Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn học phương Đông – I đến R

Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn học phương Đông – I đến R
Diệp Minh Tâm
2020

ích hữu có ba: Sách Luận ngữ ghi: “Có ba bạn có ích, ba bạn có hại. Bạn ngay thẳng, bạn thành thật, bạn nghe biết nhiều là ích. Bạn giả bộ uy nghi, bạn hay chiều chuộng, bạn khéo xiểm nịnh là hại.”

keo loan: xem loan giao.

kén ngựa: Tần Mục Công sai Cửu Phương Cao đi kén mua ngựa hay. Cao về bảo đã kén được một con ngựa cái vàng, lúc dắt ngựa về thì lại là ngựa đực sắc đen, nhưng quả là ngựa tốt. Bá Nhạc bảo là Cao chỉ chú ý đến cái tài bên trong của nó mà không để ý bề ngoài.

kẻ ăn rươi, người chịu bão: Hằng năm, cứ khoảng tháng chín âm lịch, các ruộng nước chua mặn ở miền biển có giống rươi nổi lên. Người ta hớt rươi về làm thức ăn ngon (chả rươi, mắm rươi). Nhưng mùa này cũng hay có bão làm thiệt hại. (cũng có người giải thích, mùa này trở trời nên dễ đau lưng đau bão).

Thành ngữ này có ý cho rằng trong cùng một sự kiện, có người hưởng lợi và có người khác chịu thiệt.

Thành ngữ có ý nghĩa tương đương: “Kẻ ăn mắm, người khát nước”.

Riêng hai thành ngữ “Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ” và “Thầy pháp ăn, bắt thầy chùa chịu” có ý nghĩa hơi khác: một người gánh chịu hậu quả do người khác làm ra.

kẻ được khen bị tội, người bị chê được thưởng: Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.

Bấy giờ các quan trong triều, ai cũng khen quan đại phu đất A là người hiền mà chê quan đại phu đất Tức Mặc. Sô Kỵ tâu với Tề Uy Vương, rồi sai người đi dò xét, kiểm tra xem sự thực thế nào.

Khi đã dò xét được sự thực rồi, Tề Uy Vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến. Tề Uy Vương chẳng nói gì cả. Các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao. Một lúc sau, quan đại phu đất A cũng đến. Tề Uy Vương truyền họp tất cả triều thần lại để định thưởng phạt. Triều thần ai cũng nghĩ thầm: quan đại phu đất A phen này ắt được trọng thưởng; trái lại quan đại phu đất Tức Mặc thế nào cũng có vạ đến nơi.

Lúc bấy giờ, giữa triều, Tề Uy Vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến, bảo: “Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người chê bai. Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương đông ấy được yên. Thế là do nhà ngươi chuyên tâm trị dân mà không chịu lễ đút lót những người tả hữu gần ta, thành ra bị họ chê bai đó. Nhà ngươi thật là một ông quan hiền.”

Nói xong liền gia phong cho. Đoạn gọi quan đại phu đất A đến, bảo: “Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người khen ngợi. Ta sai người dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét. Hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu. Thế là nhà ngươi chỉ đem tiền của đút lót những kẻ tả hữu gần ta, thành ra được họ khen ngợi đó. Nhà ngươi thật là một ông quan rất dở.”

Quan đại phu đất A sụp lạy xin tha tội.

Tề Uy Vương không tha, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu. Dầu sôi sùng sục. Tề Uy Vương sai trói quan đại phu đất A bỏ vào vạc dầu. Đoạn bắt tất cả những người xưa vẫn khen ngợi quan đại phu đất A mà chê bai quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến, quở mắng: “Các ngươi là người tả hữu gần ta tức là tai mắt của ta. Các ngươi lại tham ăn của lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải để lừa dối, ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! Nên đem mà mổ cả đi.”

Chúng đều khóc lóc kêu van.

Tề Uy Vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy mười người, toàn là những người xưa nay nhà vua có lòng thân yêu đem ra mà mổ. Chúng đều run sợ, mặt tái như gà cắt tiết.

Từ bấy giờ Tề Uy Vương kén chọn những người hiền tài cho đi trấn nhậm các quận. Nhờ đó mà trong nước ngày càng cường thịnh.

kẻ Tấn người Tần: chỉ sự xa cách nhau.

Tấn và Tần là tên 2 nước kế bên nhau thời Xuân Thu. Tấn ở vào khu vực từ miền nam Sơn Tây đến Nam Hà Bắc; Tần ở Thiểm Tây. Như vậy, Tấn ở phía đông, Tần ở phía Tây.

Văn Nôm dùng điển này để chỉ sự xa cách nhau.

Lục Vân Tiên:

Những e kẻ Tấn người Tần
Nào hay chữ ngẫu đặng dần chữ giai.

Kê Khang: ta thường thấy hình vẽ 7 cụ già ngồi bên rừng trúc. Kẻ đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, người uống rượu, ngâm thơ… trông vẻ tiêu diêu tự toại. Ðó là hình ảnh “Trúc lâm thất hiền” (bảy ông hiền trong rừng trúc) đời nhà Ngụy (220-264). Kê Khang là một trong 7 ông này.

Kê Khang vốn người có tính cao khiết, giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là một người có biệt tài về các môn cầm, kỳ, thi, họa. Một điều lạ hơn hết là mặc dầu có tài như vậy nhưng ông không học qua một ông thầy nào. Từ nhỏ đến lớn, ông có công tự học, rèn luyện mà nên. Ông vốn họ Khuê, người Huyện Cối Kê (nay là Huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang). Gần chỗ ông ở có núi Kê (Kê Sơn) nên ông lấy tên Kê làm họ.

Kê Khang cũng như sáu người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão, có người bảo: “Ba ngày không đọc Ðạo đức kinh thì miệng thấy hôi”. Ông có ra làm quan đến chức Trung tán Ðại phu. Thơ ông có giọng triết lý, như bản dịch của Nguyễn Hiến Lê:

Mắt tiễn hồng bay
Tay gảy năm dây
Cúi ngửa tự đắc
U huyền thích thay!

Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan, mai danh ẩn tích để hưởng thụ tiêu diêu lúc về già. Nhưng thảm thay, ông muốn tránh khỏi điều phiền lụy ở cõi trần thì lại còn lận đận, khổ lụy vì trần.

Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thủy, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy giờ nhà Ngụy họ Tào suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn lật đổ nên tìm mọi cách trừ khử những phe phái chống đối. Lúc ấy có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn thâm giao. Không ngờ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh đẹp, muốn chiếm đoạt nên bắt An hạ ngục.

Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan, nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn thuộc con rể trong tông thất nhà Ngụy, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang dám khinh chê Vua Thang, Vua Hạ Vũ, Văn Vương, Khổng Tử là có ý phản loạn, nên kết án tử hình.

Khúc Quảng Lăng do ông sáng tác, đánh lên nghe lưu loát, thánh thót như nước chảy (lưu thủy), mây bay (hành vân). “Lưu thủy” và “hành vân” là giải thích các điệu lưu loát của khúc Quảng Lăng. Cũng như tiếng đàn thánh thót của Kiều như nước chảy mây bay chẳng khác gì khúc Quảng Lăng của Kê Khang, một tay đàn kỳ diệu. Tình cảm của người gảy đàn cũng chuyển biến, biểu lộ bằng khúc đàn.

Đoạn trường tân thanh:

Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân

kê minh cẩu đạo (gáy giả gà, trộm giả chó): ý nói tài vặt mà được việc lớn. Xem mục: Mạnh Thường Quân.

Kê Thiệu: Người đời Tấn, thời Huệ Ðế. Vua bại trận ở Thang Âm, các quan bỏ chạy hết. Thiệu một mình ở lại hộ vệ bị thương máu văng đỏ cả áo vua. Khi yên giặc rồi, nhà Vua nói: “Máu của Kê Thiệu ta không đành tẩy đi.”

kết cỏ: chỉ sự báo ơn sâu.

Đời Xuân Thu (551-479 tCN), tướng nước Tần là Đỗ Hồi, đem quân sang đánh nước Tấn.

Hồi vốn là một lực sĩ, răng nhọn hoắc, mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, thân cao to lớn, chuyên sử dụng cây Khai Sơn đại phủ (búa to) nặng 120 cân, người giống Bạch Địch. Đã có lần ở Thanh Mi Sơn, Đỗ đâm chết luôn 5 con hổ, lột da đem về. Và, cũng có lần, Đỗ chỉ huy 300 quân mà phá vỡ được hơn 10 ngàn quân giặc ở Sa Nga Sơn. Uy danh càng lừng lẫy.

Tướng của nước Tấn là Ngụy Khỏa đem binh ra nghênh chiến. Đỗ Hồi dẫn 300 quân xông vào mặt trận, múa cây Khai Sơn đại phủ tung hoành chém giết. Búa đến đâu là đầu rơi long lóc. Quân Tấn chết nằm ngổn ngang như rạ.

Ngụy Khỏa vội vàng rút quân, đóng chặt cửa thành, giữ lấy thế thủ, mặc cho Đỗ Hồi đến khiêu chiến, chửi rủa thậm tệ suốt cả mấy ngày. Vừa lúc ấy có em của Ngụy Khỏa là Ngụy Kỳ vâng lệnh Vua Tấn đem binh tiếp ứng. Khỏa thuật cả việc lại. Kỳ không tin, hôm sau đem quân ra nghinh chiến.

Đỗ Hồi lại múa búa, tả xông hữu đột, chém giết quân Tấn tơi bời, máu chảy tựa suối. Ngụy Kỳ thua to. May nhờ có Khỏa liều thân đem quân tiếp cứu mới về được thành.

Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa ngồi buồn rầu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì để phá địch. Đang mơ màng, bỗng nghe có tiếng người văng vẳng bên tai: “Thanh Thảo Pha! Thanh Thảo Pha!” Đến lúc tỉnh dậy, không hiểu nghĩa là sao, mà chợp mắt ngủ lại nghe như trước. Khỏa thuật lại cho Kỳ biết. Kỳ nói: “Cách đây độ mười dặm [1 dặm bằng 576 thước tây], có một bãi cỏ tên Thanh Thảo Pha, có lẽ thần minh mách bảo quân Tần sẽ bị bại tại đó. Vậy tôi xin đem một toán quân mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến. Bấy giờ hai bên đổ ra cùng đánh, chắc chắn sẽ thắng.”

Khỏa bằng lòng.

Sáng ra, Ngụy Khỏa giả cách truyền lệnh rút quân. Quả nhiên, Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Khỏa giao chiến qua loa một lúc rồi bỏ chạy, dụ Hồi đến Thanh Thảo Pha. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên, bất thần đổ ra hợp với quân của Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Hồi chẳng nao núng, múa búa tung hoành như vào chỗ không người. Nhưng bỗng nhiên, Đỗ Hồi đi mỗi bước lại ngã chút một cái, như người bị trượt chỗ nước băng. Quân Tấn lấy làm ngạc nhiên, reo ầm cả lên.

Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một lão già, mặc áo vải chân đi thảo hài, đương kết cỏ lại làm vướng chân Đỗ Hồi. Bấy giờ, Khỏa và Kỳ xông lại bắt sống. Quân Tần mất tướng chỉ huy nên bỏ chạy tán loạn, bị quân Tấn đuổi bắt giết gần hết.

Đem Đỗ Hồi về dinh, Ngụy Khỏa hỏi: “Mày cậy có sức khỏe, nhưng nay sao để bị bắt?”

Hồi uất hận, trả lời: “Ta đang đánh, không biết có vật gì trói lấy chân làm cho ta ngã. Đó là trời hại ta, chớ không phải ta thua.”

Ngụy Khỏa nghe nói lấy làm lạ. Thấy Hồi có sức mạnh phi thường, sợ thoát thân được nên Khỏa và Kỳ đồng ý đem giết chết, cắt lấy đầu đem về dâng Vua Tấn.

Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa nằm ngủ, mơ màng thấy ông lão kết cỏ ở Thanh Thảo Pha hiện đến, vái chào và nói: “Tướng quân có biết tại sao Đỗ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đỗ Hồi vướng chân mà ngã đó.”

Ngụy Khỏa kinh sợ, chấp tay đáp lễ, nói: “Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại có lòng tốt quý giúp tôi như vậy? Tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ!”

Ông lão nói: “Tôi là cha của nàng Tố Cơ. Tướng quân theo lời trị mệnh của tiền nhân không chôn sống con tôi, mà còn tìm chỗ xứng đáng gả cho con tôi lấy chồng. Vậy tôi cảm ơn ấy mà giúp tướng quân. Sau này con cháu tướng quân vẫn được đời đời vinh hiển.”

Nói xong biến mất.

Nguyên xưa, thân phụ của Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên Tố Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc thì thường dặn dò Ngụy Khỏa: “Nếu cha chẳng may chết ở chiến trường, con nên tìm chỗ tử tế mà gả Tố Cơ để nàng khỏi phải khổ sở tấm thân. Cha dẫu chết cũng được yên lòng!”

Nhưng đến lúc Ngụy Thù đau nặng, trước phút lâm chung, lại bảo Khỏa: “Tố Cơ là người thiếp yêu của cha. Khi cha chết rồi, con phải đem nàng mà chôn theo cha để cho cha ở suối vàng có người làm bạn.”

Ngụy Thù chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha nhưng không bắt Tố Cơ chôn theo. Ngụy Kỳ hỏi tại sao không vâng lời cha trối lúc lâm chung thì Khỏa đáp: “Thân phụ lúc nào cũng dặn ta sau này nên gả Tố Cơ lấy chồng. Nhưng đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo. Bởi vậy, kẻ hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ không theo loạn mệnh.”

Sau, Ngụy Khỏa gả Tố Cơ cho một danh sĩ. Vì có ân đức ấy, nên linh hồn của thân phụ Tố Cơ hiện lên để kết cỏ báo ơn.

Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều nhờ Sở Khanh dắt đi trốn, có lời tha thiết với họ Sở:

Rằng: Tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau

“Kết cỏ ngậm vành” là do những điển tích trên, ý nói thọ ơn bao giờ cũng đền đáp.

Xem thêm: ngậm vành.

kết tóc se tơ:

* Kết tóc: Theo phong tục xưa của Trung Quốc, trong đêm hiệp cẩn, tân lang và tân nương mỗi người tự cắt một nhúm tóc của mình rồi dùng sợi tóc dài nhất kết thắt lại với nhau, để biểu hiện vợ chồng mãi mãi yêu thương.

Tô Vũ (140 tCN-87 tCN):

Kết phát vi phu thê
Ân nghĩa lưỡng bất nghi.

Dịch:

Kết tóc làm vợ chồng
Ân nghĩa cùng một lòng.

Về sau, vì có câu thơ này cho nên “kết tóc” còn có nghĩa là kết hôn.

* Se tơ: xem mục Nguyệt Lão.

Ca khúc Ngày đó chúng mình – Phạm Duy

Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc – giam em vào lòng thôi

Video trình diễn sống, Ngọc Hạ & Trần Thái Hòa:
https://www.youtube.com/watch?v=v3NpLmm3Mmg

khanh tướng: khanh là chức quan cấp cao. Bên Tàu về thời Tam Ðại có Thượng khanh, Trung khanh, Hạ khanh, đến Tần, Hán chia ra làm Cửu khanh, thời Bắc Ngụy dưới chức Chánh khanh có Thiếu khanh, v.v… Tướng là cấp chỉ huy cao trong quân đội, hoặc quan lớn nhất trong hàng bá quan, giúp vua để trông coi việc nước. Khanh tướng nói chung là các quan to nắm quyền hành trong triều đình, giúp vua cai trị đất nước.

Ngô Thì Nhậm (1747-1803) là Binh bộ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng bây giờ) dưới trướng Nguyễn Huệ. Theo Đại Nam liệt truyện, trước kia, Đặng Trần Thường cùng với Nhậm ở Huyện Thanh Oai quen biết nhau. Khi Nhậm làm Binh bộ Thượng thư cho nhà Tây Sơn, Thường tới ra mắt Nhậm, nói đến việc đời. Nhậm nói: “Người quân tử quý ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì!” Và tỏ vẻ lấy vị thứ uy quyền lấn át Thường. Thường giũ áo đứng dậy đi. Khi về bảo người nhà rằng: “Ta sẽ giết tên giặc ấy”. Bèn có ý chí đi xa.

Sử sách viết về nhà Tây Sơn kể câu chuyện tương tự. Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm mắng Thường: “Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.” Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về rồi khăn gói vào Nam, đầu Nguyễn Phúc Ánh.

Kết cục đều như nhau: Đặng Trần Thường luôn mang trong lòng nỗi căm giận với Ngô Thì Nhậm.

Sau khi nhà Nguyễn đánh bại quân Tây Sơn, ngoài việc Nguyễn Ánh trả thù dòng tộc thân thuộc của Nguyễn Huệ và các vị võ tướng (như Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu…), Ngô Thì Nhậm cùng Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu. Trớ trêu thay, người chủ trì cuộc hành phạt đó lại là Đặng Trần Thường. Chính trong cuộc giáp mặt sau 15 năm không gặp này làm nảy sinh đôi câu đối bất hủ.

Tương truyền, trong lòng vẫn còn nhớ thù xưa bị Ngô Thì Nhậm đuổi đi, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai

Ra điều nói rằng ngày xưa ngươi là công hầu khanh tướng nhưng chưa hẳn là giỏi hơn ta, bằng chứng là bi chừ ngươi phải quỵ lụy dưới chân ta.

Ngô Thì Nhậm đối lại:

Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Ý nói rằng, gặp thời thế nào thì phải là vậy thôi, chứ không phải là ngươi giỏi hơn ta, đừng vội kiêu ngạo.

Câu đối thật chuẩn cả ý lẫn từ. Vế xướng của Đặng Trần Thường có chữ “trần”, là tên lót của Đặng, còn vế đối của Ngô Thì Nhậm có chữ “thời” đồng nghĩa với “thì”, là tên lót của Ngô.

Năm 1955, thủ lĩnh luật sư đoàn Việt Nam Cộng Hòa là Luật sư Tiến sĩ Vương Quang Nhường nhắc đến hai câu đối này khi biện hộ cho Tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt).

Ca khúc Chiều mưa biên giới – Nguyễn Văn Đông

Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay, gió cuốn
Còn nhiều anh ơi!

khải ca: khải có nghĩa hát mừng thắng trận, ca là bài hát.

Lục Vân Tiên:

May đâu sum hiệp một nhà
Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào.

khắc lậu: khắc là chạm khắc, lậu là thấm ra ngoài. Ngày xưa người ta dùng khắc lậu hay thủy lậu, tức là một cái bình bằng đồng, trong có để một cái thẻ khắc từng độ để chia thời gian. Bình đựng đầy nước, đáy bình có xoi lỗ. Nước thấm ra ngoài vơi lần, và người ta chỉ nhìn vào thẻ để xem giờ. Theo đồng hồ bây giờ định cứ mười lăm phút là một khắc, bốn khắc là một giờ. Theo nguyên ngữ, khắc lậu là nước rỏ thành khắc;  còn thủy lậu là nước rỏ xuống từng giọt. Khắc lậu có nghĩa bóng là thời giờ.

Đoạn trường tân thanh, tả thời khắc:

Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục: bộ sử lớn thứ hai của Việt Nam do Phan Thanh Giản làm chủ biên. Bộ sử này vừa tiếp thu được nhiều thành tựu của các sử gia tiền bối, đồng thời có nhiều đóng góp riêng có giá trị về sử học. Các nhà nghiên cứu ngày nay đều coi Đại Việt sử ký toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục là hai bộ sử quan trọng làm điểm khởi phát để nghiên cứu lịch sử Việt Nam.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục ghi chép từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang đến vua cuối cùng Nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Thống (năm 1789).

Bộ sử được Vua Tự Đức chỉ đạo cho Quốc sử quán biên soạn vào năm Tự Đức thứ 8 (1856), do Phan Thanh Giản làm tổng tài (chủ biên). Bộ sử được hoàn thành vào năm 1859, sau đó trải qua các lần “duyệt nghị” (1871), “duyệt kiểm” (1872), “phúc kiểm” (1876), “duyệt định” (1878), “kiểm duyệt” (1884), đến năm 1884 được khắc in và ban hành.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục được biên soạn theo thể biên niên dựa trên cơ sở Đại Việt sử ký toàn thưĐại Việt sử ký tục biên, có tham khảo các sách sử của Trung Quốc cùng các sách sử khác của Việt Nam. Bộ sách được viết theo thể “cương mục” của Chu Hi thời Tống, chia ra “cương” (phần tóm tắt gọn và sáng) và “mục” (việc chép rộng ra cụ thể hơn), theo thứ tự năm, tháng, ngày ghi chép sự kiện lịch sử, tiểu sử các nhân vật, lời cẩn án giám định một số sự kiện, nhân vật và niên đại trên cơ sở khảo chứng các sách sử, tư liệu của Việt Nam và Trung Quốc, lời chú thích tên người, tên đất, chế độ thi cử, tổ chức hành chính, rải rác có các lời phê của Vua Tự Đức.

Tài liệu tham khảo gồm khoảng trên 200 bộ, bao gồm dã sử, thơ văn, các tác phẩm của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú… cùng các sách sử của Trung Quốc.

Bộ sử đã được Viện Sử học Việt Nam dịch sang Việt văn trong giai đoạn 1957-1960.

khe Tào múc nước: Ðời Lương, có vị cao tăng là Trí Dược từ nước Thiên Trúc sang Ttung Quốc, thuyền đến cửa khe Tào Khê ở Triều Châu, thoáng thấy mùi thơm, múc nước lên nếm rồi bảo: “Thượng lưu dòng nước này có chỗ thắng địa”, bèn mở núi làm chùa gọi là Bảo Lâm.

khắc lậu: Ngày xưa dùng cái gáo đồng, giữa châm một lỗ cho nước dần dần rỏ xuống, dùng để định thời giờ, gọi là “khắc lậu” hay cũng gọi là “thuỷ lậu”. Theo nguyên ngữ, “khắc lậu” là nước rỏ thành khắc; “thuỷ lậu” là nước rỏ xuống từng giọt.

Đoạn trường tân thanh, đoạn tả thời khắc:

Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm sương.

Khiết Ðan: tên một tộc người chiếm miền Ðông Bắc Trung Quốc dựng nước, đến đời Ngũ Ðại đổi thành nước Liêu, về sau bị Kim diệt.

khoa bảng: Con số các nhân vật khoa bảng trong lịch sử Việt Nam thay đổi tùy theo nguồn. Theo Wikipedia dựa vào một số tài liệu, từ khi bắt đầu mở khoa thi (1075) đến khi chấm dứt (khoa thi cuối cùng tổ chức năm 1919), tổng cộng có 184 khoa thi với 2785 vị đỗ đại khoa (đỗ tiến sĩ và tính cả phó bảng), trong đó có 56 Trạng nguyên.

Trạng nguyên là học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa thi đình thời phong kiến ở Việt Nam của các triều nhà Lý, Trần, Lê, và Mạc. Đến triều Nguyễn bãi bỏ học vị Trạng nguyên.

Theo Wikipedia_Danh sách Trạng nguyên Việt Nam, một số ví dụ về những Trạng nguyên nổi tiếng nhất gồm có (tên và năm thi đỗ):

  • Lê Văn Thịnh 1075, Trạng nguyên đầu tiên.
  • Nguyễn Hiền 1247, Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất (đỗ lúc 13 tuổi)
  • Mạc Đĩnh Chi 1304
  • Nguyễn Nghiêu Tư 1448, Trạng nguyên lớn tuổi nhất (đỗ lúc 60 tuổi)
  • Lương Thế Vinh 1463, được gọi là Trạng Lường
  • Nguyễn Bỉnh Khiêm 1535, được gọi là Trạng Trình
  • Trịnh Tuệ /Trịnh Huệ 1736, Trạng nguyên cuối cùng

khóc dây cung: Sân triều nưới Sở có con vượn trắng rất thiêng, người giỏi bắn đến đâu cũng không bắn trúng được. Vua Trang Vương sai nhà thiện xạ là Dưỡng Do Cơ bắn. Do Cơ vừa xách cung mang tên ra chưa bắn mà con vượn đã ôm cây khóc. Lúc bắn vượn liền theo ngay mũi tên mà sa xuống.

Xem Dưỡng Do Cơ.

khóc lân: Xuân Thu, Cỏng Dương truyện: Mùa xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 tCN), trong một chuyến đi săn ở miền Tây, người đánh xe hộ thúc tên là Sư Thượng săn bắt được con lân què chân trước bên trái. Ai cũng cho là điều không lành, đem thả ra. Học trò ông là Nhiễm Hữu bảo với Khổng Tử. Khổng Tử đến xem trông thấy nói rằng: Thục vị lai tai! Thục vị lai tai! (Ai bảo Kỳ lân ra làm gì! Ai bảo Kỳ lân ra làm gì!). Nói rồi cầm vạt áo, che mặt mà khóc, cho rằng đời sắp suy loạn, đạo của mình đã đến lúc cùng, mới than rằng: Ðường ngu chi thế lân phụng du, kim phi kỳ thời lai hà dư? Lân hề, lân hề, ngã tâm ưu. (Thời Ðường Ngu lân phụng rong chơi, nay không phải thời mà đến là cớ sao? Lân này, Lân này, lòng ta lo buồn biết bao). Khổng Tử trở về nói rằng: Ngõ đạo cùng hy (Ðạo ta đã đến lúc rồi). Hai năm sau, Khổng Tử mắc bệnh, được 7 ngày thì mất.

Xem kinh lân.

khóc măng: Do chữ Khấp duẫn. Theo Tam quốc chí, Mạnh Tông (một trong “Nhị thập tứ hiếu”) người Giang Hạ đất Ngô thời Tam Quốc, tự Cung Vũ, thuở nhỏ theo học với Lý Túc ở Nam Dương, suốt ngày đọc sách không biết mỏi. Sau giữ chức Tư không. Ông là người chí hiếu. Mẹ ông thích ăn măng, mùa đông măng không mọc, ông vào rừng trúc đứng ôm cây trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc, ông bẻ đem về dâng mẹ. Khóc măng chỉ hành động hiếu thảo.

Lục Vân Tiên:

Suy trang nằm giá khóc măng
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa.

khói lang: từ chữ lang yên: khói đốt bằng phân chó sói – Dấu hiệu có chiến tranh.

Ngày xưa, khi biên thùy có giặc, người ta thường đốt khói bằng phân chó sói ở chòi cao để báo động cho nội địa biết. Sau đó, từ này được dùng để chỉ bọn giặc giã quấy phá biên cương.

Nhị Ðộ Mai:

Khói lang bụi ngựa tung hoành.

Khôi tinh:

1/ Theo thiên văn thời cổ, là ngôi sao đẩu của chòm sao Bắc Đẩu, ứng vào người thi đỗ trạng nguyên.

2/ Vị thần thủ hộ của học trò và người đi thi. Người Trung Quốc có thành ngữ “Khôi tinh điểm đẩu, độc chiếm ngao đầu” (văn tài lổi lạc, xếp vào hạng nhất). Từ đó, giới đọc sách (sĩ tử, quan lại) tôn thờ Khôi Tinh làm thần minh. Khôi tinh chiếm giữ vị trí độc tôn trong lòng mọi “người đọc sách”, là tiêu biểu cho công danh sự nghiệp tương lai của họ. Cho nên, học trò ngày xưa đi thi treo hình tượng Khôi tinh bên cạnh chỗ ngồi, thậm chí có người mang trong túi áo hình tượng thu nhỏ của Khôi tinh, để được phù hộ độ trì, đạt kết quả tốt trong học tập.

không vào hang hùm sao bắt được cọp con: đây là lời nói bất hủ của tướng Ban Siêu đời nhà Hán ở Trung Quốc. Ban Siêu người đất Bình Lăng. Cha là Ban Bưu, anh cả là Ban Cố, em gái là Ban Chiêu, đều là những người học vấn uyên thâm nổi tiếng một thời. Siêu cũng là người học rộng tài cao, hay thích biện luận.

Năm thứ năm, niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-76), Siêu theo anh và mẹ lên Lạc Dương. Nhà nghèo, phải viết mướn trong dinh quan Tri Phủ để kiếm tiền nuôi mẹ. Cuộc đời chật vật và vô vị đã khiến Ban Siêu chán nản uất ức. Đã nhiều đêm nằm trên chiếc chiếu rách, quạt phì phạch chiếc quạt nan, Siêu nhìn lại dĩ vãng mà đau lòng, rồi trông vào hiện tại mà lo lắng cho tương lai của mình và cả gia đình. Là một thanh niên có học thức, huyết chí phương cương, Ban Siêu không thể để cuộc đời trôi theo dòng đời một cách tầm thường, vô vị.

Một hôm, đang viết công văn cho quan phủ, Ban Siêu bỗng vứt mạnh bút xuống giường, hét lên một tiếng, khẳng khái nói: “Đại trượng phu sinh ra ở trên đời phải lập cho mình một sự nghiệp hiển hách mới thỏa chí bình sinh, chớ sao lại chịu chết già chốn bút nghiên đói lạnh này!” Đoạn Siêu bỏ đi.

Mười sáu năm sau, Đậu Cố vâng lệnh Vua Hán đem binh đánh Hung Nô, Siêu tùng quân, giúp nhiều kế hay, có công lớn, được phong chức Tư Mã.

Đậu Cố thấy Ban Siêu có tài bèn sai đi sứ cùng Quách Tuân sang Tây Vực.

Quách Tuân và Ban Siêu đến nước Thiên Thiện. Vua nước này tiếp đãi rất nồng hậu. Nhưng ít lâu sau, Siêu nhận thấy thái độ nhà Vua bỗng lạnh nhạt với mình nên sinh nghi. Tìm cách hỏi dò lính hầu thì mới biết nhà Vua nghe lời gièm pha của bọn sứ thần Hung Nô vừa mới đến đây vài ngày nên nhà Vua không ưa chuộng bọn Ban Siêu nữa. Là người thông minh quyết đoán, Siêu tiên đoán ngay tương lai nguy hiểm nên vội tìm cách đối phó.

Biết Quách Tuân là người nhu nhược nên Siêu không tính kế với hắn; chỉ triệu tập thủ hạ cả 36 người uống rượu bàn mưu. Rượu đã ngà ngà, Siêu lấy lời nói khích: “Anh em cùng tôi xa xôi ngàn dặm đến đây, ai cũng muốn lập công lớn để mong cầu phú quý. Sự nghiệp chưa thành mà nguy cơ đã đến. Hiện nay sứ Hung Nô vừa tới đã cố ý gièm pha, khiến Vua Thiên Thiện thay lòng đổi ý lãnh đạm với chúng ta. Nếu chẳng may chúng ta bị nhà Vua bắt nạp cho Hung Nô, chết uổng mạng nơi đồng hoang, làm mồi cho hổ báo, thì anh em liệu có cam tâm chịu chết nhục không?”

Bọn thủ hạ nghe nói vừa sợ vừa tức, đồng thanh nói: “Việc gấp rút như thế, sống chết xin theo lệnh ngài.”

Siêu bảo: “Không vào hang hùm sao bắt được cọp con. Chúng ta bây giờ thừa đêm tối trời, xông vào đốt phá dinh trại Hung Nô. Xuất kỳ bất ý hẳn phải toàn thắng.”

Thế rồi, vào canh ba đêm đó, Siêu dẫn thủ hạ đến gần trại Hung Nô, chia làm hai đội. Một đội phục đằng sau có đủ khí giới trống chiêng; một đội phục đằng trước, tay sẵn sàng cung tên chờ lệnh.

Quân Hung Nô ngon giấc.

Ban Siêu tức tốc hạ lệnh nổi lửa đốt trại. Lửa bốc cháy. Khói mù mịt. Lửa theo gió, gió thổi lửa. Gió lửa tung hoành trong bầu trời mù mịt bóng đêm. Quân Hung Nô choàng dậy, hoảng hốt, kêu khóc vang dầy, bỏ chạy tán loạn.

Phục binh của Siêu nhất tề đứng dậy, hò hét inh ỏi. Kẻ dùng tên bắn, người dùng giáo đâm, kẻ dùng đao chém. Chỉ trong chốc lát, quân Hung Nô bị mất ba bốn chục đầu. Còn hơn trăm tên khác đều bị cháy trong đống lửa, không một kẻ thoát thân.

Thắng trận, Ban Siêu lên mặt, hạ lệnh đòi Vua Thiên Thiện đến, cho xem mấy chục thủ cấp Hung Nô. Vua sợ hãi quá, phải xin hàng làm thuộc quốc Hán triều. Hoàn thành nhiệm vụ, Ban Siêu trở về nước, được Vua Minh Đế khen thưởng, phong chức quan Tư Mã, ban cho 200 tấm vải.

Sau Ban Siêu còn lập nhiều chiến công vĩ đại nữa là đánh bại nước Quy Tư, uy danh lẫy lừng. Suốt cõi Tây Vực, 50 nước rải rác khắp bắc đạo cũng như nam đạo đều phải dâng biểu triều cống nhà Hán, Siêu được Vua Hán trọng đãi phong chức Đinh Viễn Hầu.

Sau 31 năm tung hoành Tây Vực, Ban Siêu đã 71 tuổi.

Trong tác phẩm Chinh phụ ngâm, bản dịch của Đoàn Thị Điểm, có câu:

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.

“Hang beo” hay “hang cọp” (hổ huyệt) cùng đồng nghĩa để chỉ chỗ nguy hiểm.

khối tình: Theo sách Kiều Oánh Mậu chú, Tại vùng Trúc Giang có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một nàng thôn nữ tên Tần Thúy Hải. Cả hai yêu nhau thắm thiết, nguyện cùng kết tóc, xe tơ cho đến ngày răng long tóc bạc. Quan Diệp Nhược thường đi buôn bán nơi xa. Mỗi chuyến đi có cả hàng tháng. Và, mỗi chuyến đi như thế, chàng đều có hẹn ngày về với nàng. Đúng ngày, nàng Tần Thúy Hải đến đón người yêu. Lần nào cũng đúng hẹn cả.

Thời gian xa nhau không lâu nhưng họ đều cảm thấy dài đăng đẳng. Nỗi nhớ thương vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng vì sự nghiệp, họ đành phải chịu đựng và cầu mong ngày tái ngộ.

Mùa thu năm ấy, ngô đồng vừa rụng lá, Quan Diệp Nhược lại phải từ giã, tạm chia tay cùng người yêu, lên đường sang Hồ Bắc buôn châu báu với mấy người bạn. Cũng như thường lệ, nàng Tần ra tiễn Quan hẹn ngày này tháng sau sẽ trở về.

Nhưng chuyến này lại khác.

Đến ngày hẹn, nàng Tần trang điểm, hớn hở vui tươi để ra đón người yêu. Nàng mỏi mắt trông chờ suốt ngày đêm mà không thấy bóng chàng trở về. Rồi ngày này sang ngày khác, mấy lần thu qua đông đến nàng mỏi mòn chờ đợi, nhưng người yêu xưa lại chẳng thấy về, tin tức cũng vắng bặt. Hay là chàng đã bỏ mình nơi đất khách quê người? Nàng quằn quại sống trong cảnh sầu thương, mong nhớ.

Rồi, một ngày đông lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng cả vòm trời, nàng Tần trút hơi thở trên giường bệnh.

Theo tục lệ ở địa phương, những gái tiết trinh chết được hỏa táng thi hài. Lửa đã đốt cháy người trinh nữ, xương thịt nàng Tần đã trở thành tro bụi, nhưng khi người ta bới đám tro tàn lạnh lẽo ấy bắt gặp một quả tim đóng thành một khối long lanh như ngọc. Lửa không sao đốt cháy, búa đập cũng không tan. Ai cũng lấy làm lạ, cho đó là khối tình u uất của nàng vì tương tư thương nhớ người yêu, vì quá đau khổ nỗi duyên phận bẽ bàng… Tuy thân xác đã tiêu tan mà khối tình vẫn còn mãi mãi.

Nhưng rồi, một hôm Quan Diệp Nhược lại trở về. Sở dĩ chàng sai lời hẹn ước vì chàng gặp phải tai nạn bất ngờ. Ngày về giữa đường chàng bị giặc cướp cả tiền bạc, thuyền bè, làm chàng phải lênh đênh phiêu bạt, lại lâm trọng bịnh, tưởng là bỏ xương nơi đất khách.

Cảm thương người yêu vì quá thương nhớ mình mà chết, Quan Diệp Nhược lấy làm đau đớn vô cùng. Chàng cầm lấy quả tim thành ngọc của người yêu mà khóc nức nở. Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống thì viên ngọc ấy lại tan ra hòa theo giọt nước mắt của chàng.

Việt Nam cũng có một truyện tương tự như trên. Xem Trương Chi, Mỵ Nương.

Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều bán mình, nhớ Kim Trọng mà bẽ bàng:

Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Thăm mả cũ bên đường – Tản Ðà:

Hay là thuở trước bậc tài danh
Ðôi đôi, lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận, hờn ân ái
Ðất khách nhờ chôn một khối tình

“Khối tình” chỉ tình chung thủy giữa nam nữ.

không, sắc: Theo thuyết nhà Phật, phàm cái gì giác quan không cảm thấy được thì gọi là “không”, cái gì giác quan cảm được thì gọi là “sắc”.

không đội trời chung: Từ chữ bất cộng đới thiên.

Kinh Lễ quy định thái độ đối với các loại kẻ thù: Kẻ thù của cha, của anh, của bạn. Ðối với kẻ thù của cha thì không được đội trời chung.

khổ tận cam lai: khổ là đắng, cam là ngọt. Thành nghĩa này có ý nói hết thời cay đắng thì đến thời ngọt bùi.

Đoạn trường tân thanh:

Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai?

Khổng Tử: Theo Wikipedia_Khổng Tử, Khổng Tử hoặc Khổng Phu Tử là danh hiệu tôn kính của hậu thế cho Khổng Khâu hay Khổng Khưu (551–479 tCN) tự Trọng Ni. Ông được suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho giáo, đồng thời là giảng sư và triết gia lỗi lạc. Trí tuệ và công đức của Khổng Tử được đúc kết trong mỹ tự Vạn thế sư biểu.

Con cháu Khổng Tử kế thừa truyền thống tổ tiên, thế hệ nào cũng ghi chép gia phả để nhắc nhở con cháu về công lao của tổ tiên. Năm 2005, dòng họ Khổng Tử được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là gia tộc có bộ gia phả lâu dài nhất trong lịch sử thế giới, với 86 thế hệ con cháu được ghi chép lại đầy đủ, trải dài trên 2.500 năm Bộ gia phả không chỉ có giá trị to lớn với con cháu Khổng Tử, mà còn là tư liệu quý để tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc trong 2.500 năm qua.

Khổng Tử ban đầu ra làm quan nước Lỗ, sau không được Vua Lỗ dùng, ông đi khắp nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Sau trở về Lỗ mở trường dạy học.

Ông san định Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, tán Kinh Dịch, tu sửa Kinh Xuân Thu của tiền nhân. Học trò của ông hơn 3000 người.

Khuất Nguyên (khoảng 340–278 tCN): nhà thơ vĩ đại và sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc, tác giả chính của những bài Sở từ nổi tiếng. Sở từ là một hình thức ca dao mới được Khuất Nguyên và một số người khác làm ra trong khoảng thế kỷ 3-4 tCN trên cơ sở gia công, sáng tạo và phát triển từ những ca dao dân gian đương thời; có thể coi Sở từ là một loại văn xuôi có vần, đến đời Hán mới được tập hợp chung lại thành tập sách.

Khuat Nguyen
Tranh minh họa Khuất Nguyên

Khuất Nguyên là người trong hoàng tộc nước Sở, tài cao học rộng, giỏi về chính trị, lại có tài về văn chương. Ông làm chức Tả đồ cho Sở Hoài Vương là chức vụ quan trọng trong triều đình, hết lòng vì nước vì vua, giúp vua bàn quốc sự và ra hiệu lệnh, tiếp đãi khách khứa, ứng đối chư hầu.

Song nước Sở lúc này đã suy yếu. Sở Hoài Vương tin dùng bọn gian thần, ngày càng tăm tối u mê. Khuất Nguyên là người trung thực ra sức can ngăn và nêu ra những biện pháp tích cực cứu nước, cứu dân. Bọn cận thần xấu thì ra sức mê hoặc Hoài Vương, do ghen tức với Khuất Nguyên, nhiều lần vu cáo hãm hại ông. Một vị đại phu ghen tài ông, vu cho ông khoe với mọi người rằng: “Mỗi lần nhà Vua ra lệnh, đều do công ta nghĩ ra cả”. Vua lạnh nhạt với ông và cuối cùng đày ông đi xa.

Không có Khuất Nguyên, bọn gian nịnh càng ra sức tung hoành. Rút cục Sở Hoài Vương bị Tần đánh thua rồi chết ở đất Tần. Con trai là Khoảnh Tương Vương nối ngôi lại càng ngu tối hơn, mời Khuất Nguyên trở lại rồi vẫn nghe theo lời gièm pha của bọn bán nước hại dân, một lần nữa đày ông đi xa hơn nữa.

Khuất Nguyên ở nơi đi đày ngày đêm đau khổ, biết cách cứu nước mà không làm được, thương xót nhân dân mà chịu bó tay, ông đau đớn cực độ, làm nhiều thơ bi phẫn, Ông thất chí, suốt ngày ca hát như người điên.

Lòng yêu nước và nỗi niềm phẫn uất trước thời cuộc được Khuất Nguyên thể hiện trong những tác phẩm bất hủ như Ly tao, Thiên vấn, Thiệp giang, Ai sinh, Hoài ca, Trừu tư, Quốc thương…. Những tác phẩm này phản ánh lý tưởng cao đẹp và tinh thần bất khuất của ông. Trong sáng tác, Khuất Nguyên thường vận dụng nhiều thần thoại, truyền thuyết với trí tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ trong sáng, bay bổng. Sáng tác của Khuất Nguyên là mẫu mực của thơ ca lãng mạn cổ đại Trung Quốc.

Ly Tao nghĩa là xa vua mà buồn. Đây là một tác phẩm bất hủ của ông, dài 370 câu tả tâm sự của tác giả. Đặc sắc của bài trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại.

Bài Thiên vấn (hỏi Trời) của ông cũng là một kỳ văn, tuy kém thiên Ly tao về phương diện nghệ thuật nhưng giọng lại ai oán cùng cực. Ông hỏi Trời một loạt 172 câu. Sức tưởng tượng của ông thật vô địch.

Tình cảm của ông luôn luôn thay đổi một cách kỳ dị. Vừa vui đã buồn, vừa cười đã khóc. Vừa muốn đi xa lại đổi ý. Đòi lên chầu Thượng Đế lại muốn trở về cố hương, rồi lại muốn tự tử. Tình cảm của ông biểu hiện một cách trung thực: mỗi chữ là một tiếng thở dài lâm ly, một giọt nước mắt não ruột. Ít có một văn nhân nào đau khổ, thác loạn đến thế.

Năm Khuất Nguyên trầm mình cũng là năm tướng Tần là Bạch Khởi chiếm Sính Đô, kinh đô của nước Sở, nước Sở bị diệt.

Sau khi Khuất Nguyên qua đời, người nước Sở mỗi năm đến ngày Trùng ngũ (mồng 5 tháng 5) có nhiều hoạt động để tượng trưng cho sự thương tiếc ông, như lễ đua thuyền ý là để vớt thây Khuất Nguyên, làm loại bánh ú ném thật nhiều xuống sông cho cá tranh nhau ăn ý để khỏi rỉa cắn ông, đánh trống phách thanh la ý để xua đuổi những thuồng luồng cá ác, bảo vệ cho thi thể ông… Từ đó những tập tục đó mà thành ra tiết Đoan ngọ.

Ca dao:

Ăn Tết Đoan Ngọ trở về tháng năm

Xem thêm: Ðoan ngọ, Ly tao.

Khuê oán: tác phẩm tiêu biểu của Thi Thiên tử Vương Xương Linh, một trong những tác giả lớn thời Thịnh Đường. Khác với những bài thơ thuộc chủ đề biên tái, miêu tả tâm trạng, tình cảm… của người trực tiếp ra chiến trận, Khuê oán mang nỗi sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến. Khuê oán thường được một số dịch giả, nhà nghiên cứu Việt Nam chọn làm ví dụ tiêu biểu cho khoảnh khắc đốn ngộ trong Đường thi Trung Quốc.

Trong bao nhiêu ẩn ngữ của một bài thơ tứ tuyệt như Khuê oán, Thi Thiên tử cũng dụng phép vẽ mây nẩy trăng, giữ được lời ít mà ý nhiều, lời hàm súc chứa ý mênh mang nên không thấy có lời nào khuê oán mà rất nhiều khuê oán; thậm chí nói một mà hàm chứa bao nhiêu hình ảnh khuê oán lúc bấy giờ. Tài của thi nhân và cũng là tuyệt của thể loại bốn câu bảy chữ trong Đường thi chính là chỗ này vậy!

Khuê oán – Vương Xương Linh

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang(A) thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(A) Ngưng trang: trang điểm tỉ mỉ

Nỗi oán trong phòng khuê – Ngô Tất Tố dịch thơ

Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.

Bài thơ thể hiện tâm trạng người thiếu phụ nơi phòng khuê trong những năm tháng mà người chồng thân yêu đang xông pha, đang gối đất nằm sương trên chiến địa. Người thiếu phụ được nói đến trong Khuê oán sống trong chốn lầu son gác tía, trong những lầu đẹp (thúy lâu). huê phụ chợt nhìn thấy sắc màu dương liễu mà hối hận (hối giao) vì mình đã để chồng đi tòng chinh mong kiếm ấn phong hầu.

Khue oan

Chinh phụ ngâm, đoạn lấy từ ý bài Khuê oán:

Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu
Chợt ngoảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong

Khuông Sơn: còn được gọi là Lư Sơn, Lô Sơn hoặc Khuông Lư, nằm ở Tỉnh Giang Tây, miền Nam Trung Quốc. Khuông Sơn ba mặt là nước, một mặt đất liền. Trước mặt, phía nam, là sông Trường giang đổ vào khúc Cửu Giang. Phía tây là bến Tầm Dương, phía đông là bến Bành Lãi. Núi có bảy ngọn lớn chập chùng, chân núi chiếm một khoảng rộng chừng năm trăm dặm.

Tương truyền, trong buổi giao thời giữa nhà Thương và nhà Chu, trên một nghìn năm trước Tây lịch, có người tên Khuông Tục lánh đời, đến ẩn dưới núi, lập nhà tranh (lô) ở đó, và sau đắc đạo tiên. Vì vậy, núi được gọi là Lô Sơn, hoặc Khuông Sơn.

Đời Tam quốc, có đạo gia Đổng Phụng chân nhân đến tu tiên và luyện đan tại đây. Bấy giờ Thái thú Giao chỉ là Sĩ Nhiếp mất đã ba ngày; tiên ông cho một hoàn thuốc, cạy răng đổ vào miệng, đổ nước vào, rồi nâng đầu lên cho thuốc chạy xuống cổ. Trong khoảng bữa cơm, nhan sắc tươi lại như thường. Một nửa ngày, đứng dậy, đi lại được. Bốn ngày sau, nói năng như bình thường.

Đến đời Đường, có Từ Tri Chương làm bài ký cho miếu thờ của Chân nhân. Đến thời Đông Pha, người ta vẫn còn đọc được bài ký đó.

Thời Đông Tấn, tăng Tuệ Viễn cất am tu ở đó, nơi sườn núi bắc; phía dưới có khe Hổ khê, nơi Tuệ Viễn dừng chân mỗi khi tiễn khách; và trọn đời thề không bước qua khe đó. Sư cùng mười tám người bạn cùng ẩn cư tại chùa Đông Lâm, đời sau kính trọng, gọi họ là “Đông lâm thập bát hiền”.

Trải qua nhiều đời, Khuông Sơn càng quyến rũ, từ đạo gia, tăng lữ, công khanh, văn sĩ, thi sĩ, vân vân. Từ Tấn cho đến Đường, Tống, đã có rất nhiều bài thơ lưu đề rất nổi tiếng, từ Tạ Linh Vân, Bảo Chiêu cho đến Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, vân vân.

Bài thơ Bất kiến của Đỗ Phủ có câu Khuông Sơn độc thu xứ (Nơi xưa đọc sách Khuông Sơn) có lẽ ý nói đến cách Khuông Tục lánh đời, ở ẩn.

khuynh quốc: xem mục nghiêng nước.

khuynh thành: xem mục nghiêng thành.

khúc Biệt hạc: Chàng mục tử ở Thương Lăng lấy vợ, 5 năm không có con, cha mẹ định lấy vợ khác cho. Người vợ nghe tin. Ðương đêm khóc lóc. Mục Tử cảm động làm ra khúc hát Biệt hạc.

khúc đàn Thủy Tiên: Đất Kim Lăng bên Trung Quốc là nơi phồn hoa đô hội, thường dùng làm kinh đô cho các triều đại lâu đời. Ở đây có nhiều nơi danh thắng, khiến cho mặc khách tao nhân không ai là không muốn lưu liên thưởng ngoạn. Nhất là trên sông Tần Hoài, bên hồ Mặc Sầu, vào khoảng mùa xuân mát mẻ, những cành cây xanh, nước biếc, núi lam cũng đủ cung ngoạn cho các mặt tài tử giai nhân.

Có một chàng tên Giang Thu San, quê ở An Huy, vốn người phong nhã, tính ưu ngao du sơn thủy. Gặp buổi ngày xuân, chàng liền rủ bạn sang Kim Lăng thưởng xuân. Đến nơi nghe đồn trong vùng có một tuyệt thế giai nhân tên Thủy Tiên Tử, nổi tiếng danh cầm, gần xa ai cũng bái phục. Động lòng hâm mộ, họ Giang cùng bạn cố tình tìm hỏi cho được đến nơi.

Buổi đầu gặp gỡ, để xin nghe tiếng đàn, Thu San hết sức van nài, mới được nàng chấp thuận. Đoạn, nàng ung dung vặn trục dạo tiếng cho nghe.

Thoạt khi tay tiên đặt đến tơ đồng, chỉ nghe khoan khoan nhè nhẹ, vẳng xa như có như không. Dần dần thi thấy vẻ người trầm lặng, hai tay thoăn thoắt nhanh nhanh. Rồi tiếng đàn chuyển sang giọng dồn dập sôi nổi như gió gào gió thét, như chen với tiếng muôn quân nghìn ngựa xình xịch đổ tới. Kế đó, lại nổi giọng nỉ non réo rắt như oán, như than, khiến người ngồi nghe mê mẩn tâm thần như phiêu diêu chốn non Bồng, nước Nhược.

Một lúc đàn im, Thu San từ từ định tỉnh và hỏi khúc đàn gì? Thủy Tiên Tử đáp: “Đây là khúc Thủy Tiên, tiện thiếp phỏng theo khúc Thủy Tiên Tháo của tay danh cầm ngày xưa là Bá Nha mà sáng tạo nên.”

Thu San hỏi nguồn gốc, nàng ung dung kể lại rằng: “Ngày xưa, Bá Nha học đàn của ông Thành Liên. Được ba năm thì đàn đã hay nhưng chưa nhập điệu. Thành Liên bảo: “Thầy ta là Tử Xuân ở ngoài biển cả, có thể dùng đàn làm thay đổi lòng người. Vậy ta cho ngươi ra đó để học thêm.”

Đoạn dẫn Bá Nha xuống thuyền ra một hòn đảo giữa biển khơi, bảo Bá Nha ở đợi, ông sẽ đón thầy đến. Rồi dong thuyền đi thẳng, không thấy trở lại. Bá Nha một mình ở giữa đảo, chỉ thấy núi rừng mờ mịt, tiếng nước biển vỗ dồn dập, réo rắt chung quanh, chim chóc kêu rên bi thiết. Bá Nha cảm thấy buồn lạnh cả người, bất giác thở dài than: “Thầy ta muốn làm thay đổi tính tình ta đây…”

Đoạn cầm đàn trổi lên một khúc. Vừa dứt khúc, đã thấy Thành Liên quày thuyền trở lại đón. Từ đấy, Bá Nha nổi tiếng là bậc danh cầm; và khúc đàn ấy đặt tên là Thủy Tiên Tháo. Tiện thiếp rất say mê khúc đàn đó nên mới mượn để đặt làm tên”.

Thu San nghe xong, thán phục. Đoạn thở dài, nói với nàng: “Xưa nay, tôi vẫn cho lời thơ ấy diễn tả quá đáng. Nhưng hôm nay, diễm phúc nghe được điệu đàn của quý nương mới nhận thấy lời cổ nhân thật bức thiết chân tình.”

Thủy Tiên Tử khiêm tốn từ tạ, đoạn sai thị nữ pha trà thủy tiên ra thết khách.

Bọn Thu San nâng chén nước uống, nghe thoang thoảng mùi thơm thanh nhã, khác hẳn với các vị hương trà quý thường dùng hằng ngày. Bất giác, ai cũng cảm thấy khoan khoái tinh thần như hiện thân như tiên cảnh.

Từ tạ ra về nhưng lòng khách vẫn quyến luyến, nao nao tưởng nhớ. Nơi quê hương, không lúc nào không nhắc nhở đến Thủy Tiên.

Mùa xuân năm sau, Thu San chạnh lòng nhớ người năm cũ, lần mò tìm đến Kim Lăng, mong lại được nghe tiếng đàn tuyệt diệu của con người ngọc. Nhưng đến nơi thì khách giai nhân ngày xưa vắng bặt, chỉ thấy cây xanh nước biếc một màu!

Khúc Giang Công: tức Trương Cửu Linh, là hiền tướng đời Ðường, người đời vẫn tôn xưng là Khúc Giang Công mà không ai nỡ gọi tên tục của ông. Ông từng tiến vua sách Thiên thu kim giám lục được nhà vua khen thưởng. Sau ông bị tên Lý Lâm Phủ gièm pha. Ðể giữ mình, ông bỏ tước vị về nhà… Thiên hạ tiếc mãi cho đức tài của ông.

Khúc Nam Huân: tên khúc hát tương truyền của Vua Thuấn đặt ra, có lời rằng: “Gió nam mát mẻ chừ, có thể giải cơn gió nóng của dân ta. Gió nam đúng thời chừ, làm cho dân ta giàu có.”

Khúc Nam Quân: khúc tình ca nổi tiếng về độ ngắn, cả thẩy chỉ gồm 2 nốt 1 nhịp, tả tâm trạng tha hương của người thiếu nữ phương Nam.

Khúc Phụ: quê hương của Khổng Tử, vì thế nói đế Khúc Phụ là chỉ Khổng Tử.

Khúc Phượng cầu hoàng: tên khúc đàn do Tư Mã Tương Như trình bày trong khi Trác Văn Quân đứng sau rèm lắng nghe.

Cảm nhận của Tịnh Tâm (2018): Bằng tài năng của mình, Tương Như tức khẩu thành nhạc, nhạc khúc mà ông chơi mang âm hưởng da diết, như lời cầu hôn tha thiết gửi tới Trác Văn Quân.

Tương Như cất lên tiếng lòng với mong muốn kiếm tìm được một tri âm tri kỷ, có thể hiểu được tiếng đàn mà ông chơi, có thể hòa cùng hồn thi ca của ông. Chặng đường tìm kiếm trời nam bể bắc mà chẳng thấy một ai, tâm tư buồn vời vợi. Nhưng nay gặp được nàng rồi xin cùng ta vui hưởng năm tháng sống trên đời, cùng thi ca tấu nhạc cho thỏa nỗi lòng để rồi phiêu du chốn đất trời mênh mông. Tiếng đàn với kĩ nghệ điều tiết âm từ các dây tạo lên tiếng lòng nỉ non mà có lẽ chỉ có mình Văn Quân mới hiểu. Có lẽ đó là lý do mà khi Văn Quân nghe tiếng đàn mà hiểu nỗi lòng của Tương Như, dám bỏ trốn, vượt qua rào cản và những định kiến mà đi theo tiếng gọi của tình yêu.

Tri kỷ khó tìm, mà nay chỉ với tiếng đàn mà nàng Văn Quân xinh đẹp hiểu thấu tâm tình của mình, điều đó đã nói lên được rằng tài năng thưởng nhạc và cảm nhạc của Trác Văn Quân cũng chẳng hề kém cạnh so với Tư Mã Tương Như.

Đây được coi là lời cầu hôn bằng âm nhạc tuyệt vời nhất thời đó. Nhạc khúc không chỉ là một tác phẩm âm nhạc đơn thuần, mà nó còn phô diễn tài năng chơi cổ cầm của Tư Mã Tương Như.

Bích Câu kỳ ngộ:

Cầu hoàng tay lựa nên vần
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào?

Đoạn trường tân thanh:

Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!

Ca khúc Tà áo Văn Quân – Phạm Duy Nhượng

Tư Mã người ơi, dừng đàn bên Văn Quân
Nâng phím hào hoa, kề làn môi giai nhân
Về nhà bên suối, cung đàn ấp má đào
Mộng chưa tàn khúc, Phượng Cầu lưu luyến nhau

Lệ Thu – https://www.youtube.com/watch?v=9JHa4bQ3j9Y

Xem thêm: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

Khúc Quảng Lăng: Thông chí: Kê Khang một hôm đến chơi ở Lạc Tây, trọ ở Hoa Dương Dinh. Ðêm ngồi gảy đàn chợt có một người khách đến tự nói mình là người thời cổ rồi cùng Khang bàn âm luật, nghĩa lý rành rọt thấu đáo lắm. Nhân đó, ông khách lấy đàn khẩy mà soạn nên Khúc Quảng Lăng tán, lời điệu cực hay rồi trao cho Khang và dặn không được truyền lại cho người khác. Về sau Kê Khang bị Tư Mã Chiêu sát hại, khúc Quảng Lăng vì thế mà bị thất truyền.

Đoạn trường tân thanh:

Kê Khang này khúc Quảng lăng
Một rằng Lưu thủy, hai rằng Hành Vân

Khúc Trường tương tư: Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý (905-955), ở Tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có Ý Nương, con gái của Lương Công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ. Ở trọ nhà có chàng Lý Sinh, một hàn sĩ mỹ mạo tuấn tú.

Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưởng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai thường tìm cách lui tới.

Lương Công biết được, tức giận đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau đớn, từ đó sinh ra bịnh tương tư triền miên, mới làm khúc Trường tương tư mong gởi nguồn tâm sự cho người yêu biết. Trong bài có những câu rất lâm ly ai oán:

Trường tương tư (Tương tư dài) – Lương Ý nương:

Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để tương tư bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn.

Ngã tại Tương Giang đầu
Quân tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
.

Vũ Ngọc Khánh dịch thơ:

Người bảo sông Tương sâu
Tương tư sâu gấp bội
Sông sâu còn có đáy
Tương tư chẳng bến bờ

Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương.

Lý Sinh tiếp được, đọc xong, cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ với Lương ông, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Ông trước còn dùng dằng, sau đọc được khúc Trường tương tư của con, lấy làm cảm động nên vui lòng cho Sinh thành mối lương duyên.

Khương Tử Nha: tự Tử Nha, nên nhiều tài liệu ghi là Khương Tử Nha (1156–1017 tCN), khai  quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là quân chủ khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Do là vị quân chủ đầu tiên của nước Tề, nên thông thường còn được gọi là Tề Thái Công, còn gọi là Khương Thái Công, Thái Công Vọng hay Lã Vọng.

Theo Sử ký, tổ tiên ông có công, được phong đất ở Lã nên lấy tên đất phong làm họ, gọi là Lã Thượng. Ông sống cuộc đời cùng khốn cho đến già. Cuối đời nhà Thương (1783-1154 tCN), Trụ Vương hoang dâm tàn bạo, giết chóc trung thần, sinh linh đồ thán. Khương Thượng làm quan nhà Thương, thấy Trụ Vương vô đạo, can gián không được, xin từ quan về câu cá ở Sông Vị đất Tây Kỳ để sinh sống..

Chu Văn Vương đi săn và gặp Lã Vọng đang câu cá. Văn Vương hỏi ông: “Ðặt kế hoạch thu dụng lòng người như thế nào để dân về theo mình?”

Khương Thượng đáp: “Dân không phải là dân của một người. Dân là của dân. Nếu biết chung quyền lợi với dân thì được dân. Trái lại, chiếm cái lợi của dân thì mất dân. Trên trời có thời tiết, dưới đất có của cải tất phải được mọi người cùng hưởng, ấy là ‘nhân’. Cứu được cái chết cho người, giải được sự khó khăn cho người, cứu được hoạn nạn cho người, giúp được sự cấp bách cho người ấy là ‘đức’. Ðối với mọi người cùng lo, cùng yêu, cùng vui, cùng ghét, cùng buồn ấy là ‘nghĩa’. Phàm là người ai cũng sợ chết ham sống, yêu đức mà theo lợi hay vui sống mà theo lợi ấy là ‘đạo’. Như vậy, khi đã có nhân, đức, nghĩa, đạo tất dân sẽ theo.”

Văn Vương lại hỏi: “Thiên hạ mênh mông, rực rỡ thế mà có lúc đầy lúc vơi, lúc trị lúc loạn là tại sao? Tại vua hiền hay bất hiền, hay tại thiên thời biến hóa mà ra?”

Ông đáp: “Vua không hiền thì nước nguy và dân loạn. Vua là bậc hiền thánh thì nước yên dân trị. Họa phúc của dân, của nước là ở vua chớ không phải ở thiên thời.”

Sau khi nói chuyện với ông, Văn Vương lấy làm hợp ý lắm, nói: “Tiên quân của ta có nói: ‘Thiện có thánh nhân đến giúp nhà Chu, nhà Chu sẽ hưng thịnh’. Chính ngài là thánh nhân đó chăng? Vua cha ta trông mong ngài đã lâu lắm rồi đó.” Vì vậy mới đặt tên hiệu cho ông là Thái Công Vọng (Người vua cha trông mong).

Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập nên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở nên nổi tiếng trong văn hóa Đông Á qua điển tích Thái Công điếu ngư (Thái Công câu cá) hay còn gọi là Lã Vọng câu cá. Hình tượng của ông còn trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa, một tác phẩm thần thoại dã sử nói về sự quật khởi của Chu Vũ vương chống lại chính quyền của Đế Tân.

Khuong Thuong
Tranh minh họa Khương Tử Nha

Văn Vương mời Lã Vọng ngồi sau, rước về kinh tôn làm thầy. Lã Vọng giúp Văn Vương và con là Vũ Vương dựng nên nghiệp lớn nhà Chu. Vũ Vương phong ông là Sư Thượng phụ (Bậc thầy kính trọng ngang cha). Vũ Vương diệt Trụ, lấy được thiên hạ, phong đất Doanh Châu nước Tề cho ông.

Tương truyền ông có soạn bộ binh thư là Lục thao gồm 6 quyển.

Bạch Vân quốc âm thi tập:

Kìa kìa Lã Vọng câu bàn thạch
Nọ nọ Nghiêm Quang náu phủ xuân.

kiến nghĩa bất vi: từ câu kiến nghĩa (ngãi) bất vi vô dõng dã (thấy điều nghĩa không làm chẳng phải là dũng sĩ).

Lục Vân Tiên:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Kiềm Lâu: Là một bậc cao sĩ nhà nghèo, lúc chết chỉ có một cái áo che kín đầu thì hở chân, che kín chân lại hở đầu.

kiềng canh nóng thổi rau nguội: từ chữ Trừng canh xuy tê, là do rút gọn từ câu Trừng thang canh nhi xuy lãnh tê trong Sở từ. Ý nói kinh nghiệm xương máu, những tổn thất đã qua mà từ đó rút ra bài học cảnh giác.

Kiều Tùng: Vương Tử Kiều và Xích Tùng Tử, là hai vị tiên. Liệt tiên truyện: Vương Tử Kiều là Thái tử của Linh Vương nhà Chu, tên Tấn, thích thổi sáo, học tiếng chim Phượng. Ông đi chơi cõi Doãn gặp đạo sĩ Phù Khâu Công. Khâu Công đón Kiều lên núi Tung sơn tu luyện hơn 30 năm, sau cỡi hạc bay lên cõi tiên. Xích Tùng Tử là Vũ sư thời Thần Nông, theo gió mưa mà đi lại, vào lữa không cháy, thường lui tới núi Côn Lôn, ở nhà đá Tây Vương Mẫu. Con gái Vua Viêm đế theo Xích Tùng Tử học đạo tiên.

kiều tử: chỉ cha con: cây kiều (cao to) và cây tử (thấp). Thượng thư đại truyện: Bá Cầm và Khang Thúc đến yết kiến Chu Công, 3 lần đến thăm, 3 lần bị trách. Khang Thúc sắc mặt sợ hãi bảo Bá Cầm: Có Thầy Thương Tử là người hiền, nay tôi cùng anh đến yết kiến. Hai người bèn đến yết kiến Thương Tử, Thương Tử nói: “Phía nam Núi Nam (tên Hàn-Việt: Nam Sơn) có một loài cây tên là kiều, hai anh đến đó xem cậy đi.” Hai người bèn đến xem thì thấy cây kiều cao vút lên trên, trở về thưa với Thương Tử. Ông này nói: “Kiều là đạo của người cha. Phía bắc Núi Nam có loài cây tên là tử, hai anh đến đấy xem đi”. Hai người đến xem thì thấy cây tử thấp mà rũ xuống, trở về thưa với Thương Tử. Tử nói: “Tử là đạo làm con”.

Hoa Tiên:

Tình kiều tử dạ quê hương
Dù cay đắng cũng phận thường nghi sao.

kiểu táng: kiểu là cỏ, táng là chôn; kiểu táng là dùng cỏ bọc mà chôn vì không có hòm. Nghĩa bóng: an táng một cách sơ sài.

Đoạn trường tân thanh, Hồ Tông Hiến nghe Kiều kể về Từ Hải:

Hồ công nghe nói thương tình
Truyền cho kiểu táng di hình(A) bên sông.

(A): di hình tức là di hài.

kiện sừng sẽ: ý nói kiếm cớ vu vơ mà bày trò kiện tụng người ta. Kinh Thi ghi: Ai bảo chim sẻ không sừng (nếu không sừng) nó lấy gì đục được nóc nhà ta? Ai bảo chuột không nanh? (nếu không nanh) nó lấy gì đục được tường ta? Ai bảo mày không có lễ cưới xin (nếu không có lễ cưới) mày lấy cớ gì đem tao đi kiện được? Mày dù đem tao đi kiện, tao cũng chẳng theo mà lấy mày.

Kiệt Trụ: Vua Kiệt nhà Hạ, Vua Trụ nhà Thương là hai vị vua bạo ngược vô đạo, hoang dâm nhất trong lịch sử các vua chúa Trung Quốc. Kiệt say Muội Hỷ, Trụ say mê Ðát Kỷ.

Theo Sử ký, Vua Trụ lấy rượu chứa thành ao, lấy thịt treo thành rừng rồi cho bọn con trai con gái trần truồng đuổi nhau trong đó, ăn thịt uống rượu suốt đêm.

Lời chú sách Lục Thao của Thái Công chép: “Vua Trụ làm tửu trì, bã rượu (tao) chuyển chất thành núi, trai gái xuống ao uống rượu phải cúi rạp xuống mà bò như trâu gọi là ngưu ẩm”. Kiệt Trụ bị nhân dân oán ghét mà mất ngôi. Bài răn uống rượu có câu: “Kìa Vua Trụ tích tao nên núi, đánh trống reo trâu xuống tửu trì.”

Kiều Tùng: Vương Tử Kiều và Xích Tùng Tử là hai vị tiên.

Liệt tiên truyện: Vương Tử Kiều là Thái tử của Linh Vương nhà Chu, tên Tấn, thích thổi sáo, học tiếng chim Phượng. Ông đi chơi cõi Doãn gặp đạo sĩ Phù Khâu Công. Khâu Công đón Kiều lên núi Tung sơn tu luyện hơn 30 năm, sau cỡi hạc bay lên cõi tiên. Xích Tùng Tử là Vũ sư thời Thần Nông, theo gió mưa mà đi lại, vào lữa không cháy, thường lui tới núi Côn Lôn, ở nhà đá Tây Vương Mẫu. Con gái Vua Viêm đế theo Xích Tùng Tử học đạo tiên.

kiều tử: chỉ cha con: cây kiều (cao to) và cây tử (thấp). Thượng thư đại truyện: Bá Cầm và Khang Thúc đến yết kiến Chu Công, 3 lần đến thăm, 3 lần bị trách. Khang Thúc sắc mặt sợ hãi bảo Bá Cầm: Có Thầy Thương Tử là người hiền, nay tôi cùng anh đến yết kiến. Hai người bèn đến yết kiến Thương Tử, Thương Tử nói: “Phía nam Núi Nam (tên Hàn-Việt: Nam Sơn) có một loài cây tên là kiều, hai anh đến đó xem cậy đi.” Hai người bèn đến xem thì thấy cây kiều cao vút lên trên, trở về thưa với Thương Tử. Ông này nói: “Kiều là đạo của người cha. Phía bắc Núi Nam có loài cây tên là tử, hai anh đến đấy xem đi”. Hai người đến xem thì thấy cây tử thấp mà rũ xuống, trở về thưa với Thương Tử. Tử nói: “Tử là đạo làm con”.

Hoa Tiên:

Tình kiều tử dạ quê hương
Dù cay đắng cũng phận thường nghi sao!

Kim: tên một triều đại chiếm cứ miền đông Bắc Trung Quốc, tồn tại trong giai đoạn 1115–1234, đã từng tiêu diệt nước Liêu, đánh Tống. Sau bị Mông Cổ diệt.

Kim Bình Mai: tiểu thuyết của Vương Thế Trinh, người thời nhà Minh.

Kim Bình Mai là một bộ tiểu thuyết vừa nổi tiếng vừa mang tiếng. Nổi tiếng nhờ nghệ thuật tả chân cao, nhờ nội dung chống bọn cường hào khá. Nhưng lại mang tiếng vì những đoạn diễn tả khiêu dâm đậm đà. Mà những đoạn này muốn chiếm cả toàn quyển truyện.

Sự tích Kim Bình Mai vốn rút trong truyện Thủy Hử của Thi Nại Am. Trong Thủy Hử, tên kỳ hào lưu manh là Tây Môn Khánh thông dâm với vợ của Võ Đại Lang là Phan Kim Liên và âm mưu giết Đại Lang. Sau em của Võ Đại Lang là Võ Tòng giết cả hai để báo thù cho anh.

Trong Kim Bình Mai, sự việc gian dâm này được miêu tả một cách tinh tường. Nguyên tên thổ hào Tây Môn Khánh có một chánh thất và ba thứ thiếp, ngày đêm chơi bời phóng đãng. Dưới tay hắn có một bọn tay sai toàn đầu trộm đuôi cướp chuyên đánh thuê giết mướn. Hắn thấy Phan Kim Liên là vợ của Võ Đại Lang có sắc đẹp bèn lập kế giết Đại Lang để chiếm đoạt Phan Kim Liên về làm tỳ thiếp. Võ Tòng, em của Đại Lang về báo thù nhưng lại giết lầm một người khác, Tây Môn Khánh trốn thoát được.

Sau đó, hắn lại lấy thêm con tỷ tất của Kim Liên là Xuân Mai, rồi nạp thêm Bình Nhi làm thiếp. Vì thế truyện mới lấy tên ba nàng là Kim Bình Mai.

Tây Môn Khánh vốn tay cự phú, với quan phủ địa phương rất thân mật nên mặc sức tung hoành, tác oai, tác ác thiên hạ. Hắn hoang dâm quá độ cùng bầy mỹ nữ chuyên môn nghệ thuật khích dâm. Một hôm hắn bị bạo bệnh chết ngay trên mình người tỳ thiếp.

Kim Bình Mai bóc trần được bộ mặt xấu xa tàn ác dâm bạo của tên thổ hào Tây Môn Khánh nói riêng, và những tên thổ hào khác đời Tống nói chung. Về phương diện nghệ thuật, Kim Bình Mai đạt đến một mức khá cao. Những nhân vật và hành động được tác giả vẽ lên như sống. Nhưng Kim Bình Mai thuộc về loại dâm thư vì lối diễn tả những chuyện dâm tình quá bạo.

Tương truyền: tác giả quyển Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh, người đời nhà Minh vốn có phụ thù với Nghiêm Thế Phồn. Thân phụ của tác giả là Vương Dư bị cha của Thế Phồn là Nghiêm Tung vốn là quan thái sư đương triều hại chết. Uy thế họ Nghiêm rất mạnh; Vương Thế Trinh không làm gì được. Thế Phồn là con trai duy nhất của Nghiêm Tung, họ Vương biết hắn thích đọc truyện khiêu dâm nên viết bộ Kim Bình Mai, lén cho người chuyền đến tay Thế Phồn. Và mỗi góc tờ sách đều có tẩm thuốc độc, để khi Thế Phồn lấy tay thấm vào môi lật sách, cố nhiên sẽ ngộ độc.

