường tân thanh, khi Vương Ông than vãn vì Kiều phải bán mình:
Nuôi con những ước về sau
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
“Gieo cầu” có ý chỉ duyên vợ chồng, do điển tích trên.
Xem thêm: trao tơ.
gieo thoi: Ném con thoi, chỉ việc người con gái phải giữ gìn để bảo toàn tiết hạnh.
Tấn thư: Tạ Côn đời Tấn, hàng xóm có người con gái họ Cao, nhan sắc xinh đẹp. Côn thường hay trêu cô ta. Có lần cô lấy con thoi ném làm Côn gẩy mất 2 cái răng.
Thơ Tô Thức:
Cứ khổ vì người con gái hàng xóm gieo thoi.
giếng cúc: tức chữ cúc tĩnh. Sách Phong tục thông chép ở Huyện Ly, đất Nam Dương có suối Cam Cốc. Nước suối Cam Cốc thấm chảy quanh vùng ấy. Người uống nước ấy được sống lâu nên có danh là cúc tĩnh.
giềng mối: Giềng là sợi dây ở mép lưới đánh cá, nhờ nó mà lưới được chắc và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác. Xem thêm mục: tam cương ngũ thường.
giọt châu: Từ chữ: “châu lệ”. Xem châu lệ.
giọt hồng: Do chữ hồng lệ: nước mắt đỏ như máu, chỉ nước mắt.
Thập di ký: Nàng Tiết Linh Vân có cha làm chức Ðình Trương, nhà rất nghèo, dung mạo tuyệt thế. Nhân lúc Ngụy Vân Ðế tuyển cung nữ, viên quan trú Quận Thường Sơn liền bỏ nghìn vàng để làm lễ rước nàng dâng Văn Ðế. Linh Vân biết sắp phải xa cha mẹ, sùi sụt khóc mấy giờ liền, nước mắt thấm đầy áo. Ðến khi nàng lên xe vào cung, người ta lấy ống nhổ ngọc hứng nước mắt, đến kinh thấy nước mắt đông lại đỏ như máu.
giọt rồng: giọt nước trong hồ chạm hình rồng. Ngày xưa, để xem giờ người ta dùng “đồng hồ” (theo nguyên ngữ). Đó là một cái hồ (thùng nhỏ) bằng đồng đựng nước, dưới có lỗ nhỏ để nước rỏ từng giọt ra ngoài. Mỗi khắc đồng hồ qua thì nước trong hồ vơi đi một ít. Muốn cho có vẻ mỹ thuật, người ta chạm hình đồng hồ này thành một con rồng, hoặc chạm chỗ vòi rỏ nước xuống. Do đó mới gọi là “giọt rồng” hay “giọt đồng” vì cái hồ bằng đồng.
Đoạn trường tân thanh, đoạn tả thời khắc:
Giọt rồng canh đã điểm ba
Tiểu thư nhìn mặt đường đà cam tâm.
giọt Tương:
Đoạn trường tân thanh:
Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)
Xem mục: mạch Tương.
Giới Tử
Chinh phụ ngâm:
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Đến Man Khê bàn sự Phục Ba.
Về Giới Tử, xem mục: Hàn thực.
gót lân: Do chữ lân chỉ: ngón chân con lân. Lân là loài thú không ăn sinh vật, không dẫm lên cỏ xanh, người xưa cho là loài nhân thú, tượng trưng cho đức tính nhân hậu, chỉ con cháu có tài đức.
Kinh Thi có thơ:
Những công tử độ lượng của chúa công đều giống như ngón chân con kỳ lân.
Ôi, đúng thật là con kỳ lân.
Thơ Vương Dung (Nam Tề):
Thân thuộc đẹp tốt như ngón chân lân
dòng họ vững bền như bàn thạch.
gốc tử: gốc cây thị, chỉ cha mẹ. Kinh thi: “Kìa cây dâu với cây thị do cha mẹ trồng, nên có lòng cung kính). Nông thôn Trung Quốc xưa thường trồng cây dâu (tang hay phần) và cây thị (tử), nên người sau dùng từ “tử phần” hay “phần tử” hoặc “tang tử” hoặc “tử hương”, “tử lý”… cũng như nước ta thường dùng chữ lũy tre làm tiêu biểu cho quê hương.
Đoạn trường tân thanh:
Ðoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
và:
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
“Gốc tử đã vừa người ôm” ý nói cha mẹ đã già.
Xem thêm mục: sân lai.
gối cuốc kêu: Chu Liêm Khê đời Tống có một cái gối, hễ nằm vào ngủ thì nghe thấy tiếng cuốc kêu nên gọi là gối cuốc kêu. Xem thêm đỗ quyên.
gối du tiên: Từ chữ: “du tiên chẩm”. Khai thiên di sự: Nước Quy Tư có dâng vua một chiếc gối rất kỳ lạ, Khi gối ngủ thì chiêm bao thấy mình được đi chơi khắp cõi tiên. Vua Ðường Minh Hoàng đặt tên gối là Du tiên chẩm.
gối Hàm Ðan: Gối đầu lên chiếc gối ở Hàm Ðan, mơ thấy phú quý. Xem giấc Nam Kha.
gội đầu vấn tóc: chỉ việc trọng nhân tài. Đó là điển tích Chu Công (công thần khai quốc nhà Chu) khi nghe báo nhân tài đến, đang gội đầu liền ngưng gội, quấn tóc lại để tiếp nhân tài.
gương ly loan: Vua nước Kế Tân có một con loan muốn cho nó kêu, phu nhân bảo: Nghe nói loan thấy đồng loại nó mới kêu, bèn đặt cái gương cho nó soi thì nó kêu ngay.
gương Nga: chỉ mặt trăng, Nga tức Hằng Nga. Xem Hằng Nga.
gương vỡ lại lành: từ chữ phá kính trùng viên, nói việc nối lại được tình xưa nghĩa cũ, tình nghĩa vợ chồng đã tan nay lại họp. Theo Bản sự thi, Từ Ðức Ngôn yêu Công chúa Nhạc Xương. Gặp buổi nước Trần suy loạn, Từ Ðức Ngôn nói với Công chúa rằng: “Cứ như tài sắc tuyệt thế của nàng mà lại gặp khi nước nhà nghiêng đổ tất là phải vào chốn quyền hào, hoặc may còn hy vọng gặp lại nhau thì nên có vật gì để sau này làm tin.” Nói xong liền lấy cái gương đập vỡ ra làm hai mảnh, mỗi người giữ một nửa, hẹn rằng năm sau ngày rằm tháng giêng đem ra bán ở chợ kinh đô.
Giặc đánh vào đế đô, nước Trần bị diệt. Từ chạy thoát, còn Công chúa phải vào hầu nhà Dương Tố (có sách chép bị tướng giặc là Việt Công bắt ép làm vợ). Ðức Ngôn năm sau y hẹn lên kinh, tìm đến chợ thấy một người gái hầu đem bán một mảnh gương vỡ. Từ bèn lấy nửa mảnh gương của mình đem hợp lại thì thấy đúng vừa vặn như nguyên. Từ bèn gởi cho người bán gương, nhờ đem về cho chủ mảnh gương ấy và kèm theo một bài thơ (dịch thơ):
Người đi gương cũng đi
Gương về người chưa về
Chị Hằng đâu chẳng thấy
Chỉ thấy ánh trăng lòe.
Công chúa được thư, khóc lóc thảm thiết, suốt ngày không ăn uống gì. Dương Tố (hoặc Việt Công) biết chuyện bèn cho mời Ngôn đến, đưa Công chúa trả lại cho vợ chồng đoàn tụ.
Đoạn trường tân thanh:
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc, đã đành có nơi.
(Chỉ việc Kim Trọng và Thúy Kiều gặp lại nhau)
gửi mai: từ chữ ký mai trong truyện Lục Khải, chỉ việc gửi cành mai thay cho phong thư.
gửi trứng cho ác: có nghĩa gửi trứng cho quạ, còn được gọi là ác, mà trứng là món khoái khẩu của quạ.
Thành ngữ ở đây hàm ý nói kẻ khờ dại, thật thà, tin tưởng nơi kẻ bất lương, gửi gắm niềm tin nơi kẻ gian.
hang trống còn vời tiếng chân: Do chữ không cốc túc âm (hang trống có tiếng chân người đi) là nói điều may hiếm có, nỗi vui mừng tất nhiên của người đồng điệu.
Trang Tử (dịch Nôm):
Người trốn vào chỗ trống không,
nghe tiếng chân người thì tất vui.
Thơ Hoàng Ðình Kiên (dịch Nôm):
Xa nhau thơ gửi đến an ủi được tôi
như trốn vào hang trống nghe có tiếng người.
há miệng mắc quai: Theo SachHayOnLine.com và quehuongonline.vn, thành ngữ này gắn liền với việc ăn nói của con người. Miệng trong tiếng Việt biểu trưng cho hoạt động nói năng và ăn uống. Còn quai là quai hàm, xương gắn liền với hàm, điều khiển hoạt động ăn nói. Việc ăn uống của con người ta được quai hàm điều phối. Khi ăn, quai hoạt động theo cách riêng, ngược lại khi nói, quai cũng điều khiển và hoạt động theo cách riêng phù hợp với nói. Vậy, khi ăn mà nói là bị “trái giò” và đương nhiên là khó nói, là “mắc quai”. Đấy là chưa kể mắc cả miếng ăn ở trong miệng nữa!
Theo nghĩa bóng, thành ngữ trên có ý nói đã ăn của người ta thì không thể nói gì về chuyện xấu của người ta được nữa.
Hán: Theo Wikipedia_Nhà Hán, Nhà Hán hoặc Hán triều (206 tCN – 220) là triều đại kế tục nhà Tần (221 tCN – 207 tCN), và được tiếp nối bởi thời kỳ Tam Quốc (220–280). Triều đại này được thành lập bởi Lưu Bang, một lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Tần, được biết đến sau khi qua đời là Hán Cao tổ. Triều đại nhà Hán bị gián đoạn bởi Vương Mãng, một ngoại thích nhà Hán, tự lập mình lên làm hoàng đế, thành lập nhà Tân (9–23). Sau đó, hoàng thân Lưu Tú khôi phục lại chính quyền nhà Hán, được biết đến với tên gọi Hán Quang Vũ Đế, tiếp tục sự thịnh trị.
Chính loạn Vương Mãng chia nhà Hán thành hai giai đoạn: Tây Hán (206 tCN – 9) với kinh đô ở Trường An và Đông Hán (23–220) với kinh đô ở Lạc Dương. Quy ước hiện nay gọi Tây Hán và Đông Hán (thay vì như lúc trước Tiền Hán và Hậu Hán) nhằm tránh nhầm lẫn với triều Hậu Hán của giai đoạn Ngũ Đại Thập Quốc.
Trí thức, văn chương và nghệ thuật hồi sinh và phát triển ở thời nhà Hán. Giai đoạn Hán là thời của nhà sử học nổi tiếng nhất Trung Quốc, Tư Mã Thiên (145–87 tCN?). Bộ Sử ký của ông ghi chép biên niên sử chi tiết từ thời kỳ còn huyền thoại là nhà Hạ đến thời Hán Vũ Đế (141–87 tCN). Các tiến bộ kỹ thuật cũng ghi dấu ở thời kỳ này. Một trong những phát minh vĩ đại của Trung Quốc là giấy ra đời trong thời Hán.
Kéo dài 4 thế kỷ, nhà Hán được xem như là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Cho đến ngày nay, nhóm dân tộc chiếm phần lớn dân số Trung Quốc tự cho mình là người Hán, và chữ viết Trung Quốc được xem là chữ Hán. Cũng khá chính xác khi nhận định rằng hai đế chế cùng thời với nhau là nhà Hán và Đế quốc La Mã là hai siêu cường của thế giới. Nhiều phái bộ ngoại giao La Mã đến Trung Quốc và được ghi chép lại trong lịch sử, đầu tiên trong cuốn Hậu Hán thư có ghi chép năm 166 một phái bộ La Mã tới kinh đô của nhà Hán lúc đó là Lạc Dương và được Hán Hoàn Đế tiếp đón.
Nhà Hán đặt ra các khu vực cai trị được quản lý trực tiếp từ trung ương, thường được gọi là quận và một số nước chư hầu. Tuy nhiên, những nước này dần dần bị loại bỏ, đặc biệt là sau Loạn bảy nước xảy ra dưới thời Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Năm 200 tCN, một quốc gia du mục ở miền Bắc là Hung Nô đánh bại quân đội nhà Hán. Sau khi thất bại, nhà Hán đã bắt đầu dựng lên một cuộc hôn nhân giữa công chúa nhà Hán với Vua Hung Nô. Và thực sự, nhà Hán chịu thua kém Hung Nô. Mặc dù hai bên đã ký hòa ước với nhau, nhưng người Hung Nô vẫn thường xuyên tấn công biên giới phía Bắc nhà Hán.
Đến thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt, ông phát động nhiều chiến dịch quân sự chống trả, và những chiến thắng trong những cuộc chiến cuối cùng khiến Hung Nô phải thần phục và hằng năm nộp cống cho nhà Hán. Những chiến dịch mở rộng cương thổ được thực hiện chủ yếu tại lòng chảo Tarim, Trung Á, thành lập một hệ thống thương mại rộng lớn tới tận khu vực Địa Trung Hải mà người ta thường gọi là con đường tơ lụa. Nhà Hán chia Hung Nô thành hai nước đối lập nhau, Nam và Bắc Hung Nô qua sông Y Lê. Tuy đã ổn định biên giới phía bắc, nhưng nhà Hán vẫn gặp nhiều cuộc tấn công của người Tiên Ti.
Hán Cao Tổ: Theo Wikipedia_Hán Cao Tổ, Hán Cao Tổ (256 tCN – 195 tCN), húy Lưu Bang, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế được 8 năm (từ năm 202 tCN đến 195 tCN), nếu tính cả thời gian đầu (từ năm 206 tCN lúc ông mới xưng Vương) thì thời gian ở ngôi tổng cộng là 12 năm.
Lưu Bang xuất thân từ giai cấp nông dân. Trong giai đoạn đầu, Lưu Bang được biết đến với danh hiệu Bái công, với chữ “Bái” là đề cập đến quê hương của ông. Sau đó Lưu Bang được Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ phong là Hán Vương trong thời gian Hạng Vũ đứng đầu các chư hầu và tiến hành chia đế chế Tần thành mười tám nước. Ông được biết đến bởi danh hiệu này trước khi trở thành Hoàng đế của Trung Quốc. Dù là thần dân cũ của nước Sở (giống như Hạng Vũ và Hàn Tín) ở giai đoạn cuối thời Xuân Thu–Chiến Quốc trước khi bị nước Tần (thời Tần Thủy Hoàng) thôn tính nhưng sau khi lên ngôi, Lưu Bang vẫn dùng huy hiệu “Hán” cũ để tự xưng triều đại của mình, tạo ra một tiền lệ cho tất cả các triều đại về sau ở Trung Quốc đều dùng đất phát tích (hoặc đất được phong) để gọi tên triều.
Theo Nguyễn Hiến Lê (1983), Cao Tổ (Lưu Bang) vốn là một nông dân vô học, làm đình trưởng (như cai trạm) thời nhà Tần, nhờ bọn sĩ Tiêu Hà, Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, Anh Bố, Bành Việt… mà thắng được Sở Bá Vương (Hạng Vũ), cho đó toàn là công của mình, có thể không dùng tới họ nữa, có lần mắng Lục Giả rằng: “Ta ngồi trên mình ngựa mà được thiên hạ, đâu cần đọc Thi, Thư”, thậm chí lột mũ của bọn nho sinh, liệng xuống đất rồi đái vào.
Nhưng rồi ông ta cũng phải nhận rằng có thể ngồi trên lưng ngựa mà chiếm thiên hạ, chứ không thể ngồi trên lưng ngựa mà trị thiên hạ, nên phải nghe lời Thúc Tôn Thông, Lục Giả, Lịch Tự Cơ theo phép tắc thời trước mà đặt ra triều nghi, từ đó triều đình mới có trật tự, có vẻ tôn nghiêm.
Tuy nhiên ông vẫn cấm đạo Nho, vẫn không bỏ hiệp thư (lệnh đốt sách Nho); mà cũng như Tần Thủy Hoàng, rất mê Đạo giáo (tức một biến thái của Lão giáo, không còn là một triết học cao siêu nữa mà thiên về dị đoan, tìm phép trưởng sinh bất tử.
Ông vô tài mà lại độc tài, mới đầu thưởng công họ, như phong Hàn Tín làm Sở Vương, Bành Việt làm Lương Vương, Anh Bố làm Hoài Nam Vương…, sau nghi kỵ họ, chỉ sợ họ lật đổ mình, nên Tín, Việt, kế nhau đều bị tru di tam tộc; Bố sợ họa đến mình, cử binh làm phản, thua rồi chết, chỉ có Trương Lương là sáng suốt như Phạm Lãi thời Xuân Thu, biết tránh trước cái họa, công thành rồi thì bỏ hết danh lợi mà về ở ẩn .
Ông cầm quyền chỉ được bảy tám năm rồi chết, nên chỉ tạm tổ chức được hành chánh, mà đại khái vẫn giữ chế độ của Tần, không thay đổi gì nhiều. Ông thấy nhà Tần vì bỏ chế độ phong kiến mà thành cô lập, đến nỗi mất nước, còn nhà Chu thì phong vương cho chư hầu nhiều quá, sau triều đình nhà Chu không thống trị họ nổi, để họ uy hiếp, rồi khuynh đảo, nên ông dung hòa hai chế độ, một mặt phong vương cho họ hàng và các công thần cai trị các yếu địa (các đất đó gọi là quốc), còn lại thì chia làm quận (dưới quận là huyện), trực thuộc trung ương. Chế độ kiêm dụng quốc và quận đó gọi là chế độ “quận quốc”.
Cũng như Tần Thủy Hoàng, ông ghét thương mà khuyến khích nông; giảm nhẹ thuế má, ai khẩn hoang được đất mới thì mấy năm đầu miễn thuế, cho quân lính được giải ngũ, về nhà làm ruộng.
Việc bổ dụng các quan, tự ông quyết định, và ông tin dùng bọn điền chủ phú nông; họ hơi có học, có tài sản, được dân trong miền kính nể, họ lại thu thuế giỏi, mà nhiệm vụ quan trọng nhất của các quan quận, huyện thời đó là thu thuế. Lần lần bọn đó thành một giai cấp vừa giàu vừa có chức, sau này khi nho học được trọng dụng, mới thêm bọn nho sĩ.
Hán Dương: thị trấn Hán Dương ngày xưa nằm bên bờ sông Hán Thủy, một phụ lưu của Trường Giang. Cách đây 400 năm sông Hán Thủy bỗng đổi giòng nước chảy và cắt đôi thị trấn làm hai. Do đó người ta gọi một bên sông là thị trấn Hán Dương và một bên là thị trấn Hán Khẩu. Còn thị trấn Vũ Xương thì nằm ở bên kia sông Dương Tử. Ngày nay, ba thị trấn có những cây cầu lớn bắc qua 2 con sông, giao thông với nhau dễ dàng và họp lại thành một thành phố lớn lấy tên là Vũ Hán, nằm ở ngã ba Trường Giang và Hán Thủy, thuộc Tỉnh Hồ Bắc. Đó là một vùng xanh tươi, nhiều sông hồ, gồm Nhạc Dương, Động Đình Hồ, Lư Sơn (cũng được gọi là Khuông Sơn), Hán Thủy, Tầm Dương. Vùng ngã ba Hán Thủy-Trường Giang là một không gian rộng lớn và ngoan mục.
Hán gia: Nhà Hán, nhưng trong bài thơ Yên ca hành của Cao Thích, tác giả ám chỉ nhà Đường.
Hán Giang:
1/ Sông Hán, nghĩa thường dùng chỉ dãy sao chi chít màu trắng sữa ở trên không, tức dãy Ngân Hà hoặc Thiên Hà. Theo tưởng tượng của người xưa thì đó là dãy sông ngăn cách Chức nữ và Ngưu Lang. Xem mục: Ngưu lang, Chức nữ.
2/ Sông Hán cũng có thể chỉ Hán Thủy.
Hán Thủy: một phụ lưu của Trường Giang, chảy giữa hai thị trấn Hán Dương và Hán Khẩu.
Hán thư: Theo Wikipedia_Hán thư, Hán thư là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 tCN đến năm 25. Đôi khi sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư bao gồm giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, do Phạm Diệp biên soạn trong thế kỷ 5. Kể từ bộ Sử ký của Tư Mã Thiên, Hán thư là bộ sử đồ sộ nhất, vì vậy nó được liệt vào một trong Nhị thập tứ sử – tức 24 bộ sử nổi tiếng và lớn nhất Trung Quốc. Ngoài ra, Hán thư cũng được liệt vào hàng Tứ sử kinh điển, sánh với Tứ thư, Ngũ kinh, bên cạnh có Sử ký, Hậu Hán thư và Tam Quốc chí.