Truyện Kim Bình Mai đến tận tay Thế Phồn. Hắn vốn có tật thấm nước miếng lật sách, nhưng lần này lại khác. Vì đọc qua chương đầu, hắn cảm thấy bị “hấp dẫn” ngay. Rồi vì muốn giữ cho sách được lâu, tránh bị ướt nên hắn không thấm nước miếng mà lại cẩn thận giở từng tờ. Do đó, mục đích của tác giả Kim Bình Mai không đạt được.

Kim Cốc trụy lâu nhân: Người gieo lầu ở vườn Kim Cốc, tức là Lục Châu, ái thiếp của Thạch Sùng, một cự phú đời Tấn. Tôn Tú muốn lấy Lục Châu, Thạch Sùng cự tuyệt, Tôn Tú liền giả chiếu chỉ nhà vua bắt Thạch Sùng.

Bấy giờ Thạch Sùng đang cùng Lục Châu yến tiệc trên lầu trong vườn Kim Cốc. Thạch Sùng nói với Lục Châu: “Ta vì nàng mà bị tội”.

Lục Châu khóc, nói: “Xin chết trước mặt chàng”, rồi gieo mình xuống lầu tự vẫn.

kim khuyết: kim là vàng, khuyết là lầu canh ở cửa cung vua; kim khuyết có nghĩa bóng là nơi thật cao sang.

Bích Câu kỳ ngộ:

Ra vào kim khuyết quỳnh lâu.

Quỳnh lâu: lầu xây bằng ngọc quỳnh, tức cung điện trên mặt trăng, chỉ nơi thật cao sang như kim khuyết.

Kim môn: hay Kim mã môn, tên một cửa cung Vi Ương đời Hán, bên cửa có tượng ngựa đồng nên đặt tên cửa như thế. Hán Vũ Ðế thường bảo các quan học sĩ tập trung ở Kim mã môn để vua hỏi chính sự.

Đoạn trường tân thanh:

Nàng rằng: “Trộm liếc dung quang
Chẳng sân ngọc bội  thời phường Kim môn

Ý Kiều muốn nói nếu Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao. “Phường Kim môn” chỉ hạng có văn tài được trọng dụng.

kim ô: ác vàng, chỉ mặt trời. Tương truyền trên mặt trời có con quạ 3 chân nên gọi mặt trời là kim ô (ác vàng).

Ðộng Minh Ký: Ðất phía đông có giống cỏ chi, có con quạ 3 chân mấy lần đổ xuống ăn thứ cỏ thơm ấy. Hy Hòa muốn kiềm chế nó, lấy tay che con quạ.

kim ốc: kim là vàng, ốc là nhà, kim ốc chỉ ngôi nhà hết sức hoa lệ. Theo tiểu thuyết Hán Vũ cố sự thời Tào Ngụy–Tây Tấn: Một lần, lúc Hán Vũ Ðế đang còn là Thái tử, hoàng nữ duy nhất của Hán Văn Đế tức cô ruột của Thái tử là Quán Đào Trưởng Công chúa hỏi: “Con có muốn lấy vợ không?” Thái tử nói: “Có”. Trưởng chúa chỉ vào đám đông hơn trăm người đứng cạnh, gợi ý tiếp: “Muốn người nào?” Thái tử đều nguầy nguậy lắc đầu, tỏ ý không ưng. Trưởng chúa lại chỉ tay về phía con gái mình, rồi hỏi: “Ta gả A Kiều làm vợ cho con được chăng?” Thái tử nhoẻn cười đáp: “Được ạ! Nếu lấy được A Kiều làm vợ, con sẽ cho đúc nhà vàng cho nàng ở”.

Giai thoại giữa này tạo nên một thành ngữ nổi tiếng trong văn học Trung Quốc là Kim ốc tàng Kiều (nhà vàng giữ nàng Kiều).

Hát nói:

Ví đem vào kim ốc có nhường ai.

kim ốc tàng Kiều: xem kim ốc.

kim phong: gió mùa thu (Trong ngũ hành, kim ứng với mùa thu).

Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mãnh vũ y lạnh ngắt như đồng.

kim quỹ: hòm sách vàng. Hán thư: Hán Cao Tổ sau khi diệt xong nước Sở, bèn phong thưởng cho tướng sĩ, viết tên vào khoan sách cất trong hòm vàng, ghi công mãi mãi.

kim thang: kim là kim khí, thang là nước nóng, từ chữ kim thành, thang trì (thành bằng sắt, ao nước nóng). Nghĩa bóng: Thành trì kiên cố như làm bằng sắt và chung quanh thành có nước sôi chảy khiến quân địch không thể nào tấn công được.

Ðại Nam quốc sử:

Thành La mở rộng, kim thang vững bền.

kim thằng: dây thừng bằng vàng. Ngày xưa lễ nghi trong các chùa dùng dây bằng vàng buộc 5 vòng, bỏ vào trong một cái tủ ngọc. Cái tủ nầy để vào một cái khuôn bằng đá và lấy dây vàng cột lại.

Tây du ký: Ngân Giác Đại vương khuyên: “Chúng ta đã có ba thứ bảo bối là Kiếm Thất tinh, Quạt Ba tiêu, Lưới Thừng vàng; chi bằng phái người đến Áp Long Động thỉnh mẹ già thân chinh đến đây ăn thịt Đường Tăng.”

Thiền môn đối liễn đại toàn: “Từng vàng mở đường giác, bè báu vượt sông mê.”

Bích Câu kỳ ngộ, Giáng Kiều nói với Tú Uyên:

Rằng đây về đạo kim thằng
Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.

kinh cức: cây kinh, một loài cây mọc từng bụi, cao bốn năm thước, lá hình bàn tay, hoa nhỏ, sắc tím hơi vàng, cành gốc cứng rắn, mọc rải rác ở đồng áng làm lấp cả lối đi. Cho nên đường đi hiểm trở gọi là kinh trăn, kinh cức, v.v. (Theo Thiều Chửu Hán-Việt tự điển)

kinh hồn bạt vía: xem mục: hồn xiêu phách lạc.

Kinh Kha: Theo Sử ký, Kinh Kha là người nước Vệ, tổ tiên là người nước Tề, khi du lịch các nước chư hầu, đến đâu cũng kết bạn với tất cả những nhân tài, trưởng giả ở đấy. Sau khi Kinh Kha đến Yên, làm bạn với người bán thịt chó và người giỏi gẩy đàn trúc tên là Cao Tiệm Ly. Kinh Kha thích uống rượu, ngày ngày cùng anh bán thịt chó và Cao Tiệm Ly uống rượu ở chợ nước Yên. Sau khi chén rượu dở say, Cao Tiệm Ly gẩy đàn trúc, Kinh Kha họa theo mà hát vui với nhau ở giữa chợ. Sau đó lại cùng nhau khóc, xem như bên cạnh không có người. Kinh Kha tuy ở trong bọn bợm rượu, nhưng tính tình thâm trầm, thích đọc sách, khi du lịch các nước chư hầu, đến đâu cũng kết bạn với tất cả những người hiền, trưởng giả ở đấy.

Nhân sĩ nước Yên là Điền Quang tiên sinh cũng trọng đãi Kha vì biết Kha không phải là người tầm thường. Thái tử Đan làm con tin ở Tần. Vì Vua Tần tên là Chính [sau này là Tần Thùy Hoàng] đối đãi với Thái tử Đan không tử tế cho nên Đan giận, trốn về. Đan tìm cách báo thù Vua Tần, nhưng nước nhỏ, sức không làm nổi.

Sau đó ngày ngày Tần đem binh ra miền Sơn Đông để đánh các nước Tề, Sở, Tam Tấn, dần dần tiêu diệt chư hầu như tằm ăn lá dâu, sắp đến nước Yên. Vua tôi nước Yên đều sợ họa sắp đến nơi. Thái tử Đan lo lắng hỏi thầy học là Cúc Võ. Ông này nói: “Nước Yên có Điền Quang tiên sinh là người trí sâu mà dũng cảm thâm trầm, có thể bàn với ông ta được.”

Điền Quang đến, Thái từ ra đón, đi giật lùi để dẫn đường, quỳ xuống để trải chiếu.

Thái tử nói: “Tôi muốn nhờ tiên sinh cho tôi kết bạn với Kinh Kha có được không?”

“Thưa vâng.”

Điền Quang đến gặp Kinh Kha, nói: “Quang và ông quen nhau, nước Yên ai cũng biết. Thái tử chỉ nghe Quang lúc còn khỏe mạnh, không biết Quang này đã kém cỏi rồi. Thái tử lại dạy tôi rằng: ‘Nước Yên và nước Tần không cùng chung sống, xin tiên sinh lưu ý cho.’ Quang trộm nghĩ rằng mình không nên đứng ra ngoài, nên tiến cử túc hạ với Thái tử. Xin túc hạ quá bộ đến cung Thái tử.”

Kinh Kha nói: “Xin vâng lời dạy.”

Điền Quang nói: “Tôi nghe nói kẻ trưởng giả làm việc không để cho người ta ngờ mình. Nay Thái tử nói với Quang rằng: ‘xin tiên sinh chớ tiết lộ,; như vậy là Thái tử ngờ Quang. Phàm làm người để cho người ta ngờ mình, thì không phải là người nghĩa hiệp.’

Điền Quang muốn tự sát để khích lệ Kinh Kha, nói: “Xin túc hạ đến gặp Thái tử ngay, nói rằng Quang đã chết để chứng tỏ Quang không nói với ai.” Bèn tự đâm cổ mà chết.

Kinh Kha vào yết kiến Thái tử nói việc Điền Quang đã chết và kể lại lời của Quang. Thái tử lạy hai lạy, đi bằng đầu gối, nước mắt ròng ròng. Một lúc sau mới nói: “Đan này sở dĩ đặn Điền tiên sinh đừng nói là muốn mưu việc lớn thành công. Nay Điền tiên sinh lại lấy cái chết để chứng tỏ rằng mình không nói, thực có phải là bụng của Đan này đâu.”

Kinh Kha ngồi yên. Thái tử đứng dậy cúi đầu nói: “Điền tiên sinh không biết rằng Đan này ngu dại, cho Đan được đến trước mặt túc hạ mà bày tỏ. Đó là trời thương nước Yên mà không vứt bỏ đứa con mồ côi của nó. Nay nước Tần có bụng tham lợi, lòng tham không vừa, nếu không lấy tất cả đất đai trong thiên hạ nộp cho nó, bắt tất cả các vua trong thiên hạ làm tôi nó, thì ý nó chưa thỏa mãn. Nay Tần đã bắt Vua Hàn, lấy hết đất Hàn, lại đem binh về phía Nam đánh Sở, phía Bắc đánh Triệu. Vương Tiễn đem quân mấy mươi vạn chặn lấy đất Chương, đất Nghiệp, Lý Tín lại đem quân ra Thái Nguyên, Vân Trung. Nước Triệu không thể chống nổi Tần, thế nào cũng phải vào xưng thần; vào xưng thần thì tai họa đến nước Yên. Nước Yên nhỏ yếu, nhiều lần khổ vì chiến tranh, tính dốc cả sức trong nước cũng không đủ để chống cự với Tần, chư hầu sợ Tần, không ai dám hợp tung. Theo kế riêng của Đan, thì ngu này cho rằng nếu có một kẻ dũng sĩ trong thiên hạ đi sứ sang Tần, dùng lợi to để nhử nó. Tần Vương tham lam, thế nào ta cũng làm được điều mong muốn. Nếu có thể bắt tiếp được Vua Tần buộc nó phải trả cho chư hầu những đất mà nó đã xâm chiếm, như Tào Mạt đã làm đối với Tề Hoàn Công thì thực là hay lắm, không được thế thì nhân đó đâm chết hắn đi. Đại tướng của nước Tần cầm quân ở ngoài mà trong nước lại có loạn thì vua tôi ngờ vực nhau, nhân thời cơ ấy chư hầu có thể hợp tung, thế nào cũng phá được nước Tần. Đó là điều mong mỏi nhất của Đan nhưng không biết ủy thác cho ai, xin kinh khanh lưu ý cho.”

Một hồi lâu, Kinh Kha đáp: “Đó là việc của nước lớn, thần hèn kém sợ không đáng sai khiến.”

Thái tử bước đến trước cúi đầu, khẩn khoản xin đừng từ chối, sau đó Kinh Kha mới nhận lời.

Thái tử bèn tôn Kinh Kha làm thượng khanh, ở nhà sang nhất. Thái tử ngày ngày đến trước cửa dâng cỗ thái lao, các vật lạ xe ngựa, gái đẹp, tha hồ Kinh Kha muốn gì được nấy để làm chàng vừa lòng.

Sau một thời gian, Kinh Kha vẫn chưa có ý đi. Tướng Tần là Vương Tiễn đã phá nước Triệu, cầm tù Vua Triệu, lấy tất cả đất Triệu tiến quân về phía Bắc, cướp đất đến biên giới phía Nam nước Yên.

Thái tử Đan lo sợ, cầu khẩn Kinh Kha: “Quân Tần nay mai sẽ vượt qua Sông Dịch thì dù tôi muốn hầu túc hạ mãi cũng chẳng dễ mà được đâu?”

Kinh Kha nói: “Thái tử không nói, thì tôi cũng muốn yết kiến để bàn việc ấy. Nay đi mà không có gì làm tin thì khó lòng đến gần Vua Tần. Vua Tần treo giải nghìn cân vàng, ấp muôn nhà để bắt Phàn tướng quân. Nếu quả được cái đầu của Phàn tướng quân và địa đồ đất Đốc Cáng của nước Yên để dâng lên Vua Tần, thì Vua Tần thế nào cũng vui lòng cho tôi yết kiến, bấy giờ tôi mới có cách để báo đáp Thái tử.”

Thái tử nói: “Phàn tướng quân cùng khốn về với Đan. Đan này không nỡ vì việc riêng của mình làm hại đến người trưởng giả, xin túc hạ nghĩ cho cách khác.”

Kinh Kha biết Thái tử không nỡ, bèn thân hành đến gặp Phàn Ư Kỳ nói: “Nước Tần đối đãi với tướng quân có thể gọi là quá thâm độc. Cha mẹ họ hàng đều bị giết, nay nghe nói họ mua cái đầu của tướng quân nghìn cân vàng, ấp vạn nhà, tướng quân nghĩ sao?”

Ư Kỳ ngửa mặt lên trời thở dài, sa nước mắt mà rằng: “Ư Kỳ mỗi khi nghĩ đến điều đó, thường đau đến tận xương tuỷ, nhưng không nghĩ ra kế gì.”

Kinh Kha nói: “Nay có một lời, có thể cứu nguy cho nước Yên, báo thù cho tướng quân. Tướng quân nghĩ thế nào?”

Ư Kỳ bèn tiến lên nói: “Làm thế nào bây giờ?”

Kinh Kha nói: “Tôi muốn xin cái đầu của tướng quân để hiến Vua Tần, Vua Tần thế nào cũng mừng rỡ tiếp kiến tôi. Tôi tay trái nắm lấy tay áo nó, tay phải đâm vào bụng nó như thế thì trả được thù cho tướng quân lại rửa được cái nhục bị khinh rẻ của nước Yên. Tướng quân có nghĩ như thế không?”

Phàn Ư Kỳ xắn ống tay áo tiến lên nói: “Đó là điều ngày đêm tôi nghiến răng nát ruột, đến nay mới được nghe chỉ giáo.” Bèn tự đâm cổ chết.

Thái tử biết vậy ruỗi ngựa đến, nấp bên thây mà khóc hết sức thảm thương. Nhưng việc đã không làm sao được, nên bỏ đầu Phàn Ư Kỳ vào hòm và niêm phong lại.

Thái tử sai tìm trong thiên hạ được cái chùy thủ sắc của Từ phu nhân nước Triệu, mua mất trăm lạng vàng, sai thợ tẩm thuốc độc, thử đâm vào người hễ máu chảy ra như sợi tơ là người chết ngay.

Bèn chuẩn bị hành lý để cho Kinh Kha đi. Nước Yên có người dũng sĩ là Tần Vũ Dương, mười ba tuổi, giết người không ai dám trừng mắt nhìn. Bèn sai Tần Vũ Dương làm phó. Kinh Kha muốn đợi một người để cùng đi. Người ấy ở xa chưa tới, đã sắp sẵn hành lý cho anh ta. Đợi một thời gian chưa lên đường. Thái tử cho rằng quá chậm, ngờ Kinh Kha có đổi dạ chăng, bèn lại giục: “Ngày đã hết rồi. Kinh Kha có bằng lòng đi không? Đan xin cho Tần Vũ Dương đi trước.”

Kinh Kha giận mắng Thái tử: “Tại sao Thái tử lại làm thế? Đi mà không nên việc đó là phường con trẻ. Cầm một cây chùy thủ, lọt vào nước Tần mạnh bất trắc, tôi sở dĩ ở lại là vì còn đợi người khách của tôi cùng đi. Nay Thái tử cho là trễ, vậy xin chia tay ngay.”

Bèn ra đi từ Sông Dịch. Xem: Dịch Thủy tống biệt.

Kinh Kha đến Tần, đem lễ vật giá nghìn vàng đút cho viên quan trung thứ sử là Mộng Gia, bầy tôi yêu của vua Tần.

Gia nói trước với Vua Tần: “Vua Yên thực sự sợ hãi uy thế của đại vương, không dám đem binh để đón đánh các tướng, muốn xin đem cả nước làm tôi nước Tần, đứng ở hàng chư hầu, chịu nộp cống, chịu nhận chức như một quận một huyện để được giữ tôn miếu của tiên vương. Họ sợ hãi không dám tự bày tỏ, đã chém đầu Phàn Ư Kỳ niêm phong bỏ vào hòm và dâng địa đồ xứ Đốc Càng. Vua Yên lạy trước sân sai sứ sang tâu với đại vương, xin đại vương phán cho như thế nào!”

Vua Tần nghe nói cả mừng bèn trang trọng tiếp kiến sứ giả nước Yên. Kinh Kha bưng đầu Phàn ư Kỳ, còn Tần Vũ Dương bưng tráp đựng địa đồ, lần lượt dâng lên. Đến bệ, Tần Vũ Dương run sợ biến sắc mặt, các quan lấy làm lạ. Kinh Kha quay lại cười.

Tần Vũ Dương, tiến lên xin lỗi, nói: “Nó là kẻ mọi rợ ở phương Bắc, chưa hề trông thấy thiên tử, cho nên run sợ. Xin đại vương tha thứ cho, để cho nó được làm tròn phận sự một sứ thần trước mặt thiên tử.”

Vua Tần bảo Kinh Kha: “Đưa địa đồ Vũ Dương cầm đó lên đây.”

Kinh Kha liền cầm địa đồ dâng lên. Vua Tần mở địa đồ. Giở hết địa đồ thì cái chùy thủ hiện ra. Kinh Kha liền tay trái nắm lấy tay áo Vua Tần, tay phải cầm chùy thủ chĩa vào người. Đao chưa đến người, Vua Tần sợ hãi vùng đứng dậy. Ống áo đứt, Vua Tần tuốt kiếm, kiếm dài, Vua nắm lấy bao kiếm. Lúc bấy giờ hoảng hốt, kiếm lại chặt nên không tuốt được ngay. Kinh Kha đuổi theo Vua Tần, Vua Tần chạy quanh cột trụ, các quan luống cuống, gặp lúc hoảng hốt, đều mất cả vẻ mặt lúc bình thường. Theo phép của nước Tần các quan chầu chực ở trên điện không được cầm một tấc binh khí. Các lang trung cầm binh khí đều đứng sắp hàng ở dưới điện, nếu không có chiếu chỉ gọi thì không được lên. Bấy giờ đang lúc gấp, không kịp gọi những người cầm binh khí ở dưới. Vì vậy Kinh Kha đuổi Vua Tần, các quan vẫn cuống quýt không có gì để đánh trả lại chỉ lấy tay mà đánh Kinh Kha. Lúc bấy giờ viên thầy thuốc đứng hầu tên là Hạ Vô Thư lấy túi thuốc cầm trong tay ném Kinh Kha. Vua Tần đang chạy quanh cột vẫn cuống quýt chưa biết làm thế nào.

Tả hữu kêu lên: “Nhà Vua mang kiếm sau lưng.”

Vua Tần đưa tay ra sau lưng, tuốt kiếm đánh Kinh Kha, chặt đứt bắp vế bên trái. Kinh Kha què bèn cầm chùy thủ ném Vua Tần. Ném không trúng, trúng cái cột đồng. Vua Tần lại đánh Kinh Kha, Kinh Kha bị tám vết thương tự biết công việc không xong bèn tựa vào cột mà cười, ngồi xổm mà mắng: “Việc này không xong, chỉ vì ta muốn để cho nó sống mà uy hiếp nó lấy cho được giấy cam kết để đưa cho Thái tử.”

Lúc bấy giờ tả hữu tiến lên giết Kinh Kha.

Sau này, thành ngữ “Kinh Kha” để chỉ sự hy sinh quên mình, một đi không trở lại.

Kiềm Lâu: cao sĩ nước Tề thời Xuân Thu, rất nghèo và nổi tiếng vì cảnh nghèo như thế. Nguyên Chẩn tự ví trong bài Khiển bi hoài kỳ 1.

kinh luân: kinh là chia ra từng mối tơ trong việc dệt, luân là so mối tơ cho bằng để gộp lại với nhau; kinh luân có nghĩa bóng là sắp đặt sửa sang việc cai trị.

Đoạn trường tân thanh:

Có quan Tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.

Kinh Xuân Thu: Theo lời tựa sách Xuân Thu chính nghĩa của Khổng Ðĩnh Ðạt, Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu ngụ lời bao biếm. Sự khen chê cốt ngụ ở chữ dùng, chỉ vì một chữ ngụ ý chê mà thành tiếng xấu muôn đời, một chữ ngụ ý khen mà được tiếng thơm thiên cổ. Vì vậy, người đời sau khi bàn Kinh Xuân Thu có nói: Một chữ khen vinh hơn được chiếc áo cổn hoa vua ban, một chữ chê nhục hơn phải tội búa rìu.

Kinh Xuân Thu chép sử nước Lỗ từ Lỗ Ân Công (721–710 tCN) đến Lỗ Ai Công (494–466 tCN) nhằm mục đích tầm truyền cái đại nghĩa, danh và phận về đường luân lý và chính trị quân chủ. Văn Kinh Xuân Thu nghiêm chỉnh về ý nghĩa và vị trí từng chỗ. Đến đời Lỗ Ai Công năm thứ 14 (481 tCN), người nước Lỗ đi săn bắt được con kỳ lân què, ai cũng cho là điềm không lành, đem thả ra ngoài đồng. Học trò là Nhiễm Hữu báo cho Khổng Tử. Khổng Tử ra đồng xem thấy, trở về than rằng: Ðạo ta đã đến lúc cùng rồi!” Kinh Xuân Thu chép đến chuyện này thì Khổng Tử bút không chép thêm gì nữa, nên tác phẩm cũng được gọi là Kinh Lân.

Kính Tân Ma: trùm phường chèo đời Ngũ Đại. Vua Trang Tông đi săn, giẫm phải vào ruộng lúa. Viên huyện ở đấy can, nhà Vua giận định đem giết. Kính Tân Ma trách viên huyện: “Ông làm quan ở đây lại dám cho dân cày cấy nộp thuế. Sao không để trừ chỗ này để cho Vua đi săn, thây kệ dân đói có được không? Tội ông thế đáng chết”. Vua nghe nói cười lên rồi tha viên huyện.

kỵ húy: việc cấm kỵ sử dụng từ ngữ trùng với tên vua chúa, phải nói và viết trại đi. Đặc biệt trong lịch sử cận đại Việt Nam, nhiều từ phạm húy tên chính thức và tên cúng cơm của 9 chúa 13 vua nhà Nguyễn, kể cả tên của thái tử, bà hậu, bà phi của họ. Triều đình ra luật khi từ ngữ phạm vào các trên này thì phải đổi ra từ khác. Thậm chí hàng loạt người từ thuở xa xưa cũng vì phép “hồi tố” mà bị sửa tên. Việc tránh kỵ húy được thi hành gắt gao. Ví dụ như người đi thi phải biết tránh kỵ húy, nếu vi phạm sẽ bị đánh hỏng cho dù bài thi hay đến đâu.

Đa số các từ tên húy chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ “hoa” thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa ở Sài Gòn trước kia bị đổi thành Cầu Bông, Tỉnh Thanh Hoa ngày xưa bị đổi thành Tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở Huế thì lại bị đổi thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao:

Thủng thỉnh lượm bông ba rơi
Lượm cho có cách hơn người trèo cao
(ba = hoa)

Sở dĩ người miền Bắc không tránh kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: trong Trịnh–Nguyễn phân tranh, Đàng Ngoài chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của Đàng Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc xa cách kinh thành mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với vương triều nhà Nguyễn nữa. Tiếp đến, khi đất nước chia hai ở Sông Bến Hải, miền Bắc dưới chế độ Cộng sản có ác cảm với nhà Nguyễn nên càng không muốn dùng những từ tránh kỵ húy mà miền Nam vẫn còn dùng chủ yếu là theo thói quen.

Trong thi cử thời xưa, việc kiêng húy rất nghiêm nhặt. Học trò phải học nhiều chữ kiêng và biết cách viết trại ra sao. Chỉ cần phạm một lỗi kiêng húy – tức là phạm húy – là đủ để bị đánh trượt.

Danh sách các từ kỵ húy khá dài, một số ví dụ được nêu dưới đây (chữ in đậm là kỵ húy; dấu = có nghĩa “đổi thành”).

án = yên, yếng, ảnh;  cảnh = kiểng;  chân = chơn;  chính = chánh;

chu = châu;  chủng = chưởng;  đảm = đởm;  đang = đương;  đường = đàng;

hằng = thường;  hoàng = huỳnh;  hạo = hiệu;  hoa = huê;  hoàng = huỳnh;

hồng = hường;  kính = kiếng;  lĩnh = lãnh;  nguyên = ngươn;  nhậm = nhiệm;

phúc = phước;  san = sơn;  thật = thiệt;  thái = thới;  thì = thời;  thư = thơ

thụ = thọ;  tông = tôn;  tuyền = toàn;  = võ

* Một vài ví dụ:

Chữ thông thường

cúng kính = cúng kiếng;   đảm đang = đởm đương;  đảm lược = đởm lược;   màu hồng = màu hường;   nhiệm chức = nhậm chức;   quý nhân = quới nhơn;   tông giáo = tôn giáo;   tông thất = tôn thất

Tên người: Phàn Lê Hoa = Phàn Lê Huê;  Ngô Thì Nhậm = Ngô Thời Nhiệm;  Lê Thánh Tông = Lê Thánh Tôn (tương tự là Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Trung Tông…);  Ngô Tùng Chu = Ngô Tòng Châu;  Di Nguy = Võ Di Nguy;  Văn Dũng = Võ Văn Dũng

Địa danh: Tỉnh Thanh Hoa = Tỉnh Thanh Hóa; làng Tân Cảnh = làng Tân Kiểng

Tên cơ sở: chợ Đông Hoa = chợ Đông Ba;   cầu Hoa = cầu Bông

Tên cây: cây cảnh = cây kiểng;   nguyệt quế = nguyệt quới

Tên bản nhạc: Lên đường (của Nguyễn Hữu Phước) = Lên đàng

Cho đến thập kỷ 1960s, một số trẻ em nông thôn miền Tây (mà người viết này là một) vẫn còn kiêng húy tên của ông cố, bà cố, ông nội, bà nội… trong gia tộc. Ví dụ như “cây mai” phải nói thành “cây mơi” vì “mai” là tên bà cố.

lan Sở: hoa lan nước Sở, một loài hoa cao quý mà Khuất Nguyên luôn nhắc tới trong tác phẩm Sở từ của ông.

lang yên: xem khói lang.

Lai Tử: xem Sân Lai.

Lam Ðiền: Núi Lam Ðiền ở Tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, nơi sản xuất nhiều ngọc quý nổi tiếng.

Đoạn trường tân thanh:

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông

Lam Kiều: tên một chiếc cầu bắc qua Sông Lam, thuộc Tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi tiên ở, ý chỉ nơi có con gái đẹp.

Truyền kỳ dẫn trong Thái Bình Quảng ký, Ðời Ðường Mục Tông (821-825), có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, một hôm xuống đò, định tìm đến Ngọc Kinh, nơi tiên ở. Cùng đáp chuyến đò có nàng Vân Kiều sắc nước hương trời. Chàng cảm mến ngay, liền làm một bài thơ, tìm cách đưa người đẹp (Phan Như Xuyên dịch thơ):

Kẻ Hồ, người Việt còn thương nhớ
Huống cách người tiên chỉ bức mành
Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót
Xin theo loan hạc đến mây xanh.

Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mỉm cười.

Nhưng thơ đi mà tin chẳng lại, Bùi rất lo lắng, băn khoăn. Nhưng khi đò sắp ghé bến, Bùi bỗng tiếp được thơ do nữ tỳ của giai nhân đưa đến (Phan Như Xuyên dịch thơ):

Uống rượu Quỳnh Tương trăm cảnh sinh
Huyền Sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn thật nơi tiên ở
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh.

Chàng còn đang ngẩn ngơ, không hiểu Lam Kiều là nơi nào và sao lại có thể gặp tiên ở đó, thì nàng Vân Kiều đã biến mất vừa lúc thuyền cập bến.

Bùi Hàng hỏi thăm đường tìm đến Lam Kiều. Ði không biết bao nhiêu ngày, chàng đến Lam Kiều. Trời nắng gắt, miệng khát, chàng ghé một ngôi nhà bên đường, xin nước uống. Bà chủ nhà gọi: “Vân Anh, con mang nước ra, có khách xin nước uống”. Thiếu nữ tên Vân Anh mang nước ra.

Chàng ngạc nhiên nhìn mãi người con gái đẹp tuyệt trần. Bà chủ thấy vậy, bảo chàng: “Con bé này là em gái của Vân Kiều, chàng chớ lấy làm lạ; hai chị em nó giống nhau như đúc”.

Bùi Hàng mừng lắm, có lẽ duyên trời đã định; một lát sau, chàng kể với bà chuyện gặp Vân Kiều trên thuyền. Bà tươi cười bảo chàng “Chắc Vân Kiều muốn xe duyên em gái nó cho chàng.”

Rồi bà thong thả nói tiếp “Hiện tôi có một cái cối ngọc mà thiếu chày ngọc để giã thuốc. Bao giờ chàng tìm được chày ngọc, mang về đây, tôi sẽ gả Vân Anh cho chàng”.

Bùi Hàng nhận lời. Chàng đi khắp nơi, đi mãi, vượt núi băng rừng mà chẳng tìm được chày ngọc. Chàng đã thất vọng, toan trở về nhà, thì may sao, một hôm chàng đang ngồi dưới một bóng cây cao, hai tay ôm đầu, chán nản, thì một ông già râu tóc bạc phơ đến bên chàng. Chàng kể lể nỗi niềm của chàng.

Ông tiên lấy ở túi ra một cái chày ngọc, đưa cho chàng: “Cho con, con cầm lấy”. Bùi Hàng lạy tạ, băng băng trở về Lam Kiều, hai tay ôm khư khư chày ngọc nhét kỹ dưới áo. Bà chủ nhà vui mừng gả Vân Anh cho thư sinh Bùi Hàng.

Chẳng bao lâu, đôi trai gái hóa thành tiên, bay lên trời.

Phan Trần:

Chốn Lam Kiều cách nước mây
Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào.

Đoạn trường tân thanh:

Sau khi gặp Kiều trong buổi Thanh Minh, Kim Trọng tưởng nhớ:
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

Trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói:
Chày sương chưa nện Cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

(Chày sương là chày ngọc dùng để giã thuốc trường sinh Huyền sương. Nghĩa bóng của câu: hai bên chưa là vợ chồng, như khi chưa đưa chày sương về Cầu Lam tức Lam Kiều)

“Lam Kiều” chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ gặp duyên tốt đẹp như gặp tiên.

Lam Sơn: địa danh cổ tại Việt Nam, có lãnh thổ được xác định gần tương ứng với vùng thượng du của Tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Nơi đây từng là vùng căn cứ đầu tiên của Lê Lợi vào đầu thế kỷ 15. Vì thế mà cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi được sử sách ghi là khởi nghĩa Lam Sơn. Vùng Lam Sơn được bao bọc 4 phía bởi rừng núi bao la, hiểm trở. Khi xưa, muốn vào Lam Sơn phải lần theo những con đường mòn nhỏ hẹp, đi xuyên qua rừng.

lang bạt kỳ hồ hoặc lang bạt: ngày nay người ta hiểu thành ngữ này có nghĩa là “rày đây mai đó”, nhưng nghĩa nguyên thủy của thành ngữ này khác hẳn, gần như ngược lại. Đây là một thành ngữ của cổ văn Trung hoa. Kinh thi có bài Lang bạt với 2 câu đầu như sau:

Lang bạt kỳ hồ, tải chí kỳ vĩ
Công tôn thạc phu, xích tích kỳ kỷ

Cần tìm hiểu nguyên ngữ: lang là chó sói chứ không phải như trong “lang thang”; bạt có nghĩa giẫm đạp chứ không phải như trong phiêu bạt, hồ là cái yếm trước ngực thường mọc lông rất dài chứ không phải như trong giang hồ.

Dịch nghĩa hai câu trên:

Sói bước tới dẫm vào yếm, lui lại vấp phải đuôi
Bậc công tôn đi hài đỏ dáng ổn định

Hai câu trên đưa ra hai hình ảnh trái ngược: một bên thì có bộ điệu lúng túng, một bên đi đứng bình ổn.

Trong một ví dụ khác, Tam Quốc chí miêu tả Lưu Bị khi phía bắc kiêng dè Tào Tháo, phía đông e ngại Tôn Quyền, Tôn phu nhân bên cạnh có thể làm nội ứng, nên lâm vào tình thế tiến thoái lang bạt, tức là thế mắc kẹt, khó tính đường tiến hoặc lui.

Theo Phan Anh Dũng (2017), muốn hiểu thành ngữ lang bạt kỳ hồ cần phải hiểu trong toàn bộ bài Kinh thi Lang bạt, và phải giải thích với cách nhìn khái quát sự vật vì Kinh thi vốn dĩ rất hàm súc thâm thúy, chứ không thể cắt xén một câu hay một từ rồi giải thích theo nghĩa đen là “sói tự dẫm lên yếm”, hay diễn giải xa hơn thành “mắc kẹt”. Phải so sánh với cuộc sống của kẻ quý tộc trong lầu son gác tía “xích tích kỉ kỉ” mới thấu hiểu nỗi vất vả nhọc nhằn của những người lao động lang bạt kỳ hồ sống cuộc đời như súc vật ngoài thảo nguyên bao la! Với cách nhìn khái quát đó, việc người Việt hiểu lang bạt theo nghĩa “sống lang thang rày đây mai đó” có thể bị phê bình là “óc tưởng tượng hơi quá đà” nhưng bảo rằng hoàn toàn lầm lẫn (do ngu dốt, ít học), không có căn cứ gì thì chưa thuyết phục!

Câu tả dáng một con sói già như thế này: Lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩ (sói bước tới thì đạp cái yếm cổ, bước lui thì vướng cái đuôi). Cũng giống như thành ngữ tấn thối lưỡng nan.

Du nhập vào tiếng Việt, nghĩa gốc mất hẳn. Chuyện của một con sói già được chuyển sang thành một con người trẻ, bởi vì có ai già mà còn lang bạt kỳ hồ nổi!

Lan Ðình: nói về thủ bút trong bài Lan đình tập tự (Bài tựa cho Lan Đình thi tập), chữ cực đẹp. Xem mục: Vương Hy Chi.

Lang Sĩ Nguyên: tự là Quân Trụ, sống khoảng trước sau năm 766 (xếp vào thời Trung Đường), quê ở Trung Sơn. Năm 756 niên hiệu Thiên Bảo thứ 15 đỗ Tiến sĩ. Năm 762, niên hiệu Bảo Ứng 1 làm chức Úy ở Vị Nam, rồi Tả Thập di, Thứ sử Châu Sinh. Cùng Tiền Khởi nổi tiếng về thơ hay và được xếp trong mười tài tử thời Đại Lịch. Người đương thời tán tụng Tiền hữu Thẩm Tống, hậu hữu Tiền Lang (Trước có Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, sau có Tiền Khởi, Lang Sĩ Nguyên).

lá bối: Một thứ lá cây, trước đây thường được dùng để chép kinh Phật.

lá gió, cành chim: về đời Vua Đại Tông nhà Đường (763-780) ở Huyện Trường An, Tỉnh Thiểm Tây có nhà nho tên Tiết Trịnh, làm quan ở Thành Đô, Tỉnh Tứ Xuyên, sinh một đứa con gái tên Tiết Đào. Nàng học hành giỏi, tư chất thông minh, vừa lên sáu đã biết làm thơ. Nhưng ý thơ rất lẳng lơ.

Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà, trông như sát từng mây. Tiết Trịnh ngắm cảnh buột miệng ngâm:

Đình trừ nhất cổ đồng
Tung cán nhập vân trung

Dịch:

Ngô đồng đứng trước sân
Thân cây cao vút mây

Nàng Tiết Đào liền ngâm tiếp:

Chi nghinh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong

Dịch:

Đàn chim cành Nam Bắc
Đưa lá gió sớm chiều.

Nghe con gái đọc lời thơ lả lơi, Tiết Trịnh thở dài nghĩ: “Nghiệp chướng đã vận vào mình rồi. Cứ như lời thơ này, con gái ta về sau ắt sẽ là một đứa lãng mạn, bướm ong.”

Hai năm sau, thân phụ Tiết Đào bị bạo bịnh qua đời. Vì làm quan thanh liêm nên sau khi chết, đời sống gia đình họ Tiết rất chật vật. Tiết Đào phải xin vào phường ca kỹ, ngày ngày đàn hát ngâm thơ đón kẻ tao nhân mặc khách, lấy tiền nuôi mẹ già.

Ở chốn ca lâu, mang tấm thân ngà ngọc, tài học uyên thâm ra để mua vui cho những kẻ có tiền, nàng Tiết Đào buồn rầu, thường sáng tác những bài ca phổ vào nhạc điệu dạy đoàn ca nữ múa hát hay chính nàng nhịp phách ca ngâm.

Những bài ca của nàng rất tuyệt tác, được truyền tụng trong phường, nên được nhiều người trọng vọng, thường gọi nàng là Tiết tú tài. Những văn nhân tài tử bốn phương nghe danh đổ đến để cùng nàng đề thơ xướng họa, mong được nàng Tiết lưu ý đến họ. Nhưng mắt xanh chẳng lọt vào ai, nàng Tiết vẫn làm nghề ca kỹ.

Nhờ danh tiếng, Tiết Đào kiếm được chút vốn liếng bèn dựng một ngôi nhà bên cầu Vạn Lý. Nàng lại chế ra một thứ giấy ngũ sắc có vẽ cây tùng, cây bách, cây liễu, hoa sen rất đẹp, đặt tên là “Hoa tiên tùng giang”. Giấy này dùng để viết thơ do Tiết Đào làm, nên về sau gọi là Hoa tiên Tiết Đào.

Quan Tư Mã Thiểm Châu là Vương Kiến mến tài nàng Tiết nên thân đến cầu Vạn Lý thăm, và tặng nàng một bài thơ (Bùi Khánh Đản dịch thơ):

Nàng Hiệu Thư Lang ở bến sông
Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông
Ngày xuân cửa đóng hoa ngăn gió
Bao kẻ tôi mày đã uổng công.

Đời Vua Đường Hiến Tông (806-821) có quan Tả Thập di tên Nguyên Chẩn, một danh nho đương thời, vâng chiếu chỉ thanh tra đất Thục. Nghe danh nàng Tiết những mong được gặp nên nhờ bạn giới thiệu. Đôi bên gặp nhau, xướng họa đối ẩm xem chừng tương đắc. Thế là từ đấy cả hai quyến luyến, chẳng rời.

Nhưng rồi vì công vụ, Nguyên Chẩn phải trở lại Trường An phục mệnh. Kẻ lên ngựa chẳng yên lòng dứt áo, người ở lại ngậm ngùi nhỏ lệ buồn thương.

Rồi một điều chẳng may hơn nữa, tướng trấn thủ Tây Xuyên là Lưu Tích tạo phản, đốt phá Thành Đô. Nguyên Chẩn sốt ruột, mướn người đi vào đất Thục tìm nàng Tiết Đào. Nhưng lần nào cũng hoàn toàn thất vọng vì đường bị nghẽn, làm tin tức vắng bặt. Nguyên Chẩn buồn bã thương nhớ giai nhân. Tuy quan san cách trở, thời gian qua mau nhưng mối tình kỳ ngộ sâu xa đối với Tiết Đào vẫn canh cánh bên lòng.

Riêng về nàng Tiết Đào, từ ngày chia tay cùng ý trung nhân thì vẫn mỏi mắt trông chờ tin tức nhưng vẫn bặt tin nhạn cá. Ngày tháng trôi qua, tuổi càng chồng chất, nghĩ buồn thương cho thân phận xấu số vô duyên, nên lui về ở đầm Bạch Hoa, mặc cà sa, ăn chay niệm Phật.

Năm 811 đời Vua Văn Tông, nàng Tiết Đào bị bạo bịnh mất.

Đoạn trường tân thanh, cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà:

Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Thanh.

“Lá gió cành chim” xuất xứ ở bài thơ của nàng Tiết Đào. Và, bài thơ đó chính là một triệu chứng chỉ về vận mạng của nàng vậy.

lá mặt lá trái: Theo SachHayOnLine.com và quehuongonline.vn, đối với các loại bánh lá có nhân khác nhau, người làm bánh dùng lớp lá ngoài cùng của chiếc bánh để phân biệt. Chẳng hạn, đối với bánh nếp khi gói mặt phải (mặt trên) lá quay ra tức là bánh nhân mặn, còn mặt trái (mặt dưới) lá quay ra là bánh nhân ngọt. Cách đánh dấu như vậy chỉ có giá trị ở từng vùng, từng làng, thậm chí từng người làm bánh.

Khi quy ước tạm thời được chấp thuận thì những kẻ không có lương tâm nghề nghiệp cố tình vi phạm quy ước, làm ra những chiếc bánh có chất lượng kém thậm chí đánh tráo cả loại bánh ”lá mặt” với loại bánh “lá trái” để kiếm nhiều lời!

Thành ngữ “lá mặt lá trái” ra đời từ đó và được dùng phổ biến để biểu thị sự tráo trở, lật lọng của con nguời.

lá thắm: Do chữ hồng diệp đề thi (đề thơ trên lá đỏ). Theo Thái Bình Quảng ký, Đời Đường Hy Tông (trị vì 874–888), có nàng cung nữ tuyệt sắc tên Hàn Thúy Tần sống cảnh lẻ loi buồn bực trong thâm cung, nên thường nhặt những chiếc lá đỏ (hồng diệp) rồi đề thơ lên trên lá, thả xuống ngòi nước (dịch thơ):

Nước chảy sao mà vội?
Cung sâu suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian.

Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm lũy. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vưu Hựu vốn kẻ phong lưu tài tử, thơ hay, chữ tốt, chỉ hiềm một nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi Tể tướng. Đang thơ thẩn ngắm dòng nước chảy. Hàn bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ mới vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng bẻ một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung (Phan Như Xuyên dịch):

Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
Gởi cho ai đó nói không tường.

Người cung nữ họ Hàn thường ngồi nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá trở vào của người không quen biết, mới đem cất vào rương son phấn.

Ba năm sau, nhà Vua sa thải một số cung nữ, trong đó có Thúy Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn để chờ thuyền trở về quê cũ, bỗng gặp Vưu Hựu. Hai người trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai đều xứng đôi vừa lứa, nên làm mối thành duyên giai ngẫu.

Đêm tân hôn, Hựu chợt mở rương của vợ thấy chiếc lá của mình ngày xưa. Lấy làm lạ lùng, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được cho vợ xem. Thì ra cả hai lại giữ hai chiếc lá của nhau. Cho là thật duyên trời định.

Cổ thi:

Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
Mừng bấy ngày nay loan sánh phụng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai.

Đoạn trường tân thanh:

Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh/

[Xem: chim xanh]

hay:

Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

[Xem: chỉ hồng]

và:

Nàng rằng hồng diệp xích thằng
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri

“Lá thắm” hay “hồng diệp” chỉ việc nhân duyên vợ chồng.

làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu: bốn cái ngu trong câu ca dao dưới đây:

Ở đời có bốn cái ngu:
Làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu

1/ Làm mai: tức là làm mối cho người này kết hôn với người khác. Nếu hai người qua mai mối sống với nhau hạnh phúc thì người làm mai chẳng được gì, cùng lắm là một lời cảm ơn. Nhưng nếu cơm không lành canh không ngọt thì họ sẽ trút giận lên người làm mai! Nếu gãy đổ luôn thì họ sẽ trách móc người làm mai đến suốt đời. Vì thế mà việc làm mai là cái ngu thứ nhất.

2/ Lãnh nợ: nghĩa là bảo lãnh cho người khác vay nợ, hoặc vay tiền cho người để trả dùm nợ đến kỳ hạn. Nếu nợ được thanh khoản xong, cùng lắm chỉ có một lời cảm ơn. Nhưng nếu người vay nợ trây lì hoặc xù nợ, người lãnh nợ sẽ bị vướng vào khoản nợ, nhiều khi bị hạ cả uy tín vì bảo lãnh cho người không ra gì! Lãnh nợ thật sự là cái ngu!

3/ Gác cu: đặt bẫy để bắt chim cu. Đó là công việc vất vả. Trước nhất người gác cu phải tốn khá nhiều công của và thời gian để chọn, nuôi và huấn luyện được một con cu mồi. Kế tiếp, phải làm một chiếc bẫy được gọi là “lụp”. Chim mồi cất tiếng gáy để chọc tức, thu hút đối thủ hoang dã. Khi cu hoang dã đến thường tiến vào trong bẫy để tấn công chim mồi thì bẫy sập xuống. Người gác cu phải thật kiên nhẫn ẩn mình trong lùm bụi hoặc bẻ cành lá làm thành một cái tum để ẩn vào đó, không dám nhúc nhích hoặc gây tiếng động, khi bị kiến cắn hoặc ong đốt phải ráng chịu, thèm hút thuốc nhưng phải nhịn, mót đi tiểu nhưng thấy cu hoang dã sắp đến gần phải nín. Tóm lại là đủ mọi khổ ải. Trong khi chim cu nuôi làm chim gáy có giá trị thấp, mà thường trong hàng trăm con mới tìm được một con siêng năng gáy và có tiếng gáy hay. Bao nhiêu là công lao không bõ bèn so với giá trị của con chim cu bẫy được. Thế nên người đời coi việc gác cu là cái ngu thứ ba.

4/ Cầm chầu: ngày xưa có các gánh hát bội đi trình diễn từ làng này qua làng kia. Trong mỗi buổi diễn, làng nhờ một người biết thưởng thức đánh cái trống chầu để tạo nhịp điệu, khí phách, đồng thời đánh giá phần trình diễn. Khi người cầm chầu đánh trống thành tiếng “cắc” có nghĩa là chê gánh hát dở, còn nếu đánh nhịp “tùng” là có ý khen. Hậu quả đầu tiên là người cầm chầu khó thưởng thức lời ca tiếng hát trong tiếng trống inh ỏi do mình tạo ra bên tai! Hậu quả kế tiếp là nếu khen nhiều quá thì làng phải chi nhiều tiền thưởng cho gánh hát nên làng không mấy vui, còn nếu chê nhiều quá thì bị gánh hát trách móc là keo kiệt làm tổn hại đến danh dự và thu nhập của gánh hát! Rốt cuộc, dù cầm chầu thế nào chăng nữa vẫn khó mà làm vừa lòng cả hai bên.

Vì vậy mà các cụ coi việc cầm chầu là cái ngu thứ tư.

Lã Bất Vi: Theo Sử ký, Lã Bất Vi (292– 235 tCN) là một nhà buôn lớn ở Dương Lịch, trong nhà có hàng nghìn cân vàng. Tử Sở tức Dị Nhân, là con thứ của Thái tử An Quốc Quân. Anh ta bị đưa làm con tin ở Triệu, bị Triệu bạc đãi. Lã Bất Vi ở Hàm Ðan trông thấy thương hại, nghĩ: “Món hàng này lạ, có thể buôn được đây”. Bèn tung tiền ra, bày mưu tính kế cho Tử Sở được Hoa Dương Phu nhân nhận làm con thừa tự để sau này được nhận làm Thế tử. Họ Lã bày mưu kén trong số vợ mình ở Hàm Ðan một người tuyệt đẹp mà múa khéo, lại biết người này đang có mang đem dâng cho Tử Sở làm vợ. Người vợ giấu chuyện mình đã có mang, đến đủ tháng sinh con là Chính (259–210 tCN). Tử Sở bèn lập nàng làm phu nhân.

Năm thứ 50 đời Vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Ðan rất gấp. Nước Triệu muốn giết Tử Sở, Bất Vi bèn hối lộ 600 cân vàng cho quân coi giữ, đưa Tử Sở trốn thoát về Tần. Sáu năm sau, Tần Chiêu Vương mất, Thế tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm Hoàng hậu, Tử Sở làm Thế tử. Vua Triệu cho đưa vợ của Tử Sở cùng con là Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất, Thái tử Tử Sở lên ngôi tức Trang Tương Vương, tôn Bất Vi làm Thừa tướng.

Trang Tương Vương làm vua được 3 năm thì mất. Thái tử Chính lên ngôi Tần Vương, sau thôn tính các chư hầu, thống nhất thiên hạ, tự đặt hiệu Thủy Hoàng đế nhà Tần (trị vì 221–210 tCN), tôn Bất Vi làm tướng quốc.

Bất Vi tư thông với Thái hậu (mẹ Tần Thủy Hoàng, tức người thiếp cũ của y), việc bại lộ, bị cách chức Tướng quốc, sợ bị tội nên tự sát.

Lục Vân Tiên:

Người nay sao phải nhà Tần
Bất Vi gả vợ, Dị Nhân lấy lầm

Lã Hậu (Lữ Hậu): Theo Hán thư và Sử ký, Lã Hậu tên Lã Tri, vợ Hán Cao Tổ, sinh ra Hiếu Huệ Ðế và Công chúa Lỗ Nguyên. Cao Tổ mất, Lã Hậu âm mưu cho những người họ Lã giữ chức vụ trọng yếu trong triều đình. Bấy giờ vua còn trẻ, Lã hậu lo việc triều chính chuyên quyền, tất cả hiệu lệnh đều do Thái hậu đưa ra. Lã Hậu gọi mệnh lệnh của mình là “chế”. Về sau, Lã Hậu phế Thiếu đế rồi giết đi, lập những người họ Lã làm vương nhằm mưu đồ giành ngôi cho họ Lã, ai chống lại đều bị phế truất. Cho Thẩm Tự Cơ (Thẩm Dị Ky) Làm Tả thừa tướng, Tự Cơ được Lã Hậu yêu từ trước, cho xem xét việc trong cung, không làm việc nước để tự do tư thông với nhau. Tự Cơ được tin dùng, lũng đoạn triều Hán. Họ Lã nắm hết binh quyền, sau nhờ có Chu Bột và Trần Bình giúp, nhà Hán mới giữ được đế nghiệp.

Trinh thử:

Từ khi khuất mặt Hán Hoàng
Mà lòng tư túi với chàng Tự Cơ.

Lã Vọng: Khương Thượng (cũng được gọi là Lã Thượng, Khương Tử Nha), khai quốc công thần của nhà Chu, được phong ở đất Lã nên cũng lấy Lã làm họ. Lã Vọng từng làm nghề mổ thịt ở Triều Ca – kinh đô nhà Ân, đến già làm nghề câu cá ở sông Vị; gặp Chu Văn Vương được trọng dụng, sau giúp Vũ Vương diệt Trụ.

Xem Khương Thượng, Mạnh Tân chi hội.

Lạc Dương: một trong những cái nôi của nền văn minh và cũng là một trong bốn cố đô vĩ đại của Trung Quốc. Trong lịch sử, có nhiều tên gọi để chỉ Lạc Dương, chẳng hạn “Lạc Ấp”, “Lạc Châu” v.v. Nhưng chủ yếu thì Lạc Dương vẫn là tên gọi của thành phố này. Ngoài ra, thành phố này còn có các tên gọi như “Đông Đô” (nghĩa là kinh đô phía đông), “Tây Kinh” (nghĩa là kinh đô phía tây) hay “Kinh Lạc” (nghĩa là kinh đô chung của cả Trung Quốc). Nằm trên bờ sông Lạc Hà, đây là tên gọi nguyên thủy của “Lạc Dương”.

Ban đầu thành phố này được Chu Công cho xây dựng vào thế kỷ 11 tCN, trở thành kinh đô của nhà Đông Chu kể từ năm 770 tCN. Thành phố này đã bị phá hủy trong nội chiến vào năm 510 tCN và được xây dựng lại vào những năm sau đó và còn tiếp tục là kinh đô của nhà Chu cho đến khi nhà Tần đánh bại nhà Chu vào năm 256 tCN để sau này thống nhất Trung Quốc, với tên gọi Lạc Ấp.

Từ năm 25 tới năm 190, Lạc Dương trở thành kinh đô của nhà Đông Hán, từ Hán Quang Vũ Đế cho tới đầu thời kỳ trị vì của Hán Hiến Đế.

Năm 68, Bạch Mã tự, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, được xây dựng tại Lạc Dương. Ngôi chùa này hiện nay vẫn còn tồn tại, mặc dù kiến trúc của nó là thuộc những thời đại sau này, chủ yếu thuộc thế kỷ 16.

Năm 190, Thái sư Đổng Trác ra lệnh lục soát và cướp bóc thành phố này trước khi san phẳng phần lớn các công trình xây dựng. Kinh đô được chuyển về Trường An, do đây là nơi thích hợp hơn cho Đổng Trác để đẩy lùi liên minh chống lại ông ta.

Thời Đường, Lạc Dương là kinh đô tạm của Đường Cao Tông khi kinh đô Quan Trung bị hạn hán, mất mùa.

Từ thời nước Ngụy, năm 221 khi Ngụy Văn Đế (Tào Phi) lên ngôi cho đến thời Tấn Mẫn Đế nhà Tây Tấn (năm 316), Lạc Dương vẫn tiếp tục là kinh đô. Trong nhiều thế kỷ, Lạc Dương là trung tâm kinh tế-xã hội của Trung Quốc cổ đại. Khi nhà Tây Tấn dưới sức ép của các lực lượng nổi dậy buộc phải di chuyển kinh đô tới Kiến Khang (ngày nay là Nam Kinh) thì kinh đô này đã gần như bị phá hủy hoàn toàn.

Năm 493, hoàng đế Ngụy Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy lại di chuyển kinh đô từ Đại Đồng, Sơn Tây về Lạc Dương và bắt đầu cho xây dựng Long Môn thạch quật (hang đá Long Môn) nhân tạo. Trên 30.000 bức tượng Phật từ thời kỳ của triều đại này đã được tìm thấy trong hang. Đến năm 534, khi nhà Bắc Ngụy kết thúc thì Lạc Dương không còn là kinh đô của các triều đại kế tiếp, cho đến tận năm 909 khi hoàng đế nhà Hậu Lương là Hậu Lương Thái Tổ Chu Ôn lại chuyển kinh đô về đây với tên gọi Tây Đô và nó là kinh đô cho tới năm 913 đầu thời Hậu Lương Mạt Đế. Năm 923, khi nhà Hậu Đường nắm quyền thì một lần nữa nó lại là kinh đô với tên gọi Đông Đô. Năm 936, nhà Hậu Tấn đổi tên nó thành Tây Kinh và đóng đô ở đây khoảng 2 năm.

Hiện nay là thành phố trực thuộc tỉnh nằm ở phía tây Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

Lạc Phố: Thần nữ ở Lạc Phố, tên là Bột Phi, con gái Vua Phục Hy. Sách Quần Ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp Thần nữ ở Lạc Phố.

Lạc Tân Vương (khoảng 640-684): sinh vào khoảng cuối đời Trinh Quán, Đường Thái Tông (618-650), nổi tiếng về ca hành. Ông là một trong “Sơ Ðường tứ kiệt”: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương. Thơ ông đẹp, sinh động. Ông miêu tả cảnh giàu sang, sa hoa của bọn phong kiến quý tộc đương thời rất tài tình. Tính tư tưởng bộc lộ khá rõ nét ở sự căm ghét thói ăn chơi hưởng lạc của bọn quan lại, quý tộc. Thơ ông cũng thiên về hiện thực, không thích lối hào nhoáng phô trương. Bởi chính kiến khác tập đoàn thống trị thời Vũ hậu (684-705), ông bị tù một thời gian. Khi ra tù, văn chương lại càng sâu sắc. Những bài nổi tiếng của Lạc Tân Vương là Đế Kinh ThiênTại ngục vịnh thiền. Cùng với các nhà thơ có tiếng thời Sơ Đường, ông đưa thơ luật buổi đầu của đời Đường dần dần thuần thục và phổ biến. Tác phẩm của ông được tập hợp trong Lạc lâm hải tập.

Lạc Thần phú: Xem mục: Cảm Chân phú hay Lạc Thần phú.

Lạc Xuyên thần: nữ thần Sông Lạc, là hình tượng của Đào Chân (183–221) được thể hiện trong bài Cảm Chân phú hay Lạc Thần phú của Tào Thực. Xem các mục: Đào ChânCảm Chân phú hay Lạc Thần phú.

Lạn Tương Như (315–260 tCN), thật ra là Lận Tương Như, một mưu sĩ tài giói của nước Triệu thời Chiến Quốc, nổi tiếng là người giỏi ứng xử để giữ uy tín của nước Triệu trong chư hầu, có quan hệ mật thiết với danh tướng Liêm Pha. Theo Sử ký, Đời Vua Huệ Văn Vương, nước Triệu được viên ngọc bích của họ Hòa ở nước Sở. Tần Chiêu Vương nghe tin, sai người đưa thư cho Vua Triệu, xin đem mười lăm thành để đổi lấy viên ngọc bích. Vua Triệu cùng đại tướng quân Liêm Pha và các vị đại thần bàn: “Nếu cho Tần ngọc bích thì sợ không được thành của Tần, chỉ bị lừa thôi, nếu không cho thì lại lo binh Tần đến đánh.” Kế chưa quyết định, tìm người có thể sang trả lời Tần, tìm mãi chưa được.

Viên hoạn quan Mục Hiên nói: “Môn hạ của thần là Lạn Tương Như có thể đi được.”

Nhà Vua hỏi: “Tại sao nhà ngươi lại biết?”

Mục Hiền đáp: “Thần đã từng có tội, trộm nghĩ muốn chạy trốn sang đất Yên, môn hạ của thần là Tương Như cản lại mà rằng: ‘Ngài làm sao mà biết Vua Yên?’ Thần nói: ‘Tôi từng theo đại vương hợp với Vua Yên ở biên giới, Vua Yên nắm tay tôi mà nói: ‘Xin kết làm bạn! Vì vậy tôi biết, nên muốn trốn sang. Tương Như bảo thần: ‘Vì nước Triệu mạnh, nước Yên yếu, cho nên Vua Yên muốn kết bạn với ngài. Nay ngài bỏ Triệu trốn sang Yên thì Yên sợ Triệu, nhất định không dám giữ ngài mà sẽ trói ngài nộp cho Triệu. Chi bằng ngài hãy cởi trần, phục bên lưỡi rìu mà xin tha tội, may ra được thoát thân!’ Thần nghe theo kế ấy, may sao đại vương tha tội. Thần trộm nghĩ người ấy là bậc dũng sĩ, có mưu trí, có thế sai đi được.”

Nhà Vua liền cho mời đến, hỏi Lạn Tương Như: “Vua Tần dem mười lăm thành đổi lấy viên ngọc của quả nhân, nên cho hay không?”

Tương Như nói: “Tần mạnh, Triệu yếu, không cho không được.”

Vua Triệu nói: “Họ lấy ngọc ta mà không cho ta thành thì làm thế nào?”

Lạn Tương Như nói: “Tần đem thành đổi lấy ngọc mà Triệu không cho, thì điều trái là ở Triệu. Triệu cho ngọc mà Tần chẳng cho thành thì điều trái là ở Tần. Xét lại kế đó thì thà cho ngọc để Tần chịu phần trái.”

Nhà Vua hỏi: “Ai có thể sai đi sứ?”

Lạn Tương Như nói: “Nếu nhà Vua thiếu người, thần xin mang ngọc bích đi sứ. Thành có về tay nước Triệu thì ngọc mới ở lại đất Tần. Nếu thành không về, thần xin giữ nguyên vẹn viên ngọc đem về Triệu.”

Triệu Vương bèn sai Tương Như mang ngọc sang hướng Tây vào đất Tần.

Vua Tần ngồi ở “Chương đài” tiếp kiến Tương Như. Tương Như mang ngọc bích dâng Vua Tần. Vua Tần mừng rỡ trao cho các mỹ nhân và các quan hầu xem. Các quan hầu đều hô: “Vạn tuế!”

Tương Như thấy Vua Tần không có ý trả thành cho Triệu, bèn tiến lên nói: “Ngọc bích có vết, tôi xin chỉ cho bệ hạ xem.”

Vua trao ngọc bích, Tương Như nhân cầm ấy ngọc, đứng lùi tựa vào cột, nổi giận, tóc dựng ngược, nói với Vua Tần: “Đại vương muốn được ngọc, sai người đem thư đến Vua Triệu. Vua Triệu cho mời quần thần bàn bạc, tất cả đều nói: ‘Nước Tần tham, cậy mình mạnh, đem lời nói suông để cầu lấy ngọc, chưa chắc đã trả thành cho ta.’ Họ bàn không muốn đưa ngọc bích cho Tần. Thần cho rằng kẻ áo vải chơi với nhau còn không dối nhau, huống nữa là nước lớn. Vả chăng vì một viên ngọc mà làm nước Tần mất vui thì không nên. Vì vậy nên khi sai thần mang ngọc bích đi, Vua Triệu vái mà đưa ở giữa triều đình. Tại sao thế? Vì trọng cái uy của nước lớn để tỏ lòng tôn kính vậy. Nay thần đến, đại vương tiếp thần ở một nơi tầm thường, lễ tiết rất khinh mạn. Được ngọc, đại vương đưa cho các mỹ nhân để đùa bỡn thần. Thần xem đại vương không có ý trả thành ấp cho Vua Triệu, cho nên thần lấy ngọc về. Nếu đại vương cứ muốn bức bách thần, thì đầu thần và viên ngọc đều vỡ ở cái cột này.”

Tương Như cầm viên ngọc, đứng dựa vào cột, muốn đập đầu vào cột. Vua Tần sợ ông ta đập vỡ viên ngọc nên từ tạ cố xin, gọi quan đương sự cầm địa đồ đến chỉ cắt mười lăm thành từ chỗ này trở đi để cho Triệu.

Tương Như đoán Vua Tần chỉ lừa dối mà thôi, tuy giả vờ cho Triệu thành, nhưng thực ra thì không thể được thành, bèn bảo Vua Tần: “Ngọc bích họ Hòa thiên hạ đều nhận là của báu, Vua Triệu sợ không dám không dâng. Khi đưa ngọc, Vua Triệu trai giới năm ngày, nay đại vương cũng nên trai giới năm ngày, đặt lễ cửu tân ở sân thì thần mới dám dâng ngọc.” [Cửu tân là nghi lễ ngoại giao rất long trọng, trong buổi lễ có đến chín người chiêu đãi, thay phiên nhau phục dịch.]

Vua Tần xem chừng không có cách gì ép được, bèn hứa trai giới năm ngày, cho Tương Như ở lại quán tân khánh Quảng Thành. Tương Như xem chừng Vua Tần tuy trai giới, nhưng thế nào cũng bội ước không trả thành, nên sai kẻ đi theo mình mặc áo ngắn, mang viên ngọc đi theo đường tắt, trốn về nộp trả ngọc bích cho Triệu.

Vua Tần sau khi trai giới năm ngày bèn đặt lễ cửu tân ở triều đình để tiếp sứ nước Triệu là Lạn Tương Như.

Tương Như đến, nói với Vua Tần: “Nước Tần từ đời Mục Công đến nay, hơn hai mươi đời vua, chưa từng có ai giữ trọn lời hứa. Quả thực, thần sợ bị nhà Vua lừa, lại phụ lòng nước Triệu, nên đã sai người cầm ngọc lẻn về đến nước Triệu rồi. Vả lại, Tần mạnh mà Triệu yếu, đại vương sai một sứ giả đến Triệu thì Triệu lập tức đem ngọc sang dâng. Nay mạnh như nước Tần mà lại cắt trước mười lăm thành để cho Triệu thì Triệu đâu dám giữ ngọc bích mà mắc tội với đại vương Thần biết rằng lừa dối đại vương tội đáng chết. Thần xin vào vạc nước sôi. Xin đại vương và quần thần bàn bạc kỹ cho.”

Vua Tần và quần thần nhìn nhau cùng hậm hực. Các quần thần muốn kéo cổ Tương Như đi. Vua Tần nhân đó nói: “Bây giờ giết Tương Như cũng không lấy được ngọc, mà chỉ làm tuyệt tình giao hảo giữa Tần và Triệu. Chi bằng nhân việc này mà hậu đãi ông ta, cho ông ta về Triệu. Vua Triệu há vì một viên ngọc bích mà lừa dối Tần sao?”

Do đó, Vua Tần vẫn tiếp Tương Như ở triều đình, lễ xong cho về.

Sau khi Tương Như về, Vua Triệu khen Tương Như là một quan đại phu giỏi, đi sứ không khuất nhục với chư hầu, bèn phong Tương Như làm Thượng Đại phu. Kết quả Tần cũng không đổi thành cho Triệu, và Triệu cũng không đem ngọc bích cho Tần.

Về sau, Tần đánh Triệu, lấy Thạch Thành (năm 282 tCN). Năm sau lại đánh Triệu, giết hai vạn người. Vua Tần sai sứ giả nói với Triệu Vương muốn họp nhau ở Dẫn Trì, ngoài Tây Hà để giảng hòa. Vua Triệu sợ Tần, định không đi. Liêm Pha, và Lạn Tương Như bàn mưu: “Nhà Vua không đi thì tỏ ra nước Triệu yếu và nhát.”

Vua Triệu bèn đi, Tương Như đi theo. Liêm Pha tiễn đến biên giới từ biệt nhà vua, nói: “Nhà Vua đi, tính đường đi về cùng hội họp, chẳng quá ba mươi ngày; nếu ba mươi ngày không về, xin lập thái tử làm Vua để cho Tần hết hy vọng.” Đó là nhằm đề phòng nhà Tần giữ Triệu Vương lại làm con tin mà yêu sách này nọ.

Nhà Vua nghe theo. Bèn họp với Vua Tần ở Dẫn Trì. Vua Tần uống rượu say, nói: “Quả nhân trộm nghĩ Triệu Vương giỏi nhạc, xin gảy đàn sắt cho nghe.”

Vua Triệu gảy đàn sắt. Ngự sử nước Tần tiến lên chép: “Ngày… tháng… năm… Vua Tần cùng Vua Triệu hội họp uống rượu, khiến Vua Triệu gảy đàn sắt.”

Tương Như tiến lên nói: “Vua Triệu trộm nghe nói Vua Tần giỏi về âm nhạc nước Tần, xin bưng cái vùa sành [để đựng rượu] đến Vua Tần gõ để cùng vui với nhau. Vua Tần giận không chịu. Nhưng Tương Như cứ tiến lên dâng cái vùa quỳ xuống mời Vua Tần. Vua Tần không chịu gõ.

Tương Như nói: “Ở trong năm bước, thần xin được phép lấy máu ở cổ làm bẩn người đại vương.”

Tả hữu muốn chém Tương Như. Tương Như trợn mắt quát, tả hữu đều dạt ra. Vua Tần không vui, đành gõ vùa một cái. Tương Như quay lại gọi ngự sử nước Triệu viết: “Ngày… tháng… năm… Vua Tần gõ vùa cho Vua Triệu nghe.

Quần thần nước Tần nói: “Xin đem mười lăm thành nước Triệu để chúc thọ Vua Tần.”

Lạn Tương Như đáp trả: “Xin lấy Hàm Dương của Tần để chúc thọ Vua Triệu.”

Vua Tần xong tiệc rượu, chẳng tranh hơn được với Vua Triệu. Nước Triệu cũng bố trí sẵn nhiều đội quân để đợi Tần, nên Tần không dám động.

Tan hội về nước, Vua Triệu cho rằng Tương Như có công to, phong làm Thượng khanh, địa vị ở trên Liêm Pha.

Liêm Pha nói: “Ta là tướng nước Triệu, phá thành đánh trận có công to, trái lại Tương Như chỉ nhờ miệng lưỡi lập công mà địa vị ở trên ta. Hơn nữa, Tương Như vốn người thấp hèn, ta xấu hổ không mặt mũi nào ngồi ở dưới ông ta.” Và rêu rao: “Khi ta gặp Tương Như, quyết làm nhục ông ta.”

Tương Như nghe vậy, không chịu hội họp với Liêm Pha. Mỗi lần có buổi chầu, Tương Như thường cáo bệnh, không muốn tranh ngôi thứ với Liêm Pha.

Một hôm, khi đi ra ngoài trông thấy Liêm Pha, Tương Như quay xe trốn tránh. Những môn hạ cùng nhau can: “Chúng tôi sở dĩ bỏ thân thích đến phò tá ngài chỉ vì mến cao nghĩa của ngài. Nay ngài và Liêm Pha cùng ngang hàng. Liêm Pha rêu rao nói xấu mà ngài lại sợ trốn tránh ông ta, sợ sệt quá đáng, người thường còn lấy làm xấu hổ, huống hồ là bậc tướng quốc, tướng quân! Bọn thần bất tài, xin từ giã về.”

Tương Như cố cản lại, hỏi: “Các ông xem Liêm Tướng quân có bằng Vua Tần không?”

“Không bằng.”

Tương Như nói: “Oai như Vua Tần mà Tương Như dám gào thét ở giữa triều đình, làm nhục cả quần thần họ. Tương Như tuy hèn nhát há sợ Liêm tướng quân sao! Nhưng ta nghĩ rằng nước Tần tuy mạnh vẫn không đem quân đánh Triệu vì có ta cùng Liêm Tướng quân. Nếu hai con hổ đánh nhau, thế nào cũng không sống được cả, cho nên ta phải làm như thế, vì nghĩ đến việc cấp bách của nước nhà trước mà gác việc riêng đó thôi.”

Liêm Pha nghe thuật lại như vậy, cởi trần mang roi nhờ tân khách đưa đến cửa nhà Lạn Tương Như tạ tội, nói: “Kẻ hèn mọn này không biết Tướng quân rộng lượng đến thế!”

Rồi cùng nhau vui vẻ làm bạn sống chết có nhau!

Năm 269 tCN dưới thời vua mới là Triệu Hiếu Thành Vương, Lạn Tương Như làm tướng, mang quân đi đánh Tề, đánh đến Bình Ấp rồi rút lui.

Năm 263 tCN, khi Tần bắt đầu mang quân đánh Triệu, Sử ký ghi “Lạn Tương Như bị bệnh nặng”. Liêm Pha cầm quân cố thủ mãi không chịu đánh quân Tần, Vua Triệu sốt ruột sai Triệu Quát là con của danh tướng Triệu Xa đã mất ra thay. Lạn Tương Như nói: “Nhà Vua dùng Quát cũng chỉ vì nghe danh ông ta giống như gắn trục đàn mà gảy đàn thôi. Quát chỉ biết đọc sách của cha để lại, không biết ứng biến.”

Vua Triệu không nghe, vẫn phong Quát làm tướng. Kết quả tới năm 260 tCN xảy ra trận Trường Bình nổi tiếng, Triệu Quát đại bại bị tử trận, nước Triệu bị tổn thất hơn 40 vạn người, đúng như lời tiên liệu của Lạn Tương Như.

Sử sách sau đó không ghi chép về Lạn Tương Như nữa, không rõ ông mất khi nào.

Xem thêm các mục: Liêm Pha, Triệu Xa, Triệu Quát.

Lão Tử: Theo Wikipedia_Lão Tử, Lão Tử (571–471 tCN) là một nhân vật chính yếu trong triết học Trung Quốc, nhưng sự tồn tại của ông trong lịch sử vẫn còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ 6 tCN, nhưng một số học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ 4 tCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lão Tử được coi là người viết Đạo đức kinh – cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn.

Theo Sử ký, ông họ Lý, tên Nhi, tự Bá Dương, tên thụy là Ðam. Ông làm quan sử giữ kho chứa sách của nhà Chu, là người đồng thời với Khổng Tử. Lão Tử trao giồi đạo đức, học thuyết của ông cốt ở chỗ giấu mình kín tiếng. Ông ở nhà Chu đã lâu, thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi, không ai biết ông chết thế nào. Ông có làm sách gồm 2 thiên nói về đạo và đức gồm hơn 5000 chữ, tức quyển Ðạo đức kinh. Triết ký của Lão Tử là thanh tĩnh (giữ tâm hồn được trong lặng) và vô vi (không bị những ham muốn lôi cuốn). Hiện nay, người theo Lão thì bài bác Nho và người theo Nho thì bài bác Lão. Ông chủ trương vô vi mà dân tự cảm hóa, thanh tĩnh mà dân tự quay về đường phải.

Những người theo Ðạo giáo tôn Lão Tử làm thủy tổ, xưng là Thái Thượng Lão quân.

lăn lóc đá: chơi cho bằng thích.

Truyện đời xưa: Một anh con nhà giàu sau khi cha mẹ chết chỉ lo đam mê tửu sắc, hoang phí hết sạch tài sản rồi lâm vào cảnh bần cùng. Anh ta hối hận đi tìm người thân thích nhờ vã, tu chí lo việc làm ăn. Một hôm, anh ghé vào một quán ăn bên đường nghĩ chân, gặp một cụ già đang ngồi uống rượu. Ông già thấy anh là người nho nhã và có vẻ túng đói bèn mời anh cùng ngồi uống rượu. Nhân đấy anh mới kể lể hoành cảnh và ý định của mình. Ông già nói: “ Anh không lo, tôi sẽ có cách giúp anh làm lại cuộc đời. Tối nay tôi sẽ dắt anh đến xóm Bình Khang chơi thỏa thích, mai sẽ hay.” Anh chàng hết lời từ chối, lấy cớ trước kia vì ham mê tửu sắc mà đến nỗi khuynh gia bại sản. Cụ già cố mời và nói: “Trước kia vì chưa bao giờ được ăn chơi chán chê nên mới miệt mài mãi mà đến nỗi thế. Tối nay anh tha hồ chơi, ăn chơi một phen cho thật thỏa thuê mê mệt để anh chán ngấy cái thú yêu hoa, chừng đó anh mới có thể lập nghiệp làm ăn được.” Anh chàng đành lòng nhận lời.

Tối hôm đó hai người tìm đến một xóm Bình khang, cùng ăn uống no say thỏa thích. Chừng nửa đêm, ông già cáo say đi ngủ mặc cho anh chàng tha hồ đùa nghịch ân ái với hàng chục kỹ nữ đẹp như tiên. Ðến gần sáng, anh ta mệt lã ngủ thiếp đi lúc nào không biết, kịp đến khi tỉnh dậy, chỉ thấy mình nằm trên đỉnh núi toàn đá. Thì ra hôm qua anh ta đùa nghịch với những hòn đá to nhỏ lăn lóc quanh mình anh đó.

Lâm Ngang: tên đất nay thuộc Tỉnh Tứ Xuyên, là nơi Trác Văn Quân (góa phụ nhà giàu) bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như (nghệ sĩ nghèo). Sau này Lâm Ngang có nghĩa bóng chỉ nơi phụ nữ lẳng lơ dễ theo trai.

Trong bài thơ Đường Cổ biệt ly của Mạnh Giao có hai câu:

Bất hận quy lai trì
Mạc hướng Lâm Ngang khứ.

SongNguyễn HànTú dịch:

Dù chàng về muộn chẳng sao
Chỉ xin chàng chớ ghé vào Lâm Ngang.

Người phụ nữ có ý nói chồng đừng đi đến Lâm Ngang kẻo sẽ giống như Tư Mã Tương Như gặp phải Trác Văn Quân!

Xem thêm mục: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

lân phụng: Hai con vật mà người xưa thường ví với hạng người hiền hay những vật hiếm ít được thấy.

Ðoạn Ngọc Tài trong Thuyết Văn chú rằng: Kỳ lân thân hình như con hươu to, một sừng có thịt dày, không làm hại bất cứ vật gì nên gọi là nhân thú. Phụng tức phụng hoàng (phượng hoàng), giống chim báo điềm lành, xuất hiện khi có thánh nhân ra đời.

Thuyết Văn chú rằng: Mình chim phụng đàng trước giống chim hồng, đàng sau giống con hươu, cổ như cổ rắn, đuôi như đuôi cá, trán như trán con sếu, vằn như vằn rồng, lưng như lưng rùa, mỏ như mỏ gà, lông có 5 sắc, khi xuất hiện thì thiên hạ thái bình.

Chiêu hồn quốc ngữ văn:

Ruổi dặm dài quyết chí Côn Bằng
Giúp đời trị mừng điềm lân phụng.

Lầu trúc Hoàng Châu: tên một bài ký của Vương Nguyễn Chi có câu: Nghi vi kỳ, tử thanh đình đỉnh nhiên (Nên đánh cờ, tiếng con cờ kêu lát chát). Nói cái thú an nhàn.

Lầu Hạc Vàng: từ tên Hoàng Hạc Lâu, do Tôn Quyền thời Tam Quốc xây dựng từ năm 223 ở phía tây-nam thành Vũ Xương xưa thuộc Dương Châu, nay thuộc Huyện Vũ Xương, Tỉnh Hồ Bắc. Có một số truyền thuyết xoay quanh tòa lầu này.

Lau Hac Vang
Lầu Hạc Vàng

Theo một truyền thuyết, ngày xưa có một quán ăn nằm bên bờ Trường Giang, hằng ngày có một vị khách tới quán ăn uống không trả tiền, rồi ngày này qua ngày khác, người chủ quán thấy tác phong người ấy đứng đắn thì cứ để cho ăn chịu tới hơn một năm.

Ngày nọ, người khách lạ kia nói với người chủ quán: “Ta cảm ơn ngươi đã để cho ta ăn chịu hàng năm trời, nay ta đền ơn ngươi bằng cách vẽ cho ngươi một bức tranh con hạc, nếu ai vỗ tay ba tiếng thì nó sẽ xuống nhảy múa cho mà coi.” Nói xong, người khách lạ dùng cái vỏ cam vẽ lên trên tường quán ăn một con hạc mầu vàng, vẽ xong rồi bỏ đi.

Từ đó, hễ thực khách tới cứ vỗ tay ba tiếng thì con hạc nhảy ra khỏi tranh vẽ và nhảy múa cho xem. Vì có hiện tượng lạ này nên quán có tên là Lầu Hạc Vàng, càng ngày càng đông khách, trở nên phát đạt, mở rộng ra và nổi tiếng khắp nơi.

Mười năm sau, vị thực khách kia trở lại Lầu Hạc Vàng và nói với người chủ quán rằng: “Ngày nay nhà ngươi khá giả rồi, như vậy ta trả ơn quá đủ rồi, đã đến lúc ta phải đi đây”. Nói xong ông vỗ tay ba tiếng, con hạc nhảy ra khỏi tranh, và ông khách cưỡi hạc bay lên không trung đi mất. Sau đó người chủ quán mới biết vị khách kia là Lã Ðồng Tân, một trong Bát Tiên.

Theo một truyền thuyết khác, Phí Vân Vĩ, người nước Thục thời Tam Quốc, tu luyện thành tiên thường cưỡi hạc vàng đi ngao du khắp nơi và đã dừng lại nghỉ chân trên mỏm đá Hoàng Hộc (hộc: con hạc). Hậu thế mới xây một cái lầu các ngay trên mỏm đá đó, đặt tên là Hoàng Hạc Lâu, tương truyền vào khoảng thế kỷ 4. Từ đó, Lầu Hạc Vàng trở thành một thánh tích của đạo Lão.

Bốn trăm năm sau có một nhà thơ tên Thôi Hiệu (khoảng 704 đến 754) đến đây. Ông lên lầu ngắm cảnh Hán Dương bên kia sông cùng cảnh trời chiều trên Trường Giang, và sáng tác bài thơ Hoàng Hạc Lâu bất hủ.

Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu (Khương Hữu Dụng dịch thơ)

Hoang Hac LauAi cưỡi hạc vàng đi mất hút
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!
Hạc vàng một đi đã đi biệt
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.

Sông tạnh Hán Dương(A) cây sáng ửng
Cỏ thơm Anh Vũ(B) bãi xanh ngời
Hoàng hôn về đó, quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.

Chú thích

(A) Hán Dương: một địa điểm bên Sông Dương Tử, Tỉnh Hồ Bắc.
(B) Anh Vũ: bãi bên khúc sông thuộc Vũ Xương, Tỉnh Hồ Bắc.

Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu (Ngô Tất Tố dịch thơ)

Người xưa (A) cưỡi hạc đã lên mây
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.

Vàng gieo bên Hán(A), ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh(B), lớp cỏ dày
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!

Đây được xem là một trong những bài thơ hay nhất của thi ca Trung Quốc, lại càng nổi tiếng hơn khi Lý Bạch (701-762) đi qua Hoàng Hạc Lâu. Ông thấy phong cảnh hữu tình, muốn phóng bút một vài câu thơ, nhưng thấy có bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu viết trên tường, bèn buông bút, ngửa mặt than rằng:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

Dịch:

Trước mắt có cảnh nói không được
Thôi Hiệu đề thơ ở trên đầu.

Danh tướng Nhạc Phi thời nhà Tống, khi dừng quân ở Lầu Hạc Vàng làm bài từ như sau.

Mãn Giang Hồng- Đăng Hoàng Hạc lâu hữu cảm – Nhạc Phi
Máu đầy sông- Cảm xúc khi lên Lầu Hạc Vàng – Nam Long dịch:

Dân đâu cả?
Khe vùi xác!
Quân đâu cả?
Chôn trận mạc!

Vẫn nước xưa non cũ
Xóm làng tan tác
Mong lúc trỏ cờ huy tướng sĩ
Một roi đánh thẳng qua Hà, Lạc!

Lại quay về
Đến chốn Hán Dương chơi
Cưỡi hoàng hạc.

Bài từ này còn thủ bút của Nhạc Phi, ảnh chụp được đưa vào cuốn Ngũ thiên niên lai Trung Hoa dân tộc ái quốc hồn.

Năm 1137 đời Tống Cao Tông, Ngụy Tề Lưu Dự bị người Kim phế bỏ, Nhạc Phi xin triều đình tăng quân, muốn thừa cơ để khôi phục Trung Nguyên, nhưng không được triều đình chấp nhận. Mùa xuân năm sau, Nhạc Phi phụng mệnh dẫn bộ quân quay về lưu thủ Ngạc Châu (nay là Thành phố Vũ Hán – Tỉnh Hồ Bắc). Nhiều học giả cho rằng, bài từ này sáng tác trong thời kỳ ông ở Ngạc Châu.

Phan Huy Ích (1751–1822) trong chuyến đi sứ miêu tả Hoàng Hạc Lâu như sau:

Lầu ở thành Vũ Xương, nhìn xuống dòng sông Hán. Truyền thuyết Phí Văn Phi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng chơi ở đó. Nay tầng thứ nhất có tượng thờ Phí, tầng thứ hai có tượng thờ bên cạnh đó có tượng thờ Lư Sinh, phía sau có đình Táo Tiên, rễ táo vẫn giống như rễ trầm hương. Cách bờ là bến lớn sông Hán, người tụ tập đông đúc, hàng hóa chất đầy… Núi Qui, gác Tình Xuyên, bãi Anh Vũ thật là những cảnh đẹp trong trời đất. Người ta vẽ nhiều cuốn tranh lầu Hoàng Hạc để bán cho khách.

Nguyễn Du đến Lầu Hạc Vàng trong lần đi sứ năm 1813. Ông cũng đã từng đến nơi này năm 1790 trong thời thanh niên đi giang hồ nên lần sau tỏ ý nói trước mắt cỏ cây vẫn như ngày xưa.

Hoàng Hạc Lâu – Nguyễn Du (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh dịch thơ)

Thần tiên đã đến tự bao giờ?
Còn lại dấu tiên trên bến mơ
Giấc mộng Lư Sinh kim cổ vọng
Vần thơ Thôi Hiệu hạc lầu trơ.

Ngoài hiên khói sóng bay mờ mịt
Trước mắt cỏ cây vẫn thuở xưa
Nỗi niềm có biết cùng ai tỏ
Trăng thanh gió mát cũng thờ ơ

[Giấc mộng Lư Sinh: xem giấc Nam Kha]

  (Bắc Hành Thi Tập – Bài 64)

Bài thơ của Nguyễn Du điềm tĩnh hơn, nhưng bổ sung vào bài thơ của Thôi Hiệu một nỗi buồn khác. Một nỗi buồn không da diết bằng mà tỉnh táo hơn, lạnh lùng hơn, nhưng sự chán nản với cuộc đòi xem ra lại đậm hơn.

Phan Thanh Giản là Chánh sứ đi Trung Quốc năm 1834, cũng qua Lầu Hạc Vàng.

Lên Lầu Hạc Vàng – Phan Thanh Giản (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh dịch thơ)

Hạc vàng xưa khuất đã bao năm
Từ góc trời Nam người đến thăm
Anh Vũ trước bờ xanh cỏ mượt
Tình Xuyên gác lững trắng mây râm.

Nửa mành trời lặn trôi Giang Hán
Một dãi sông dài xuyên cổ kim
Khói sóng mênh mông lòng cảm xúc
Nhặt chút lòng thu giấc mộng trần.

Phan Thanh Giản chơi chữ thật thú vị: dùng hai chữ Hán “thu tâm” (lòng thu) viết chung lại thành chữ “sầu” để nhắc đến chữ sầu trong thơ Thôi Hiệu.

Lầu Hạc Vàng khởi thủy được xây bằng gỗ, qua thời gian bị cháy, xuống cấp… nên hàng chục lần được tu bổ, được xây bằng gạch ngói, rồi đến năm 1884 bị phá hủy.

Năm 1981, Lầu Hạc Vàng được xây dựng lại không giống ngày xưa chút nào mà nguy nga hơn, 5 tầng thay vì 3 tầng, cách vị trí cũ một kí-lô-mét. Hiện giờ nơi đây vẫn là vị trí thu hút du khách, nhưng tính chất văn học sử không còn thi vị như ngày xưa.

Người ta kể rằng năm 1972 Tổng thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Trung Quốc, được Mao Trạch Đông dẫn đi xem lầu Hoàng Hạc, và khi đứng trước cảnh, Nixon đọc bài Hoàng Hạc Lâu cho Mao Chủ tịch nghe. Âu cũng là mánh khoé của nhà ngoại giao không ngoài mục đích ve vãn. Qua câu chuyện này đủ biết người Hoa trân trọng bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu biết là chừng nào.

Lầu Nhạc Dương: nằm bên Hồ Động Đình, Thành Tây Môn, Thành phố Nhạc Dương, Tỉnh Hồ Nam. Tiền thân là lầu dùng để duyệt quân của danh tướng Đông Ngô là Lỗ Túc, đến thời Đường mới mang tên Lầu Nhạc Dương. Từ trên ngôi lầu này, người ta có thể ngắm cảnh sắc tám trăm dặm của Hồ Động Đình.

Lầu Nhạc Dương được xếp vào một trong “Tứ đại danh lâu” (Bốn tòa lầu vĩ đại) của Trung Quốc:

1/ Lầu Hạc Vàng ở Vũ Hán
2/ Lầu Nhạc Dương ở Nhạc Dương
3/ Gác Đằng Vương ở Nam Xương
4/ Gác Bồng Lai ở Bồng Lai

Lầu Nhạc Dương trở nên nổi tiếng qua bài ký Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm. Bài ký nổi tiếng vì lý tưởng chính trị mà ông thể hiện ở phần cuối trong câu “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”.

lầu xanh: từ chữ thanh lâu. Tào Thực đời Tam Quốc (220-264) viết:

Thanh lâu lâm đại lộ
Cao môn kết trùng quan.

Nghĩa:

Lầu xanh bên đường lớn
Cửa cao mấy lần then.

Ngày xưa, lầu xanh là nơi các nhà quyền quý, những thiếu nữ khuê các ở. Đại lộ khi thanh lâu nghĩa là đường lớn dựng lầu xanh.

Nhà Tề, Vua Vũ Đế bắt dân phu và bộ Công cất những lầu cao thật đẹp. Cửa sổ đều sơn xanh. Nơi này để cho nhà Vua ở cùng với các mỹ nữ cung tần. Rồi lầu đài của các hàng công khanh cũng sơn cửa bằng màu xanh, nên dân chúng thường gọi chỗ ở của vua chúa, quan lại ở là “lầu xanh”.

Về sau, những nhà quyền quý có con gái đẹp, ước mong con nhà mình được vào chầu nơi cung khuyết nên thường sơn nhà màu xanh cho con gái ở. Những nhà nào có cửa sổ hoặc lầu đài sơn xanh là nhà có gái đẹp được nhiều bậc vương tôn, công tử chú ý.

Lúc ấy, bọn buôn son bán phấn đem gái đẹp mở nhà rước khách thưởng hoa, muốn quyến rũ khách yêu hoa hay các bậc vương tôn, công tử nên cũng sơn nhà xanh đón khách.

Ý nghĩa “lầu xanh” biến đổi, lần lần trở thành hoàn toàn nuôi gái mãi dâm để đón khách.

Vì thế, đến đời nhà Lương, Lưu Diễn có hai câu thơ nói về chữ thanh lâu để chỉ chỗ ở của gái điếm:

Xướng nữ bất thăng sầu
Kết thúc hạ thanh lâu.

Nghĩa:

Gái hát chẳng xiết buồn
Thu vén xuống lầu xanh.

Đoạn trường tân thanh:

Lầu xanh có mụ Tú Bà
Làng chơi nổi tiếng về già hết duyên.

Và khi nói về cuộc đời của Kiều:

Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.

Lại đoạn tả về tư cách của Sở Khanh:

Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
Một tay chôn biết mấy cành phù dung.

Đỗ Mục có thơ (bản dịch của Bùi Khánh Đản):

Quẩy rượu lang thang khắp đó đây
Lưng thon gái Sở nhẹ trên tay
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng
Để lại lầu xanh tiếng mặt dầy.

lật đật như ma vật ông vải: nhiều ý kiến cho rằng cách nói này là sai. Đúng ra, phải là: “Lật đật như sa vật ống vải”. Cách giải thích như sau:

Khi kéo sợi vải, người ta dùng cái sa để quay, con cúi sa bằng bông sẽ dùng mũi quay để kéo thành sợi. Ở mũi quay có ống vải để cuốn sợi. Mũi quay thường làm cho ống vải rung lật đật.

Lê Hoằng Dục: Con thứ hai của Lê Văn Linh, một khai quốc công thần nhà Lê. Ðời Lê Thánh Tông, ông vì có tài mà được cử tiếp sứ giả nhà Minh. Sau được thăng Thượng thư Bộ Lễ. Tác phẩm còn lại là 12 bài thơ Giang Hành nghĩa thành trong Toàn Việt thi lục.

lê nhà ông Ai: Theo câu Ai gia lê, tức quả lê nhà ông Ai Trọng. Tương truyền, lê nhà ông Ai Trọng thời Hán quả to, vị đặc biệt thơm ngon, ăn vào miệng là tan ngay, người ta gọi là lê nhà ông Ai. Sách Thế thuyết tân ngữ bổ ghi: Hoàn Huyền triều Tấn, mỗi khi không bằng lòng với ai, thường trách mắng họ: “Mày đã được lê nhà ông Ai, sao còn phải nấu lên mới ăn!”

Về sau, dùng Ai gia lê để ví với món ăn cực ngon, hoặc sự vật hoàn hảo; dùng Như thực Ai gia lê (Như ăn lê nhà ông Ai) để so sánh với văn chương lưu loát, trôi chảy; dùng Ai lê chưng thực (nấu lê nhà ông Ai) để ví với người không biết rõ xấu, tốt hoặc chà đạp lên mọi điều tốt lành.

Lệnh Ngôn: tức Diêu Lệnh Ngôn. Xem Hốt họ Ðoàn.

lệnh ông không bằng cồng bà: Theo hoavouu.com, Vào cuối thế kỷ 2, Triệu Thị Trinh (bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao Châu chống quân Đông Ngô.

Ban đầu Triệu Quốc Đạt khuyên can bà Triệu, cho rằng thân con gái không đảm nổi việc binh. Nhưng bà Triệu cương quyết thành lập đội quân của mình. Binh lính dưới quyền hai anh em chia làm hai đội, một đội của bà Triệu, một đội của Triệu Quốc Đạt chỉ huy. Để tránh sự nhầm lẫn của hai đội quân, hai anh em quy định khi luyện binh cũng như khi xung trận hiệu lệnh riêng cho từng đội: bà Triệu dùng cồng, còn Triệu Quốc Đạt thì dùng lệnh (cồng và lệnh đều là những khí cụ bằng đồng).

Dần dà, bà Triệu chứng tỏ được tài năng khiến cho binh lính nể phục, tiếng cồng của bà có uy lực hơn tiếng lệnh của người anh. Vì thế, lịch sử công nhận vai trò của Bà Triệu quan trọng hơn người anh.

Dần dà, thành ngữ trên có ý nói cho vui rằng trong gia đình phụ nữ có uy thế hơn đàn ông.

Liêm Lạc: chỉ Chu Ðôn Di, người đất Liêm Khê và anh em Trình Hạo, Trình Di ở đất Lạc Dương, cả ba đều là những nhà Triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về nhà dạy học. Xem sân Trình.

Liêu Dương: tên đất, nay thuộc Tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc). Lý Bạch viễn du Thu phố, qua dòng Cửu Giang, thấy những ngọn núi như hoa sen nở, từ đấy có tên Cửu Hoa sơn.

Liễu Chi: xem Hàn Dũ.

liễu Chương Ðài: nói việc người yêu nhau phải xa cách. Tùy theo nguồn, Chương Đài hoặc là tên một con đường ở thành Trường An hoặc là tên một cung điện cũ xây từ đời Tần thời Chiến Quốc, nay thuộc Huyện Trường An, Tỉnh Thiểm Tây.

Theo Tình sử, cuối thời Ðường Huyền Tông (trị vì 712-756) có người tên Hàn Hoành tuổi trẻ nhưng nổi tiếng tài danh. Ông thi đỗ Tiến sĩ, nhưng vẫn ở vào cảnh thanh bạch. Có một người láng giềng là Lý tướng quân, khi nào có rượu ngon cũng mời họ Hàn sang uống. Hàn cho Lý tướng quân là người hào phóng, nên coi như bạn thân, và năng đi lại chuyện trò.

Lý tướng quân có một nàng hầu họ Liễu, vốn là danh kỹ một thời. Nàng hầu ấy thường hé vách nhìn Hàn Hoành xem chiều ăn ở, thấy chàng tuy cảnh nhà thanh đạm vẫn hay đãi khách, hễ thấy khách đến thì cố ý mời chào.

Nhân khi thanh vắng, Liễu thị nói với Lý tướng quân rằng: “Hàn Hoành là một bậc danh sĩ, dẫu rằng cùng quẫn song bạn bè là những bậc tài danh, có lẽ nào nghèo khổ mãi. Tướng quân nên giúp đỡ người ta.”

Lý tướng quân nghe qua mà chẳng đáp.

Một hôm, Lý tướng quân làm tiệc rượu thật lớn, mời Hàn Hoành đến dự. Giữa chừng, mới bảo Hàn Hoành rằng: “Tiên sinh vốn là danh sĩ, mà Liễu thị cũng là danh sắc; danh sĩ cùng với danh sắc sánh vai thì thực là vừa đôi phải lứa.”

Rồi bắt Liễu thị ra tiếp rượu Hàn.

Hàn e thẹn, cố từ chẳng dám nhận.

Lý tướng quân nói: “Kẻ trượng phu ở bên chén rượu gặp nhau, đã một lời tâm phúc thì chết cũng chẳng quản gì, phương chi một người đàn bà thì cớ gì từ chối!”

Hàn không thể đừng được, đành phải vâng lời.

Lý tướng quân lại nói: “Tiên sinh cam chịu cảnh nghèo thì phấn chấn làm sao được! Liễu thị có vài trăm vạn, cũng có thể tựa nương.”

Rồi quay lại bảo Liễu thị rằng: “Nàng là người giỏi giang, phải thờ chồng cho hết đạo.”

Hàn lúc ấy phân vân trong dạ, song Liễu thị nét mặt vui vẻ mà bảo rằng: “Lý tướng quân là người hào dật, hôm qua đã bảo với thiếp rồi, chàng chớ nên e ngại.”

Hàn bèn cùng Liễu thị ra về. Từ đó, trai tài gái sắc rất tương đắc.

Mấy năm sau, quan Tiết độ sứ ở Châu Thanh là Hầu Hy Dật mến tài, tâu với vua xin Hàn Hoành làm viên ngoại để phò tá. Bấy giờ đang lúc nhiễu loạn, Hàn không dám đem Liễu cùng đi, để nàng ở lại kinh đô, định chờ dịp tiện sẽ về đón.

Nhưng trải ba năm trời, Hàn không về đón được. Nhân lấy vàng đựng vào một chiếc túi nhờ người gởi về cho Liễu thị, kèm theo bài thơ sau:

Chương Đài liễu – Ký Liễu thị – Hàn Hoành
Liễu Chương Ðài – Gửi Liễu thị (Phạm Thanh Cải dịch):

Liễu Chương Đài, liễu Chương Đài!
Ngày trước xanh non, liệu tới nay
Còn lá thướt tha như thuở ấy?
Tay người đã bẻ, có ai hay?

Liễu Chương Đài ở đây chỉ Liễu thị ở Trường An. Ý bài thơ là nói Liễu thị ngày trước kiều diễm, chẳng hay bây giờ thế nào, hoặc đã về tay người khác?

Khi Liễu thị nhận được, chưa tiện đi ngay để tái ngộ, cho nên đáp lại bằng bài thơ có lời lẽ rất bình dị nhẹ nhàng, mà ý nghĩa hàm súc:

Dương liễu chi – Đáp Hàn viên ngoại (Nguyễn Minh dịch thơ):

Cành dương liễu đốt nào cũng tốt
Chỉ hận đời bẻ lúc biệt ly
Bỗng thơ chợt báo thu về
Liệu chàng trở lại ham gì cành dương!

Ý nói mấy năm bị Hàn viên ngoại bỏ đi xa, khiến nàng phải sầu, liệu chàng sẽ trở lại còn tha thiết hay không? Câu trả lời chua cay, mai mỉa rất thấm thía.

Liễu thị nghĩ mình có nhan sắc mà ở một mình, e khó lòng giữ gìn tấm thân, rắp toan cắt tóc ở chùa.

Một thời gian, Hàn được trở về triều, tìm Liễu thị không thấy đâu nữa. Dò hỏi tin tức, mãi sau mới biết Liễu thị đã bị tướng Phiên là Sa Tra Lợi (còn được gọi là Sa Trá Lỵ) có công trạng với triều đình vì phản An Lộc Sơn trở về đầu hàng, thấy Liễu thị có sắc đẹp nên cướp đi. Hàn buồn bã vô cùng, nỗi nhớ thương không sao khuây được.

Một hôm, Hàn đi đến góc thành phía đông-nam, chợt thấy một chiếc xe đi qua, có tiếng người bên trong hỏi: “Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đấy không?”

Hàn đáp: “Phải.”

Người trong xe mở màn ra trông Hàm sụt sùi nói: “Thiếp là Liễu thị, đã mắc vòng Sa Tra Lợi bấy lâu, tự biết thân cá chậu chim lồng khó tìm đường thoát khỏi. Nếu chàng nghĩ tình xưa nghĩa cũ, ngày mai xin cứ đường này đón thiếp để cho thiếp gửi lại một lời.”

Hàn về nhà, rất đỗi ngậm ngùi. Hôm sau, y hẹn đến đón. Vụt thấy chiếc xe đi qua, bên trong ném ra một gói, mở ra xem thì là một hộp nước hoa, ngoài bọc khăn điều. Liễu thị thấy Hàn, nước mắt như mưa, chỉ nói được một câu: “Chàng ơi! cách biệt từ đây, còn mong bao giờ gặp mặt nữa!”

Hàn chưa kịp đáp thì xe đã vụt chạy, mắt vời trông theo, hai hàng lệ ứa.

Cách ít lâu, có Lâm Truy đại hội, bạn bè Hàn đặt tiệc ở cao lâu, viết thiếp mời. Hàn y hẹn đến, song trong lòng thương cảm, sắc mặt không vui.

Khi uống rượu, người trong tiệc đều hỏi: “Hàn viên ngoại vốn hay cười nói phong lưu, lúc nào cũng vui vẻ, nay sao dường có dáng lo buồn?”

Hàn mới đem hết chân tình bày tỏ.

Lúc ấy có Hứa Tuấn, người còn trẻ, khí phách hào hùng, lấy làm thương cảm, lại hận vì hành động bất chính của kẻ ỷ thế cậy quyền, bỏ chén rượu xuống mà nói rằng: “Tuấn này xưa nay vẫn dặn lòng phải làm những việc nghĩa liệt, gặp việc bất bình phải giúp đỡ. Nếu Hàn viên ngoại viết cho mấy chữ, thì châu kia Hợp Phố sẽ mang về.”

Nhân Hứa Tuấn nói thế, mọi người cũng đồng thanh khuyến khích.

Hứa Tuấn giục Hàn viết thư, đóng yên cương cho ngựa, lại dắt thêm một con ngựa nữa theo sau, chạy tắt đến nhà Sa Tra Lợi. Khi đến thì vừa lúc Sa Tra Lợi đi vắng, Hứa Tuấn bảo người canh cửa: “Tướng quân bị té ngựa nguy lắm, ngài sai đòi Liễu phu nhân đến ngay.”

Liễu thị chạy ra. Hứa Tuấn đưa thư của Hàn làm tin, rồi nhấc Liễu thị lên yên ngựa, vượt đường tắt mà về.

Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi, sa nước mắt.

Sa Tra Lợi vốn được Vua Đường Ðại Tông trọng đãi. Nhiều bạn của Hàn sợ cho Hàn và Hứa Tuấn sẽ bị tai vạ, nên cùng đến báo với Hầu Hy Dật, xin tìm cách cứu.

Hy Dật nghe chuyện, vuốt râu cười nói: “Ðó là cái việc ngày xưa ta vẫn hay làm, nay Hứa Tuấn cũng làm được một việc hay như thế ư?”

Lập tức thảo một tờ biểu dâng lên vua, đàn hặc Sa Tra Lợi đã hiếp đoạt vợ người, mà Hứa Tuấn là chàng nghĩa hiệp.

Vua Ðại Tông xem biểu, suy nghĩ một lúc đoạn phê vào tờ biểu “Ban cho Sa Tra Lợi hai ngàn tấm lụa; còn Liễu thị thì trả về cho Hàn Hoành.”

Bấy giờ vợ chồng Hàn Hoành mới hết lo sợ, sống đầm ấm hạnh phúc như xưa.

Đoạn trường tân thanh:

Khi về hỏi liễu Chương Ðài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay?

Tức Kiều tưởng tượng khi Kim Trọng trở lại, hỏi thăm người tình cũ thì người tình ấy (tức là Kiều) đã sang tay kẻ khác mất rồi!

Quan Âm Thị Kính:

Xanh xanh khóm liễu Chương Đài
Tiếc thay đã để cho ai vin cành!

Liễu Kỳ Hình: đỗ Tiến sĩ đời Tống, làm chức đồn điền viên ngoại lang, nên người ta thường gọi là Liễu đồn điền. Tính lãng mạn, làm nhiều bài ca từ lẳng lơ như bài Nhạc thường tập. Hễ có vở hát nào mới ra, tất phải nhờ ông làm từ giới thiệu, thì bán mới đắt. Sau vì túng thiếu, đi lưu lạc khắp nơi. Khi chết, các chị em ca kỹ phải góp tiền làm ma cho.

Liễu Nghị: Người đời Vua Trung Tông nhà Ðường, đi thi trượt về đến đất Kinh Dương thấy một người đàn bà chăn dê đến nói rằng: “Thiếp là con gái Vua Ðỗng Ðình, gã cho con thứ Vua Kinh Xuyên, bị con hầu gái nó xúc xiểm thành ra đắc tội với cha mẹ chồng nên phải truất đuổi đến đây. Nghe chàng về qua Ðỗng Ðình, làm ơn đưa hộ thiếp bức thư. Nhà thiếp ở cổng có cây mít lớn, cứ gõ vào cây 3 tiếng thì có người ra.”

Nghị theo lời, rồi nhân thể được đón xuống chơi Long cung. Sau Nghị lấy người con gái họ Lư – người con gái xưng mình chính là Long nữ nhờ Nghị đưa thư ngày trước – rồi cùng nhau đưa về ở Ðộng Ðình.

Liễu thị: xem Liễu Chương Ðài.

Liễu Tông Nguyên (773 hoặc 793-819): tên chữ là Tử Hậu, người Hà Đông, lúc đầu làm Lam Điền úy, sau tham gia vào phe của Vương Thúc Văn. Văn bị dèm, bị đổi làm Vĩnh Châu Tư Mã, rồi Thứ sử Liễu Châu. Quan điểm chính trị của Liễu Tông Nguyên tiến bộ, chủ trương văn chương phải có tính hiện thực. Tác phẩm: Liễu Châu thi tập.

Ông là bạn thân của Hàn Dũ mà tính tình, bút pháp khác Hàn, cũng có tư tưởng cải cách nhưng khoáng đạt hơn, khi biết không được vua nghe thì thôi, ngao du sơn thủy; văn không thống thiết như Hàn mà có giọng mỉa mai như bài Lời người bắt rắn hoặc phẩn y uất như Bài tựa tám bài thơ Ngu Khê. Bài Cái gò nhỏ ở phía Tây đầm Cổ Mỡ mở đầu cho thể văn du ký của Trung Quốc. Ông ảnh hưởng đến cổ văn đời nhà Tống hơn Hàn Dũ.

Liễu Trì: xem ả Tạ.

Mai Ðình Mộng ký:

Tục điêu gắng bộ Vân Tiên
Liễu trì trước lá hoa tiên thế nào?

Liễu Vĩnh: tức Liễu Kỳ Khanh. Xem Liễu Kỳ Khanh.

Liệt nữ họ Lý thành Du Giang: vợ của Mã Mạc. Thời kỳ Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha để giữ vững cơ nghiệp. Thừa tướng của nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu sai tướng là Chung Hội và Đặng Ngại đem binh đánh Thục. Vì muốn đánh úp Thành Đô thình lình để bên Thục không phòng bị nên tướng Đặng Ngại ngầm độ binh qua ngả tắt Âm Bình hiểm trở. Họ đục núi mở đường, bắc gỗ làm cầu trải qua các hang sâu đèo dốc, núi đá chập chùng… họ tiến đến thành Du Giang.

Tướng Thục giữ Du Giang là Mã Mạc, nghe tin Đông Xuyên đã mất, cũng cho quân sửa soạn canh phòng, nhưng chỉ chăm lo về mặt đại lộ. Lại tin tưởng Khương Duy còn có đại quân trấb giữ Kiếm Các, nên Mạc không phải lo nghĩ mấy. Vì vậy, Mạc không để ý tình hình cho lắm. Hôm ấy, Mạc lo thao luyện quân sĩ xong, về nhà với vợ là Lý thị, đốt lò lên sưởi và hâm rượu cùng uống.

Lý thị hỏi chồng: “Nghe nói ngoài biên đình quân giặc đánh gấp lắm, mà tướng quân không có vẻ lo lắng là tại sao?”

Mạc cười đáp: “Việc lớn đã có Khương Bá Ước trông coi. Can gì đến tôi mà lo!”

Lý thị nghiêm nét mặt, hỏi: “Dù thế nào đi nữa, tướng quân cũng chịu trách nhiệm coi giữ thành trì. Sao lại bảo không quan hệ?”

Mạc điềm nhiên nói: “Thiên tử thì nghe thằng Hoàng Hạo, tối ngày say đắm về rượu với gái. Tôi liệu vạ lớn cũng sắp tới chớ chẳng xa gì. Nếu quân Ngụy đến tận đây nữa thì còn gì mà chẳng hàng đi cho xong. Lo nghĩ lắm thêm mệt!”

Lý thị đùng đùng nổi giận, đứng lên nhổ vào mặt Mạc, mắng rằng: “Làm thân nam tử mà giặc chưa đến đã nghĩ điều bất trung bất nghĩa! Thật phí cả tước lộc của triều đình bấy nay! Ta còn mặt nào sống nhìn mặt ấy!”

Mã Mạc xấu hổ ê mặt không biết trả lời ra sao nữa… Chợt gia nhân từ ngoài chạy vào hoảng hốt báo: “Tướng Ngụy Đặng Ngãi không biết theo lối nào kéo tới, hiện đã đem 2000 quân xông vào thành rồi!”

Mạc sợ hãi vội vàng ra xin hàng.

Đến công đường, Mạc cúi rạp người xuống lạy Ngãi, rồi sụt sịt kêu khóc: “Tôi có lòng hàng từ lâu. Vậy xin chiêu dụ dân trong thành và đem quân bản bộ về theo tướng quân.”

Đặng Ngãi nhận cho hàng và thu hết quân mã của Mạc trong thành Du Giang, cho nhập vào quân mình để điều khiển, lại cho Mạc làm hướng đạo quan. Bỗng có người hầu nhà Mã Mạc hớt hải chạy tới bảo: “Phu nhân ở nhà đã thắt cổ chết mất rồi!”

Mạc kinh hãi điếng lặng người. Đặng Ngãi hỏi duyên cớ. Mạc đem sự thực kể lại. Ngãi cảm động khen Lý thị là bậc hiền phụ, cho dùng lễ mai táng rất hậu. Ngãi thân đến trước linh cữu tế lễ. Quân sĩ nghe tin ấy, ai cũng than tiếc.

Người sau có thơ khen Lý thị (dịch thơ):

Hậu chúa hôn mê, nghiệp Hán nghiêng
Trời sai Đặng Ngại chiếm Tây Xuyên
Buồn thay Ba Thục nhiều danh tướng
Chịu kém Giang Du Lý thị hiền.

Linh Ðài: chỉ con tim, cõi lòng. Sách Trang Tử ghi: “Khó mà vào được trong con tim.” Lời chú rằng: Linh đài là con tim vì con tim có Linh tri.

Hoa Tiên:

Ðeo đai trót một tiếng Ðà
Ðài thiêng hổ có trăng già chứng tri

linh phân: Ðào Duy Anh dịch là cỏ thi, là thứ cỏ quý, được dùng làm thẻ để bói.

linh phụng gặp ngô đồng: chim phượng thiêng tìm đậu trên cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở đúng địa vị xứng đáng.

Thơ Quyền A Kinh Thi khuyên vua cầu dùng người hiền tài, ví họ như chim phượng gặp ngô đồng, như tôi hiền gặp vua sáng. Thơ có đoạn: chim phượng chim hoàng cùng hót ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng mọc tốt tươi nơi sườn đồi mé đông, cành lá sum xuê tươi tốt, tiếng hót hòa âm vang vang.

Cây ngô đồng ở đây có tên khoa học là Firmiana simplex, có thân gỗ, cao đến 16 m; không phải là loài ngô đồng cảnh có tên khoa học là Jatropha podagrica, thân chỉ cao đến 1m.

Ðại Nhã: Lời sớ chép: Tính chim phượng chim hoàng, không phải cây ngô đồng không đậu, không phải quả trúc không ăn.

Lĩnh Nam chích quái: có nghĩa: có nghĩa là “Chọn những chuyện quái dị ở Lĩnh Nam”. Theo Wikipedia, đây là tập hợp 13 truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối đời nhà Trần. Cùng Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái thuộc về kỳ thư tổng hợp các câu chuyện truyền thuyết, có thể là thần tích, cũng có thể là truyền miệng tại Việt Nam từ rất sớm. Hai cuốn này có thể xem là dạng sách tổng hợp truyền thuyết có niên đại cổ nhất tại Việt Nam có thể xác định được.

Đặc biệt, Lĩnh Nam chích quái có nhiều truyện mang tư tưởng, tình cảm phóng khoáng. Quả đây là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần ở một thời kỳ mà mối quan hệ đạo lý giữa người với người còn cởi mở, chưa bị những khuôn sáo, tín điều gò bó quá chặt chẽ. Lại có những truyện chịu sự hạn chế của ý thức hệ phong kiến, nhất là các truyện do các soạn giả đời sau thêm vào. Song nhìn chung, toàn bộ tập truyện vẫn thấm nhuần một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân gian. Có thể ít nhiều thấy được ở đó thái độ yêu ghét của nhân dân: yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, yêu điều thiện, ghét điều ác, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp thủy chung giữa người và người.

Một số truyện nổi tiếng là: Phù Đổng Thiên Vương. Sự tích trầu cau, Chử Đồng Tử, Rùa thần Kim Quy, Sông Tô Lịch, Thần Núi Tản Viên, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Vương phi Mỵ Ê…

Lịch triều hiến chương loại chí: Theo Wikipedia_Lịch triều hiến chương loại chí và Hồ Sĩ Hùy (2013), Lịch triều hiến chương loại chí (có nghĩa: Phép tắc các triều đại) là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam chép theo thể phân loại do Phan Huy Chú soạn.

Phan Huy Chú sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Gia đình bên nội, bên ngoại đều có các bậc đại khoa tiếng tăm lừng lẫy: ông nội là Phan Huy Cận (1722-1789), ông ngoại là Ngô Thì Sĩ (1726-1780), cha là Phan Huy Ích (1750-1822, đậu tiến sĩ, làm quan dưới thời Lê Mạt và Tây Sơn), bác (anh của mẹ) là Ngô Thì Nhậm (1746-1803), chú ruột là Phan Huy Ôn (1755-1786, tiến sĩ đời nhà Lê). Từ nhỏ, Phan Huy Chú đã nổi tiếng là thần đồng. Mến mộ tư chất của Phan Huy Chú và trân trọng tình cảm tốt đẹp giữa 2 gia đình, tiến sĩ danh y Nguyễn Thế Lịch, tức Nguyễn Gia Phan (1749-1829) gả ái nữ Nguyễn Thị Vũ cho ông.

Hoàn cảnh xuất thân như thế ngỡ thật thuận lợi cho sự nghiệp một kẻ sĩ, nhưng sự thật lại không hẳn vậy. Nội thân, ngoại thích của Phan Huy Chú đều có người hợp tác chặt chẽ với vương triều Tây Sơn – kẻ tử thù của nhà Nguyễn, nên bị trả thù tàn bạo. Cha Phan Huy Ích và bác Ngô Thì Nhậm bị đánh đòn đau trước Văn miếu, đến nỗi cha thì thân thể mãi mang đầy thương tích, còn cậu ruột thì chỉ mấy tháng sau từ giã cõi trần.

Có thể vì “mang lý lịch” như thế nên mặc dù thông minh xuất chúng, hai lần dự thi Hương (vào các năm 1807, 1819), Phan Huy Chú vẫn chỉ đậu Sinh đồ (học vị này đến năm 1825 đổi gọi là Tú tài). Ròng rã 10 năm trời (1809-1919), ông đóng cửa đọc sách, viết sách, hoàn thành bộ bách khoa toàn thư đồ sộ: Lịch triều hiến chương loại chí. Năm 1821, Vua Minh Mệnh biết tiếng, triệu ông vào Kinh, cử giữ chức Biên tu ở Viện Hàn lâm, rồi làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên từ năm 1828, thăng Hiệp trấn (quan văn dưới Trấn thủ) Quảng Nam từ năm 1829.

Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí và dâng lên Vua Minh Mạng năm 1821 khi ông bắt đầu làm quan ở viện Hàn Lâm. Nhận thấy tầm quan trọng của bộ sách, Vua Minh Mạng cho khắc bản gỗ, in thành nhiều bản, để phổ biến.

Lịch triều hiến chương loại chí, ghi chép dữ liệu lịch sử từ thời Hồng Bàng đến Lê Mạt, gồm 49 quyển, chia làm 10 phần:

1- Ðịa dư chí: địa lý và lịch sử địa lý Việt Nam trải qua các triều đại và phong thổ từng vùng.

2- Nhân vật chí: tiểu sử và tiểu truyện của các đế vương, những bậc hiền tài, danh tướng, danh nho, những người tiết nghĩa của Việt Nam.

3- Quan chức chí: danh hiệu, chức vụ, phẩm tước, lương bổng và cách tuyển cử quan lại dưới các triều đại.

4- Lễ nghi chí: các điển lễ thuộc về triều nghi, tế tự, tông miếu, khánh hạ, quốc tang, tấn tôn, sách phong.

5- Khoa mục chí: phép tắc các chương trình thi cử (thi Hương, thi Hội, thi Ðình).

6- Quốc dụng chí: các phép dinh điền (hộ khẩu), các ngạch thuế, các phép thu thuế, chế độ ruộng đất, tiền tệ.

7- Hình luật chí: luật lệ và hình phạt.

8- Binh chế chí: việc tuyển lính, cách luyện tập, cách tổ chức quân đội.

9- Văn tịch chí: sách vở do người Việt sáng tác, trải qua các triều đại.

10- Bang giao chí: việc bang giao các đời, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước.

Trong Việt Nam Văn học Sử yếu, Dương Quảng Hàm nhận xét:

Bộ ấy đã thu thập một cách có phương pháp các tài liệu ở các sách vở cũ về hiến chương, chế độ của nước ta trước đời Nguyễn, rất tiện cho việc kê cứu. Ta có thể lấy bộ ấy làm gốc mà tham khảo thêm ở các sách sử ký, địa chí, điển lệ của ta để biết được văn hóa cổ thời của nước ta. Bởi thế gần đây các nhà bác học người Pháp, người Nam cũng theo đấy để khảo cứu về chế độ văn chương nước ta. Xem đó thì biết bộ ấy là một bộ sách có giá trị đặc biệt vậy…

loan giao: loại keo chế từ máu chim loan, tương truyền nối được dây cung đứt. Theo Bác vật chíHán Vũ ngoại truyện, thời Hán Vũ Đế (140-88 tCN), dây cung đem ra căng bắn thường bị đứt. Miền Tây Hải có người đem dâng 5 lạng cao. Vua cho đem cất vào kho, còn thừa nửa lạng sứ thần mang theo người. Sứ thần theo Vũ đế đi săn bắn ở cung Cam Tuyền. Dây cung vua đứt, các quan định thay, sứ thần Tây Hải xin lấy keo loan nối lại. Nối xong, vua sai lực sĩ kéo mỗi người một đầu dây nhưng vẫn không việc gì. Sứ thần Tây Hải nói cung có thể bắn suốt ngày mà dây không đứt. Vua lấy làm lạ lắm, nhân đó đặt tên là Tục huyền giao (Keo nối dây cung).

Theo Hán thư, Vũ Đế ra lệnh cho Câu Qua phu nhân Triệu thị đánh đàn. Nhưng đang đánh, dây đàn bỗng đứt. Triệu thị nói: “Giữa lúc đánh đàn mà dây đứt, thế là điềm gở.”

Vũ Đế an ủi: “Dây đứt nhưng có thể nối được, có gì mà gở!”

Đoạn sai người lấy máu chim loan nấu với keo để nối dây đàn.

Đời nhà Tống (950-1275), Đào Cốc vâng lệnh vua đi sứ Giang Nam, được gặp một thiếu nữ là Tần Nhược Lan. Hai người yêu nhau và cùng ở chung một đêm để trao đổi tâm tình. Nhưng vì sứ mạng, Đào phải gấp rút về triều phục lịch. Một đêm ân ái, tình thắm duyên nồng, giữa đường hạnh ngộ, mới gặp gỡ lại chia phôi, mối ân tình vẫn còn canh cánh bên lòng gây biết bao niềm cảm xúc, nên sau khi Đào về có làm một bài từ gởi cho người yêu. Trong có câu: “Đàn tỳ bà đã gẩy hết khúc tương tư, mà người tri âm có ít, đợi được keo loan chắp nối dây đàn đứt, biết đến năm nào”?

Tác giả mượn dây đàn đứt vì mối tình đứt, và mượn sự chắp dây đàn để nói sự chắp tơ tình.

Đoạn trường tân thanh:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em

(Kiều nhờ cậy em thay mình kết duyên với Kim Trọng. Có bản chép “Keo loan” thay vì “Giao loan”)

loạn An Sử: Theo Wikipedia_Loạn An Sử, loạn An Sử là cuộc bạo loạn mang quy mô lớn xảy ra từ năm 755 đến năm 763, trong thời Vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông nhà Đường. Cầm đầu cuộc bạo loạn này là An Lộc Sơn (vốn là một Tiết độ sứ của triều đình) và thuộc hạ là Sử Tư Minh, vì thế ghép tên hai người sử gia gọi biến cố họ gây ra là loạn An Sử. Cả hai tuần tự xưng là hoàng đế, lập ra một triều đại mới có quốc hiệu là Yên, chống đối triều đình. Chỉ sau 8 năm, cuộc bạo loạn này mang đến cái chết của hàng chục triệu người, gây tàn phá khủng khiếp khắp đất nước Trung Quốc, khiến cho nhà Đường không bao giờ hưng thịnh trở lại.

Những nguyên nhân của Loạn An Sử gồm có:

  • Mâu thuẫn giữa triều đình và dân chúng, do Đường Huyền Tông say sưa trong phú quý, chểnh mảng chính sự và mất sáng suốt.
  • Mâu thuẫn sắc tộc, do Đường Huyền Tông nhiều lần điều quân đi đánh các nước lân cận khiến không chỉ dân trong nước oán hận về binh dịch mà còn gây thù chuốc oán với những dân tộc xung quanh.
  • Mâu thuẫn trong giới cầm quyền, do Đường Huyền Tông ngày càng mê muội, xa lánh những quan lại trung lương nên họ rút khỏi chính quyền, các gian thần lộng quyền, đấu tranh với nhau vì tư lợi không.
  • Sai lầm về chính sách biên cương, khiến cho các tướng người Hồ ngày càng lớn mạnh ngoài sự khống chế của triều đình.

An Lộc Sơn nhanh chóng đánh chiếm hầu hết đất đai như gió cuốn, rồi thừa thắng, ồ ạt tiến vào kinh thành Trường An, thả sức cướp bóc và tàn phá.

Đường Huyền Tông dẫn theo Dương Quý phi và Dương Quốc Trung cùng 1.000 cấm binh hốt hoảng bỏ chạy về phía tây vào đất Thục ở Thiểm Tây. Đường vô Thục hiểm trở, tình trạng quân Đường vô cùng hỗn loạn: lương thực cạn kiệt, quân sĩ đã quen sống nhàn hạ ở kinh thành, bây giờ quá khổ nhọc mà Dương Quốc Trung và cả gia quyến đều no đủ sung sướng. Khi xa giá Huyền Tông đi đến Mã Ngôi, tướng sĩ đều oán than, không chịu đi nữa.. Dương Quốc Trung lại thiếu khôn khéo nên ra lệnh đàn áp, nhưng bị loạn quân giết chết. Cho rằng mọi sự tại nàng và anh em nàng hết, họ giết luôn hai người em gái của Quý phi và ép Huyền Tông xử tử Quý phi, nếu không sẽ không hộ giá nữa. Huyền Tông đành mang Quý phi thắt cổ ở Mã Ngôi.

Thái tử Lý Hanh trên đường chạy theo Huyền Tông, bị nhân dân giữ lại nên đoàn của thái tử phải chuyển hướng chạy sang núi Linh Vũ. Được sự ủng hộ của các đại thần đi theo, năm 756 Thái tử Hanh bèn tự lên ngôi ở Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông, vọng tôn Huyền Tông làm thái thượng hoàng.

An Lộc Sơn chiếm được 2 kinh Lạc Dương và Trường An, xưng là hoàng đế, lập nên triều đại mới tên là Đại Yên. Nhưng rồi ông ta tỏ ra mãn nguyện và xem như đã chiếm được giang sơn nhà Đường, nghĩ đến chuyện hưởng lạc, không tính toán việc lâu dài nữa. Nội bộ chính quyền Đại Yên tranh giành quyền lợi lẫn nhau. Đầu năm 757, Thái tử An Khánh Tự sai thuộc hạ giết Lộc Sơn rồi kế vị làm Vua Yên.

Lực lượng của Đường Túc Tông dần mạnh lên và phản công. Trong khi đó nội bộ quân Yên lại chia rẽ. An Khánh Tự bị quân Đường đánh thua, trong tình cảnh tuyệt vọng phải lấy điều kiện nhường ngôi Vua Yên cho bộ tướng của An Lộc Sơn là Sử Tư Minh để được cứu mạng. Nhưng cuối cùng Tư Minh vẫn kể tội giết cha, rồi giết chết Khánh Tự. Tư Minh là tướng giỏi trong khi Đường Túc Tông điều hành cuộc chiến khá giỏi nên thế trận dằng co, gây nên những tàn phá thảm khốc trong dân chúng.

Đến phiên Sử Tư Minh bị con trai là Sử Triều Nghĩa giết. Bên Yên rơi vào tình trạng tàn sát nội bộ, không yên ổn trong một thời gian. Các Tiết độ sứ trong chính quyền Yên tự ban hành chính lệnh trong vùng mình quản lý, chỉ còn ràng buộc về danh nghĩa với Sử Triều Nghĩa. Mặc dù chính quyền Yên quản lý khắp Hà Bắc và Hà Nam – cơ nghiệp do Sử Tư Minh để lại – nhưng thực lực ngày càng suy mòn. Sử Triều Nghĩa liên tiếp thất bại, lại bị thủ hạ cũ là Lý Hoài Tiên mới đầu hàng nhà Đường mang quân đuổi theo. Cuối cùng, Triều Nghĩa biết không còn đường thoát, bèn treo cổ tự vẫn. Triều Đại Yên diệt vong.

Loạn An Sử kéo dài 8 năm mới chấm dứt.

Các sử gia Trung Quốc nhìn nhận loạn An Sử là một cuộc phản loạn điển hình, không hề có chút chính nghĩa; kèm theo đó là sự tàn phá ghê gớm.

Loạn An Sử được đánh giá là có độ dã man bậc nhất, riêng việc thay đổi ngôi của 4 ông vua Đại Yên đều lần lượt diễn ra bằng những vụ tàn sát: hai lần con giết cha, một lần bầy tôi giết vua. Điều đó khiến Đại Yên bị đánh giá là tập đoàn mất hết tính người; ngay cả tính người về tối thiểu cũng không có thì không thể lấy được lòng nhân dân để giữ thiên hạ.

Loạn An Sử khiến nền kinh tế Trung Quốc đương thời ở phía bắc bị tàn phá nặng nề. Nhân dân chịu sự cướp bóc của tất cả các lực lượng quân sự bên Đường, bên Yên và cả ngoại binh.

Chiến tranh không chỉ khiến người dân mất nhà cửa, ruộng vườn mà còn tàn phá nền kinh tế Đại Đường đang hưng thịnh. Những công trình thủy lợi chung ở miền bắc bị phá hoại nghiêm trọng, phải mất rất nhiều năm mới có thể khôi phục. Ngành thủ công nghiệp, tiêu biểu là nghề dệt miền bắc cũng bị sụp đổ không vươn dậy được, khiến gánh nặng cung ứng tơ lụa cho chính quyền trung ương nhà Đường chuyển xuống phía nam, vùng Giang–Hoài.

Nông nghiệp bị tàn phá, kho thóc trống rỗng, việc cung ứng thóc gạo của triều đình trung ương cũng phải trông chờ vào miền Giang Đông.

Trước loạn An Sử, triều đình nhà Đường thống kê toàn quốc năm 755 dân số gần 52 triệu, sau chiến loạn chỉ còn chưa tới 7-17 triệu, nghĩa là mất đi hơn khoảng hai phần ba đến hơn ba phần tư – đúng như thành ngữ “mười người chết bảy còn ba”.

loạn Khăn Vàng: từ chữ Hoàng Cân chi loạn, là một cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại nhà Hán trong giai đoạn 184–205. Cuộc khởi nghĩa có tên này là do các lãnh tụ và binh lính khởi nghĩa đeo khăn vàng trên đầu. Cuộc khởi nghĩa này có liên hệ với phái đạo Lão bí mật và là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử đạo Lão.

Cuối thời Đông Hán, triều chính mục nát, ngoại thích và hoạn quan thay nhau hoành hành. Khắp nơi đều có tham quan ô lại, thêm vào đó thiên tai lụt lội, hạn hán triều miên. Hán Linh Đế buông lỏng kỷ cương, không dùng người tài. Nghe theo lời khuyên của các hoạn quan Trương Nhượng và Triệu Trung, Linh Đế tăng thuế khóa nhằm có thêm tiền xây cất thêm cung điện khiến nhân dân thêm khổ cực. Hoàng tộc và quan lại ăn chơi xa xỉ. Hán Linh Đế ăn tiêu hoang phí, cho áp dụng chính sách mua bán quan chức. Những người sau khi bỏ nhiều tiền ra mua chức tước lại càng vơ vét của dân làm giàu. Trong hoàn cảnh đó, nhân dân bị bóc lột nặng nề từ gần 100 năm, cuối cùng đã vùng dậy phản kháng theo sự kêu gọi của anh em Trương Giác.

Cầm đầu loạn Khăn Vàng là Trương Giác và 2 người em là Trương Bảo và Trương Lương. Ba anh em họ Trương dùng phương thức ma thuật hoặc thuật thôi miên, vẽ bùa niệm chú chữa bệnh cứu người, lấy được lòng tin của nhiều người trong thiên hạ. Trương Giác hành nghề chữa bệnh sau hơn 10 năm, nhân danh dùng Đạo giáo tập hợp được nhiều tín đồ. Cách dùng lý thuyết của Lão Tử để tập hợp quần chúng của Trương Giác bị sử sách chính thống thời phong kiến gọi là “giả thác đại đạo, mê hoặc tiểu dân”.

Ảnh hưởng của anh em Trương Giác ngày càng rộng. Các đệ tử của họ có mặt ở khắp nơi. Tất cả các giáo chúng đều chít khăn vàng trên đầu làm hiệu.

Nhưng khi Trương Giác chưa kịp khởi sự thì một đệ tử là Đường Chu phản lại ông, bí mật tố giác với triều đình nhà Hán. Nhân việc này Lang trung Trương Câu dâng thư lên Hán Linh Đế kể tội “thập thường thị” do Trương Nhượng đứng đầu, cho rằng sở dĩ nhân dân theo Trương Giác chống triều đình vì thập thường thị và những người nhà làm quan lại các châu quân bóc lột dân chúng quá nặng, do đó nên bắt chém hết thì sẽ yên thiên hạ. Nhưng vua Hán nhận được bản tâu của Trương Câu lại mang cho Trương Nhượng xem. Trương Nhượng cùng thập thường thị vội tạ tội và xin cống hiến gia tài phục vụ cho việc đánh dẹp. Hán Linh Đế bèn xá miễn cho Trương Nhượng và các hoạn quan, rồi gọi Trương Câu vào mắng.

Trương Câu lại dâng tờ tấu nữa với nội dung tương tự. Trương Nhượng và các hoạn quan bèn giữ tờ tâu lại không đưa lên trình vua nữa. Hán Linh Đế nghe theo Trương Nhượng, bèn sai đình úy truy tìm những người đồng đảng tham gia đạo Thái Bình với Trương Giác. Quan Ngự sử chiều ý Trương Nhượng bèn sai người vu cáo Trương Câu học đạo Thái Bình, vì vậy Linh Đế hạ lệnh bắt Trương Câu giam vào ngục. Không lâu sau Trương Câu bị bức tử trong ngục.

Nhờ sự tố cáo của Đường Chu, ngoại thích – Đại tướng quân Hà Tiến sai quân bắt người phụ trách các đệ tử của Trương Giác tại Lạc Dương là Mã Nguyên Nghĩa mang xé xác. Hoạn quan Phong Tư và Từ Phụng cũng lập tức bị bắt bỏ ngục. Đồng thời, hơn 1000 đệ tử của Trương Giác ở kinh thành bị bắt giam và giết chết.

Biết việc bị lộ, Trương Giác phải khởi sự gấp gáp ngay trong tháng 2 năm đó. Quân Khăn Vàng đồng loạt nổi lên tấn công vào các thôn trang, gặp nha môn là đốt phá. Các đầu mục tại các địa phương chia nhau tấn công các nơi dưới quyền các tướng.

Giữa lúc chiến sự chưa phân thắng bại thì Trương Giác lâm bệnh qua đời. Trương Lương lên thống lĩnh quân sĩ. Quân triều đình bất ngờ tập kích Trương Lương lúc rạng sáng khiến quân Khăn Vàng không kịp trở tay.

Chỉ còn lại Trương Bảo làm thủ lĩnh Khăn Vàng. Hai cánh quân triều đình phối hợp đại phá quân Khăn Vàng ở Khúc Dương. Trương Bảo bị quân Hán bắt và mang chém. Số quân Khăn Vàng bị giết tại Hạ Khúc Dương lên tới hàng chục vạn người.

Cả ba anh em Trương Giác đều chết, lực lượng Khăn Vàng khởi sự ban đầu bị dẹp. Tuy nhiên, các thủ hạ của Trương Giác vẫn tiếp tục chống lại nhà Hán trong nhiều năm sau.

Hoạt động của quân Khăn Vàng từ khi Trương Giác phát động chỉ trong vài tháng, nhưng những người đi sau duy trì thêm hơn 20 năm nữa. Tuy khởi nghĩa Khăn Vàng thất bại trong việc lật đổ nhà Hán, nhưng đã phát động cuộc chiến tranh với quy mô khá rộng trên lãnh thổ Trung Quốc đương thời, khiến nhà Hán ngày càng suy sụp. Các tướng lĩnh quân phiệt nhân cơ hội suy vi của nhà Hán bắt đầu ly khai và xây dựng lực lượng riêng vì mục đích cá nhân, gây thành cuộc chiến quân phiệt kéo dài cho tới khi nhà Hán sụp đổ hơn 30 năm sau (220).

Trên toàn bộ chiến trường dẹp Khăn Vàng trong năm 184, Hoàng Phủ Tung đóng vai trò lớn nhất, trên cả mặt trận phía bắc và phía nam. Trong khi các tướng Lư Thực không thắng trận, Đổng Trác bại trận, thì những thắng lợi quyết định của quân Hán đều gắn với tên tuổi Hoàng Phủ Tung. Tuy nhiên, Hán Linh Đế chỉ tin yêu các hoạn quan, không coi Hoàng Phủ Tung là có công đầu trong việc dẹp Khăn Vàng, mà lại ghi công đầu cho Trương Nhượng, người không có công ngoài mặt trận.

Ngoài các tướng kỳ cựu của triều đình, trong việc đánh dẹp anh em Trương Giác có sự tham gia của những tướng lĩnh trẻ tuổi mới xuất hiện. Tuy chưa đóng vai trò chủ chốt trong cuộc chiến này nhưng họ bắt đầu bước vào chính trường và về sau trở thành những người có vai trò quan trọng trên chính trường cuối Đông Hán đầu thời kỳ Tam Quốc như Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Kiên. Những năm sau, các thế lực quân phiệt ngoài Tào Tháo còn có Viên Thiệu, Công Tôn Toản phải đối phó vất vả nhiều năm với tàn dư Khăn Vàng.

loạn Kiêu binh: Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788), Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn. Dưới quyền khống chế của họ Trịnh, Vua Lê chỉ còn hư vị.

Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên ngôi chúa về sau, đất kinh kỳ chỉ dùng lính ở ba phủ: Thiệu Thiên, Tỉnh Gia và Hà Trung thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An – gọi là lính Tam Phủ hay cũng gọi là Ưu binh để làm quân túc vệ.

Lính này rất cậy công, làm nhiều điều trái phép. Đối với họ Trịnh, nhất là chúa Trịnh Tông, chúng tỏ ra “dày công hãn mã” hơn nữa, nên càng hoành hành. Vì Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ (tục gọi bà Chúa Chè), bỏ con trưởng là Trịnh Tông mà lập con của Thị Huệ là Trịnh Cán làm chúa. Bọn lính Ưu binh này phò Tông, làm một cuộc đảo chính, giết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), lật đổ Cán, đưa Tông lên ngôi. Thôi thì từ đó, lính Ưu binh có tiếng gọi là Kiêu binh, mặc sức hống hách. Ngay đến chúa cũng sợ họ như cọp.

Hàng ngày họ họp nhau lại một chỗ để cùng bàn việc triều đinh. Rồi họ viết giấy đệ vào triều nói thẳng việc này nên để, việc kia nên thay. Nhiều khi những việc vô lý, họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Họ lại còn xin gia ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Trong triều có ai bàn chuyện phải chăng thì họ dọa sẽ phá nhà, đánh chết. Những lúc xử kiện, có khi họ nhận bên nguyên cáo là người của họ; có khi họ nhận bên bị là người quen rồi ép các người đương sự thay đen đổi trắng. Những người có quan hệ đến họ, nếu có kiện ai, thì họ bắt luôn người ấy và tự đưa ra xử đoán, không cần gì đến quan chức!

Các quan đều phải nhịn hơi nuốt tiếng, không dám động chạm đến họ. Triều đình bàn nên xét công ban thưởng trọng hậu, tỏ ý đền ơn cho họ để họ đều được mãn nguyện, rồi sau sẽ dùng phép vua trị họ dần dần.

Bọn Kiêu binh được trọng thưởng bấy giờ mới bảo nhau: “Chúng ta đã phò ông ấy làm chúa thì cũng đừng làm quấy nhiễu quá, để cho ông biết làm chúa là vui. Chớ xem sau này dần dần thuận cảnh, ông ấy cư xử ra sao. Nếu mà gàn rỡ thái quá, bấy giờ mình sẽ liệu cách mà trị. Quyền mình nguyên vẫn là lính kia mà.”

Một hôm trong đám Kiêu binh có 4 tên lính cưỡng bách một người lái buôn ở Đông Hà để mượn chiếc thuyền, bị người đội trưởng phát giác. Cả bốn tên đều bị xử chém. Bọn Kiêu binh thán oán cho là hình phạt quá nặng, nhưng vì việc đó tự họ trót bới ra nên đành phải im.

Triều đình tự đắc cho là họ đã nép oai, trừng trị họ được.

Nhân Thái tử Lê Duy Vĩ bị bịnh, Trịnh Sâm bức thắt cổ chết, con là Duy Kỳ bị bắt giam trong ngục Đề Lĩnh, khi Kiêu binh lập Tông làm chúa thì đem kiệu đến tận nhà giam đón Kỳ về. Tông bị ép nên cùng triều đình lập Kỳ lên ngôi Đông cung, tức Hoàng tự tôn. Kiêu binh nhân đó kể công, làm giấy tâu lên Vua Lê để cầu ân huệ.

Nhà Vua tuyên chỉ ủy lạo cả bọn. Lại truyền đãi tiệc và bàn cách thưởng Công. Giữa lúc bọn Kiêu binh họp ở trên điện ăn uống, có người chạy đi báo tin với chúa Trịnh Tông. Tông bàn với Quốc sư Nguyễn Khản và Quốc cựu Dương Khuông (em của Dương Thái phi, cậu của Tông). Cả hai chủ trương đem quân vây bắt và giết đi. Tông liền sai Chiêm Vũ hầu đi bắt.

Chiêm Vũ vốn có can đảm và sức khỏe, xách gươm ra thẳng cửa phủ. Vừa đi vừa tuốt gươm ra, Vũ sờ vào lưỡi gươm, tự hào nói: “Sắc! Gươm ta sắc! Gươm ta chém được đầu Kiêu binh.”

Đoạn dẫn quân đến bao vây. Bọn Kiêu binh còn đang ăn uống chè chén, nghe tin có lính bắt, ai nấy hỏa tốc chạy trốn. Chiêm Vũ bắt được 7 tên đem về phủ. Tông nghe lời Khản và Khuông đem ra xử tử. Lúc ấy trong triều, ngoài quê đều lấy làm khoái!

Bọn Kiêu binh cả thảy lấy làm oán tức. Họ lại họp nhau bàn bạc. Có người nói: “Ngày nay được có triều đình, khiến cho vua tôi ngồi yên mà hưởng phú quý đều là sức của chúng mình. Thế mà chẳng ơn thì chớ, lại còn xem là kẻ thù, động một tí là cho đè nén. Nếu cứ nấn ná nén nhịn, khiến cho cái mưu “bẻ đũa” của họ được thành, thì rồi bọn mình không mặt nào sống sót.

Lại có người chêm vào: “Chúng ta không biết “bẻ”, chỉ biết “đả”. Vậy hãy mau mỗi người đấm cho bọn họ một cái để họ đi theo Quận Huy, thử xem họ có bẻ nổi hay không?”

Rồi họ hẹn hôm sau, khi tan triều sẽ khởi sự.

Các quan trong triều bắt được tin, bán tín bán nghi. Sáng lại, Dương Khuông và Chiêm Vũ hầu đi lén vào phủ chúa. Nguyễn Khảm đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan triều, bọn Kiêu binh chia nhau đi vây các dinh. Vào nhà Dương Khuông và Chiêm Vũ hầu không thấy hai người, bọn họ tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát cả hai tư dinh đó hóa thành đất bằng.

Nguyễn Khảm bắt được hung tin, hoảng hốt thay đổi y phục, theo ngõ tắt chạy trốn thoát được. Còn nhà cửa đều bị Kiêu binh phá tan tành.

Không bắt được ba người, lòng càng căm tức. Họ dò được tin quốc cựu Dương Trung và Chiêm Vũ hầu trốn trong phủ chúa, bèn cùng chia ra chắn kín cửa phủ. Đoạn cho một bọn kéo vào phủ đường đòi Tông đưa hai người ra cho họ. Tông bảo là không có. Họ nói: “Hai thằng ấy trốn vào phủ, đã có người thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi vào nữa, thế mà chúa còn chối à? Xưa nay chúa nói dối bao giờ?”

Dương Thái phi vừa khóc vừa nói: “Cái thân góa bụa nhờ có ba quân phò chúa mới được thế này. Xin chư quân hãy tha mạng hắn cho già được vẹn tình cốt nhục.”

Bọn Kiêu binh quát to: “Tha mạng cậu cấy à? Thế còn hôm nọ bảy mạng chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung khuyết sẽ hóa thành tro lập tức.”

Tông và Thái phi hoảng sợ quá cùng ngồi xuống đất, chấp tay vái lạy.

Bọn Kiêu binh lại nói: “Không nói chuyện với đàn bà, chỉ nói chuyện với nhà chúa mà thôi.”

Tông nói: “Bức nhau thế này, thà rằng đừng lập làm chúa cho rảnh.”

Họ lại nói: “Tưởng rằng chúa muốn nên mới cố lập. Không muốn thì có ai ép?”

Một người trong bọn chêm vào: “Nói làm gì nữa! Hãy hạ xuống bệ.”

Tông sợ quá không dám hó hé.

Bấy giờ trời sẩm tối, bọn Kiêu binh bảo nhau giải tán. Trước khi ra về, họ còn nói dọa: “Bắt chúng ví như bắt cá. Nước sâu thì cá còn lặn. Ngày mai tháo cho cạn nước, thử xem nó có mà bay lên trời.”

Đêm ấy, họ canh phòng cửa phủ rất cẩn mật.

Tông bàn với Thái phi là phải mất nhiều của tiền đút cho chúng, may ra mới xong. Thái phi đồng ý. Biết có tên thư lại tên Nhưng Thọ vốn đứa xảo quyệt, bọn Kiêu binh bàn việc gì cũng phải hỏi nó, nên Tông đưa cho một ngàn lượng bạc, nhờ nó làm sứ giả phân chia cho chúng. Tông còn hứa Công việc xong sẽ còn trọng thưởng.

Hôm sau, Kiêu binh lại kéo sát vào phủ. Tông và Thái phi lại ra yêu cầu. Họ nói: “Việc gì phải lắm lời. Cứ vào cửa cấm lùng khắp tòa phủ rồi túm búi tóc lôi ra, hỏi xem cái nắm đũa ấy bẻ được mấy chiếc.”

Nhưng Thọ ra hòa giải. Quân lính vốn sẵn tham lợi nên dịu giọng nói: “Đã thế thì tha cho em ruột Thái phi. Nhưng còn Chiêm Vũ là người giữa trời, chúng tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ giải tán ngay.”