Bộ sử này do Ban Bưu khởi xướng. Ông là một người có tiếng về trí thức và là cháu họ của Ban Tiệp dư, phi tần của Hán Thành Đế. Sau khi Ban Bưu chết, người con trai cả Ban Cố tiếp tục hoàn thành bộ sách, lên tới tổng số 100 quyển, và gồm nhiều bài luận về pháp luật, khoa học, địa lý, và văn chương.
Vào thời gian ấy, việc làm của Ban Cố khiến triều đình nhà Hán rất nghi ngại, vì họ không biết ông sẽ viết gì và nhận xét thế nào về giai đoạn giao thoa giữa Tây Hán và Đông Hán. Triều đình ra lệnh bắt giam Ban Cố và tịch thu sách vở nhà họ Ban, tuy nhiên sau đó do ảnh hưởng của em trai ông là Ban Siêu, ông được thả ra và ấn định viết về Hán Quang Vũ Đế, vị Hoàng đế đầu tiên của Đông Hán. Hán Minh Đế sau khi đọc công trình của ông đã rất ấn tượng và cho phép ông thực hiện tiếp Hán thư này. Tuy nhiên, dưới thời Hán Hòa Đế, Ban Cố bị nghi ngờ tạo phản và bị bắt giam vào trong ngục. Ông bị buộc phải tự sát, đó là vào năm 92, khi ông độ 61 tuổi.
Em gái út của Ban Cố là Ban Chiêu cùng Mã Tục hoàn thành tác phẩm năm 111, khoảng 19 năm sau khi Ban Cố chết trong ngục.
Giống như bộ Sử ký; Trương Khiên, một vị tướng Trung Quốc nổi tiếng, tiến hành nhiều chuyến viễn du về phương tây là nguồn cung cấp thông tin chính cho những dữ liệu về văn hóa và kinh tế xã hội ở Tây Vực ở quyển 96 của bộ sách này.
Hán thư tuy mô phỏng cách làm sử của Sử ký nhưng có những thay đổi, sáng tạo. Ban Cố không đề cập các thời đại trước nhà Hán như Tư Mã Thiên mà chỉ tập trung vào viết sử về nhà Hán. Ban Cố cho rằng, thể loại kỷ truyện của Sử ký bao quát một thời kỳ quá dài, làm mờ nhạt vai trò của nhà Hán đương thời, do đó ông chỉ lựa chọn giai đoạn nhà Hán để ghi lại.
Hán thư được đánh giá là bộ sử về lịch sử giai đoạn hoàn chỉnh nhất ở Trung Quốc.
Hán thư là kho tư liệu phong phú và đa dạng, trong đó bảo lưu được nhiều văn kiện lịch sử quan trọng có giá trị, với nhiều chiếu thư, tấu chương và trước tác thể hiện sách lược, mưu kế, tư tưởng chính trị, ngoại giao của các nhân vật. Hán thư còn bổ sung thêm khá nhiều tư liệu về các dân tộc thiểu số mà Tư Mã Thiên chưa đề cập trong Sử ký.
Ngoài ra, Hán thư còn có các thiên về các công thần, hình pháp, địa lý, nghệ văn mà Sử ký không có.
Hán thư theo tư tưởng Nho giáo chính thống rõ nét. Thời kỳ các tác giả soạn Hán thư, tư tưởng thần học phong kiến đã rất phát triển và trở thành tư tưởng thống trị xã hội. Chính vì vậy, hệ tư tưởng trung quân ái quốc trở thành tư tưởng xuyên suốt trong tác phẩm.
Do đó, một mặt tiếp thu sử liệu từ Sử ký, mặt khác Hán thư lại phê phán Sử ký là vô quân vô chủ, vô thánh vô thần. Nhưng chính sự phê phán này cho thấy Sử ký vô tư hơn, không nhằm phục vụ lợi ích của triều đình. Ngược lại, Hán thư trở thành công cụ đắc lực bảo vệ cho hệ tư tưởng phong kiến và được triều đình nhà Hán hoan nghênh.
hát chèo: loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng châu thổ sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Hát chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài từ thế kỷ 10 tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn,… hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, quan họ…
Hát chèo là lối hát sân khấu, có thể một người, có thể nhiều người hát đồng ca. Hát chèo được hình thành bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, lời hát chèo lấy trong các sáng tác văn học dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ là chủ yếu. Ngoài ra, các làn điệu chèo còn chịu ảnh hưởng từ hát văn, hát xẩm, hát ca trù, hát xoan, hát quan họ…

Về nội dung, không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn, ca ngợi những phẩm chất cao cả của con người. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện thường thắng cái ác, các sĩ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v… Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.
“Hề chèo” là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm: hề áo dài và hề áo ngắn.
Sân khấu chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sĩ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sĩ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sĩ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sĩ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật.
Chèo sử dụng tối thiểu là ba loại nhạc cụ dây: đàn nguyệt, đàn nhị và đàn bầu đồng thời thêm cả sáo. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói “phi trống bất thành chèo”, chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, tiêu v.v…
Xem video:
Đỗ Thanh Tuấn (2018). Trích đoạn chèo cổ “Lý Trưởng Mẹ Đốp” Nhà Hát chèo Tỉnh Bắc Giang. https://www.youtube.com/watch?v=brGiwPbi4d4
hát cô đầu: xem mục: ca trù.
hát quan họ: loại dân ca trữ tình đặc biệt ở Bắc Ninh, miền Trung du Bắc Việt.
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu, về sắc đẹp duyên dáng và tình tứ của phụ nữ, về thông minh hay chữ và thành đạt của danh thần, văn sĩ.
Cũng như hầu hết các loại dân ca trữ tình ở Việt Nam, hát quan họ vay mượn nhiều ở phong dao. Hầu hết các bài quan họ đều theo thể lục bát hay lục bát biến thể. Đó là những bài tình ca do nam nữ thanh niên Bắc Ninh hát lên để ca tụng tình yêu, nói lên những oán trách, hờn ghen và giận tủi về yêu đương hoặc biểu lộ những tâm tình ấm áp về yêu đương.
Tính chất trữ tình của các điệu hát ấy có thể chia thành nhiều loại. Loại bài có tính chất nhẹ nhàng, chân thật vui tươi, cởi mở, hoạt bát, thoải mái. Có loại bài có tính chất bày tỏ, tin tưởng, lạc quan, yêu đời, trìu mến. Có loại bài tình tứ, duyên dáng, thắm thiết, say sưa. Có loại mang tính chất vui tươi nửa trào phúng, nửa tình tứ một cách ý nhị. Có loại đượm nỗi nhớ nhung, trách móc. Trong các bài quan họ, nhiều nhất là những bài để tỏ tình. Rất ít bài nói lên sự thất tình. Nhưng trong sự tỏ tình có nhiều hình thức: khi thổ lộ tâm tình, khi thăm dò lòng bạn, khi hy vọng, mong mỏi nhớ nhung người tình, khi trách hờn giận, ghen tuông người tình; nhưng rốt cuộc những câu thổ lộ tâm sự cùng là để thăm dò tình bạn là nhiều hơn cả. Ví dụ:
Anh như cây gỗ xoan đào
Em như câu đối dán vào nên chăng?
Em như cây cảnh trên chùa
Anh như con bướm đậu nhờ nên chăng?
Văn thể của hát quan họ tuy là lối lục bát, nhưng khi hát, vì những chỗ lên bổng xuống trầm, vì những nhu cầu của sự chuyển giọng, chuyển lời nên loại dân ca này có mang vài đặc tính là bài hát bao giờ cũng có thêm vào nhiều tiếng không có trong nguyên văn. Đó là những tiếng vô nghĩa, hoặc những chữ hát chệch hẳn đi, hoặc những tiếng dùng để đưa hơi như: y, a, ư, ô, ơ, a ha, ôi hôi, ư hư, ối a, ý a, này a, i ì… hoặc những tiếng đệm (đệm lót và đệm nghĩa) như: thời, mà, tình chung, ô mấy, ai ơi, là rằng, tình rằng, tình tang, tình bằng… Nhờ những tiếng đệm, tiếng láy lập lại như thế mà và nhất nhịp điệu tiết tấu của câu thơ lục bát được thay đổi luôn, trở nên phong phú vô cùng.
Ví dụ bài dân ca Trống cơm bắt nguồn từ 4 câu ca dao:
Trống cơm khéo vỗ nên bông
Một bầy con xít lội sông đi tìm
Thương ai con mắt lim dim
Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ.
Khi trở thành hát quan họ Bắc Ninh là:
(Tình bằng có cái) trống cơm (khen ai) khéo vỗ (ố mấy bông) nên bông
Một bầy (tang tình) con xít (ố mấy lội lội) lội sông (ố mấy) đi tìm
(Em nhớ) thương ai (đôi) con mắt (ố mấy) lim dim
Một bầy (tang tình) con nhện (ớ ớ ớ ố mấy) giăng tơ (giăng tơ ố mấy) đi tìm
(Em nhớ) thương ai duyên nợ (khách) tang bồng.
Đó là chưa kể những chỗ hát lại hai lần như ở phần đầu câu 2 và ở phần cuối những câu 1, 2, 3, 5.
Ngoài những tiếng đưa hơi, tiếng đệm, tiếng láy, có khi trong bài hát có cả những tiếng dùng để ghi hệ thống âm giai của cổ nhạc là hò, xự, xàng, xê, cống,… Ví dụ trong bài Xe chỉ luồn kim:
May quần (tình chung là vuông) nhiễu tím (í a, í a)
Gởi ra (gởi ra chồng) cho chồng
Ứ xáng, ú xáng u cái liu xê phàn
(thời cái nỗi gởi ra cho chồng).
Ngày xưa, trai gái vùng Bắc Ninh có thể hát quan họ quanh năm. Mỗi khi có dịp lễ là họ mời nhau đến hát. Cả đến khi không có việc gì, họ cũng rủ nhau đến một làng nào đó trong vùng để cùng nhau vui hát. Chỉ cốt là trước khi đến, họ bảo cho nhau biết trước để có thì giờ gọi người. Nhưng hát quan họ đặc biệt thịnh hành vào mùa thu tháng 8 và nhất là vào tiết xuân trong ba tháng: giêng, hai, ba…
Dịp hát quan trọng nhất là những dịp đám cưới, đám khao, đám giỗ, đám hội.
Hát quan họ là lối hát không dính dáng đến lao động, trái với nhiều loại dân ca khác như hò, hát ví, vì thế không hát ở ngoài đồng trong khi làm lụng. Có thể hát tại nhà trong các dịp cưới hỏi, giỗ khao; hay sau khi hát ở hội đình, hội chùa rồi mời nhau về nhà. Tại nhà có khi gái ngồi trong nhà hát ra, và trai ngồi trên bờ hát vọng xuống. Có k hi họ cùng ngồi trong thuyền thúng trên mặt hồ để vui hát trong một đêm hè hay một chiều thu.
Tại hội đình, trai gái hát trước bàn thờ Thành hoàng. Lắm khi các bài hát, lúc đầu chỉ có tính chất tôn giáo một ít, còn về sau đều có tính chất tình tứ. Tại hội chùa, họ hát ở trước cửa chùa, giữa sân chùa, có khi cả ở trong chùa. Nhưng thường hát ở các sườn đồi hay giữa các đám ruộng, hoặc trên những bờ đê bên cạnh chùa.
Hát chia làm từng bọn. Mỗi bọn, trai hay gái, phải có ít nhất bốn người để thay phiên nhau hát, vì hát rất hao hơi. Quan họ phải hát giọng đôi, nghĩa là hai người cùng hát một lúc, một người “dẫn” (chính) và một người “luồn” (phụ). Mỗi bọn quan họ có một người đứng đầu đại diện, được cả bọn tôn làm anh Hai hay chị Hai. Những người khác cứ theo thứ tự hát hay, hát kém mà lấy tên là anh Ba, anh Tư, anh Năm hay chị Ba, chị Tư, chị Năm. Chỉ cần bốn người hát được, còn bao nhiêu dự vào cho đông cũng không sao.
Khi hai bên hát với nhau, bên hát trước hát giọng nào thì bên hát sau phải theo giọng ấy để trả lời và phải theo cho đúng; không được bỏ một tí ngân nga. Như thế mới là đối chọi. Không đối được là tỏ cái kém cỏi của mình.
Trai gái hát quan họ không phải sống về nghề hát, không thể gọi là những người hát chuyên nghiệp. Nhưng không phải bất cứ ai ai cũng có thể hát được quan họ. Muốn hát quan họ phải có nhiều điều kiện, phải có giọng tốt, phải chịu khó luyện tập, phải có trí nhớ và ít nhiều thông minh, nghĩa là có ít nhiều tài đối đáp, biết bình tĩnh để trả lời người đối diện, không những trong ý câu hát mà nhất là trong giọng bài hát.
Tình bạn hữu, tình anh chị em giữa những người cùng chung “gia đình” quan họ thật thân thiết. Họ coi cha mẹ của nhau như cha mẹ của mình. Những dịp hiếu, hỷ, buồn vui, họ đều đến thăm hỏi, biếu tặng. Cha mẹ bạn có yếu đau, họ tìm đến săn sóc an ủi.
Hãy nghe:
Người ở đừng về, Thu Hiền – https://www.youtube.com/watch?v=gSHkEjR9_C0
Còn duyên, Kyo York – https://www.youtube.com/watch?v=vbQf4LT8vaM
hát trống quân: Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dân và phổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu, nhất là trong những đêm trăng sáng đẹp của trung tuần tháng tám.
Nguồn gốc hát trống quân có nhiều thuyết. Các nhà nho Việt Nam cho rằng “trống quân” do hai chữ tống quân (tiễn bạn) mà ra. Tương truyền, khi một ông quan rời đi tỉnh khác, bạn bè tiễn đưa một quãng đường. Lúc sắp chia ly, người đi đưa đặt một cái trống xuống đất rồi vừa nhịp trống vừa hát bài tiễn bạn trong đó có câu: Tống quân nam phó thương như chi hà (khi ta tiễn bạn đi về phía nam, lòng đau đớn thế nào ai rõ được).

Có thuyết khác cho rằng trống quân được bày ra từ đời Nguyễn Huệ. Nguyên khi ra Bắc đánh quân Thanh (cuối thế kỷ 18), quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ mới bày ra một cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối với nhau để cho quân sĩ vui lòng. Đang khi hát có đánh trống làm nhịp cho nên gọi là trống quân (theo Phan Kế Bính).
Có thuyết gần giống như thuyết thứ hai, cho rằng; hát trống quân có nguồn gốc từ lối hát “trung quân”, một điệu hát của quân lính đi theo nhịp trống. Mà quân đây là quân Nghệ Tĩnh của đạo binh Nguyễn Huệ kéo ra Bắc đánh giặc Thanh, cõng nhau rong ruổi ngày đêm không nghỉ. Về sau khi chiến tranh đã qua, nhân dân đem lối hát này vào những buổi hội hè gọi là hát trống quân (theo Phạm Duy).
Có thuyết cũng cho rằng loại hát này phát xuất từ những điều kiện lịch sử gần giống như hai thuyết vừa kể, chỉ khác về mặt thời gian, là trống quân có từ đời Trần lúc chống giặc Nguyên xâm lược (thế kỷ thứ 13). Tục truyền rằng: những lúc đóng quân để nghỉ ngơi, muốn giải trí, binh sĩ Việt Nam ngồi thành hai hàng đối diện nhau, gõ vào tang trống mà hát. Cứ một bên “hát xướng” vừa dứt thì bên kia lại “hát đối”. Sau khi đuổi được quân xâm lăng khỏi bờ cõi, hòa bình được lập lại, điệu hát trống quân được phổ biến trong dân gian. Có nơi gõ nhịp vào tang trống, có nơi căng một dây thép thật thẳng để đánh nhịp (theo Vũ Ngọc Phan).
Người ta chưa tìm được thuyết nào là đúng.
Hát trống quân cũng như hát quan họ không phải thuộc hát lao động, mà thuộc về loại hát lễ hay hát hội. Người hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội nông thôn. Nhà nho, thư sinh hát với con cái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thường dân. Họ hoàn toàn không phải ca sĩ chuyên nghệ mà chỉ là “tài tử” nghiệp dư sính hát, biết hát… Phần đông là trai và gái đến tuần cập kê, đi hát hội để tìm gặp tài sắc, ước định tương lai.
Từ Quảng Bình, Quảng Trị vào Nam không có hát trống quân. Từ Thanh Hóa trở ra, loại hát này chỉ để hát vào dịp thu, nhất là trong tháng tám. Nhưng không hát ban ngày mà chỉ hát vào những đêm trăng, nhất là đêm rằm.
Hát hội có hai hình thức: hát vui chơi và hát thi lấy giải. Nơi hát có thể là nhà riêng, giữa làng, đầu xóm hay trên sân đình Thành hoàng.
Thi hát có khi tổ chức giữa hai nhóm trai vài gái, có khi giữ hai thanh nam thanh nữ. Ngoài mấy cuộc thi hát tại nhà, trai gái nông dân tự động tổ chức nhiều hội hát trên đám đất rộng giữa làng, bên bờ ruộng hay ở đầu cổng xóm. Trai gái ngồi ra hai bên cách nhau chừng mươi thước. Giữa hai toán có một cái “trống quân” mà ngày xưa gọi là “thổ cổ”. Trai hát xướng lấy que tre đánh vào dây kêu bình bình; gái hát đáp gõ cái sênh kêu cách cách làm nhịp.
Trống quân, cũng như hầu hết các loại dân ca khác, vay mượn nhiều nơi kho tàng phong dao. Văn thể trống quân là thơ lục bát. Nhưng khi hát, câu 6 chữ và câu 8 chữ biến thể là cứ sau tiếng thứ hai ở mỗi câu, người hát đệm tiếng thời, thì, hay này, v.v… Và, cứ đến tiếng thứ tư ở mỗi câu thì lên giọng và thêm vào mấy tiếng í a hay ứ ư; có khi người hát lặp lại chữ chót của câu 8 chữ. Thí dụ:
Trên trời (này) có đám (ứ ư) mây xanh
Giữa thì (này) mây trắng (ứ ư) chung quanh mây vàng
Ước gì (này) anh lấy được nàng
Thì anh (này) mau gạch Bát Tràng (đem) về xây
Xây dọc (rồi) anh lại xây ngang
(chứ) Xây hồ (này) bán nguyệt (để) cho nàng (chân) rửa chân
Nên ra (thì) tình ái nghĩa ân
Chẳng nên (thì) phú giả (ứ) về dân (tràng) Bát (ừ) Tràng.
Những tiếng như: thời, này, rồi, rằng, mà, ấy, mấy, nó, cái, con, anh, em… thêm vào khi hát gọi là tiếng đệm; và những tiếng như í, a, ư, ứ, ừ… gọi là tiếng đưa hơi dùng để ngân nga. Âm hưởng dịu dàng hay réo rắt của tiếng đệm và tiếng đưa hơi làm sao giọng Trống quân mang sức truyền cảm mạnh mẽ.
Đó là đặc điểm quan trọng của trống quân về hình thức. Đặc điểm này lại phù hợp với nội dung Trống quân là biểu lộ được nỗi vừa vui vẻ vừa chứa chan cảm động, và nói lên được những thích thú cao thượng của sự sinh hoạt nông thôn, những cảnh đẹp đẽ của quê hương, những điều trù phú đặc biệt của đất nước. Trống quân còn là một loại hát tình tứ, hoặc nói đến nghĩa bạn bè, nhất là hay đề cao tình luyến ái giữa trai gái nông dân.
Trống quân có tính cách đối thoại. Nó là một lối hát đối giữa trai và gái, một lối đối đáp hỏi trả qua lại. Thí dụ:
Bên trai đố:
Anh đố em câu này em giảng làm sao?
Cái gì (mà) thấp cái gì (mà) cao
Cái gì (mà) sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời
Cái gì (mà) em giải (cho) anh ngồi
Cái gì (mà) thơ thẩn (ứ) ra chơi (ừ) (đào) vườn đào
Cái gì (mà) sắc hơn dao (ứ)
Cái gì (mà) phơi phới (ứ) lòng đào (thì em) bảo anh.
Bên gái trả lời:
Anh đã đố thì em xin giảng ra
Dưới đất (thì) thấp, trên giời (thì) cao
Ngọn đèn (thì) sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời…
Chiếu hoa (này) em giải (cho) anh ngồi (mà)
Đêm nằm (thì) mơ tưởng (ứ) ra chơi (ư) (đào) vườn đào
(Chứ) Nước kia thì (nó) sắc hơn dao
(Chứ) Trứng gà (thì) phơi phới (ứ) lòng đào (thì em) bảo anh.