Tông nói: “Tha thì tha cả. Sao lại còn phân biệt người nọ người kia?”

Bọn họ giận nói: “Nhà của chúa nếu còn quanh co che chở Chiêm Vũ, hễ chúng tôi điên tiết thì cả Quốc cựu cũng không thể thoát.”

Tông sợ quá cho người đến an ủi Chiêm Vũ và khuyên phải ra. Chiêm Vũ trốn trên Lân Các bất đắc dĩ phải trèo xuống thang ra mắt Tông và nói: “Chết thì chết, nhưng thần xin đôi tay đôi thanh kiếm, đánh với chúng nó một trận, giết chơi vài ba trăm đứa cho hả cái giận của nhà chúa.”

Tông khuyên giải: “Không nên. Như thế chỉ làm cho Thái phi kinh sợ, quả nhân cũng chẳng được yên.”

Tông khóc, đoạn hứa với Chiêm Vũ là sau khi Vũ chết, sẽ cấp một ngàn mẫu ruộng làm của nối đời, và phong làm phúc thần, bắt dân 10 làng thờ cúng. Tông lại tự viết 6 chữ “Trung nghĩa tráng liệt đại vương” đưa cho Chiêm Vũ. Vũ quỳ xuống nhận lấy, vo tròn mà nuốt rồi lạy tạ Tông bước ra.

Khi qua điếm Tiểu Bút, Chiêm Vũ bị bọn Kiêu binh lôi kéo hỏi: “Gươm sắc của mày ra sao?”

Chiêm Vũ đáp: “Ta không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo lệnh chúa và vì xã tắc đó thôi. Nhưng mà chẳng lâu gì đâu!”

Chúng toan đánh. Vũ bảo: “Đây là cấm địa, không thể làm việc vũ phu. Hãy để tao ra cửa phủ ngồi yên, tha hồ chúng bay muốn làm gì thì làm.”

Rồi Chiêm Vũ khoan thai bước đến cạnh cầu đá, ung dung ngồi xuống mặt đường, bảo bọn Kiêu binh: “Đứa nào muốn làm gì tao, cứ việc mà làm.”

Bọn Kiêu binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu. Máu chảy đầy mặt. Chiêm Vũ ngồi yên không động, khẽ lấy tay lau mặt, vừa cười vừa nói: “Bây giờ tao không thi võ nhưng vẫn còn thi can đảm.”

Một tên Kiêu binh đứng sau dùng dao đâm thẳng vào lưng, bấy giờ Chiêm Vũ mới ngã chết.

Vậy mà chưa hả giận, bọn Kiêu binh lại buộc chúa Trịnh Tông phải xử án trước. Tông bất đắc dĩ phải thi hành. Nguyễn Khản, Dương Khuông đều bị bãi chức làm dân. Bảy tên Kiêu binh bị chém ngày trước đều được đền mạng.

Từ đó bọn Kiêu binh càng ngông nghênh. Tại các đường phố, họ cứ dắt tay nhau đi. Các vị vương hầu vừa thấy bóng dáng của họ từ xa là phải quay xe lại đi đường khác.

Oai tợn như thế đó, nhưng rất buồn cười là khi chúa Tây Sơn Nguyễn Huệ đem binh từ miền Nam đánh ra, chúng nghe hơi đã run, chưa thấy bóng dáng là đã cuốn vó co giò phóng chạy. Dân chúng đã sẵn căm thù, nên chúng lẻ tẻ chạy đến đâu là bị dân bắt giết.

Hợp cũng không oai danh mà rã cũng không oai danh!

long diên hương: nước dãi rồng, một chất tiết ra của cá Nhà táng, trôi nổi trên biển, trông giống như sáp màu vàng, tro hoặc đen, là một hương/dược liệu cực kỳ nổi tiếng, [cống vật?] từ nước Tam-Phật-Tề (thuộc Indonesia ngày nay).

Long Dương quân: một bầy tôi rất được yêu thương của vua nước Ngụy đời Chiến Quốc. Về sau điển này được dùng chỉ đàn ông đồng tính luyến ái (thích con trai hơn con gái).

Long Môn: Theo Wikipedia_Hang đá Long Môn, có nghĩa đen: “Hang đá cổng rồng”, Long Môn hay Hang động Long Môn là một trong số những ví dụ tốt nhất về nghệ thuật tạc khắc hang động Phật giáo tại Trung Quốc. Tại đây có hàng ngàn tượng Phật và các đệ tử của Đức Phật, cách Thành phố Lạc Dương 12 km về phía nam thuộc Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Có nhiều hình ảnh, tranh vẽ, phù điêu đá được chạm khắc cả bên trong lẫn bên ngoài hang đá vôi nhân tạo của vách đá Hương Sơn và Dãy núi Long Môn chạy ở phía đông và tây. Sông Y chảy về phía bắc giữa hai dãy núi thường được gọi là Y Khuyết (Cổng sông Y).

hang da Long Mon 1

Tên Long Môn bắt nguồn từ sự giống nhau của hai dãy đồi cản trở dòng chảy của sông Y tới cổng Trung Quốc điển hình đánh dấu lối vào phía nam của Lạc Dương. Long Môn có tới 100.000 bức tượng trong 2.345 hang động có chiều cao từ 25 mm tới 17 m. Tại đây cũng chứa 2.500 bia đá và chữ khắc, do đó nó còn được gọi là “Rừng bia cổ đại”, cũng như hơn 60 ngôi chùa Phật giáo. Nằm trong một khu vực thiên nhiên tuyệt đẹp, các hang động được chạm khắc vào vách đá dài 1 kilômét dọc theo hai bên bờ sông. Phần lớn các hang động được xây dựng vào thời nhà Đường (60%), Bắc Ngụy (30%) và thời kỳ còn lại chiếm 10%. Bắt đầu xây dựng vào năm 493 dưới thời Bắc Ngụy với sự bảo trợ của hoàng đế, gia đình quý tộc, tướng lĩnh, nhóm tôn giáo.

Thời Chiến Quốc, tướng Bạch Khởi của Tần đã từng đánh bại liên minh của Hàn và Ngụy tại nơi này.

hang da Long Mon 2

Vào năm 2000, hang đá Long Môn được UNESCO Công nhận là Di sản Thế giới như là một biểu hiện nổi bật của sự sáng tạo nghệ thuật của con người, cùng sự hoàn hảo của một loại hình nghệ thuật và sự gói gọn của tinh tế văn hóa nhà Đường ở Trung Quốc. Cùng với hang Mạc Cao và Hang đá Vân Cương thì hang đá Long Môn là một trong ba địa điểm điêu khắc cổ đại nổi tiếng nhất ở Trung Quốc.

lòng vả cũng như lòng sung: Thành ngữ này dựa trên sự kiện là tuy quả vả và quả sung hơi khác nhau, bên trong hai loại quả lại trông giống nhau: khi quả chín có những con ong nhỏ bò qua lại trông xấu xí, khiến cho người ta không muốn ăn.

Câu truyền miệng “Lòng vả cũng như lòng sung” ám chỉ một điều lòng ta thế nào thì lòng người cũng thế, tức ta sao người vậy, chớ vội chê người mà không xét mình.

Ca dao:

Lòng vả cũng như lòng sung
Một trăm con lợn cũng chung một lòng.

Lỗ Ban (770–476 TCN): tên thật là Công Du Ban, người nước Lỗ, thợ mộc lừng danh thời Chiến Quốc. Ông có một số sáng chế nổi tiếng như câu cường hay câu cự, một loại vũ khí có mũi nhọn thêm móc câu, giúp quân Sở kéo lại thuyền quân Việt để tiêu diệt, và thang mây giúp quân Sở đánh thành Tống.

Ông cũng sáng chế ra một loại thước phong thủy có đánh dấu các mốc kích thước đẹp–xấu để thuận tiện trong việc đo đạc. Từ đó, người ta lấy tên ông làm tên gọi cho loại thước đặc biệt này. Ngày nay, ở Việt Nam và các nước phương Đông, thước Lỗ Ban được kỹ sư, công nhân dùng chủ yếu trong xây dựng và thiết kế nội thất để chọn kích thước đẹp, hợp phong thủy.

Lỗ Trọng Liên: Người nước Tề thời Chiến Quốc, tính không chịu gò bó câu thúc, suốt đời ở ẩn không ra làm quan. Ông sang Triệu, gặp lúc Tần mang quân bao vây Triệu gấp lắm. Sứ nước Ngụy tìm đến Triệu mưu việc tôn Tần làm hoàng đế để cầu Tần bãi binh. Trọng Liên phản đối và vì đại nghĩa mà nói với sứ nước Ngụy là Tôn Viên Diễn rằng “Nếu Tần xưng đế thì Liên này sẽ nhảy xuống biển đông mà chết thôi.” Tần hay tin bèn lui quân 50 dặm và rồi dẫn quân về. Triệu được giải vây. Bình Nguyên Quân muốn đem ngàn vàng dâng tặng Trọng Liên, ông từ chối, cười nói: “Cái quý trong thiên hạ đối với kẻ sĩ là vì người là giúp cứu nạn, không nghĩ đến chuyện của biếu xén như việc con buôn.”

Lộ Bố Văn: Là một loại văn thư để ngõ như thông cáo ngày nay.

Ngày xưa, một đạo quân chính nghĩa sắp đi đánh dẹp đâu đó thường gửi tờ Lộ Bố Văn đến trước kể tội trạng đối phương đồng thời nêu mục đích chính nghĩa hành động chinh phạt của mình. Bài văn thường được viết vào dãi lụa trương lên.

Lộng Ngọc: Con gái Tần Mục Công, vợ Tiêu Sử. Sách nói hai người đều thành tiên lên trời.

Thiên hạ di kỷ: Thẩm A Chi trong năm Thái Hòa đời Ðường, một đêm ngủ ở nhà trọ chiêm bao thấy Tần Mục Công nói Tiêu Sử đã chết bèn đem Lộng Ngọc gả cho Thẩm. Ở với nhau được một năm thì Lộng Ngọc cũng lại chết. Tỉnh dậy té ra là chiêm bao.

Xem thêm: Tiêu Sử.

lời hạ quỹ: Lời người gùi sọt cỏ (Hạ là gùi, quỹ là cái sọt). Sách Luận Ngữ chép: Khổng Tử đánh khánh (Một nhạc cụ cổ) ở nước Vệ, có người gùi sọt cỏ đi qua cửa nói: “Người đánh khánh có thâm ý làm sao! không ai biết mình thì thôi đi thôi. Nước sâu thì mặc áo, không qua; nước cạn thì xắn áo lội qua” (ý khuyên Khổng Tử tùy thời mà hành đạo, được thì làm, không được thì thôi).

luân thường: gồm có ngũ luânngũ thường theo quan niệm phong kiến.

Ngũ luân:

  • Phụ tử hữu thân (Cha con có tình thân)
  • Quân thần hữu nghĩ (Vua tôi có nghĩa)
  • Phu phụ hữu biệt (Vợ chồng có phân biệt)
  • Trưởng ấu hữu tự (Lớn nhỏ có thứ tự)
  • Bằng hữu hữu tín (Bạn bè có chữ tín).

Ngũ thường: năm điều thông thường trong cuộc sống con người hình thành nên đạo đức:

  • Nhân: cách làm người. Để làm người tốt thì phải có cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. Trước khi muốn thành tài thì phải thành người.
  • Lễ: lễ độ, dạy con người cư xử cho phải phép, tôn trọng và hòa nhã với mọi người.
  • Nghĩa: chính nghĩa, công bằng, dạy con cư xử theo lẽ phải.
  • Trí: sự sáng suốt. Người có trí là người biết cách phân biệt đúng–sai, thiện–ác.
  • Tín: sự tin tưởng, dạy con người biết giữ chữ tín, nó lời phải giữ lấy lời.

Luật Hồi tỵ: Theo Wikipedia_ Luật Hồi tỵ, Luật Hồi tỵ ra đời dưới triều Vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) nhằm minh định việc bổ dụng đội ngũ quan lại phong kiến thời đó. Luật được hoàn thiện vào thời Vua Minh Mạng (trị vì 1820-1841), và được các vua nhà Nguyễn tiếp tục thực hiện sau đó.

Hồi tỵ là từ Hán-Việt cổ, hồi là trở về; tỵ là lách ra. Hồi tỵ nghĩa là tránh ra, lánh đi. Luật Hồi tỵ là luật quy định chung các trường hợp những người thân (anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê,…) thì không được làm quan cùng một chỗ. Luật Hồi tỵ cũng được áp dụng nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình.

Luật Hồi tỵ triều Vua Lê Thánh Tông gồm một số nội dung chính:

  • Không bổ nhiệm một viên quan về cai trị tỉnh/huyện mà ông ta xuất thân từ đó;
  • Không bổ nhiệm một viên quan tới nơi ông ta có người họ hàng tại nhiệm ở vị trí lãnh đạo;
  • Trong thời gian trị nhậm tại một tỉnh/huyện, viên quan không được cưới vợ, lấy thiếp là người của địa hạt đó;
  • Viên quan không được phép tại vị quá lâu ở cùng một địa phương hoặc cùng một viện, bộ chức năng.

Nội dung này cũng được quy định tại bộ Quốc triều Hình luật (nhà Hậu Lê), còn gọi là Luật Hồng Đức (một niên hiệu của Vua Lê Thánh Tông): “Quan lại không được lấy vợ, kết hôn, làm thông gia ở nơi mình cai quản; cũng như không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà ở nơi mình làm quan lớn, không được dùng người cùng quê làm người giúp việc”.

Luật Hồi tỵ, đến thời Minh Mạng, được áp dụng triệt để hơn, mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng và bổ sung những quy định mới với một số quy định cụ thể như sau:

  • Quan lại ở các bộ, kinh đô và tỉnh/huyện hễ có bố, con, anh em ruột, chú bác, cô dì cùng làm một chỗ đều phải đổi đi chỗ khác; trừ Viện Thái y là viện chuyên giữ việc thuốc men, chữa bệnh cần phải cha truyền con nối.
  • Người ở nha môn thuộc phủ/huyện cùng làng với quan lại phải chuyển đi nha môn khác làm việc.
  • Quan lại không được làm quan ở chính quê hương mình, quê vợ mình, thậm chí cả nơi đi học lúc còn trẻ.
  • Người có quan hệ thông gia với nhau, thầy trò không được làm quan cùng một chỗ.
  • Khi thanh tra, thụ lý án, nếu trong đó có tình tiết liên quan đến người thân thì phải bẩm báo để triều đình cử người khác thay thế.
  • Quan lại không được coi thi, chấm thi ở nơi nào có những người ruột thịt, thân quen ứng thi. Nếu có thì phải tâu trình thay người khác.
  • Nghiêm cấm quan đầu tỉnh đặt quan hệ giao du, kết thân, kết hôn với đàn bà, con gái nơi mình trị nhậm, cấm tậu nhà, tậu ruộng… trong địa hạt cai quản của mình.

Luật Hồi tỵ là một chính sách đắc lực và quan trọng giúp các vị vua thời phong kiến không chỉ có thể quản lý và khống chế đội ngũ quan lại trong việc lạm dụng chức quyền, địa vị để kết bè kéo cánh, âm mưu chống lại triều đình mà còn có thể phòng ngừa, giám sát và quản lý nghiêm ngặt các quan lại nhằm ngăn chặn, hạn chế nạn tham nhũng, quan liêu, cát cứ, chạy theo lợi ích cục bộ, địa phương.

Luật Hồi tỵ đến nay vẫn còn tính thời sự, như nhận xét của tác giả Thanh Truyền trong bài viết “Từ Luật Hồi tỵ – nhìn về Công tác cải cách hành chính hiện nay” đăng trên Báo Lâm Đồng ngày 15-1-2014: “Trong điều kiện nước ta hiện nay, với quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, thì việc nghiên cứu để ban hành những quy định có ý nghĩa như Luật Hồi tỵ là rất cần thiết. Luật này sẽ góp phần chống tham nhũng tận gốc, chống tiêu cực trong Công tác cán bộ, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đảm bảo hiệu quả Công việc thực sự “do dân, vì dân” vì “cán bộ là cái gốc của mọi Công việc” (Hồ Chí Minh)”.

Như thế, Luật Hồi tỵ là nhằm ngăn chặn những tình huống xung đột lợi ích (conflict of interest) theo ý niệm ngày nay

lục bộ: sáu bộ mạch. Ðông y bắt mạch cổ tay cả bên trái và bên phải, mỗi bên có 3 bộ là Thốn, Quan, Xích – hai bên thành sáu bộ. Bên trái có mạch tim, ruột non (bộ thốn), gan mật (bộ quan), thận, bong bóng (bộ xích). Bên phải có phổi, ruột già (bộ thốn), tì, vị (bộ quan), mạng môn, tam tiêu (bộ xích).

Lục Châu: vợ lẽ Thạch Sùng, khi bị Triệu Vương Luận cưỡng bức lấy về, nàng từ trên lầu gieo đầu xuống tự tử.

Thôi Giao khi thương tiếc người tình bị bán vào nhà quan Liên Súy Vu Ðịch có câu: Lục Chây thùy lệ thấp la câu (Lục Châu tuôn lệ ướt khăn là).

Lục Cơ: người Ngô Quận nước Tấn, làm việc cho Vương Dĩnh ở Thành Đô, sau bị người kỵ, tiếm lời cho Cơ có ý làm loạn, bị giết.

lục độ: 6 con đường tu hành của nhà Phật, gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh biến, thiền định, trí tuệ.

lục kinh: 6 bộ kinh của Nho Giáo, gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh NhạcKinh Xuân Thu; là các sách kinh điển của Nho giáo do Khổng Tử soạn.

Lục Lâm: Theo Hậu Hán thư, cuối thời Vương Mãng, miền Nam mất mùa đói khát, dân chúng từng đoàn người vào các miền đầm lầy tìm bắt cua ốc để ăn rồi sinh ra tranh cướp lẫn nhau. Vương Khương, Vương Phụng thẳng thắn lo dàn xếp ổn thỏa cho mọi người và kêu gọi dân chúng đứng lên khởi nghĩa. Dân chúng khắp nơi theo về với họ Vương có đến 7, 8000 người, lập căn cứ ở vùng rừng Lục Lâm về phía đông bắc thuộc Kinh Châu.

Về sau, “lục lâm” chỉ bọn cướp thường đặt căn cứ địa trong rừng và có thể đi cướp bóc ở bất cứ nơi nào..

Lục Nhâm, Lục Giáp: tên gọi hai thuật bói toán.

Lục Nhâm có sách Lục Nhâm đại toán nói về cách xem Nhâm. Lục Giáp có sách Cơ môn độn giáp nói về cách xem Ðộn.

lục quân: 6 đạo quân của vua, còn chư hầu hoặc các tướng chỉ có 4 đạo quân (tứ quân) trở xuống.

lục tài tử thư: có nghĩa “sáu sách tài tử”, chỉ sáu bộ sách do Kim Thánh Thán chọn ra là những tác phẩm ưu tú nhất, gồm:

  • Đệ nhất tài tử thư: Nam Hoa kinh của Trang Chu (tức Trang Tử)
  • Đệ nhị tài tử thư: Ly tao của Khuất Nguyên
  • Đệ tam tài tử thư: Thủy hử của Thi Nại Am và La Quán Trung
  • Đệ tứ tài tử thư: Sử ký của Tư Mã Thiên
  • Đệ ngũ tài tử thư: Thơ luật của Đỗ Phủ
  • Đệ lục tài tử thư: Tây sương ký của Vương Thực Phủ

lục tặc: sáu thứ hại. Theo Phật giáo thì sáu thứ hại cho sự tu hành là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc đẹp, tiếng thanh tao, mùi thơm, vị ngọt, ấm áp, êm ái dễ làm lòng người giao động xao xuyến. Chúng như có một ma lực huyền bí để quyến rũ, hấp dẫn lôi cuốn người vào bến mê, đọa lạc. Bởi vậy, người tu hành mắt không xem sắc đẹp, tai không nghe tiếng thanh, mũi không ngửi mùi thơm, miệng không nếm vị ngọt, thân thể xa kẻ khác, lòng không tưởng điều tà vạy.

Lục Thông: xem Tiếp Dư.

Lục triều: Theo Wikipedia_Lục triều, Lục triều chỉ sáu triều đại trong lịch sử Trung Quốc kế tục nhau cai trị ở Giang Nam, đóng đô ở Kiến Khang (trước là Kiến Nghiệp). Giai đoạn này bắt đầu ngay sau sự sụp đổ của nhà Hán vào năm 220, và chấm dứt khi Tùy Văn Đế tái thống nhất miền Nam và miền Bắc Trung Quốc. Lục triều là một giai đoạn chia rẽ, bất ổn định và xung đột.

Thuật ngữ “Lục triều” được dùng để chỉ hai nhóm triều đại khác biệt một chút tùy tác giả.

Hứa Tung thời Đường viết một cuốn sách có tựa Kiến Khang thực lục (建康实录), là nguồn gốc của tên gọi này, gồm sáu triều đại:

  • Đông Ngô (222–280)
  • Đông Tấn (317-420)
  • Lưu Tống (420–479)
  • Nam Tề (479–502)
  • Lương (502–557)
  • Trần (557–589)

Trong Tư trị thông giám, Tư Mã Quang sử dụng niên hiệu của các triều đại này trong biên niên ký sự chính thống:

  • Tào Ngụy (220–265)
  • Tấn (265–420)
  • Lưu Tống (420–479)
  • Nam Tề (479–502)
  • Lương (502–557)
  • Trần (557–589)

Theo Sử Trung quốc của Nguyễn Hiến Lê, Thời Lục Triều là thời văn thơ lãng mạn nhất của Trung Quốc. Văn thơ cần đẹp, mà lại cần phải du dương, có nhạc nữa. Chú trọng đến âm thanh để câu văn thêm nhạc là một sáng kiến đáng khen của văn nhân đời Tấn. Nhờ họ, văn học Trung Quốc được thêm một đặc sắc mà người phương Tây phải phục. Chỉ tiếc một điều là phần đông tác giả đời Lục Triều chú trọng đến lời, đến nhạc quá, chuyên luyện hình thức mà coi nhẹ nội dung nên thơ văn mất sinh khí, hóa ra phù nhược. Nam Triều, đời sống ở miền Nam yên ổn, nhàn nhã nên thơ văn rất thịnh, phong trào duy mỹ phát triển mạnh, đánh dấu một thời rực rỡ của văn học Trung Quốc.

Lũng Thủy: tên một suối nước ở Lũng Sơn, Thiểm Tây, Trung Quốc. Văn học cổ dùng Lũng Thủy tượng trưng cho chỗ ở của chinh phu vì nó ở mạn biên giới phía Tây. Các đời Tần Hán thường có quân đóng ở đây.

Lũy Thầy: công trình quân sự đặc sắc của Đào Duy Từ (1572–1634) do ông làm tổng công trình sư. Hệ thống lũy này thể hiện tài năng quân sự và tầm nhìn chiến lược của nhà quân sự tài ba Đào Duy Từ.

Chúa Nguyễn trong công cuộc mở nước xuống cõi Nam vẫn phải tập trung quân lực để chống trả những đợt tấn công của họ Trịnh ở bắc Sông Gianh. Từ những ngày đầu của cuộc phân tranh Trịnh–Nguyễn, có thời điểm quân Trịnh dốc sức tiến sâu vào đến Sông Nhật Lệ (cách Sông Gianh khoảng 50 km dọc bờ biển), gây ra mối lo ngại thường trực cho triều đình chúa Nguyễn. Nếu để tình thế ấy kéo dài, Đàng Trong sẽ phải quy phục Đàng Ngoài một sớm một chiều. Nhằm bảo vệ cơ đồ, chúa Nguyễn giao cho Đào Duy Từ xây dựng hệ thống thành lũy bề thế và hữu ích.

Theo Trịnh Sinh (2017), năm 1631 Đào Duy Từ chính thức cho người khởi công đào đắp đoạn lũy Đầu Mâu (nay ở Làng Lệ Kỳ, Xã Vĩnh Ninh, Huyện Quảng Ninh) và kết thúc ở cửa biển Nhật Lệ (Đồng Hới).

Lũy Thầy có tổng chiều dài khoảng 34 km, chiều cao thành lũy thường 12 mét, có đoạn chỉ 3–6 mét tùy theo địa hình và mục đích. Bề mặt đỉnh lũy luôn rộng rãi, người hay cả voi, ngựa có thể dễ dàng đi lại trên đó. Cứ mỗi đoạn 40 thước lại xây một pháo đài, đặt đại bác án ngự.

Hệ thống gồm có 5 tuyến lũy như sau:

1/ Lũy Trường Dục

Lũy Trường Dục, được xây năm 1630, nay thuộc Huyện Quảng Ninh. Dài khoảng 10 km, cao trung bình 3 m, chân lũy rộng 6 mét. Cadière (1906) miêu tả: Lũy Trường Dục là một tường thành bằng đất, bắt đầu từ làng Trường Dục, dưới chân Núi Trường Sơn, chạy tới vùng động cát của phá Hạc Hải. Lũy chạy dọc theo bờ đông Sông Long Đại ở Xã Xuân Ninh, đến chỗ giáp Sông Nhật Lệ ở Làng Cổ Hiền rồi rẽ sang bờ nam Sông Kiến Giang xuống đến phá Hạc Hải nằm ở phía đông của lũy.

Mục đích là nhằm ngăn chặn quân Trịnh ngược dòng Sông Nhật Lệ xuống đánh Đàng Trong. Vị thế chiến lược là rõ ràng: đầu tây là núi cao, đầu đông là vùng bùn lầy, lũy chắn ngang hai đầu. Lũy Trường Dục được hoàn thành chỉ trong vòng vài tháng nhờ đắp trên một lũy đã tồn tại trước đó. Nguyên thời Nguyễn Hoàng đang còn sống đã sai Trương Công Dà ra đắp Lũy Trấn Nhân, tức là tiền thân của Lũy Trường Dục.

Lũy được xây theo kiến trúc chữ “hồi” 囘 (các lũy về sau cũng thế) nên còn được gọi là Lũy Hồi Văn. Mặt ngoài có khung thành che chắn, bên trong là doanh trại, công sự chiến đấu, kho lương bố trí theo lối chữ “dĩ” 已 liên hoàn chặt chẽ với mặt lũy ngoài. Lũy được trang bị bằng vũ khí tự tạo của Đào Duy Từ.

Luy Thay_ban do
Hệ thống Lũy Thầy (Diệp Minh Tâm, 2020a)

2/ Lũy Đầu Mâu–Nhật Lệ

Lũy này còn được gọi là Lũy Động Hải, cách Lũy Trường Dục 20 km về phía bắc. Khâm định Việt sử thông giám cương mục gọi tuyến này là Lũy Trấn Ninh hoặc Trường thành Nhật Lệ, nhưng sau này tên Trấn Ninh được dùng cho đoạn lũy ở Thành phố Đồng Hới.

Mặc dù đã xây dựng được một chiến lũy Trường Dục bề thế, chúa Nguyễn Phúc Nguyên vẫn chưa yên lòng. Ông cử Đào Duy Từ và danh tướng Nguyễn Hữu Dật ra Quảng Bình khảo sát hình thế sông núi để xây thêm thành lũy. Theo lời khuyên của Đào Duy Từ, năm 1631 chúa Nguyễn cho đắp một tuyến lũy nữa kiên cố hơn cũng ở Huyện Quảng Ninh, dài 18 km, gồm có hai đoạn:

  • Lũy Đầu Mâu: bắt đầu từ Núi Đầu Mâu chạy dọc bờ nam Sông Lệ Kỳ khá rộng, hai bên là bùn lầy, đến Cầu Dài (là nơi Sông Lệ Kỳ chảy vào Sông Nhật Lệ).
  • Lũy Nhật Lệ: từ Cầu Dài chạy đến cửa Nhật Lệ. Lũy nay thuộc địa phận Huyện Quảng Ninh, các xã Phú Hải, Đồng Phú, Hải Thành (Thành phố Đồng Hới ngày nay).

Chiều cao Lũy Đầu Mâu–Nhật Lệ thường 12 mét, có đoạn chỉ 3–6 mét tùy theo địa hình và dụng ý sử dụng, phía ngoài đóng cọc gỗ lim, phía sau cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp để voi ngựa có thể bước lên và di chuyển dễ dàng trên mặt lũy. Cách 12-20 m xây một ụ đại bác, cách 4 m đặt một ụ súng phóng đá – tất cả tạo thành một công trình phòng thủ hiểm yếu và kiên cố. (Nguyễn Tiến Dũng, 2018; Trương Quang Nam, 2008)

Ghi chú: Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi “Lũy Trấn Ninh (tức là Lũy Đồng Hới) từ Núi Đâu Mâu đến cửa Nhật Lệ … dài 1120 trượng” [tức 4480 m]. Bài này ghi các tên theo nguồn khác để giữ nhất quán.

3/ Lũy Trường Sa

Năm 1633-1634 Nguyễn Hữu Dật nhận lệnh chỉ huy đắp nên Lũy Trường Sa. Dài tổng cộng 20 km, lũy này bắt đầu từ đụn cát Xã Quang Phú bây giờ (phía bắc Thành phố Đồng Hới), băng qua Sân bay Đồng Hới, vượt qua đường xe lửa, men theo miền gò đồi Xã Lý Ninh và gò đồi Lệ Kỳ Xã Vĩnh Ninh (Huyện Quảng Ninh) đến Vĩnh Tuy, theo triền núi Phúc Duệ, vượt ngã ba Sông Kiến Giang–Long Đại (Trần Xá–Cổ Hiền), qua Dinh Mười (Huyện Quảng Ninh) và vùng bùn lầy Võ Xá (Đào Duy An, 2018; Hiền Chi, 2014; Minh Phong, 2011).

Có thể phân Lũy Trường Sa thành 2 đoạn:

  • Lũy Trường Sa Bắc: dài khoảng 8 km, từ đụn cát Xã Quang Phú (không loại trừ nối với Lũy An Náu) đến bờ trái Sông Nhật Lệ ở cửa biển, nối với Lũy Nhật Lệ.
  • Lũy Trường Sa Nam: dài khoảng 12 km, từ bờ phải Sông Nhật Lệ ở cửa biển chạy đến Xã Hải Ninh.

Mục đích của Lũy Trường Sa là nhằm phòng thủ mặt biển và bảo vệ lũy Trường Dục ở đoạn phía Nam. Không chỉ có mục đích quân sự, Lũy Trường Sa còn có tác dụng ngăn bão và gió cho ngư dân bãi ngang, hạn chế cát bay lấn ruộng, góp phần ổn định địa hình ven biển.

Khác với các lũy trong đất liền, Lũy Trường Sa có thêm các đài hỏa hiệu.

4/ Lũy An Náu

Tin Quảng Bình (2016) chỉ cho biết lũy này chạy từ thượng nguồn Sông An Náu đến cửa biển. Sông An Náu tức là Sông Chánh Hòa bây giờ, chảy dọc theo rìa bắc Xã Lý Trạch, ở địa phận Huyện Bố Trạch.

5/ Lũy Trấn Ninh

Có những thông tin thiếu nhất quán về Lũy Trấn Ninh, nay thuộc Thành phố Đồng Hới.

Tin Quảng Bình (2016) cho biết Lũy Trấn Ninh được xây năm 1662 để bảo vệ thành Đồng Hới vốn là thành cổ, không phải là Thành Đồng Hới sau này vốn được xây năm 1812.

Tương tự, Trịnh Sinh (2019) cho rằng Lũy Trấn Ninh tiếp nối Lũy Đầu Mâu, chạy từ Cầu Dài, vòng sang phía tây thành Đồng Hới, bọc lấy Làng Đồng Phú, qua Hải Thành ra đến cửa sông Nhật Lệ. Phía ngoài lũy còn được đào hào vây quanh. Có điểm gây thắc mắc ở miêu tả “Lũy Trấn Ninh tiếp nối với Lũy Đầu Mâu chạy từ Cầu Dài”, bời vì như vậy là trùng lặp với Lũy Nhật Lệ.

Quan điểm hợp lý cho việc “vòng sang phía tây” có nghĩa là tuyến lũy chạy dọc theo mặt nam thành Đồng Hới trước rồi mới vòng sang phía tây, sau cùng chạy theo mặt bắc thành này. Tức là Thành Đồng Hới được bảo vệ bởi Lũy Nhật Lệ ở mặt đông, và bởi Lũy Trấn Ninh ở ba mặt còn lại.

Vì thế, hình vẽ hướng tuyến Lũy Trấn Ninh theo quan điểm trên, với một số giả định như sau:

  • Lũy Đầu Mâu: một nguồn xác nhận vết tích là đường Trương Định hiện giờ, phía tây Phường Phú Hải;
  • Lũy Nhật Lệ: đường Quách Xuân Kỳ hiện giờ ở mặt đông Thành Đồng Hới (Khuê Việt Trường, 2011), kéo dài theo đường Trương Pháp hiện giờ (Hoàng Táo, 2016);
  • Lũy Trường Sa: giả định vết tích là đường Võ Nguyên Giáp hiện giờ.
Luy Thay_Tp Dong Hoi
Lũy Thầy khu vực Thành phố Đồng Hới (Diệp Minh Tâm, 2020a)

Người dân Đàng Trong gọi hệ thống thành lũy này là Lũy Thầy để tỏ lòng tôn kính Đào Duy Từ như bậc thầy của chúa.

Không những nổi tiếng, Lũy Thầy còn là di sản văn hóa vật thể chứng minh cho sự sáng tạo trong lịch sử quân sự Việt Nam.

Những câu ca dao về Lũy Thầy:

Lũy Thầy ai đắp mà cao?
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu?

Khôn ngoan qua được Thanh Hà
Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy.

Thanh Hà: cửa Sông Gianh (trước gọi là Linh Giang) tạo nên ranh giới Đàng Trong–Đàng Ngoài nhiều năm.

Có tài vượt nổi Sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh Trường thành khó qua.

Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2020a).

Lư, Lạc: Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương là 2 danh sĩ đời Ðường Cao Tông. Bùi Hành Kiêm thường chê họ là những người nóng nảy, xốc nỗi, không phải là kiểu người được hưởng tuớc lộc. Sau, Lư vì ác tật mà gieo mình xuống nước chết, Lạc thì vì dự vào Ðảng loạn phản mà chết, đúng như lời Kiệm nói.

Lư Chiếu Lân (663-689): tên chữ Thăng Chi, hiệu U Ưu Tử. Ông là một trong “Sơ Ðường tứ kiệt”: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương.

Lương Thế Vinh (1441–1496): người Huyện Thiên Bảo, nay là Huyện Vụ Bản, Nam Định. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1463 triều Lê Thánh Tông lúc mới 23 tuổi, làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng.

Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.

Về sự sáng tạo của Lương Thế Vinh hồi nhỏ, có giai thoại kể rằng một lần trong lúc đang chơi đùa với các bạn, có một quả bưởi lăn xuống một hố hẹp và sâu, tưởng như không lấy lên được. Lương Thế Vinh nghĩ ra cách lấy bưởi lên bằng việc đổ nước vào hố và lợi dụng việc bưởi nổi trên nước để lấy lại quả bưởi.

Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả.

Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: “Nước Nam quả có lắm người tài!”

Lương Thế Vinh đáp lại rằng người nghĩ ra cách cân voi thật sự là Tào Xung, con của Tào Tháo. Điều này càng khiến cho sứ giả hổ thẹn vì chưa thuộc sử nước nhà.

can voi
Tranh minh họa Tào Xung cân voi

Thật ra, cho đến bây giờ chính một số người Việt vẫn viết (thậm chí trong một số sách đọc cho trẻ em) rằng Lương Thế Vinh có sáng kiến cân voi, từ đó ca ngợi ông là thần đồng đất Việt, dẫn dắt một cách sai lệch trẻ em Việt.

Lương Vũ Ðế: họ Tiêu tên Diễn, ban đầu làm quan nước Tề. Vua Tề vô đạo giết anh, Tiêu Diễn khởi binh vây hãm kinh đô, lập vua mới tức Hòa Ðế. Hòa Ðế vời Diễn làm Ðại tư mã, phong làm Lương Vương. Năm Trung hưng thứ 2 (502), Vua Tề nhường ngôi cho, đặt quốc hiệu là Lương. Sau Hầu Cảnh làm phản, vây hãm Ðài Thành, Lương Vũ Ðế phải chết đói.

Lưỡng quốc Trạng nguyên: Nguyễn Trực, con Nguyễn Thời Trung, quê Huyện Thanh Oai, sau dời sang Huyện Quốc Oai. Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Ðại Bản thứ 3 (1442) Triều Lê Thánh Tông, làm quan dưới triều Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, giữ chức Hàn Lâm viện thị giảng, Quốc tử giám tế tửu.

Ông từng đi sứ Trung Quốc, tương truyền đúng dịp nhà Minh mở khoa thi, ông cùng sứ thần các nước khác dự thi và đỗ Trạng nguyên nên gọi là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.

lược thao: từ chữ Lục thao, Tam lược, tên hai bộ sách thuộc về binh pháp cổ Trung Hoa.

* Lục thao do Khương Thượng (1134-247 trCN) làm ra.

Ông là một người có tài kinh bang tế thế, phò Võ Vương Cơ Phát (con của Văn Vương Cơ Xương) đánh thắng vua Trụ, lật đổ nhà Thương, dựng cơ nghiệp nhà Châu hơn 800 năm. Những mưu lược, kế hoạch dùng binh đánh trận, chấn chỉnh giềng mối đất nước đều ghi trong bộ “Lục thao”. Ðây là sáu phép dùng để định thiên hạ:

  • Văn thao dạy cách thu phục nhân tâm
  • Võ thao dạy cách định thiên hạ, giữ nước
  • Long thao dạy cách kén chọn tướng
  • Hổ thao dạy cách hành quân, tiến thoái, động tĩnh theo thiên lý
  • Báo thao dạy cách chiến đấu với địch theo trạng thái biến hóa của địch
  • Khuyển thao dạy cách huấn luyện binh sĩ.

* Tam lược tương truyền là bộ sách của Hoàng Thạch Công, người đời Tần-Hán (221 trCN – 196) biên soạn, truyền lại cho Trương Lương. Gồm có ba mưu lược đánh trận:

  • Tướng lược là mưu lược làm tướng
  • Quân lược là mưu lược đào luyện quân sĩ
  • Trận lược là mưu lược đánh trận.

Lục Vân Tiên, đoạn nói về Vân Tiên được thầy dạy, có kết quả:

Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.

Ý nói về tài văn võ song toàn thông hiểu binh pháp của Lục Vân Tiên.

Đoạn trường tân thanh:

Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài

Từ Hải có võ nghệ (côn quyền) lại còn có tài chỉ huy, quán triệt binh pháp, điều binh khiển tướng…

Lưu Bị mượn Kinh Châu: thành ngữ này xuất xứ từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Thoạt đầu, Kinh Châu thuộc Lưu Biểu, anh họ của Lưu Bị. Sau khi Lưu Biểu qua đời, con thứ là Lưu Tông được đưa lên nối nghiệp. Khi Tào Tháo kéo đại quân đến, Lưu Tông dâng Kinh Châu cho Tào Tháo (Hồi 40). Rồi Tháo bị đại bại ở Trận Xích Bích, phải rút quân về Hứa Đô mà không thể thể tiếp thu Kinh Châu (Hồi 50).

Từ đây, Kinh Châu là vấn đề gay go và dai dẳng nhất trong mối bang giao giữa hai nhà Tôn–Lưu. Tôn Quyền nghĩ Kinh Châu do chính Đông Ngô đánh chiếm được từ tay Tào Tháo nên Kinh Châu phải thuộc về Đông Ngô. Lưu Bị chiếm Kinh Châu vì muốn có đất lập nghiệp, viện hai lý do: phía Thục cũng có đóng góp công sức đánh Tào, và con trưởng của Lưu Biểu là Lưu Kỳ còn sống, chú giúp cháu giữ lấy Kinh Châu là lẽ đương nhiên. Lỗ Túc đành phải chấp nhận biện luận này. (Hồi 52)

Sau khi nghe tin Lưu Kỳ qua đời [năm 209], Lỗ Túc lấy cớ đến viếng tang nhưng mục đích chính là đòi lại Kinh Châu. Gia Cát Lượng nêu ý kiến Đông Ngô cho Lưu Bị mượn Kinh Châu, khi lấy được Tây Xuyên từ tay Lưu Chương thì sẽ trả Kinh Châu cho Đông Ngô. Huyền Đức viết một tờ văn tự, ký tên xong, Gia Cát Lượng cũng ký tên làm chứng, rồi yêu cầu Lỗ Túc cũng ký tên vào.

Nhưng sau khi lấy được Tây Xuyên, Lưu Bị lại thất hứa, thậm chí Gia Cát Lượng cùng với Gia Cát Cẩn diễn một màn kịch khi Gia Cát Cẩn nhận lệnh qua đòi lại Kinh Châu.

Thật ra, theo chính sử, không phải Lưu Bị xin mượn Giang Lăng rồi Tôn Quyền cho Lưu Bị vùng đất này. Hai ý nghĩa “xin mượn” và “cho mượn” khác nhau. Vì Tôn Quyền đặt trị sở Kinh Châu thuộc Ngô ở Giang Lăng, nên việc cho Lưu Bị “mượn Giang Lăng” vẫn được gọi là “mượn Kinh Châu”.

Sau Trận Xích Bích, Lưu Bị chiếm bốn quận phía nam: Vũ Lăng, Linh Lăng, Trường Sa và Quế Dương nhưng thấy không đủ cho “Long Trung sách” (sách lược chia ba thiên hạ mà Gia Cát Lượng trình bày lúc ở Long Trung). Do đó, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải tính tới việc tiếp cận địa bàn các quận phía bắc Kinh Châu.

Kinh Chau sau Xich Bich
Kinh Châu sau Trận Xích Bích

Bị thỉnh cầu Quyền để được bàn giao Giang Lăng thuộc Nam Quận, đánh đổi nửa Quận Giang Hạ của Lưu Kỳ mới qua đời mà có. Việc này chỉ đạt được sau cái chết của Chu Du (210) – người cực lực phản đối giao Giang Lăng cho Lưu Bị – và nhờ quan điểm ôn hòa hơn của người kế tục Chu Du là Lỗ Túc lên cầm quân Giang Đông.

Như vậy sau hai trận đánh Xích Bích và Giang Lăng, Kinh Châu được phân chia lại như sau:

  • Tào Tháo giữ Quận Nam Dương, nửa Quận Giang Hạ, và nửa Nam Quận là các Huyện Tương Dương và Phàn Thành;
  • Tôn Quyền chiếm được nửa Quận Giang Hạ: Giang Lăng đến Di Lăng;
  • Lưu Bị có 4 Quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa Nam Quận.
Kinh Chau sau khi phan chia lai
Kinh Châu sau khi phân chia lại

Lưu Bị viện cớ Kinh Châu thuộc Lưu Kỳ là luận điệu gượng ép. Sau khi Lưu Biểu chết, Lưu Tông là chủ Kinh Châu trong khi Lưu Kỳ không có tư cách gì cả. (Đó là theo cung cách thời bấy giờ; thời nay anh có thể đòi chia gia tài dù em được thừa kế.) Vì thế, Tào Tháo nhận Kinh Châu từ Lưu Tông thì Tháo là chủ Kinh Châu, và sau khi Tôn Quyền đánh đuổi Tháo thì Quyền là chủ mới của Kinh Châu. Còn nếu nói Lưu Bị cũng góp công đánh Tào thì đáng lẽ hai bên cần đàm phán với nhau xem công đó có bao nhiêu phần trăm rồi chia Kinh Châu theo tỷ lệ đó và chia theo đường ranh giới nào. Hai bên không muốn làm thế mà chỉ muốn chiếm toàn bộ Kinh Châu bởi vì vùng đất này có giá trị chiến lược và quân sự cực kỳ quan trọng trong đối sách chia ba thiên hạ của Lỗ Túc và Gia Cát Lượng.

La Quán Trung viết Lưu Bị dùng lý lẽ để chứng tỏ tính chính danh khi chiếm Kinh Châu, còn việc ký giấy “mượn” Kinh Châu chỉ là chiến thuật xoa dịu Đông Ngô mà lần lữa. Nhưng nếu viết theo chính sử rằng Đông Ngô cho mượn Giang Lăng như cách ban ơn thì sau này Đông Ngô có quyền đòi lại, Lưu Bị khó thoái thác.

Cách sửa đổi chính sử của La Quán Trung gây phản tác dụng đối với Lưu Bị ở chỗ sau này “Lưu Bị mượn Kinh Châu” trở thành một thành ngữ thông dụng của người Tàu, chỉ hành động bội ước, mượn rồi cứ chây lì không trả. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng việc “Mượn Kinh Châu”, thật ra chỉ là mượn Huyện Giang Lăng mà thôi, nhưng sau đó Tôn Quyền đòi trả lại hết 4 quận, bao gồm cả Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa thì là cho vay quá nặng lãi!

Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2019b).

Lưu Cầu: tên một hòn đảo ở Nhật Bản, xưa kia nổi tiếng là nơi có thép tốt để làm dao, vì vậy Lưu Cầu dùng để chỉ dao sắc, dao tốt.

Lưu Côn, Tổ Ðịch: Thời Tấn, cả hai người đều làm quan Chủ hạ Tư Châu, họ cùng ngủ chung. Nửa đêm, nghe gà gáy, Ðịch đá vào chân Côn mà nói: “Tiếng gà gáy không phải là tiếng gỡ”. Thế là họ cùng dậy múa kiếm.

Khi ấy, Ngũ Hồ làm loạn Trung Nguyên, vua phong cho họ làm tướng dẹp loạn. Côn nằm gối giáo đợi sáng, có chí tiểu trừ nghịch tặc. Ông thường nói: “Ta chỉ sợ Tổ Sinh (Ðịch) quất roi vào đầu giặc trước ta thôi.

Xem Tổ Ðịch.

Lưu Linh: Tự Bá Luân, làm chức Kiến uy tham quân đời Tấn, một trong Trúc lâm thất hiền (7 người hiền trong rừng Trúc). Tính phóng khoáng, thích uống rượu và uống không biết say, đi đâu cũng uống sai người mang đi theo, dặn hễ chết thì chôn ngay, có làm bài Tửu đức tụng ca ngợi việc uống rượu.

Cung oán ngâm khúc:

Cờ tiên rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

lưu ly: lưu có nghĩa là chảy, trôi nổi; ly có nghĩa là lìa; lưu ly là thân phận ly biệt gia đình, trôi nổi đây đó.

Đoạn trường tân thanh:

Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân! (2642)

Rễ bèo, chân sóng lạc loài
Nghĩ mình vinh hiển, thương người lưu ly (2872)

Thúc rằng: “Gặp lúc lưu ly
Trong quân, tôi hỏi thiếu gì tóc tơ (2918)

Lưu Thần, Nguyễn Triệu: Hai người vào chốn thiên thai. Xem Thiên Thai.

Lưu Vô Song: Ðời Ðường, là vợ chưa cưới của Vương Tiên Khách. Gặp loạn, nàng bị hãm vào trong cung đình. Tương truyền, Tiên Khách nhờ được nghĩa sĩ Cổ Áp Nha dùng kế đưa một thứ thuốc cho nàng uống chết đi rồi giả làm thân thuộc để chuộc thây nàng ra. Sức thuốc nhạt, nàng lại hồi sinh. Vợ chồng đưa nhau đi trốn rồi ở với nhau đến già.

Lưu Vũ Tích (772-842): đỗ Tiến sĩ năm Trinh Nguyên (785-804) thứ 9, làm Giám sát ngự sử đời Đức Tông, thời Thuận Tôn cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Thứ sử Lãng Châu. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương. Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào.

lừa ưa nặng: người ta cho rằng đặc điểm kỳ lạ của lừa là khi trên lưng không thồ hàng hoặc thồ quá nhẹ thì nó không chịu đi. Thành thử người ta phải chất lên lưng lừa hàng nặng hoặc cưỡi lên thì lừa ta mới chịu cất bước.

Từ đặc điểm trên, người ta suy ra với nghĩa bóng ám chỉ người không chịu nghe lời nói nhẹ nhàng, chỉ khi nặng lời hoặc dùng roi vọt, vũ lực mới nghe theo.

Lửa Côn Sơn: Chữ ở Thiên Thuấn Ðiển trong Kinh Thư: Hỏa viêm Côn Cương, ngọc thịnh câu phân. (Lữa đốt non Côn, ngọc đá đều cháy).

lửa duyên: Theo quan niệm nhà Phật, con người sở dĩ đau khổ là vì vướng vào Thập nhị nhân duyên, giống như 12 nguyên nhân bao gồm cả nguyên nhân vật chất lẫn nguyên nhân tinh thần. Lửa duyên ý nói những nguyên nhân này giống như thứ lửa có thể đốt cháy tất cả.

lửa Tần trong Hạng: chỉ cảnh tàn bạo, đốt phá trong chiến tranh.

Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng sợ các nhà Nho chê bai chính sách của mình bèn bắt đốt hết các sách sử (trừ sử nhà Tần), các kinh truyện, các sách của Bách gia chư tử. Hai người dám bàn nhau về Kinh Thi thì bị chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê bai đời nay thì giết cả họ. Quan lại biết mà không tố cáo thì cũng bị tội. Lệnh ban ra trong vòng 30 ngày không đốt sách thì khắc vào mặt cho đi thú để xây và canh giữ Trường Thành. Hạng Vũ phá cửa Hàm Cốc, đưa binh về hướng Tây làm cỏ thành Hàm Dương, đốt cung thất nhà Tần, lửa cháy 3 tháng liền không tắt.

Lữ An: người đời nhà Ngụy (220-264), vì ngưỡng mộ Kê Khang, một trong”Trúc lâm thất hiền” (bảy ông hiền trong rừng trúc), nên tìm đến ra mắt. Kê Khang vốn người có tính cao khiết, giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là một người có biệt tài về các môn: cầm, kỳ, thi, họa. Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan, mai danh ẩn tích, ngày ngày ngao du sơn thủy, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy giờ nhà Ngụy họ Tào suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn lật đổ nên tìm mọi cách trừ khử những phe phái chống đối. Khi Lữ An tìm đến, hai người kết bạn thâm giao. Không ngờ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh đẹp, muốn chiếm đoạt nên bắt An hạ ngục. Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan, nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn thuộc con rể trong tôn thất nhà Ngụy, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang dám khinh chê Vua Thang, Vua Hạ Vũ, Văn Vương, Khổng Tử là có ý phản loạn, nên kết án tử hình.

Trong bài Tư quy của Vi Trang có câu “Tử Kỳ điêu tạ Lữ An vong”, Hải Đà và Điệp luyến hoa đều dịch là “Tử Kỳ khóc bạn”. Tử Kỳ chơi thân với Bá Nha (xem tri âm).

Lã Phụng Tiên, Ðiêu Thuyền: Theo Thông chí Hậu Hán liệt truyện, Lã Phụng Tiên, tức Lã Bố, người đất Cửu Nguyên đời Hậu Hán. Trưóc tôn Ðinh Nguyên làm cha nuôi, sau lại giết Ðinh Nguyên về làm con nuôi Ðổng Trác. Bấy giờ, Ðổng Trác chuyên quyền, khuynh loát triều đình, âm mưu cướp ngôi vua nhà Hán. Ðổng Trác lại có Lã Bố là tướng kiêu dũng nên các công khanh ai cũng sợ Trác. Chỉ có một mình Tư đó Vương Doãn bề ngoài tuy nhún nhường, chịu nhẫn nhục nhưng trong bụng lo việc giết Ðỗng Trác.

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, trong phủ Vương Doãn có người con hát tên là Ðiêu Thuyền được kén vào phủ từ thuở nhỏ, được dạy cho múa hát, tuổi mới 16 đã đủ cả sắc tài. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn biết hai cha con Ðỗng Trác, Lã Bố cũng cùng tuồng hiếu sắc bèn dùng kế liên hoàn: Trước đem Ðiêu Thuyền gả cho Lã Bố, sau lại đem gả cho Ðổng trác. Ðiêu Thuyền ở trong tùy tiện lập kế ly gián hai bố con. Bố cho rằng Trác cướp vợ mình, Trác nghi Bố ghẹo và yêu vợ yêu của hắn, để cho Lã Bố giết Ðổng Trác. Lã Bố vốn là kẻ hữu dũng vô mưu, thấy lợi quên nghĩa nên trúng kế Vương Doãn, giết Ðổng Trác, lấy Ðiêu Thuyền làm vợ.

Lã Bố đánh nhau với Tào Tháo, bị dư đảng của Trác kéo quân vào kinh thành đánh bại. Sau Lã Bố bị Tào Tháo bắt, thắt cổ chết.

Trinh Thử:

Ðiêu Thuyền há chính chuyên nào
Khi ra Lã Bố, khi vào Ðổng Công

Vân Tiên:

Trực rằng ai Lữ Phụng Tiên
Phòng toan đem thói Ðiêu Thuyền trêu ngươi

Ghi chú: Điêu Thuyền được xem là “Tứ đại Mỹ nhân” của Trung Quốc, nhưng thật ra là nhân vật hư cấu. Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2019b).

Lữ Hậu: tên Lữ Trĩ, vợ của Hán Cao Tổ từ lúc còn hàn vi, là con người cứng rắn, quyết đoán giúp Cao Tổ bình định thiên hạ. Các công thần lập quốc như Hàn Tín, Bành Việt bị Cao Tổ giết phần lớn do sức của Lữ Hậu.

Khi còn ở trong quân Hạng Vương làm con tin cùng Thẩm Tự Kỳ vốn đã thích nhau, sau Lã Hậu ở góa, nhớ tình xưa nghĩa cũ nên tư thông. Tư Mã Thiên viết một cách tế nhị trong Sử ký rằng Thẩm Thừa tướng không làm việc nước, chỉ xem xét việc trong cung.

Sau khi Cao Tổ mất, Thái tử nối ngôi tức là Huệ đế.

Thái hậu chặt chân tay Thích phu nhân (vợ lẽ yêu của Hán Cao Tổ), móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu, gọi đó là “người lợn.” Sau mấy hôm, thái hậu cho gọi Hiếu Huệ đế vào để xem “con người lợn.” Hiếu Huệ Đế thấy, hỏi; biết đó là Thích phu nhân, liền khóc rống lên. Do đó, Hiếu Huệ đế mắc bệnh, trong hơn một năm không dậy được, sai người nói với thái hậu: “Việc đó không phải là việc con người làm! Tôi là con của thái hậu, không thể nào trị thiên hạ được!”

Hiếu Huệ vì thế ngày đêm uống rượu, chơi bời dâm dật, không nghe chính sự, cho nên mắc bệnh.

Sau khi Hiếu Huệ đế mất, tất cả các hiệu lệnh đều do thái hậu đưa ra. Thái hậu gọi mệnh lệnh của mình là chế, ý ngang với hoàng đế, lập những người họ Lữ làm vương và nắm binh quyền.

Khi Đế lớn lên, nghe nói mẹ mình bị giết, mình không phải là con của hoàng hậu, bèn nói: “Hoàng hậu làm sao có thể giết mẹ ta mà gọi ta là con? Giờ ta còn bé, nếu ta trưởng thành thì sẽ thay đổi.”

Thái hậu nghe tin ấy lấy làm lo lắng, sợ Đế làm loạn, bèn phế truất Đế. Sau khi Lữ Hậu chết, Thừa tướng Trần Bình và Thái úy Chu Bột giết cánh họ Lữ, lập Đại Vương (người con lớn nhất trong số những người con của Cao Tổ còn sống) lên làm vua.

Ly tao: có nghĩa nỗi sầu ly biệt, là tựa bài thơ của Khuất Nguyên (khoảng 340–278 TrCN). Theo Cổ văn Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, Thiên Ly tao là bài thơ dài đầu tiên của Trung Quốc: trên 370 câu gồm 2.490 chữ. Ly tao được bình chọn là đệ nhị tài tử thư trong lục tài tử thư của Trung Quốc.

Đầu tiên, Khuất Nguyên kể dòng dõi, thân thế của mình, công phu cầu học và tu đức ra sao, lòng trung quân ái quốc ra sao, Sở Hoài Vương vì nghe lời dèm pha của tiểu nhân mà ghét bỏ ông, ông sinh ra thất vọng, tưởng tượng như gặp Vua Trùng Hoa (Vua Thuấn) mà bày tỏ nỗi lòng. Ông ôn lại sự tích của Vua Hạ Vũ, Vua Khang, Vua Kiệt, Vua Trụ… (thời nào có minh quân và hiền thần thì nước trị, thời nào gặp bạo quân và nịnh thần thì loạn) như có ý để răn Vua Sở.

Đoạn giữa, ông tưởng tượng đi từ đất Thương Ngô (nơi có mộ Vua Thuấn), tới Huyền Phố, Hàm Trì, Phù Tang và bay tuốt lên thiên đình, nhờ sự giúp đỡ của những thần Hi Hòa, Vọng Thư, Phi Liêm, Lôi Sư… Nhưng tới cửa thiên đình, thần giữ cửa không cho ông vô; ông lại bay tới Bạch Thủy, Lãng Phong, Xuân Cung, Cùng Thạch, Vị Bàn, yêu cầu Mật Phi thần nữ và hai hiền nữ họ Diêu, kết quả cũng bị cự tuyệt.

Đoạn cuối: không biết đi đâu nữa, ông lại hỏi ý kiến Linh Phân và Vu Hàm (các thần bói); hai vị thần này khuyên ông cứ tiếp tục đi nữa, ông lại đi khắp các nơi như Côn Lôn, Thiên Tân, Lưu Sa, Xích Thủy… mong tìm được chút an ổn trong lòng; nhưng khi về gần tới cố hương thì người đánh ngựa buồn rầu, rỏ lệ, chính con ngựa của ông cũng bịn rịn quay đầu lại nhìn nơi quê cũ, không chịu đi nữa, và ông than thở: “Trong nước đã không có người biết ta hề, thì còn nhớ tiếc gì cố đô! Đã không được vua dùng để thi hành chính trị tốt hề, thì ta nên đi theo Bành Hàm thôi”. Bành Hàm là một hiền sĩ đời Ân, can vua mà vua không nghe mới ôm đá mà tự trầm. Vậy là ông đã quyết định tự tử sau khi viết xong thiên Ly Tao.

Cảm xúc của ông cực mạnh; bỗng vui rồi bỗng buồn, lúc chán nản muốn đi xa, lúc lại muốn gặp Thượng Đế, rồi tự nhiên nghĩ đến tình luyến ái, rồi lại thất vọng mà hỏi thần Bói; mới bùi ngùi nhớ cố đô đó mà đã có ý tự sát ngay rồi. Tinh thần đau đớn gần như thác loạn, chỉ vì lòng yêu nước của ông rất nồng nhiệt mà nỗi đau xót của ông đã tới cực điểm.

Sức tưởng tượng của ông cũng rất dồi dào: ông nhân cách hóa cây cỏ, vạn vật, ví những cỏ lau, cỏ chỉ với hạng người quân tử, dùng chim trẫm, chim tu hú làm mối mai, lại muốn sai khiến cả thần gió, thần trăng, thần sấm, thần sét. Ngọn bút thực phóng lãng, lợi dụng tất cả các thần thoại của Trung Quốc để diễn tả tất cả nỗi u uất trong hằng chục năm của ông, lưu lại cho muôn thuở một lời nức nở nghẹn ngào, bất tuyệt.

Ly tao là bài thơ lãng mạn–trữ tình–tự thuật đầu tiên và được xem là hay nhất trong văn học sử Trung Quốc. Ly tao nổi tiếng đến mức người Trung Quốc về sau coi đó là đại biểu của thơ ca. Họ gọi nhà thơ, nhà văn là “tao nhân, mặc khách” (ở Việt Nam ta trước đây cũng quan niệm như vậy, nên Lê Thánh Tông gọi thi đàn do mình sáng lập là “Tao đàn”, và Thế Lữ trong bài Cây đàn muôn điệu viết “Mượn cây bút nàng Ly tao tôi vẽ…”).

Về chữ “Ly tao”, có nhiều cách giải thích. Chu Bích Liên, trong sách Cổ thi hải, kết hợp ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, lý giải rằng: Ly tao nguyên là một điệu dân ca nước Sở, thích hợp với việc thể hiện những nỗi uất ức, bất bình; vì thế nhà thơ Khuất Nguyên khi bị Vua Sở đầy ải đã dùng Ly tao làm đề để trữ phát những nỗi đau buồn day dứt uất kết trong lòng, đồng thời nói lên lý tưởng mà mình hoài bão.

Ở ta, thông thường vẫn hiểu chữ “ly tao” theo cách chú giải của Vương Dật (người cuối đời Ðông Hán): “Ly tao – nỗi sầu ly biệt”. Chú như vậy cũng thông (có thể đây là nguyên nghĩa của Ly tao trong Sở điệu).

Lý Bạch (701–762 hoặc 763): nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Quốc nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên. Theo lời Lý Bạch kể lại, ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cao nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc.

Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Từ đó, chí hướng của ông không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt. 15 tuổi ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ Gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Năm 16 tuổi, mọi người ở Tứ Xuyên đều biết tiếng ông, nhưng ông lại tỏ ra chán nản, lên núi sống ẩn dật.

Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Trường An… Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục. Rồi ông đến làm dưới trướng của Thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, “có thể sánh với Tư Mã Tương Như”. Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Quốc, như là Hồ Động Đình, Sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ… Đến năm 726, ông đến Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình, được mời đi làm quan nhưng ông không nhận.

Năm 735, ông dẫn vợ qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây ông được năm người bạn – những ẩn sĩ đương thời – rủ lên núi thưởng ngoạn, uống rượu làm thơ ở Trúc Khê. Nhóm này được gọi là Trúc Khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc).

Năm 741, Lý Bạch giã từ vợ con, đến Hồ Nam rồi Giang Tô, Sơn Đông… đi đến đâu danh tiếng lan ra đến đó. Năm sau, ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở ẩn tại Thiểm Trung.

Đến đây, có một giai thoại về tính gàn dở của Lý Bạch.

Năm 742 đời Đường Huyền Tông Lý Bạch đến Trường An ứng thí, gặp Hạ Tri Chương (đang giữ chức Hàn Lâm), cả hai đều mê rượu, mê thơ nên trở thành thân thiết. Khoa thi vừa xong, Hạ Tri Chương sợ Lý Bạch không có tiền đút lót sẽ bị đánh rớt, liền gửi một lá thư giới thiệu cho giám khảo. Thư đến hai quan giám khảo là Cao Lực Sĩ và Dương Quốc Trung. Hai người này vốn không thích Hạ Tri Chương, nên ghét lây Lý Bạch. Lúc chấm thi, thấy hai chữ Lý Bạch, Dương Quốc Trung liền phê: “Người này dốt quá, chỉ đáng mài mực cho bọn sĩ tử thôi”. Cao Lực Sĩ phê hùa theo: “Có lẽ chưa đáng mài mực, chỉ đáng cởi giày cho họ thôi”. Rồi đánh hỏng vào bài thi của ông.

Thi rớt kỳ ấy, Lý Bạch nghe lời Hạ Tri Chương ở lại chơi ít tháng, đợi Hạ tiến cử. Một hôm sứ nước Phiên dâng thư cho Đường Huyền Tông bằng tiếng Phiên, cả triều không ai đọc được. Huyền Tông vừa tức giận vừa hổ thẹn, hẹn sứ giả 6 ngày sẽ trả lời thư. Hạ Tri Chương kể chuyện cho Lý Bạch nghe. Vì Lý Bạch từng được mẹ dạy chữ Phiên, ông bảo “cũng chẳng khó gì”, liền hôm sau được Vua Đường vời vào triều. Lý Bạch không chịu vào, vua liền phong cho học vị Tiến sĩ, ông mới mặc áo, đội mão bước vào. Cầm thư Phiên, Lý đọc vanh vách. Vua từ đó rất thích ông, không ngờ lại có người thông tuệ như vậy, liền cho ông làm Hàn Lâm học sĩ giao việc thảo thư từ, chuyên giữ việc mật.

Đến khi Huyền Tông sai viết thư trả lời bằng tiếng Phiên, Lý Bạch mặt đỏ vì rượu, liểng xiểng đi đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung lại mài mực ông mới chịu viết (có truyện kể là Dương Quý phi). Hai người này đành phải lúi húi làm theo.

Ly Bach_Cao Luc si coi giay
Tranh minh họa thời Thanh “Lực Sĩ cởi giày, Quý phi mài mực”

Đến năm 745, do lối sống của ông gàn dở bê bối, say xỉn suốt ngày, lại bị Cao Lực Sĩ và Dương Quốc Trung dèm pha nên Dương Quý phi cũng phát ghét, chỉ trích luôn luôn làm Đường Minh Hoàng khó xử. Lý Bạch nhận thấy điều này, cộng với lòng đam mê du lãm đang trỗi dậy, ông liền từ biệt vua Đường. Vua rất buồn, nhưng cũng chiều theo, lại tặng thêm rất nhiều vàng nhưng thi nhân không nhận, cuối cùng trao cho ông quyền uống rượu miễn phí tại bất cứ quán rượu nào đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố thanh toán. Đó là may mắn cho đời sau, bởi vì nhờ đó Lý Bạch để lại nhiều bài thơ hay.

Trong 10 năm kể từ lúc đó, Lý Bạch tha hồ uống rượu và đi chơi. Ông từng qua Triệu, Ngụy, Tề, Tần, Lương, Tống… các vùng Bân, Kỳ, Thương, Ư, Lạc Dương, các sông Hoài, sông Tứ… Do đi nhiều nên ông cũng quen biết và thân thiết với rất nhiều, trong đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích…

Năm 755, ông quen với Ngụy Hạo ở Quảng Lăng, hai người cùng xõa tóc đi thuyền vào sông Tần Hoài, sau đó đến Tuyên Thành. Tháng 11 năm này có loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch về ở ẩn tại Lư-Sơn.

Năm 756 (56 tuổi), tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời ông về phủ. Nể lời, Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Úy đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757 bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm xuống tội đi đày. Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó. Tuy nhiên tuổi già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng.

Đến năm 762, Vua Đường Đại Tông – một người yêu thơ Lý Bạch – lên ngôi, cho người mời Lý Bạch, nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi.

Tục truyền có một đêm, khi Lý Bạch đang say sưa trên bờ Sông Thái Thạch, Tỉnh An Huy, ông nhìn thấy trăng ở dưới đáy nước đẹp quá, liền nhảy xuống, với ý định vớt trăng lên, nhưng chết đuối. Từ nơi đó, về sau người ta xây một cái đài đặt tên là Tróc Nguyệt Đài (Đài Bắt Trăng). Cũng có bằng chứng cho rằng Lý Bạch đã tự tử. Chuyện ông nhẩy xuống sông ôm trăng có phần nào thêu dệt, nhưng chính vì thế, làm cho thơ ông thơ mộng hơn, nổi tiếng hơn.

Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Sử thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1.800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1.000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương tiến tửu, Hiệp khách hành, Thanh bình điệu, Hành lộ nan

Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ…), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt…), cảm thông cho người chinh phụ (Trường Can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca…), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu…), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ…), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn…) Nhưng nhiều nhất vẫn là rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu…)

Bài thơ dưới đây nói lên nỗi lòng nhớ quê hương của ông, một bài thơ mà mọi người Hoa đều ngâm khi xa quê hương.

Tĩnh dạ tứ – Lý Bạch

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
.

Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh – Lê Nguyễn Lưu dịch thơ

Trông trăng dọi trước giường
Những ngỡ đất mù sương
Ngẩng đầu nhìn trăng tỏ
Cúi đầu nhớ cố hương

Ly Bach_Tinh da tu

Bài thơ dưới đây cũng được truyền tụng rất nhiều:

Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 – Lý Bạch
Một mình uống rượu dưới trăng kỳ 1 – Hải Đà dịch thơ:

Vườn hoa với bầu rượu
Không bạn, uống mình ta
Mời trăng cùng nâng chén
Với bóng nữa thành ba

Trăng nào đâu biết uống
Bóng theo ta mặn mà
Cùng trăng bên cạnh bóng
Vui xuân thật thiết tha

Trăng mơ nhìn ta hát
Ta múa, bóng nghiêng qua
Cùng vui khi tỉnh rượu
Hết say người chia xa

Kết thân tình thắm thiết
Hò hẹn bến Ngân qua.

Ly Bach_Mot minh uong ruou duoi trang
Tranh minh họa Lý Bạch một mình uống rượu dưới trăng

Lý Hạ (790-816): thuộc dòng dõi tôn thất nhà Đường, cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, khi mới lên bảy đã biết làm thơ, nằm trong nhóm 4 người Thi Phật Vương Duy, Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Quỷ Lý Hạ – bốn thiên tài Phật Tiên Thánh Quỷ cùng tụ hội nhau trong một giai đoạn hoàng kim của thi ca Trung Quốc.

Lý Hạ vì húy kỵ tên cha là Tấn Túc nên không đi thi. Cả đời ông chỉ làm một chức quan nhỏ là Phụng lễ lang (trông coi về nghi lễ). Danh sĩ nổi tiếng đương thời là Hàn Dũ vì mến tài ông mà viết bài biện húy nhưng rốt cuộc Lý Hạ chưa kịp ứng thí thì đã yểu mệnh.

Trong lịch sử Đường thi, cùng với huyền thoại Thi Tiên Lý Bạch nhảy xuống sông ôm trăng rồi cưỡi kình ngư bay lên trời, thì cái chết của Lý Hạ được đời sau truyền lại cũng nhuốm màu huyền thoại: khi ông bệnh nặng, bỗng có một vị tiên mặc áo lụa đào, cưỡi con rồng màu đỏ bay đến bên cửa, tay cầm một cuốn sách trao cho Lý Hạ và nói: Thượng đế đã cho xây xong lầu Bạch Ngọc, xin mời ông lên gấp để viết cho bài ký. Lát sau thì Hạ mất (theo Tiểu truyện Lý Hạ – Lý Thương Ẩn).

Khi bàn về cái chết kỳ dị của Hạ, người đời cho rằng được Thượng đế mời lên thì Hạ là tiên, còn những kẻ ngàn năm sợ hãi ngưu thần xà quỷ thì gán cho ông là quỷ. Do gia cảnh cơ hàn, lại sống trong thời đại môn phiệt đang thịnh nên dù có tài, ông cũng vẫn phải chịu mọi sự rẻ rúng và đả kích. Nỗi niềm phẫn uất của kẻ tài cao phận thấp, sinh bất phùng thời nếu bị câu nệ vào chữ nghĩa mà chỉ thấy hư ảo và quái đản thì hậu thế chỉ có thể biết một Lý Hạ-quỷ tài mà không thấy được một Lý Hạ-quỷ thi.

Sinh thời, Trường Cát không có ý định ghi danh thiên cổ nên thơ ca ít được lưu giữ và tổn thất phần nhiều. Tác phẩm của ông, có lần bị người anh họ vì ghen ghét, đố kỵ nên đã đem bản thảo ném vào nhà xí. Về sau, người đời gom góp lại được mấy trăm bài và đặt tên ban đầu là Lý Hạ tập (theo thiên Văn nghệ chí cuốn Đường sử, Tống sửTrình thị thông chí), sau đổi tên là Xương Cốc tập. Hiện nay tập thơ ông có tên là Lý Trường Cát ca do lấy từ bài tựa của Đỗ Mục theo bản sưu tập của Ngô Tây Quyền.

Với cùng quan niệm Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu (lời mà không kinh động được lòng người thì có chết cũng không nguôi), thơ Lý Hạ hướng đến một thế giới cực kỳ quỷ dị. Âm hồn lãng đãng, ngưu quỷ xà thần, vật vờ trong chốn u minh nên cảnh tượng và ngôn từ trong thơ vô cùng khó hiểu. So Ly Tao với thơ Hạ, Đỗ Mục viết:

Đối với thơ ca Lý Hạ thì vẻ rực rỡ của mùa xuân không đủ để nói lên sự hài hòa, sự thanh khiết của mùa thu không đủ để nói lên phong cách; quan tài bằng ngói, đỉnh khắc chữ triện không đủ để nói lên vẻ cổ kính; vườn hoang điện phế, cỏ cây đồi lũng không đủ nói lên nỗi niềm tình oán bi sầu; ma trâu, thần rắn không đủ để nói lên vẻ hoang lương quái đản mà kỳ ảo. Cho nên là hàng miêu duệ của Ly Tao, dù về nghĩa lý tuy không bằng nhưng ngôn từ có chỗ hơn cả Ly Tao.