Khi hát trống quân, trai gái bao giờ cũng thiên về tình cảm. Hoặc bằng câu ướm hỏi, thử thách, hoặc bằng lời tâm sự. Do đó, trống quân có tính chất trữ tình, tính chất giao duyên rất sâu sắc. Vì đối đáp, hỏi trả, nên hát Trống quân đòi hỏi người hát phải có tài mẫn tiệp, xuất khẩu thành thi, đột xuất nhanh trí… nhưng bao giờ cũng vẫn giữ thái độ phong nhã, lời không sàm sỡ, lố lăng.
Trống quân không phải là một loại trống, mà là một sợi mây dài độ 3, 4 thước tây và dày độ 1 phân tây. Người ta cắm hai đầu sợi dây mây dưới đất bằng hai cây cọc nhỏ bằng gỗ hay bằng tre. Ngay chính giữa sợi mây, người ta đào một lỗ vuông độ 4 tấc mỗi bề, rồi bịt lỗ ấy bằng một miếng ván mỏng. Có khi người ta dùng một khúc tre, một đầu chống lên sợi mây, một đầu chịu trên mặt gỗ.
Có khi người ta cột sợi mây với mặt ván. Người đánh trống quân dùng hai chiếc đũa con đánh lên sợi mây. Sợi mây rung làm mặt ván rung, và tiếng mây rung nhờ lỗ đất làm vang lên nghe thình thùng thình như tiếng trống. Có khi người ta đào một lỗ miệng tròn và hình giống như một cái chum, và đậy miệng lỗ bằng một miếng ván tròn và mỏng.
Có khi người ta để trong lỗ đất một thùng dầu hỏa. Trên miệng thùng có tấm ván và cây cọc để chống chính giữa sợi mây. Có thùng này tiếng vang càng mạnh. Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu lửa, quay miệng về phía dưới, phía trên có cây cọc chống đáy thùng và căng sợi mây. Không cần dùng tấm ván nữa. Có khi người ta không đào lỗ, chỉ lật úp thùng dầu lửa (hay thùng trà) trên mặt đất và căng dây lên trên thùng.
Tóm lại, Trống quân là một loại hát hội vấn đáp giữa nam nữ thanh niên, khuyến khích họ giải bày tình cảm, thông minh và cốt cách qua trung gian của nghệ thuật, trong không khí vui vẻ tưng bừng của hội thu.
Hãy nghe:
Những bài hát trống quân hay nhất – https://www.youtube.com/watch?v=-WJvaIrVj4M
hát xẩm: một loại hình dân ca của Việt Nam, phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Từ “xẩm” còn được dùng để gọi những người hát xẩm đi hát rong kiếm sống và hành nghề hát xẩm.
Hát xẩm xưa thường là một hình thức mưu sinh của những người dân nghèo khổ, người khiếm thị, nay được sân khấu hóa và đưa vào phục vụ khách du lịch. Xẩm đa số được biểu diễn ở chợ, đường phố, nơi đông người qua lại. Hát xẩm có tính ngẫu hứng và người biểu diễn có thể bật ra câu hát ngay khi thể hiện.
Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị và Sênh tiền. Nhóm hát xẩm đông người có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Có tài liệu cho rằng đàn bầu khởi thủy là nhạc cụ đặc trưng của hát xẩm, sau do đàn nhị dễ chơi hơn và có âm lượng tốt hơn (phù hợp với chỗ đông người) nên thường được sử dụng. Để thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo. Đây là loại đàn được phát triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng trầm. Sênh dùng đệm nhịp cho hát xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặc sênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại để tạo âm thanh xúc xắc). Ngoài ra, đàn đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát xẩm.
Hát xẩm có hai làn điệu chính:
- Hát xẩm chợ: điệu hát mạnh. Những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi bật bằng lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách
- Hát xẩm cô đào: điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng. Hát xẩm cô đào đệm đàn đáy và sênh phách, không dùng đàn bầu và nhị.
Ngoài ra, xẩm còn sử dụng nhiều làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ khác như trống quân, cò lả, hát ví, ru em, quan họ, chèo,… hoặc ngâm thơ các điệu bồng mạc, sa mạc.
Các làn điệu dân ca khác khi được dùng trong hát xẩm được “xẩm hóa” theo phong cách đặc trưng của xẩm.
Ca từ của hát xẩm chủ yếu là thơ lục bát, lục bát biến thể có thêm các tiếng láy, tiếng đệm cho phù hợp với làn điệu. Nội dung của các bài xẩm có thể mang tính tự sự như than thân trách phận; nêu gương các anh hùng, liệt sĩ hay châm biếm những thói hư, tật xấu… hoặc trữ tình. Những bài thơ thường được diễn ca trong hát xẩm: thơ Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính…

Nghệ thuật hát xẩm được xếp vào loại “trung ca” cùng với hát chèo, đặt bên cạnh tuồng là “võ ca” còn ca trù là “văn ca”. Gọi là “trung ca” có thể vì nội dung nhắc nhiều đến lòng trung thực, hiếu nghĩa, hoặc vì sắc thái biểu diễn không quá mạnh mẽ hay hàn lâm, mà chú trọng vào dung hòa với năng khiếu của người hát.
Xem video:
Hát xẩm Lấy chồng già – NSƯT Thanh Ngoan: https://www.youtube.com/watch?v=eHCIplle_KI
hát xoan: còn có tên gọi khác là hát lãi lèn, hát đúm, hát thờ, hát cửa đình, là một trong những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của dân Phú Thọ. Hát xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa.
Thường vào mùa xuân, có các phường xoan lần lượt khai xuân ở đình, miếu làng. Vào ngày mùng 5 âm lịch thường hát ở hội Đền Hùng. Thời điểm hát được quy định tại một điểm nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình. Hát cửa đình giữ cửa đình mục đích nhân dân địa phương kết nghĩa với nhau. Theo lệ, dân tại chỗ là vai anh, họ (làng khác) là vai em. Khi kết nghĩa rồi cấm trai gái hai bên dân và họ kết hôn với nhau do là anh em.
Hát xoan còn được gọi là khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các Vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức các cuộc hát xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới. Có 3 hình thức hát xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên.
Theo sử sách ghi lại thì hát xoan đã tồn tại hơn 2.000 năm, là di sản văn hóa dân gian quý báu. Trên chặng đường dài đó, loại hình nghệ thuật này đã được nhiều người có vị thế và uy tín trong xã hội, nhiều văn nhân thi sĩ nâng đỡ, tạo điều kiện cho phát triển. Trong đó có phần công lao to lớn của bà Lê Thị Lan Xuân, mà phường xoan truyền tụng như một ân nhân. Để tỏ lòng biết ơn bà, các phường xuân kiêng tên bà, gọi chệch đi là hát xoan.
Ca nhạc của xoan là ca nhạc biểu diễn với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc; có đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca, hát đa thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp. Về sắc thái âm nhạc, nhạc xoan vừa có những giọng nghiêm trang, thong thả, vừa có những điệu dồn đuổi khỏe mạnh, lại có những giọng duyên dáng, trữ tình.
Trong hát xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa minh họa nội dung cho lời ca. Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định.
- Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi; theo thứ tự: giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám.
- Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách). Trong phần này, ông trùm hoặc một kép chính giở sách ngân nga 14 bài thơ nôm dài với giọng phụ họa của các cô đào đứng ở phía sau. Mười bốn quả cách trong hát xoan là những áng thơ khuyết danh với các đề tài khác nhau như: mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể các tích chuyện xưa.
- Sau phần hát cách đến các tiết mục có tính chất dân gian với nội dung đậm nét trữ tình, mang dáng dấp của các bài dân ca, ví giao duyên, hát trống quân.
Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn mang tính chất hoạt cảnh như: hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài huê, hát đúm, đánh cá… Sức sống của hát xoan chính là ở sự kết hợp của loại hình hát lễ nghi với hát giao duyên, tồn tại lâu dài và được nhiều thế hệ yêu thích.

Hát xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ. Những người đi hát xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành phường. Đây là một tổ chức văn nghệ nghiệp dư của những người cùng làng, phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau. Người đứng đầu một phường xoan (hay họ xoan) gọi là ông trùm. Ông trùm là một người có kinh nghiệm về nghề nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự. Các thành viên thì gọi trai là kép, gái là đào. Mỗi phường xoan có khoảng 15 đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích.
Những làng có người đi hát xoan này nước nghĩa với phường xoan và các phường xoan cũng nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau thân thiết như anh em, nhưng tuyệt đối đào kép xoan không được lấy nam nữ thanh niên của làng nước nghĩa.
Xem video:
Channel VTC1 (2018). Hát xoan Phú Thọ. https://www.youtube.com/watch?v=4X2kcYv5Q8w
VTT24 (2019). Hát xoan – làn điệu dân ca trên mảnh đất của các Vua Hùng. https://www.youtube.com/watch?v=96LdrfviyGQ
Hà đồ, Lạc thư: Theo Dương Đình Giao (2016), Hà đồ và Lạc thư là hai hình vẽ thần bí từ đời Thượng cổ của Trung Quốc truyền tới nay. Những truyền thuyết của chúng gây ra nhiều tranh luận phức tạp về Dịch học.
Tương truyền, vào đời Phục Hy (4486–4365 tCN), có một quái vật xấu xí tới bên dòng Hoàng Hà, trên lưng có đường vẽ vòng xoáy (đồ) kỳ lạ. Con quái vật gây sợ hãi cho mọi người, ăn hết hoa màu, lương thực của dân chúng, cuối cùng bắt đầu nuốt cả con người. Nghe nói chuyện này, Phục Hy mang theo một thanh kiếm thần tới bờ sông để diệt trừ yêu quái. Yêu quái không đánh lại nổi Phục Hy, quỳ xuống xin tha thứ, tự xưng là Long Mã của Hoàng Hà, đem phiến ngọc trên lưng có chữ (thư) dâng cho Phục Hy, nói đó là bảo bối của Hoàng Hà. Phục Hy gọi phiến ngọc đó là Hà đồ. Về sau, Phục Hy còn dựa vào Hà đồ làm ra Bát quái, có thể dùng để tính toán lịch pháp, dự đoán được lành dữ…
Đến khi Đại Vũ (2298–2198 tCN hoặc 2200–2100 tCN) trị thủy, có một lần đào Sông Lạc dẫn nước vào đồng ruộng, từ lòng sông cạn khô xuất hiện một con rùa lớn phải tám mươi người mới khiêng nổi. Đại Vũ cho rằng đây là rùa linh nên thả rùa đi. Không lâu sau, con rùa cưỡi mây đạp gió trở lại Sông Lạc. cho Đại Vũ một phiến ngọc hào quang muôn dặm, trên đó có những nét chữ và hình vẽ kỳ lạ. Đại Vũ gọi phiến ngọc này là Lạc thư. Về sau, do tìm tòi, dựa vào đó Đại Vũ thực hiện chỉnh lý lịch pháp, trồng trọt các loài cây cối, chế định pháp lệnh… tất cả bao gồm chín nội dung. Người đời sau dựa vào 9 chương đó, chỉnh lý thành Hồng phạm biên được lưu truyền đến ngày nay.

Những truyền thuyết nói trên được chép trong các sách vở cổ nhất của Trung Quốc như Chu Dịch, Thượng thư, Luận ngữ. Năm 1987, ở bãi Lăng Gia, Huyện Hàm Sơn, Tỉnh An Huy, trong những mộ mai táng thời nguyên thủy có những phiến ngọc, rùa ngọc. Các chuyên gia kiểm chứng tất cả đều cách nay khoảng 5.000 năm, đó là Lạc thư và Bát quái của thời nguyên thủy chưa có văn tự.
Những giải thích về Hà đồ, Lạc thư vẫn chưa tìm được một căn cứ vững vàng. Hà đồ cuối cùng là một bức vẽ về cái gì? Lạc thư cuối cùng là cuốn sách dùng ký hiệu để nói điều gì? Người xưa đã làm thế nào để từ Hà đồ và Lạc thư tạo nên hình Bát quái? Những câu hỏi đó đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.
Thậm chí điều cơ bản được chép đi chép lại qua các sách là từ Hà đồ làm ra Bát quái, thì vẫn chưa có diễn giải làm ra như thế nào.
Hàm Dương: nằm ở phía nam Núi Cửu Tắc, phía bắc Sông Vị, nên cũng gọi là Vị Thành. Vào thời Xuân Thu, Vệ Ưởng đề xuất với Tần Hiếu Công rằng: “Đất Hàm Dương là một nơi danh thắng ở nước Tần, núi quanh sông bọc, rất là hiểm trở, nay ta phải thiên đô sang đấy để định vương nghiệp.” Vua Tần nghe theo.
Hàm Ly Long: nói chỗ nguy hiểm.
Hà Thượng ông nhà nghèo, người con trai lặn xuống sông mò được một hạt châu đáng nghìn vàng, ông bảo: “Ngọc Châu này tất là ở hàm con Long Ly. May mày gặp lúc nó ngủ chứ nếu nó thức thì đã chết với nó rồi, còn lấy đâu mà được ngọc nữa.”
hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen. Mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách có ca kỹ, thì ở trong nhà Liễu thị lấy gậy đập vào vách hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa (dịch Nôm):
Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ
Nói những thuyết không, thuyết có, đếm không ngủ
Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên
Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.
Đoạn trường tân thanh:
Thế trong dầu lớn hơn ngoài
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
[“Trong” chỉ vợ cả, “ngoài” chỉ Thúc sinh, theo lễ giáo xưa: đàn ông lo việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. Ý Kiều nói nếu vợ cả lấn lướt Thúc sinh và có tính ghen, Kiều sẽ nhẫn nhục. Xem thêm mục: đằng la.]
Hàm Tử Quan: Cửa ải bên tả ngạn sông Hồng, Huyện Khoái Châu, Hải Hưng bây giờ, nơi xảy ra Trận Hàm Tử dưới sự chỉ huy của Trần Nhật Duật. Tháng 5 năm 1285, sau cuộc rút lui chiến lược về Thiên Trường (tháng 2 năm 1285), và vào Thanh Hóa (tháng 4 năm 1285), vua tôi nhà Trần bắt đầu mở cuộc phản công vào các cứ điểm quan trọng của quân Nguyên tại vùng Khoái Châu, Hưng Yên. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5 năm 1285, 5 vạn quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1253–1330) chỉ huy, nhanh chóng giành thắng lợi.
Trần Nhật Duật được an táng ở Xã Mạt Lăng, có đôi câu đối ca ngợi như sau:
Công thủ Hàm Quan lẫm liệt huân danh Nam kỵ Bắc
Ân đàm Miễu Ấp côn hoàng ban cổn cổ nhi kim
Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:
Công đầu cửa Hàm (A), uy danh vang lừng Nam ra Bắc
Ân ban Thôn Miễu (B), rực rỡ hoa cổn xưa đến nay
(A) Cửa Hàm: Cửa Hàm Tử hay Hàm Tử Quan.
(B) Thôn Miễu: nay thuộc Nam Trực, Nam Định, sinh quán và cũng là nơi dựng lăng mộ cùng đền thờ Trần Nhật Duật.
Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử gian san.
Phò giá về kinh – Trần Trọng Kim dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
Hàn Ác (844-923) tự Trí Nghiêu, tiểu tự Đông Lang, tự hiệu Ngọc Tiều Sơn Nhân, người Vạn Niên đất Kinh Triệu (nay là Tây An, Tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ đời Chiêu Tông thời Vãn Đường, làm quan đến chức Bộ thị lang Hàn lâm Học sĩ.
Hàn Dũ (768-823): tự Thoái Chi, người đất Nam Dương, Châu Đăng (nay thuộc Tỉnh Hồ Bắc), mồ côi sớm, chăm học, tinh thông Lục kinh, Bách gia chư tử, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Hình bộ thị lang vào đời Vua Đường Hiến Tông (806-820), rất có nhiệt tâm cứu đời, rất khảng khái. Ông là người có đạo đức, văn chương nổi tiếng, làm bộ Hắn Xương lê toàn tập.
Nhân việc Đường Hiến Tông cho rước xương Phật vào cung để thờ, Hàn dâng biểu can gián bằng những lời mạnh mẽ, trích (Bản dịch của Trần Trọng Kim):
Từ Hoàng Đế cho đến Vua Thang, Vua Văn, Vua Hạ Vũ đều hưởng thọ lâu dài, trăm họ yên vui mà thuở ấy chưa có Phật vậy. Đến đời Minh Đế nhà Hán mới có Phật pháp, về sau cứ loạn lạc mãi, các vua trị vì chẳng được bao lâu. Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần cùng nhà Ngụy thờ Phật càng ngày càng thêm kính, cẩn thế mà niên đại rất chóng. Duy có Vũ Đế nhà Lương ở ngôi được 48 năm, ba kỳ xả thân đi làm tăng, sau bị giặc Hầu Cảnh bức phải chết đói. Thờ Phật cầu phúc mà lại phải vạ. Lấy đó mà xem, thờ Phật không nên tin cũng khá biết vậy.
Vua Hiến Tông cả giận hạ lệnh đem Hàn ra xử tử. May nhờ Tể tướng Bùi Độ và các quan đồng liêu hết sức kêu xin hàn mới thoát khỏi tội chết. Nhà Vua liền giáng chức Hàn làm Thứ sử Triều Châu (nay thuộc Tỉnh Quảng Đông).
Thơ ông hùng tráng, linh hoạt, rõ ràng như bài Luận về nhiệm vụ của chức gián nghị, bài Tiễn Mạnh Đông Dã, thiết tha, cảm động như bài Tế mộ Điền Hoành, Tế Thập Nhị Lang.
Ðường Liệt truyện: Hàn Dũ làm quan, được phong là Xương Lê Bá, có hai nàng hầu là Giáng Ðào và Liễu Chi. Khi Hàn đi vắng, Liễu Chi bỏ trốn, người nhà đuổi theo bắt về được, sau Hàn về chỉ yêu Giáng Ðào và ruồng bỏ Liễu Chi.
Lục Vân Tiên, đoạn nói về sự ghét thương của ông chủ quán từ việc Hàn Dũ dâng biểu can vua:
Thương ông Hàn Dũ chẳng may
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Hàn Hoành: Thi sĩ đời Ðường. Xem liễu Chương Đài.
Hàn Phi (280–233 tCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái Pháp gia, tác giả sách Hàn Phi tử.
Công tử nước Hàn, thích cái học hình danh, pháp thuật, gốc của học thuyết này là ở Hoàng Ðế, Lão Tử. Hàn Phi thấy nước Hàn bị suy yếu, mấy lần viết thư lên can Vua Hàn nhưng không được dùng, ông ghét những người trị nước không trau giồi làm cho pháp chế sáng rõ, mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi, không lo làm cho nước giàu binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền, trái lại dùng những bọn tham nhũng sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và thực tài. Khi Vua Tần đánh Hàn, lúc đầu Vua Hàn không dùng Hàn Phi, đến khi nguy cấp bèn sai Phi đi sứ sang Tần. Vua Tần nghe lời gièm nên sai giết Hàn Phi.
Theo Sử ký, Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho pháp chế sáng rõ, mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi, không lo việc làm cho nước giàu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền; trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và có thực tài. Phi cho rằng bọn nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn ham danh, gặp lúc nguy cấp thì lại dùng kẻ sĩ mang giúp trụ.
Như thế thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại không phải là những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại không phải những người nhà vua nuôi. Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa, viết Cô phẫn (Sự phẩn nộ của con người cô độc), Ngũ đố (Năm thứ sâu mọt), Nội ngoại trữ thuyết (Những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết làm, Thuyết nan (Cái khó trong du thuyết), tất cả hơn mười vạn chữ.
Hàn Phi biết cái khó trong việc du thuyết nên viết chương Thuyết nan rất đầy đủ. Cuối cùng Phi chết ở Tần, không thể thoát nạn.
Xem thêm: Thuyết Nan.
Hàn San: tên ngôi chùa hẻo lánh thuộc Tỉnh Giang Tô. Xung quanh bát ngát rừng mai, phía sau dòng sông xanh ngắt lững lờ uốn khúc, giữa hai dãy núi sừng sững vươn mình trong làn mây trắng xóa. Chùa ở bên cầu có cây phong nên cầu gọi là Phong Kiều. Tương truyền hai nhà sư đời Ðường là Hàn San và Thập Ðắc Thường trụ trì tại đó nên đặt tên chùa là Hàn San.
Xem thêm: Phong Kiều dạ bạc.
Tứ thời khúc vịnh:
Kình Hàn Sơn chuông ai sớm dóng
Khúc giải phiền trong bóng dài ngâm.