Viết theo thể nhạc phủ (thi ca làm theo nhạc cung đình có vần có điệu), thơ Hạ có những lời đọc lên chứa bao nhiêu là cung bậc, nghe qua thì rộn rã âm thanh nhưng không giấu nỗi chỗ bi sầu, như đoạn dịch Nôm sau:

Rượu uống biển Bắc
Cờ đánh núi Nam
Lời ca mê đắm
Tiếng sáo ngậm ngùi.

Hạ tự ví mình “hai mươi tuổi mà chưa được đắc ý, tấm lòng sầu úa như nhánh lan khô” cũng là chân dung của người tài hoa yểu mệnh. Bi phẫn thời cuộc nhưng ông vẫn giữ được khí phách ngang tàng của một bậc quân tử, xem thường kẻ xu thời phụ thế. Khi Nguyên Chẩn, một người nổi tiếng thi đàn lúc bấy giờ đến gặp, Lý Hạ không thèm tiếp mà sai nô bộc ra nói rằng: “Kẻ thi đậu khoa Minh kinh có việc gì mà phải đến tìm Hạ?” Hiểu được tính cách và tài hoa của Lý Hạ thì đọc thơ ông mới hiểu được vinh danh mà người đời gán cho ông thi trung hữu quỷ (trong thơ có quỷ) biết bao là trân trọng.

Thơ Hạ khuyến tửu (khuyên uống rượu) để khai sầu (giải sầu), khuyến mạc chủng thụ (đừng trồng cây) vì thấy cổ du du hành (thiên cổ mênh mang) sầu bất tận bởi nỗi ngày ngắn, mùa thu ảm đạm, quỷ khốc, trăng lạnh, lá tàn… Nguyễn Tôn Nhan nhận định rằng tuy văn học sử Trung Quốc xếp Hạ vào trường phái duy mỹ (?) cuối đời nhà Đường nhưng thơ Hạ hẳn phải là “quái mỹ”. Cái đẹp kỳ dị trong thơ Hạ khiến cho ngôn từ nhuốm màu huyền bí, u mặc:

Trên nấm mộ mùa thu, tiếng quỷ ngâm nga thơ Bảo gia
Máu hận ngàn năm ngấm vào đất và biến thành ngọc đá…

Mối hận sầu uất, nghe quỷ đọc thơ… hẳn chỉ có người tương cảm với thiên địa được như Hạ mới có thể nghe thấu, hiểu thấ?y Quỷ, tiên suy cho cùng cũng là linh khí của trời đất, người đời cớ sao lại xưng tụng tiên, thánh mà coi quỷ thần là thứ phải tránh xa? Nếu quả thật quỷ tài Lý Hạ chỉ sinh ra để làm kinh sợ lòng người thì Thiên đế vì sao biết mến mộ mà cung kính mời lên bàn chuyện văn chương?

Thi trung hữu quỷ, nhưng ắt trong thơ Hạ còn cận nhân tình, cận nhân gian, thiên địa ở riêng một cõi xưa nay hiếm.

Lý Thanh Chiếu (1084–1155): nữ tác gia chuyên sáng tác các bài từ nổi tiếng thời nhà Tống, cùng Tân Khí Tật xưng gọi Tế Nam nhị An.

Với ngôn từ hoa mỹ, bà đứng đầu trường phái Uyển ước từ biểu thị sự hoa lệ và giàu sự gợi hình trong khi sáng tác. Danh tiếng của bà được đánh giá cao nhất trong các nữ thi nhân của Trung Quốc, được xưng tụng là Thiên cổ đệ nhất tài nữ. Theo đánh giá của nhà văn Lâm Ngữ Đường, thì Lý Thanh Chiếu là “Nữ thi nhân bậc nhất Trung Hoa”.

Sáng tác của bà có: Dị An cư sĩ văn tậpDị An từnhưng đã thất truyền, người đời sau thu thập lại khoảng 70 bài từ soạn thành cuốn Sấu Ngọc từLý Thanh Chiếu tập hiệu chú. Ngoài từ, thơ Lý Thanh Chiếu hiện nay còn 15 bài, phần lớn là loại thơ cảm thán thời thế, vịnh sử, gửi gắm tấm lòng yêu đất nước.

Phong cách thơ của bà cứng cáp, hào phóng như bài Đề Bát Vịnh lâu (Đề lầu Bát Vịnh), Thướng Khu mật Hàn công thi (Thơ dâng lên ông Khu mật họ Hàn)…Trong số đó có bài Tuyệt cú  được nhiều người truyền tụng. Ngoài ra, bà còn có bài văn xuôi Kim thạch lục hậu tự (Bài tựa đề sau cuốn Truyện vàng đá) kể lại quá trình vợ chồng bà biên soạn lại tập Kim thạch lục, với ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phóng khoáng, sinh động, được cả hai mặt là tự sự và trữ tình.

Các sáng tác của Lý Thanh Chiếu được chia thành hai thời kỳ:

  • Trước sự kiện Tĩnh Khang, phần lớn từ của bà biểu hiện những cảm xúc trăn trở về tình yêu, niềm vui thích đối với cảnh vật.
  • Sau khi Tống Cao Tông phục Tống, phần lớn từ của bà chứa đựng nỗi nhớ thương cố hương cùng niềm cô quạnh của mình.

Nguyễn Hiến Lê (1997) nhận xét: “Lý Thanh Chiếu là một trong những nữ sĩ đa tài nhất của Trung Quốc, 21 tuổi lấy một thái học sinh, hai vợ chồng rất thương nhau. Thời ấy, từ của bà tươi và đẹp. Chẳng may bà góa sớm; trong cảnh tịch mịch, giọng bà hóa ai oán. Bà rất thông âm luật, lời từ tự nhiên mà du dương.”

Như mộng lệnh kỳ 1 – Lý Thanh Chiếu
Như mộng lệnh kỳ 1 – Nguyễn Xuân Tảo dịch:

Nhớ buổi chơi đình bên suối
Say khướt chiều về quên lối
Hứng tận quay mũi thuyền
Lạc vào vùng sen đi mãi
Bơi vội
Bơi vội
Nhớn nhác cò bay trên bãi.

Như mộng lệnh kỳ 2 – Lý Thanh Chiếu
Như mộng lệnh kỳ 2 – Nguyễn Chí Viễn dịch:

Sáng suốt ngớt mưa bùng gió
Say rượu ngủ lì không rõ
Ướm hỏi kẻ treo rèm
Lại bảo hải đường như cũ
Đâu có!
Đâu có!
Chừng hẳn lục tươi hồng võ.

Thanh thanh mạn – Lý Thanh Chiếu
Thanh thanh mạn – Phù Vân Du Tử dịch thơ:

Tiếng không thình thịch kêu hoài
Vi vu tiếng đệm bên ngoài gió mưa
Lạnh lùng lần giở song thưa
Tìm mãi chẳng thấy sao chưa đành lòng
Trời cũng một mối long đong
Lạnh lùng ấm nóng cho lòng khó yên
Rượu đôi ba chén liên miên
Mà không chống nổi gió truyền tai nhau
Rằng nhạn không biết từ đâu
Bay về đúng lúc nỗi sầu dâng lên
Phải chăng nhạn cố tình quên
Rằng người xưa ấy đã lên trời rồi.

Khắp chốn hoa vàng nổi trôi
Lấn cấn phiêu dạt phận tôi một mình
Ai là người ngắt hoa xinh
Cho vui một kiếp sinh linh đời người!

Lý Thương Ẩn (831-858): nổi tiếng ngang với Ôn Ðình Quân và Ðỗ Mục, nên người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Ðỗ. Lý Thương Ẩn có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có vẻ tài tình giống thơ Ðỗ Phủ.

Tương truyền, Lý Thương Ẩn có tình luyến ái với một nữ đạo sĩ và các cung nữ triều đình, nên chùm thơ Vô Đề của ông mang tính chất hư ảo, huyền diệu, bí ẩn, thần thoại hóa. Những bài thơ Vô Đề của ông gợi cảm, lôi cuốn, dạt dào xúc cảm chân thành, âm điệu nhẹ nhàng thanh thoát. Ý từ, hình thức, nội dung, tư tưởng, ngôn ngữ đã hài hòa kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, hoa mỹ, trau chuốt, đã tạo nên những hình ảnh đẹp, sống động, bay bổng, phóng khoáng, ca ngợi tình yêu, lấy sự hiểu nhau, tâm đầu ý hợp làm nền tảng. (Hải Đà – Vương Ngọc Long, no date)

Thơ Không Đề – bài 1 (Hải Đà dịch thơ):

Sao sáng đêm qua gió thổi đầy
Phía đông nhà quế, họa lầu tây
Thân không cánh phượng mà bay vút
Lòng sẵn sừng tê cảm ngất ngây
Xuân ấm ngồi xa cùng chuốc rượu
Nến hồng chia sẻ cảnh vui lây
Chầu vua giục giã theo hồi trống
Phi ngựa đến đài tựa cỏ bay.

Thơ Không Đề – bài 2 (Hải Đà dịch thơ):

Nàng đến rồi đi cách biệt ta
Lầu cao, chuông điểm, bóng trăng tà
Giấc mơ ly biệt lời chưa tỏ
Thư viết vừa xong mực úa nhòa
Ánh nến mờ soi chim phỉ thúy
Hương thơm phảng phất bức màn hoa
Chàng Lưu hận tiếc non Bồng cũ
Vạn dặm non Bồng đã cách xa!

mai dịch: quán trọ, nơi đưa đón sứ giả. Ngày xưa ở các dịch trạm người ta thường trồng mai, nên trạm được gọi là mai dịch.

mai trúc: do điển tích chép trong sách Lưỡng ban thu vũ am tùy bút, Ở cửa sông Liêu Khê, Huyện Long Môn, Tỉnh Quảng Đông có một cái đầm (hồ), tên là “Đỗ Phụ đàm” (nghĩa là đầm đánh đố được vợ). Tương truyền ngày xưa có một cậu và một cô bé trạc tuổi nhau, thường ngồi chơi bên mé đầm. Hai trẻ rất thân. Một hôm cả hai bảo nhau: “Chúng ta bây giờ chơi thân nhau nhưng không biết có được thân với nhau mãi chăng? Đây rồi khi lớn lên, kẻ nơi người ngả.”

Hai trẻ đều buồn. Nhưng rồi lại nghĩ ra một cách đánh đố nhau, chẻ một lóng tre ra làm đôi, mỗi người cầm một mảnh liệng xuống giòng nước, nguyền với nhau rằng: hễ hai thanh tre ấy mà trôi khép lại làm một thì hai bên kết làm vợ chồng. Có thế mối tình thân mật, gần gũi nhau được mãi mãi.

Cả hai làm theo, quả nhiên hai mảnh tre trôi xuôi và khép liền nhau như lóng tre chưa chẻ. Thế là cô cậu lấy nhau làm vợ chồng.

Đầm ấy có tên là Đỗ Phụ đàm. Giống tre mọc ở trên bờ đầm được gọi là “mai trúc”, nghĩa là giống tre làm mai mối.

Đời Thanh (1644-1909), thi hào Khuất Ông Sơn có thơ vịnh trúc mai (Vân Hạc Lê Văn Hòe dịch thơ):

Một đôi thanh trúc khép như in
Thanh trúc xe nên duyên bách niên
Mai trúc trên đầm nay vẫn tốt
Rườm rà cành nhánh cháu con hiền.

“Một nhà xum họp trúc mai” là mai trúc ở chung nhau, tức là vợ chồng xum họp, căn cứ vào điển tích trên.

man di: Ngày trước, người Trung Quốc cho rằng các dân tộc xa xôi ở ngoài biên cương đều chưa được khai hóa, dân phương nam gọi là man, dân phương đông gọi là di. Từ man di có ý phân biệt chủng tộc, miệt thị những dân tộc hèn kém ngoài biên cương.

Man Khê: Tên đất thuộc Vũ Lăng, nơi cư ngụ của giống dân thiểu số, nay thuộc Tỉnh Hồ Nam. Thời Đông Hán, dân Man Khê nổi loạn, lúc bấy giờ Mã Viện đã 80 tuổi mang quân hàm Phục Ba Tướng quân vẫn cầm quân đi dẹp yên.

Tái hạ khúc – Lý Ích

Phục Ba duy nguyện lý thi hoàn
Định Viễn hà tu sinh nhập quan?

(Phục Ba tướng quân thề da ngựa bọc thây
Cớ gì Đinh Viễn hứa sống sót về quan ải?)

Chinh phụ ngâm:

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba

Trường ca Hòn vọng phu của Lê Thương:

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng

Quang Vũ, Tiến Long, Gia Kiệt, trong chương trình “Ai sẽ thành sao nhí?”:
https://www.youtube.com/watch?v=Z-prZaN-JJI

mang đao tới hội: xem đơn đao phó hội.

Mang Kệ: Còn gọi là Mang Ðăng hoặc Mang Ðường, là nơi dấy nghiệp của nhà Hán (Hán Lưu Bang tức Hán Cao Tổ).

may xống phòng khi cả dạ: Xống là váy. Khi may váy phải tính toán để khi có thai, bụng to (cả dạ) vẫn mặc được.

Câu này khuyên ta phải nhìn xa trông rộng, tính trước mọi việc.

má đào: từ chữ đào kiểm, có nghĩa gò má đỏ như quả đào chín, cũng như “má hồng” chỉ người con gái đẹp.

Nguyên thời Xuân Thu, chúa nước Sái và chúa nước Tức đều lấy gái nước Trần làm phu nhân.

Phu nhân của Tức hầu là Tức Vĩ, nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái hầu mời vào cung thết đãi. Trong tiệc rượu, Sái hầu dở trò sàm sỡ. Tức Vĩ giận lắm, bỏ đi. Và khi ở nước Trần trở về nước Tức nàng không đi ngang nước Sái nữa. Nàng về thuật lại cho chồng nghe về thái độ của vua nước Sái.

Tức hầu đâm ra tức giận, định rửa hận. Liền sai sứ đem lễ vật sang cống nước Sở là một nước mạnh, và mật cáo với Sở Văn Vương: “Nước Sái cậy thế có nước Tề, không chịu phục Sở. Bây giờ quý quốc giả cách đem quân sang đánh nước tôi, nước tôi sang cầu cứu nước Sái. Chúa nước Sái là kẻ nông nổi tất vội vàng sang cứu. Bấy giờ nước tôi cùng quý quốc hợp binh đánh, hẳn bắt được chúa nước Sái”.

Tất nhiên Vua Sở mừng lắm.

Quả thực, nước Sái thất bại. Sái hầu bị bắt. Vua Sở muốn giết nhưng có quần thần can gián nên Sái hầu được tha và được cho đầu hàng. Biết mắc mẹo Tức hầu, Sái hầu căm tức lắm.

Một hôm, Vua Sở mở tiệc đãi Sái hầu cho về nước. Có đoàn nữ nhạc ra múa hát. Trong đoàn có một con hát ngồi gảy đàn, dung nhan rất đẹp. Vua Sở Văn Vương liền bảo con hát ấy đến mời Sái hầu một chén rượu. Sái hầu uống xong, đoạn tự rót lấy rượu, hai tay dâng lên để chúc thọ Vua Sở.

Sở Văn Vương tiếp lấy, cười hỏi: “Hiền hầu xưa nay có được trông thấy một nàng nào đẹp lắm không?”

Chúa nước Sái chợt nhớ đến mối thù đối với chúa nước Tức nên nói: “Gái đẹp trong thiên hạ, tôi tưởng chưa ai bằng Tức Vĩ. Thật là một tiên nữ trên đời.”

Sở Văn Vương hỏi: “Người đẹp thế nào?”

Sái hầu nói một mạch: “Mắt như sóng thu, má tựa hoa đào, người thướt tha yểu điệu. Thực tôi chưa được thấy người thứ hai.”

Vua Sở nghe nói thích quá, dồn dập bảo: “Nếu vậy ta phải được trông thấy Tức Vĩ mới thỏa lòng.

Chúa nước Sái khích vào: “Với uy linh của đại vương thì một người đàn bà trong vòng thế lực của mình có gì là khó.”

Thế là Vua Sở mượn tiếng tuần du, đem quân sang nước Tức. Tức hầu ra đón tiếp, mở tiệc thết đãi long trọng, bưng ly rượu chúc mừng Vua Sở. Sở Văn Vương đỡ lấy, tủm tỉm cười nói: “Ngày trước ta cũng có một chút công đối với quý phu nhân. Nay ta đến đây, quý phu nhân lại không đáng mời ta một chén rượu hay sao?”

Tức hầu sợ oai nước Sở, không dám trái ý, vâng vâng dạ dạ, truyền vào cung gọi Tức Vĩ ra. Một lúc, Tức Vĩ trang điểm xong bước ra, sụp lạy Sở Văn Vương.

Sở Văn Vương đứng lên.

Tức Vĩ lấy chén bằng ngọc, rót đầy rượu, đoạn dâng lên Vua Sở. Bàn tay trắng nõn nà hòa vào sắc ngọc như một. Sở Văn Vương nhìn đờ đẫn cả người, toan đưa tay đỡ lấy chén rượu… Nhưng Tức Vĩ lại khoan thai trao chén rượu cho cung nhân để dâng lên; đoạn nàng cáo từ lui vào cung. Vua Sở nhìn theo, thần hồn mê mẩn như muốn đeo lấy gót son của người ngọc.

Trở về quán xá, Vua Sở ngồi đứng chẳng yên, nằm không an giấc, trước mắt cứ thấp thoáng hình dáng tha thướt, kiều mỵ của giai nhân. Hôm sau, Sở Văn Vương truyền bày tiệc ở quán xá, cho giáp sĩ phục cả chung quanh, rồi mời Tức hầu đến dự.

Tiệc đến nửa chừng, Vua Sở giở giọng say, bảo: “Ta có công với quý phu nhân nhiều lắm, nay quân ta đến đây, quý phu nhân lại không đáng vì ta mà khao thưởng hay sao?”

Tức hầu thưa: “Nước tôi nhỏ, khó mà khao thưởng cho đủ. Ðại vương dạy như vậy, xin để cho chúng tôi bàn nhau.”

Vua Sở vỗ bàn, quát: “Tên thất phu này dám bội ơn, lại giở giọng nói khéo để lừa ta! Quân sĩ đâu, hãy bắt lấy nó!”

Tức hầu chưa kịp nói gì thì quân sĩ đổ ra bắt trói. Sở Văn Vương liền đem quân đi thẳng vào cung chúa nước Tức, tìm bắt Tức Vĩ.

Nghe tin chồng bị bắt, Tức Vĩ nghẹn ngào, bảo: “Dắt hổ sói về nhà thì còn nói gì nữa!”

Ðoạn chạy ra sau vườn, toan đâm đầu xuống giếng.

Tướng của Sở Văn Vương là Ðấu Ban vội chạy đến, níu lấy vạt áo, nói: “Phu nhân không muốn cho Tức hầu được toàn tính mạng sao? Tội gì mà hai vợ chồng cùng chịu chết!”

Tức Vĩ không tự tử được, bị Ðấu Ban bắt nộp cho Sở Văn Vương

Thành công một cách dễ dàng, Vua Sở nhìn giai nhân hân hoan vô cùng, lập tức phong làm phu nhân. Còn Tức hầu thì bị cho an trí ở nơi xa. Thực là “rước hổ sói về nhà” như Tức Vĩ nói. Chúa nước Tức tức quá mà chết!

Tức Vĩ má tựa hoa đào nên người đương thời gọi là “Ðào hoa phu nhân”.

Đoạn trường tân thanh, trong cơn mê, Kiều nghe tiếng Ðạm Tiên:

Số còn nặng nghiệp má đào
Người nào muốn quyết trời nào đã cho.

Chinh phụ ngâm:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Cung oán ngâm khúc:

Ánh đào kiểm đâm bông não chúng

“Má đào” tức “đào kiểm” và “má hồng” chỉ phụ nữ đẹp, nhưng hàm ý số phận không may, giống như nàng Tức Vĩ.

mái Tây: xem Tây sương ký.

Mã Dung: Bậc thông nho đời Hán, nơi ngồi đọc sách thường mắc trướng đỏ.

Mã Dương: tên núi ở xứ An Huy, mé núi có miếu thờ thần Mã Dương. Chính tại nơi này Vương Bột đã làm bài Phú Ðằng Vương.

Mã Lượng: Mã Công Lượng đời Tống, thuở nhỏ một đêm ngồi đọc sách dưới đèn trong cửa sổ chợt thấy có một bàn tay lớn như cái quạt thò vào, đêm hôm sau cũng lại như thế. Lượng bèn lấy bút nhấp nước Hùng Hoàng viết lớn một chữ “Hoa” vào tay. Ngoài cửa sổ chợt có tiếng kêu to bảo có rửa hộ đi không, Lương cứ mặc kệ. Gần sáng tiếng kêu van càng tha thiết và tay vẫn không rút ra được. Lại nói: “Ông sắp làm nên đại quý nên tôi đùa ông, sao nỡ làm tôi khốn quẫn quá thế! Há không biết việc ông Ôn Kiệu đốt sừng tê ư?” Lương nghĩ ra, bèn lấy nước rửa sạch chữ. Con quỷ cảm tạ mà đi.

Xem Thái Chân.

Mã Ngôi: tên một ngọn đồi ở Huyện Hưng Bình Tỉnh Thiểm Tây, nơi Dương Quý phi bị ép thắt cổ tự vận. Vào năm 755, An Lộc Sơn nổi lên làm phản, đánh bức ải Đồng Quan rồi vây hãm kinh đô Tràng An, Đường Huyền Tông (Minh Hoàng) phải chạy vào Tứ Xuyên. Khi đến Mã Ngôi, quân lính dừng lại không chịu đi nữa. Tướng Trần Nguyên Lễ yêu cầu, Minh Hoàng phải ra lệnh giết cả Dương Quý phi và Dương Quốc Trung (anh họ của Quý phi và cũng là tể tướng thời Minh Hoàng).

Mã Viện: Theo Wikipedia_Mã Viện, Mã Viện (14 tCN – 49) được xem là vị tướng tài ba thời Đông Hán, mang quân hàm Phục Ba Tướng quân – là cấp tướng cao thời đó ngang đại tướng (Phục Ba: chinh phục sóng dữ). Ông lập được nhiều chiến công giúp Hán Quang Vũ Đế thống nhất đế quốc sau thời kỳ loạn Vương Mãng, bình định các bộ tộc xung quanh, trong đó có người Việt ở Giao Chỉ. Lăng mộ của ông còn ở đông-bắc Hưng Bình, Thiểm Tây ngày nay.

Người ta tin rằng Mã Siêu trong thời kỳ Tam Quốc là hậu duệ của ông.

Mã Viện được biết đến về sự kiên trì và sự tôn trọng của ông đối với đồng nghiệp, bạn bè và thuộc cấp, cũng như tính chấp hành kỷ luật của ông. Con gái của ông sau này trở thành hoàng hậu của Hán Minh Đế – tức là Minh Đức Hoàng hậu.

Năm 41 Phục Ba Tướng quân Mã Viện được vua Hán Quang Vũ cử đi đánh Hai Bà Trưng, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn khỏe mạnh.

Tam Quốc diễn nghĩa – La Quán Trung

Chu Du tiến cử Lỗ Túc với Tôn Quyền. Quyền mừng lắm, sai ngay Chu Du đi đón Lỗ Túc.

Chu Du đến nơi, chào hỏi xong, nói rõ lòng quý mến của Tôn Quyền.

Túc nói: “Tử Dương rủ sang Sào Hồ, tôi đang định đi.”

Du nói: “Ngày xưa Mã Viện nói với Quang Vũ rằng: ‘Đời này, không những là vua chọn bầy tôi, bầy tôi cũng phải chọn vua’. Ngay Tôn tướng quân thân người hiền, kính kẻ sĩ, dùng người kỳ lạ, ông không nên tìm nơi khác chỉ nên cùng tôi sang giúp Đông Ngô là phải.

Túc theo lời, cùng Chu Du đến yết kiến Tôn Quyền. Tôn Quyền rất kính trọng, cùng Túc đàm luận suốt ngày không chán.

[…]

Mã Đằng tự là Thọ Thành, dòng dõi Phục Ba Tướng quân Mã Viện khi xưa. Cha tên là Túc, thời vua Hoàn đế làm chức tri huyện ở Lan Can, Quận Thiên Thủy, sau mất quan, lưu lạc sang Lũng Tây, ở lẫn với người Khương, lấy vợ người Khương, sinh ra Mã Đằng.

[…]

Trong chiến dịch đánh Mạnh Hoạch, Khổng Minh sai Vương Bình mang vài trăm quân làm tiền bộ, bắt quân Man dẫn lối, tìm con đường nhỏ mé tây-bắc đi vào. Quân mã đến một ngọn suối, đang khát tranh nhau xuống múc nước uống. Vương Bình tìm được đường rồi, định về báo với Khổng Minh. Nhưng về đến trại thì thấy quân sĩ không ai nói được, chỉ lấy tay trỏ vào mồm ra hiệu. Khổng Minh giật mình, biết là trúng độc, mới cưỡi chiếc xe nhỏ, dẫn vài mươi tên quân đến xem, thấy một vũng nước trong suốt đến tận đáy, trong mà rùng mình không ai dám lội xuống. Khổng Minh xuống xe, lên cao đứng ngắm thấy bốn phía núi cao chót vót, lặng ngắt như tờ, không có tiếng chim chóc gì cả, Khổng Minh trong bụng lấy làm nghi lắm. Chợt thấy trên đỉnh núi có một tòa cổ miếu. Khổng Minh liền vịn cành níu dây, mon men trèo lên tận đỉnh, thấy một pho tượng tướng quân ngồi uy nghi ở giữa. Cạnh miếu có một tấm bia đá, xem ra là miếu quan Phục Ba Tướng quân Mã Viện, khi xưa đánh Man, qua đây, người bản xứ lập miếu thờ.

Khổng Minh bèn vào lạy và khấn rằng: “Tôi là Lượng, vâng lời tiên đế ủy thác con côi, nay phụng thánh chỉ đến đây bình Man. Tôi muốn dẹp xong Man phương, quay về đánh Ngụy, diệt Ngô, đem lại giang sơn nhà Hán. Quân sĩ không tường địa lý, lỡ uống phải nước độc, nói không ra tiếng. Xin tôn thần nghĩ đến ân nghĩa bản triều, thông linh hiển thánh cứu cho ba quân!”

Khấn xong, ra ngoài cửa miếu xem có người nào qua lại thì hỏi. Bỗng thấy một ông cụ già từ trái núi bên kia đang chống gậy đi lên, hình dung kỳ lạ. Khổng Minh mời cụ già ấy vào miếu, chào hỏi xong, ngồi chơi trên tảng đá. Khổng Minh hỏi tên tuổi.

Cụ già nói: “Lão phu nay nghe danh Thừa tướng, may được bái kiến ở đây! Người Man phương này, được đội ơn Thừa tướng tha tội cho cũng nhiều, đều có bụng cảm ơn lắm.”

Khổng Minh hỏi đến suối độc.

Cụ già nói: “Quân của Thừa tướng uống phải suối câm, chỉ vài ngày là chết. Ngoài suối ấy ra lại có ba ngọn suối nữa, gọi là Diệt Toàn, Nhu Toàn, Hắc Toàn. Bốn suối ấy toàn là khí độc tụ lại, không thuốc gì chữa được. Hơn nữa chướng khí bốc lên, chỉ trong vài giờ mùi, giờ thân, giờ dậu là qua lại được, còn đi vào giờ khác đều nhiễm phải chướng khí mà chết liền.”

Khổng Minh nói: “Nếu thế, phương Man không thể bình được. Phương Man không bình xong, đánh sao được Ngô, Ngụy nữa, mà đem lại giang sơn cho nhà Hán, há chẳng phải mất việc phó thác của tiên đế ru? Ta sống nữa cũng vô ích, sao bằng chết đi cho rảnh!”

Cụ già nói: “ Thừa tướng đừng lo, lão phu xin chỉ dẫn một chỗ có thể cứu vãn được.

Khổng Minh nói: “Lão trượng có cao kiến gì, xin chỉ bảo ngay cho.”

Cụ già nói: “Tự đây đi thẳng mé tây vài dặm, có một hang núi, vào trong hang đi hai mươi dặm nữa, đến một cái khe, gọi là khe Vạn An. ở đó, có một cao sĩ, gọi là Vạn An ẩn giả. Đã vài mươi năm nay, người ấy không rời khỏi khe. Sau nhà ông có một cái suối, gọi là suối An Lạc. Ai trúng phải độc, uống nước suối ấy khỏi liền. Hoặc người nào sinh ghẻ, nhiễm phải chướng khí, tắm nước suối ấy tự nhiên không việc gì. Trước nhà có một thứ cỏ gọi là giới diệp vân hương, ngậm lá cỏ ấy trong mồm, thì chướng khí không nhiễm vào được. Thừa tướng nên đến đấy mà cầu cho mau.”

Khổng Minh lạy tạ, nói: “May nhờ trưởng giả rủ lòng cứu mệnh, ghi nhớ không bao giờ dám quên. Xin trưởng giả cho tôi được biết tên tuổi?”

Cụ già nói: “Ta là thần núi ở xứ này, phụng mệnh quan Phục Ba Tướng quân, lại chỉ bảo giúp ngài.”

Nói đoạn, quát một tiếng, cửa đá trong miếu tự nhiên mở ra, ông cụ bước vào rồi biến mất.

Khổng Minh lấy làm lạ, vào miếu lạy tạ, rồi tìm đường cũ lên xe về trại.

Hôm sau, Khổng Minh đem hương hoa lễ vật dẫn Vương Bình và bọn quân câm, theo lời thần chỉ, lần mò kéo đi, vào một hang núi, đi hai mươi dặm nữa, thấy thông to, bách cổ, trúc lạ, hoa thơm, rườm rà xung quanh một khu nhà. Sau bức rào, có mấy gian nhà tranh, mùi hoa ngào ngạt. Khổng Minh mừng lắm, bước tới gõ cửa. Một tiểu đồng đi ra.

Khổng Minh toan hỏi, thì lại thấy một người đội nón nan, đeo dép cỏ, áo bào trắng, dây lưng thâm mắt biếc, tóc vàng, hớn hở bước tới, hỏi ngay rằng: “Có phải Hán Thừa tướng đến đó không?”

Khổng Minh nói: “Cao sĩ sao lại biết tôi thế?”

Ẩn giả nói: “Lâu nay nghe Thừa tướng sang nam chinh, sao lại không biết?”

Bèn mời Khổng Minh vào nhà chơi. Khổng Minh nói: “Tôi chịu lời ủy thác của Chiêu Liệt Hoàng đế, nay lại phụng chỉ tự vương, dẫn quân đến đây, dẹp yên cõi rợ, cho theo về vương hóa. Không ngờ, Mạnh Hoạch ẩn lấp trong động này, quân sĩ lỡ uống phải suối câm. Đêm qua, nhờ có Phục Ba Tướng quân hiển thánh, bảo rằng cao sĩ có suối thuốc chữa được. Vậy xin cao sĩ rộng lượng cho ít nước thần, để cứu vớt cái sống thừa của ba quân.

Ẩn giả nói: “Lão phu là người quê kệch ở chốn núi rừng, Thừa tướng lọ phải uổng công đến đây. Suối này ở ngay sau nhà, xin cứ việc ra mà uống.”

Ẩn giả mới sai tiểu đồng đưa Vương Bình và quân lính ra suối lấy nước. Uống xong, quân lính đều liền thổ ra dãi độc, rồi nói được ngay.

Đỗ Phủ từng viết (dịch Nôm):

Trước cửa điện Bồng Lai, hỡi các chủ tướng
Nếu không như Phục Ba, thì đừng kiêu căng.

Khuê oán kỳ 1 – Thẩm Như Quân

Nhạn tận thư nan ký
Sầu đa mộng bất thành
Nguyện tùy cô nguyệt ảnh
Lưu chiếu Phục Ba doanh
(A)

(A) Nghĩa đen: doanh trại của Phục Ba Tướng quân Mã Viện, người cầm quân đánh Giao Chỉ và Man Khê; nghĩa bóng: doanh trại của chồng khuê phụ ở miền cực nam Trung Quốc xa xôi.

Nỗi oán khuê phòng kỳ 1 – Trần Đông Phong dịch thơ:

Nhạn hết thư khôn gửi
Buồn nhiều mộng chẳng thành
Nguyện theo trăng bóng lẻ
Dạt chiếu trại doanh chàng.

Chinh phụ ngâm:

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba

(Sự Phục Ba có nghĩa việc chinh chiến)

Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người đời Hán, lúc chưa hiển đạt từng làm nghề kiếm củi, sau làm đến chức Trung Ðại phu. Theo Thông chí Tiền Hán liệt truyện,

Chu Mãi Thần vừa gánh củi vừa học, vợ gánh củi theo sau lấy làm xấu hổ, xin bỏ đi lấy chồng khác. Ông cười bảo: “Ta đến 50 tuổi mới giàu sang được, nay đã hơn 40 tuổi rồi. Nàng chịu khổ đã lâu, nay hãy gắng đợi ta giàu sang, ta sẽ báo đáp công lao cho.” Vợ giận dữ nói: “Như cung cách của ông thì chỉ có chết đói ở cống rãnh mà thôi, sao lại dám mong giàu sang được”. Mãi Thần phải để vợ đi lấy chồng khác. Từ đó, ông một thân một mình đi gánh củi, vừa đi vừa học như trước. Về sau, thời Hán Vũ Ðế, ông được người làng là Nghiêm Trợ tiến cử, nhà Vua cho vào yết kiến, nói chuyện nghĩa lý về Kinh Xuân Thu và Sở Từ. Vua rất hài lòng, mời ông giữ chức Trung Ðại Phu, rồi sau giữ chức Thái thú đất Cối Kê. Khi đến Cối Kê nhậm chức, xe ngựa hơn trăm cỗ. Vào đất Ngô, ông thấy người vợ cũ cùng chồng đang gánh đất giữa đường liền cho dừng xe, bảo mời hai người lên xe sau đưa về dinh Thái Thú, cho ở một nơi và cấp lương ăn tử tế.

Phú Trần Văn Nghĩa:

Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính
Biết bao nhiêu ngựa đón xe đưa.

Tài tử đa cùng phú:

Miệng châu quế những rì rầm học vấn
Chị chú Tô cằn nhằn chi hiểm nghèo
Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga
Vợ anh Mãi băn khoăn từng kể khó.

Mạc Ðỉnh Chi: Tự Tiết Phu, không rõ năm sinh, mất năm 1346. Ông vốn người làng Lan Khê Huyện Bàng Hà (nay thuộc Huyện Thanh Hà, Hải Hưng), sau dời sang làng Lũng Ðông, Huyện Chí Linh. Ðỗ Trạng nguyên năm Hưng Long thứ 12 đời Trần Anh Tông (1304). Ông có đi sứ nhà Nguyên, được trọng viọng. Sau làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển, thăng Tả Bộc Xạ. Mạc Ðăng Dung là cháu 7 đời của ông.

Ông tài giỏi quá nên đời ông có nhiều giai thoại ngộ nghĩnh nửa thực nửa hư. Ông được người tôn sùng là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Vì ông đỗ Trạng nguyên ở nước nhà, rồi đi sứ sang Tàu, ông lại được vua Tàu sau khi xem văn ông lại cầm viết phê là Trạng nguyên nữa.

Thật là chuyện nửa tin nửa ngờ.

Nguyên ông đi sứ sang Tàu đời nhà Nguyên. Khi vào triều, vừa gặp người ngoại quốc dâng nhà vua một cây quạt. Vua bảo ông làm một bài minh (một thể văn ngày xưa) để đề vào quạt. Ông cầm bút viết ngay (dịch nghĩa):

Vàng chảy đá tan, trời đất như lò lửa
lúc ấy ngươi được như Y Doãn, Chu công là bậc cự nho
Gió bấc lạnh lùng mưa tuyết đầy đường
lúc ấy ngươi phải như Bá Di, Thúc Tề là kẻ bị đói
Ôi! Dùng thì làm, bỏ thì cất
Ta cùng ngươi cũng giống nhau chăng?

Quần thần nhà Nguyên thấy bài minh cho là hay, cực kỳ khen ngợi. Có truyện chép: Vua Nguyên phê 4 chữ Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Ông đi sứ bên Tàu, vì trời mưa gió nên đến cửa ải trễ. Lính đã đóng cửa. Nhưng muốn thử tài sứ Việt, quan Tàu đưa một vế câu đối xuống để ông đối. Vế rằng:

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan

Nghĩa: “Qua ải chậm, cửa ải đóng, xin khách qua qua ải”.

Ông liền đối:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh trên đối

Nghĩa: “Ra đối dễ, đối lại, khó, xin mời tiên sinh đối trước”.

Người Tàu phục tài mở cửa quan cho qua.

Một quan Tể tướng nhà Nguyên mời ông vào phủ, cùng ngồi đàm luận. Trong phủ có treo một bức trướng thêu con chim sẻ vàng (hoàng tước) đậu trên cành trúc. Thêu khéo đẹp quá, ông tưởng là chim thật, bước đến đưa tay bắt. Người Nguyên cười ầm lên. Ông liền kéo ngay bức trướng xé toang ra. Chúng lấy làm lạ hỏi. Ông nói:

– Tôi nghe người ta họa bức mai tước (cây mai và chim sẻ) thì có, chớ chưa thấy họa bức trúc tước (cây trúc và chim sẻ) bao giờ. Vả chăng trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, nay bức trướng thêu trúc tước, ấy là cho tiểu nhân đứng trên quân tử. Tôi sợ e quân tử đạo tiêu, tiểu nhân đạo trưởng, nghĩa là quân tử suy mà tiểu nhân thịnh, cho nên tôi vì Thánh triều mà trừ đi đó.

Chúng nghe rất lấy làm phục.

Nhưng cũng rất vô lý.

Ai đời sứ thần một nước dù là nước nhỏ đi nữa cũng là sứ thần, lỡ đi trễ mà chúng đóng cửa ải quan không cho vào, rồi ra câu đối… Ông Trạng của một nước dù là nước nhỏ nhưng nước ấy đã từng phá Tống, bình Chiêm, vậy mà nhìn tranh thêu lại tưởng là thật; rồi giữa lúc đàm luận với vị Tể tướng cùng quan khách lại bỏ chạy chụp chim, thì thật là ngớ ngẩn hết chỗ nói.

Họa chăng, ông Trạng Việt Nam thẳng thắn phê bình tranh Tàu trước vị Tể tướng nước Tàu, rồi người sau thêm thắt cho vui câu truyện có tính cách khôi hài chăng?

Mạc Gia: tên thanh gươm quý được đúc cùng với thanh Can Tương. Xem Can Tương.

Mạc Sầu: tên một cô gái rất đẹp, hát hay thời Nam Bắc triều, làm vợ người họ Lư sống rất hạnh phúc cùng chồng con. Lương Vũ Đế có bài hát về nàng Mạc Sầu.

mạch tuệ: bông lúa mạch. Nhắc tích Trương Kham đời Hán, làm quan biết khuyên dân chăm việc cấy lúa, trồng dâu. Kết quả là lúa tốt, dâu xanh. Nhân dân làm bài ca khen ông quan tốt.

Nhị độ mai:

Ðọc ca mạch tuệ, ngâm thơ cam đường.

mạch tương: Do chữ tương lệ, chỉ nước mắt. Theo Bác vật chí, Vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô bên bờ Sông Tương (tên Hán: Tương Giang, còn được gọi là Tiêu Tương), thuộc Tỉnh Hồ Nam. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (đều là con gái Vua Nghiêu) đến đó kêu khóc thảm thiết. Tương truyền, nước mắt hai bà nhỏ xuống bờ trúc, làm cho trúc ở đây nổi lên những đường vân đẹp như mây sóng ẩn hiện.

Người đời sau thường tìm đến bờ sông Tương tìm loại trúc này về làm mành. Nước mắt của cuộc tình vắn số nhỏ xuống tạo nên những đường vân tản mạc, nên mành tương tượng trưng cho một số phận đoạn nỗi.

Loại trúc này có tên là tương trúc tức trúc đốm (tên khoa học: Phyllostachys bambusoides f. lacrima-deae). Ngày xưa, thân tương trúc được đánh giá cao để chế tác ra tay cầm của bút lông Trung Quốc, được sử dụng trong thư pháp và hội họa. Sau này tương trúc được ưa chuộng trong giới chơi cây cảnh.

Đoạn trường tân thanh:

Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương
(Kiều khóc)

Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)

Bích câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên tương tư:

Ôi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn.

Điển cố “mạch Tương”, “giọt Tương”, hay “sóng Tương” chỉ giọt nước mắt vì nhớ thương.

Mạnh Giao (751-814) sống vào thời Trung Đường (cùng thời với Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Giả Đảo, Thường Kiến, Thôi Hộ…), sinh quán tại Vũ Khang, Hồ Châu (nay là Huyện Vũ Khang, Tỉnh Chiết Giang). Công danh khá lận đận, đi thi nhiều lần không đỗ, mãi đến năm 46 tuổi mới đỗ được Tiến sĩ và năm 50 tuổi mới được bổ làm Huyện úy Lật Dương (Tỉnh Giang Tô), một chức quan nhỏ mà ông không tha thiết. Cảnh nhà nghèo túng quẫn, cuộc đời không lấy gì vui, nên thơ của ông thường châm biếm chê bai giới quý tộc quan liêu, lột tả nỗi niềm ta oán của giới trí thức không gặp thời như cảnh ngộ của ông, hoặc nỗi bất công của những người dân nghèo lao động tay lấm chân bùn. Tác phẩm của ông còn lưu truyền cho hậu thế là Mạnh Đông Dã gồm 2 tập thơ. Thơ của ông gồm khoảng hơn bốn trăm bài nhạc phủ và cổ thi. Ông rất thận trọng, cân nhắc trong việc lựa chọn chữ nghĩa, ý từ, làm nhiều bài thơ rất khúc chiết, sâu sắc đến khó hiểu. Bài thơ Du tử ngâm của ông là một ngoại lệ, là một bài thơ hay với lời lẽ giản dị, chân thật và dễ hiểu. Hàn Dũ đã mô tả tài năng về thơ của Mạnh Giao như là con ngựa bất kham, thông suốt kim cổ.

Mạnh Hạo Nhiên (689–740): cùng thời với Trần Tử Ngang. Lý Bạch từng khen ông hết lời:

Tặng Mạnh Hạo Nhiên – Lý Bạch
Tặng Mạnh Hạo Nhiên – Phụng Vũ Cửu Thiên dịch thơ:

Ta yêu Mạnh phu tử
Phong lưu tiếng lẫy lừng
Lúc trẻ khinh mũ miện
Về già ẩn mây thông.

Rượu say nơi trăng sáng
Mê hoa, vua chẳng mong
Núi cao sao vươn tới
Đành ngưỡng tiếng thơm nồng
Ta mến chàng họ Mạnh.

Ông từng làm quan, nhưng ông không thích hợp với đám quý tộc lạm quyền, nên rất thích nơi nhàn cư. Ông lui về ở ẩn, tìm lấy đời sống tao nhã ở Long Môn quê nhà và trong cuộc du ngoạn ở những nơi xa, khắp vùng đất. Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạnh thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình.

Ông để lại hai trăm sáu mươi bài thơ. Có thể gọi thơ ông là thơ sơn thủy. Thơ năm chữ của ông luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng.

Mạnh hiền còn chịu tiếng Tàng Thương: Nói việc Mạnh Tử phải chịu tiếng gièm của Tàng Thương.

Mạnh Tử: Lỗ Bình công sắp ra đi, người tôi yêu là Tàng Thương tâu rằng: “Thường ngày nhà Vua đi đâu thì báo cho quan Hữu tư biết. Nay xa mã đã sẵn rồi mà quan Hữu tư vẫn chưa biết, xin dám hỏi nhà Vua việc đó?” Lỗ Bình Công nói: “Ta đến thăm thầy Mạnh Tử.” Tàng Thương nói: “Nhà Vua sao lại xem nhẹ thân mình mà lại đến thăm một người thất phu như vậy? Chắc Vua cho rằng Mạnh Tử là người hiền đức ư? Lễ nghĩa do người hiền đức mà ra, nhưng nay Mạnh Tử làm tang mẹ to hơn tang cha, thế là không có nghĩa lễ gì, thì Mạnh Tử vị tất là người hiền đức. Nhà Vua không nên đến thăm!” Bình Công nói: “Phải”.

Mạnh Khương Nữ: một truyền thuyết dân gian nổi tiếng của Trung Quốc, cũng phổ biến ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Nhiều biến thể của câu chuyện đã tồn tại hơn 2.000 năm nay.

Theo Liệt nữ truyện, sau khi một người lính nước Tề tên Kỷ Lương chết trận, người vợ không có con cái, không có họ hàng và cũng không còn nơi nào để đi. Nàng gói xác chồng rồi chôn dưới một góc tường thành. Mọi người trong thành nhìn thấy đều động lòng, người qua đường ai cũng rơi nước mắt. Khoảng 10 ngày sau, một góc bức tường bị đổ sụp. Sau khi nghi lễ an táng cho chồng hoàn thành, người góa phụ bày tỏ sự tiếc thương bằng việc than vãn rằng không thể làm gì khác ngoài cái chết.

Tả truyện cũng ghi chép có võ tướng Kỷ Lương của nước Tề. Một bài từ chỉ viết đơn giản rằng khi võ tướng Kỷ Lương mất vì chiến tranh, vợ ông chịu tang chồng, nhưng không viết việc bà đã khóc, cũng không có tường thành bị sập, càng không có chuyện khóc đổ thành…

Trải qua các triều đại, câu chuyện thay đổi. Đến nhà Minh, vì đề phòng ngừa bộ tộc Ngõa Lạt xâm lược, triều đình cho xây thêm Trường Thành. Việc này khiến cho dân chúng ta thán mạnh mẽ. Để trút hết sự bất mãn với tầng lớp thống trị, dân gian thêm các tình tiết lâm li.

Truyện hoàn chỉnh biến đổi từ “khóc đổ thành” biến thành “khóc đổ Trường Thành”, từ người vợ không tên nước Tề thành nàng Mạnh Lương nước Tần…

Truyện kể rằng ngay trong đêm tân hôn của Mạnh Khương với tân lang là một thư sinh Giang Nam, người chồng bị triều đình bắt đi xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Cha chồng đã mất để lại mẹ chồng, Mạnh Khương phải thay thế chồng phụng dưỡng mẹ và dưỡng dục con thơ. Nhà ngày suy sụp, nàng phải giã gạo, quay tơ để mưu sinh. Đối với mẹ chồng, nàng vẫn làm tròn nhiệm vụ của một người dâu thảo.

Phần tuổi già, phần thương nhớ con, mẹ chồng phát bịnh nặng rồi qua đời. Mạnh Khương phải lo cư tang báo hiếu. Đằng đẵng mấy năm trường trông đợi chồng nhưng bặt vô âm tín. Nghe được tin đồn ở miền bắc, vì tuyết sương lạnh lẽo, vì công việc quá khó nhọc nên có nhiều người ốm chết, Mạnh Khương thương chồng nên đan áo cho chồng rồi nhất định đến tận ải quan, mong tìm chồng để trao áo, an ủi, giúp đỡ, san xẻ gánh nặng. Nàng gởi con cho người thân rồi ra đi.

Nàng đi khắp theo chiều dài của Trường Thành, hỏi thăm nhiều người và nhận được hung tin chồng mình bị chết vùi thây dưới Trường Thành.

Cuối cùng, Mạnh Khương đến một bãi sa mạc ở miền đông. Giữa lúc ấy, bỗng mây đen vần vũ phủ nhuộm u ám cả bầu trời. Gió bắc thổi giật giọng từng cơn vô cùng lạnh lẽo. Ngựa từ đâu lại cất tiếng hí vang những giọng thảm thê bi đát. Trước mặt nàng bày ra một đống xương trắng ngổn ngang, ghê rợn.

Trước cảnh tượng, nàng hỏi: “Có lẽ chồng ta đã thác mất rồi mà thác ở đây chăng?” Và, nàng lại, nghĩ thêm: “Có lẽ phần anh linh của chồng báo điềm lạ cho nàng”. Nàng bèn khấn vái vong linh của chồng và cầu Hoàng Thiên phò hộ: nếu chồng nàng thác rồi thì xin cho một biểu hiệu để biết. Đoạn, nàng cắn móng tay, nhỏ máu vào những đống xương.

Từ đống xương này cho đến đống xương khác, mãi đến khi nàng nhỏ một giọt máu vào chiếc đầu lâu nọ, thì chiếc đầu lâu lại thấm máu và đỏ rực lên. Nàng hiểu ngay đấy là dấu hiệu Trời cho biết đây là hài cốt của chồng. Nàng liền ôm chầm lấy ngay bộ xương, khóc lóc thê thảm suốt cả ba ngày đêm.

Manh Khuong nu

Câu chuyện này thấu đến tai Thái tử Phò Tô, con trưởng của Tần Thủy Hoàng và đại tướng Mông Điềm, lúc bấy giờ đương đóng đại bản doanh tại đất Lư Long, một ải quan trong Tỉnh Hà Bắc ngày nay. Rồi cả hai cấp tốc sai người đánh xe đến Trác Lộc, chỗ của nàng Mạnh Khương đương khóc. Thái tử Phò Tô gọi nàng hỏi chuyện và tìm hiểu căn do nỗi oan ức của nàng.

Nàng bây giờ đã kiệt sức, phều phào thưa: “Vì chồng tôi đã chết nơi biên thùy, tôi cũng xin chết theo để được cùng nhau họp mặt ở suối vàng!”

Nói xong, nàng nghẹn ngào, hấp hối, ngã quỵ rồi tắt thở. Đồng thời một dãy tường mới xây sụp đổ theo!

Nghe chuyện bi thảm và xem cảnh hãi hùng, hai người nao nao cảm động. Cả đến tướng sĩ và dân phu đều thương xót mà rưng rưng nước mắt.

Thái tử Phù Tô hạ lệnh hành lễ mai táng. Lễ truy tặng phẩm hàm Tả Tướng quân cho Phạm Thực và truy phong tước hiệu Trinh Phu Nhân cho Mạnh Khương. Phò Tô truyền chôn hai cỗ săng vào một cánh cửa Sơn Hải quan chừng 8 dặm, cách ven Bột Hải chừng một dặm (dặm: 576m).

Thấy việc hiển linh lạ lùng, người ta lập gần nơi nầy một miếu đá gọi là “Khương Nữ Tử”. Đời sau, tại Cổ Bắc khẩu, Tỉnh Hà Bắc và ở Lộ An, Tỉnh Sơn Tây, người ta cũng có dựng miếu đặt cùng một tên ấy. Vì sùng mộ nhân đức của nàng, những bá tính xa gần thường đến chiêm bái.

Đời nhà Tây Hán (206-25), nhà Đông Hán (25 tCN-220 sau D.L.), nhà Ngụy (220-265), mộ nàng Mạnh Khương được triều đình lập cho nhiều bia đá. Sang đời nhà Minh (1368-1644), miếu của nàng được trùng tu vẻ vang.

Mạnh Phủ: xem Tùng Tuyết đạo nhân.

Mạnh Quang: tên người phụ nữ tạo điển tích của hai thành ngữ về bố quần kinh thoa nói tắt là bố kinh, và cử án tề mi (nâng mâm ngang mày).

Theo Hậu Hán thư, đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ, khí tiết, giữ đạo thanh bần cao đẹp. Đức hạnh, tài năng của chàng được người khâm phục, nổi tiếng khắp nơi. Nhiều người có danh vọng trong vùng trọng đức của Hồng muốn gả con gái cho nhưng Hồng một mực từ chối.

Cùng huyện có người con gái là Mạnh Quang, vốn dòng nho gia giàu có nhất vùng. Nàng tính nết đoan trang đức hạnh, sống đơn giản, dùng quần vải thoa gai, đương độ kén chồng. Nhiều người thân hỏi, nàng trả lời rằng chỉ có người hiền đức như Lương Hồng mới xứng đáng là chồng. Hồng nghe biết chuyện liền đưa lễ xin hỏi làm vợ.

Khi làm lễ thành hôn, nàng Mạnh Quang mặc xiêm y lộng lẫy, trang sức toàn vàng ngọc đắt tiền, cốt làm đẹp cho chàng vừa ý. Nào ngờ bảy tám hôm đầu, nàng thấy chồng tẻ nhạt và hờ hững, vẻ mặt lạnh lùng, không gần gũi nàng.

Nàng Mạnh Quang lấy làm lạ, kiểm điểm lại lời nói cử chỉ của mình không tỏ vẻ gì vô lễ. Nghĩ mãi, nàng ngờ rằng vì nàng trang sức lộng lẫy mà chồng không bằng lòng chăng? Nàng cất quần áo đẹp, trâm ngà vào rương, mặc lại quần áo bằng vải thường, ngắt cành kinh làm trâm cài đầu..

Thấy vợ như thế, Lương Hồng vui vẻ nói: “Đây mới chính là vợ của ta. Hồng này không màng danh lợi, không ham của bạc vàng. Hồng chỉ muốn cùng vợ cày lấy ruộng, trồng lấy lúa, dệt lấy vải, sinh sống trong cảnh nghèo mà lúc nào cũng giữ tròn khí tiết, đạo đức, vợ lúc nào cũng kính trọng chồng và chồng lúc nào cũng nể yêu vợ.”

Đoạn trường tân thanh, lúc Kim Trọng có chiều lả lơi, Kiều khuyên:

Ðã cho vào bậc bố kinh
Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Từ bố kinh, viết tắt của bổ quần kinh thoa, có nghĩa bằng vải và trâm lấy từ gai để cài tóc, là những thứ mà người phụ nữ nghèo xưa hay dùng, nghĩa bóng chỉ người vợ hiền, biết cách sống giản dị nhưng trọng lễ nghĩa.

Mạnh Quang đối với chồng rất mực cung kính. Mỗi bữa cơm, đối diện, nàng nâng mâm ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng. Đưa lên ngang chân mày là tiêu biểu cho lòng tôn kính. Bởi vì ngày xưa, theo tập tục của người Tàu, mỗi khi người dưới dâng thực phẩm hay đồ vật cho người trên, thì phải đưa lên ngang chân mày, để biểu lộ lòng kính trọng hết mực. Về sau, trên cửa phòng của nhà trai người Tàu, trong ngày tân hôn người ta thường dán câu liễn đỏ 4 chữ “cử án tề mi” (nâng mâm ngang mày) để chúc chàng rể có vợ hiền đức hoặc nhắc nhở cô dâu phải hiền đức như nàng Mạnh Quang.

Đoạn trường tân thanh¸lúc Kim Trọng thể hiện cung cách trọng vọng:

Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.

Trong tác phẩm Nhị độ mai, tác giả vô danh, đoạn diễn tả cảnh Hoài Nguyên đi cống Hồ làm bài thơ tặng tình nhân là Mai Lương Ngọc lúc chia ly, có câu:

Ngang mày Mạnh thị chưa nâng án
Thấy mặt Chiêu Quân đã mất tranh.

“Mạnh thị” đây chỉ nàng Mạnh Quang.

Mạnh Tân chi hội: có nghĩa: cuộc hội ở Mạnh Tân. Ðây chỉ cuộc hội quân của Chu Vũ Vương ở bến Mạnh Tân, nay thuộc Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Cuối đời Ân, Thương, Vua Trụ tàn bạo. Chu Vũ Vương hội quân với các nước chư hầu ở bến Mạnh Tân để chuẩn bị đánh Trụ.

Mạnh Tông: Một người trong số Nhị thập tứ hiếu, sống vào thời Tam Quốc, là người con hiếu thảo. Mẹ Mạnh Tông bị ốm, sức khỏe suy nhược, trong thời gian rất dài không ăn được thứ gì, bỗng nhiên bà thích ăn canh nấu măng. Mạnh Tông nghĩ, mẹ thích ăn canh măng, nếu không được ăn nhất định sẽ rất buồn. Nhưng mùa đông thì đâu thể có măng? Cậu liền vào rừng trúc và ôm lấy cây trúc mà khóc lóc thảm thiết, không biết phải làm sao. Tấm lòng hiếu thảo tuyệt đối này của cậu làm cảm động cây trúc, cho nên mặt đất bỗng mọc ra những củ măng tươi non. Cậu vui mừng khôn xiết, liền hái măng mang về nấu canh cho mẹ ăn. Mẹ ăn xong canh măng, bệnh liền khỏi.

Mạnh Thường Quân (? – 279 tCN) tên thật là Điền Văn, người nước Tề, làm Tướng quốc nước Tề thời Chiến Quốc, được phong ấp ở đất Tiết, và là một trong “Chiến Quốc tứ Công tử”. Ba người kia là Bình Nguyên Quân nước Triệu, Xuân Thân quân nước Sở, Tín Lăng Quân nước Ngụy. Bốn người này giàu có, bỏ tiền của ra để chiêu dụ nhân tài, nuôi họ ăn ở trong trang viên để khi cần đến thì hỏi ý kiến tham mưu hoặc sai khiến làm việc gì đó thích hợp. Những người này được gọi là “môn khách” hoặc “tân khách”, cứ ăn ngày ba bữa để chờ sai khiến. Mỗi người trong “Chiến Quốc tứ Công tử” ganh đua nhau mà nuôi ăn vài nghìn tân khách như thế. Nhưng có nhiều tân khách chẳng bao giờ được sai khiến việc gì cả.

Riêng Mạnh Thường Quân chấp nhận tất cả những người đến với mình mà không cần biết họ giỏi hay dở ra sao. Cho nên một số môn khách có biệt tài hỗ trợ đắc lực Mạnh Thường Quân mà ban đầu ông không dự liệu được.

Cha của ông là Điền Anh, con thứ của Tề Uy Vương, vua thứ ba của Điền Tề, em khác mẹ với Tề Tuyên Vương, vua thứ tư của Điền Tề. Tuyên Vương đưa Điền Anh lên làm làm Tướng quốc, phong cho ở đất Tiết (nay thuộc Sơn Đông), gọi là Tĩnh Quách quân.

Sau khi Điền Anh qua đời, Điền Văn lên kế tập, cai quản ấp Tiết, còn gọi là Tiết Công, phong hiệu gọi là Mạnh Thường Quân.

Tần Chiêu Tương Vương nghe thuộc hạ ca ngợi Mạnh Thường Quân nên lấy làm ngưỡng mộ

Năm 298 tCN, Mạnh Thường Quân Điền Văn, dẫn theo hơn nghìn tân khách, hơn trăm cỗ xe. Tần Chiêu Tương Vương thân hành tiếp đãi họ, Mạnh Thường Quân biếu Tần Chiêu Tương Vương một chiếc áo lông chồn toàn màu trắng làm lễ ra mắt. Tần Chiêu Tương Vương biết đó là loại da chồn bạc rất quý, liền vui mừng tiếp nhận và cất vào trong kho riêng.

Chiêu Tương Vương nghe Mạnh Thường Quân là nhân tài, muốn giữ lại, bèn nghĩ ra ý nếu Điền Văn quy phục sẽ phong làm tướng quốc. Nhưng có người nói với ông: “Điền Văn là người Tề, nay làm tướng quốc Tần, tất hắn phải nghĩ đến Tề trước rồi mới nghĩ đến Tần. Mạnh Thường Quân có tài trù liệu mọi việc, không việc nào sai, lại thêm có nhiều môn khách trợ giúp, nếu mượn quyền Tần để mưu ngầm cho Tề, thì Tần nguy mất!”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Nếu thế, thì để ông ta về thôi”. Họ nói: “Mạnh Thường Quân ở Tần đã hơn tháng, khách theo hơn nghìn người, đều biết hết việc lớn nhỏ của Tần, nếu nay để cho về thì tất có hại cho Tần, sao có thể dễ dàng để ông ta về được!” Tần Chiêu Tương Vương giam lỏng Mạnh Thường Quân lại.

Mạnh Thường Quân lo lắng, dò biết trong cung Tần Chiêu Tương Vương có nàng Yên Cơ rất được vua yêu mến, nói gì vua cũng nghe, liền nhờ người cầu cứu cô ta. Yên Cơ sai người nói lại: “Nhờ ta nói giùm với đại vương thì không khó, nhưng ta thích có một áo bằng lông chồn bạc”. Mạnh Thường Quân bàn với các môn khách: “Ta chỉ có một cái áo, đã biếu Vua Tần rồi, bây giờ biết kiếm đâu được nữa?”

Một môn khách nói là có thể kiếm được.

Mạnh Thường Quân nói: “Nhà ngươi có kế gì kiếm được thứ áo cầu ấy?”

Khách nói: “Tôi có thể giả làm chó đi ăn trộm được!”

Mạnh Thường Quân cười rồi cho đi. Đến đêm người khách ấy mặc quần áo như con chó, chui qua cổng nhỏ, lẻn vào trong kho, làm tiếng chó sủa, kẻ giữ kho tưởng là chó giữ sủa, không nghi ngờ gì. Người khách rình lúc kẻ giữ kho ngủ say, lấy chìa khóa giắt sẵn trong mình, mở tủ kho ra, quả nhiên thấy cái áo cầu trắng, bèn lấy trộm đem ra, dâng Mạnh Thường Quân.

Mạnh Thường Quân đưa cho Kinh Dương quân đem dâng Yên Cơ.

Yên Cơ vui mừng quá, lại gặp buổi đêm cùng vua uống ruợu đang vui, bèn nói rằng: “Thiếp nghe Tề có Mạnh Thường Quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, Mạnh Thường Quân đang làm tướng Tề, không muốn sang Tần, vì Tần mời mới đến, chẳng dùng thì thôi, sao lại chực giết? mời vị tướng quốc của người ta đến, không có cớ gì giết đi, đại vương sẽ mang tiếng xấu là hãm hại người người hiền tài, thiếp e rằng hiền sĩ thiên hạ không còn ai dám đến nước Tần nữa!”

Chiêu Tương Vương đồng ý, cấp cho giấy thông hành để Mạnh Thường Quân về.

Khi Mạnh Thường Quân nhận được giấy tờ, liền vội vã lên đường. Trong bọn môn khách có người khéo làm giấy tờ giả mạo, bèn vì Mạnh Thường Quân đổi họ tên trên giấy thông hành vì sợ Tần Vương đổi ý. Đến cửa quan Hàm Cốc, vừa đúng nửa đêm. Theo quy định của nước Tần, mỗi buổi sớm, chỉ đến khi gà gáy mới được mở cửa quan cho người qua lại. Mọi người đang lo sợ bồn chồn, bỗng có tiếng gà gáy từ trong bọn môn khách vẳng ra. Mạnh Thường Quân lấy làm lạ, nhìn xem thì hóa ra có người khéo bắt chước tiếng gà gáy. Rồi bao nhiêu gà ở quanh đó đều gáy theo, kẻ lại giữ cửa quan tưởng là trời đã sáng thật, liền dậy khám xét giấy trạm của mọi người rồi sai mở cửa cho đi qua.

Mạnh Thường Quân bảo hai người khách kia rằng: “Ta nay ra khỏi miệng hùm là nhờ sức chó sủa, gà gáy đó!”

Các tân khách tự thẹn là không có công gì, từ đó không dám khinh nhờn bọn hạ khách nữa.

Sự tích trong chuyến đi tạo ra thành ngữ Kê minh cẩu đạo (Gáy giả gà, trộm giả chó), ý nói tài vặt mà được việc lớn.

Vua Tần lấy làm hối, lập tức sai người đuổi theo Mạnh Thường Quân đến cửa Hàm Cốc, đòi xem sổ tên hành khách thì không có họ tên sứ Tề là Điền Văn.

Sứ giả nói: “Hay là hắn đi theo đường tắt nào, chứ cớ sao bây giờ chưa đến?”

Đợi đến nửa ngày, chẳng thấy gì, mới nói hình trạng Mạnh Thường Quân và số tân khách xe ngựa, kẻ lại giữ cửa ải nói: “Nếu vậy thì bọn ấy ra khỏi cửa quan từ sớm kia rồi!”

Sứ giả hỏi còn có thể đuổi kịp nữa không.

Kẻ lại nói: “Bọn ấy đi nhanh lắm, nay đã cách xa đến trăm dặm, không thể đuổi kịp được nữa.”

Sứ giả bèn trở về báo Vua Tần.

Vua Tần than rằng: “Mạnh Thường Quân có cái cơ mưu quỉ thần bất trắc, thực là bậc hiền sĩ trong thiên hạ!”

Sau Vua Tần sai kẻ lại giữ kho lấy áo cầu lông chồn trắng ra để mặc, kẻ lại tâu là bị kẻ trộm lấy mất; đến khi thấy nàng Yên Cơ mặc, hỏi kỹ ra mới biết là người khách của Mạnh Thường Quân lấy trộm.

Vua Tần lại than rằng: “Tân khách trong nhà Mạnh Thường Quân đông như chợ, hạng nào cũng có, nước Tần ta thực chưa có bằng!”

Rồi lấy áo hồ cừu cho nàng Yên Cơ mặc mà không bắt tội kẻ giữ kho nữa.

Đoàn của Mạnh Thường Quân đi qua nước Triệu. Bình Nguyên Quân Triệu Thắng ra ngoài ba mươi dặm, đón rất là cung kính. Người nước Triệu vốn nghe tiếng Mạnh Thường Quân mà chưa được biết mặt, lúc ấy rủ nhau đi xem. Thấy Mạnh Thường Quân vóc người thấp bé, trong bọn người đi xem có kẻ cười nói rằng: “Trước kia ta hâm mộ Mạnh Thường Quân, cho rằng người trời tất là khôi vĩ khác thường, nay xem ra thì chỉ là một anh chàng bé nhỏ mà thôi!” Có nhiều người hùa theo cười cợt. Đêm ấy những kẻ cười Mạnh Thường Quân đều bị mất đầu. Bình Nguyên Quân biết đó là do môn khách của Mạnh Thường Quân gây ra, nhưng không dám hỏi đến.

Sau khi trở về nước Tề, Mạnh Thường Quân được Tề Mẫn Vương phong làm tướng quốc. Người ta kéo đến xin làm môn khách càng nhiều, vì tính xu nịnh. Ông chia 3000 môn khách làm ba bậc: bậc thứ nhất khi đi ra ngoài có xe ngựa, bậc thứ hai ăn cơm có thịt cá, còn bậc thứ ba chỉ có gạo thô và rau dưa mà thôi.

Một hôm, có người tên là Phùng Hoan hoặc Phùng Huyên người nước Tề, đời Chiến Quốc (470-221 tCN) tìm đến. Mạnh Thường Quân hỏi: “Khách có điểm gì hay?” Phùng Hoan bảo: “Tôi không có gì hay cả”. Lại hỏi: “Khách có tài năng gì?” Phùng Hoan lại trả lời không. Mạnh Thường Quân cho vào hạng khách thấp nhất.

Từ khi vào làm môn khách, Phùng Hoan thường cầm kiếm hát: “Kiếm ơi, về thôi, ăn cơm mà không có cá!” Có người nói với Mạnh Thường Quân. Ông bèn xếp Phùng Hoan vào bậc được ăn cá.

Nhưng Phùng Hoan vẫn chưa hài lòng, hát rằng: “Kiếm à, về thôi, đi ra ngoài mà không có xe!” Mạnh Thường Quân lấy làm lạ, nói: “Hắn muốn ta đãi vào hạng thượng khách chăng? Người ấy chắc là có tài lạ!” Bèn cho Hoan vào bậc khách được ngồi xe.

Phùng Hoan lại hát: “Kiếm ơi! về đi thôi! chẳng có gì gửi về nhà giúp đỡ!” Mạnh Thường Quân hỏi nhà Phùng Hoan có thân nhân không, Phùng Hoan nói có mẹ già, Mạnh Thường Quân bèn chu cấp cho mẹ Hoan.

Để có tiền nuôi khách, Mạnh Thường Quân cho nhiều người dân ấp Tiết vay. Đến một lúc, người quản gia nói với Mạnh Thường Quân rằng tiền thóc chỉ còn đủ tiêu trong một tháng. Mạnh Thường Quân đưa sổ bộ ra hỏi các thực khách xem có người nào biết về việc kế toán, nhờ qua đất Tiết để thu các mối nợ. Phùng Hoan xin đi.

Người đại xá trưởng nói rằng: “Phùng tiên sinh chẳng thấy có sở trường gì, nhưng xem ra là một con người trung thực, có thể dùng được. Hôm trước ông ta đã muốn làm thượng khách. Vậy ngài hãy dùng xem.”

Họ Mạnh cười ân hận vì trước kia mình đã bạc đãi họ Phùng, nên cho người mời Phùng đến tạ và giao công việc đi thu nợ ở đất Tiết chăng.

Phùng Hoan hỏi Mạnh Thường Quân: “Thu nợ xong, Tướng công có cần mua gì không?” Mạnh Thường Quân đáp: “Tùy tiên sinh thấy tôi còn thiếu món gì thì cứ mua về”.

Dân ấp Tiết có đến một vạn nhà, phần nhiều đều có vay nợ, nghe Tiết công sai vị thượng khách đến thu, thì đem nộp trả rất nhiều. Phùng Hoan đem nhiều tiền sai mua rượu thịt, cho yết thị rằng nhà còn nợ Mạnh Thường Quân, không kể trả được hay không, ngày hôm sau phải mang giấy đến công phủ để xét. Trăm họ nghe có rượu thịt, đều đúng kỳ mà đến.

Phùng Hoan cho họ ăn uống no say. Ăn xong, mang sổ ra xét lại, hiện người nào dư sức, dẫu nhất thời không trả được, thì bắt viết văn tự xin gia hạn. Thấy thế, những người nghèo quá không thể trả được đều lạy xin nới rộng kỳ hạn.

Phùng Hoan sai đem hết những giấy nợ của bọn người nghèo châm lửa đốt, rồi bảo mọi người rằng: “Mạnh Thường Quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các ngươi không có tiền để làm sinh kế, chứ không phải vì mưu lợi đâu! Nhưng Mạnh Thường Quân có mấy ngàn thực khách, bổng lộc không đủ, cho nên bất đắc dĩ phải đòi số nợ lãi để nuôi tân khách. Nay người có thể trả được thì cho gia hạn, người không thể trả được đã đốt bỏ văn tự đi coi như không có nợ. Mạnh Thường Quân làm ơn với ấp Tiết các ngươi có thể gọi là hậu lắm đó!”

Trăm họ đều dập đầu tung hô, nói: “Mạnh Thường Quân thật là cha mẹ chúng tôi!”

Trước khi đó, có người đem việc đốt giấy nợ báo cho Mạnh Thường Quân biết. Ông giận quá, sai người đi ngay gọi Phùng Hoan về. Phùng Hoan vào yết kiến Mạnh Thường Quân.

Mạnh Thường Quân giả ý hỏi rằng: “Khách khó nhọc lắm nhỉ, thu nợ xong rồi à?”

Hoan nói: “Không những tôi đã vì ngài thu nợ, lại vì ngài thu được cả lòng dân nữa. Khi đi, Tướng công có bảo: nên mua cái gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ Tướng công chất chứa những đồ trân bảo, ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa, nhà sau la liệt những mỹ nhân, vậy thứ mà Tướng công còn thiếu là ân nghĩa, nên tôi trộm lệnh mua ân nghĩa đem về”

Mạnh Thường Quân biến sắc mặt, trách rằng: “Văn này vì khách ăn trong nhà những ba nghìn người, bỗng lộc không đủ, cho nên phải cho dân Tiết vay để lấy lãi mà chi dùng thêm. Nghe nói khách thu được tiền lãi đem mua nhiều rượu thịt cho họ ăn uống, lại đốt bỏ mất một nửa những giấy nợ, thế mà còn nói là để thu lòng người, thì chẳng rõ cái cách thu lòng người gì mà lạ vậy?”

Hoan thưa rằng: “Xin ngài bớt giận để tôi giải bày. Người mắc nợ rất đông, không bày ra cho ăn uống thì chúng không chịu đến đủ mặt, không xét rõ được ai đủ sức và ai nghèo khổ. Kẻ có sức trả thì tôi đã bắt làm giấy khất nợ. Còn kẻ nghèo khổ thì dầu đốc thúc, chúng vẫn không trả được, nợ lâu lãi nhiều rồi đến bỏ trốn. Ấp Tiết là đất thế phong của ngài, nhân dân ở đó là những người mà ngài phải cùng chung những lúc yên nguy; nay tôi đốt bỏ những giấy nợ vô dụng đi để rõ tấm lòng ngài khinh của mà yêu dân, cái tiếng nhân nghĩa sẽ lan rộng ra vô cùng, vì thế nên tôi mới nói là đã vì ngài thu lòng người vậy.”

Mạnh Thường Quân vì phải lo tính đến việc cung nuôi tân khách, trong lòng vẫn lấy làm giận. Nhưng văn tự nợ đã bị đốt cả rồi, không làm thế nào được. Mạnh Thường Quân đành phải gượng làm vui, vái tạ Phùng Hoan.

Nhưng từ đó, tiếng tăm nghĩa hiệp của Mạnh Thường Quân thêm vang dội. Vì là thành viên của hoàng gia, ông càng được mọi người trọng vọng.

Lại nói Tần Chiêu Vương hối hận là đã để Mạnh Thường Quân về mất, lại thấy Mạnh Thường Quân là con người cơ mưu đáng sợ, lo người ấy đắc dụng ở Tề tất sẽ làm hại cho Tần, bèn ngầm sai người sang nước Tề phao tin đồn, nói Mạnh Thường Quân mua chuộc lòng người nhằm đoạt ngôi vua. Tề Mẫn Vương (con trai của Tề Tuyên Vương) nghi ngờ và tin theo những lời đồn đại đó, thấy Mạnh Thường Quân thanh thế quá lớn, e uy hiếp địa vị của mình. Năm sau, Tề Mẫn Vương nói với Mạnh Thường Quân: “Quả nhân không thể lấy thần của tiên quân làm thần của mình”, rồi quyết định thu hồi tướng ấn của Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân bị cách chức, đành phải trở về đất phong của mình là ấp Tiết. Việc này khiến cho các nước đánh giá thấp nước Tề vì có nhân tài mà không dùng, và họ không muốn Tề làm bá chủ.

Lúc đó, hơn ba ngàn môn khách phần nhiều bỏ đi, còn Phùng Hoan đánh xe đưa ông về đất Tiết và một nhóm nhỏ đi theo. Khi xe gần đến đất Tiết, đã thấy dân chúng đất Tiết, già trẻ dắt díu nhau ra đón, dâng cơm nước bầu rượu. Mạnh Thường Quân thấy thế, rất xúc động, nói với Phùng Hoan: “Bây giờ tôi mới hiểu cách ông mua ân nghĩa cho tôi”.

Phùng Hoan thưa: “Con thỏ khôn có ba cái ngách hang mới khỏi chết. Nay Tướng công mới có một ngách hang, chưa được dựa gối nằm yên, tôi xin vì Tướng công đào thêm hai ngách nữa. Nếu cho tôi một cỗ xe, thì tôi sẽ làm cho ngài được thêm trọng vọng ở Tề, ấp ăn lộc càng thêm rộng.”

Mạnh Thường Quân nói: “Tiên sinh định thế nào tôi xin vâng theo.” Liền ban 50 cỗ xe và 50 cân vàng, nói rằng: “Xin để tiên sinh đi đâu dùng tùy ý!”

Hoan đi ngay sang Tần, xin vào yết kiến Chiêu Tương Vương, nói: “Đại vương đã biết nước Tề bỏ Mạnh Thường Quân chưa? Tề sở dĩ được thiên hạ xem trọng là vì có Mạnh Thường Quân là người hiền tài, vậy mà Vua Tề nghe lời dèm pha, thu lại tướng ấn, lấy công làm tội, Mạnh Thường Quân tất oán Tề lắm. Nay nhân ngay lúc Mạnh Thường Quân đang oán Tề, mà Tần mời sang làm tướng, thì bao nhiêu việc kín của Tề, Tần sẽ biết hết, nhân đó mà lấy cả nước Tề cũng được, há phải là chỉ mạnh hơn Tề mà thôi đâu! Đại vương nên kíp sai sứ đem lễ vật ngầm sang đón Mạnh Thường Quân ở ấp Tiết, chớ nên bỏ lỡ cơ hội. Vạn nhất Vua Tề biết hối mà lại dùng Mạnh Thường Quân, thì trong hai nước Tề và Tần, nước nào mạnh yếu chưa thể định được!”

Vua Tần nóng muốn được một vị hiền tướng, nghe lời Hoan nói thì cả mừng, bèn lấy mười cỗ xe tốt, trăm dật hoàng kim, sai sứ giả đem nghi trượng tướng quốc theo để đón Mạnh Thường Quân, bảo phải đi ngay chớ nên dùng dằng.

Phùng Hoan đi gấp về Tề, không vào chào Mạnh Thường Quân vội, trước đến yết kiến Tề Mân Vương, tâu rằng: “Tần và Tề tranh nhau mạnh yếu hơn thua như thế nào, vua đã biết. Được người hiền tài thì mạnh, mất người hiền tài thì yếu. Nay tôi nghe người ta nói Vua Tần thấy Mạnh Thường Quân bị bãi chức thì lấy làm may lắm, sai sứ sang đón về làm tướng quốc. Nếu Mạnh Thường Quân làm tướng quốc nước Tần thì sẽ đem mang hại cho Tề mà làm lợi cho Tần, như vậy thì Tần trở nên mạnh, ta nguy đến nơi rồi!”

Vua Tề ra vẻ sợ hãi, hỏi rằng: “Như vậy thì biết làm thế nào?”

Phùng Hoan nói: “Sứ Tần sớm chiều sẽ đến ấp Tiết, nhân lúc họ chưa đến, đại vương nên lại dùng Mạnh Thường Quân làm tướng, ban rộng thêm ấp phong, Mạnh Thường Quân tất mừng mà nhận. Sứ Tần dẫu mạnh, lẽ nào chẳng nói với vua mà dám tự tiện đón vị tướng quốc của người ta ư?”

Mân Vương khen phải, nhưng thực ra trong lòng vẫn chưa tin, bèn sai người đi đến nơi biên cảnh dò xét hư thực, thì thấy xe ngựa ầm ầm kéo đến, hỏi ra thì quả là sứ Tần. Sứ giả suốt đêm chạy về nói với Mân Vương.

Mân Vương lập tức sai quan Thái phó đem 1000 cân vàng và văn xa tứ mã (xe có vẽ vời và gác 4 ngựa) cùng một bảo kiếm, một phong thư đến xin lỗi Thường Quân và xin mời về làm tướng như cũ, lại phong thêm cho một nghìn hộ.

Sứ giả Tần đến ấp Tiết, nghe Mạnh Thường Quân đã lại làm tướng nước Tề, bèn quay xe trở về.

Dị bản cho đoạn trên: Phùng Hoan đến nước Lương, bảo Lương Huệ Vương rằng: “Được người hiền thì nước mạnh, bỏ người hiền thì nước yếu. Nước Tề nay bỏ Mạnh Thường Quân, nếu Lương dùng làm tướng thì Mạnh Thường Quân sẽ đem những việc khả dĩ làm lợi cho Tề được mà làm lợi cho Lương. Như vậy, Lương sẽ hùng mạnh mà Tề nguy mất.” Lương Huệ Vương bằng lòng, khiến sứ giả dem 1000 cân vàng và 100 cỗ xe qua mời Thường Quân. Sự việc tiếp theo tương tự như trên.

Khi Mạnh Thường Quân đã trở lại làm tướng nước Tề, thì những tân khách trước bỏ đi đều lại quay về cả. Mạnh Thường Quân bảo Phùng Hoan rằng: “Văn nay đối với tân khách không dám có điều gì thất lễ, mà khi bị bãi chức, khách đều bỏ Văn này mà đi. Nay nhờ tiên sinh mà Văn này lại được phục chức, tân khách còn mặt mũi nào mà thấy Văn nữa!”

Phùng Hoan đáp rằng: “Vinh nhục thịnh suy là lẽ thường ở đời. Ngài không thấy cái chợ ở nơi đô hội lớn đó ru? Sớm ra thì ai nấy chen vai tranh cửa mà vào, đến chìều thì vắng ngắt như bãi tha ma; vì những cái người ta cần đến không có nữa. Ở đời giàu sang lắm kẻ cầu thân, nghèo hèn chẳng ai buồn hỏi, đó là việc thường ngài còn lại gì!”

Mạnh Thường Quân vái mà nói rằng: “Kính xin vâng mệnh!” Rồi cứ đãi khách như xưa.

Sau khi Vua Tề tái trọng dụng Thường Quân, Phùng Hoan lại khuyên Mạnh nên thỉnh cầu cho đủ những đồ tế khí của tiên vương và xin lập nhà tôn miếu ở đất Tiết. Vì Mạnh vốn là dòng dõi của Tề Uy Vương, lập tôn miếu ở đất Tiết để thờ tiên vương làm căn bản vững vàng, sau này nước Tề chẳng những không dám đoạt đất Tiết, mà phải cứu trợ một khi đất Tiết bị nước khác xâm lăng.

Vua Tề không hiểu được mẹo của Phùng Huyên, nên bằng lòng cho Mạnh thiết lập tôn miếu ở đất Tiết. Khi ấy họ Phùng bảo Mạnh: “Ngày nay ba ngách hang đã đào xong, Tướng công có thể dựa gối cao mà nằm được yên vậy.”

“Ba ngách hang” của Phùng Huyên là: mua ân nghĩa, lập kế cho Vua Tề tái dụng làm tướng, lập tôn miếu ở đất Tiết.

Mạnh Thường Quân làm Tướng quốc hơn vài mươi năm, lập công trạng lẫy lừng là nhờ Phùng Hoan bày mưu kế Giảo thố tam quật, nghĩa là “thỏ khôn có ba ngách hang”. Ý nói: thỏ có ba ngách hang để phòng khi kẻ thù vào một hang thì chạy tránh theo hang kia, cũng như con người phải có phương án dự phòng để ứng phó với nghịch cảnh.

Năm 298 tCN, Mạnh Thường Quân phát động hợp tung, cùng liên quân Ngụy, Hàn đánh nước Tần. Dưới sự chỉ huy của Mạnh Thường Quân, quân 3 nước cùng tiến đến ải Hàm Cốc, thu được thắng lợi. Sang năm 297 tCN, quân 3 nước lại đánh bại quân Tần. Đến năm 296 tCN, Mạnh Thường Quân lại chỉ huy liên quân đánh tới cửa Hàm Cốc lần thứ 2, chiếm được thành Diêm Thị.

Tuy nhiên năm 286 tCN, Tề Mẫn Vương diệt nước Tống, sinh ra kiêu ngạo, lại thu tướng ấn của Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân sợ bị giết, bèn cùng tân khách chạy sang Ngụy ở nhờ Công tử Vô Kỵ, tức là Tín Lăng Quân. Xem mục: Tín Lăng Quân.

Về sau, danh từ chung “mạnh thường quân” được dùng để chỉ người giàu lòng nhân ái, nghĩa hiệp. Có ý kiến cho rằng như vậy là không đúng hẳn: bản thân Mạnh Thường Quân nuôi người để mong người phục vụ mình khi cần, chứ không hoàn toàn do lòng nhân ái. Việc nghĩa xóa nợ đất Tiết là do ý của Phùng Hoan mà Mạnh Thường Quân đành phải chấp nhận sự đã rồi. Thật ra, Mạnh Thường Quân có lòng nhân ái, nghĩa hiệp ở chỗ ông nuôi người mà không cần biết người ấy có tài năng gì và sẽ có thể giúp mình ra sao, và nhiều người chẳng bao giờ giúp ông việc gì cả. Tức là Mạnh Thường Quân có lòng độ lượng chứ không phải lúc nào cũng vụ lợi.

Dù sao đi nữa, danh từ chung “mạnh thường quân” được dùng rộng rãi nên khó mà sửa được.

mắt xanh: Do chữ thanh nhãn, nói con mắt nhìn ai mà tỏ ý vừa lòng, kính trọng. Theo Tấn thư: Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, chí khí hơn người, rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn, Sơn Đào, Hướng Tú và Vương Nhung, người thường gọi là “Trúc lâm thất hiền” (bảy người hiền ở rừng trúc). Khi mẹ ông mất, Kệ hỉ mang đồ lễ đến viếng. Nguyễn Tịch tiếp ông ta, nhìn với đôi mắt trắng dã. Hỉ ra về, bụng không bằng lòng. Em của Hỉ là Kê Khang nghe biết chuyện mới mang rượu, cắp đàn đến. Tịch tỏ ý vừa lòng lắm, bèn tiếp Khang với đôi mắt xanh.

Có giai thoại về ông. Được biết trong Bộ Binh có người bếp cất rượu rất ngon, trữ 300 hũ mỹ tửu, ông liền xin vào làm một chức nhỏ ở đây để được thưởng thức! Có lần ông say luôn 60 ngày, Vua Tấn muốn nói chuyện với ông mà không được. Người ta cho ông là “cuồng túy”.

Ông là người chán đời, thích tiêu diêu trong vũ trụ. Thơ của ông phần nhiều tả tình, hoặc than cho thói đời đen bạc, hoặc chán cho thế sự thăng trầm, hoặc ngao ngán cảnh phú quý công danh như phù vân… Tư tưởng của ông có lúc lại kỳ dị. Như trong bài văn xuôi Đại nhân tiên sinh truyện, ông ví con người trong vũ trụ như con rận trong quần.

Ông phản đối Nho giáo. Ông bảo: “Không có vua thì vạn vật ổn định; không có bề tôi thì mọi việc được trị; không có kẻ sang thì kẻ hèn không oán; không có kẻ giàu thì kẻ nghèo không tranh của. Ai nấy đều đủ ăn mà không cầu gì nữa”. Thật là một tư tưởng “vô chính phủ” nhưng cũng lạ là Vua Tấn vẫn để ông ở yên.

Nguyễn Tịch lại có một thái độ lạ lùng. Khi tiếp khách hễ là hạng quân tử, là hạng người vừa lòng mình thì Nguyễn Tịch nhìn thẳng bằng tròng mắt xanh; trái lại khách là kẻ tầm thường, người không vừa lòng mình thì ông nhìn bằng đôi tròng trắng.

Do điển đó, sau này người ta dùng chữ “mắt xanh” để chỉ sự bằng lòng, vừa ý. Cũng như câu của Từ Hải: “Mắt xanh chẳng để ai vào có không?” là ý muốn hỏi: nàng chưa thấy ai là người vừa ý phải không?

Đoạn trường tân thanh:

Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Khi Từ Hải biết tiếng Thúy Kiều là người tài sắc, đến tìm nàng ở thanh lâu, ý hỏi: nàng chưa thấy ai là người vừa ý phải không? Tức là nàng chưa tiếp ai bằng mắt xanh.

“Mắt xanh” có nghĩa là vừa ý, ưa thích.

Mặc Ðịch: Người nước Lỗ thời Chiến Quốc, là học giả chủ trương thuyết Kiêm ái, sống đồng thời với các học trò lớp trước của Khổng Tử. Nho gia, đặc biệt là Mạnh Tử đã bài xích, công kích kịch liệt thuyết của Mặc Tử. Cho Mặc Tử xướng thuyết Kiêm ái (yêu mọi người như nhau, không phân biệt thân sơ) là kẻ không cha.

Sãi Vãi: “Kìa như Mặc Ðịch với Dương Chu, tu một việc vị nhơn vị ngã, nhổ mày lông mà lợi cả thiên hạ, thì Dương Chu ta một sự chẳng vui, mài hết trán mà lợi có một người, thì Mặc Ðịch tu một lòng chẳng nại.”

Mân phong: Phần cuối trong thơ Chuốc phong trong Kinh Thi. Mân Phong có 7 bài, bài đầu là Bái Thất Nguyệt mô tả công việc của các bậc tiền bối ở đất Mân (thuộc Thiểm Tây) dựng nghiệp nhà Chu. Tương truyền do Chu Công soạn ra để dạy Thành Vương khi còn bé. 6 bài khác đều nói đến công đức Chu Công phò Thành Vương, giữ đế nghiệp nhà Chu.

mây Hàng: mây ở Núi Thái Hàng, chỉ lòng nhớ cha mẹ. Theo Ðường thư, Ðịch Nhân Kiệt được bổ làm Pháp tào Tham quân đất Tinh Khâu, cha mẹ thì ở đất Hà Dương, xa nhiều ngày đường. Một hôm lên chơi núi Thái Hàng, ngoảnh lại nhìn thấy một đám mây trắng bay một mình ở đàng xa, ông ngậm ngùi nói với người theo xung quanh rằng: Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó”. Nói rồi, ông bồn chồn đứng nhìn đám mây trắng một hồi lâu đến khi đám mây bay đi nơi khác.

Tự tình khúc:

Nam cai khuất non xanh man mác
Thái Hàng xa mây bạc lần vần.

Đoạn trường tân thanh, đoạn nói về nàng Kiều lúc vào lầu xanh lần thứ nhất ở Lâm Truy, gặp Thúc Sinh. Tên lái buôn này nhìn Kiều tắm, cảm hứng mới làm một bài thơ đoạn bảo Kiều họa lại. Kiều từ chối vì nỗi lòng nhớ quê hương, gia đình mà không còn tâm tư để làm gì được, có câu:

Lòng còn gửi đám mây Hàng
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

mây bạc: xem mây trắng.

Từ Thức:

Lại càng như giục lòng quê
Lòng theo mây bạc cùng về cố đô.

mây mưa: do chữ vân vũ, chỉ việc trai gái ân ái với nhau. Đất Cao Đường, bên cạnh đầm Vân Mộng có hai ngọn núi là Vu Sơn và Vu Giáp thuộc Tỉnh Hồ Bắc nước Tàu.

Từ ngữ nay rút từ lời tựa bài Cao Đường phú của Tống Ngọc, thuật lại như sau.

Thời Chiến Quốc, Vua Tương Vương nước Sở cùng với Tống Ngọc đi chơi đầm Vân Mộng, từ xa ngắm nhìn quang cảnh đài Cao Đường, thấy trên đài vân khí phiêu phất, lờ mờ, Vua Sở mới hỏi Tống Ngọc: “Khí đó gọi là gì vậy?” Tống Ngọc thưa: “Đó là triêu vân [mây buổi sáng].” “Vua Sở lại hỏi: “Tại sao gọi là triêu vân?”

Tống Ngọc thưa: “Trước đây tiên vương [tức Sở Hoài Vương] thường du ngoạn trên đài Cao Đường, ban ngày mệt ngủ, mộng thấy có một người con gái, dung mạo diễm lệ, duyên dáng thướt tha lời tựa nói với tiên vương rằng: ‘Thiếp là con gái Thiên Đế, tên gọi Dao Cơ, qua đời khi chưa lấy chồng, táng ở phía nam Vu Sơn, hồn phách y phụ cùng cây cỏ, mới gọi thiếp là Cao Đường Khách, và Thần nữ Núi Vu (tên Hán-Việt: Vu Sơn), nay nghe nhà Vua đến chơi Cao Đường, nên nguyện tiến dâng chăn gối.’ Tiên vương bèn cùng thần nữ hoan lạc.

Lúc từ biệt thần nữ bảo với Sở Hoài Vương rằng: ‘Thiếp ở phía nam núi Vu Sơn, đèo cao cách trở, sáng làm mây, chiều làm mưa. Sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài.’ Hôm sau Sở Hoài Vương đến xem, thì quả nhiên như vậy, mới lập miếu thờ, gọi là miếu Triêu Vân.”

Cảm nhớ người đẹp trong mộng, Vua Sở thuật lại cho quan Đại phu Tống Ngọc nghe. Vốn là một danh sĩ đương thời, Tống Ngọc bèn làm bài phú Cao Đường để ghi lại sự tích Sở Tương Vương giao hoan cùng thần nữ Vu Sơn.

Từ đấy, người ta dùng từ “mây mưa” để nói đến chuyện ân ái trai gái.

Mạnh Giao thời Trung Đường có bài thơ cảm tác sau.

Vu sơn khúc – Mạnh Giao
Khúc hát về núi Vu – Nguyễn Văn Dũng Vicar dịch thơ

Ba Giang kẽm nước hiện bao lần
Dương Đài sáu cặp đỉnh biếc xuân
Kinh vương đi săn, chiều mưa muộn
Đêm ngủ gò cao mộng nữ thần.

Duyên dáng nhẹ lay khói hồng phơi
Cưỡi mây bay đi ẩn sao trời
Hồn về tỉnh mộng nhìn chẳng thấy
Vượn kêu ba tiếng áo lệ rơi.

Trong bài Thanh Bình điệu của thi hào Lý Bạch đời nhà Đường, có câu:

Nhất chi nùng diếm lộ ngưng hương
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường

Dịch:

Đầu cành sương đọng ngát hương đông
Mây mưa Núi Vu nỗi đau lòng.

Đoạn trường tân thanh, đoạn Kim Trọng đang dựa án thiu thiu ngủ, lén song thân, băng lối vườn khuya sang thăm:

Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Và, khi chàng Kim tỏ vẻ lả lơi, suồng sã, Kiền van lơn để tránh:

Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.

Cung oán ngâm khúc:

Bỗng gươm lấp loáng dưới mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa

Tôn Thọ Tường làm quan về đời Tự Đức hàng Pháp, lúc về trí sĩ có làm bài thơ Đĩ già đi tu, mượn tâm cảnh của một người đã hết duyên, chán trần về Phật mà tả tâm sự của mình. Trong bài có câu:

Chày kình gióng tỉnh giấc Vu Sơn
Mái tóc kim sinh nửa trắng vàng.

Những chữ “giấc Vu Sơn”, “giấc Cao Đường”, “đỉnh Giáp non Thần” hay “Vu Giáp”, “giấc mộng Dương Đài”, đến “Dương Đài” đều chỉ việc nam nữ chăn gối theo cách văn hoa. Cũng vì thần nữ ở Vu Sơn của đỉnh Vu Giáp cho rằng “sớm làm mây, chiều làm mưa” nên nhân đó “mây mưa” cũng có nghĩa như trên.

mây Tần: từ truyền thuyết liên quan đến Hàn Dũ (768-823). Theo Liệt tiên truyện, Một hôm Hàn Dũ mở tiệc hạ thọ, có người cháu gọi Hàn là chú tên là Hàn Tương tu tiên trong núi về bái mừng. Hàn Dũ thấy cháu lông bông, không chịu học hành lập chí bèn ngỏ lời khuyên. Tương thưa với chú: “Cháu có học, nhưng học lối xuất thế.” Hàn không bằng lòng, cho là hoang đường. Tương lại thưa: “Đó là túc căn của cháu, cháu phải theo.”

Hàn hỏi: “Học như thế có ích gì? Kết quả ra sao?”

Tương thưa: “Sự học của cháu mênh mông như biển xanh, bàng bạc như mây trắng, nói khôn xiết. Chỉ biết khi học được tất chiều được ý muốn mọi người. Như chú thích rượu ngon, cháu xin dâng. Chú thèm quả ngọt, cháu cũng có.”

Nói xong, Tương lấy nước lã đổ vào bình to để trước án. Một lúc, Tương đem bình ấy rót dâng Hàn và tân khách trong tiệc. Mọi người nâng chén đưa lên ngửi thấy mùi thơm, nhấp vào môi thấy rượu ngon quý. Quả là một thứ rượu tuyệt ngon, trên đời khó kiếm, nên ai cũng lấy làm kỳ lạ.

Tương lại nói: “Cháu thấy chú thích ướp trà sen, cháu xin dâng chú loại sen Đông hải để dùng.”

Hàn ngạc nhiên: “Nay cuối đông làm gì có sen! Vả lại sen Đông hải làm sao mà hái về được? Cháu đoạt được cả quyền của Tạo hóa hay sao?”

Tương mỉm cười, đoạn lấy vuông lụa phủ lên một lọ cắm bông. Khoảnh khắc mở ra có bó bông sen, hương thơm nức khắp phòng. Bông tuy lớn nhưng cánh lại nhỏ, nhụy trắng toát. Rõ ràng là sen Đông hải. Sen còn hàm tiếu nhưng chỉ một lúc sau, sen nở lớn. Lạ thay, nhìn vào bông sen lại có hai câu thơ (dịch):

Mây ngang Tần Lĩnh nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.

Xem qua hai câu thơ, Hàn nói: “Hai câu thơ rất hay nhưng không có ý nghĩa gì cả.”

Tương thưa: “Xin chú cứ nghiệm về sau sẽ rõ.”

Năm sau, nhân việc Đường Hiến Tông cho rước xương Phật vào cung để thờ, Hàn dâng biểu can gián. Vua Hiến Tông cả giận hạ lệnh đem Hàn ra xử tử. May nhờ có các quan hết sức kêu xin, Hàn mới thoát khỏi tội chết, bị giáng chức xuống làm Thứ sử ở Triều Châu, một nơi xa xôi hẻo lánh, khổ sở, và hạn trong 8 ngày phải có mặt tại nhiệm sở, nếu trễ sẽ chết chém.

Đường từ Trường An (kinh đô nhà Đường) ra đến Triều Châu đến 8 ngàn dặm, đường sá lại gập ghềnh hiểm trở, đèo núi cheo leo. Đi ngựa cả tháng chưa chắc đã đến nơi, thế mà lệnh vua chỉ có 8 ngày. Tuy vậy, Hàn không dám trái lệnh, lập tức cùng hai gia nhân lủi thủi lên đường. Bè bạn sợ vạ lây không ai dám đưa tiễn.

Ba thầy trò Hàn đi suốt ngày đêm, ăn cơm khô, uống nước bầu trên ngựa, không dám nghỉ ngơi ở quán dịch, mà 8 ngày rồi mới đến Lam Quan.

Lúc bấy giờ đang tiết đông, nơi cửa ải Lam Quan mưa dầm gió bấc, tuyết xuống đầy đường. Những tảng tuyết cao và trơn như mỡ, ngựa không thể nào đi được. Hàn và hai gia nhân đành phải xuống ngựa đi bộ. Chẳng may cả ba lạc vào rừng, bốn phía vắng tanh, tìm mãi không thấy lối ra và cũng chẳng gặp ai để hỏi. Suốt bao nhiêu ngày gian lao như thế làm cho người Hàn sút ốm quá nửa, đầu cơ hồ bạc. Lòng Hàn bàng hoàng chán nản, tự nghĩ vì công danh mà chịu nỗi lao đao. Hàn bấy giờ có ý định bỏ quan vào rừng ẩn náu, thoát vòng cương tỏa.

Ý đã quyết, Hàn định trở lại nhưng không biết đường nào ra. Bốn phía tuyết phủ mịt mù, gió rít từng cơn. Trên đỉnh rặng núi Tần Lĩnh mây trắng lững lờ trôi, cố hương nào biết nơi đâu mà về?

Lúc ấy, Hàn mới chợt nhớ đến hai câu thơ trong bông sen năm trước mà cháu là Hàn Tương đã nhắc Hàn suy nghiệm về sau sẽ biết. Thật là đúng với quang cảnh của Hàn lúc này. Trong lúc tiến thối lưỡng nan, trời mịt mù sắp tối, tuyết đổ xuống càng dầy, gió thổi càng mạnh, mưa bay càng nặng, bỗng nghe như có tiếng gọi văng vẳng sau lưng. Hàn quay lại, thì ra là Hàn Tương.

Hàn Dũ mừng rỡ, biết cháu đến là có ý cứu mình, bèn đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Tương nghe. Tương bảo: “Nếu thúc phụ muốn đến Triều Châu ngay bây giờ thì hãy bỏ ngựa đi thuyền. Đêm nay sẽ đến Triều Châu đúng hạn.”

Hàn Dũ nghe lời. Tương đưa ba thầy trò ra khỏi rừng. Đến bờ Sông Chương (Tên Hán-Việt: Chương Giang) thấy sẵn có một chiếc thuyền cắm sào trên băng tuyết, nước sông đóng thành băng một giải liền như tấm lụa trắng. Tương bảo ba thầy trò Hàn vào trong thuyền ngồi và nhắm mắt lại để Tương đưa đi. Ba thầy trò nghe theo nhắm chặt mắt lại, tai chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù, tiếng thuyền rẽ sóng nước ào ào. Độ một giờ sau, thuyền ngừng lại, tiếng gió, tiếng nước vắng lặng, bấy giờ thầy trò mới mở mắt ra. Thì ra bến Triều Châu ở ngay bên cạnh. Cả ba mừng rỡ lên bờ vào dinh Thứ sử Triều Châu nhậm chức.

Nhớ đến chuyện long đong, lận đận, nhứt là hai câu thơ trong bông sen ngày nọ đã tả đúng cảnh lạc loài cô đơn và nỗi nhớ nhà nơi rừng thẳm bên Ải Lam Quan và Núi Tần Lĩnh nên Hàn Dũ làm một bài thơ

Chế Lam Quan thị điệt Hàn Tương – Hàn Dũ
Đến Lam Quan bảo cháu Hàn Tương – Bùi Khánh Đản dịch thơ:

Sớm dân bản tấu vào cung khuyết
Chiều đất Triều Châu bị biếm ra
Muốn bỏ dị đoan cho đất nước
Quản chi suy hũ tiếc thân già.

Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua
Hẳn cháu đến đây lòng đã định
Chương giang rồi nhặt nắm xương ta.

Đoạn trường tân thanh, khi Kiều nghĩ nhớ đến quê hương xa cách muôn trùng:

Ðoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.

“Mây Tần” chỉ cố hương, nỗi nhớ quê.

mây trắng: từ chữ bạch vân, do tích Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa quê nhà, trông thấy đám mây trắng trên Núi Thái Hàng, than rằng: “Cha mẹ ta ở nơi đó”. Ðịch ngậm ngùi giờ lâu, đợi đám mây bay khuất mới về.

Ðịch Nhân Kiệt dùng tiếng “mây trắng”, nhưng vì đứng trên núi Thái Hàng nên người sau cũng gọi là “mây Hàng”. Cả hai từ đều có ý nói tưởng nhớ cha mẹ.

Đoạn trường tân thanh:

Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?

Bích Câu kỳ ngộ:

Não người thay! Nỗi tang thương
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.

mây vàng: nguyên từ câu thơ cổ:

Thiên thượng hoàng vân ảnh
Du tử hà thời quy

nghĩa:

Trên trời có bóng mây vàng
Con đi xa nhà bao giờ về?

Đoạn trường tân thanh, khi Kiều từ chối họa lại thơ Thúc sinh vì nỗi lòng nhớ người thân:

Lòng còn gởi áng mây vàng (A)
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

(A) Có bản chép “mây Hàng” tức mây trên núi Thái Hàng – xem mây trắng

“Mây vàng” diễn tả nỗi nhớ nhà.

mất búa đổ ngờ: chỉ việc nghi ngờ vu vơ. Sách Liệt Tử ghi: Người thầy búa mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng, nhìn cách đi đứng nói năng của nó, nhất nhất đều tỏ ra là thằng ăn trộm búa. Nhưng rồi lại thấy búa, hôm sau nhìn đứa con láng giềng thấy không có cái gì tỏ ra là đứa ăn trộm búa cả.

mật lệnh trong nhân bánh Trung Thu: Năm 1279, Nguyên Thế Tổ là Hốt Tất Liệt đem quân đánh nhà Nam Tống ở Trung Quốc. Nam Tống đại bại, bị diệt. Nhà Nguyên làm chủ toàn bộ Trung Quốc. Lần thứ nhất, Trung Quốc bị ngoại tộc thống trị.

Đối với Trung Quốc, nhà Nguyên vẫn giữ quan niệm kỳ thị chủng tộc. Trong nước bấy giờ chia ra đẳng cấp: người Mông Cổ, người Sắc Mục (chỉ người Tây Vực và Châu Âu), người Hán (chỉ người nước Liêu và nước Kim còn sót lại). Giữa người Mông Cổ và người Hán có một chế độ chênh lệch. Những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự đều tập trung vào tay người Mông Cổ. Người Hán và người Nam chỉ được giữ những địa vị phụ thuộc.

Hạng nho sĩ được người Trung Quốc quý trọng thì bị người Mông Cổ khinh miệt. Họ thường có câu nói ví: “Thứ tám là đĩ, thứ chín là nho, thứ mười là ăn mày”.

Muốn đề phòng nội loạn, nhà Nguyên cấm chỉ dân Giang Nam cầm binh khí. Trong vòng 10 nhà thì đặt giáp trưởng để giữ người Nam. Các vương công và quan lại Mông Cổ tự do cướp ruộng đất của nông dân để làm mục trường và nô tỳ.

Sự bức bách khắc nghiệt đó chính là một yếu tố quan trọng, tạo thành một động lực cho phong trào nông dân bạo động và dân tộc tranh đấu đòi giải phóng.

Năm 1337, đời Nguyên Thuận Đế, Chu Quang Khanh nổi dậy ở Quảng Châu, Bạng Hồ ở Tín Dương Châu. Tiếp theo đó, nông dân quật khởi ở nhiều nơi khắp miền nam và miền bắc.

Năm 1351, cha con Hàn Sơn Đồng lập Bạch Liên Hội, lợi dụng tôn giáo để tổ hợp nông dân. Đây là một giáo hội bí mật, tuyên truyền rằng: “Hoa sen trắng (bạch liên) nở có Phật Di Lặc giáng thế”, đồng thời viết kinh sách và phù chú để truyền bá trong dân gian. Phong trào này gây nhiều ảnh hưởng ở Hà Nam và Giang Hoài.

Hàn Sơn Đồng bị bắt. Con là Hàn Lâm Nhi nối lấy nghiệp cha và xưng đế. Đồng thời, Trương Sĩ Thành chiếm cứ đất Ngô; Trần Hữu Lượng chiếm cứ Giang Châu; Chu Nguyên Chương chiếm cứ Tập Khánh (thành Nam Kinh bây giờ).

Chu Nguyên Chương xuất thân là thầy chùa, bên cạnh có quân sư là Lưu Bá Ôn đa mưu túc trí. Năm 1367, Chu Nguyên Chương xưng vương tuyên bố tranh đấu giải phóng dân tộc, thành lập chánh quyền của người Trung Hoa, chiếm cứ vùng Giang Hoài, thống nhất phương Nam. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sai Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đem binh lên miền bắc đánh Vua Nguyên Thuận Đế với mật kế của quân sư Lưu Bá Ôn.

Nhân dân Bắc kinh đang tổ chức cúng rằm Trung thu. Họ chuẩn bị bánh, bưởi, khoai môn… Nhưng khi cắt bánh ra, dân chúng trong thành rất đỗi ngạc nhiên thấy trong nhân bánh có một mảnh giấy vàng con đề một dòng chữ nhỏ son đỏ vắn tắt: “Khuya ngày rằm Phật Di Lặc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước”.

Cho là thần linh báo trước, mọi người mừng rỡ. Ai ai cũng vâng lệnh thần linh. Vì họ tin rằng: khi Phật Di Lặc giáng thế là lúc họ sẽ được thoát khỏi cảnh lầm than mà bước đến đài hạnh phúc.

Trước kia, khi đặt nền thống trị Trung Hoa, người Mông Cổ muốn bắt người Hán theo văn hóa du mục của họ. Nhưng văn hóa hòa nhã tinh tế của người Hán lần lần cảm hóa được tính chất của người Mông Cổ, có ảnh hưởng sâu xa tinh thần người Mông Cổ, thành ra dân tộc bị chinh phục trở lại đồng hóa kẻ thống trị mình. Do đó Vua Thuận Đế chẳng những bằng lòng cuộc tổ chức lễ nghi của dân Trung Hoa mà còn sẵn sàng bày những cuộc vui chơi trong đêm rằm Trung Thu để thưởng nguyệt nữa.

Nhà Vua cùng quần thần mặc say sưa chè chén. Dân chúng trong thành mặc tự do đi đi lại lại. Ai ai cũng cầm trong tay một chiếc đèn lồng. Cả bầu trời sáng rực. Thật là một hội hoa đăng tưng bừng, náo nhiệt. Cửa thành mở toát. Người đi lại tấp nập.

Trên vườn Thượng Uyển, Thuận Đế tay nâng cốc rượu say sưa ngắm chị Hằng, bên cạnh bao vây một hàng vũ nữ, nàng nào cũng lộng lẫy xinh tươi.

Dưới đường, dân chúng cầm lồng đen cũng say sưa chờ đợi để đón rước Phật Di Lặc giáng thế.

Canh hai, canh ba… không thấy gì. Nhưng… Bỗng một tiếng pháo lệnh nổ. Một số người cầm đèn bấy giờ buông đen, tay đổi cầm khí giới. Thì ra, một số quân lính của Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân giả làm dân chúng, cầm đen trà trộn đột nhập vào thành để làm nội ứng.

Quân lính bên ngoài lại xông vào hợp với quân trong thành tấn công dữ dội. Tiếng hò hét vang dậy.

Chúa tôi nhà Nguyên giữa lúc say sưa chè chén bên cạnh bọn vũ nữ quay cuồng với khúc Nghê Thường vũ y, bị đánh thình lình, không phương chống cự nên cuống cuồng bỏ chạy.

Quân của Từ Đạt chiếm lấy thành. Vua Thuận Đế nhà Nguyên bị đuổi chạy về Mông Cổ.

Chu Nguyên Chương thâu lại toàn bộ Trung Quốc, lên ngôi hoàng đế, định đô tại Tập Khánh (Nam kinh), đổi quốc hiệu là Minh. Ấy là Vua Minh Thái Tổ.

Nước Trung Hoa vào tay người Mông Cổ trong 89 năm (1279-1386), trải qua mười đời vua, nay lại trở về người Hán.

Mậu Lăng: quê của danh sĩ Tư Mã Tương Như đời Hán có cuộc tình nổi tiếng với nàng Trác Văn Quân.

Cầm đài (A) – Đỗ Phủ:

Mậu Lăng đa bệnh hậu
Thượng ái Trác Văn Quân

(Sau khi lắm bệnh ở Mậu Lăng
Càng thêm yêu Trác Văn Quân)

(A) cầm đài: nhà cao dùng làm nơi đánh đàn

Về sau, “Mậu Lăng” là thành ngữ chỉ thanh niên đa tình. Xem thêm: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

Mễ Nam Cung: người đời Tống, thơ hay, vẽ khéo, thường dắt bạn đi thưởng ngoạn sơn thủy. Trong thuyền lúc nào cũng đầy thơ và tranh vẽ. Vì đã làm chức Nam Cung Xá Nhân, nên người ta thường gọi là Mễ Nam Cung.

Mịch La: Sông ở phía nam nước Sở thời Chiến Quốc, nơi Khuất Nguyên trầm mình vì can gián mà Sờ Hoài Vương không nghe, thấy rõ họa nhà Tần sắp xâm lăng nước Sở.

Xem Khuất Nguyên, Ðoan ngọ.

mỏ đỏ: chỉ Hồ Quý Ly. Vua Trần Nghệ Tôn chiêm bao thấy Vua Duệ Tông về, đọc một bài thơ trong đó có câu: Trung hân hữu xích chùy hầu (Trong đó duy có tước hầu mỏ đỏ).

mỏng mày hay hạt: Mày và hạt xuất phát từ việc chọn giống của nhà nông. Mày là cái vảy dính ở gốc hạt lúa, hạt ngô. Hễ mỏng mày là hạt chắc, dùng làm hạt giống rất tốt. Từ đó người ta cho rằng người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt.

Thành ngữ này thường dùng để chỉ người phụ nữ có khuôn mặt xinh xắn, dáng người thon thả – là quan niệm ngày xưa về vẻ đẹp.

Mông Chính: Lã Mông Chính, người đời Tống, thi đỗ Trạng nguyên. Khi nghe tin Mông Chính đỗ, Hồ Ðán Phủ phàn nàn rằng: “Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ rồi.” Quả nhiên sang năm Hồ đỗ thật.

Mộc bản triều Nguyễn: đây là một di sản lịch sử quý báu của Việt Nam. Tất cả gồm có 34.619 tấm mộc bản, tương đương 55.320 mặt khắc, với 152 đầu sách. Mộc bản được khắc ngược chữ Hán và chữ Nôm (giống như khắc con dấu), sau đó quét mực rồi ép mặt in ra giấy để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi ra công chúng các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân tuân thủ. Đó cũng là những bản khắc lưu truyền công danh, sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử, các biến cố thời cuộc, các cuộc tiểu trừ giặc giã. Tài liệu mộc bản triều Nguyễn được tạo ra trong quá trình hoạt động của Quốc sử quán triều Nguyễn. Hầu hết được chế tác dưới thời Nguyễn, một số khác có niên đại cũ hơn được chuyển từ Quốc Tử Giám (Hà Nội) vào Huế dưới thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị.

Tất cả các bản thảo đều được đích thân hoàng đế ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ thị hoặc gỗ cây nha đồng. Do tính chất cực kỳ quan trọng của mộc bản, dưới thời Minh Mạng, nhà vua từng có chỉ dụ: “Sai quan Bắc thành kiểm xét các ván in nguyên trữ tại Văn Miếu (Hà Nội) về các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư Đại Toàn, Vũ Kinh Trực Giải cùng Tiền Hậu Chính Sử và Tứ Trường Văn Thể gửi về kinh để ở Quốc Tử Giám (Kinh đô Huế)”.

Nội dung trên các bản khắc là khối tư liệu đồ sộ về lịch sử dân tộc từ thời Hùng Vương dựng nước đến thế kỷ 19. Trong kho mộc bản hiện có những bản khắc rất giá trị như: Bản khắc kể về truyền thuyết Hùng Vương, truyền thuyết Thánh Gióng, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, “Chiếu dời đô” của vua Lý Công Uẩn, bài thơ thần “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sỹ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, quy mô thành Đại La vào năm Bính Tuất 866, “Hoàng thành nội” tức sơ đồ Hoàng thành Huế, việc vua Gia Long đổi quốc hiệu Việt Nam năm 1804, bản khắc việc vua Minh Mạng đổi và đặt tên tỉnh Hà Nội 1831, việc trùng tu Quốc Tử Giám năm 1234, việc cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đỗ khoa thi Hương tại trường thi Nghệ An năm 1894, bản khắc “Hoàng Việt luật lệ”, bộ Luật nổi tiếng của triều Nguyễn được ban hành vào năm 1813…. Đặc biệt, trong kho lưu trữ có 14 tấm mộc bản xác định chủ quyền của đất nước ta đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Không chỉ phong phú, đặc sắc về nội dung mà chất liệu và nghệ thuật chế tác mộc bản cũng rất đặc biệt. Chất liệu chủ yếu là các loại gỗ thị, mít và ngô đồng. Loại gỗ phổ biến nhất dùng làm ván khắc là gỗ thị, có ưu điểm là chất liệu gỗ rất dai, mềm và mịn, khó bị nứt nẻ nên chữ khắc trên đó sẽ không bị lệch. Còn theo sách Đại Nam nhất thống chí, mộc bản còn được chế tác từ “cây nha đồng, tục danh là sống mật, sớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi”. Thợ khắc mộc bản được lựa chọn từ các địa phương trong cả nước có nghề chạm khắc gỗ nổi tiếng, kỹ thuật khắc hoàn toàn là thủ công.

Ngoài sự đồ sộ về thông tin, mỗi bản khắc còn là một tác phẩm nghệ thuật về điêu khắc. Từ những nét chữ triện đến những nét chữ thảo, được san khắc một cách tinh xảo; bản đồ, họa tiết, tỉ mỉ đến từng đường nét. Và đằng sau những bản khắc này là cả một quy trình sản xuất khắt khe, từ việc biên soạn, chọn gỗ, chọn thợ viết chữ, thợ san khắc, chép lại bản thảo, san khắc, in ấn và bảo quản. Trong đó, Quốc Sử quán đóng vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm chính.

Các chữ khắc trên mộc bản là chữ Hán Nôm cổ khắc ngược (để in ra thành sách), có bản khắc bằng chữ Hán chân (chữ chân phương, đơn giản) nhưng cũng nhiều bản được khắc bằng chữ Hán thảo (chữ Hán thư pháp). Nhiều tấm khắc sơ đồ, bản đồ, tác phẩm hội họa, họa tiết hoa văn. Một bản gỗ thường khắc hai mặt, mỗi mặt khắc hai trang, ở giữa hai trang là dòng chữ ghi tên sách, số quyển và số trang. Chữ trên mộc bản có kích cỡ rất nhỏ, khoảng 0,4 cm2 với nhiều nét, thậm chí có chữ lên tới 30 nét mảnh như sợi chỉ và vô cùng sắc nét. Điều đó cho thấy kỹ thuật khắc in đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh xảo như thế nào. Dù đã trải qua hàng trăm năm nhưng khi đem in, các chữ trên giấy vẫn đẹp, rõ.

mộng nguyệt: Chiêm bao thấy mặt trăng sa xuống mình, là điềm sinh con quý. Sách Nam sử ghi: Xưa kia, Vũ Ðế chiêm bao thấy nhà sư chột mắt cầm lò hương đến xin thác sinh ở cung vua. Thế rồi có một cung nữ chiêm bao thấy mặt trăng chiếu rọi vào bụng mà có thai. (Lương Vũ đế ký).

Quan âm Thị kính:

Báo điềm mộng nguyệt mãn ngày treo khăn.

Dương Từ – Hà Mậu:

Liễu Thơ là vợ họ Hà
Chiêm bao nằm thấy nguyệt sa trên mình.

mộng hồ điệp hay Trang Chu hồ điệp mộng (giấc mơ hóa bướm của Trang Chu) là tên người ta đặt cho một đoạn văn trong sách Nam hoa kinh của Trang Chu tức Trang Tử (~369 tCN – 286 tCN). Đoạn văn này rất nổi tiếng, trở thành một điển tích thường dùng trong cổ văn của Trung Quốc và Việt Nam.

Theo Nam Hoa kinh của Trang Chu, Nguyễn Hiến Lê dịch:

Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu. Trang Chu với bướm tất có chỗ khác nhau. Cái đó gọi là “vật hóa”.

Cẩm sắt – Lý Thương Ẩn:

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên
.

Đàn gấm – Huỳnh Minh Đức dịch thơ:

Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp
Vọng đế lòng xuân, gởi Đỗ quyên

một cốt một đồng / một đồng một cốt: Ông đồng bà cốt hành nghề mê tín dị đoan, làm những việc như gọi hồn, bắt ma, làm lễ giải hạn… để kiếm tiền thiên hạ.

Đoạn trường tân thanh, khi Tú bà với Sở Khanh thông đồng với nhau để đánh lừa Kiều:

Đà đao lặp sẵn chước dùng
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay.

Ý chỉ bọn người chuyên lừa đảo.

một phơi mười lạnh: Mạnh Tử: Trong thiên hạ tuy có vật rất dễ sống nhưng một ngày ấm và mười ngày rét, thì loài dễ sống đó cũng không thể sống và sinh sôi được.

Ý nói công việc không thể vội vàng hấp tấp, nếu học mà một ngày học, mười ngày chơi, không suy nghĩ gì đến sách vở thì rút cục chẳng biết gì cả.

mở tranh lấp rào: phá bỏ cỏ tranh ngăn lấn lối, ý nói đường không ai qua lại thì cỏ tranh sẽ mọc che mất lối. Ý so sánh với việc học tập: nếu học mà thiếu thực hành thì nghĩa lý bị che lấp, trí óc người ta bị điều xấu làm mờ.

Mạnh Tử bảo Cáo Tử rằng: “Ðường mòn ở trên núi, đi lại lâu ngày tất thành đường lớn. Nếu không có người đi, tranh cỏ sẽ lấp lối. Nay tâm của anh đã bị tranh cỏ bịt mất rồi đây.”

múa búa trước cửa Lỗ Ban: từ câu ban môn lộng phủ. Mai Chi Hoán, làm quan đời Minh, thấy du khách mỗi khi viếng mộ của Lý Bạch đều cao hứng đề thơ thì buồn cười, cho rằng người đời không biết lượng sức mình, thơ chẳng ra gì mà dám phô trương trước nhà đại thi hào họ Lý, nào có khác gì đến trước cửa Ban để múa búa. Mai Chi Hoán mới làm bài thơ như sau:

Thái Bạch giang biên nhất đôi thổ
Lý Bạch chi danh cao thiên cổ
Lai lai vãng vãng nhất thủ thi
Lỗ Ban môn tiền lộng đại phủ
.

Dịch thơ:

Thái Bạch bên sông một nấm mồ
Tài cao Lý Bạch nhất làng thơ
Vãng lai du khách đều ngâm vịnh
Múa búa cửa Ban rõ dại khờ.

Lỗ Ban là thợ thủ công giỏi nổi tiếng người nước Lỗ đầu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Có thành ngữ với ý nghĩa tương đương là “Múa rìu qua mắt thợ.”

mùi hương vương giả: Mùi hương cao quý, tức mùi hương của hoa lan.

Khổng Tử gia ngữ: Khổng Tử từ nước Vệ về nước Lỗ thấy nơi núi hẻo lánh, có nhiều hoa lan đã than rằng: Hoa lan có mùi hương vương giả, nay lại phải ở chung với các loại cỏ!

muôn chung nghìn tứ: Chung là cái hộc, đơn vị dùng để đong thóc ngày xưa; tứ là cỗ xe có bốn ngựa kéo. Câu này chỉ bậc vương hầu khanh tướng, ăn lộc đến nghìn chung thóc, trong nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa.

Đoạn trường tân thanh, mô tả vị thế của Từ Hải:

Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.

muông thỏ cung chim: ý nói những người tài giỏi hết thời bị chủ hãm hại, như ta nói: Được chim quên ná, được cá quên nôm.

Theo Sử ký, Năm thứ 6 đời nhà Hán, có người đưa thư báo Sở Vương rằng Hàn Tín làm phản. Hán Cao Tổ dùng mưu kế của Trần Bình, sai sứ báo với chư hầu: Nhà Vua sẽ họp chư hầu ở đất Trần và sẽ đi chơi Vân Mộng. Kỳ thực nhà Vua muốn bắt Tín nhưng Tín không biết. Hàn Tín đến ra mắt Hán Cao Tổ ở đất Trần, Hán Cao Tổ bèn sai võ sĩ trói Tín lại, chở ở xe sau. Tín nói: “Quả như lời người ta nói: Thỏ khôn chết thì chó phải bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị bỏ xó, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời!”

múa Thiều: điệu nhạc múa Cửu Thiều, tương truyền do Vua Thuấn làm ra. Vì nhạc Thiều được coi là âm nhạc tiêu biểu của quốc gia, người thời xưa gọi đó là “quốc thiều”. Đến thời hiện đại, từ “quốc thiều” vẫn được dùng theo nghĩa quốc ca.

Mỵ Ê: không biết họ gì, vốn là vương phi của Vua Chiêm Thành mà sử Việt gọi là Xạ Đẩu.

Triều Vua Lý Thái Tông (1028-1054) nước Đại Việt, Xạ Đẩu không theo lệ cống, thất lễ phiên thần, vua tự đem binh Nam chinh. Xạ Đẩu bày trận ở Sông Bồ Chính nhưng bị quân nhà Lý đánh bại. Xạ Đẩu chết tại trận. Vua nhà Lý tiến vào thành Đồ Bàn, là quốc đô của Chiêm Thành, bắt được vương phi Mỵ Ê cùng một số cung nhân, nhạc nữ, đem về nước.

Khi thuyền đến Sông Lý Nhân, giữa đêm, nhà Vua nghe Mỵ Ê có sắc đẹp, bèn sai người vời đến chầu thuyền ngự. Mỵ Ê không giấu được nỗi phẫn uất, từ chối rằng: “Vợ phường man rợ quê mùa, y phục xấu xí, ngôn ngữ thô lỗ, không giống các phi tần Trung Hoa. Nay nước tan, chồng mất, chỉ mong một chết là thỏa lòng; nếu cưỡng bức hợp hoan, ngại nỗi làm dơ mình rồng vậy.”

Đoạn, nàng lén lấy chăn lông chiên quấn lấy kín thân mình, phó tính mạng cho dòng nước chảy. Thế là, đánh ầm một tiếng, mất tăm hình bóng người xinh.

Nhà vua kinh hoảng tự hối, muốn cứu nhưng không sao kịp nữa.

Tương truyền từ đó, nơi này mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, người ta thường nghe văng vẳng có tiếng phụ nữ khóc kể bi ai. Dân trong vùng cho việc kinh dị, xin lập đền thờ, bấy giờ mới dứt tiếng khóc.

Một hôm mãi về sau, có dịp, Vua Lý Thái Tông đến Sông Lý Nhân. Thuyền thả giữa dòng, đến đấy, nhà Vua thấy trên bờ có ngôi đền thờ, lấy làm lạ hỏi. Hầu thần đem chuyện Mỵ Ê kể lại. Vua lặng yên hồi lâu, phán rằng: “Không ngờ gái rợ lại có kẻ u trinh đến thế, quả là một gái phi thường. Thế nào cũng có sự báo thù.”

Đêm ấy đã canh ba, chợt nghe một trận gió thơm thổi đến, khí lạnh tê người. Nhà Vua chợt thấy một người đàn bà yểu điệu, dung nhan đẹp đẽ, uy nghi bước đến, cúi lạy vừa khóc rằng: “Thiếp nghe đạo của kẻ phụ nhân là tòng nhất nhi chung. Quốc vương trước của thiếp tuy chẳng dám so sánh cùng bệ hạ nhưng cũng là bậc nam tử kỳ tài riêng cõi. Thiếp từng được lạm dự phần khăn lược, chẳng may gặp phải cảnh nước tan chồng mất, thiếp đêm ngày sầu thương, rầu rĩ, chỉ lo báo bổ. Nhưng quần thoa yếu ớt chẳng biết tính sao! May nhờ hồng ân của bệ hạ sai Trung Sứ tiễn thiếp xuống tuyền đài hội ngộ cùng chồng. Sở nguyện của thiếp thỏa rồi, thế còn có linh gì mà dám đến đây đường đột!…”

Nói xong, không thấy đâu nữa.

Vua kinh hãi tỉnh giấc, mới hay là chiêm bao. Đoạn truyền đem lễ vật đến miếu cúng tạ, sắc phong làm Hiệp Chính Nương. Từ đó về sau, dân chúng xa gần cầu đảo đều thấy linh ứng.

Cảm nỗi chua xót của nàng Mỵ Ê phải tuẫn tiết trong cảnh nước mất nhà tan, thi sĩ Tản Đà có làm bài thơ từ khúc để tả nỗi lòng của người vương phi bạc mạng:

Châu giang một giải sông dài
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy
Ngọa Phật tháp thiên di.

Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt
Thiếp sinh ly
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!

Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm
Phu thê xướng tùy.

Ôi mây! Ôi nước! Ôi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi
Nước sông trong đục
Lệ thiếp đầy vơi.

Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời!
Trời ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi!…

Nam Bắc triều (420-589): tiếp sau giai đoạn Thập lục quốc và trước Nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc, là một thời đại của nội chiến và chia rẽ.

Nam triều:

  • Lưu Tống (420-479)
  • Nam Tề (479-502)
  • Lương (502-557)
  • Trần (557-589)

Bắc triều

  • Bắc Ngụy (386-534)
  • Đông Ngụy (535-550)
  • Tây Ngụy (535-557)
  • Bắc Tề (550-577)
  • Bắc Chu (557-581)

Nam Giao: nguyên ngữ nam là phương nam, giao là nơi cách xa kinh đô 100 dặm. Ngày xưa triều đình cho đắp đàn nam giao ở phương nam để tế Trời Đất.

Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế Trời Đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận Phường Trường An, Thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam.

Đàn Nam Giao (Ảnh: T. Do Khac)

Nam Hoa kinh: hay Nam Hoa chân kinh, là cuốn sách triết học nổi tiếng thường được cho là của Trang Chu (~369 tCN – 286 tCN) thời Chiến Quốc viết. Ngoài giá trị triết lý, Nam Hoa kinh còn có giá trị nghệ thuật rất cao, được Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư của Trung Quốc.

Theo truyền thuyết, Nam Hoa kinh được Trang Chu viết khi ông vào ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước Tống thời xưa. Nhưng theo các nhà nghiên cứu, ngoại trừ chương Nội thiên, phần lớn Nam Hoa kinh (tạp thiên, ngoại thiên) không phải do Trang Chu viết mà là của hậu thế thêm vào. Sách được viết vào lúc nào, không ai nói chắc vì chính Trang Chu không được biết là sinh và mất vào năm nào.

Nội thiên là chương tối quan trọng trong toàn bộ tác phẩm, diễn đạt tư tưởng thái thậm vô vi của Trang Chu qua lời văn hàm súc và uyển chuyển, ý tứ thoáng đạt và trí tưởng tượng phong phú. Có hai thiên quan trọng trong Nội thiên: Tiêu dao du Tề vật luận.

Thiên Tiêu dao du (nghĩa là thảnh thơi tự tại) có văn chương rất bay bổng. Nguyễn Hiến Lê viết sách bình chú cho đoạn này, ghi ra ba điều kiện của sự tiêu dao tự tại: phải thuận thiên tính, không tùy thuộc vào một cái gì, tức phải được hoàn toàn tự do, và vô vi, tức hòa đồng với vạn vật.

Tuy nhiều học giả kiến giải bằng nhiều cách khác nhau, thậm chí phản bác, song đa số đều cho rằng đoạn này có văn chương đẹp nhất.

Thiên Tề vật luận (nghĩa là luận về sự bình đẳng của vạn vật) gồm nhiều bài luận triết có giá trị, được nhiều người cho là quan trọng và là thiên huyền diệu nhất trong Nội thiên. Theo Trang Tử, muốn đạt tới sự Tiêu dao du thì phải xem vạn vật bình đẳng, xem rộng ra sẽ thấy sống chết như nhau, giàu nghèo không khác, xấu đẹp cũng vậy… Từ đó sẽ thấy tham sống, tham giàu, tham đẹp… là sai, vì mỗi hoàn cảnh, mỗi vật có một giá trị riêng của nó, tất cả đều nằm trong Đạo. Trang Tử còn nói lên sự vô ích của tranh luận: hai người tranh luận đều tự cho mình là phải, vậy tranh luận làm gì? Mời người thứ ba đến lại càng làm cho sự việc thêm khó giải quyết nữa, vì người thứ ba cũng sử dụng quan điểm riêng của mình để phân phải trái. Càng tranh biện càng làm cho chân lý mờ tối. Tề vật luận cũng có thể hiểu là thái độ trung lập, khách quan, không bị định kiến chi phối khi nhận thức. Chỉ khi từ bỏ hết mọi định kiến (hay còn gọi là chấp thủ) người ta mới nhận thức đúng đắn thế giới khách quan, con người được giải thoát để sống ung dung, tự tại. Về mặt này, triết lý của Trang Tử tương tự với triết lý Phật giáo về sự phá chấp.

Trong phần Tề vật luận có bài cuối cùng thường được người sau gọi là Mộng hồ điệp, hay Trang Chu hồ điệp mộng.

Xem thêm: Mộng hồ điệp.

Nam Tào, Bắc Đẩu: Có câu chuyện về hai vị thần này như sau.

Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn, thường đêm nằm nhìn trăng sao, thao thức không chớp mắt, cha mẹ ngăn cấm không được. Vừa lớn lên, Quản Lộ đã làu thông kinh Dịch, hiểu hết nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số và giỏi cả xem tướng.

Một hôm, Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đương cày ruộng. Lộ đứng lại bên đường, đứng ngắm một lúc, đoạn gọi lại hỏi: “Này anh kia, dám hỏi quý danh là gì? Niên canh bao nhiêu?”

“Tôi họ Triệu tên Nhan, 19 tuổi. Dám hỏi tiên sinh là ai?”

Lộ đáp: “Ta là Quản Lộ đây. Ta thấy trên quầng mắt anh có tử khí. Chỉ còn ba ngày nữa là anh chết. Tiếc thay, gương mặt anh xinh đẹp thế mà không thọ!”

Triệu Nhan nghe nói lo sợ, về ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức chạy theo tìm gặp Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất, kêu khóc: “Xin tiên sinh rủ lòng thương, trở lại cứu mạng con tôi.”

Lộ nói: “Đó là số trời, cầu đảo sao được!”

Ông lão năn nỉ, van lơn: “Già này chỉ có một đứa con, xin ngài cứu cho, kẻo khổ một đời…”

Nói xong, cả hai cha con dập đầu lạy, khóc bù lu bù loa, trông rất bi thiết.

Lộ thấy cha con lão thiệt tình, lòng không nỡ bỏ, mới bảo Triệu Nhan: “Anh hãy về tìm một vò rượu ngon rất tinh khiết với một ít thịt nai thật thơm, ngày mai đem vào Núi Nam (tên Hán: Nam Sơn), tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy ở trên phiến đá có hai dị nhân ngồi đánh cờ. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, một ông quay về hướng Bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp. Bấy giờ thừa lúc hai vị cao hứng mải mê đánh cờ, anh cứ bày rượu thịt ra mâm dâng lên. Đợi cho ăn uống xong, sẽ lạy khóc mà xin tuổi thọ. Như thế may được sửa sổ lại. Nhưng nhớ kỹ một điều: chớ nói là ta xúi anh nhé!”

Ông lão mời Quản Lộ ở lại nhà mình chờ xem.

Hôm sau, Triệu Nhan cắp nắp rượu ngon, nem thơm, dĩa chén vào Núi Nam. Đi độ năm sáu dặm, quả thấy hai dị nhân đang ngồi đánh cờ trên phiến đá, dưới bóng râm một cây tùng.

Triệu Nhan đội mâm rượu đến gần. Hai ông vẫn chăm chú vào bàn cờ, như không có người đứng bên cạnh. Nhan quỳ xuống dâng mâm lên, đặt trên thạch bàn.

Hai ông mải mê đánh cờ, bất giác đưa tay nâng chén… rồi dần dần vừa đánh vừa ăn uống hết cả rượu thịt một cách ngon lành.

Lúc bấy giờ, Nhan mới khóc òa lên và lạy lục xin cầu thọ. Hai ông giựt nẩy mình nhìn lại. Đoạn ông mặc áo đỏ bảo ông mặc áo trắng: “Hẳn là gã họ Quản xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì phải thương nó.”

Ông áo trắng liền rút quyển sổ trong mình ra, tìm xét, rồi bảo Nhan: “Năm nay mày 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ “cửu” lên trên hai chữ “thập cửu” thì mày sẽ sống đến 99 tuổi. Nhưng phải về báo gã Quản Lộ rằng: từ nay phải chừa đi, chớ có tiết lộ thiên cơ nữa. Nếu không trời sẽ khiển phạt, nghe chưa?”

Ông áo đỏ cũng mở sổ, thêm vào một nét bút. Rồi một cơn gió thơm ngào ngạt bay qua, hai vị tiên biến thành hai con hạc trắng, bay lên trời mất hút.

Triệu Nhan mừng rỡ, về nhà hỏi Quản Lộ về hai vị tiên ông ấy.

Quản Lộ nói: “Ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào. Ông áo trắng là ngôi Bắc Đẩu đấy.”

Nhan lại hỏi: “ Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông?”

Lộ giải thích: “Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành một. Bắc Đẩu ghi sổ tử, Nam Tào ghi sổ sinh. Nay đã được sửa số tuổi rồi, anh còn lo gì nữa!”

Cha con họ Triệu mừng rỡ lạy tạ.

Từ đó, Quản Lộ sợ tội tiết lậu thiên cơ không dám khinh xuất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.

nàng Ban

Đoạn trường tân thanh:

Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này

Xem mục: Ban Cơ.

nàng Oanh: nàng Ðề Oanh thời Hán. Theo Sử ký, Thuần Vu Ý làm quan đất Tề trong triều Hán Văn Đế, phải tội sắp đem hành hình. Họ Thuần không có con trai, chỉ sinh được 5 người con gái, nên than thở: “Không có con trai, những khi nguy cấp không ai đỡ đần được việc.” Người con gái út tên là Ðề Oanh thương khóc theo cha đến Trường An. Nàng dâng thư lên nhà vua, kêu oan cho cha, đại ý nói: “Cha tôi làm quan, cả miền Tề trung ai cũng ca tụng là thanh liêm chính trực, nay bất hạnh phải tội rất oan ức. Vả, tôi trộm nghĩ người đã chết thì không sống lại được, đã chém thì không liền lại được. Vậy, dầu có muốn sửa lỗi, theo điều phải trở nên hay, tốt cũng không còn cách nào nữa, thế là lỡ mất hết rồi. Nay tôi xin bán mình làm nô lệ chỗ quan phủ, mong chuộc tội cha, để cha được sống…”

Hán Văn Ðế xem thư thấy tình lý uẩn súc, lấy làm cảm động, xét lại án truyền tha Thuần Vu Ý. Lại xuống chiếu từ đó bãi bỏ nhục hình, hẳn vì đó là lý do khiến cho người cha nhận tội.

Đoạn trường tân thanh:

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?

Xem thêm: ả Lý.

năm cha ba mẹ: Theo sách Thọ Mai Gia Lễ của Tiến sĩ Hồ Sỹ Tân, hiệu Thọ Mai (1690-1760), mỗi người có thể có ba cha và tám mẹ.

Ba cha là: thân phụ (cha ruột), kế phụ (cha ghẻ, cha dượng), dưỡng phụ (cha nuôi). Tám mẹ là: thân mẫu (mẹ ruột). Nếu mẹ ruột là vợ lẽ của cha, phải gọi là thứ mẫu, gọi vợ cả của cha là đích mẫu. Nếu mẹ ruột ly dị với cha, phải gọi là xuất mẫu, Sau khi cha mất, mẹ đi lấy chồng khác thì gọi là giá mẫu. Mẹ ghẻ gọi là kế mẫu. Người vợ lẽ của cha, có công nuôi nấng mình (nếu mẹ ruột qua đời khi mình còn nhỏ) thì gọi là từ mẫu. Mẹ nuôi gọi là dưỡng mẫu. Bà vú cho mình bú mớm từ khi còn nhỏ thì gọi là nhũ mẫu.

Thành ngữ “Năm cha ba mẹ” chỉ nguồn gốc không thuần nhất.

năm Hồ: năm tộc Hồ. Ðời Tống bị nạn năm tộc Hồ vào xâm lấn, quân đông ngựa nhiều, chỉ quăng roi xuống sông cũng đủ lấp dòng nước chảy.

năm thì mười họa: thì hoặc thời có nghĩa là lúc, thuở. Ví dụ: thời son trẻ, thời gian. Còn “họa” là từ thuần Việt, có nghĩa là ít có, có chăng. Đừng lầm với họa từ Hán-Việt, có nghĩa là (1) vẽ, (2) đáp lại, (3) tai vạ, như trong câu họa vô đơn chí.

Thành ngữ trên có nghĩa là thỉnh thoảng, họa hoằn mới có.

Đoạn trường tân thanh:

Giấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau (2942)

Lấy chồng chung – Hồ Xuân Hương:

Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.

nằm giá: Từ chữ ngọa băng (nằm trên băng). Sách Sưu thần ký ghi: Sở Liêu thờ mẹ rất có hiếu, mẹ ông bị bệnh thủng, đêm nằm mộng thấy một đứa bé đến bảo rằng: Nếu được ăn cá chép thì bệnh sẽ giảm ngay. Bà đem chuyện nói với Liêu. Bấy giờ là tháng chạp, không tìm đâu được cá. Liêu đứng ngữa mặt lên trời khóc rồi cởi áo nằm trên băng, bổng có đồng tử phá đám băng Liêu đang nằm, băng tan và có 2 con cá chép nhảy ra. Liêu bắt về làm thuộc cho mẹ.

Theo Nhị thập tứ hiếu của Lý văn Phức, Vương Tường người Tấn, mẹ chết sớm, bị bà mẹ kế cay nghiệt thường gièm pha thêu dệt làm cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng băng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên băng. Băng nứt, 2 con cá chép nhảy ra, ông bắt về dâng mẹ kế. Từ đó cha và mẹ kế quý ông lắm.

Sãi Vãi: Ngồi đêm đông, thương người nằm giá khóc măng.

Lục Vân Tiên:

Suy Trang nằm giá khóc măng
Hai mươi bốn thảo, chẳng bằng người xưa.

nắng hạ làm mưa: nói tài cứu dân giúp nước. Theo Thông chí, Vua Cao Tông nhà Thương cầu được Phó Duyệt ở đất Phó Nghiêm về tôn lập làm thừa tướng ở luôn bên cạnh vua. Cao Tông bảo Phó Duyệt rằng: “Nếu qua sông lớn, dùng nhà ngươi làm mái chèo thuyền, nếu phải năm đại hạn, dùng nhà ngươi làm trận mưa rào”.

Ý nói người hiền tài ra cứu dân giúp nước, cũng như trận mưa giúp giải cơn hạn hán.

nằm gai nếm mật: từ chữ ngọa tân thường đảm.

Đời Xuân Thu, hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê, Vua Việt là Câu Tiễn (? – 465 tCN) để mình trần sang lạy Vua Ngô là Phù Sai xin hàng. Ngô Vương bắt vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin, có quan Tướng quốc là Phạm Lãi đi theo hầu. Cả ba đều bị giam trong ngục đá.

Hằng ngày vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi phải cắt cỏ, hốt phân ngựa, gánh nước rửa dọn chuồng ngựa, kiếm củi nấu cơm… Suốt ba năm, chúa tôi sống vô cùng vất vả, nhưng vẫn bền chí đợi thời.

Một hôm Vua Ngô bệnh, Câu Tiễn nghe theo lời của Phạm Lãi, chịu nếm phân của Vua Ngô để đoán bệnh, nhằm được Vua Ngô tin tưởng lòng trung thành. Nhờ đó mà cả ba được phóng thích về nước.

Được trở về cố quốc, nhớ đến nỗi thất bại nhục nhã và bị giam cầm làm nô lệ, Câu Tiễn vô cùng căm uất, lòng canh cánh mưu toan báo thù. Tướng quốc Phạm Lãi nói: “Chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở ngục đá thì mới có cơ báo thù được nước Ngô.”

Câu Tiễn đáp: “Xin vâng lời dạy bảo!”

Bấy giờ giao quốc chính cho Văn Chủng, giao quân chính cho Phạm Lãi, nhà Vua tôn hiền đãi sĩ, kính người già, thương kẻ nghèo, đối xử trăm họ như anh em, nên được mọi người mến phục.

Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Vương phi Câu Tiễn cũng chăm việc dệt cửi, cùng đám dân chia sẻ gian khổ, ăn mặc rất tiết kiệm.

Muốn gấp báo thù, Câu Tiễn cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm. Khi nào buồn ngủ thì lấy cỏ lục (rau răm) xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở. Chân lạnh muốn co thì dầm nước lạnh. Mùa đông lạnh thì ôm giá. Mùa hè nóng nực thì ngồi bên lửa. Bỏ cả giường nệm, lấy gai lấy củi lót nằm. Quả mật luôn luôn treo ở chỗ ngồi, chỗ nằm, thỉnh thoảng lại nếm một ít như để nhắc lại nỗi tủi nhục, khổ đau.

nam gai nem mat

Theo 7 kế phá Ngô của Văn Chủng, mới thi hành được 3 thì nước Việt hưng thịnh, nước Ngô suy. Cuối cùng nước Việt báo được thù, thôn tính nước Ngô, và Vua Ngô tự tử.

Trong bài Văn tế trận vong tướng sĩ của Nguyễn Văn Thành đời Vua Gia Long, có câu:

Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu
mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.

“Nằm gai nếm mật” có nghĩa chịu những việc lao khổ để trả thù cho kỳ được là do điển tích trên.

Phim truyền hình nhiều tập: Phục quốc phụ tình (The great revival), 2008

Đạo diễn: Hầu Vịnh
Diễn viên: Trần Đạo Minh, Hồ Quân, An Dĩ Hiên, Tả Tiểu Thanh, Giả Nhất Bình
Số tập: 41

nằm rơm gối đất: từ chữ: chiêm khối, chỉ nơi ở trong thời gian chịu tang cha mẹ, nằm chiếu rơm (chiêm), gối đầu trên hòn đất (khối).

nâng mâm ngang mày: từ câu cử án tề mi.

Đoạn trường tân thanh:

Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.

Trong Nhị độ mai, đoạn diễn tả cảnh Hoài Nguyên đi cống Hồ có làm bài thơ tặng tình nhân là Mai Lương Ngọc lúc chia ly, có câu:

Ngang mày Mạnh thị chưa nâng án
Thấy mặt Chiêu Quân đã mất tranh.

“Mạnh thị” đây chỉ nàng Mạnh Quang. Xem mục: Mạnh Quang.

Trong Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều sang chơi nhà Kim Trọng, chàng nho sinh này có chiều âu yếm lả lơi, Kiều sợ chàng đi quá vòng lễ giáo, mới có câu khuyên:

Vẻ chi một đóa yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bực bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Bố kinhbố quần, kinh thoa, nghĩa là quần bằng vải, trâm cài đầu bằng gai, chỉ người vợ hiền đức.

ngàn dâu: do chữ mạch thượng tang. Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường.

Mạch thượng tang cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu thời Xuân Thu.

Nguyên nàng La Phu là một thiếu phụ sắc nước hương trời, văn chương âm nhạc nổi tiếng. Chồng nàng là một chiến sĩ hải hồ. Cả hai vẫn yêu nhau tha thiết. Nhưng rồi “trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương” nên chàng xách kiếm sang Tần, ước hẹn vợ một thời gian trở về.