Hàn Sinh bị luộc: Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ nên đóng đô ở Quan Trung vì thế đất hiểm trở, phì nhiêu, có thể là nơi dựng nghiệp bá được. Vũ thấy cung thất nhà Tần đã bị đốt sạch, có ý muốn trở về Đông liền bảo: “Phú quý mà không trở về cố hương thì như mặc áo gấm đi đêm còn ai biết đến nữa!” Hàn Sinh tức lui về nói: “Thế gian nói ‘người Sở là con khỉ đội mũ’, quả như vậy”.
Vũ nghe được, nổi giận sai giết chết Hàn Sinh, làm thịt bỏ vào nồi luộc.
Hàn thực: nhằm ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Vào ngày này người Tàu ăn toàn đồ nguội.
Ðời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ là con của Tấn Hiến Công, tránh loạn triều đình phải lưu vong qua nhiều nước, trên đường đi có nhiều lúc phải chịu đói khát.
Rồi đến ngày Trùng Nhĩ được thuộc hạ hộ tống tìm đường về phục quốc. Một hôm Trùng Nhĩ không ăn rau cỏ được, người đói lả. Bấy giờ, trong đám tùy tùng có Giới Tử Thôi bưng một bát cháo thịt dâng lên. Trùng Nhĩ cả mừng vội ăn ngay, lấy làm ngon lắm. Ăn xong, hỏi: “Nhà ngươi tìm đâu được thế?”
Thôi thưa: “Ấy là thịt đùi của tôi, tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ, bề tôi trung bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải cắt đùi tôi mà dâng Công tử.”
Trùng Nhĩ sa nước mắt, nói: “Ơn này, biết bao giờ ta đền đáp được!”
Sau Trùng Nhĩ trở về nước lên ngôi là Tấn Văn Công, ban thưởng cho những người có công, chia làm ba hạng. Một là tòng vong (những người theo đi trốn); hai là tống khoản (những người giúp tiền bạc); ba là nghinh hàng (những người xin làm nội ứng, đón rước về làm vua). Trong ba hạng này lại tùy những người nào có công nhiều hay ít mà phân hơn kém. Ban thưởng công thần xong, lại yết một tờ chiếu ở cửa thành rằng: “Nếu người nào có công lao mà chưa được thưởng thì cho phép tự nói ra”.
Bấy giờ có tên Hồ Thúc nói với Tấn Văn Công: “Tôi theo Chúa công từ khi còn ở đất Bồ, cho đến khi lưu vong khắp nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ bên cạnh. Nay Chúa công thưởng công cho những người tòng vong mà không nghĩ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì?”
Tấn Văn Công nói: “Trong số tòng vong, người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên ta là công đầu; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế là công thứ hai, người nào xông pha tên đạn để giữ gìn cho ta là công thứ ba. Còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại ở dưới nữa. Vậy ta thưởng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đến nhà ngươi.
Hồ Thúc lấy làm hổ thẹn. Tấn Văn Công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả người theo hầu. Trong số bọn tòng vong trước có Ngụy Thù và Ðiên Hiệt cậy mình vũ dũng, thấy Triệu Thôi và Hồ Yển đều là văn thần mà lại được trọng thưởng hơn mình có ý không bằng lòng, thường kêu ca tỏ vẻ bất mãn. Tấn Văn Công biết ý nhưng nể là người có công lao nên bỏ qua.
Giới Tử Thôi tính tình điềm đạm, thấy nhiều kẻ đổ xô nhau kể công còn so bì công lớn công nhỏ, lấy làm khinh bỉ, không muốn ở lẫn với bọn này. Ðến lúc Tấn Văn Công lên ngôi, Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần rồi cáo bệnh về nhà, yên phận nghèo nàn, ngày ngày nhận khâu giày thuê để nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn Công ban thưởng công thần, không có mặt Giới Tử Thôi nên nhà vua quên lửng.
Có người láng giềng thấy Giới Tử Thôi không được ban thưởng, phải sống tình cảnh như thế nên không bằng lòng. Nhân thấy có chiếu yết trên cửa thành kêu gọi người báo công, nên vội vàng đến nhà Thôi báo tin. Thôi chỉ mỉm cười, không nói gì.
Bà mẹ nghe được, bảo: “Mày khó nhọc trong 19 năm trời, lại cắt thịt đùi làm cháo dâng chúa công ăn, sao bây giờ mày không nói ra để được thưởng? Mong được vài chung thóc, chẳng còn hơn đi khâu giày mướn hay sao?”
Giới Tử Thôi thưa: “Con của Hiến Công cả thảy 9 người, chỉ có chúa công hiền hơn cả. Huệ Công và Hoài Công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho chúa công. Những người theo hầu không biết ý trời, dám tự nhận là công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chẳng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn.”
Bà mẹ nói: “Con làm được người liêm sỉ, còn ta không làm được mẹ của người liêm sỉ hay sao? Vậy mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên ở lẫn chỗ thành thị này.”
Thôi rất bằng lòng, liền cùng mẹ vào Miên Thượng, một vùng núi cao rừng sâu, làm nhà trong hang mà ở.
Láng giềng hàng xóm không biết là đi đâu, chỉ có Giải Trương biết chỗ ở mà thôi. Giải Trương thấy ức, viết một bức thư, đang đêm đem treo ở triều môn. Sáng hôm sau, có người cận thần bắt gặp đem vào dâng cho nhà vua. Tấn Văn Công mở ra đọc (dịch Nôm):
Có một con rồng khi còn thất thế
Đàn rắn đi theo chu du thiên hạ
Rồng không có ăn, một rắn cắt đùi
Nay rồng trở về, đã được yên sở
Đàn rắn theo vào đều sung sướng cả
Chỉ có một rắn, không ai hỏi đến.
Tấn Văn Công bấy giờ mới nhớ ra, hết sức ân hận, cho người đi triệu thì Thôi đã dọn nhà đi mất rồi. Tấn Văn Công truyền người láng giềng của Thôi dẫn đường và đích thân đến Miên Thượng. Ðến nơi, nhà Vua để xe dưới chân núi, sai người đi dò tìm khắp nơi, chỉ thấy núi non rừng rậm, nước chảy lá trôi, chim hót véo von, mây che mờ mịt mà bóng Thôi không thấy đâu cả.
Tấn Văn Công có ý không bằng lòng, nói với người láng giềng: “Sao Giới Tử Thôi giận ta quá như vậy? Ta nghe nói Giới Tử Thôi là người con chí hiếu, nếu ta đốt rừng tất Giới Tử Thôi cõng mẹ chạy ra.”
Ðoạn, truyền cho quân phóng lửa đốt rừng. Lửa to gió mạnh làm cháy lan đến mấy dặm, trong ba hôm mới tắt, nhưng không thấy Giới Tử Thôi. Bấy giờ họ đi tìm thì thấy mẹ con Thôi ôm nhau chết cháy bên gốc cây liễu.
Tấn Văn Công trông thấy, ôm mặt khóc, truyền quân lính đem chôn dưới chân núi, rồi lập miếu thờ. Những ruộng xung quanh núi đều để làm tự điền (ruộng để lấy tiền làm tế tự), đổi tên núi gọi là Giới Sơn.
Ngày đốt rừng nhằm tiết Thanh minh mùng 3 tháng 3. Người Tàu cảm thương Giới Tử Thôi vì lửa cháy chết, nên hằng năm đến ngày đó không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn thực phẩm để dành ăn, gọi là tiết Hàn thực tức là ăn toàn độ nguội. Vào ngày này, nhà nào cũng cắm một cành liễu ở ngoài cửa nhà để chiêu hồn Giới Tử Thôi. Cũng có nhà bày cỗ bàn (đồ nguội) ra cúng tế.
Tục người Hoa, nhất là đời nhà Ðường (618-907) đêm Nguyên tiêu tại Kinh đô Trường An mở hội Hoa đăng, người người rộn rịp vui chơi suốt đêm, cách xa Trường An 10 dặm vẫn còn nghe tiếng huyên náo ồn ào vẳng lại.
Đoạn trường tân thanh, đoạn diễn tả Tú Bà khấn vái thần “Mày Trắng” (Bạch Mi) phù hộ làm ăn khá:
Cửa hàng buôn bán cho may,
Ðêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu
Câu này chỉ sự tấp nập vui vẻ từ đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày khác, khách làng chơi vào ra lầu xanh của Tú bà, mụ khấn vái trước thần Bạch Mi phò hộ lầu xanh của mụ được đắt khách như thế.
Tiết Hàn thực không ăn ban đêm mà ăn vào ban ngày. Ngược lại, Nguyên tiêu (rằm tháng giêng) không tổ chức các cuộc hội hè lễ bái ban ngày mà vào ban đêm. Lẽ ra phải viết: “Ðêm đêm Nguyên tiêu, ngày ngày Hàn thực” mới đúng. Có thể vì hạn vận, Nguyễn Du phải viết như trên để chỉ sự náo nhiệt, tấp nập ngày và đêm mà thôi.
hãn mã: hãn có nghĩa là mồ hôi. Hãn mã tức là ngựa đổ mồ hôi khi xông pha chiến trận.
Được dùng trong những thành ngữ như “công lao hãn mã”, “dày công hãn mã”, chỉ công trạng gian lao khi chinh chiến.
Hạ: Theo Wikipedia_Nhà Hạ, Nhà Hạ, từ khoảng thế kỷ 21 tCN đến khoảng thế kỷ 16 tCN) là triều đại Trung Nguyên đầu tiên theo chế độ thế tập được ghi chép trong sách sử truyền thống Trung Quốc. Một số người cho rằng nhà Hạ chưa phải là một triều đình cai trị đúng nghĩa mà là một liên minh nhiều bộ lạc có hình thức tù trưởng phức tạp. Còn nếu căn cứ theo ghi chép trong sách sử thì Tam Đại gồm Hạ, Thương, Chu đều là vương triều phong kiến phân quyền, quân chủ và chư hầu chia nhau mà cai trị, và triều Hạ là vương triều phong kiến thị tộc thế tập đầu tiên. Trong các văn vật thời kỳ Hạ, có số lượng nhất định lễ khí làm bằng đồng thanh hoặc ngọc, niên đại của chúng ước tính là vào cuối Thời đại Đồ đá mới, đầu Thời đại Đồ đồng.
Mặc dù ghi chép liên quan đến triều Hạ trong các văn hiến truyền thống Trung Quốc là khá nhiều, song các sách này được viết khá muộn sau thời kỳ đó. Cho đến nay vẫn chưa phát hiện được chứng cứ trực tiếp để có thể công nhận sự tồn tại của triều Hạ (như văn tự thời kỳ đó hoặc di tích lăng tẩm), do đó trong giới lịch sử học cận hiện đại có người nghi ngờ tính chân thực về sự tồn tại của triều Hạ. Văn hóa Nhị Lý Đầu phát hiện được ở tây bộ Hà Nam và nam bộ Sơn Tây có các điều kiện cơ bản về niên đại và vị trí địa lý của nhà Hạ, song do chưa khai quật được các ghi chép văn tự giống như giáp cốt bốc từ ở Ân Khư, do vậy tính tồn tại của triều Hạ vẫn chưa thể chứng thực được. Nhiều học giả trong và ngoài Trung Quốc nhận định rằng di chỉ Nhị Lý Đầu ở Yển Sư thuộc Hà Nam có khả năng là di tích đô thành của triều Hạ ít nhất là trong thời kỳ thứ nhất và thứ nhì, song hiện vẫn đang phải tìm kiếm thêm căn cứ xác thực để làm rõ.
Căn cứ theo ghi chép trong sử sách, Vũ truyền vị cho con là Khải, cải biến thiện nhượng chế bộ lạc nguyên thủy, khởi đầu tiền lệ thế tập vương vị kéo dài 4000 năm trong lịch sử Trung Quốc. Triều Hạ tổng cộng truyền được 14 đời với 17 vua, kế tục trong khoảng 471 năm, bị triều Thương tiêu diệt. Triều Hạ được xem là vương triều đầu tiên theo lịch sử truyền thống Trung Quốc, có địa vị lịch sử khá cao, người Hán đời sau thường tự xưng là “Hoa Hạ”, trở thành danh từ đại diện cho Trung Quốc.
Hạ Tri Chương: người quê Vĩnh Hưng thuộc Việt Châu (nay là Hợp Phố, Tỉnh Quảng Đông). Ông đỗ Tiến sĩ đời Vũ Hậu, làm quan đến chức Bí thư giám. Ông hơn Lý Bạch đến hơn bốn chục tuổi nhưng hai người kết bạn rất thân. Hạ Tri Chương giỏi về văn từ, có tài hùng biện, kiến thức uyên bác và trí nhớ đặc biệt, tính tình phóng khoáng. Ông mất năm 86 tuổi. Thơ văn của ông phần nhiều phục vụ cung đình. Có một số ít bài thơ xuất sắc phải kể đến là hai bài Hồi hương ngẫu thư của ông sáng tác khi từ quan về quê thăm nhà sau hơn năm mươi năm xa cách.
Hạ Vũ (2298–2198 tCN hoặc 2200–2100 tCN) hoặc Đại Vũ, thường được gọi tắt là Vua Vũ, người có tài trị thủy và là ông vua sáng lập ra nhà Hạ. Thời Vua Nghiêu, thân sinh ông là Cổn phụ trách việc chống lũ lụt không thành nên bị giết. Vũ kế nghiệp cha, 8 năm ròng rã lo việc nước, qua cửa nhà không dám ghé lại. Lũ lụt bị đẩy lùi, khắp nơi thông đường về tiến cống. Vũ được phong đất Hạ và sau được Thuấn nhường ngôi vua, dựng nên nghiệp nhà Hạ.
Ông nổi tiếng với việc chống lũ và nhân cách đạo đức ngay thẳng.
Rất ít sử sách ghi chép về cuộc sống và việc trị vì của ông. Phần lớn thông tin xuất phát từ các câu chuyện bằng miệng đến từ các vùng khác nhau của Trung Quốc, được thu thập trong Sử ký của Tư Mã Thiên.
Vũ và Nghiêu, Thuấn được dựng thành hình mẫu tiêu biểu của minh quân thời kỳ đầu Thượng cổ Trung Hoa, là những vị thánh quân được Khổng Tử ca ngợi.
Người đời sau ngưỡng mộ công tích sự nghiệp và đức độ của ông, cùng với Thành Thang và Chu Vũ vương hợp xưng làm Tam vương. Người đời đề cao sự nghiệp của những người đã tạo ra 3 triều đại lớn là nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu. Tam vương thường được hợp xưng với Nghiêu, Thuấn được gọi chung là Nhị đế Tam vương.
hạc nội mây ngàn: Hầu hết các phiên bản Đoạn trường tân thanh thường chép:
Rồi đây bèo hợp mây tan
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu? (2402)
Theo An Chi (2019), đúng ra câu 2402 phải là “hạc nội mây nhàn”, như được khắc in trong quyển Kim Vân Kiều truyện do Duy Minh Thị đưa in bên Quảng Đông (Trung Quốc). Cách đây hơn 10 năm, nhà Kiều học Thế Anh có bài “Hạc nội mây ngàn hay Hạc nội mây nhàn”, đăng trên trang VUSTA (Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật VN) ngày 4.11.2008:
Quả thật “Hạc nội mây ngàn” rất quen thuộc và dễ chấp nhận đối với mọi người, còn “Hạc nội mây nhàn” nghe qua có vẻ lạ tai, nhưng trên thực tế đây chính là điển tích và là thành ngữ của Trung Quốc có nguyên văn là Nhàn vân dã hạc. Chắc Nguyễn Du đã tiếp thu và vận dụng nó theo dạng sơ khai như trong bản DMT 1872, sau đó đã được chữa lại là “Hạc nội mây ngàn” và mọi người đều cảm nhận được ý nghĩa một cách đơn giản là “không biết được tung tích ở nơi nào, ví như loài hạc ở giữa đồng và đám mây ở trên ngàn, trên núi” mà không cần tìm đến nguồn gốc sâu xa của điển cố.
Thành ngữ Nhàn vân dã hạc được ghi nhận trong các sách Trung Quốc như Cổ Hán ngữ đại từ điển (Thượng Hải từ thư xuất bản xã 2002), Hán ngữ điển cố từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã 1998), Thành ngữ thục ngữ từ điển (Thương vụ ấn thư quán xuất bản 1992), Hán ngữ thành ngữ đại từ điển (Trung Hoa thư cục xuất bản phát hành 2002)…, đại ý là tự do thoải mái, không bị ràng buộc, câu thúc.
Ông Thế Anh đưa dẫn chứng: “Trong Đường thi cổ súy có câu thơ của Lý Quần Ngọc tiễn Tần Luyện Sư như sau:
Nhàn vân bất hệ đông tây ảnh
Dã hạc ninh tri khứ trụ tâm.
Dịch:
Mây nhàn lơ lửng đông tây
Hạc đồng đã biết rằng bay hay đừng.
Thêm một dẫn chứng từ tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Hồi 120 của tác phẩm này có câu: “Chỉ riêng có nàng Diệu Ngọc như mây nhàn hạc nội, không ràng buộc”.
Ngày nay, hai tiếng “mây ngàn” đã trở nên thông dụng mà không có cách nào bắt nó phải “trở về nguồn” – vì cũng không cần thiết – nhưng với bản DMT 1872 thì câu 2402 chắc chắn phải là “Biết đâu hạc nội mây nhàn là đâu” chứ dứt khoát không thể nào khác.
Một bản Hồng lâu mộng trên Internet (dịch giả Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ) có hai đoạn:
- “Cho nên người xưa nói: ‘Tri âm khó gặp’, nếu không có người tri âm, thì một mình đánh đàn trước trăng thanh gió mát, đá lạ thông xanh, hạc nội chim ngàn, để gởi gắm vào đấy hứng thú của mình mới không phụ với đàn.” (Hồi 86)
- “Chỉ có một mình Diệu Ngọc, như hạc nội mây ngàn, không gì ràng buộc.” (Chương 112)
Như vậy, ít nhất có một đoạn trùng hợp với ý “mây nhàn”.
Người tổng hợp bài này để ý thành ngữ thường có tính đối ngẫu, hoặc biền ngẫu. Hai từ “hạc” (chim hạc) và “nhàn” (ngỗng trời) đối ngẫu với nhau, còn “hạc” và “ngàn” xem ra vụng về, lạc điệu, khiến cho những giải thích theo đó trở thành quá gượng ép, thiếu thuyết phục!
Hạng Vũ: Theo Sử ký, Hạng Vũ người đất Hạ Tương, tên Tịch, thuở nhỏ đã có kỳ tài. Họ Hạng đời đời làm tướng quốc nước Sở, được phong ở đất Hạng nên lấy họ là Hạng. Lúc còn nhỏ, Tích học chữ, học chẳng nên bèn bỏ đi học kiếm thuật, cũng chẳng nên mới nói: “Biết chữ chỉ đủ viết tên họ mà thôi. Kiếm chỉ đánh lại một người, không bõ công học. Nên học cái đánh lại được vạn người.” Chú là Hạng Lượng bèn dạy cho học binh pháp. Tịch mừng lắm.
Tần Thủy Hoàng đi chơi Cối Kê, vượt qua chiết Qiang. Lương và Tịch cùng đi xem. Tịch nói: “Có thể cướp và thay thế hắn!”
Thời Tần Nhị Thế, Tịch cùng chú là Hạng Lương dấy quân khởi nghĩa, tụ tập được 8.000 quân tinh nhuệ chống Tầ, giúp Sở. Sở Hoài Vương phong Tịch làm Thượng tướng quân. Hạng Vũ đem quân đánh tan quân Tần 9 trận. Thanh thế quân Sở át cả quân các nước chư hầu, tự xưbng là Tây Sở Bá Vương, chia đôi thiên hạ làm vương các chư hầu, cùng Hán Vương Lưu Bang tranh thiên hạ.
Hán Vương cùng hẹn với Hàn Tín và Bành Việt hiệp sức đánh Sở Bá Vương. Bấy giờ Sở Bá Vương đóng quân trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Ðang đêm, Sở Bá Vương nghe quân Hán ở 4 mặt đều hát giọng Sở, kinh hoàng nói: “Hán đã lấy được Sở rồi chăng? Sao mà người Sở đông thế?”