Nàng La Phu ở quê nhà, ngày ngày hái dâu chăn tằm, dệt vải. Những lúc đêm dài canh vắng, nàng lẻ loi, thui thủi bóng mình nên thường sáng tạo những bài thơ điệu cổ nhạc phủ để tỏ nỗi lòng thương nhớ người xa vắng.

Một hôm, nàng đang hái dâu bên vệ đường, bất chợt Triệu Vương du ngoạn sang ngang, nhìn thấy người thiếu phụ thô quê nhưng sắc đẹp mỹ miều lấy làm động lòng. Hỏi người biết nàng là kẻ tài hoa, văn hay đàn giỏi, Triệu Vương càng say mê hơn nữa. Về triều, Triệu Vương cho người đến đòi La Phu tới. Nhà Vua dọn tiệc khoản đãi ân cần, mong được cùng giai nhân vầy duyên ân ái.

Nàng buồn rầu ứa lệ nhưng còn vị nể chúa tôi nên nàng ngồi vào tiệc, đoạn cầm đàn lên gẩy, hát khúc Mạch thượng tang để tỏ ý mình. Triệu Vương tuy hiếu sắc nhưng thông minh. Nghe qua bài hát, bản đàn biết thâm ý của nàng là bao giờ cũng liều chết để bảo vệ trinh tiết cùng chồng, giàu sang, uy quyền và bạo lực không làm lay chuyển lòng người trinh phụ. Triệu Vương vừa hối hận vừa thẹn thuồng nên truyền cho La Phu về, bỏ mộng luyến ái giai nhân.

Tác giả mượn điển tích Mạch thượng tang (ngàn dâu) ngoài cái ý tả cảnh còn có ý tả mối tình chung thủy giữa trinh phụ đối với chinh phu một cách tế nhị.

Chinh phụ ngâm, đoạn tả tình cảm của nàng chinh phụ lúc tiễn chồng ra đi:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

ngậm vành: do chữ hoàng tước hàm hoàn nghĩa là chim hoàng tước ngậm vòng.

Đời nhà Thương (1733-1154 tCN), triều Vua Thái Mậu (1637-1562 tCN), có một chư hầu đem dâng cho nhà Vua một con chim hoàng tước trống.

Được chim quý, nhà Vua truyền làm một chiếc lồng bằng vàng, chén ăn bằng ngọc và bắt thái giám cho lo săn sóc cực kỳ cẩn thận. Nhưng chim ngày ngày vẫn ủ rũ, không chịu nhảy nhót, kêu hót, vui đùa. Hằng ngày, ngoài vườn, lại có một con chim hoàng tước mái cất tiếng kêu thật bi đát, giọng mỗi lúc càng thảm thiết não nùng. Chim hoàng tước trống ở trong lồng nghe tiếng chim mái ở bên ngoài kêu thì lại càng ủ dột, buồn bã, bỏ ăn bỏ uống. Thỉnh thoảng lại kêu lên một giọng bi thảm.

Thấy chim trống buồn, chim mái kêu bi thương, Vua Thái Mậu động lòng thương xót, truyền thả chim hoàng tước trống ra. Được thoát khỏi lồng, trống mái xum họp. Đôi chim bay lượn ba vòng chung quanh đền, cất tiếng hót véo von, giọng trong trẻo lảnh lót.

Một thời gian, nhà Vua đương ngự trên đền, bỗng thấy con chim hoàng tước trống bay đến, miệng ngậm một chiếc vòng. Chim lại sà trước mặt nhà vua, nhả chiếc vòng ngọc quý rồi vỗ cánh múa, tỏ vẻ tạ ơn.

Cũng tích “ngậm vành”: Đời Hậu Hán (25-219) có cậu bé tên Dương Bảo, một hôm đi chơi bên cạnh một khu rừng, thấy một con chim sẻ vàng óng ánh bị chim cắt đánh rơi xuống đất. Chim sẻ què chân, gãy cánh, giãy giụa, kêu la thảm thiết. Bảo đem về chăm sóc, nuôi nấng. Đến khi chim mạnh, lành thì cho bay đi.

Một hôm, có một chàng tuấn tú khôi ngô, mặc áo vàng đến, nói với Bảo: “Tôi là sứ giả của bà Tây Vương Mẫu, chẳng may gặp nạn, may nhờ ông cứu, ơn ấy chẳng quên. Vậy xin dâng ông 4 vòng ngọc quý, chúng sẽ làm cho bốn đời nhà ông được hưởng phú quý, sang làm đến tước Tam Công.”

Dương Bảo vừa nhận lấy vòng, chưa kịp tạ ơn thì chàng trai áo vàng biến mất. Quả nhiên về sau, bốn đời họ Dương đều sang cả đúng như lời.

Trong Đoạn trường tân thanh, lúc nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhờ Sở Khanh dắt đi trốn mong thoát khỏi nanh vuốt của Tú Bà, nàng có lời tha thiết nói với họ Sở:

Rằng: Tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.

“Kết cỏ ngậm vành” là do những điển tích trên, ý nói thọ ơn bao giờ cũng đền đáp.

Xem thêm: kết cỏ.

nghèo rớt mồng tơi: Mùng tơi là phần trên của chiếc áo tơi, là phần dày nhất và khâu kỹ nhất. Áo tơi thường làm bằng lá cọ hoặc lá đót. Khi áo tơi rách thì mùng tơi vẫn còn. Nếu dùng cho đến khi rớt hết mùng tơi vẫn không có áo khác để mặc, chứng tỏ nghèo lắm.

Nghê Thường vũ y: tên điệu vũ nổi tiếng trong triều Đường Minh Hoàng. Theo một câu chuyện thần thoại trong Dị Văn Lục, một đêm Trung Thu, Vua Minh Hoàng thấy trăng sáng, mơ ước được đặt chân đến đấy xem chơi. Có đạo sĩ tên La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện), người có phép tiên dùng giải lụa trắng, hóa thành một chiếc cầu đưa nhà Vua đến Nguyệt điện.

Trong điện bấy giờ sáng rực, tiếng nhạc du dương, những nàng tiên trong những xiêm y xinh tươi, lộng lẫy, uyển chuyển múa hát như đàn bướm đủ màu tha thướt, bay lượn bên hoa. Đường Minh Hoàng càng nhìn càng thấy say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì quên trở về.

Nhờ ghi nhớ cách điệu nên khi trở về triều, Đường Minh Hoàng đặt thành khúc Nghê Thường vũ y để tập cung nữ múa hát. Rồi cứ đến đêm rằm tháng tám, Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quý phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ xiêm y rực rỡ, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường để tưởng như sống trong cung Quảng Hàn, điện Nguyệt.

Theo Đường thư, Đường Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài Tây Thiên điệu khúc, đến khi trở về trần, còn nhớ mang máng. Nhằm lúc có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương, đem khúc hát Bà La Môn đến biếu, Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc Nghê Thường vũ y.

Tài liệu này có phần thực tế hơn.

Nghê là cầu vồng, do ánh nắng xuyên qua hơi nước trong mây nên phân thành bảy màu. Sách Tàu ngày xưa chỉ nhận có năm màu. Thường là xiêm, để che phần hạ thân của người. Nghê Thường có nghĩa là xiêm y may với sắc màu cầu vồng.

Vũ y là áo dệt bằng lông chim, hay có nghĩa là kiểu áo theo hình cánh chim.

Nghê Thường vũ y là điệu múa của những vũ nữ mặc áo theo hình cánh chim, còn quần thì bằng lụa phất phới ngũ sắc.

Những nhà sử học và khảo cổ học cho biết: đời Đường (và trước đời Đường), người Tàu đã có một khái niệm rõ rệt về địa dư vùng Tân Cương mà họ thường đến để mua bán. Ấn Độ là nơi mà đạo Bà La Môn, còn được gọi là Ấn giáo, rất phồn thịnh. Người Tàu và người Tân Cương lúc bấy giờ gọi phần đất Ấn Độ là Bà La Môn quốc. Bằng cớ là vào năm 629, lúc nhà sư Trần Huyền Trang (thường gọi là Đường Tam Tạng) đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, ghé nước Cao Xương. Vua nước này viết một bức thư cho vị Khả hãn Tây Đột Quyết, yêu cầu Khả hãn hết sức ủng hộ Huyền Trang đi dễ dàng đến “Bà La Môn quốc”.

Vậy, khúc Nghê thường vũ y là hình thức biến chuyển của khúc hát Bà La Môn đã có trước tiên ở phần đất Ấn Độ ngày xưa. Nó truyền sang Tàu ở đất Tây Lương do Tiết độ sứ Trương Kính Thuật đem dâng cho Đường Minh Hoàng, và được ông vua phong lưu này chấn chỉnh lại cho hợp với dân tộc tính Trung Hoa.

Cung oán ngâm khúc:

Dẫu mà tay múa miệng xang
Thiên tiên cũng ngoảnh Nghê Thường trong trăng.

Bích câu kỳ ngộ:

Ðong đưa khoe thắm, đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê Thường thiết tha.

Nghê Văn Lâm: người đời Nguyên, nhà giàu, danh sĩ các nơi thường đến chơi, thơ hay, vẽ sơn thủy khéo. Lúc già thích thanh đạm và tĩnh mịch. Chỗ ở có Thanh bật các, Văn lãm đường, trong chứa rất nhiều thơ họa, đồ cổ, sách lạ, thường đi thuyền thưởng ngoạn các nơi sơn thủy. Mặc bộ quan áo nhà quê, ở lẫn lộn vào chốn hương thôn. Có làm bộ Thanh bật các tập.

nghiêng nước: từ chữ khuynh quốc: làm quốc gia chao đảo, chỉ sức mạnh của sắc đẹp phụ nữ.

Đời Hán Vũ Đế (140-86 tCN), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua, Lý Diên Niên nghe vua than thở: “Trẫm lập đền Minh Quang, kén hai ngàn mỹ nhân ở vùng Yên Triệu. Nhỏ nhất 15 tuổi, quá 30 tuổi sa thải cho lấy chồng. Thế mà, trong chốn dịch đình có trên 10 ngàn mỹ nhân vẫn chưa thấy ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc?”

Lý Diên Niên có một em gái sắc đẹp tuyệt trần, thường ra vào hầu hạ Bình Dương Công chúa. Một hôm, nhân dịp múa hát chầu Vũ Đế, Lý Diên Niên hát (dịch):

Phương bắc có giai nhân
Tuyệt vời đứng riêng bực
Một liếc, người nghiêng thành
Hai liếc, người nghiêng nước
Lẽ nào không biết được
Người đẹp thành nước nghiêng
Người đẹp khó tìm gặp.

Nghe hát, Hán Vũ Đế thở dài, than: “Thế gian có người đẹp đến thế sao?”

Bình Dương Công chúa nhân đứng hầu bên cạnh nhà Vua liền tâu: “Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa.”

Nhà Vua truyền đòi người đẹp vào cung, xem mặt. Quả là một bậc giai nhân tuyệt sắc, lại giỏi nghề múa hát, làm cho nhà Vua càng mê mẩn tâm thần, liền phong làm phu nhân. Từ đó, nhà Vua chỉ say sưa đắm đuối bên mình nàng, không còn tha thiết đến một ai nữa. Năm sau, nàng hạ sinh được một con trai.

Một hôm, nàng lâm bệnh nặng, Hán Đế đến tận giường bịnh thăm hỏi. Nàng kéo chăn che kín mặt, tâu: “Thiếp bệnh từ lâu, hình dung tiều tụy, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp chỉ xin gởi lại nhà Vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp.”

Hán Đế ngậm ngùi bảo: “Phu nhân bệnh nặng không thể qua khỏi được thì hãy giở chăn cho ta nhìn mặt, há chẳng làm cho ta được thỏa lòng sao?”

Nàng vẫn che kín mặt, từ tạ: “Theo lẽ quân thần, phu phụ, đàn bà mặt không sạch, không được ra mắt quân phụ. Vậy thiếp xin nhà Vua tha thứ cho.”

Nhà Vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói năng gì, vẫn giữ chặt lấy chăn.

Vũ Đế tức quá, đứng phắt dậy ra về.

Nhiều người sợ nhà Vua giận, nên có ý trách nàng. Nàng trả lời: “Đàn bà chỉ lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình duyên sẽ phai nhạt, và tình yêu sẽ kém. Nhà Vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc ta còn khỏe. Nay ta bệnh, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ ta là kẻ xấu xí. Nhìn mặt ta, nhà Vua sẽ chán thì khi nào còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa!”

Sau đó nàng chết. Vua Vũ Đế chôn cất nàng rất hậu, lại truyền họa sĩ vẽ hình nàng treo ở Cung Cam Tuyền, phong cho anh em nàng quan tước cao.

Ngày tháng qua nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt, và mối tình thương nhớ vẫn canh cánh bên lòng… mà nhà Vua không tìm thấy thú vui, người đẹp nào bằng người đã khuất.

Về sau, Vua Đường Minh Hoàng (trị vì 712–756) dắt Dương Quý phi thưởng hoa mẫu đơn ở đình Cẩm Hương, sai người vời Lý Bạch (701–762), đến bắt làm ba bài Thanh Bình điệu (“Khúc hát thanh bình”). Lý còn say rượu nhưng cầm bút viết luôn ba bài. Bài thứ ba có hai câu:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.

Ngô Tất Tố dịch thơ:

Danh hoa nghiêng nước sánh đòi vai
Ðể xứng quân vương một nụ cười.

Chữ “khuynh quốc” để chỉ vẻ đẹp tuyệt vời của Dương Quý phi.

Hồng lâu còn khóa then sương
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

Đoạn trường tân thanh:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

nghiêng thành: từ chữ khuynh thành, trong câu Kinh Thi:

Triết phu thành thành, triết phụ khuynh thành
(Đàn ông giỏi dựng nên thành trì, đàn bà đẹp làm đổ thành trì).

Đoạn trường tân thanh:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Đời đáng chán – Tản Đà:

Giá nghiêng thành nhất tiếu thiên kim
Mắt xanh trắng đổi lầm bao khách tục.

Từ “nghiêng thành” ví von chỉ sắc đẹp của phụ nữ.

nghi gia: Hòa thuận cửa nhà, nói việc con gái lấy chồng.

Kinh Thi: Cây đào mơn mởn xanh non, lá nó rậm rạp, cô con gái kia về nhà chồng, hòa thuận với tất cả mọi người trong gia đình.

Đoạn trường tân thanh:

Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Nghiêu, Thuấn: tên hai ông vua theo truyền thuyết trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, được nhà Nho coi là mẫu mực trong đạo trị dân. Theo Thông chí, Ngũ đế kỷ, Ngũ đế bản kỷ, Kinh Thư, Nghiêu được phong cho đất Doãn (nay thuộc Sơn Ðông), sau ở đất Ðường (nay thuộc Hà Bắc) nên lấy họ gọi là Ðào Ðường, do đó gọi hiệu là Ðường Nghiêu. Thời bấy giờ dân hưng thịnh, thái bình. Trong thư tịch cổ, Đường Nghiêu thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của ông được coi là kiểu mẫu cho mọi bậc đế vương khác của Trung Quốc. Nghiêu làm vua gần 100 năm rồi nhường ngôi cho Thuấn.

Thuấn có cha là Cổ Tẩu, người có mắt như mù, không phân biệt được điều tốt xấu. Vợ chết sớm, Cổ Tẩu lấy vợ kế sinh ra Tượng là người kiêu ngạo nhưng Cổ Tẩu lại quý yêu nên hai cha con đều muốn giết Thuấn. Biết vậy nhưng Thuấn vẫn giữ tròn đạo hiếu với cha và thảo với em. Thuấn cày ruộng ở Linh Sơn (nay thuộc Hà Ðông), đánh cá ở đầm Lôi Trạch. Có người tiến cử lên Vua Nghiêu, Vua gả 2 con gái cho Thuấn và giao Thuấn làm nhiều việc để thử tài đức. Sau 20 năm thử thách, biết Thuấn có thể đảm đương việc thiên hạ nên Vua Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn bất chấp lời can ngăn, vì Nghiêu có một người con trai đã đến tuổi trưởng thành.

Thời cổ đại, trị thủy để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thủy. Cổn trị thủy không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Vũ trị thủy. Sau nhiều năm, Vũ trị thủy thành công, vì thế được Thuấn rất tin tưởng.

Về sau, Thuấn quyết định truyền ngôi cho Vũ thay vì con trai mình là Thương Quân. Vũ lập ra nhà Hạ.

“Nghiêu, Thuấn” chỉ thời thái bình thịnh trị và đức độ trị dân, lại nêu gương thiện nhượng, tức không truyền ngôi cho con mà truyền cho người ngoài có tài đức hơn.

Tứ thời khúc vịnh:

Tung hô ba tiếng kêu rần
Áo xiêm Nghiêu Thuấn, đai cân Cao Quỳ.

Các vua Việt Nam cũng dùng Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho việc cai trị. Bên trong Điện Thái Hòa (thành nội Huế), ngay trên ngai vua có bài thơ:

Văn hiến ngàn năm dựng
Núi sông vạn dặm xa
Hồng Bàng thuở lập quốc
Nghiêu Thuấn vững sơn hà.

Nghĩa phụ Khoái Châu: Truyền kỳ Mạn lục: Trọng Quỳ và Nhị Khanh là con Từ Ðạt, làm quan tại thành Ðông Quan (Hà Nội bây giờ) và Phùng Lập Ngân, hai gia đình hứa hôn với nhau. Trọng Quý và Nhị Khanh lấy nhau. Nhị Khanh khéo biết cư xử nên họ hàng rất hòa thuận. Trọng uỳ lớn lên sinh chơi bời lêu lõng, năm 20 tuổi theo cha đi phó nhậm ở Nghệ An là vùng đương có giặc, Nhị Khanh ở lại nhà. Cha mẹ nối nhau tạ thế, nàng đưa tang về quê rồi đến ở chung với người cô là lưu Thị. Lâu ngày không có tin chồng bèn sai người đi tìm mới biết Lập Ngôn đã mất, Trọng Quỳ hư đốn trở nên nghèo khổ. Nhị Khanh can ngăn nhưng Trọng Quỳ vẫn quen tính chơi bời, một lần thua bạc mà gán vợ. Nhị Khanh bèn thắt cổ mà chết, để lại hai con trai. Trọng Quỳ ăn năn khôn xiết, một hôm nằm ngủ ở gốc cây thấy Nhị Khanh hiện về gặp gỡ chuyện trò và báo trước cho căn duyên nên đến khi Lê Lợi nổi binh, Trọng Quỳ theo phò Lê Lợi, hai con trai làm quan đến chức Nhập thị nội.

ngòi viết Ðỗng Hồ: nghĩa bóng nói việc làm chính trực. Ðỗng Hồ là sử quan nước Tấn đời Xuân Thu.

Theo Đông Chu liệt quốcTả truyện: Tấn Linh Công làm nhiều điều ác, quan đại thần là Triệu Thuẫn nhiều lần can ngăn nhưng chỉ khiến cho nhà Vua lấy làm căm ghét. Linh Công lập mưu giết Triệu Thuẫn, mới bày tiệc rượu ở trong cung, mời Triệu Thuẫn vào dự rồi phục sẵn quân giáp sĩ. Viên Xa hữu (võ sĩ mang binh khí ngồi trên xe hộ vệ ở bên phải) của Triệu Thuẫn là Ðề Di Minh biết việc đó, bèn đi theo hộ vệ Triệu Thuẫn.

Khi uống rượu mới được ba tuần, Linh Công bảo Triệu Thuẫn rằng: “Ta nghe nói thanh gươm của tướng quốc tốt lắm. Tướng quốc cho ta xem.” Triệu Thuẫn toan cởi gươm ra để đưa, không biết đó là cái bẫy của Đồ Ngạn Giả: sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm toan hại vua, gọi quân sĩ đến cứu giá, giáp sĩ sẽ đổ ra giết đi Triệu Thuẫn.

Nhưng Di Minh hiểu chuyện, tiến ngay lên điện, nói to rằng: “Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá 3 chén, cớ sao lại rút gươm ở trước mặt Vua như thế?”

Triệu Thuẫn biết ý, liền đứng ngay dậy. Đế Di Minh hầm hầm tức giận, bước lên thềm vực Triệu Thuẫn xuống. Đồ Ngạn Giả gọi thả con Linh ngao đuổi theo. Đến gần cửa cung, Đế Di Minh cầm ngay cái dùi đánh con Linh ngao gãy cổ mà chết. Linh Công giận lắm, truyền cho quân sĩ đổ ra bắt Triệu Thuẫn. Đế Di Minh đứng chắn ngang lại, để cho Triệu Thuẫn chạy trước. Giáp sĩ tới nơi, Di Minh cự chiến một hồi, mình mẫy đầy vết thương rồi kiệt sức mà chết.

Vừa lúc ấy, có con là Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn. Hai cha con cùng chạy về phía tây.

Tấn Linh Công lập mưu giết Triệu Thuẫn, dẫu không giết được, nhưng thấy Triệu Thuẫn bỏ trốn đi thì trong lòng mừng rỡ khác nào đứa học trò được rời thầy học ra, sự mừng rỡ kể sao cho xiết, liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại Ðào Viên, không về cung nữa.

Triệu Xuyên đang đi săn trở về, gặp Triệu Thuẫn và Triệu Sóc. Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng: “Thúc phụ chớ sang nước khác vội, hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.”

Triệu Thuẫn nói: Nếu vậy thì ta hãy tạm ở lại núi Thu Dương để đợi tin, nhưng nhà ngươi nên cẩn thận, chớ đẻ thêm tai vạ đấy.”

Triệu Xuyên về dinh, tuyển hai trăm quân giáp sĩ, cho ăn cơm uống rượu, sai chực sẵn ở ngoài cửa Ðào Viên, rồi giả cách vào yết kiến Linh Công. Một lúc, Triệu Xuyên giơ tay áo vẫy một cái. Quân sĩ liền kéo ồ lên, xúm lại đâm chém Linh Công chết ngay.

Triệu Xuyên đi đón Triệu Thuẫn về.

Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Ðào Viên. Các quan trong triều đều họp đông đủ cả. Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh Công mà khóc òa lên rất là thảm thiết, tiếng khóc vang động đến ngoài vườn.

Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng: “Xem thế thì biết quan tướng quân là người trung thành. Việc này chẳng qua chỉ bởi chúa công ta gây nên tai vạ, chứ không phải lỗi của quan tướng quốc.”

Triệu Thuẫn họp triều thần để lập vua mới, nói: “Tiên quân hiện còn một người con là Hắc Ðiến, ngày nay đang làm quan ở nhà Chu. Tôi muốn đón về để lập lên làm vua.

Các quan không dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng: “Quan tướng quốc nghĩ rất phải.”

Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên, mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón Công tử Hắc Ðiến về nước Tấn. Công tử Hắc Ðiến vào triều nhà Thái miếu, rồi nối ngôi lên làm vua, tức là Tấn Thành Công. Tấn Thành Công đã lên ngôi, giao hết quyền chính cho Triệu Thuẫn.

Triệu Thuẫn vẫn lấy chuyện Ðào Viên làm áy náy, một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản chép của quan thái sử là Ðỗng Hồ để xem Ðồng Hồ chép việc Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn mở ra xem, trông thấy chép rõ ràng: “Mùa thu, tháng bảy, năm Ất Sửu, Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên”.

Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, nói: “Quan thái sử lầm rồi! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm. Ta có biết đâu đến chuyện giết vua mà quan thái sử lại đổ lỗi cho ta, chẳng cũng oan lắm ư!”

Ðỗng Hồ nói: “Ngài làm quan tướng quốc, trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có chuyện giết vua này, khi ngài về lại không trị tội thủ phạm, như thế mà bảo không phải tự ngài chủ mưu, còn ai tin được?”

Triệu Thuẫn nói: “Bây giờ có thể chữa lại được không?”

Ðỗng Hồ nói: “Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế, bởi vậy đầu tôi có thể cắt được, chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.”

Triệu Thuẫn thở dài than rằng: “Thế mới biết cái quyền chép sử còn lớn hơn cái quyền làm tướng quốc! Tiếc thay, bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời, hối sao cho kịp!”

Về sau, Khổng Tử khen: “Ðỗng Hồ là quan Thái sử tốt thời cổ, chép việc mà không giấu giếm”.

ngọc bích họ Hòa: Biện Hòa nước Sở được hòn đá có ngọc ở trong núi, đem dâng Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói: “Đó là đá.” Vua cho là Biện Hòa nói dối, chặt một chân Hòa. Vũ Vương lên, họ Hòa lại dâng, kết quả bị chặt thêm một chân nữa. Biện Hòa ôm hòn đá mà khóc. Vua sai xem lại, biết hòn đá có viên ngọc bích rất quý. Vì vậy viên ngọc này được gọi là “ngọc bích họ Hòa.”

ngoc boingọc bội: miếng cẩm thạch và loại ngọc tương tự thường được đẽo hoa mỹ, được đeo trên dải lưng phía trước trên trang phục của những người quyền quý, cao sang thời phong kiến ở Trung Quốc. Ngọc bội còn được dùng làm vật đính ước hay lời hứa hẹn giữa 2 gia tộc. Loại quý được truyền trong gia tộc từ đời này sang đời sau như là vật gia bảo.

Lời sớ sách Lễ ký: Tự sĩ dĩ thương giai hữu ngọc bội. (Các quan hàng sĩ trở lên đều có ngọc bội).

Đoạn trường tân thanh:

Nàng rằng: Trộm liếc dung quang
Chẳng sàng ngọc bội cũng phường kim môn.

Ngọc Ðường: chỉ dinh thự hay nơi làm việc của quan Hàn Lâm Học sĩ. Theo lời chú trong Hán thư: Ðời Hán, các quan đợi chiếu ở Ngọc Ðường điện. Về sau nhân thế “Ngọc Ðường” dùng để gọi chung nhà cửa của hạng quan gia phú quý.

Ngọc Liên: Tình sử: tên người con gái nhà họ Tiền góa chồng, bà mẹ ép gả cho người khác. Nàng liều chết không chịu thất tiết.

Ngọc tỉnh liên phú: “Bài phú hoa sen trong giếng ngọc”, là tựa bài phú của Mạc Đĩnh Chi.

Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá, không muốn cho đỗ. Ông liền làm bài phú Ngọc tỉnh liên để tự ví mình. Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, không hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn; vả lại sen này lại trồng trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao quý biết bao. Ông như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh chánh thì người ông càng cao quý biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành mới biết thưởng thức.

Vua đọc bài phú của ông cho là kiệt tác nên mới yêu dùng.

Dưới đây là bài phú Ngọc tỉnh liên dịch ra văn nôm:

Đương khi lửa hạ, khách cao trai thư thả, lời dòng nước biếc, vịnh khúc phù dung; đến bến ao trong, ngâm câu nhạc phủ. Bỗng bóng ai, áo trắng mũ vàng, phất phơ điệu cốt xương tiên, hớn hở tinh thần khác tục. Khách hỏi: từ đâu mà lại? Thưa rằng: từ núi Hoa san. Khách kéo ghế mời ngồi vồn vã, này dưa ngon quả quý bày ra.

Chuyện gần thôi lại chuyện xa, nói cười lơi lả, tiệc hoa tơi bời. Chuyện xong, mới hỏi khách rằng: khách đây quân tử ái liên chăng là? Tiện đây sẵn có giống nhà, vẫn từng gìn giữ nâng niu hoa vàng. Nọ đào lý bỉ thô còn kém, kể trúc mai đơn lạnh còn xa; nào phải giống tăng phòng câu kỷ, nào phải phường lạc thổ mẫu đơn, cũng chẳng phải đông ly đào cúc, mà cũng không cửu uyển linh lan; chính là một giống sen thần, đầu non núi Họa giếng vàng sinh ra. Khách nghe nói: khen thay quý lạ! Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật, xưa từng nghe tiếng, nay được thực trông.

Nghe qua đạo sĩ vui lòng, hoa trong tay áo giữ liền tặng đưa. Khách trông thấy trong lòng hồi hộp, bút ngũ lăng tay thảo nên ca. Ca rằng:

Thủy tinh làm mái cung đình
Lưu ly lạc để nên hình cung môn
Pha lê nát nhỏ làm bùn
Minh châu làm nóc trên cành tưới cây.

Hương thơm bay thấu từng mây
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng
Quế xanh khóc vụng tủi thầm
Tố Nga luống những mười phần giận thân.

Cỏ dao hái chốn Phương tân
Sông Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu
Giữa dòng lơ lửng vì đâu?
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?

Đành nơi lưu lạc quản gì
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân
Một lòng trung chính nghĩa nhân
Lo chi mưa gió, phong trần, tuyết sương!

Chỉn e lạt phấn phai hương
Tháng ngày thắm thoát, mỹ nhân ai hoài.

ngoc tinh lien

Nghe xong, đạo sĩ than rằng: “Nói chi ai oán thiết tha! Kìa chẳng xem đóa tử vi nở trên ao phượng, hoa thược dược mọc trước bệ vàng, cũng là địa vị thanh cao, thanh danh hiển hách, ơn trên thánh chúa, mưa móc dồi dào. Vội chi tủi phận hờn duyên, nước non lẩn thẩn toan bề đi đây?” Khách nghe nói như tình, như cảm, đem lòng kính mộ xiết bao.

Khúc trai đình tay tiên đề vịnh
thơ phong đầu giọng ngọc ngâm nga
nỗi lòng xin giải gần xa
kính dâng một phú hải hà xét soi.

Mạc Đĩnh Chi người Làng Lũng Động, Huyện Chí Linh (nay thuộc Hải Dương), thông minh tuyệt vời, diện mạo rất xấu xí. Vì cái xấu xí đó mà đường hoạn lộ của ông suýt bị bế tắc; tuy vậy mà cũng nhờ đó, trên đài văn học, ông để lại cho đời bài Ngọc tỉnh liên phú có giá trị.

Ngô Bệ: Người đời Vua Trần Dụ Tông. Họp Ðảng làm loạn, giữ núi Yên Phụ, dựng cây cờ lớn ở trên núi, tiếm vị xưng vương.

Ngô dữ Ngô bào: chỉ việc cùng là đồng loại, đồng bào.

Bài Tây Minh của Trương Trí có câu: Dân ngô đồng bào, vật ngô dữ giã. (Người với ta là đồng loại, cho nên gọi là đồng bào, thì coi nhau như anh em mình. Vật (động, thực vật) cùng ta chẳng đồng loại, nhưng tính thể sở tự cũng vốn ở trời đất cho nên gọi là “ngô dữ” thì coi nhau như bè lũ mình.)

Chu Công Thiềm, sau khi tiếp kiến Minh Ðạo ở đất Nhữ, về bảo với mọi người: “Mình như ngồi giữa gió xuân suốt cả một tháng.”

Ngô Khởi: Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi, Vân Tiên nhắn nhủ nàng có câu:

May duyên rủi nợ dễ phô
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần.

Tại sao nghi Ngô Khởi? Vì Ngô Khởi đã giết vợ nhà để được làm tướng. Còn về Mãi Thần, xem mục: Chu Mãi Thần.

Ngô Khởi là nhân vật chính trong điển tích “sát thê cầu tướng”, tức giết vợ để mong lập công danh. Theo Tôn Tử Ngô Khởi liệt truyện, Ngô Khởi người nước Vệ thời Chiến Quốc (481-221 tCN), tính hay nghi kỵ và tàn nhẫn. Lúc còn bé, Khởi chuyên học nghề đánh gươm, luyện võ. Bà mẹ rầy la. Nhà ông có hàng ngàn lạng vàng, đi du thuyết tìm công danh không được bèn phá hết cửa nhà, bị hàng xóm chê cười. Khởi giết hơn 30 người chê cười mình rồi đi ra ngoài thành phía đông, từ biệt mẹ, cắn vào cánh tay mà thề: “Nay con xin từ tạ mẹ, đi du học tha phương, nếu không làm đến bậc khanh, tướng thì con quyết không trở về đất Vệ này mà trông thấy mẹ nữa!”

Bà mẹ khóc lóc khuyên can nhưng Khởi không nghe, chẳng ngảnh mặt lại, nhất quyết quảy gói ra đi. Khởi qua nước Lỗ xin học đạo với thầy Tăng Sâm (Tăng Tử). Khởi rất chăm học. Một hôm có quan Đại phu nước Tề là Điền Cử sang Lỗ, ngồi bàn luận sách vở, thấy Ngô Khởi là người hiếu học, có tài mới gả con gái cho. Tuy đã lấy vợ, nhưng Ngô Khởi vẫn còn ở học.

Thầy Tăng Sâm biết Ngô Khởi còn mẹ già, một hôm gọi lại hỏi: “Ngươi du học đã 6 năm rồi, sao không trở về thăm mẫu thân nhà ngươi? Đạo làm con, xa cha mẹ làm sao yên tâm học hành được?”

Ngô Khởi thuật lại lời thề xưa là chừng nào làm được bậc khanh, tướng thì mới trở về.

Thầy Tăng Sâm bảo: “Làm trai có chí lập thân là hay, nhưng chỉ nên thề với người khác, chớ sao lại thề với mẹ già? Vả lại vì khanh, tướng mà quên bổn phận làm con sớm hôm phụng dưỡng mẹ già thì làm sao ra người được!”

Từ đấy, thầy Tăng Sâm có ý không bằng lòng Ngô Khởi.

Một hôm, Ngô Khởi đang ngồi học, có người nước Vệ đến báo tin cho Khởi biết là mẹ Khởi đã chết. Ngô Khởi nghe tin khóc lên ba tiếng rồi lau nước mắt, ngồi học như thường.

Tăng Sâm thấy thế cả giận, gọi Ngô Khởi, bảo: “Nước không gốc thì mau khô, cây không gốc thì dễ gãy. Làm người mà vô nghĩa thì giữ toàn đời sao được. Như nhà ngươi nghe tin mẹ chết mà chẳng động lòng thì thật là kẻ vong ân bội nghĩa, quên gốc mất nguồn, chẳng xứng là học trò của ta. Kể từ nay, ta cấm mi đến trường của ta nữa.”

Ngô Khởi bỏ trường thầy Tăng Sâm đi học binh pháp. Ba năm, Khởi giỏi binh pháp trận đồ, bèn qua nước Sở xin làm quan. Tướng nước Sở là Công Nghi Hưu bàn luận binh pháp với Khởi, biết là người có tài, nên tâu xin với Lỗ hầu dùng Khởi và phong chức Đại phu. Được bổng lộc cao, Khởi mua thêm hầu gái để làm thú vui riêng.

Lúc bấy giờ nước Tề sang đánh Lỗ. Công Nghi Hưu tâu với Lỗ Mục Công là muốn lui binh Tề nên phong tướng cho Ngô Khởi. Ý của Khởi cũng muốn làm tướng, cầm quân đánh Tề. Lỗ Mục Công biết Khởi là người có tài nhưng vì thấy Khởi có vợ là người nước Tề nên phân vân, không dám tin dùng.

Công Nghi Hưu thuật lại chuyện cho Khởi nghe. Khởi cười nói: “Tưởng điều chi! Tôi sẽ làm cho chúa công hết nghi.”

Ngô Khởi trở về tư dinh, hỏi vợ là Điền thị: “Người ta có vợ quý vì lẽ gì?”

Điền thị đáp: “Gia đạo có trong, có ngoài mới nên. Làm cho nên nổi nghiệp nhà mới gọi là vợ quý.”

Ngô Khởi lại hỏi: “Nay ta muốn làm nên nghiệp lớn, khanh tướng ăn lộc muôn chung, gia nghiệp lẫy lừng, vậy nàng hãy giúp ta.”

Điền thị đáp: “Thiếp là đàn bà, có thế gì giúp cho phu tướng thành công được?”

Ngô Khởi nghiêm nghị nói: “Nay Tề đánh Lỗ, chúa công muốn dùng ta làm tướng, hiềm vì nàng họ Điền vốn dòng quốc thích nước Tề nên chúa công e ngại. Vậy ta xin nàng cái đầu để Lỗ hầu khỏi nghi, ta chắc công danh sẽ thành toại.”

Điền thị hoảng hốt, chưa mở miệng nói được gì thì đã bị Ngô Khởi chém rụng đầu. Đoạn Khởi dâng đầu vợ lên cho Lỗ Mục Công, bảo rằng để tỏ lòng vì nước Lỗ.

Mục Công có ý không bằng lòng, nhưng ngại không dùng thì Khởi sẽ giúp Tề đánh lại Lỗ, nên phong Khởi làm tướng, dẫn hai vạn quân đánh Tề.

Từ khi làm đại tướng, cơm ăn áo mặc của Ngô Khởi giống như quân sĩ, nằm không trải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề cũng đến làm hộ. Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hút mủ cho nó. Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi khác nào như tình cha con, đều giơ tay mím miệng xin cố sức đánh giặc.

Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hòa đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoản Bằng kéo quân thẳng tới phía nam nước Lỗ, nghe tin Ngô Khởi làm đại tướng nước Lỗ, cười mà bảo rằng: “Người ấy là rể họ Điền, chỉ nghề hiếu sắc, có biết việc quân lữ là cái gì! Nước Lỗ đến ngày suy đốn, cho nên mới dùng người ấy.”

Đến khi hai bên đóng đồn giáp nhau, Điền Hòa không thấy Ngô Khởi ra khiêu chiến, mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì Ngô Khởi đang cùng với một người hèn hạ nhất đám quân sĩ ấy trải chiếu xuống đất mà ngồi, chia canh cùng ăn.

Sứ giả về báo. Điền Hòa cười mà nói rằng: “Tướng có tôn nghiêm thì quân mới sợ, quân có sợ thì mới chịu cố sức đánh. Nay Ngô Khởi hành động như thế, còn dùng quân thế nào được, ta chẳng lo gì!”

Điền Hòa lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hòa, để dò thám xem cách chiến thủ của Ngô Khởi ra làm sao. Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía sau, rồi dàn quân lão nhược ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu.

Trương Sửu nói: “Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ đều cầu tướng, có phải thế không?”

Ngô Khởi sợ hãi mà đáp rằng: “Tôi dẫu hèn mạt, cũng đã học ở cửa thánh, khi nào dám làm những việc bất tình như vậy! Nội nhân tôi nhân khi mất vì bệnh, lại gặp có việc quân lữ, người ta nghe tin đồn bậy, chứ không phải là thực.”

Trương Sửu nói: “Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân giảng hòa.”

Ngô Khởi nói: “Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với họ Điền, nếu cho giảng hòa thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm.”

Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày, rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh. Khi Trương Sửu sắp đi, Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ. Trương Sửu cáo từ lui về.

Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lên đường theo sang. Điền Hòa được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là lão nhược, không lo sợ gì cả. Bỗng nghe thấy tiếng trống vang rầm ở ngoài viên môn, quân Lỗ thình lình kéo đến. Điền Hòa kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn. Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến. Đòan Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng. Chẳng ngờ hai toán quân của Tiết Liễu và Thân Tướng ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến. Quân Tề thua to, người chết như rạ.

Lỗ Mục Công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm chức Thượng khanh, bổng lộc cao nhất nước Lỗ.

Điền Hòa trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc.

Trương Sửu nói: “Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ đâu là Ngô Khởi đánh lừa.”

Điền Hòa thở dài mà nói rằng: “Ngô Khởi dụng binh, chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhương Thư thuở xưa. Nếu Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên được. Ta muốn sai một người sang Lỗ, mật cùng với Ngô Khởi giao tiếp để hai bên không xâm phạm nhau. Nhà ngươi đi được không?

Trương Sửu nói: “Tôi xin liều mình sang Lỗ một phen, để chuộc lại cái tội trước.”

Điền Hòa mới tìm hai người mỹ nữ và đem một nghìn lượng vàng, giao cho Trương Sửu. Trương Sửu giả cách làm lái buôn đem sang nước Lỗ, vào lễ riêng với Ngô Khởi.

Ngô Khởi vốn là người tham tiền hiếu sắc, thấy Trương Sửu đưa lễ đến, liền nhận ngay rồi bảo Trương Sửu rằng: “Nhà ngươi nói lại với quan tướng quốc nước Tề, nếu Tề không xâm phạm Lỗ thì khi nào Lỗ lại đánh Tề!”

Khi Trương Sửu trở về liền làm kế ly gián, cố ý hở chuyện cho mọi người ở Lỗ Thành biết, vì thế mà mọi người đều truyền miệng việc Ngô Khởi ăn hối lộ của nước Tề.

Lỗ Mục Công nghe biết chuyện ấy, liền phàn nàn rằng: “Ta đã biết Ngô Khởi là người bất trắc!” Rồi định tước hết quan chức và hạ ngục Khởi.

Ngô Khởi hoảng sợ bỏ chạy qua nước Ngụy, được Ngụy hầu cho trấn thủ đất Tây Hà. Nhưng chẳng bao lâu thì thế tử Kích lên nối ngôi Ngụy hầu, không dùng Khởi nữa, nên Khởi trốn sang nước Sở.

Sở Niệu Vương tin dùng, phong Khởi làm tướng quốc. Ngô Khởi định lại quan chế, cất tước quan, bổng lộc của nhiều người làm cho cánh hoàng thân quốc thích căm tức. Sở lúc bấy giờ càng giàu mạnh, làm cho các nước Tấn, Tề, Tần, Lỗ đều phải khiếp phục.

Nhưng khi Sở Niệu Vương mất, chưa kịp khâm liệm thì dòng họ Niệu Vương và các con cháu của các vị đại thần vì chế độ định quan của Ngô Khởi là mất tước lộc, nhân cơ hội quốc tang, nên nổi dậy làm loạn, vây bắt Ngô Khởi.

Khởi hoảng hốt bỏ chạy trốn nhưng bị bọn hoàng tộc cầm cung tên đuổi nà theo bắn chết.

Sau này, Ngô Khởi tượng trưng cho thói ham lập công danh mà nỡ lòng tuyệt tình riêng.

Sãi Vãi:

Ghét đứa cầu mị giết con
Ghét đứa tham sang hại vợ.

Ngô Thế Vinh: Theo Wikipedia_Ngô Thế Vinh, Ngô Thế Vinh (1802–1856) quê ở Nam Định. Ông đỗ tiến sĩ năm 1829, làm quan đến chức Lang trung bộ Lễ. Sau, khi làm giám khảo trường thi Hương ở Hà Nội, do duyệt quyển không kỹ nên bị cách chức, ông về quê dạy học và phụng dưỡng mẹ già. Học trò nhiều người thành đạt. Vua Tự Đức thường sai Trung sứ đến nhà lấy thơ văn trước tác của ông để dâng vua xem. Sau vu lại gia ơn phục hồi học vị tiến sĩ.

Có sách chép, ông soạn tới 72 cuốn. Đồng biên soạn cuốn chuẩn định Hương Hội thi pháp. Ông đề tựa cuốn Ức Trai di tập do Dương Bá Cung soạn. Tác phẩm chủ yếu là sách giáo khoa, có tập Dương Đình thi văn tậpTrúc Đường phú tập. Ngoài ra, Ngô Thế Vinh còn biên soạn sách triết học như Trúc Đường chu dịch tùy bút, sách sử học như Tống sử học, sách về đo đạc như Khảo xích đạo bộ pháp.

Qua những tác phẩm còn lại đến ngày nay, có thể thấy ông là bậc tri thức uyên bác về nhiều lãnh vực. Ông có để lại bản dịch bài Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ (Trung Quốc), (gồm 40 câu thơ thất ngôn = 280 chữ) ra thơ song thất lục bát (cũng 40 câu = 280 chữ) rất hay, đến nay chưa có bản dịch nào vượt lên trên được.

Xem thêm mục: Chức cẩm hồi văn.

Ngô Thì Nhậm tức Ngô Thời Nhiệm (1746–1803): Theo Wikipedia_Ngô Thì Nhậm, ông là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê và Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ông người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc Huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà. Cha ông là Lê Thì Sĩ, đỗ Hoàng giáp tức Đệ Nhị giáp Tiến sĩ. Nhờ truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, học giỏi, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn Nhị thập tứ sử toát yếu, mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi hương, hai mươi tuổi viết Tứ gia thuyết phả. Năm 1768, 23 tuổi, ông thi đỗ giải nguyên.

Năm 1775, ông đỗ Tiến sĩ Đện Tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Được chúa Trịnh Sâm rất quý mến và nhận xét là “Tài học không ở dưới người”. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan Hộ khoa cấp sự trung ở Bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh.

Ngô Thì Nhậm dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, trong đó có các bài biểu nổi tiếng như Giáo nghị, Pháp nghị và Chính nghị. Tuy nhiên, do triều đại Lê–Trịnh đang ở vào thời suy vi, nên dù rất khen kế sách của ông, Trịnh Sâm cũng không thể áp dụng nó vào thực tế.

Với tư tưởng lấy trung làm đầu, khi Nguyễn Huệ mang quân ra đất Bắc lần thứ nhất, Ngô Thì Nhậm đã từng gọi Nguyễn Huệ là giặc, từ bỏ đất kinh kì đi “lánh nạn”.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh “cầu hiền” tìm kiếm quan lại của triều cũ. Tới thời điểm này thì cả Vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc hà khác lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc hà tới trình diện ở Bộ Lễ.

Nhằm giúp Nguyễn Huệ chiêu mộ nhân tài, Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu cầu hiền, với ngôn từ vừa đanh thép và sâu sắc vừa cảm động và có tính thuyết phục, được các sử gia đánh giá rất cao. Bài văn này không chỉ cho thấy tác giả uyên bác trong sáng tạo văn bản nghị luận chính trị–xã hội, mà còn khắc họa lòng khao khát cầu hiền đãi sĩ và tư tưởng tiến bộ của người anh hùng Nguyễn Huệ.

Xem thêm:
Chiếu cầu hiềnhttps://www.youtube.com/watch?v=15IGBkCuVHA

Ngô Thì Nhậm nhanh chóng nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ. Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: “Thật là trời để dành ông cho ta vậy”, và phong cho ông chức Tả thị lang Bộ Lại, tước Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê. Về sau, Thì Nhậm được thăng làm Thượng thư Bộ Lại, đứng đầu một trong Lục Bộ.

Cuối năm Mậu Thân (1788) do Vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê.

Ngô Thì Nhậm có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp–Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn. Ông nhận định: “Nay, ta giữ quân mà rút về chỗ hiểm Tam Điệp, không bị mất một mũi tên. Cho giặc vào Thăng Long ngủ trọ một đêm, rồi tung quân ra đánh, đuổi chúng đi, có mất gì đâu?”

Đánh giá công lao của Ngô Thì Nhậm, Vua Quang Trung nói với tướng sĩ rằng: “Các người đều là chiến tướng, tự nhiên gặp giặc là đánh, mà lâm cơ cần ứng biến thì không đủ tài. Mấy tháng trước, ta phải để Ngô Thì Nhậm ở lại, cộng sự với các ngươi, chính là lo sẵn cho chỗ đó”.

Năm 1790, Vua Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng bây giờ). Tuy làm ở Bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông cũng được phong chức Tổng tài Quốc sử quán. Như vậy, ông phụ trách các lĩnh vực quốc phòng, ngoại giao và sử học. Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn.

Vốn là người văn chương nức tiếng bấy giờ, phần lớn các thư từ bang giao giữa nước ta và nhà Thanh đều do chính tay ông soạn thảo. Những văn kiện ngoại giao của Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ nguyên tắc về chủ quyền lãnh thổ, danh dự quốc gia với các chính sách linh hoạt, vừa mềm dẻo vửa cứng rắn. Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm hai lần đi sứ sang nhà Thanh vào những dịp rất quan trọng, khoảng các năm 1790, 1792-1793.

Chính sách ngoại giao khôn khéo đối với nhà Thanh chính do công của Ngô Thì Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung.

Theo sách Hoàng hoa đồ phả, trong những lần đi sứ phương Bắc, ông luôn cố gắng để đến tất cả những danh thắng ở Trung Quốc mà người Việt chỉ biết qua sách vở, cũng như tìm kiếm dấu vết của lịch sử Việt Nam trên đất khách. Chính ông là người đã phát hiện miếu của Hai Bà Trưng được lập ở xứ người.

Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam Quan vào tới Bến Ván, Quang Trung nghe theo lời tham mưu của hai văn thần quan trọng là Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế khóa.

Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ, Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Trong các kế hoạch bình định, Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, “Tờ Chiếu Khuyến nông”, được dòng họ Ngô-thì lưu giữ và ghi vào tập Hàn các anh hoa của Ngô Thì Nhậm.

Năm 1792, sau khi Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt Nam. Ông đã hoàn thành một tác phẩm rất có giá trị là Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh (1796).

Năm 1802, sau khi chiếm được cơ nghiệp của vương triều Tây Sơn, Vua Gia Long thực hiện một cuộc trả thù tàn khốc đối với dòng họ của ba anh em nhà Tây Sơn và tất cả những người từng phục vụ, hợp tác, ủng hộ triều đại Tây Sơn. Một trong số những người đầu tiên phải hứng chịu cuộc trả thù thảm khốc đó là Ngô Thì Nhậm.

Theo Đại Nam liệt truyện, năm 1803, Thượng thư nhà Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan ra đầu thú, bị giải về kinh.

Thường dâng sớ nói là: “Bọn Nhậm là bề tôi nhà Lê, nỡ cam tâm thờ giặc, đặt lời dối trá để lừa bịp nước Thanh, hãm đồng loại vào con đường bất nghĩa. Xét về tội ác lấy hết tre (ở núi Lam sơn) cũng khó biện hết tội. Thực là người có tội trong danh giáo, nếu không giết đi, lấy gì để răn bảo người sau”.

Tổng trấn của Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành cho rằng: “Bọn Nhậm tội cố nhiên là đáng giết, nhưng ngụy quan ra thú được miễn tội, đã có chiếu chỉ rõ ràng, không nên thất tín.”

Ngày 9-3-1803, Ngô Thì Nhậm bị đem ra Văn Miếu (Thăng Long) kể tội và đánh đòn cùng với Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan [một số nguồn ghi Nguyễn Thế Lịch], do Đặng Trần Thường chủ trì.

Đặng Trần Thường vẫn mang mối hận đối với Ngô Thì Nhậm. Nguyên trước kia, Thường cùng với Nhậm ở Huyện Thanh Oai quen biết nhau. Khi Nhậm làm Binh bộ Thượng thư cho nhà Tây Sơn, Thường tới ra mắt Nhậm, nói đến việc đời. Nhậm nói: “Người quân tử quý ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì!” Và tỏ vẻ lấy vị thứ uy quyền lấn át Thường. Thường giũ áo đứng dậy đi. Khi về bảo người nhà rằng: “Ta sẽ giết tên giặc ấy”. Bèn có ý chí đi xa, rồi theo phò tá chúa Nguyễn. Đến năm 1810, ông được thăng đến Binh bộ Thượng thư, ngang với chức của Nhậm bên nhà Tây Sơn.

Sử sách viết về nhà Tây Sơn chép: Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm mắng Thường: “Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.” Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về rồi khăn gói vào Nam, đầu Nguyễn Phúc Ánh, mang theo trong lòng nỗi căm giận với Ngô Thì Nhậm.

Đến khi chủ trì việc đánh roi ba cựu thần nhà Tây Sơn ở Văn Miếu, mặc dù chiếu chỉ của Gia Long hạ lệnh là chỉ “đánh đòn đau”, nhưng có thuyết cho rằng hậu quả tệ hại hơn chỉ vì Đặng Trần Thường, lúc này đang giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành.

Có dư luận cho rằng chiếc roi đánh Ngô Thì Nhậm đã bị tẩm thuốc độc do mối thâm thù của Đặng Trần Thường. Điều này đến nay chưa được xác định, nhưng sau khi bị phạt, Nguyễn Thế Lịch và Phan Huy Ích đều về quê sinh sống một cuộc đời khác. Riêng Ngô Thì Nhậm không qua khỏi, trở về quê nhà ít ngày thì qua đời. Đại Nam liệt truyện chép: “độc mình Nhậm bị đau quá chết, đó là Thường giận bảo vậy”. Tức là mối hận của Thường đối với Nhậm lúc này vẫn còn, và cái chết của Nhậm là do cá nhân Thường giải thích.

Ghi chú: Tên Ngô Thì Nhậm được ghi trong Ngô Gia thế phả, nhưng trong nhiều tài liệu tên được ghi là Ngô Thời Nhiệm. Việc thay tên đổi họ này xảy ra từ thời Tự Đức (1848–1883). Vì nhà Vua có họ tên thật là Nguyễn Phúc Thì, đồng thời lại có tên “cúng cơm” khác là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên vô tình tên của Ngô Thì Nhậm phạm húy tên của hoàng đế. Để tránh phạm húy, nhà Nguyễn buộc dân tình phải gọi khác đi là Ngô Thời Nhiệm. Vì vậy mà người Nam Bộ – vốn chịu ảnh hưởng của nhà Nguyễn – đều dùng tên Ngô Thời Nhiệm cho đường phố, trường học…

Xem thêm mục: kỵ húy.

* Giai thoại câu đối giữa Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường

Tương truyền, trước khi thực hiện việc đánh roi ở Văn miếu, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai

[Ý nói ngày xưa ngươi là công hầu khanh tướng nhưng chưa hẳn là giỏi hơn ta, bằng chứng là bây giờ ngươi phải quỵ lụy dưới chân ta.]

Ngô Thì Nhậm đối lại:

Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

[Ý nói gặp thời thế nào thì phải là vậy thôi, tôi vẫn sống như thế, chứ không phải là ngươi giỏi hơn ta, đừng kiêu ngạo.]

Câu đối thật chuẩn cả ý lẫn từ. Vế xướng của Đặng Trần Thường có chữ “trần”, là tên lót của Đặng, còn vế đối của Ngô Thì Nhậm có chữ “thời” đồng nghĩa với “thì”, là tên lót của Ngô. Vế xướng có 5 chữ “ai” còn về đối có 5 chữ “thế”.

Năm 1955, thủ lĩnh luật sư đoàn Việt Nam Cộng Hòa là Luật sư Tiến sĩ Vương Quang Nhường nhắc đến hai câu đối này khi biện hộ cho Tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt).

Kể tiếp giai thoại giữa Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường.

Trước khi qua đời, Ngô Thì Nhậm làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường như sau (dịch Nôm):

Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường
.

Nghĩa: Thương thay Đặng Trần Thường, khác nào chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy, rồi kết cục sẽ giống như sự kiện cung Vị Ương. Ý nhắc đến công thần Hàn Tín phò trợ Hán Cao tổ lên ngôi, rồi bị Lữ hậu (vợ Cao tổ) giết ở Cung Vị Ương.

Hóa ra kết cục của Đặng Trần Thường ứng với nội dung bài thơ trên, là một trường hợp của “điểu tận cung tàng” hoặc “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm” dưới triều Vua Gia Long.

Đại Nam liệt truyện chép rằng Đặng Trần Thường cùng Lê Chất vốn có hiềm khích. Chất được tước quận công, Thường nói với người ta rằng: “Chất mà được quận công thì bọn ta đáng làm đến 10 quận công”. Chất nghe tin lấy làm căm giận. Kịp khi ra trấn Bắc Thành, Chất nghe Thường trước kia cho những người thân tình man khai để làm gian Sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc (tướng của chúa Trịnh) vào bậc phúc thần; lại cùng với Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Gia Cát cùng giúp nhau mạo cấp sắc phong. Chất bèn tố cáo những tội trên.

Thường dâng sớ xin nhận tội. Vua Gia Long nói: “Lũ ngươi dối người, kinh nhờn cả thần, việc đó còn nhẫn tâm làm, còn việc gì không dám?”

Gia Cát bị xử trảm giam hậu (xử tử còn giam, mùa thu xét lại). Rồi sau được tha, cho ở lại kinh.

Lê Chất lại tâu: “Thường khi ở thành có nhiều việc trái phép khác như ức chiếm đầm ao, ẩn giấu thuế lệ đinh điền, xin bắt để trị tội.”

Thường lại đáng tội xử tử. Thường ở trong ngục uống rượu bừa bãi, nói càn, làm bài Hàn Vương tôn phú bằng quốc âm, cho rằng mình gặp tình huống giống như Hàn Tín, ngụ ý oán hờn, lời lẽ trách móc Hán Cao tổ, gián tiếp động chạm đến Vua Gia Long. Đoạn kết bài phú như sau:

Tôi nay xem pho cựu sử, đọc truyện nhân thần
Thấy câu: “Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín chi công(A)
Chưa từng chẳng thán tích Hàn vương tôn chi anh tài; (B)
Mà thầm trách Hán Cao hoàng chi sai kỵ. (C)

Chú thích:
(A) Nhà Hán được thiên hạ, đều là do công của Hàn Tín.
(B) Chưa từng thiếu than tiếc Hàn Tín là bậc anh tài
(C) Thầm trách Hán Cao tổ nghi kỵ công thần.

Đình thần xét xử đều cho đáng giết.

Cuối cùng, Đặng Trần Thường bị xử tội giảo (thắt cổ), tài sản bị tịch thu.

Ghi chú: Trong khi nhiều tác giả có cái nhìn tiêu cực về Đặng Trần Thường, riêng Đặng Đình Nguyên (2008) dựa trên hai bộ Đặng gia phả mà cho rằng Đặng Trần Thường hoàn toàn không phải là một “tiểu nhân”, tuy không thấy phủ nhận việc đầu độc Ngô Thì Nhậm.

Có một số nguồn – như Đặng Đình Nguyên (2008), Đặng Đức Thư (2012), và Đặng Xuân Vĩnh (2011) – nêu ra những chi tiết sau để chúng ta xem xét:

    • Ngô sinh năm 1746 và Đặng sinh năm 1759, cách nhau 13 tuổi, vì thế, chi tiết cho rằng hai người là bạn thuở thiếu thời có thể không được thuyết phục.
    • Năm 1775, Ngô Thì Nhậm đỗ tiến sĩ thì Thường mới chuẩn bị đi thi cử nhân nhưng cha mất nên không đi thi. So sánh thời gian, tuổi tác, hành trạng thì Ngô và Đặng khó có thể quen biết nhau trước khi Ngô bị giải ra Văn miếu trị tội.
    • Không tìm được nguồn chính thức nào xác nhận đôi câu đối giữa hai người và bài thơ trước khi qua đời của Ngô. [Riêng người tổng hợp bài này nhận thấy ngay cả trang Wikipedia – vốn hay ghi nguồn cẩn thận – lại không ghi nguồn cho hai sự kiện trên.]
    • Tên Ngô được đổi thành Thời Nhiệm để tránh phạm húy đối với Tự Đức, và khi câu chuyện xảy ra thì tên vẫn là Thì Nhậm, lúc đó vế đối lại không chỉnh, vì vậy đôi câu đối có thể được hư cấu dưới thời Tự Đức.

Mặt khác, ba nguồn kể trên bào chữa cho Đặng Trần Thường đều là họ Đặng, và Đặng Xuân Vĩnh (2014) cho biết cuốn Thượng thư Binh bộ Đặng Trần Thường là của một nhóm gồm 6 tác giả họ Đặng do Đặng Văn Lộc là chủ biên, như thế có phải là ngẫu nhiên khi tất cả tác giả là họ Đặng hay không? Ta cần được biết ý kiến có tính thuyết phục của những nguồn khác.

Dù sao, ta cần công tâm đối với lịch sử, vì vậy cho đến khi có tư liệu xác thực, ta nên xem hai câu chuyện trên giữa hai người chỉ là giai thoại.

Ngô Vĩ Nghiệp: Theo Wikipedia_Ngô Vĩ Nghiệp, Ngô Vĩ Nghiệp (1609–1672), hiệu là Mai Thôn, quê ở Thái Thương (nay thuộc Tỉnh Giang Tô, Trung Quốc). Ông đỗ Tiến sĩ năm Sùng Trinh thứ tư (1631), ra làm quan với nhà Minh một thời gian. Khi quân Thanh chiếm Trung Quốc, ông về ẩn cư ở quê nhà. Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), ông buộc phải tuân chiếu chỉ ra làm quan với nhà Thanh, giữ chức “Quốc tử giám Tế tửu” (tức Hiệu trưởng Trường Quốc tử giám); ba năm sau thì từ quan. Ngô Vĩ Nghiệp là nhà thơ nổi tiếng, đồng thời cũng giỏi cả từ, khúc và hội họa.

Ngô Vĩ Nghiệp là tác giả của bài trường thi Viên Viên khúc. Theo cảm nhận của Thi Viện_Viên Viên khúc • Khúc ca về nàng Viên Viên:

Đây là bài thất ngôn trường thi tiêu biểu của Ngô Vĩ Nghiệp, một bài thơ trữ tình lịch sử, châm biếm. Viên Viên vốn tên là Trần Nguyên, tự Uyển Phân, một danh kỹ ở miền Giang Nam, là một trong “Tần Hoài bát tuyệt” thời Minh mạt. Viên Viên được Ngô Tam Quế cứu khỏi lầu xanh và hai người đính ước với nhau. Ngô Tam Quế được phong làm Tổng binh, chỉ huy quân đội trấn thủ Sơn Hải quan. Năm 1644, Lý Tự Thành lãnh đạo quân khởi nghĩa tiến vào chiếm kinh đô Bắc Kinh, Vua Minh Tự Tông tự tử. Ban đầu Ngô Tam Quế định đầu hàng nghĩa quân, nhưng nghe tin Trần Nguyên đang bị bộ tướng của Lý Tự Thành là Lưu Tông Mẫn chiếm đoạt, Ngô Tam Quế bèn cầu viện quân Mãn, dẫn quân Mãn Thanh vượt Sơn Hải quan, mượn tiếng trả thù cho Vua Minh, tiến vào Bắc Kinh, đánh bại nghĩa quân của Lý Tự Thành. Quân Thanh thừa thắng chiếm luôn toàn lãnh thổ Trung Quốc. Ngô Tam Quế tìm lại được Trần Viên Viên và được nhà Thanh phong vương, phái đi trấn thủ miền tây nam. Trần Viên Viên cuối đời đi tu làm đạo sĩ. Trong bài thơ này, tác giả thông qua sự “bi hoan ly hợp” với Trần Viên Viên để châm biếm hành vi phản quốc của Ngô Tam Quế.

Tác phẩm Lộc đỉnh ký của Kim Dung minh họa Khúc ca về nàng Viên Viên như sau.

Trần Viên Viên đứng dậy nói: “…vừa nghe đại nhân minh oan cho tiện thiếp, trong lòng cảm kích vô cùng. Hơn hai chục năm nay, tiện thiếp bị hết thảy mọi người trong thiên hạ thóa mạ nhục nhằn… Bao nhiêu tội danh về việc vong quốc đổ hết lên đầu tiện thiếp. Trên cõi đời này chỉ có hai vị đại tài từ là thấu rõ nỗi oan cho tiện thiếp. Một là đại thi gia Ngô Mai Thôn Ngô tài tử. Còn một vị nữa là Vi đại nhân.”

[…]

Trần Viên Viên trỏ vào bức thư pháp khẽ nói: “Đây là Ngô Mai Thôn tài tử tặng tiện thiếp một bài trường thi kêu bằng Viên Viên khúc. Bữa nay gặp cơ duyên xin tấu khúc nhạc này để đại nhân thưởng thức, dù nó chẳng bõ làm nhơ tai đại nhân.”

Rồi nàng so dây dạo đàn bật lên những tiếng tình tang, cất tiếng hát:

Quân vương xa lánh cõi trần hoàn
Phá giặc thâu thành đoạt ải quan
Khóc chúa ba quân đồng chế phục
Ra oai giận dữ vị hồng nhan

Trần Viên Viên hát bốn câu rồi giải thích: “Đây là tích nói về ngày đức Sùng Trinh quy thiên, Bình Tây Vương đánh vào Bắc Kinh. Ba quân mặc đồ tang phục khóc đức Hoàng đế băng hà. Bình Tây Vương đã vì kẻ bất tường này mà mở cuộc xuất binh.”

Trần Viên Viên tiếp tục cất tiếng hát:

Hồng nhan lưu lạc ra chi
Bạo thiên nghịch địa hay gì mà chơi!
Ra tay quét sạch kiến ruồi
Nhớ quân vương luống ngậm ngùi lòng son.

Rồi nàng nói: “Khúc này nói về vụ vương gia đánh bại Lý Sấm [Lý Tự Thành tự xưng là Sấm Vương]. Sở dĩ Lý Sấm không thành đại sự là vì chính hắn chẳng ra gì. Vương gia nghe câu này trong lòng không vui vẻ chút nào… Sau này là khúc hát nói về thân thế của tiện thiếp.”

Rồi nàng lại cất tiếng hát:

Cửa quyên đua nở trăm hoa
Cô Tô gái nọ mặn mà hơn ai
Làm cho mê mẩn Phù Sai
Kiếp xưa nàng đã là người nào đây?

Tiếng ca uyển chuyển, tiếng tỳ bà thánh thót dặt dìu. Vi Tiểu Bảo nghe đàn, tiếng hát mà trong lòng thư thái mê ly.

Trần Viên Viên khẽ nói: “Khúc này người ta ví tiện thiếp như Tây Thi thực là quá đáng.”

Vi Tiểu Bảo nói: “…Tây Thi là người ở phủ Thiệu Hưng Tỉnh Triết Giang, tướng mạo nàng tuy đẹp thật, nhưng người ở Thiệu Hưng nổi tiếng là ăn nói không được thanh tao, đâu có êm đềm dịu dàng như vương phi ở Tô Châu!”

Trần Viên Viên hát tiếp:

Trước thềm oanh yến dập dìu
Tài này sắc ấy dễ xiêu lòng người
Phong trần kiếp cũng như ai
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân!

Nàng nhẹ buông tiếng thở dài nói: “Tiện thiếp cũng xuất thân ở chốn phong trần, không muốn giấu diếm đại nhân… Tiện thiếp vốn là kỹ nữ ở Tô Châu…”

Rồi nàng chậm rãi nói tiếp: “Hoàng hậu họ Chu của Sùng Trinh thiên tử cũng là người ở Tô Châu. Thiên tử sủng ái Điền quý phi. Hoàng hậu cùng Điền quý phi tranh đấu rất gay go. Phụ thân của Hoàng hậu là Gia Định bá đến kỹ viện mua tiện thiếp đưa vào hoàng cung, hy vọng chia lòng sủng ái của thiên tử đối với Điền quý phi… Sùng Trinh thiên tử mải lo quốc sự, không mê nữ sắc. Tiện thiếp ở trong cung không được bao lâu thì hoàng thượng bảo Chu Hoàng hậu đưa tiện thiếp ra khỏi cung vi.”

Trần Viên Viên nói: “Mấy đoạn dưới khúc hát này nói về tiện thiếp gặp Bình Tây Vương trong trường hợp nào. Lão nhân gia xin Gia Định bá đem tiện thiếp đi rồi tự mình đến làm trấn thủ Sơn Hải quan và lưu tiện thiếp ở nhà tại Bắc Kinh. Chẳng bao lâu Lý Sấm đánh vào kinh thành.”

Rồi nàng cất tiếng hát:

Biết cùng ai ngỏ sự lòng
Ra tay tháo cũi mở lồng cho chim
Trường An chút phận sắm bìm
Kiếm người bạc mệnh như tìm bóng mây.

Trần Viên Viên khẽ nói: “Lý Sấm đoạt tiện thiếp đem đi, sau lại bị Bình Tây vuơng đoạt trở về. Tiện thiếp không phải là người mà là một món hàng, ai mạnh thì người ấy đoạt được.”

Đoạn nàng lại cất tiếng hát:

Nếu không thừa thắng trận trung
Còn mong tranh đoạt má hồng được sao?
Ba quân phất ngọn cờ đào
Bày hàng cổ súy kéo vào Tần Xuyên…

Trần Viên Viên nói: “Tiện thiếp đi theo Bình Tây Vương vào đánh Tứ Xuyên. Kế đó lão nhân gia được phong tước vương và tiện thiếp trở phi… Tin này đồn về Tô Châu, những chị em trong viện ngày xưa đều khen tiện thiếp tốt phước. Bọn họ lớn tuổi rồi nhưng vẫn phải ở lại trong viện làm kỹ nữ như xưa.”

Rồi nàng gãy đàn tỳ bà, cất tiếng hát:

Tiếng tăm đồn đại khắp gần xa
Cùng bạn đồng hành gái giặt sa
Số phận hồng nhan ai có biết
Ngàn thu đài các khách vương gia.

Nàng ngưng tiếng đàn lại nói: “Ngô Mai Thôn tài tử biết tiện thiếp tuy tiếng tăm đồn đại khắp thiên hạ, người ngoài cho là giàu sang sung sướng, mà thực ra trong lòng đau khổ vô cùng! Người đời mai mỉa những gì ‘hồng nhan họa thủy’, làm mất giang sơn của nhà Đại Minh…. Ngô tài tử biết tiện thiếp là đứa con gái yếu ớt, chẳng làm gì được. Hay dở đều phải trông vào công việc của bọn nam tử hán…”

Lại nghe Trần Viên Viên cất tiếng hát:

Đổi bậc thay ngôi nghĩ lại sầu
Ngán cho châu ngọc đất Lương Châu
Xin ai chớ hát Ngô cung khúc
Sông Hán quanh năm chảy một chiều.

Trần Viên Viên lại nói: “Đoạn hát sau cùng nói về việc Ngô Phù Sai người chết nước mất. Ngày ấy tiện thiếp không hiểu rõ tại sao khúc hát cho mình lại nhắc tới Ngô cung. Dù có muốn tỷ tiện thiếp với Tây Thi thì bên trên cũng đã nói rồi. Ngô cung! Ngô cung! Chẳng lẽ người ta muốn nói vương cung của Bình Tây Vương…”

Nàng thở dài nói tiếp: “Mấy năm gần đây tiện thiếp mới hiểu ra ý tứ bài thơ, vì thấy vương gia một mặt thao luyện binh mã, một mặt xa xỉ quá độ. E rằng… e rằng tương lai… hỡi ơi… Tiện thiếp đã khuyên can vương gia mấy lần thì lại làm cho vương gia nổi nóng. Vì thế tiện thiếp mới xuất gia tại Tam Thánh am, để tóc tu hành, sám hối những tội nghiệt trong đời mình. Tiện thiếp chỉ mong mọi người đều bình yên và tiện thiếp sống cho qua kiếp này khỏi gặp tai nạn là lấy làm mãn nguyện.”

Xem thêm mục: Trần Viên Viên.

ngồi giữa gió xuân: ý nói được nghe, được học đạo lý hay. Chu Công Thiềm, sau khi tiếp kiến Minh Đạo ở đất Nhữ, về bảo với mọi người: “Mình như ngồi giữa gió xuân suốt cả một tháng.”

Theo Hạnh Chi (2011), Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân”… Hình ảnh Tọa Xuân Phong, đúng nghĩa cả thân, tâm, ý, sẽ chính là Thân Giáo, biểu tượng sự thanh khiết, tinh sạch, làm cảm động những lữ khách đang bôn ba xuôi ngược giữa lốc xoáy của kiếp nhân sinh.

Tôi [Hạnh Chi] đã từng được ngồi như thế, cảm nhận rõ ràng được ngồi như thế trên những bãi cỏ ở Phương Khê, Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Mới, trong một mùa an cư tại Làng Mai. Mỗi lần dẫn chúng thiền hành, Thầy thường dừng lại nơi nào đẹp nhất, khoáng đãng nhất, và thị giả sẽ trải chiếc chiếu nhỏ dưới gốc cây. Đại chúng dừng lại theo Thầy, tự tìm chỗ ưa thích và ngồi xuống. Thị giả mở túi vải mang theo bình trà đã pha sẵn, lấy ra một chiếc tách đất nung, rồi chậm rãi, rót trà dâng Thầy. Thầy đỡ lấy bằng hai tay, tỏ lòng cám ơn. Thị giả chắp tay búp sen đáp lễ rồi lùi sang bên, vén áo, ngồi xuống sau Thầy.

nguồn đào: chỉ cảnh tiên. Xem đào nguyên.

Nguyên: Triều Đại Nguyên ở Trung Quốc, là một triều đại do người Mông Cổ thành lập và là triều đại do một dân tộc thiểu số cai trị đầu tiên hoàn thành sự nghiệp thống nhất Trung Quốc. Triều Nguyên do Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt lập nên vào năm 1271, định đô tại Đại Đô, đến năm 1279 thì tiêu diệt Nam Tống, thống nhất Trung Quốc, trải qua 9 đời vua, kéo dài 93 năm (1277-1368).

Tiền thân của triều Nguyên là Đại Mông Cổ Quốc, do Thành Cát Tư Hãn lập nên năm 1206, sau khi thống nhất các bộ lạc tại phía bắc sa mạc Gobi (tức Mạc Bắc).