Sở Bá Vương bèn lên ngựa đang đêm phá vỡ vòng vây xông ra phía Nam, phi ngựa chạy cùng 800 tráng sĩ khác. Ðến khi sa vào trong đầm lầy, quân Hán đuổi lịp. Sở Bá Vương bèn đem quân đi về hướng đông, đến Ðông thành, bấy giờ chỉ còn 28 kỵ binh, mấy ngàn kỵ binh Hán đuổi theo. Sở Bá Vương muốn vượt sông ô Giang. Người Ðình trưởng ô Giang cắm thuyền đợi bảo Sở Bá Vương: “Giang đông tuy nhỏ, đất vài ngàn dặm, dân vài mươi vạn, cũng đủ làm vương, xin đại vương mau mau vượt sông.” Sở Bá Vương cười mà rằng: “Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì. Vã chăng Tịch này cùng 8.000 con em Giang Ðông vượt Trường Giang đi về hướng Tây, nay không còn lấy một người trở về. Dù cho các bậc cha anh ở Giang Ðông thương ta cho ta làm vương, ta cũng không còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng hay sao?”
Bèn bảo đình trưởng: “Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nở giết, cin biếu ông.” Sở Bá Vương xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Một mình Tịch giết mấy trăm quân, thân bị hơn 10 vết thương, quay lại thấy kỵ binh của Hán là Lữ Mã Ðông bèn nói: “ông có phải là cố nhân của ta đó không? ta nghe nói Hán mua đầu ta ngàn vàng, phong ấp vạn hộ. Ta làm ơn cho nhà ngươi đây.”
Rồi Hạng Vương tự đâm cổ chết.
Lục Vân Tiên:
Có người họ Hớn tên Minh
Sức đương Hạng Vũ, mạnh kình Trương Phi.
Hạnh Nguyên: tên nhân vật trong Nhị độ mai, là con gái của Trần Ðông Sơ, đính hôn với con trai Mai Bá Cao là Mai Lương Ngọc. Bá Cao làm quan cương trực bị bọn quyền thần Lư Kỷ, Hoàng Trung hãm hại vào tội chết và truy nã gia đình ông. Hai mẹ con Mai Lương Ngọc trốn thoát, còn Hạnh Nguyên bị chúng bắt đi cống Hồ. Khi đến đất Hồ, nàng nhảy xuống Hồ Trì Linh tự tử nhưng nhờ có người cứu vớt đưa về Trung Quốc, sau được sum họp với Lương Ngọc.
Lục Vân Tiên:
Hạnh Ngươn xưa cũng chẳng yên
Bởi chưng Lư Kỷ cựu hiền còn ghi.
“Ngươn” do cách nói lái từ “Nguyên” của tác giả.
Hạnh Thục ca: tên đầy đủ là Loan dư Hạnh Thục quốc âm ca, do Nguyễn Thị Bích hay Nguyễn Nhược Thị Bích (1830-1909) sáng tác bằng chữ Nôm, dài 1036 câu, theo thể thơ lục bát, phần lớn kể lại các biến cố xảy ra từ khi quân Pháp sang lấy Việt Nam cho tới lúc Thành Thái lên nối ngôi vua. Theo các nhà nghiên cứu, đây là một tác phẩm rất có giá trị về mặt sử liệu.
Hạnh Thục ca được Nguyễn Thị Bích khởi sự viết sau khi Kinh thành Huế thất thủ vào tháng 7 năm 1885, và hoàn thành sau năm 1900, tức sau lễ bát tuần của Thái hậu Từ Dụ.
Kể từ khi hoàn thành, mãi cho đến năm 1950, Hạnh Thục ca mới được nhà xuất bản Tân Việt cho ấn hành tại Sài Gòn. Người có công phát hiện, biên dịch và chú thích tác phẩm là Trần Trọng Kim.
Theo Trần Trọng Kim, kể từ khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX là khoảng thời gian chủ nghĩa thực dân ở bên Âu Tây đang lên mạnh. Những nước ở bên Á Đông như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và Xiêm đều là những nước có văn hóa tối cổ, có nền chính trị phân minh, có kỷ cương, có chế độ rõ ràng, nhưng vì kém hèn về đường vũ bị, cho nên đều thành ra những miếng mồi của những nước thực dân như Anh, Pháp, Đức, Nga, v.v… Song mỗi một nước trong những nước suy nhược ấy có một hoàn cảnh, một tình thế đặc biệt, cho nên có nước như Nhật Bản, chóng thoát khỏi sự uy hiếp của các nước thực dân; Có nước như Trung Hoa và Xiêm tuy không đến nỗi mất nước, nhưng cũng bị uy hiếp khá nặng; có nước như Việt Nam ta thì không những mất cả quyền tự chủ mà còn bị người ta làm tiêu ma mất cả tinh thần quốc gia nữa.
Số phận nước Việt Nam tuy đến năm 1882 mới thật quyết liệt, nhưng cái dự án của người Pháp định lấy nước Việt Nam làm thuộc địa đã có từ lâu, mãi tới cuối đời Thiệu Trị, tức là vào quãng năm 1847 mới thực hiện ra một cách rõ ràng hơn trước.
Từ đó về sau nước Pháp chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là vào đánh lấy đất đai và uy hiếp đủ mọi đường. Cái phương sách của người Pháp là đi từ từ từng bước một, trước lấy một nửa Nam Việt, sau lấy cả Nam Việt. Khi công cuộc ở Nam Việt đã xếp đặt đâu ra đấy rồi, bấy giờ mới tìm cách ra lấy Bắc Việt. Lần đầu vào năm 1873 quân Pháp ra lấy thành Hà Nội rồi lại trả lại, để mười năm sau là năm 1882 lại đánh lấy lần nữa. Qua năm 1883 Quân Pháp xuống lấy thành Nam Định, rồi đến tháng tư năm ấy, người thống suất quân Pháp là Hải quân Đại tá Henri Rivière bị quân cờ đen giết ở gần Ô Cầu Giấy. Trong khi quân Pháp vào đánh phá, việc nước rối loạn, thì Vua Dực Tông [tức Tự Đức] thăng hà ở Huế vào ngày tháng sáu, trị vì được 36 năm.
Từ đó về sau, trong khoảng năm sáu năm, bao nhiêu những sự đau buồn xẩy ra ở đất Việt Nam. Pháp đã định đánh lấy nước ta, thì lẽ tất nhiên là ta phải đánh lại, song vì sức không đủ, phải nhờ quân tầu sang cứu viện, thành ra trong khoảng từ năm 1883 đến năm 1885 đất Bắc Việt khắp nơi bị tàn phá. Quân Pháp thấy tình thế khó khăn, bèn sai Hải quân Thiếu tướng Courbet sang đánh thành Phúc Châu và vây đảo Đài Loan. Thế bất đác dĩ, triều đình nhà Thanh phải ký hòa ước năm 1885 ở Thiên Tân, cam đoan rút quân Tàu ở Bắc Việt về và nhận để nước Pháp bảo hộ Việt Nam.
Bảo hộ là một chính sách rất khôn khéo. Khi quân Pháp đã chinh phục được cả nước rồi, cứ để nguyên chế độ và các danh vị cũ, chỉ cốt đem những người thân tín hay tôi tớ của mình vào giữ các chức vị để dễ sai khiến. Dần dần người Pháp thu hết cả thực quyền vào tay mình. Những việc như binh bị, tài chính, cai trị và giáo dục v.v…đều do người Pháp chủ trương và điều khiển. Người bản xứ từ vua quan trở xuống hoặc chỉ được giữ cái hư vị, hoặc chỉ được làm những chức vụ thừa hành ở dưới quyền chỉ huy của người Pháp. Theo cái chính sách ấy thì dân khí trong những xứ Bảo hộ mỗi ngày một suy nhược đi, lâu dần thành ra một hạng người làm tôi tớ rất giỏi, mà không có cái tư cách làm người tự chủ nữa.
Đại khái những việc ấy ta có thể xem sách vở của Tây hay của ta mà biết được, còn những việc xảy ra ở kinh thành Huế sau khi Vua Dực Tông mất rồi, thì ít người biết được rõ. Việc triều chính lúc ấy rối loạn do hai quyền thần muốn thừa cơ mà chuyên quyền túng tứ. Hai người ấy là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, một người coi tiền tài và quan lại, một người giữ hết cả binh quyền ở trong tay. Hai người thoạt đầu tiên đổi di chiếu của Vua Dực Tông, bỏ hoành trừ Dục Đức, cách chức quan ngự sử Phan Đình Phùng và lập Cua Hiệp Hòa. Được hơn bốn tháng sau, hai người lại bỏ Vua Hiệp Hòa rồi đem giết đi, giết cả quan nguyên Phụ chính Trần Tiễn Thành và lập Vua Kiến Phúc. Lúc bấy giờ Tôn Thất Thuyết mộ quân Phấn nghĩa để giữ mình và thường hay tiếm dùng nghi vệ của vua; Nguyễn Văn Tường thì lấy tiền hối lộ của lũ khách buôn, cho chúng đem một thứ tiền đúc ở bên Tầu, theo niên hiệu Tự Đức, gọi là tiền sềnh, tiền rất xấu và rất mỏng, bắt dân ở kinh kỳ phải tiêu.
Vua Kiến Phúc lên làm vua được sáu tháng thì mắc bệnh, mất một cách khả ngờ. Tường và Thuyết lập ông Ưng Lịch mới 12 tuổi lên làm vua, tức là vua Hàm Nghi. Triều đình lúc ấy việc gì cũng do hai người quyền thần ấy quyết định tất cả. Dục Đức đã bị truất, không được làm vua, đến bấy giờ cũng bị giết. Hoàng thân quốc thích ai làm điều gì trái ý hai người ấy đều bị giết hay bị đày.
Những việc ấy đều là việc bí mật ở trong triều, người ngoài khó mà biết được rõ ràng. May nhờ lúc ấy có bà Lễ tần Nguyễn Nhược Thị đem những sự bà đã tai nghe mắt thấy mà kể ra trong một bài ca có 1018 câu thơ lục bát, gọi là Hạnh Thục ca.
Bà Nguyễn Nhược Thị (1830 1909) người ở Phan Rang, con gái quan Bố chánh Nguyễn Nhược Sâm. Bà có khiếu thông minh, nổi tiếng có tài văn học, được tuyển vào trong cung ngay từ đầu đời Tự Đúc, rồi được phong chức Lễ tần, là một chức nữ quan dưới bậc phi. Sau bà được cử làm chức bí thư hầu bà Từ Dụ Thái hậu, là mẹ Dực Tông. Vua Dực Tông thờ mẹ rất có hiếu, mỗi tháng cứ 15 ngày thiết triều bàn việc nước với các quan, 15 ngày sang chầu cung, tức là sang chầu mẹ, trong nước có việc gì quan trọng cũng tâu cho mẹ biết. Bởi vậy bà Lễ tần Nguyễn Nhược thị có thể biết đúng những sự thực theo cái quan điểm của người mình lúc bấy giờ, mà quyển sách của bà là quyển sách có giá trị đặc biệt về một đoạn lịch sử của nước ta.
Sao bà Nuyễn Nhược thị lại đề nhan sách của bà là Hạnh Thục ca? Là vì bà thấy cái hoàn cảnh triều Nguyễn lúc ấy phải bỏ kinh thành chạy ra Quảng Trị và Quảng Bình giống như hoàn cảnh triều đình nhà Đường bên Tầu ngày xưa. Vua Minh Hoàng bị giặc An Lộc Sơn đánh, phải bỏ kinh thành Trường An chạy vào đất Thục để lánh nạn. Theo nghĩa chữ nho, khi vua đi đến đâu gọi là hạnh. Hạnh Thục là vua đi đến đất Thục. Vì có hoàn cảnh hơi giống nhau như thế, cho nên bà Nguyễn nhược Thị mới lấy hai chữ ấy mà đề nhan quyển sách của mình.
Văn của bà Nguyễn nhược Thị viết bằng chữ nôm, văn từ lưu loát, nhưng có nhiều tiếng đọc theo giọng nói ở vùng Nam Trung thì đúng vần, mà đọc đúng vần quốc ngữ, thì sai. Bởì những tiếng có chữ n đứng cuối cùng thường được đọc như tiếng có chữ ng. Thí dụ:
- an đọc ra ang,
- ăn đọc ra ăng,
- xuân đọc ra xuâng,
- khoan đọc ra khoang,
- hờn đọc ra hờng,
- thần đọc ra thầng,
- đèn đọc ra thầng,
- đèn đọc ra đèng,
- quyền đọc ra quyềng v.v…
Lại có một vài câu thơ lạc vận, nhưng đó có lẽ là khi người chép lại viết sai, chứ không phải lỗi tại tác giả.
Giá trị quyển sách của bà Nguyễn Nhược Thị là không phải ở câu văn, mà ở những tài liệu của bà đã nhặt được để giúp nhà làm sử sau này. Cũng vì thế mà khi tôi [Trần Trọng Kim] tìm được quyển sách này ở Huế, tôi liền đưa cho trường Bác Cổ sao lấy một bản, tôi lại cho ban văn học ở Khai trí Tiến đức sao lấy một bản. Còn bản của tôi giữ, thì đem dịch ra làm mấy bản bằng quốc ngữ, phòng khi ở chỗ này mất, thì ở chỗ khác hãy còn. Ấy cũng nhờ vậy mà sau cuộc binh lửa cuối năm 1946 bao nhiêu sách vở của tôi bị đốt cháy, mà còn có người giữ được một bản bằng quốc ngữ. Nay tôi đem chú thích những tiếng khó bằng chữ nho và những tiếng tối nghĩa, rồi chia nguyên văn ra từng đoạn, có đề mục nhỏ ở cạnh rìa, để người ta xem cho dễ hiểu.
Quyển sách này tuy về đường hình thức thì bé nhỏ, nhưng về đường lịch sử có giá trị khá lớn, cho nên tôi vui lòng đem in ra đẻ làm một sách bổ quốc sử rất tiện lợi cho những người muốn biết những biến cố ở kinh thành Huế, do một người Việt nam có địa vị đặc biệt đã kể lại, trong thời kỳ người Pháp mới sang lập cuộc bảo hộ ở đất này.
Viết tại Hà thành, tháng quí thu, năm Canh dần (Oct. 1950)
Lệ thần Trần Trọng Kim
Mục lục của Hạnh Thục ca: Nguyên tác không phân đoạn. Trần Trọng Kim phân chia và đặt tên cho từng phần như sau:
- Mở đầu
- Vua Gia Long ra đời
- Pháp sang lấy Nam Việt
- Giặc ở Bắc Việt
- Pháp đánh Bắc Việt lần thứ nhất
- Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai
- Vua Dực Tông mất
- Từ Dụ Thái hậu thương con
- Đức độ của Vua Dực Tông
- Không có con nuôi cháu làm con
- Tường và Thuyết bỏ Tự quân
- Tường, Thuyết xin lập Vua Hiệp Hòa
- Phan Đình Phùng can, bị giam
- Vua Hiệp Hoà lên ngôi
- Quân Pháp vào đánh Thuận An
- Thái độ Vua Hiệp Hòa dối với Vua Dực Tông
- Tường và Thuyết tâu bà Thái hậu bỏ vua Hiệp Hòa
- Giết Vua Hiệp Hòa đã thoái vị và ông Trần Tiễn Thành
- Lập Vua Kiến Phúc
- Làm lễ ninh lăng [lễ an táng] cho Vua Dực Tông
- Pháp sách nhiễu mọi điều ở Huế
- Quyền thần hoành hành trong kinh
- Vua Kiến Phúc mất
- Tường và Thuyết nói có di chiếu lập ông Ưng Lịch
- Vua Hàm Nghi lên ngôi
- Giết ông Dục Đức và các hoàng thân
- Làm lễ Tấn tôn bà Từ Dụ Thái hậu
- Pháp lại uy hiếp, Tôn Thất Thuyết định chống lại
- Lập đồn Tân Sở
- Thống tướng De Courcy vào Huế
- Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp
- Xa giá xuất ngoại
- Xa giá đến Quảng Trị
- Tôn Thất Thuyết để các bà ở lại và đem Vua Hàm Nghi đi
- Được tin Nguyễn Văn Tường
- Xa giá tam cung trở về Khiêm Lăng
- Nguyễn Văn Tường xin Thái hậu hãy tạm thính chính
- Quân Cần vương nổi lên ở mọi nơi
- Sai người đi tìm vua Hàm Nghi
- Nguyễn Hữu Độ ở Bắc vào Huế bất hòa với Nguyễn Văn Tường
- Định lập vua khác
- Nguyễn Văn Tường bị bắt đi đầy
- Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình vào Huế giữ triều chính
- Khâm sứ Pháp vào yết kiến bà Thái hậu
- Vua Đồng Khánh lên ngôi
- Gia tôn bà Thái hậu
- Vua Đồng Khánh ra Quảng Trị
- Vua Đồng Khánh mất
- Vua Thành Thái lên ngôi
- Lễ bát tuần bà Thái hậu
Phạm Thế Ngũ cho biết khi bàn về nội dung Hạnh Thục ca, nhà nghiên cứu Nguyễn Tường Phượng có phê bình quan niệm lịch sử “trị loạn xoay dần” của tác giả, vì quan niệm ấy thần bí và lạc hậu. Ông lại công kích thái độ thiên vị chủ quan của tác giả, như: mạt sát nhà Tây Sơn, quá đề cao Vua Tự Đức, có ác cảm với phong trào Cần Vương. Và ông Phượng kết luận rằng đây là một tác phẩm ghi đúng tâm trạng của lớp quý tộc trên bước đường cùng, đi tìm an ủi trong cái triết lý thần bí và lạc hậu của họ…
Tuy nhiên, theo giáo sư:
Công bình hơn, có lẽ ta nên nói rằng tư tưởng của tác giả chỉ nằm trong hệ thống ý thức cổ truyền của lớp Nho gia làm quan khi ấy. Thêm vào đó là quan điểm của một phụ nữ có tầm nhìn hẹp, suy xét bằng thiên vị và tình cảm… Lại từ nhỏ, tác giả sống nơi khuê các, chân yếu tay mền, bỗng dưng bị đẩy vào cơn phong trần, nên có tâm lý sợ khổ, ghét loạn và cầu an. Với con người như vậy, dĩ nhiên không thể đòi hỏi một thái độ tranh đấu tích cực, một quan niệm ái quốc sáng suốt, một áng văn truyên truyền cho chủ nghĩa quốc gia…
Về mặt văn chương, tác phẩm cũng không đáng treo cao lắm. Câu lục bát có phần lưu loát song không ở trên câu vè bao nhiêu. Có thể coi đây là một bài vè dưới một cây bút có học thức và biết rất rành thời sự…
Cho nên khi giới thiệu Hạnh Thục ca, Trần Trọng Kim cũng chỉ nhấn mạnh đến giá trị sử liệu của nó.
Xem thêm mục Nguyễn Thị Bích.
Hằng Nga: Theo truyền thuyết và được kể trong Kinh Thư, Sơn hải kinh, Tả truyện… nàng Hằng Nga xinh đẹp tuyệt vời, sống trong cung Quảng Hàn lạnh lẽo trên Mặt Trăng. Vốn nàng ở phương Bắc, nơi cánh đồng hoang, bị một tướng của Hậu Nghệ bắt về phương Ðông.

Trước đó, vào đời Vua Nghiêu loài người sống trong cảnh thái bình và no ấm. Chợt một thiên tai khủng khiếp đè ập xuống. Nguyên là ở cuối Biển Ðông, trong một cái hang gọi là hang Dương (hang mặt trời), có mười con quạ vàng – những con quạ lửa ban sức ấm nóng và ánh sáng cho loài người. Bình thường, hàng ngày mỗi con quạ vàng lần lượt bay ra biển, hóa thành mặt trời, tỏa sức sống nuôi dưỡng vạn vật tươi tốt. Song, bất chợt, một hôm, cả mười con quạ vàng tranh nhau bay ra Biển Ðông khiến nắng thiêu đốt mặt đất; người và những con vật tìm đến các nguồn nước, ao, hồ, sông ngòi, giếng, ngâm mình xuống nước. Song chẳng bao lâu, nước sôi lên sùng sục. Ðói khát, sức nóng ghê gớm giết chết hang triệu sinh linh. Từ trái đất, tiếng khóc thảm thiết vang dội. Vua Nghiêu sai Hậu Nghệ trừ diệt tai họa cho đất nước.
Hậu Nghệ sinh ở biển Ðông, sức lực phi thường, có thể bạt núi lấp sông, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng. Chàng dựa thân vào chân trời, giương cung bắn chín mũi tên, chín quạ vàng rơi xuống biển. Hậu Nghệ giương cung định bắn mũi tên thứ mười, thì một tướng giữ tay chàng ngăn lại: “Thưa Tướng công, Tướng công phải để lại một mặt trời chiếu sáng vũ trụ”. Hậu Nghệ hạ cung xuống. Bầu trời trở lại trong xanh, ấm áp. Nhân dân mở hội tưng bừng. Hậu Nghệ được nhân dân vô cùng yêu mến, Hậu Nghệ lên ngôi Hoàng đế. Chàng lấy Hằng Nga bị bắt từ phương Bắc tới. Bà Tây Vương Mẫu cho Hậu Nghệ cỏ kinh chi làm thuốc trường sinh. Chàng giao cho Hằng Nga giữ cỏ quý.
Từ khi nắm quyền lực, Hậu Nghệ trở thành tàn bạo. Hắn chiếm đoạt của cải, ruộng vườn, nhà cửa của nhân dân. Hắn ở trong những cung điện lộng lẫy, dùng ngựa xe choáng lộ ngọc vàng. Nhân dân đói khổ, mùa màng xơ xác, cỏ cây khô héo; từng đàn quạ đen tha hồ rỉa những xác người chết đầy đồng. Hậu Nghệ bị dân oán hờn. Nhiều tướng của Hậu Nghệ bỏ đi, tập hợp những đám dân đói khổ chống lại hắn. Hằng Nga đau đớn, tủi phận làm vợ một bạo chúa. Ngày đêm, nàng ngồi bên thỏ ngọc, người bạn duy nhất của nàng, giữ thuốc trường sinh. Không thể sống với người tàn bạo, không thể để cho người phản bội nhân dân uống thuốc trường sinh, nàng ăn hết cỏ linh chi. Nàng thấy phảng phất say sưa. Rồi tấm thân ngà ngọc nhẹ nhàng bay lên cao, bay mãi; tay ôm thỏ ngọc, Hằng Nga đỗ lại ở cung trăng.
Hậu Nghệ về nhà, sau một vụ tàn sát thảm khốc, không thấy Hằng Nga. Trăng sáng vằng vặc, Hậu Nghệ nhìn lên cung trăng thấy bóng nàng Hằng Nga thấp thoáng. Giận uất lên, hắn lấy cung tên, dốc toàn lực, nhắm mặt trăng mà bắn. Trăng vẫn tỏa ánh sáng lộng lẫy. Hậu Nghệ rút mũi tên thứ hai, mũi tên thứ ba, bắn, bắn. Trăng vẫn tỏa sáng khắp vũ trụ. Hậu Nghệ gục xuống.
Chợt Tây Vương mẫu đứng trước mặt, oai nghiêm bảo: “Ta cho ngươi cỏ linh chi để ngươi sống mãi mãi, làm điều thiện. Vậy mà, khi nắm quyền lực, ngươi phản bội ta, ngươi phản bội nhân dân, đầy đọa họ trong đói khát. Nhưng nhân dân không chết. Nếu ngươi muốn sống, hãy cởi bỏ áo bào, trút bỏ quyền lực, chớ tham quyền cố vị, cùng dân chúng cày ruộng, trồng cây, làm lụng”. Bỏ ngai vàng, bỏ quyền lực? Hậu Nghệ căm phẫn, rút gươm chém Tây Vương mẫu. Song hắn chỉ thấy một luồng ánh sáng nhẹ bay lên trời. Giữa lúc ấy, nghĩa quân xông đến bao vây, dẫn đầu là một dũng tướng cũ của hắn. Hậu Nghệ tuyệt vọng. Không có lối thoát, Hậu Nghệ lấy gươm tự đâm vào mình. Khối thịt to lớn ngã gục xuống.
Từ trên Cung Quảng lạnh lẽo, Hằng Nga sắc đẹp tuyệt vời nhìn xuống trái đất, bâng khuâng nhớ quê hương.
Bích Câu kỳ ngộ:
Hay là lỗi sổ Hằng Nga
Đêm đông vò võ, bóng tà sao thưa
Nghĩ tình nên những ngẩn ngơ…
Cung oán ngâm khúc, đoạn ca tụng sắc đẹp của nàng cung nữ:
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Giời – Tản Đà:
Chức Nữ tảo tùng giai tế giá
Hằng Nga bất nại bão phu miên.
(Chức Nữ sớm xuất giá theo chồng
Hằng Nga không ôm chồng nằm ngủ)
hầu xanh: từ chữ thanh nô, là một thứ gối dựa làm bằng trúc xanh, mùa hạ đặt lên giường để gác chân tay cho mát.
Hậu đình hoa: Theo MaxReading_Khúc Hậu đình hoa, Hậu đình hoa có nghĩa “Hoa ở sân sau”, là tựa một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát của Trần Hậu chủ đời Hậu Trần, thời Nam Bắc triều (420-587).
Trần Hậu chủ (583-587) tên Trần Thúc Bảo, là một ông vua nổi tiếng tài tử phong lưu. Hậu cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nhân tuyệt sắc. Trong số đó có hai nàng là Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa được nhà vua sủng ái. Hai nàng Quý Tần và Lệ Hoa chẳng những có sắc đẹp lộng lẫy, người mẫn tiệp lại có tài thi phú, thường cùng Hậu chủ cùng các bực thi văn tài danh trong triều xướng họa mỗi khi có yến tiệc linh đình.
Vì yêu người đẹp tài hoa nên Hậu chủ phải tổn phí nhiều tiền của, cho dựng trước Điện Quang Chiếu ba tòa lầu lớn dùng toàn bằng gỗ trầm hương. Cửa lớn, nhỏ đều dát toàn ngọc ngà, rèm châu, trướng gấm lộng lẫy. Ba lầu ấy đặt tên là Lâm Xuân, Kết Ỷ và Vọng Tiên (có bản chép là Vọng Xuân). Dưới lầu, trồng toàn cây quý, hoa lạ, ngào ngạt mùi hương. Lại chất đá xây thành núi gọi là Núi Nghinh Phong (“đón gió”); tháo nước làm thành hồ gọi là hồ Ngoạn Nguyệt (“thưởng trăng”).
Hằng đêm, Trần Hậu chủ bày yến tiệc, họp các mỹ nhân uống rượu tại Lầu Lâm Xuân cùng với các học sĩ ngâm thơ xướng họa. Một khi có những bài thơ hay, thích, nhà Vua cho chép lại thành tập và phổ vào khúc đàn để những cung nữ hát xướng suốt đêm, nên được gọi là Trường Dạ Ẩm.

Những bài thơ, những khúc nhạc lả lướt ấy được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu đình hoa. Riêng tập Hậu đình hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Chính Trần Hậu chủ cũng làm một khúc hát Hậu đình hoa:
Ngọc thụ hậu đình hoa – Trần Thúc Bảo
Hoa trong sân – Phan Thế Roanh dịch thơ:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu các
Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước
Trước màn chào đón mỉm môi cười
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiến sáng ngời.
Suốt đêm ngày, Trần Hậu chủ bỏ cả việc triều chính, say sưa bên cạnh Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và những mỹ nữ ca hát bên tiệc rượu làm cho đất nước càng suy đồi.
Vua nhà Tùy (589-617) là Văn Đế thừa dịp nhà Hậu Trần suy vi, sai hai tướng Lý Uyên và Dương Tố đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đang say khướt trên lầu Kết Ỷ.
Quân Tùy đánh phá, đột nhập thành. Quân Hậu Trần chạy tán loạn. Có người phải lấy nước đổ vào mặt Trần Hậu chủ cho tỉnh dậy và yêu cầu ra hàng để cứu quân lính khỏi chết oan. Hậu chủ nói: “Sau lầu, trẫm có đào sẵn giếng sâu.” Đoạn, Hậu chủ dắt Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và độ mươi mỹ nhân khác đến giếng, ôm nhau nhảy xuống tránh nạn.
Quân Tùy lùng tìm nhà Vua trong nội cung không thấy, liền ra sau điện Cảnh Dương, thấy có giếng sâu và có tiếng người thì thầm ở dưới, liền cho thả dây xuống dò. Bỗng thấy dây nặng, chúng lấy làm lạ, kéo lên. Thì ra hai nàng tiên tuyệt sắc Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa nắm đầu dây ấy mà lên.
Một tên lính già chỉ hai nàng nói: “Trần Hậu chủ chết và mất nước cũng vì hai ả này, ta chẳng nên mó đến.” Quân Tùy nghe nói liền đâm chết cả hai người đẹp vứt xác xuống giếng, lấp đá lại. Giếng ấy về sau gọi là giếng “Son Phấn”.
Riêng về Trần Hậu chủ, có sách nói là được cứu sống, nhưng sau thấy quân sĩ giết mấy hai nàng Khổng, Trương nên buồn rầu, sinh bệnh nhớ thương mà chết.
Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát Hậu đình hoa ấy, vì có tính cách ủy mỵ, dâm dật. Cái tên Trần Hậu Chủ và khúc hát Hậu đình hoa trở thành điển tích của vết nhơ vong quốc từ đó, và Hậu đình hoa chỉ khúc ca vong quốc.
Đỗ Mục (618-907) một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài gần một quán rượu, đêm đã khuya, hơi sương mù như khói tỏa trên mặt nước, bãi cát chiếu sáng lồng trong ánh trăng xanh. Bấy giờ trong quán, khách còn đang say sưa ăn uống, bên cạnh những ả hát xướng để mua vui cho khách. Lắng nghe giọng hát bên kia sông đưa sang, nhà thơ xúc cảnh sinh tình:
Bạc Tần Hoài – Đỗ Mục
Đỗ bến Tần Hoài – Khương Hữu Dụng dịch thơ:
Nước lồng khói tỏa, cát trăng pha
Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia
Con hát biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát Hậu đình hoa.
Chữ “bạc” 泊 có ba chấm thủy bên trái, có nghĩa là “trôi nổi”, cũng có nghĩa là “ghé lại”. Sông Hoài tức Sông Tần Hoài, từ Tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc đổ vào dòng Trường Giang. Từ thời Lục Triều (giai đoạn ra đời Hậu đình hoa), hai bên Sông Tần Hoài đã nổi tiếng là khu vực vui chơi xa hoa vô độ. Các triều đại sau đó dù thịnh hay suy nhưng khu vực này vẫn như thế. Đặc biệt là tới thời mạt Đường, đây là chốn ăn chơi sa đọa nhất, lặp lại những triều đại đã suy vi trước đó.

Cung oán ngâm khúc:
Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình hoa
Thừa ân một giấc canh tà
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.
Ca khúc Đêm tàn bến Ngự – Dương Thiệu Tước
Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Ôi! vẳng nghe tiếng ai âm thầm trầm ngân!
Hậu Nghệ: Theo Wikipedia_Hậu Nghệ, Hậu Nghệ là một nhân vật truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, được hình tượng hóa là một xạ thủ vĩ đại, gắn liền với truyền thuyết bắn hạ 9 mặt trời và câu chuyện liên quan tới Hằng Nga. Tương truyền, khi đó 10 mặt trời đồng loạt xuất hiện, chỉ có Hậu Nghệ ra tay bắn hạ bớt 9 mặt trời, dương gian lại trở lại tốt tươi, vì chiến công đó ông trở thành một vị thần, xưng gọi Tiễn Thần.
Tuy nhiên trong sử sách thời Tiên Tần, có xuất hiện một Hậu Nghệ, người đã cướp ngôi nhà Hạ thay Thái Khang. Các sách sử Tiên Tần đều chép mập mờ, và truyền thuyết về Hậu Nghệ dựa trên nhân vật Hậu Nghệ.
Theo Trúc thư kỷ niên, Hậu Nghệ vốn là vua nước Hữu Cùng, một chư hầu thời nhà Hạ. Ông nổi tiếng có sức khoẻ hơn người và đặc biệt là có khả năng bắn cung rất giỏi, được xem là giỏi nhất thiên hạ lúc đó.
Năm 2188 tCN, Hạ Khải mất, con là Thái Khang lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi.
Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều quân từ nước Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Thái Khang bỏ chạy sang nước chư hầu. Thái Khang chạy ra ngoài, định tập hợp chư hầu đánh Hậu Nghệ, nhưng các chư hầu đều không phục Thái Khang, vì vậy Thái Khang phải lưu vong ở nước ngoài cho đến hết đời.
Hậu Nghệ cướp được ngôi nhà Hạ lại tỏ ra kiêu ngạo, bỏ chính sự như Thái Khang trước kia. Ông cũng ham mê săn bắn và thích uống rượu. Nhiều vị trung thần lo lắng can ngăn nhưng Hậu Nghệ không nghe theo, điều họ đi nơi khác.
Bầy tôi của Hậu Nghệ là Hàn Trác thấy Hậu Nghệ như vậy cũng nảy sinh ý định cướp ngai vàng. Trác giết chết Hậu Nghệ và lấy luôn vợ ông.
Hậu Nghệ cướp ngôi nhà Hạ được khoảng 40 năm (2159–2120 tCN), không rõ bao nhiêu tuổi.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đời nhà Trần (1225–1400) kêu gọi tướng sĩ, trong một bài hịch có đoạn “Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh.”
Xem thêm mục Hằng Nga.
hậu sinh khả úy: có nghĩa kẻ sinh sau đáng phục. Thành ngữ này xuất phát từ câu chuyện của HạngThác, thần đồng của nước Cử. Tương truyền, một lần Khổng Tử gặp Hạng Thác đang ngồi chơi giữa đường, cản lối xe của mình đi nên yêu cầu cậu bé tránh một bên cho xe mình đi qua. Không ngờ Hạng Thác trả lời: “Từ xưa đến nay, chỉ nghe nói xe phải tránh thành chứ không hề có chuyện thành phải tránh xe!”
Khổng Tử hỏi thành ở đâu, Hạng Thác chỉ tay phía trước mắt, quả nhiên nhìn thấy một thành trì nhỏ trên mặt đất mà cậu dùng đất sét nặn ra. Khổng Tử cảm thấy cậu rất thông minh, nên đưa ra một loạt câu hỏi thử trí thông minh của cậu, và Hạng Thác đáp được hết:
Lửa nào không khói? Nước nào không cá?
– Lửa đom đóm không khói. Nước giếng không cá.
Núi nào không đá? Cây gì không cành?
– Núi đất không đá. Cây khô không cành.
Người nào không vợ? Ai kẻ không chồng?
– Tiên Ông không vợ. Ngọc Nữ không chồng.
Trâu nào không nghé? Ngựa nào không con?
– Trâu đất không nghé. Ngựa gỗ không con.
Trống nào không mái? Mái nào không trống?
– Trống độc không mái. Mái độc không trống.
Ai là quân tử? Ai người tiểu nhân?
– Hiền là quân tử. Người dại tiểu nhân.
Vật gì không đủ? Vật gì có thừa?
– Ngày Đông không đủ. Ngày Hạ có thừa.
Thành nào không chợ? Người nào không con?
– Hoàng thành không chợ. Đứa trẻ không con.
Khổng Tử thấy cậu tư chất quá đỗi thông minh nên nói: “Trong xe ta có sẵn bộ Song Lục Cục, cậu có muốn chơi cùng ta không?”. (Song Lục là một loại trò chơi đánh trận như chơi cờ tướng ngày nay)
Ai ngờ Hạng Thác đáp: “Nông phu mê chơi, bỏ bê mùa vụ, nho sĩ mê chơi, bỏ bê đèn sách, chư hầu mê chơi, chính sự bất an, việc này vô bổ nên cháu không màng”.
Khổng Tử nghe xong rất lấy làm phục, nên hỏi tiếp: “Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không?”
Hạng Thác lại trả lời: “Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tì. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tì thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên cháu không bình luận việc thiên hạ”.
Đến lượt Hạng Thác hỏi Khổng Tử 3 câu hỏi, Khổng Tử đều không thể trả lời:
Hạng Thác hỏi: “Trên trời lấp lánh những vì sao, vậy thưa ngài hỏi sao có bao nhiêu?”
Khổng Tử đáp: “Chuyện dưới đất không thiếu gì, cớ sao lại hỏi chuyện trên trời?”
Hạng Thác lại hỏi: “Vậy dưới đất có bao nhiêu ngôi nhà?”
Đức Khổng Tử lại đáp rằng: “Hỏi chuyện trước mắt chẳng phải là thực tế hơn không? Cần gì nói chuyện trời đất xa xôi!”
Hạng Thác liền thưa: “Vậy thưa ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì ngài có biết lông mày có bao nhiêu sợi hay không?”
Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi. Ông quay lại nói với các học trò rằng: Hậu sinh khả úy. Thành ngữ Hậu sinh khả úy chính là ra đời từ đây.
Cũng theo truyền thuyết, Khổng Tử vì vô cùng khâm phục Hạng Thác nên tôn cậu làm thầy. Việc Khổng Tử tôn Hạng Thác làm thầy cũng bởi ông muốn đề cao đức khiêm tốn, làm người cần phải biết học hỏi người khác.
Câu Hậu sinh khả úy ngày nay được dùng để khen ngợi lớp người trẻ có thể vượt xa cha ông, đáng được tôn trọng.
Sau này Hạng Thác mất năm 10 tuổi và được lập đền thờ, hậu thế tôn cậu là Thánh Công hay còn gọi là Tiểu Nhi Thần, nghĩa là thần đồng. Từ thần đồng cũng có từ ngày đó.
Hậu Tắc: bề tôi giỏi, có công thờ Vua Nghiêu Thuấn và là thủy tổ nhà Chu. Hậu Tắc tên là Khí, mẹ là Khương Nguyên, nguyên phi Ðế Hiệu. Tương truyền Khương Nguyên ra chốn đồng nội thấy vết chân người to lớn, lòng thấy vui nên dẫm vào. Bà tự nhiên thấy trong người bồn chồn và có thai sinh ra Hậu Tắc. thuở nhỏ, Khí thích chơi trò trồng cây, cây trồng bao giờ cũng rất tốt, khi đã đến tuổi thành nhân, Khí thích việc cày bừa làm ruộng, mùa nào trồng thứ ấy, các giống ngũ cốc đều xanh tươi. Dân chúng học làm theo. Vua Nghiêu biết việc bèn cho đón về giữ chức Tắc quan (quan coi việc nông) có công dạy dân, phong cho đất Ðài, hiệu là Hậu Tắc. Con cháu đời đời giữ chức quan ấy.
hậu xa đón người hiền: Chu Văn Vương nhà Chu đi săn gặp Lã Vọng, mời lên xe sau chở về, tôn làm bậc thầy. Lã Vọng bày ra đồ Bát trận rồi đánh được nhà ân ở đồng Mục dã.
Xem Khương Tử Nha.
heo may: Dịch thoát chữ lý phong, nghĩa là “gió cá chép”.
Theo truyền thuyết, vào mùa thu, cá chép theo nước sông về hội ở Vũ Môn để chuẩn bị hóa thành rồng. Gió vào mùa này gọi là “gió cá chép”.
Ca dao:
Tháng tư cá đi ăn thề
Tháng tám cá về hội ở Vũ Môn.
Hiên kỳ: tức Hoàng Ðế và Kỳ Bá. Hoàng Ðế sinh ở gò Hiên Viên, bấy giờ Xuy Vu bạo ngược, kiêm tính chư hầu. Hoàng Ðế đánh nhau với Rắn ở đồng Trác Lộc, giết Xuy Vu, chư hầu tôn Hoàng đế làm thiên tử. Theo truyền thuyết, Hoàng Ðế định phép Lục thư, chế ra trận pháp, đặt phép đo lường, cùng Kỳ Bá là học trò soạn sách Nội kinh, đặt khoa chế thuốc và chữa bệnh.
hiếu hạnh đầu tứ khoa: Trong Luận ngữ, Khổng Tử ghi: Những người đi theo ta qua nước Trầm, nước Thái hiện nay đều không có ở cửa ta nữa. Về khoa đức hạnh có: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung. Đây là bốn người được xem là đứng đầu về đức hạnh.
Câu trên có ý nói người có đức hạnh toàn vẹn.
hiệu: Theo pháp chế đời xưa, khi vua chết, quần thần họp lại căn cứ vào hành trạng, công lao hay tội lỗi của vua mà đặt cho một tên gọi là thụy hay hiệu bụt; việc này được gọi là tôn hiệu. Có người được tên đẹp như Lưu Bang nhưng cũng có người bị tên xấu như Kiệt, Trụ v. v…
Theo Sử ký, Khi Lưu Bang chết, quần thần đều nói: “Cao Tổ xuất thân hàn vi, dẹp đời loạn làm cho nó trở lại đường ngay, bình định thiên hạ, làm thái tổ nhà Hán, công lao hết sức lớn, nên dâng tôn hiệu là Cao Hoàng Đế”.
hình danh: học thuyết có nguyên lý cơ bản là mọi người bình đẳng trước pháp luật, lấy thưởng và phạt làm nguyên lý trị nước, không cần giáo dục.
Ví dụ về việc áp dụng thuyết hình danh, theo Sử ký: Thương Ưởng ra lệnh thay đổi pháp chế… Ai ra sức vào nghề nghiệp gốc, cày cấy, dệt vải, cung cấp nhiều lúa thì được tha khỏi sưu dịch; trái lại, ai theo cái lợi trên ngọn, cùng những người lười mà nghèo thì đều bắt cùng với vợ con làm nô; người tông thất mà không có quân công, thì không được ghi vào sổ sách họ nhà vua… Ai có công thì hiển vinh, ai không có công thì tuy giàu có cũng không được vinh hoa.
Xem thêm mục: Thương Ưởng.
hình hươu: Theo Sử ký, Triệu Cao muốn làm phản nhưng sợ các quan không nghe nên trước tiên phải thử lòng họ. Y dâng Nhị Thế (Vua Tần) một con hươu mà bảo đó là con ngựa, Nhị Thế cười, nói: “Thừa tướng lầm đấy chứ, sao gọi con hươu là con ngựa?” Nhị Thế hỏi các quan xung quanh. Mọi người sợ phải im lặng. Có người nói là ngựa để vừa lòng Triệu Cao, cũng có người nói là hươu. Nhân đấy, Cao để ý những người nào nói là hươu sẽ dùng pháp luật trị tội.
hoa biểu, hồ ly: Sách Tiễn Ðăng: Ðời Tấn Huệ đế, nơi mả Vua Chiêu Vương có con hồ ly già và cây cột trụ (hoa biểu) đều thành yêu tinh. Con hồ ly muốn hóa thành người học trò đến thăm nhà Bác vật Trương Hoa nghe Trương Hoa giảng sách, nhân hỏi cây hoa biểu. Hoa biểu nói: “Ông Trương là người trí độ khó che mắt được, đừng đi mà bị nhục, chẳng những hại anh mà còn lụy cả đến tôi nữa.”
Hồ không nghe, bèn hóa mình đến yết Trương Hoa bàn luận văn chương sử sách, thông hiểu suốt hết. Trương Hoa phải chịu và than rằng: “Thiên hạ đâu lại có người tuổi trẻ thông minh như thế, nếu không phải ma quỷ tất là hồ ly.” Bèn sai người đề phòng rất nghiêm ngặt, sai quan lệnh Phong Thành là Lôi Hoán xui Hoa thử huýt chó săn cho cắn xem sao, nhưng gã kia vẫn không sợ hãi gì cả. Hoa giận nói: “Nó đích thực là yêu rồi, bây giờ chỉ kiếm được cây khô nghìn năm mà soi thì hình nó sẽ hiện ra.”
Hoán nói: “Cây nghìn năm lấy đâu ra được, người ta vẫn nói cây hoa biểu ở trước mồ Chiêu Vương đã trải nghìn năm nên thử dùng xem sao…” Bèn sai ngã cây ấy đốt soi, gã kia liền hóa thành con hồ, nhân sai đem mổ giết.
hoa chúc: xem đuốc hoa.
Hoa Đà (145–208): thầy thuốc nổi tiếng đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xưng tụng như một thần y không chỉ ở Trung Quốc mà còn trong các nước đồng văn hóa như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, được xem là một trong những ông tổ của đông y, được xem ngang hàng với Biển Thước đời Chiến Quốc. Vì thế, cụm từ “Hoa Đà Biển Thước” chỉ nghề y tinh thông.
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung trình bày một số hư cấu về Hoa Đà như sau.
* Hư cấu Hoa Đà nạo xương cho Quan Vũ: Lúc bấy giờ, Quan Vũ bị quân của Tào Tháo bắn bị thương ở tay trong trận chiến ở thành Tương Dương, Hoa Đà rạch thịt rồi cạo xương để rửa sạch những chất độc của mũi tên đã ngấm vào xương tay của Quan Vũ. Trong lúc Hoa Đà cạo xương, sắc mặt Quan Vũ không hề thay đổi, thậm còn bình thản ngồi đánh cờ. Đoạn miêu tả này nhằm nêu bật sự dũng cảm của Quan Vũ, đồng thời ca ngợi cả y thuật cao siêu của Hoa Đà.
Chính sử ghi lúc cạo xương Quan Vũ không phải đang đánh cờ, mà đang uống rượu hẳn để làm giảm cơn đau, và thầy thuốc là người vô danh nào đó. Nếu thật sự đó là người nổi tiếng Hoa Đà thì không lẽ nào chính sử lại không nêu tên của ông.
* Hư cấu Hoa Đà đề nghị mổ sọ Tào Tháo rồi Hoa Đà tặng sách cho cai ngục: Tào Tháo, chúa nước Ngụy, đau đầu óc như búa bổ, không sao chịu nổi, vội truyền chỉ thị khắp nơi tìm thầy thuốc giỏi về chữa. Nhưng chữa mãi không thuyên giảm chút nào, Tháo đau đớn dữ dội. Bấy giờ có người giới thiệu Hoa Đà. Tháo cho mời đến. Chẩn mạch xong, Hoa Đà nói: “Đại vương đau đầu là vì nhiễm phải gió độc. Gốc bịnh ở trong màng óc nên rải gió không thoát ra được, dùng thuốc cũng uổng mà thôi. Tôi có phép này chữa được, trước hết đại vương uống thang ma phế cho mê đi, rồi tôi dùng búa sắt bổ tách xương sọ, rạch vào màng óc lấy cái rải gió ra, thế mới trừ tuyệt nọc được.” Tháo nổi giận, nghi Hoa Đà muốn báo thù cho Quan Vũ, truyền bắt Hoa Đà bỏ ngục để tra hỏi.
Hoa Đà biết mình sắp chết, tặng một quyển sách thanh nang của mình cho cai ngục để nối nghiệp mình. Hoa Đà chết rồi, cai ngục bỏ việc, về nhà định lấy sách Hoa Đà ra học thì thấy vợ đang đốt quyển sách ấy. Vợ nói: “Có học giỏi được như Hoa Đà, chẳng qua chết rũ ở trong ngục, cần gì quyển sách ấy!” Bởi thế quyển thanh nang không truyền ra đời, chỉ còn sót một vài trang chữa những thuật nhỏ, như thiến gà, thiến lợn mà thôi.
Chính sử kể về những cách chữa trị khác nhau của Hoa Đà, nhưng không kể gì về phương án mổ óc cho Tào Tháo, lại có kết thúc khác:
Hoa Đà viện cớ xa nhà lâu ngày, xin về nhà. Đến nhà, lại lấy cớ vợ bệnh mà nhiều lần hẹn nhưng không quay lại. Tào Tháo gửi thư gọi, lại sai quận huyện điều lệnh, nhưng Đà cậy vào tài năng mà khinh ghét việc hầu hạ, vẫn không lên đường. Tháo cả giận, sai người đến xem xét. Nếu vợ bệnh thật thì ban cho bốn mươi hộc đậu, tha cho tội hoãn lâu ngày; nếu có lừa dối thì bắt Đà. Do đó bắt Đà giam vào ngục. Tuân Úc xin tha cho Đà. Tháo không nghe, xét hỏi Đà đến chết. Đà sắp chết, lấy một quyển sách trao cho quan coi ngục, nói: “Nó có thể cứu người”. Quan coi ngục sợ phạm pháp không nhận. Đà không ép, lấy lửa đốt sách. Sau đó con yêu của Tháo là Thương Thư mắc bệnh, Tháo than: “Ta giết bừa Hoa Đà, khiến cho con nhỏ bị chết”.
hoa đàm đuốc tuệ:
* hoa đàm tức là hoa ưu đàm. Theo Tổ Tư vấn của giacngo.online và Wikipedia_Hoa Ưu Đàm, Theo một số kinh điển Phật giáo Bắc truyền (như Kinh Vô lượng thọ, Pháp hoa văn cú, Huệ Lâm âm nghĩa), ưu đàm là một loại cây thiêng, ba ngàn năm mới nở hoa một lần, mỗi lần hoa nở báo hiệu điềm lành Phật ra đời hay Chuyển luân Thánh vương xuất hiện.
Từ điển Phật học Huệ Quang ghi: “Ưu đàm, tên khoa học Ficus glomerata, thực vật ẩn hoa thuộc họ Cây dâu. Thân cây cao hơn 3 mét”.
HT.Thích Minh Châu dịch và chú giải ưu đàm trong Kinh tạng Pàli là cây sung (tên khoa học là Ficus glomerata).
Không có kinh nào mô tả chi tiết hoa ưu đàm có hình dáng, kích thước, màu sắc như thế nào. Thông tin duy nhất là một loài hoa rất ít khi nở.
Mặc dù kinh điển Phật giáo không mô tả hình dáng cụ thể của hoa ưu đàm nhưng trong chừng mực nào đó chúng ta đã xác định được cây ưu đàm là loài cây cao lớn. Nên những cái gọi là “hoa ưu đàm” mọc khắp nơi hiện nay chắc chắn không phải là hoa ưu đàm theo như kinh Phật đã nói. Thiết nghĩ, khi các nhà khoa học chưa nghiên cứu và định danh “hoa” lạ thì chúng ta không nên tùy tiện gọi chúng là hoa ưu đàm, một biểu tượng thiêng liêng trong Phật giáo.
Theo Duy Cường & Dự Minh (2016) trích dẫn một số kinh Phật, cây ưu đàm có địa vị ngang với cây bồ đề của nhà Phật. Điều này khác với một số nguồn cho rằng cây ưu đàm che bóng Đức Phật ngồi tham thiền, bởi vì cây che bóng đó thật ra là bồ đề.
Ưu đàm bà na kinh: ưu đàm là loại cây có quả, khi quả chín có thể ăn được, có vị ngọt, khỉ và vượn rất thích.
Trường a hàm kinh: ưu đàm bà na là một trong năm loại cây phát triển to lớn, có thể che khuất những cây nhỏ phía dưới, khiến chúng không có ánh sáng và không thể phát triển được.
Pháp hoa kinh tam đại bổ: hoa ưu đàm hay còn gọi ưu đàm bát na là hoa báo ứng sự may mắn, lá của nó như lá cây lê, to như bàn tay.
Vì vậy, nếu dựa theo những tài liệu này thì cái được gọi là “hoa ưu đàm” ở Phú Thọ, Quảng Trị, Hải Phòng… cũng không phù hợp với bất kỳ điểm nào giống như trên. Hơn nữa khi đức Phật ngồi tu luyện, bóng cây còn có thể che mưa che nắng nên chắc chắn phải có cành lá xum xuê, không thể chỉ có một bông hoa nhỏ xíu vài milimet như vậy được.

Khảo sát một số tài liệu khoa học, “hoa ưu đàm” mà gần đây mọi người nhầm tưởng, thực chất chỉ là trứng của loài côn trùng có tên khoa học là Chrysopa perla, tên tiếng Anh là green lacewings, tức loài muỗi cỏ. Đây là loài côn trùng săn mồi, đẻ trứng trên gỗ, kính, kim loại trên cửa sổ.
Muỗi cỏ đẻ trứng nhỏ và dài, được treo từ cành cây, lá cây, vỏ cây… tách biệt hẳn với các vật thể trên, như vậy trứng của chúng có thể tránh bị các côn trùng khác tấn công. Nhìn bề ngoài, chuỗi trứng trông giống như một chùm hoa.

Thông thường, sau khi đẻ khoảng 3-4 ngày, ấu trùng sẽ tách vỏ chui ra ngoài và đậu ở trên vỏ trứng khoảng 30 phút đến 120 phút. Động tác này sẽ giúp cơ thể ấu trùng cứng cáp ngoài không khí và trở lên nhanh nhẹn, sau đó sẽ bò xuống dưới theo chiếc que đỡ trứng.
Chúng thường làm kén sau lá cây, dưới vỏ cây, lá cây cuốn tròn hoặc khe tường. Sau khi phá kén có đủ lông cánh, tức trở thành côn trùng chúng sẽ đi săn mồi như những con muỗi bình thường, chủ yếu là các loài rệp, côn trùng có hại. Vì vậy, đây là loài côn trùng có ích. Cả vòng đời của chúng chỉ giao phối một lần nhưng mỗi lần sinh có khi tới cả ngàn trứng.
Tóm lại, những gì chúng ta đang nói đến hoa wu Đàm 3.000 năm mới nở một lần, thực ra chỉ là huyền thoại. Loài hoa này chỉ là một ‘phép ẩn dụ’ trong giáo lý nhà Phật ám chỉ rằng hiếm hoi lắm thế gian mới gặp được một đức Phật bằng xương bằng thịt (Thi Trân – Thiên Lý, 2012).
* đuốc tuệ: Do chữ tuệ hóa, là ngọn lửa trí tuệ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lửa trí tuệ làm cho chúng sinh dứt bỏ được cái khổ vì che chắn, ngăn cản.
“Hoa đàm đuốc tuệ” chỉ chung việc tu hành theo đạo Phật.
hoa đào năm ngoái: Theo Bản sự thi và Tình sử, Thôi Hộ đời Ðường (618-907) nhân tiết Thanh minh một mình đi chơi về phía nam đô thành, thấy một ấp trại chung quanh đầy hoa đào (Đào hoa trang). Thôi Hộ gõ cửa xin nước giải khát. thiếu nữ đứng thập thò bên cửa đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ, dịu dàng kín đáo. Đôi má hây hây đỏ như đóa hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu. Đoạn từ giã đi.
Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xóa mờ hình bóng của giai nhân. Đào hoa trang vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến lòng chàng nho sinh chan chứa biết bao tình cảm mặn nồng…
Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến. Thôi Hộ tìm đến Đào Hoa Trang. Cảnh cũ còn đó, nhưng con người xưa vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười, chào đón khách du xuân.
Năm sau, cũng vào tiết Thanh minh, Thôi Hộ lại đến tìm người cũ thì cửa đóng then cài, Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, chàng thảo mấy câu thơ trên cửa cổng:
Đề đô thành nam trang/ Đề tích sở kiến xứ – Thôi Hộ
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Đề ở ấp phía nam đô thành/ Đề nơi khi xưa gặp người – Đỗ Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản dịch thơ:
Năm ngoái, ngày này, dưới cánh song
Hoa đào ánh má, mặt ai hồng
Mặt ai nay biết tìm đâu thấy
Chỉ thấy hoa cười trước gió đông.

Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Đào cùng thân phụ đi viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng hiểu rõ tâm tình của khách du xuân năm ngoái. Nàng buồn bã thở dài, hối tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng.
Rồi ngày này sang ngày khác, nàng thiếu nữ họ Đào vẫn tựa mình bên cửa cổng, mong đợi và hy vọng người khách hào hoa phong nhã xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều xuống, bóng người xưa chẳng thấy.
Nàng cảm thấy đời hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi từ ấy nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy, dung nhan võ vàng. Thân phụ ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc. Nhưng nào biết đâu: có thầy giỏi cứu được sự sống cho người, chớ không có thuốc chữa bịnh tương tư.
Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già nghe và xin tha tội bất hiếu. Người cha xúc động đau khổ cho số phần đen bạc của đứa con gái duy nhất của mình nằm thiêm thiếp trên giường.
Chợt Thôi Hộ đến, nghe tiếng khóc bèn chạy vào ôm thây mà khóc. Người con gái bỗng hồi tỉnh rồi sống lại. Ông bố bèn đem cô gái gả cho Thôi Hộ.
Do điển này, “hoa đào năm ngoái” chỉ kỷ niệm khó quên, và người ta thường ví mặt người con gái đẹp với hoa đào.
Đoạn trường tân thanh, Kim Trọng sau khi về Liêu Dương hộ tang chú, quay trở lại vườn Lãm Thúy để tìm Kiều:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
hoa lê: hoa của cây lê, được ví với phụ nữ đẹp.
Trường hận ca – Bạch Cư Dị viết về vẻ đẹp của Dương Quý phi, Trường Xuân Phạm Liễu dịch thơ:
Vóc ngọc ấy lệ sầu rơi lả tả
Cành hoa lê lấm tấm hạt mưa xuân.
Cung oán ngâm khúc:
Ðóa lê ngon mắt cửu trùng
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng siêu.
hoa nhường, nguyệt thẹn từ tu hoa, bế nguyệt: từ ngữ ẩn dụ của truyền thuyết liên quan đến hai người đẹp có vị thế quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
“Hoa nhường” liên quan đến Dương Quý Phi. Tương truyền, một ngày Dương Quý phi đến hoa viên thưởng hoa, nhìn thấy hoa mẫu đơn, nguyệt quế nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kềm được, buông lời than thở: “Hoa a, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?” Lời chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải là loại hoa hàm tu thảo (hoa trinh nữ). Lúc này, có một cung nga nhìn thấy, rồi đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là “tu hoa”, tức “làm cho hoa phải nhường”.
“Nguyệt thẹn” liên quan đến Điêu Thuyền, một nhân vật hư cấu nổi tiếng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhưng không được xác nhận trong sử sách. Tương truyền khi Điêu Thuyền bái nguyệt ở Hậu hoa viên của Tư đồ Vương Doãn, đại thần của Hán Hiến Đế thời Tam Quốc, đột nhiên có một cơn gió nhẹ thổi đến, một vầng mây trôi che khuất mặt trăng. Đúng lúc đó, Vương Doãn bước ra nhìn thấy. Để khen con gái nuôi mình xinh đẹp như thế nào, Vương Doãn thường nói với mọi người rằng con gái mình đẹp đến nổi trăng sáng nhìn thấy cũng phải trốn vào sau mây. Vì vậy, sắc đẹp cp Điêu Thuyền được mọi người xưng tụng là “bế nguyệt”.
Ðời sau, các nhà văn thường dùng cụm từ “hoa nhường, nguyệt thẹn” để nói về sắc đẹp quyến rũ của phụ nữ.
Xem thêm các mục: Dương Quý phi và Điêu Thuyền.
Hoa Sơn: Một trong 5 ngọn núi lớn (ngũ nhạc) ở Huyện Hoa Âm, Thiểm Tây (Trung Quốc), còn gọi là Tây Nhạc hoặc Thái Họa.
hoa thược đỏ trước nhà ngọc trắng: Nguyên văn: bạch ngọc đường tiền chi hồng dược.
Lấy ý từ câu: ““Hoa thược dược đỏ múa giữ thềm, rêu xanh phủ trên bậc” của Tạ Huyền Huy trong bài Trực trung thư sách thi.
Nhà ngọc trắng: chỉ nơi cao quý, ở đây chỉ tòa Trung thư.
hoa tử vi trên ao Phượng Hoàng: Nguyên văn: Phượng hoàng trì thượng chi tử vi.
Ðời Ðường, tòa Trung thư ở trong cung cấm gần chỗ vua, bên tòa có ao nên người ta gọi tòa Trung thư là ao Phượng Hoàng (ý nói địa vị cao quý). Lại vì trong tòa trồng hoa Tử vi nên còn gọi là Tòa Tử vi.
hoa Trời bay xuống: Theo Dư địa kỷ thắng, Thời Lương Vũ Ðế, có vị pháp sư là Vân Quang ngồi giảng kinh trên núi Tụ Bảo Sơn ở Huyện Giang Ninh, Tỉnh Giang Tô. Vị sư giảng kinh mà cảm đến trời nên có mưa hoa bay xuống. Núi này vì thế còn có tên Vũ Hoa Đài, có nhiều đá hoa ngũ sắc.
Pháp Hoa kinh: Thích Tôn đang giảng kinh pháp hoa thì trời mưa xuống 4 giống hoa gọi là Vũ hoa thị (Ðiềm lành mưa hoa). Ðó là điềm lành thứ 3 trong 6 điềm lành của kinh Pháp Hoa.
Quan âm thị kính:
Mưa hoa rải khắp bên mình
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.
Hoài Nam Tử: bộ sách quan trọng của Đạo giáo Trung Quốc do Hoài Nam Vương Lưu An tập hợp các học giả để biên soạn. Hoài Nam Tử có nhiều điểm tương đồng với các quan niệm về triết học tự nhiên, cùng với Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh tạo nên hệ thống quan điểm của Đạo giáo.
Hoàn Ôn: người đời Tấn, khi mới đẻ, người ra nghe thấy tiếng khóc, cho là sự lạ. Sau lấy Nam Khang Công chúa, đánh giặc được nhiều trận, phong là Nam quán công, uy thế lừng lẫy, lấn cả quyền vua, có ý phản dân phản nước. Hắn thường nói: “Con trai không để được tiếng thơm cho đời, cũng nên để tiếng xấu cho đời sau”.
hoàng hoa: Nguyên văn: Hoàng hoàng giả hoa (Những bông hoa rực rỡ khắp nơi), là tên một bài thơ trong Kinh Thi nói việc vua tiễn biệt dặn dò sứ giả, có đoạn (dịch Nôm):
Những bông hoa rực rỡ khắp nơi
trên đồng cao, đồng thấp trũng
Kẻ chinh phu tùy tùng đông đúc
lo lắng không làm tròn mệnh vua.
Thơ Trần Trùng Quang:
Mấy vần thơ cũ gợi hoàng hoa
Trịnh trọng rày nhân giảng khúc ca.
Hoàng Hà: con sông dài thứ hai ở Trung Quốc, sau Trường Giang (tức Sông Dương Tử). Hoàng Hà có nghĩa là “dòng sông màu vàng” do lượng phù sa gấp chục lần bình thường. Con sông bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn trên cao nguyên Thanh Tạng, phía tây Tỉnh Thanh Hải, đổ ra Bột Hải ở vị trí gần thành phố Đông Dinh thuộc Tỉnh Sơn Đông. Với chiều dài 5.464 km, Hoàng Hà xếp thứ sáu thế giới về chiều dài.
Hoàng Hà được xem là “cái nôi” của nền văn minh Trung Quốc. Văn minh Hoàng Hà (khoảng 2.500 – 1.066 tCN) được chia thành các giai đoạn sau: Thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế; nhà Hạ và nhà Thương. Cư dân lưu vực Hoàng Hà thuộc chủng Mongoloid, thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ, thường được nói ngắn gọn là Hoa. Khi đó, dân tộc Hoa hầu hết cư trú tại vùng Trung nguyên. Trung nguyên theo quan niệm của người đương thời là trung tâm của vũ trụ, nên cái tên Trung Hoa cũng khai sinh từ đó. Trải qua khoảng 1500 năm đến khi Tần Thủy Hoàng xưng đế, lãnh thổ của Hoa tộc mới được mở rộng đáng kể về phía nam, lấn chiếm lưu vực sông Dương Tử, đồng hóa các dân tộc nhỏ hơn để mở mang bờ cõi, hình thành nên đế quốc.
Hai tỉnh Hà Bắc và Hà Nam được đặt tên theo con sông này, có nghĩa là “bắc” và “nam” của Hoàng Hà.
hoàng lương mộng: có nghĩa: giấc kê vàng.
Đoạn trường tân thanh:
Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai
Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
Xem mục: giấc Nam Kha.
Hoàng Sào (835-884): một lãnh tụ nông dân nổi tiếng, xưng làm hoàng đế thời cổ đại Trung Quốc. Nguyên nhà Đường đến đời Vua Hy Tông (874-888) thì càng suy vi. Phiên trấn hoành hành ở ngoài sát hại nhân dân, hoạn quan chuyên chính bên trong thiện tiện phế lập vua chúa. Dân gian ngày càng khổn khổ: bần cố nông phải bỏ trốn lưu lạc, người có một ít đất vẫn không sống nổi, bỏ quê quán mà lưu vong, hoặc đi cướp bóc… Vừa binh tai, lại luôn xảy ra lụt lội và hạn hán khiến cho nhân dân càng thêm đói kém.
Lúc bấy giờ ở Tào Châu, làng Xích Tướng có một người tên Hoàng Sào, con nhà bán muối. Sào rất thông minh, văn võ đều giỏi nhưng vẻ người rất xấu. Năm 876 đời Vua Hy Tông, Hoàng Sào đi thi đỗ được Võ cử Trạng nguyên. Vua thấy hình dung “cổ quái” của Sào nên không dùng, đuổi Sào đi. Sào làm bài thơ sau đầy khí phách:
Bất đệ hậu phú cúc – Hoàng Sào
Sau khi thi rớt làm thơ vịnh hoa cúc – Aficio dịch thơ
Trước ngày trùng cửu lúc thu sang
Cúc hoa nở rộ trăm hoa tàn
Hương thơm ngát trời xuyên cung cấm
Khắp thành rực rỡ áo giáp vàng.
Hoàng Sào ra khỏi triều môn trở về, giữa đường ghé quán nghỉ, lòng đầy căm tức. Sào nghĩ thầm: “Khi đăng bảng mở khoa thi thì nói chọn người văn chương và võ nghệ mà thôi, chớ không thấy nói chọn người mặt mày đẹp đẽ. Nếu ta dè hôn quân muốn lấy diện mạo chọn người thì ta đâu có đi thi làm chi cho uổng công!”
Tức khí quá, Hoàng Sào lấy bút mực viết một bài thơ trên vách quán rồi bỏ ra đi:
Lược thao như mỗ đáng phong hầu
Mắt thịt hôn quân dễ biết đâu!
Nếu được đôi ba ngàn tử đệ
Đoạt thâu thiên hạ bốn trăm châu
Tào Châu Hoàng Sào tự Cự Thiên đề.
Quân tuần thành đến quán trông thấy bài thơ liền chép lại dâng lên vua. Nhà Vua tức giận truyền họa đồ hình Hoàng Sào và ra lệnh truy nã. Sào hay tin, không dám đi đường lớn nữa mà phải lặn lội trong rừng núi để về quê.
Có truyền thuyết như sau. Một hôm Hoàng Sào ghé vào chùa nghỉ, có tiên cho mượn gươm báu. Sào định thử gươm, mới bảo các sãi trong chùa tìm nơi ẩn trốn kẻo bị gươm báu chém nhằm. Đến giờ ngọ, Hoàng Sào ra đứng giữa trời, nhìn ngay mặt trời khấn rằng: “Tôi là Hoàng Sào tự Cự Thiên, nghĩ vì đời vua này vô đạo, chẳng kể hiền tài, cứ nghe lời gian nịnh cho nên đạo tặc phong khởi, hào kiệt ly tâm, thiên hạ nhiễu nhương, trăm họ khổ thống. Vậy tôi muốn ra sức trừ loài gian nịnh, cứu nạn cho sinh linh, đoạt lấy xã tắc, sửa trị ngôi trời. Nay tôi muốn thử sức gươm linh, xin hoàng thiên giúp sức, nếu vạn sự kết quả như lòng tôi muốn thì xui tôi chém một gươm cho tốt.” Đoạn, cầm gươm ra khỏi cổng chùa, nhìn chung quanh không thấy ai cả. Thấy một cây đại thọ ở bên đường, Sào liền đưa gươm lên chém phạt ngang một gươm. Cây đại thọ đứt hai đổ xuống, nhưng có làn máu đỏ vọt ra. Sào cực kỳ ngạc nhiên nhìn kỹ lại là ông sãi cả ở chùa. Thì ra vì ông sãi cả nghe lời Hoàng Sào bảo mọi người trong chùa phải tìm chỗ ẩn trốn khi Sào thử gươm linh, nhưng ông không biết chỗ nào trốn cho kín. Ông lấy làm lo sợ quá, nhìn thấy một cây đại thọ có cái bộng to nên chui vào đó, ý định toàn thân… không ngờ lại không toàn!
Hoàng Sào đau lòng than thở, đoạn quảy gói mang gươm lên đường, thẳng lên Thái Hành Sơn chiêu binh mãi mã. Non một năm, Sào chiêu mộ được trăm muôn binh thêm một số tướng tá văn võ kiêm toàn. Thế lực rất mạnh.
Hoàng Sào tự xưng là Xung thiên Đại Tướng quân, đem hơn 10 vạn quân đoạt được nhiều châu khác và vượt qua sông Dương Tử, xuống cướp miền Giang Nam, ra phía đông đến Chiết Giang, lại đánh Phúc Châu, Kiến Ninh, rồi thẳng đường xuống đoạt Quảng Châu. Ở đây, Hoàng Sào giết hại rất nhiều nhân dân trong thành thị, cùng 20 vạn người ngoại quốc buôn bán, gồm những giáo đồ Hồi, Cơ Đốc, Bái Hỏa và người Do Thái, người Hy Lạp…
Sau vì miền nam có bệnh dịch, quân của Hoàng Sào bị bệnh chết mất 30-40%, Hoàng Sào kéo quân lên bắc. Năm 880, vây hãm Đông Đô rồi chiếm lấy Trường An, cướp phá và giết chóc những người quý tộc, quan lại và phú hào, số không kể xiết. Vua Hy Tông phải bỏ hoàng thành chạy vào đất Thục.
Hoàng Sào chuyển vào sống trong hoàng cung triều Đường và năm 881 xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, tự xưng là Đại Tề Hoàng đế, niên hiệu là Vương Bá (878-880) và Kim Thống (881-884). Thật là thỏa chí bình sinh.
Hoàng Sào trước muốn cứu muôn dân ra khỏi cảnh lầm than tang tóc, nhưng đến khi thực hành thì lại chẳng cứu muôn dân mà còn gây thảm họa chết chóc cho nhân dân nhiều thêm nữa. Tướng Châu Ôn là bộ hạ của Hoàng Sào lại đầu hàng quan triều. Trong số hơn 50 vạn quân của Sào, một số chán ghét Sào bỏ chạy theo Châu Ôn. Còn Vua Hy Tông sau khi trốn chạy vào Tứ Xuyên, nhờ người Tây Đột Quyết là Lý Khắc Dụng đem quân cứu viện. Triều Đường được trung hưng.
Quân của Hoàng Sào liên tiếp bại trận. Cuối cùng, theo Tân Đường thư, Hoàng Sào tự sát và chỉ thị cho bộ hạ đem thủ cấp của mình đi đầu hàng, mục đích là để cứu sống binh sĩ.
Khởi nghĩa Hoàng Sào khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong vòng vài thập niên sau đó.
Tập Đường thi ghi ba bài tuyệt cú của Hoàng Sào.
Nguyễn Du có bài thơ cảm khái trong tập Bắc hành tạp lục:
Hoàng Sào binh mã – Nguyễn Du
Nơi Hoàng Sào đóng binh mã – Lâm Trung Phú dịch thơ
Mấy dặm Hoa Sơn núi tiếp núi
Hoàng Sào tích cũ bên bờ sông
Há hay Kim Thống dựng ngôi đế
Vốn kẻ Tôn Sơn tên bảng không!
Hại nước nề hà do hẹp lượng
Cùng thời chuyển được hóa vân phong!
Người xa hỏi việc nghìn năm trước
Ông lái lắc đầu vẻ chẳng thông!
Đoạn trường tân thanh, đoạn tả khí phách của Từ Hải thoát ý câu thơ của Hoàng Sào:
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Đoạn trường tân thanh, đoạn Thúy Kiều khuyên Từ Hải hàng triều đình, có câu:
Ngẫm từ khởi việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Kiều đem Hoàng Sào ra để thuyết Từ Hải vì biết là Từ dù có tài giỏi dũng lược như Hoàng Sào chăng nữa, thì cũng chỉ lưu lại đời sau cái tiếng làm giặc mà thôi.
Hoàng Thạch Công: người đời Tần-Hán (221 trCN – 196), nhân vật gắn liền với Trương Lương trong một truyền thuyết.
Trương Lương (250–186 tCN) người nước Hàn. Sau khi nước Hàn cùng các nước Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Sở bị nước Tần (đời Tần Thủy Hoàng) thôn tính, vì thù mất nước không đội trời chung, Trương Lương ngày đêm mưu lo rửa thù. Lúc còn trẻ tuổi, Trương thơ thẩn ở cầu sông Vị, buồn bã ngắm cảnh.
Một hôm, bỗng có một cụ già mặc áo vàng đi ngang cầu, làm rớt một chiếc giày xuống bùn, lại đưa tay ra dấu bảo Trương lượm giùm. Trương không từ chối, lật đật lội xuống lượm lên quỳ dâng. Cụ già đi vài bước lại làm rớt nữa và bảo Trương lượm giúp. Trương chẳng phiền hà, vẫn vâng theo. Ba lần như thế, mình Trương dính đầy bùn, mặt vẫn tươi tắn, không chút vẻ buồn phiền.
Cụ già nói: “Tên thiếu niên này nên dạy.” Ðoạn, chỉ cây đại thọ bên cầu, bảo: “Năm ngày nữa, ngươi đến đây chờ ta. Ta sẽ tặng cho ngươi một vật. Chẳng nên quên.”
Nói xong, cụ già thoăn thoắt đi mất.
Ngày thứ năm, Trương Lương dậy rất sớm, ra đón cụ già theo chỗ dặn. Nhưng khi đến nơi thì đã thấy cụ ngồi bên gốc đại thọ từ lúc nào rồi. Cụ già nghiêm nghị bảo: “Kẻ trẻ tuổi ước hẹn với người lớn tuổi sao lại dám trễ! Thôi hãy về đi. Năm hôm nữa phải ra đây cho sớm.”
Năm ngày sau vừa canh năm, Trương Lương đã đến nơi, nhưng lạ thay cũng thấy cụ già đến trước ngồi đợi. Cụ già nổi giận nói: “Tuổi trẻ hoạt động, sao ngươi lại trễ nải như vậy? Hãy về đi. Năm hôm nữa, phải đến cho sớm.”
Ðêm thứ tư rạng ngày năm, Trương Lương không ngủ, ra đứng bên gốc đại thọ đứng chờ. Nhưng chờ, chờ mãi đến sáng bạch mà vẫn không thấy cụ già đến…
Vầng hồng đã ló mọc. Trương Lương nhìn thấy từ xa, cụ già đương thong dong mỗi lúc một gần. Dưới ánh sáng rực trông tướng mạo của cụ có vẻ khác thường. Mình mặc đạo bào màu vàng, đầu đội mão da, tay cầm gậy tre, năm chòm râu suông đuột, người quắc thước có vẻ tiên phong đạo cốt, Trương Lương đón tiếp, quỳ lạy.
Cụ già mỉm cười: “Khá lắm. Biết chờ ta!” Ðoạn bảo: Người tuổi trẻ sức mạnh, cốt cách thanh kỳ, ngày sau sang cả, đáng làm bậc thầy các đế vương. Nay may gặp nhau thật là thiên tải kỳ phùng, ta tặng cho người ba quyển sách nhiệm mầu, trong có đủ kỳ mưu, thần toán. Nhà ngươi cố gắng học tập, nghiên cứu, áp dụng vào thực tế mà báo thù cho nước, và theo phò chân chúa để danh rạng muôn đời.”
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi: “Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.”
Ông lão nói: “Ba năm nữa, nơi phía Ðông thành Ðại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng hoàng thạch tức là ta đó.”
Trương Lương nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương lạy tạ lãnh lấy. Đó là bộ Tam lược, gồm có ba mưu lược đánh trận. Tiểu thuyết Hán Sở tranh hùng ghi đó là bộ Thái Công binh pháp.
Trương Lương phò tá Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ. Nhưng khi lên ngôi, Trương Lương nói với Lưu Bang rằng mình muốn xa lánh nhân gian, nghiên cứu phép tịnh cốc làm kế trường sinh, để sống một cuộc đời an nhàn cho thỏa thích.
Sau đó Trương Lương thường ngao du sơn thủy để hưởng nhàn.
Một hôm, đến phía Ðông Cốc thành, chợt thấy một hang đá vàng, Trương Lương chợt nghĩ: “Năm xưa ta gặp ông già ở Dĩ Thượng, ông ấy có nói sau này có gặp một viên đá vàng ở Cốc Thành tức là ông ta vậy. Thế thì lời nói ấy nay quả ứng nghiệm.”
Nghĩ rồi liền phục lạy mấy lạy để đền ơn.
Xem thêm: lược thao.
hoành phi: hoành: đường ngang; phi: cánh cửa, tấm bảng. Hoành phi là tấm bảng lớn trên đó có khắc chữ Hán, sơn phết đẹp, treo ngang giữa hai cây cột trong nhà, hoặc treo ở vị trí cao nhất trong đình chùa. Hoành phi thường được khắc 3 hoặc 4 chữ to, vừa mang tính chất nghi lễ, vừa có giá trị về nghệ thuật
Chữ viết trên bức hoành phi mang ý nghĩa tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên, ca tụng công đức của tổ tiên ông bà, ghi lại những lời răn dạy con cháu hoặc thể hiện ước nguyện cầu mong sự bình an, thái bình.
Một số ví dụ về câu đề trên bức hoành phi thờ cúng tổ tiên:
- đức lưu quang (đức độ sáng mãi)
- mộc bản thủy nguyên (cây có cội, nước có nguồn)
- vạn cổ anh linh (muôn thuở linh thiêng)
- ẩm hà tư nguyên (uống nước nhớ nguồn)
- quang tiền thùy hậu (gương sáng người trước, để phúc người sau)
- tổ củng tôn bồn (tổ tiên gây dựng, con cháu đắp bồi)
- tích thụ kim hoa (cây xưa nở hoa nay)
Những chữ lạc khoản nhỏ hơn được ghi ở một hoặc hai bên bức hoành phi cho người ta biết thông tin về chủ nhân của hoành phi, người viết, người tặng, sự kiện tạo ra bức hoành phi đó, về thời gian xây dựng đình, đền, nhà thờ họ… Hình trang trí trên các bức hoành phi như tứ linh (long, ly, quy, phượng), tứ thời (mai, lan, cúc, trúc), hình quyển sách và cây bút, hình thanh gươm… ngoài việc làm nổi bật thêm nội dung của những chữ trên bức hoành phi, còn thể hiện sự sáng tạo và thẩm mỹ của người tạo tác.
Hoành phi có nhiều loại, có bức hoành phi sơn son chữ vàng, có bức sơn đen chữ đỏ hoặc vàng, cũng có bức được khảm xà cừ cầu kỳ. Tuy nhiên, đặc sắc và độc đáo nhất phải kể đến những hức hoành phi được làm bằng kỹ thuật “chạm đắp”, với việc chạm riêng một vài chi tiết như đầu rồng, đầu chim, các loại hoa văn…sau đó đắp lên bức chính. Hoành phi được làm bằng gỗ không mọt (như gỗ mít), được chạm lộng, chạm đắp, gắn kết với nhau thông qua ngàm mộng chứ không dùng đinh. Hoành phi cổ thường được cấu tạo theo hai dạng chính là dạng hình chữ nhật và hình cuốn thư, ngoài ra còn có bức dạng chiếc khánh, hình ô van…
Tại gian tiền tế Đền Thượng di tích Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), bức hoành phi có 4 chữ Hán: liễm phúc tích dân (tích phúc ban cho dân).

Thượng khoản ghi bên trái bằng chữ Hán, Hạ khoản ghi bên phải bằng chữ Pháp, dịch nghĩa: “Làm ngày 13, tháng 11, năm Bảo Đại thứ 7 (1932) do quý ông CHAIX, Chủ tịch Câu lạc bộ Đua xe tại Pháp và quý ông ANDLAUER nguyên Tướng quân chỉ huy các lực lượng quân đội tại Đông Dương cùng cung tiến.” (Nguyễn Văn Chiến, 2017).
Trong Cung Càn Thanh của hai triều Minh và Thanh có bức hoàng phi với 4 chữ chính đại quang minh. Liên quan tới bức hoành phi này có câu chuyện về việc tranh đoạt ngôi kế vị giữa các hoàng tử sau khi vua cha qua đời. Để làm dịu mâu thuẫn này, bắt đầu từ thời Ung Chính áp dụng biện pháp cất giữ bí mật. Khi các bậc thiên tử còn tại thế, họ không công khai lập thái tử mà bí mật lập hai bản di chiếu để lựa chọn người kế thừa vương vị. Một bản để bên cạnh hoàng đế, bản còn lại để trong một chiếc hộp đặt phía sau bức hoành phi chính đại quang minh. Sau khi hoàng đế băng hà, các quan đại thần sẽ lấy bức di chiếu trong chiếc hộp ra đối chiếu với di chiếu mà hoàng đế luôn mang bên mình. Sau khi đối chiếu chính xác mới công bố người kế thừa đế vị.

Hòn Vọng Phu: tên hòn đá liên quan đến nàng Tô Thị, là một nhân vật trong chuyện cổ tích Việt Nam Sự tích hòn vọng phu.
Theo Wikipedia_Nàng Tô Thị, hòn đá được cho là do nàng Tô Thị hóa đá nằm trong quẩn thể di tích động Tam Thanh thuộc Phường Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn. Nơi đây có Núi Tô Thị hay còn được gọi là Núi Vọng Phu. Trên đỉnh núi có một khối đá thiên nhiên hình một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xưa tượng đá này đã gắn với truyền thuyết về một người con gái chung thủy đứng chờ chồng đi lính, chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con hóa thành đá. Từ đó người dân gọi đây là tượng Nàng Tô Thị.
Ca dao Việt Nam xưa khi nói về Lạng Sơn có câu:
Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh.
Tuy nhiên, ngày 27/07/1991, tượng đá nàng Tô Thị bị sụp đổ, và có hai người bị bắt vì nghi ngờ phá tượng để nung vôi, vì thế mà câu ca dao bị đọc chệch đi:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, nó vừa nung vôi.
Sau đó, ông Trương Hoàng Phương, giảng viên Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (lúc đó đang học thạc sĩ tại Hà Nội), đến hiện trường để nghiên cứu lại vụ việc. Cuối cùng, các kết quả nghiên cứu của ông cho thấy rằng tượng nàng Tô Thị bị sụp đổ là do sự ăn mòn trong thiên nhiên (cụ thể là hiện tượng karst) chứ không phải do phá hoại. Từ kết