Do Kim và Tây Hạ dần suy yếu, Mông Cổ lần lượt tiêu diệt Tây Hạ năm 1227, và Kim năm 1234, hoàn toàn chiếm lĩnh vùng Hoa Bắc. Tại phía tây, trước khi triều Nguyên thành lập vào năm 1271, Mông Cổ trước sau phát động ba lần tây chinh, khiến Đế quốc Mông Cổ xưng bá đại lục Á-Âu.

Năm 1259, sau khi Mông Kha từ trần trong chiến tranh chinh phạt Tống, Hốt Tất Liệt đang quản lý khu vực dân cư Hán tiến hành tranh đoạt hãn vị với A Lý Bất Ca vốn được chính quý tộc Mông Cổ tại Mạc Bắc ủng hộ, phát sinh chiến tranh, cuối cùng Hốt Tất Liệt giành thắng lợi vào năm 1264. Hốt Tất Liệt lấy tên Nguyên trong “đại tai càn nguyên” của Chu Dịch, vào năm 1271 đổi quốc hiệu thành Đại Nguyên–Mông, kiến lập triều Nguyên, xưng vị là Nguyên Thế Tổ. Điều này khiến bốn hãn quốc lớn của người Mông Cổ trước sau thoát ly quan hệ với Đại hãn Hốt Tất Liệt, đến thời kỳ Nguyên Thành Tông mới thừa nhận trên danh nghĩa rằng hoàng đế triều Mông Nguyên là Đại hãn. Quân đội Mông Cổ chinh phục được 24 triệu km2, chiếm 16% tổng diện tích toàn cầu.

Năm 1279, triều Nguyên diệt xong triều Tống (960-1279) tại miền Nam Trung Quốc ngày nay, thống trị toàn bộ khu vực Trung Quốc, kết thúc cục diện phân liệt hơn 400 năm từ thời Đường mạt. Đó là nhờ trước đó, năm 1127, nước Kim đánh đuổi triều đình nhà Tống chạy về phương Nam thành lập nhà Nam Tống, để lại phần đất Bắc Tống với 40% dân số cho Kim cai trị.

Thế là lần đầu tiên, một tộc người bên ngoài biên giới cai trị toàn bộ đất nước của người Hán. Lần thứ hai là do nhà Thanh cai trị người Hán (1644-1912).

Triều Nguyên kế thừa lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ, trải qua nhiều lần mở rộng, đến năm 1310 thời Nguyên Vũ Tông thì đạt tới mức độ rộng nhất, phía tây đến Thổ Lỗ Phiên (Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương bây giờ), phía tây-nam gồm Tây Tạng, Vân Nam và bắc Miến Điện, phía bắc Hồ Baikal (của Nga bây giờ), phía đông Sông Obi (miền Siberi của Nga bây giờ); đông đến biển Nhật Bản, lớn hơn nhiều so với thời Hán.

Trong thời kỳ từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Vũ Tông, quốc lực triều Nguyên đạt đến đỉnh cao, về quân sự thì bình định tây-bắc, song thất bại khi tiến hành các chiến dịch chinh phạt Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á, nhất là thất bại trong ba lần đưa quân xâm chiếm Đại Việt. Đến giữa triều đại, hoàng vị triều Nguyên nhiều lần thay đổi, tình hình chính trị không đi vào quỹ đạo.

Không giống như các vương triều chinh phục khác, triều Nguyên không đề cao văn hóa bản thân mà tích cực tiếp thu văn hóa Trung Hoa, đồng thời kết hợp văn hóa Tây Á, song cũng đề xướng người Mông Cổ ở vị trí tối cao.

Nguyên Hà: hay Nguyên Giang là sông ở Hà Nam Trung Quốc, phát nguyên từ Tỉnh Quý Châu chảy vào Hồ Ðộng Vinh rồi hợp lưu với sông Tiêu, sông Tương cùng chảy tới Hồ Ðộng Ðình. Vùng xung quanh con sông này phong cảnh rất đẹp.

Nguyên Chẩn (779-831): tên chữ là Vi Chi, người Hà Nam, gia đình quan lại, làm Thượng thư Tả thừa, có quan điểm chính trị và văn học gần gũi với Bạch Cư Dị, chủ trương tác phẩm phải giàu tính hiện thực, nên người đương thời gọi là Nguyên-Bạch.

Tác phẩm: Nguyên thị Trường Khánh tập. Nguyên Chẩn còn là tác giả của truyện Hội chân ký, về sau được Vương Thực Phủ,  (đời Nguyên) dựa vào để viết vở tuồng Tây sương ký.

Vợ Nguyên Chẩn là con gái nhà quan, chịu cực khổ với chồng khi chồng còn hàn vi nhưng nàng vắn số, không sống để hưởng vinh hoa, phú quý cùng chồng. Nàng qua đời khi Nguyên Chẩn ba mươi tuổi, còn giữ một chức quan nhỏ. Năm năm sau, nhà thơ làm quan Thượng thư. Ngày giỗ vợ, nhà thơ quan Thượng thư làm các bài mang tựa đề Khiển bi hoài.

Dịch nghĩa ba bài thơ Khiển bi hoài:

Cô con gái út được thương yêu nhất của Tạ công, từ ngày làm vợ người như hàn sĩ Kiềm Lâu trăm sự đều khổ tâm. Thấy ta không áo nàng tìm trong rương vải may áo cho ta; thấy ta không rượu nàng cởi thoa vàng đem bán. Để có đủ bữa ăn nàng cam lòng ăn các thứ rau dại; cần có củi nấu bếp nàng ngẩng trông cây hòe trong sân rụng lá. Nay bổng lộc của ta hơn mười vạn quan tiền, nhưng ta chỉ có thể cúng giỗ và làm đàn chay siêu độ cho nàng.

Ngày trước chúng ta cứ nói đùa với nhau về những chuyện ngày sau, bây giờ những chuyện ngày xưa ta nói đùa đều xảy ra trước mắt. Trang phục của em đã dần dần đem cho hết, nhưng những đường kim chỉ em để lại vẫn còn, không nỡ tháo ra. Nhớ tình yêu của chúng ta anh thương cả những nô tì từng hầu hạ em. Nhân mộng thấy em anh đốt tặng em giấy tiền, vàng mã. Anh vẫn biết nỗi đau tử biệt là nỗi đau chung, nhiều người phải chịu. Anh xót xa vì vợ chồng ta nghèo nên chúng ta phải chịu nhiều cay đắng.

Anh thương em mà anh cũng thương anh. Đời sống trong vòng trăm năm chẳng lâu la gì. Đặng Du không có con mới biết thiên mệnh. Phan Nhạc làm thơ điệu vong cũng chỉ là lời suông. Chung một nấm mồ trong cõi u minh có chi để mà mong ước. Kiếp sau lại gặp nhau thật khó mà hò hẹn. Anh chỉ còn biết chong mắt suốt đêm dài, để báo đáp ân tình của em suốt đời không được tươi nét mặt.

Khiển bi hoài kỳ 1 – Nguyên Chẩn
Giải nỗi sầu nhớ kỳ 1 – Lê Nguyễn Lưu dịch thơ:

Gái nuông bé bỏng nhà ông Tạ
Gả chú Kiềm Lâu chả được gì!
Ta chẳng áo mang: tìm tủ lấy
Nàng cho rượu uống: đổi thoa đi
Rau đồng sẵn bữa ngon mùi hoắc
Lá úa đun thêm đợi cội hoè
Lương bổng bây giờ hơn chục vạn
Đàn chay cúng tế báo tình si!

Khiển bi hoài kỳ 2 – Nguyên Chẩn
Giải nỗi sầu nhớ kỳ 2 – Lê Nguyễn Lưu dịch thơ:

Ngày trước đùa vui bàn hậu sự
Sớm nay bỗng thấy nổi ba đào!
Cho quần áo hết, tìm đâu nữa?
Giở chỉ kim xưa, có nỡ nào!
Tỳ bộc ngùi thương tình quá khứ
Tiền tài đốt nhớ thủa chiêm bao
Vẫn hay hận ấy ai mà chẳng…
Chồng vợ nghèo hèn khốn khổ sao!

Khiển bi hoài kỳ 3 – Nguyên Chẩn
Giải nỗi sầu nhớ kỳ 3 – Lê Nguyễn Lưu dịch thơ:

Ngồi không, thương vợ lại thương mình
Một kiếp trăm năm chút đỉnh đinh
Bắc Đặng không con yên mệnh số
Chàng Phan khóc vợ phí thơ tình
Đợi chờ đâu biết thân đồng huyệt
Hò hẹn khôn luờng kiếp tái sinh!
Luống những thâu đêm thao thức mãi
Xót nàng chưa được hưởng thân vinh!

Nguyên Khanh: xem Tướng Hủ.

Nguyên Lượng: tên tự của Ðào Tiềm. Xem Ðào Tiềm.

Nguyên soái chinh tây: tức Tiết Nhơn Quý, người đất Long Môn, vốn làm nghề cày ruộng rồi theo Ðường Thái Tông đánh Liêu Ðông, sau lại theo Ðường Thái Tông sang đánh các nước Tây Vực đều tỏ ra là vị tướng tài, dũng cảm và có nhiều mưu trí. Khi đánh Liêu Ðông, ông một mình tay cầm giáo lưng đeo cung nỏ xông vào phá tan thế trận đối phương. Khi đánh Tây Vực, 10 vạn quân Ðột Quyết khiếp sợ xin hàng.

Nguyên tiêu: Ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tiết hoa đăng.

Nguyên Thủy Thiên Tôn: Một vị tiên đứng đầu trong chư tiên.

Nguyên Trung: Viên Cơ: Ngụy Nguyên Trung đời Ðường, một hôm thấy có mấy người đàn bà con gái từ đâu hiện đến đứng trước giường, ông bảo: “Có thể khiêng cái giường ta xuống dưới sân được không?” Họ liền khiêng ngay cái giường ông xuống sân, lại bảo: “Có thể khiêng cái giường đặt vào chỗ cũ được không?” Họ lại đặt vào chỗ cũ, lại bảo: “Có thể khiêng ra phố được không?” Họ đều cúi lạy rồi đi và bảo với nhau rằng: “Ðó là bậc trưởng giả khoa hậu, ta không nên đùa cợt như với những người khác.”

Nguyễn Bỉnh Khiêm: Tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân Tiên sinh, biệt hiệu Tuyết Giang Phu tử. Người Hải Dương (nay là Huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng), thường gọi là Trạng Trình, sinh năm 1491, mất năm 1585.

Năm 1535, đời Mạc Ðăng Doanh, ông thi đỗ Trạng lúc 45 tuổi, ông làm quan tại triều Mạc đến chức Lại bộ Tả thị lang, kiêm Ðông Các Ðại học sĩ. Ở triều 8 năm, ông dâng sớ hạch 18 lộng thần. Năm 1542, đời Mạc Phúc, ông xin về trí sĩ, làm nhà gọi là Bạch Vân am, lấy thưởng ngoạn phong cảnh, ngâm vịnh và dạy học làm vui.

Ông nổi tiếng học rộng, nghiên cứu Kinh Dịch, tinh thông bộ Thái ất thần kinh chuyên về Lý học. Vua Mạc rất trọng ông, có công việc vẫn thường đến hỏi. Lúc chết, ông được phong Thượng thư bộ Lại, tước Trình Quốc Công (Trước là Trình Tuyền Hầu). Ông mất đời Mạc Mậu Hợp, thọ 95 tuổi.

Nguyễn Thị Bích (1830–1909): phi tần của Vua Tự Đức, tác giả của Hạnh thục ca. Phần dưới đây theo Lê Thái Dũng (2012).

Tiệp dư Nguyễn Thị Bích, còn được gọi là Nguyễn Nhược Thị Bích, Nguyễn Thị Nhược Bích hay Nguyễn Nhược Thị, tự là Lang Hoàn (Lương Hoàn), sinh năm Canh Dần (1830), người gốc Đạo Ninh Thuận (nay thuộc Tỉnh Bình Thuận).

Bà là con gái thứ tư của ông Nguyễn Nhược Sơn (San) quan Bố chính Tỉnh Thanh Hóa, mẹ là người họ Nguyễn hàm Thục Nhân.

Ông Nguyễn Nhược Sơn được coi là một nhân tài nổi tiếng ở đạo Ninh Thuận, làm quan trải nhiều chức vụ trong triều cho đến ngoài trấn, như Lang Trung Bộ Hình, Thư Hiệp Trấn Tỉnh Nam Định, rồi Án sát Tỉnh Hưng Yên, Tỉnh Hà Nội, Bố Chánh sứ Tỉnh Thanh Hóa, coi việc quân ở Trấn Tây Thành đất Cao Miên (Campuchia ngày nay).

Sau đó, ông còn tham gia đánh dẹp các cuộc xâm lấn của Chân Lạp, Xiêm La, trấn áp giặc cướp, lập nhiều công nên dần được thăng làm Hàn Lâm viện Thị Giảng Học sĩ, hàm Tòng ngũ phẩm, Lang Trung bộ Công.

Là người khẳng khái, gặp việc dám làm dám nói, nên bước hoạn đồ của ông trải qua nhiều thăng trầm nhưng những người con đều được nuôi dạy chu đáo, hiển đạt; vì thế, khi Nguyễn Nhược Sơn qua đời vào năm Tự Đức thứ 4 (1850) hưởng thọ 63 tuổi, nhân sĩ trong vùng có phúng điếu câu đối như sau:

Nam giả kế khoa mục, nữ giả thi cung vi, thiên tài quốc thần kiêm quốc thích
Sanh nhi cận cổ hy, tử nhi hoàn cổ thổ, lưỡng gian hoàn phúc điện hoàn nhân

Nghĩa:

Trai nối nghiệp khoa cử, gái hầu chầu trong cung, nghìn năm tiếng là tôi của nước mà cũng là thân thích nhà vua
Sống được gần bảy mươi, chết lại được về xứ cũ, hai hoàn cảnh do phước nhà và cách làm người

Người con gái được vào hầu trong cung mà câu đối nhắc tới chính là Nguyễn Thị Bích, con gái út của Nguyễn Nhược Sơn.

Vốn tư chất thông minh, lại nhờ sự phóng khoáng, không chịu ràng buộc theo khuôn phép của cha nên từ nhỏ Nguyễn Thị Bích đã được theo đòi bút nghiên, vì thế sớm nổi tiếng về tài văn chương.

Cha đi làm quan nhiều nơi, thường cho bà đi theo nên nhờ đó có được sự hiểu biết rộng về đời sống, đến đâu người ta cũng khen ngợi trí thông minh và tài văn học của Nguyễn Thị Bích.

Vừa có sắc, lại có tài, tiếng tăm của Nguyễn Thị Bích lan rộng khắp nơi. Bấy giờ, quan Phụ chính đại thần Lâm Duy Nghĩa biết bà là người hiếm có bèn viết tờ biểu tiến cử lên Tự Đức. Xem tờ biểu, Vua rất ngạc nhiên về một thiếu nữ mới 18 tuổi không những xinh đẹp mà lại giỏi văn thơ, bèn triệu vào cung để thử tài.

Hôm đó có một buổi ngâm thơ vịnh cảnh, Vua Tự Đức ra đề thơ là Tảo mai (Mai nở sớm) và bài họa của Nguyễn Thị Bích được nhà Vua chấm hay nhất, trong đó có hai câu nổi tiếng:

Nhược giao dụng nhữ hóa canh vị
Nguyên tác lương thần phụ hữu Thương

Nghĩa :

Nếu bảo dùng người cho vừa vị canh
Xin làm bầy tôi giỏi giúp nhà Thương.

Tự Đức đặc biệt khen ngợi: “Khéo điều chế câu thơ như người điều chế mai, tỏ rõ chí khí như của Tể tướng Phó Duyệt, thật là bổ ích. Đáng tiếc là nữ, nếu là nam thì chức ấy trẫm cũng không tiếc”.

Sau đó, Vua ban thưởng cho Nguyễn Thị Bích 20 nén bạc, đồng thời tuyển vào cung cho giữ chức Thượng Nghị viên sư, đó là năm Mậu Thân (1848).

Ban đầu, khi mới nhập cung, Nguyễn Thị Bích còn ở vị trí thấp trong hệ thống phi tần. Nhiệm vụ lúc đầu của bà là dạy học cho thị nữ chốn nội cung.

Năm 1850, bà được phong làm Tài nhân thường hầu trực trong cung và theo hầu Vua Tự Đức mỗi lần đi tuần thú, nhiều lần được cùng Vua xướng họa. Bà vừa là người thông minh, học thức, lại ứng xử khéo léo, luôn tỏ ra kính cẩn, đoan nghị, nên Tự Đức rất yêu quý bà.

Năm 1860 Nguyễn Thị Bích được phong làm Mỹ nhân, rồi ít lâu sau được phong làm Quý nhân; tới năm 1868 được tấn phong Tiệp dư, lãnh trách nhiệm dạy học trong cung đình.

Tự Đức không có con, nhận 3 người cháu, con của anh em họ đưa vào cung làm con nuôi. Đó là Nguyễn Phúc Ưng Ái (con của Thoại Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y), Nguyễn Phúc Ưng Đăng và Ưng Kỷ (con của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai).

Ưng Ái (sau là Vua Dục Đức) do lớn tuổi nhất được coi là con cả, Vua Tự Đức giao cho Chính phi Vũ Thị Duyên nuôi dạy. Còn Ưng Đăng và Ưng Kỷ (sau là Vua Kiến Phúc và Vua Đồng Khánh) do Tiệp dư Nguyễn Thị Bích chăm sóc, giảng dạy những kiến thức về văn học, phép tắc, lễ nghi nơi cung cấm, nên bà được mọi người kính trọng gọi là “Tiệp dư Phu tử”.

Chính bởi vậy bà Tiệp dư được Tự Đức tin cậy, yêu mến, thường cho cùng đi trong những buổi Vua đến vấn an mẹ và những cuộc trao đổi riêng với Hoàng Thái hậu về công việc trong triều, trong hoàng tộc, những diễn biến của đất nước.

Một thời gian sau, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích trở thành Bí thư cho Thái hậu Từ Dũ, nhờ vậy mà bà nghe được nhiều điều trao đổi giữa thái hậu và vua, bởi những lúc đó chỉ mình bà được ở gần hầu hạ.

Năm 1883, Vua Tự Đức qua đời. Mọi ý chỉ, sắc dụ của Lưỡng Tôn Cung (Từ Dũ và Chính phi Vũ Thị Duyên) đều do một tay bà soạn thảo, chấp bút.

Trong thời kỳ “bốn tháng ba vua”, cũng như những người ở nội cung, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích phải chịu sự chuyên chế của hai phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường trong việc phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc.

Tiếp đó, Vua Hàm Nghi lên ngôi được một năm thì xảy ra sự biến “kinh thành thất thủ”, Vua xuất bôn xuống chiếu Cần Vương kêu gọi chống Pháp xâm lược.

Trong bối cảnh rối loạn lúc bấy giờ, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích hộ giá Tam cung (Thái hậu Từ Dũ và chánh phi, thứ phi của Vua Tự Đức) cùng triều đình chạy ra Quảng Trị, nhưng vì hoàn cảnh quá khó khăn nên không lâu sau bà rước Tam cung trở lại Huế, đến lánh ở Khiêm Lăng (Lăng Vua Tự Đức) rồi trở về hoàng cung, chịu sự quản chế của Pháp.

Nhân sự kiện này, bà sáng tác bài Loan dư Hạnh thục quốc âm ca (còn có tên là Hạnh Thục ca) bằng chữ Nôm, mượn tích truyện Vua Đường Huyền Tông ở Trung Quốc bỏ kinh đô, chạy vào đất Thục để tránh loạn An Lộc Sơn mà qua đó nói về tình hình đất nước với những biến cố từ khi quân Pháp xâm lược: chuyện phế lập ngôi vua, phong trào Cần Vương cho đến việc trở về kinh đô Huế, lễ bát tuần của Từ Dũ.

Tác phẩm này gồm 1036 câu thơ theo thể lục bát, mở đầu cuốn sách bằng các câu:

Ngẫm câu tạo hóa khôn lường
Trải xem trị loạn lẽ thường xưa nay
Thịnh suy thế vận lần xoay
Non sông như cũ đổi thay khốn cùng.

Theo các nhà nghiên cứu, mặc dù nội dung có những chỗ cho thấy tác giả là một người quen sống trong cung cấm, có cách nhìn về thời cuộc còn hạn hẹp, chủ quan và có tư tưởng cầu an nhưng nhìn chung đây là tác phẩm văn học rất có giá trị về tư liệu lịch sử do một người nếu không có tài thì không thể viết được tác phẩm như thế.

Khi Nguyễn Thị Bích theo Tam cung hồi loan về Huế, lúc này người con nuôi và cũng là học trò của bà, hoàng tử Ưng Kỷ, đã lên ngôi, lấy hiệu là Đồng Khánh.

Cũng trong khoảng thời gian đó, bà hết lòng hầu hạ, làm mọi việc do Thái Hoàng Thái hậu Từ Dũ giao cho, những lúc rảnh rỗi bà vẫn sáng tác văn thơ.

Hiện nay, ngoài tác phẩm Hạnh Thục ca, Nguyễn Thị Bích còn để lại một ít bài thơ cảm tác bằng chữ Hán.

Đến năm 1892, để ban thưởng cho những công lao, đóng góp của bà, Từ Dũ tấn phong cho Tiệp dư Nguyễn Thị Bích làm Tam giai Lễ tần.

Niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), bà phi tần tài hoa Nguyễn Thị Bích qua đời tại kinh đô Huế, thọ 80 tuổi, lăng mộ đặt tại Làng Dương Xuân Thượng (nay thuộc Thị xã Hương Thủy,  Thừa Thiên–Huế).

Nguyễn Văn Thành (1758–1817): một trong những khai quốc công thần của triều Nguyễn, đồng thời là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Ánh lên ngôi. Cái chết của ông được xem là một trong hai trường hợp “điểu tận cung tàng”, hoặc “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm” của Vua Gia Long. (Trường hợp kia là Đặng Trần Thường.)

Trần Trọng Kim (1971) chép về Vua Gia Long như sau:

… chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại vì những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy cũng nhớ đến Vua Hán Cao(A), và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.

… Những công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi Gia Long còn đang trị vì.

(A) Hán Cao: ý nói đến Hán Cao Tổ sau khi lên ngôi, các khai quốc công thần Hàn Tín, Anh Bố, Bành Việt trước sau đều bị khép vào tội danh mưu phản và đều phải chịu kết cục bi thảm.

Gia Long sau khi thống nhất đất nước có ý nghi kỵ, ghét bỏ các công thần tài năng đã từng vào sinh ra tử với ông. Cả Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều có tài văn võ, theo phò Gia Long từ thuở gian lao, lập được những công trạng hiển hách, thế mà cả hai ông đều bị xử tử vì những lỗi tầm thường.

Thuở nhỏ, Nguyền Văn Thành được gia đình cho ăn học chu tất, bởi vậy trong số các tướng lĩnh thời bấy giờ, ông là người có kiến thức uyên bác hơn cả. Nhờ lập được nhiều chiến công chống nhà Tây Sơn, năm 1801 Nguyễn Văn Thành lĩnh ấn Khâm sai Chưởng Tiền quân, Bình Tây Đại tướng quân, tước Quận Công.

Lúc Nguyễn Ánh vừa bình định Bắc hà năm 1802, đặt ra chức vụ Tổng trấn Bắc Thành, dụ bầy tôi rằng: “Đất Bắc hà vừa dẹp yên, dân vật đều mới, mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà, cần có trọng thần để trấn giữ mới được”. Vì thế Nguyễn Văn Thành được giao chức Tổng trấn Bắc Thành cai trị mười một trấn, có quyền bãi chức và bổ nhiệm quan lại, xử quyết kiện tụng trước rồi tâu sau. Khi rời Thăng Long, Nguyễn Ánh còn bảo Nguyễn Văn Thành rằng: “Công việc Bắc Thành, ủy hết cho khanh, khanh nên cố gắng”. (Đại Nam thực lục)

Năm 1810, Nguyễn Văn Thành được triệu về kinh, lãnh ấn Trung Quân, rồi được giao cử chức Tổng tài cùng với Vũ Trinh và Trần Hựu soạn bộ Hoàng Việt Luật lệ (thường được gọi là luật Gia Long).

Năm 1812, Nguyễn Văn Thành được sung chức Tổng tài trong việc biên soạn bộ Quốc triều thực lục. Như vậy trong cùng một khoảng thời gian, ông kiêm nhiệm hai chức Tổng tài.

Đại Nam thực lụcQuốc triều chính biên toát yếu chép sự việc bắt đầu năm 1815 như sau.

Vua Gia Long tuổi đã cao mà chưa định người nối ngôi. Hoàng tử thứ tư hiền và lớn hơn cả, Vua đã để ý; bầy tôi đều có lòng theo. Riêng chỉ có Nguyễn Văn Thành là người ngạo mạn kiêu căng. Một hôm mời các quan trong triều uống rượu ở nhà, Thành nói lên rằng: “Hoàng tôn Đán nối ngôi, tôi sắp tâu xin lập đấy”. Trong đám ngồi không ai dám nói gì. Trịnh Hoài Đức sợ vạ lây, bèn nói rằng: “Việc lớn của quốc gia, quyết định là ở vua, nếu bầy tôi định kế riêng, tham lấy công to thì tội lại lớn”. Văn Thành bèn thôi.

Sau có người nói đến tai Gia Long. Vua giận nói rằng: “Hắn muốn dựng vua nhỏ để dễ khống chế, ngày sau có thể chẹt họng vỗ lưng chăng? Ta há tối tăm nhầm lẫn, không biết đắn đo nên chăng, vội nghe lời hắn mà không vì xã tắc chọn người sao!” Từ đó hễ Văn Thành vào yết kiến là chỉ xin lập thái tử. Vua nín lặng. Văn Thành tự biết không được thỏa ý, càng thêm ngờ sợ.

Con trưởng của Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên cũng chính là phò mã của Vua Gia Long, thi đỗ hương cống (đến đời Minh Mạng được gọi là cử nhân). Vốn là người hâm mộ văn chương, Văn Thuyên thường làm thơ, ngâm vịnh với những kẻ sĩ. Nhưng Đại Nam thực lục viết là “Văn Thuyên nhòm biết ý cha, thầm mang lòng phản trắc, bèn giao thông khách khứa, kết riêng bè đảng; Văn Thành cũng không ngăn cấm,” hẳn là để bào chữa cho những gì xảy ra về sau.

Bấy giờ nghe nói có hai người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng là hay chữ, ông Thuyên làm một bài thơ tặng.

Thơ rằng: (dịch Nôm, Quốc triều chính biên toát yếu):

Đồn rằng Châu Ái lắm anh tài
Trống chiếu lòng riêng những đợi hoài
Ngọc phát non Kinh nào giấu mãi
Ngựa kỳ nội ký mấy người hay
Lan sang hang thẳng hương ngàn dặm
Phụng đậu gò cao tiếng khắp nơi
Trong núi có ai là tể tướng
Ra tay giúp đỡ chuyển cơ trời.

Môn khách của Văn Thuyên là Nguyễn Trương Hiệu giữ bài thơ làm bằng cớ, thường đến Văn Thuyên đòi hối lộ. Văn Thuyên cho mãi không vừa. Hiệu bèn lẻn đợi lúc Văn Thành lui chầu, đứng ở bên đường nắm lấy vạt áo mà hỏi mãi. Văn Thành bất đắc dĩ bắt Trương Hiệu và Văn Thuyên giao cho Quảng Đức tra hỏi, rồi tự rảo vào chầu, đem việc tâu lên.

Đại Nam thực lục tiếp tục đưa ra những tình tiết kể xấu Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Thuyên trong khi Gia Long không can dự vào việc luận tội hoặc xét xử ông này, ví dụ như những tình tiết sau.

Lê Văn Duyệt với Văn Thành vốn không ưa nhau, nên Duyệt thiên về ý kể tội Thành.

[Đại Nam liệt truyện chép: Ngay từ thời cùng chỉ huy đánh quân Tây Sơn, hai người đã không ưa nhau. Trong một trận đánh, Thành cùng Duyệt đều cắm cờ tướng ở trên bành voi chỉ huy chư tướng. Thành tính thích uống rượu, lúc sắp lâm trận cầm be rượu rót ra uống. Nhân rót đưa cho Duyệt, Duyệt không uống, Thành nói rằng này trời rét uống rượu thêm khí lực, Duyệt cười nói rằng: “Người nào khí nhát mới phải mượn rượu, ta trước mắt không coi ai là cường trận, cần gì phải dùng rượu!” Thành thẹn, bởi thế giận Duyệt.]

Ký lục Quảng Trị là Nguyễn Duy Hòa vào chầu, dâng sớ hạch Nguyễn Văn Thành đồng thời bới móc chuyện cũ:

Văn Thuyên âm mưu làm phản, Thành không nhận tội mà còn áo triều, mũ triều nghênh ngang đứng ở trên các đình thần, như thế thì còn thể thống triều đình chi nữa!

Huống chi Văn Thành soạn điều luật, tự tiện bỏ mất điều kết giao cận thị (kết giao cận thi: “cấm các quan chơi với kẻ hầu gần”), cử Trần Hựu là người bậy mà giấu tội cưỡng dâm với vợ người, kết bè đảng, dối người trên làm việc riêng, xây dựng mồ mả cho mẹ vượt phép phạm phận… Nhà Vua dù thương người có công vẫn nên giao cho công luận, lấy phép mà trị, rồi sau lấy ơn mà chu toàn cho, thế thì phép nước được tỏ bày mà kẻ gian thì biết sợ hãi.

Vua Gia Long sai đình thần xét án. Trương Hiệu nói về tình trạng mưu phản của Văn Thuyên và đem môn khách của Văn Thuyên là Đỗ Văn Chương làm chứng. Đỗ Văn Chương làm chứng cho lời nói của Hiệu là đúng.

Gia Long nhân nói đến bài thơ nghịch của Văn Thuyên và dụ bầy tôi rằng: “Ý thơ của Văn Thuyên sao mà tiếm bội thế! Phàm có Lương Vũ Đế làm vua rồi sau mới có tể tướng trong núi chứ! Văn Thuyên là người thế nào mà muốn được tể tướng trong núi?”

Khi Nguyễn Trương Hiệu tố cáo Văn Thuyên mưu phản, Văn Thuyên cho rằng thơ ấy không phải tự tay viết, cố cãi là mình bị vu cáo. Kịp Phạm Đăng Hưng tâu lên. Vua nói: “Văn Thuyên đã phục chưa?” Thưa rằng chưa. Vua nói: “Nó có lòng làm phản, sao già miệng thế?” Đăng Hưng tâu rằng: “Văn Thuyên tự cho mình là con công thần, bệ hạ không nỡ giết và bọn thần ngửa theo lòng thánh, không dám hết phép tra trị, nên mới già miệng là do cậy mình vậy”.

Gia Long sai Lê Văn Duyệt tra hỏi. Văn Thuyên quả phục.

Trần Trọng Kim (1971) chép: Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: “Thần theo Bệ hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé, Bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà không cứu?” Vua Gia Long giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm ông Thành vào chầu, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội.

Do đó, Văn Thành sợ hãi xin chịu tội. Đăng Hưng tâu thêm: “Văn Thành dâng biểu, lời nói úp mở, muốn lấy khôn vặt đánh lừa triều đình, việc xin chịu tội không phải thực lòng.”

Bầy tôi xin hạ ngục Văn Thành.

Vua sai thu ấn của Văn Thành (một hình thức cách chức) và khiến ông về ở nhà riêng.

Vua bảo bầy tôi rằng: “Văn Thành thân làm đại thần mà dung túng cho con kết nạp môn khách, là hiếu danh ư? Hay ý muốn làm gì? Có người tôi như thế xử trí thực khó. Nếu không bảo toàn được công thần thì cũng không phải là việc hay của trẫm, thế mới khó chứ!”

Vua sai đình thần bàn lại án phản nghịch của Nguyễn Văn Thuyên. Trước Vua từng sai bộ Hình lấy những lời ở trong án trích tâu, đọc đến việc Nguyễn Văn Thành xây mả mẹ, Vua nói: “Văn Thành cầu lấy đất tốt, sợ giàu sang không được thêm nữa à? Trước Văn Thành từng nói phía tây bắc có cầu vồng bảy mặt trời chọi nhau. Thành không phải là chức tư thiên, sao phát ngôn dễ dàng thế? Như thế thì con bất đạo là vì bình nhật không biết ngăn ngừa cho nên đến thế”.

Đến nay án dâng lên. Đình thần đều nói: “Văn Thuyên mưu làm phản, tội trạng rõ ràng; Văn Thành thì dám che giấu cho con, lấy yêu ngôn tâu bậy, sửa mộ quá phép, tiến cử người xằng, nhiều điều bất pháp như thế, xin xử tội chết”.

Chỉ mình Tham tri Lại bộ là Trần Văn Tuân cho rằng: “Văn Thành không dạy được con thì tội nhẹ; Nguyễn Duy Hòa tham hặc đại thần thì tội nặng.”

Vua giận, nói: “Vậy là muốn khóa miệng người ta à? Há không có bè đảng sao?”. Bèn hạ lệnh bàn lại.

Lại có Lê Duy Hoán tố cáo Văn Thuyên có âm mưu với hắn gửi thư bảo làm phản. Đình thần xét âm mưu làm càn ngay từ ngày Văn Thành còn làm Tổng trấn Bắc Thành, và kết luận: “Xét lại lời cung của Duy Hoán thì tình trạng làm phản của cha con Văn Thành đã rõ. Xin trị tội”.

Gia Long sai bắt Văn Thành. Đình thần họp để xét hỏi, Văn Thành vẫn nói không làm phản và không biết đến âm mưu này.

Văn Thành trả lời rồi đi ra, sắc mặt bừng bừng, trở về nhà quan, nói với Thống chế Thị trung là Hoàng Công Lý rằng: “Án đã xong rồi, vua bắt bề tôi chết, bầy tôi không chết không phải là trung”.

Rồi Thành đi nằm hồi lâu, uống thuốc độc chết.

Việc tâu lên, Vua triệu Hoàng Công Lý hỏi rằng: “Văn Thành khi chết có nói gì không?” Công Lý đem hết lời Thành nói thưa lên. Vua giận nói rằng: “Văn Thành không biện bạch mà chết, sự nhơ bẩn càng rõ rệt”. Bỗng có quân lại nhặt được tờ di chiếu trần tình của Văn Thành ở nhà quân đem dâng. Vua cầm tờ biểu khóc to lên đưa cho bầy tôi xem mà dụ rằng: “Văn Thành từ lúc trẻ theo trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm không bảo hộ được ấy là trẫm kém đức”.

Nguyễn Văn Thành chết rồi, đình thần đem án phản nghịch dâng lên. Duy Hoán và Văn Thuyên đều bị xử lăng trì; một vài người khác bị xử trảm hoặc xử trượng và cách chức. Còn Nguyễn Trương Hiệu do có công cáo giác, được thưởng 500 quan tiền.

Gia Long ra chiếu rằng: “Duy Hoán lúc còn trẻ dại, lưu lạc nơi mường mán, trẫm hỏi biết là dòng dõi họ Lê, đặc sai triệu về phong tước cho là thượng công, hậu cho lương lộc để phụng thờ họ Lê, cùng nước cùng vui. Phàm con cháu họ Lê đều cấp gạo lương nuôi đủ. Việc đãi ngộ con cháu họ Lê người có tai mắt đều nghe thấy cả. Thế mà Duy Hoán lại chứa lòng gây họa cùng với đứa con phản nghịch của Nguyễn Văn Thành là Văn Thuyên giao thông mưu phản. So với tình thì đem oán báo đức, xét về luật thì là bầy tôi phản vua, tội vô đạo này không thể tha được. Vì cớ là con cháu triều đại trước nên trẫm để chậm lại hàng tháng không nỡ xử tội, nhưng đình thần xin thi hành pháp luật để đúng phép nước. Nên đã đem Duy Hoán hành hình. Còn các chi họ Lê đều được khoan hồng tha cho. Trẫm nghĩ Duy Hoán âm mưu phản nghịch tự mình nên tội, nhưng miếu đình họ Lê há nên bỏ trống, nên lại sai chọn người có thể phụng thờ họ Lê cho giữ việc phụng thờ, để rõ cái hậu ý của trẫm nối giữ dòng dõi đã tuyệt…”

Đến triều đại Minh Mạng và Thiệu Trị, Nguyễn Văn Thành được tha tội.

Năm 1868, Vua Tự Đức cho rằng “vì người con có tội mà để lụy cho cha”, và xét “công lao nặng như đá, không lẽ vì một chút đứa con mà phải bị mất hết”, cho nên phục chức Vọng các Công thần, tước Quận công cho Nguyễn Văn Thành, và cho thờ trong Miếu Trung hưng Công thần.

* Kết luận: chính ba đời vua sau Gia Long là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức cho rằng Nguyễn Văn Thành không có tội, tuy vẫn giữ nguyên sự kết án đối với người con trưởng Nguyễn Văn Thuyên. Nhưng thử xét một người chỉ đỗ Hương cống (từ đời Minh Mạng gọi là Cử nhân), không nắm binh quyền, chính sử không chép chức tước gì rõ ràng, thế thì làm sao âm mưu làm phản được? Họa chăng Văn Thuyên có hai khinh suất.

  • Thứ nhất là dùng câu từ làm thơ dễ khiến bị soi mói, diễn dịch theo chiều hướng xấu, rồi bị khai thác mà kết tội. Nhưng đã đỗ Hương cống mà lại làm thơ như thế thì quá tắc trách!
  • Thứ hai là thu nhận môn khách. Ngày xưa, môn khách thường được nuôi ăn ở trong phủ để khi cần thì được giao công việc; chí ít là được mời đến dự vài bữa tiệc rượu đàm luận văn chương, thời thế. Môn khách Nguyễn Trương Hiệu trở mặt xoay qua tống tiền Văn Thuyên, lại kêu một môn khách khác xác định tố cáo Văn Thuyên! Vậy thì chính Văn Thuyên là người có vấn đề khi kết giao với những môn khách bất hảo như thế, trái với trường hợp của Tín Lăng Quân và Mạnh Thường Quân trong lịch sử Trung Quốc.

Còn Nguyễn Văn Thành chỉ có khuyết điểm đáng kể là không được triều thần mến, thậm chí họ có ác cảm đến mức phê phán ông như “ngạo mạn kiêu căng” hoặc “nghênh ngang đứng ở trên các đình thần”, lại bị xét xử bởi Lê Văn Duyệt mà chính sử ghi hai người này không ưa nhau. Có thể ông có vài lỗi lầm nhỏ nhưng khi đã có ác cảm rồi thì người ta dễ kiếm chuyện bươi móc, chuyện bé xé ra to. Từ đó, những lời tâu lên Gia Long chỉ theo chiều hướng xấu.

Riêng Vua Gia Long lại quá khôn khéo, không tỏ ý phê phán Nguyễn Văn Thành một cách nặng nề nhưng đủ tỏ rõ ý không hài lòng để triều thần hiểu ý mà theo đó định tội cả hai cha con. Quốc sử quán chép việc Gia Long “cầm tờ biểu khóc” không đủ minh chứng cho trí sáng suốt hoặc lòng trọng dụng công thần ngay từ đầu.

Có lẽ trong trường hợp bình thường, người con được môn khách ủng hộ thì cùng lắm chỉ bị đánh vài chục roi vì ngôn từ ngông cuồng, còn người cha nếu có tính khiêm nhường, dễ gây cảm tình với đình thần thì cùng lắm chỉ bị phạt trừ một ít bổng lộc, rồi thì chính sử chỉ ghi vài hàng ngắn gọn và vụ việc trôi vào quên lãng trong dòng lịch sử.

Toàn bộ câu chuyện có thể quy về bốn chữ: điểu tận cung tàng.

Xem thêm các mục: điểu tận cung tàng, Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân.

Nguyệt Lão: từ Nguyệt hạ lão nhân (Ông già dưới trăng), còn được gọi là Nguyệt Lão công, theo truyền thuyết, là vị thần chuyên về làm mai mối hôn nhân của con người.

Theo Tục u quái lục của Lý Phục Ngôn đời nhà Đường (618-907), Có chàng nho sĩ tên Vi Cố, học giỏi, thi phú tài danh. Cha mẹ mất sớm, nên Vi Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm Huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.

Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, dáng tiên phong đạo cốt, ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa bên một chiếc túi vải, mắt nhìn vào quyển sổ to, tay se sợi dây màu đỏ. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn dây đỏ (xích thằng) và giải thích rằng, khi ông đã buộc dây đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, rốt cuộc sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi.

Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không. Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng: Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản quá bèn hỏi tới rằng: “Vậy bây giờ vợ tôi đang ở đâu?” Ông lão đáp là: “Vợ của cậu đang ở tại đây, phía bắc Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng sẽ gặp mặt thôi!”

Khi trời đã sáng hẳn mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo: “Đây là vợ cậu đó!”

Nguyet lao

Vi Cố nghe xong, cả giận nói: “Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé này!” Ông lão cười bảo: “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu không giết được cô ấy đâu!” Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.

Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vi Cố hỏi kết quả thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết!

Sau vụ om sòm ngoài chợ,Vi Cố hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại: làm Tham quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.

Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đỗi!

Đêm động phòng, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc.

Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng cười mà đáp: “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi!” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nhận làm con nuôi.

Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi thêm: “Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không?” Vương thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại: “Sao chàng lại biết?” Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại cho nàng nghe chuyện Nguyệt Lão là ông già dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng. Vương thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.

Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đỡ, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng quân, mẹ là Vương Thị được phong tước Thái Nguyên Quận Thái Phu nhân.

Câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống Thành được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm, là nơi định đoạt hôn nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông già dưới trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu.

Ngày nay, nhiều nơi ở Trung Quốc có miếu thờ Nguyệt Lão, nếu không thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác trong miếu. Nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :

Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc
Thị tiền sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên

(Nguyện thiên hạ có người yêu, thành quyến thuộc của nhau
Nếu chủ định từ kiếp trước, đừng bỏ qua nhân duyên)

Do điển tích trên mà “chỉ hồng”, “Nguyệt Lão” có ý nói đến chỉ nhân duyên vợ chồng. Trong lễ cưới, có lễ Tơ Hồng, tức lễ ông cụ già vô danh ngồi dưới trăng đó.

Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là: Nguyệt Lão bên Tàu lẻ loi cho dù chuyên xe tơ cho người đời. Nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới thêm Bà Nguyệt, thành cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”. Thành ngữ về đôi này chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam.

Cung oán ngâm khúc:

Tay Nguyệt Lão khờ sao có một
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng.

và:

Tay Nguyệt Lão chẳng se thì chớ
Se thế này có dở dang không?

Tây sương ký:

Nhân duyên sao khéo hẹn hò
Rắp đem chỉ thắm se cho Trịnh Hằng.

Ca dao:

Một là duyên, hai thời là nợ
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.

Đoạn trường tân thanh, Kiều nói với Kim Trọng trong lần đầu hội ngộ:

Nàng rằng hồng diệp xích thằng
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

Mã Giám Sinh thề với Vương Viên ngoại khi sắp dẫn Kiều lên đường:

Cạn lời khách mới thưa rằng:
“Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao
Sau dù sinh sự thế nào
Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao quỷ thần!”

Khi Kiều bị bán cho thổ quan:

Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?

Bài dân ca Bắc Bộ Bà rằng bà rí:

Bà rằng bà rí
Ới rằng bà đi, ới đi là đâu
Bà đi khắp chốn nối dây tơ hồng
Cái duyên ông chồng làm khổ cái đời tôi

Video âm thanh, Ái Vân:
https://www.youtube.com/watch?v=UYEM_CSCO-0

Ngũ Bá: Năm vị vua làm bá chủ trong thời Tây Chu. Theo Wikipedia_Ngũ Bá và Nguyễn Hiến Lê (1983), ban đầu, chính quyền Vua Chu đủ mạnh để thống trị các nước chư hầu. Đến khi Chu U Vương chết và kinh đô nhà Chu bị đánh phá vào năm 771 tCN thì sức mạnh của Vua Chu bị suy giảm. Vì thế mà vào mỗi thời có một quân chủ chư hầu hùng mạnh nhất xưng bá, làm chủ các nước chư hầu dựa trên danh nghĩa đại diện cho nhà Chu.

Định nghĩa Ngũ Bá gồm năm vị vua nào thay đổi tùy tác giả. Theo Sử ký, Ngũ Bá gồm có năm người sau, với thời gian trị vì:

  • Tề Hoàn Công (685–643 tCN)
  • Tống Tương Công (650–637 tCN)
  • Tần Mục Công (659–621 tCN)
  • Tấn Văn Công (636–628 tCN)
  • Sở Trang Vương (614–591 tCN)

Còn có những danh sách Ngũ Bá khác. Tề Hoàn Công cùng Tấn Văn Công là hai nhân vật luôn có mặt trong các danh sách Ngũ Bá vì chỉ có hai vị quân chủ này mới chính thức được thiên tử nhà Chu công nhận và tổ chức nghi lễ thụ phong hoành tráng.

Mỗi người trong Ngũ Bá đều phô trương uy lực, giả dối nhân nghĩa, kéo bè nước này đánh nước kia, người dân phải chịu lầm than điêu đứng.

Các chư hầu làm bá còn dùng khẩu hiệu “tôn Chu, nhương Di”, mà sự thực chỉ là một cớ để khuếch trương thế lực, thôn tính các nước nhỏ, mở mang đất đai, càng ngày càng gây thêm sự mất quân bình giữa lực lượng các nước lớn, nhỏ.

Trước khi Ngũ Bá nổi lên, đã có sự lấn át thiên tử của Trịnh Trang Công (743–701 tCN). Tuy nhiên Trịnh Trang Công chỉ đóng vai trò khanh sĩ nhà Chu và ra mặt chống đối thiên tử, chưa thực hiện vai trò “anh cả” các chư hầu.

Tác phẩm Đông Chu liệt quốc miêu tả Ngũ Bá khá sát với sử sách, được rút gọn trong các mục có tên liên quan.

Ngũ Đế: năm vị đế: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn.

Trong truyện Hán Sở tranh hùng, Hạng Vũ nói với Trương Lương: “Nay ta muốn làm vua Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải. Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn, vậy ngươi thử nói ta nghe.”

Trương Lương nghĩ thầm: “Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời Vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý.”

Nghĩ rồi ôn tồn đáp: “Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kể qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế, đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn.

“ Thiếu Hiệu tên là Chiết, tự là Thanh Dương đóng đô ở Khúc Phụ, làm vua được 100 năm.

“ Xuyên Húc, cháu Vua Hoàng Ðế, họ Cơ giúp Vua Thiếu Hiệu trị thiên hạ, hai mươi tuổi mới lên ngôi, làm vua được 78 năm.

“ Ðế Cốc, cũng họ Cơ, lên ngôi ở đất Bạc, làm vua 70 năm.

“ Ðế Nghiêu họ Y Kỳ, mẹ là Khánh Ðô, hoài thai 14 tháng, sinh ra ông Nghiêu ở đất Ðan Lăng, hiệu là Phong Huân, 14 tuổi giúp Vua Ðế Chi, phong làm vua ở đất Ðường, 20 tuổi mới lên ngôi hoàng đế làm vua được 50 năm.

“ Ðế Thuấn, dòng dõi Vua Xuyên Húc, bà mẹ cảm cái hình cầu vồng mà sinh ra nơi đất Diêu, nên lấy họ Diêu, tự là Ðô Quân giúp Vua Nghiêu trị thiên hạ. Sau nối ngôi xưng Ðế vị, thọ 100 tuổi. Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?

Hạng Vũ tự nghĩ: “Ngũ Đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp.”

ngũ hành: chỉ 5 tác nhân hay 5 thế lực tác động có ảnh hưởng lẫn nhau.

Theo Ðổng Trọng Thư, thứ tự ngũ hành là: 1. Mộc, 2. Hỏa, 3. Thổ, 4. Kim, 5. Thủy. Một trong 5 hành đến lượt nó lại sinh ra hành sau. Mỗi hành đến lượt lại bị thắng (khắc) bởi hành thứ 2 đến sau. Cho nên: Mộc sinh Hỏa, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Ðó là quá trình Tương sinh, nhưng mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc. Ðó là quá trình Tương khắc. âm dương gia chủ trương ngũ hàng tương sinh, tương khắc theo một thứ tự cố định. Phái ấy chủ trương rằng sự liên tục của 4 mùa là hợp với quá trình tương sinh của ngũ hành cho nên: Mộc thịnh mùa xuân, sinh Hỏa, thịnh mùa hè, Hỏa lại sinh Thổ, thịnh ở trung ương. Thổ lại sinh Kim, thịnh mùa thu. Kim sinh Thủy, thịnh mùa Ðông. Thủy lại sinh Mộc, thịnh mùa xuân.

ngũ hồ: chỉ 5 hồ Ðộng Ðình và các hồ lân cận, ở đây có nhiều cảnh đẹp.

Theo sách Tiều học kiểm châu thì Ngũ Hồ gồm: Thái hồ ở Hồ Châu, Xạ Dương hồ ở Sở Châu, Thanh Thảo hồ ở Nhạc Châu, Ðan Dương hồ ở Nhuận Châu và Cung Ðình hồ ở Hồng Châu.

Tự tình khúc:

Buồn mây khói tỏa năm hồ.

Ngũ Kinh: (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì việc đốt sách của Tần Thủy Hoàng (246-209 tCN), một kinh là Kinh Nhạc (âm nhạc) bị mất đi. Kinh này chỉ còn lại một thiên, sau đem vào sách Lễ ký (Kinh Lễ), đặt là thiên Nhạc ký.

Ngũ Kinh gồm có năm sách như sau:

1/ Kinh Thi (thơ), do Khổng Tử sưu tập và lựa chọn. Kinh này vốn là những bài ca dao ở nông thôn và nhạc chương nơi triều miếu của nước Tàu về thời thượng cổ. Đến đời Tần Thủy Hoàng, Kinh Thi cũng như các kinh khác bị đốt, nhưng nhiều nhà nho còn nhớ. Đến thế kỷ 2 tCN, về đời nhà Hán có bản Kinh Thi xuất hiện, đại thể giống nhau, duy chữ viết có khác.

Kinh Thi có bốn phần:

— Quốc phong: ca dao của các nước chư hầu được nhạc quan của triều đình sưu tập. Phong nghĩa đen là gió, ý nói các bài ca dao gợi cảm xúc cho con người như gió làm rung động các vật.

— Tiểu nhã: bài hát dùng ở triều đình, trong sự kiện thông thường như yến tiệc.

— Đại nhã: bài hát dùng trong sự kiện quan trọng như thiên tử họp vua chư hầu, tế ở miếu đường.

— Tụng: nghĩa là khen, gồm bài ngợi khen vua đời trước và dùng để hát ở miếu đường.

Đọc Kinh Thi, ta biết được tính tình, phong tục của người dân và chính trị các đời vua cùng các nước chư hầu ở nước Tàu về đời thượng cổ. Đọc Mân phong, ta biết được đức tính cần kiệm của dân đất Mân. Đọc Vệ phong, ta biết được thói dâm bôn của dân nước Vệ. Đọc Tần phong, ta biết được sự hối quá của dân nước Tần. Đọc Đại nhã, Tiểu nhã, ta biết được chính trị của nhà Chu thịnh suy thế nào.

Kinh Thi là một nguồn thi hứng và còn là một kho điển tích. Cũng như ca dao của Việt Nam, Kinh Thi là nền tảng thơ tối cổ của Trung Hoa, tong đó có nhiều bài mô tả tính tình, phong tục dân Tàu một cách chất phác, hồn nhiên.

2/ Kinh Thư (nghĩa đen là ghi chép), do Khổng Tử sưu tập. Kinh này chép những điển (phép tắc), mô (mưu mẹo, kế sách), huấn (lời dạy dỗ), cáo (lời truyền bảo), thệ (lời răn bảo tướng sĩ), mệnh (mạng lệnh) của các vua tôi bên Trung Hoa từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu (2357–771 tCN)

3/ Kinh Dịch (nghĩa đen là thay đổi): sách tượng số dùng cho việc bói toán và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hóa của trời đất và hành động của muôn vật. Nguyên Vua Phục Hi (4480–4365 tCN) đặt ra bát quái (tám quẻ, tức là 8 hình vẽ); tám quẻ ấy lại đặt lần lượt chồng lên nhau thành ra 64 trùng quái (quẻ kép). Mỗi trùng quái có 6 nét vạch (hoặc vạch liền biểu thị lẽ “dương”, hoặc vạch đứt biểu thị lẽ “âm”) gọi là hào, thành ra 384 hào. Khổng Tử nhân đó mà giải nghĩa các quái, các trùng quái và các hào.

4/ Lễ Ký (chép về lễ)”sách chép các nghi lễ trong gia đình, hương đảng và triều đình. Hiện Kinh Lễ (Lễ Ký) còn truyền lại đến giờ phần nhiều là văn của Hán nho, còn chính văn do Khổng Tử san định về đời Xuân Thu không còn mấy.

5/ Xuân Thu (mùa xuân và mùa thu) nguyên là bộ sử của nước Lỗ, do Khổng Tử san định lại, chép công việc theo lối biên niên từ năm đầu đời Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai Công (722–481 tCN). Kinh Xuân Thu cũng gọi là Kinh Lân, vì đức Khổng Tử chép lúc nước Lỗ săn được con lân què thì ngài dừng bút. (Loan rằng: “Sữ Mã kinh Lân” – cụ Nguyễn Đình Chiểu).

Ngũ Lăng: Một vùng đất phía Tây kinh thành Tràng An, có lăng mộ năm vua Hán, về sau vùng này tập trung nhiều lăng của quan lại và quý tộc cấp cao. Ngũ lăng niên thiếu chỉ bọn con nhà quyền quý, giàu sang.

Ngũ Long Công chúa: tức Thanh Long, Hắc Long, Bạch Long, Xích Long và Hoàng Long: năm công chúa con của Long Vương.

Theo Thuyết Ðường: năm công chúa này tu tiên ở núi Ngũ Long, có nhiều phép lạ, từng bày trận ngũ hành giúp nước Tây Phiên đánh quân nhà Ðường.

Ngũ Nguyên: vùng đất thuộc Nội Mông ngày nay, tức là vùng biên tái thời Đường. Vua Tuyên Vũ Đế của Bắc Ngụy cho xây thêm một đoạn thuộc Vạn lý Trường thành 1000 km từ phía tây sang đông, tức là từ Ngũ Nguyên đến Xích Thành (thuộc Hà Bắc ngày nay).

Ngũ Quế: chỉ người con hay nối được chí cha ông mà làm nên. Xem Ðơn Quế.

ngũ quý: chỉ thời Ngũ đại, gồm: Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. Ðây là thời đại loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc, nhân dân bị khốn cùng trăm bề.

ngũ sắc chi bút: bút năm màu, gồm: đen, trắng, vàng, xanh, đỏ.

Do tích Giang Yêm nằm mộng thấy có người cho cây bút năm màu. Từ đó, văn chương thường dùng tích này.

ngũ luân: Hay ngũ luân của Nho giáo. Theo Mạnh Tử,

Con người ta đã là người nhưng nếu chỉ có ăn no, mặc ấm, ở yên thân mà không có giáo dục thì cũng gần giống như loài cầm thú. Thánh nhân lấy làm lo về điều đó mới khiến người Tiết làm quan Tư Ðồ lo việc lấy nhân luân (Ðạo đức trong quan hệ giữa người với người) mà dạy dân. Nghĩa là

1/ giữa cha con phải có tình thân cốt nhục,
2/ giữa vua tôi phải có lễ nghĩa,
3/ giữa chồng vợ phải có tình thương nhưng vẫn giữ sự phân cách giữa nam và nữ,
4/ giữa người già với người trẻ phải có thứ bậc, tôn ti,
5/giữa bạn bè phải có đức thành tín.

Xem thêm mục: tam cương ngũ thường.

Ngũ Tử Tư: Theo Sử ký, Ngũ Tử Tư (? – 484 tCN), người nước Sở thời Xuân Thu, tên là Viên, cha là Ngũ Xa, anh là Ngũ Thương, trước làm đại phu nước Sở, sau làm tướng quốc nước Ngô.

Sở Bình Vương nghe lời xiểm nịnh của Phí Vô Kỵ, cho người bắt bỏ tù Ngũ Xa.

Vô Kỵ dèm pha thêm với Bình Vương: “Ngũ Xa có hai con đều tài giỏi, nếu không giết thì sẽ là mối lo cho nước Sở. Nay dùng Ngũ Xa làm con tin, dụ họ đến mà giết đi.” Bình Vương cho sứ giả gọi Ngũ Thương đến, rồi giết cả Xa lẫn Thương.

Ngũ Viên bỏ trốn sang Tống, rồi đến Trịnh và Ngô, ngày đêm lo việc báo thù cho cha và anh. Ðến cửa ải Chiêu Quan, người giữ cửa đuổi theo muốn bắt, ông đi bộ bỏ chạy. Ðến Sông Giang, may trên sông có người đánh cá, biết Tử Tư nguy cấp và đói lắm nên mới đi kiếm cơm cho ăn. Tử Tư nấp trong bụi lau, người đánh cá mang cơm đến gọi: Lô trung nhân! (Hỡi người trong bụi lau), Tử Tư ra nhận cơm ăn. Ăn xong, người đánh cá chèo thuyền cho Tử Tư sang sông.

Tử Tư đến Ngô, giúp Công tử Quang lên ngôi vua, đó là Vua Hạp Lư nước Ngô. Chín năm sau, Hạp Lư cùng Tử Tư đem quân đánh Sở. Quân Sở thua to, quân Ngô kéo vào kinh đô. Sở Bình Vương đã mất, con là Sở Chiêu Vương bỏ trốn. Tử Tư cho đào mã Sở Bình Vương, đem thây ra đánh 300 roi để báo thù cho cha và anh.

Trong một trận đánh với quân Việt, Hạp Lư bị thương rồi chết. Thái tử Phù Sai được lập làm vua (494 TrCN), cho Bá Phỉ làm thái tể. Sau đó quân Ngô đánh bại quân Việt. Vua Việt Câu Tiễn sai quan đại phu là Chủng đem lễ vật hậu đến đưa cho quan thái tể của Ngô là Bá Phỉ để xin giảng hòa, nộp nước xưng là thần.

Tử Tư can nhưng Vua Ngô không nghe, thuận theo ý của Bá Phỉ mà giảng hòa với Việt.

Năm 489 tCN, Vua Ngô nghe tin Tề Cảnh Công chết, vị vua mới nhu nhược, bèn cất quân đi đánh Tề. Ông đã không nghe Tử Tư khuyên không nên đánh Tề mà nên chú ý về Câu Tiễn đang nuôi dưỡng sức lực để trả thù nước Ngô.

Năm 486 tCN và 485 tCN, Phù Sai lại 2 lần mang quân đánh Tề. Việt Câu Tiễn thấy vậy mang dân chúng tới tỏ ý thần phục và dâng lễ vật. Phù Sai vui mừng vì uy thế với chư hầu của mình, không nghe theo lời cảnh báo của Ngũ Viên. Câu Tiễn còn đem món quý giá hối lộ cho Bá Phỉ. Ông này đã mấy lần nhận lễ vật của Việt, càng nói tốt cho Việt. Vua Ngô càng tin theo Bá Phỉ.

Phù Sai giận Tử Tư can gián mãi, bèn sai ông này đi sứ sang Tề.

Tử Tư đoán biết nước Ngô sẽ bị diệt bèn gửi con ở lại cho đại phu họ Bão nước Tề, rồi trở về báo với Vua Ngô.

Bá Phỉ vốn có hiềm khích sẵn với Tử Tư, nhân đấy nói dèm: “Khi nhà Vua muốn đánh Tề, Tử Tư can. Nhà Vua cuối cùng đánh thắng Tề. Tử Tư xấu hổ nên quay ra oán trách. Nay nhà Vua đánh Tề lần nữa, Tử Tư lại can, nhà Vua không nghe, Tử Tư bèn cáo bệnh không đi theo. Nhà Vua không thể không phòng bị, cái việc gây họa không khó đâu. Vả lại, khi đi sứ sang Tề, ông ta giao con cho họ Bão ở Tề. Phàm con người làm bầy tôi người ta mà bên trong không vừa lòng, bên ngoài dựa vào chư hầu, tự cho mình là mưu thần của tiên vương, nay không được dùng, thường uất ức oán trách, vậy xin nhà Vua phải lo liệu sớm đi.”

Vua Ngô nói: “Nếu không có lời nói của nhà ngươi thì ta cũng đã nghi hắn.”

Bèn sai sứ giả trao cho Ngũ Tử Tư thanh kiếm Chúc Lâu, nói: “Nhà ngươi hãy chết bằng cái này!”

Ngũ Tử Tư ngẩng mặt lên trời than: “Than ôi! Tên sàm thần Phỉ làm loạn rồi! Nhà Vua quay lại giết ta. Ta giúp cha nhà ngươi thành ‘bá’. Từ khi ngươi chưa được lập làm vua, các công tử tranh giành nhau, nếu ta không liều chết can ngăn tiên vương thì ngươi cơ hồ không được lập. Khi được lập làm vua, ngươi muốn chia nước Ngô cho ta, nhưng ta không dám mong như vậy. Thế mà nay ngươi nghe lời bọn tôi siểm nịnh, giết bậc trưởng giả!”

Bèn nói với người xá nhân: “Hãy móc mắt ta treo trên cửa phía đông của nước Ngô để cho nó thấy giặc Việt vào tiêu diệt nước Ngô.”

Rồi Ngũ Tử Tư tự đâm cổ chết.

Trong tiểu thuyết Lộc đỉnh ký của Kim Dung, có mẩu chuyện liên quan đến điển tích Ngũ Tử Tư như sau:

Thi Lang (1621–1696) từng là tướng lĩnh cho triều Minh, khi nhà Vua Minh Sùng Trinh tự tử thì ông phò tá Trịnh Thành Công ở Đài Loan vẫn trung thành với nhà Minh. Sau ông đầu quân cho Thanh triều rồi ra đánh chính quyền nhà Trịnh, thu hồi lại Đài Loan, chính thức sáp nhập đảo này vào lãnh thổ của Đế quốc Đại Thanh.

Sau đó, hai phó tướng của Thi Lang kể cho Vi Tiểu Bảo nghe về vụ việc trên. Nhờ đó Vi Tiểu Bảo lập kế nhằm bức bách Thi Lang phải đưa mình về Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo cho mời Thi Lang, rồi nói: “Bài văn tế đó của Thi tướng quân nhất định hay lắm rồi. Tướng quân thử đọc lại cho bản tước nghe được chăng?”

Thi Lang là một võ tướng, chỉ biết giàn quân đánh trận, làm gì viết nổi văn tế! Bài văn tế kia do một tên sư gia làm tân khách đã làm thay hắn. Tôn sư gia là một tay tài học, bài văn tế của y văn chương lưu loát, từ ý thiết tha. Thi Lang đã được nghe nhiều người tán dương, trong lòng rất lấy làm đắc ý, nên nhiều câu hắn thuộc lòng. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo hỏi tới, liền đáp: “Ty chức lạc thảo mấy câu, chẳng bõ làm trò cười cho Vi đại nhân.”

Thế rồi hắn đọc mấy đoạn trong văn tế.

Vi Tiểu Bảo nghe hắn đọc xong đoạn Lang này vốn ở trong hàng ngũ, cùng Tứ tính đang vui vầy cá nước duyên may. Ngờ đâu vì vụ tỵ hiềm nhỏ mọn mà gây nên chuyện tầy đình. Lang cùng Tứ tính trở thành đối nghịch. Tình cũ chúa tôi, quyết chẳng làm kẻ cùng sĩ trong bụi lau. Tư ơn công nghĩa, đến vậy mà thôi, gã gật đầu ca ngợi: “Hảo văn chương! Hảo văn chương! Đoạn văn này dù có bắt bản tước đem chặt đầu cũng không thể làm được. Dù đã có người làm cho mà bảo bản tước học thuộc lòng, e rằng đọc cả mười ngày cũng không nhớ. Thi tướng quân quả nhiên văn võ song toàn, trí nhớ lại càng tuyệt hảo khiến bản tước khâm phục không biết đến thế nào mà kể!”

Thi Lang đỏ mặt lên, bụng bảo dạ: “Gã biết rõ bài văn tế không phải tự ta làm ra mà có kẻ khác viết thay. Ta đọc cho gã nghe, gã lại đưa lời trào phúng. Vậy ta không nên nói nhiều với gã.”

Vi Tiểu Bảo hỏi: “Trong đoạn này, câu Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau có ngụ ý gi? Bản tước kém bề học vấn không sao hiểu được. Tướng quân giải thích cho bản tước nghe được chăng?”

Thi Lang đáp: “Kẻ cùng sĩ trong bụi lau là nói về Ngũ Tử Tư. Ngày trước Ngũ Tử Tư, người nước Sở, phải trốn sang nước Ngô lánh nạn. Ngũ Tử Tư đi đến bờ sông, một ngư ông chở qua bờ bên kia rồi, lại đi lấy cơm cho y.”

Hắn dừng lại một chút rồi kể tiếp: “Ngũ Tử Tư sợ truy binh đuổi đến tróc nã phải ẩn vào trong bụi lau ở bờ sông. Ngư ông trở lại thấy trong bụi lau có người ẩn nấp, liền cất tiếng hô: ‘Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Phải chăng người là kẻ cùng sĩ?’ Sau Ngũ Tử Tư mượn quân nước Ngô đưa về đánh phá nước Sở rồi quật mả lôi xác Sở Bình Vương đánh ba trăm roi để trả mối thù Sở Vương đã giết cha anh.”

Thi Lang kể xong sự tích Ngũ Tử Tư, nói tiếp: “Trịnh Thành Công đã giết cha anh cùng vợ con của ty chức, nhân sĩ ở Đài Loan sợ ty chức sau khi hạ Đài Loan rồi cũng quật thây báo thù, nên ty chức nói trong văn tế quyết không làm việc đó. Trịnh Thành Công có linh thiêng cũng yên tâm được và quân dân Đài Loan bất tất phải lo nghĩ về vụ này.”

Vi Tiểu Bảo nói: “Té ra là thế! Thi tướng quân chỗ này đã so mình với Ngũ Tử Tư.”

Thi Lang vội đáp: “Ngũ Tử Tư là một bậc đại anh hùng, đại hào kiệt, khi nào ty chức dám so bì! Có điều Ngũ Tử Tư toàn gia bị nạn rồi một mình trốn đi. Sau y đem quân về báo cừu tuyết hận. Cuộc tao ngộ của ty chức trong điểm này cũng tương tự như vậy mà thôi.

Vi Tiểu Bảo lẩm nhẩm gật đầu nói: “Bản tòa mong sao Thi tướng quân không đến nỗi đi vào kết quả như Ngũ Tử Tư. Bằng không thì thật là bất diệu!”

Thi Lang tái mặt. Bàn tay hắn đặt trên kỷ trà bất giác run lên bần bật. Nguyên Ngũ Tử Tư lập được công lớn cho nước Ngô rồi sau lại bị Ngô Vương xử tử bêu đầu.

Gã lắc đầu nói tiếp: “Thi tướng quân! Giữa bản tước và tướng quân trước đã có mối liên can là thượng cấp và bộ hạ. Tình nghĩa không phải tầm thường. Có điều tướng quân tự kỷ với Ngũ Tử Tư quả là chuyện đại nghịch vô đạo. Bài văn tế kia đã đồn đại vào đến Bắc Kinh và dĩ nhiên đức Hoàng thượng nghe thấy rồi. Nếu không có ai phân thuyết giúp tướng quân trước mặt Hoàng thượng thì bản tước đại nhân rằng… hà hà… trường công lao này sẽ trôi theo dòng nước.”

Thi Lang vội cãi lại: “Xin đại nhân minh xét. Ty chức chỉ nói không làm theo hành động của Ngũ Tử Tư, chứ không dám so mình với Ngũ Tử Tư. Trong điểm này… khác hẳn nhau.”

Vi Tiểu Bảo đáp: “Bài văn tế của tướng quân lưu truyền khắp nơi và vụ tướng quân tự so mình với Ngũ Tử Tư là một chuyện khắp thiên hạ ai cũng biết rồi.”

Thi Lang đứng dậy, cất tiếng run bần bật: “Hoàng thượng là bậc anh minh, ơn đức coi bằng trời biển, những kẻ công thần đều được bảo toàn. Ty chức được thờ một vị minh quân là tốt số hơn Ngũ Tử Tư nhiều lắm.”

Vi Tiểu Bảo đáp: “Lời tướng quân tuy rất đúng, bụng dạ Ngũ Tử Tư thế nào, bản tước không hiểu rõ. Chỉ khi coi tuồng hát thấy lúc Ngô Vương xử tử Ngũ Tử Tư thì ông nói: ‘Các ngươi đem mắt ta khảm vào cửa thành, để ta được nhìn thấy quân Việt kéo vào kinh đô trừ diệt Ngô quốc’. Sau dường như Ngô quốc quả nhiên bị diệt vong. Thi tướng quân văn võ toàn tài, nhất định biết thiên cố sự này. Có đúng thế không?

Thi Lang nghe gã nói mấy câu sau bất giác ớn lạnh xương sống. Ban đầu hắn chỉ nghĩ đến Ngũ Tử Tư đã lập đại công rồi sau bị Ngô Vương giết. Nhưng hắn không thuộc lịch sử và mấy câu nói của Ngũ Tử Tư lúc lâm tử.

Hắn lại nghĩ tới câu “Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau” tuy nói lên không hành động theo Ngũ Tử Tư, nhưng ý kiến so sánh mình với Ngũ Tử Tư lại in vào tai mắt mọi người. Huống chi trong bài văn tế nhắc tới chuyện Ngũ Tử Tư quật thây báo cừu, liệu có khỏi bị Vi Tiểu Bảo nắm lấy làm lời nguyền rủa vong quốc không? Vụ này có thể phạm vào tội lớn mà khi người ta đã khoác cho mình thì nguy hiểm vô cùng!

Hắn lại tự nhủ: “Một khi những câu của Vi Tiểu Bảo lọt vào tai Hoàng đế thì dù ngài là bậc thánh minh không bắt tội mình, nhưng nhất định trong lòng ngài có ấn tượng không hay, và mình đừng hòng được Hoàng thượng gia quan tấn tước cho nữa. Ấy là chưa kể đến nếu Hoàng đế còn kẻ thân tín như Vi Tiểu Bảo thêm mắm muối vào, gièm pha mình có lòng oán vọng, chê bai triều đình giết kẻ công thần, thì cái đầu trên cổ khó mà giữ vững.”

Thi Lang càng nghĩ càng hối hận về việc điếu tế Trịnh Thành Công. Hắn càng hối hận hơn về vụ bảo sư giả làm văn tế, khiến cho tên tiểu quỷ tinh ranh cổ quái nắm được cẳng để quật mình.

Thi Lang đứng thộn mặt ra, trong lòng lo lắng, không biết phân biện cách nào cho được.

ngũ viên: tức Ngũ lực viên thông: năm sức mạnh của người tu Phật, nếu phát huy được đầy đủ sẽ đắc thành đạo Phật. 5 sức mạnh đó là: tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, ðịnh lực và tuệ lực.

Ngũ viên cũng có thể chỉ bản thể chân không, là hình tượng giải thoát rốt ráo, nó không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, vốn không phải là cái “sắc” hiện tượng cụ thể, tương đối có sinh có diệt, song nó sinh ra tất cả mọi hiện tượng. Khái niệm này làm ta liên tưởng đến khái niệm “cái một” của Ấn giáo.

Ngục Cửu u: chín ngục dưới âm phủ, mỗi ngục coi một hình phạt, như: A tì (giam vĩnh viễn), núi dao, cắt thịt, ngậm sắt nóng…

ngư phủ đình: đình trên bờ biển. Khuất Nguyên nước Sở bị đuổi đi lang thang ở vùng Tương Ðàm. Ông chài thấy mới nói rằng: “Người đời đều đục sao ông không khuấy bùn lên, khua sông lên cho nước đục. Người đời đều say, sao ông không ăn cả bã rượu, nuốt cả cái rượu cho cùng say?” Khuất Nguyên đáp: “Sao lại có thể để cho thứ trắng ngần bị nhuốm bụi bậm của thế tục?” Ngư phủ mỉm cười bỏ đi.

Ngư toản y tông kim giám: Bộ sách thâu thái các sách cổ kim cùng các phương thuốc bí truyền của dân gian.

Ngưu Sơn: Núi ở nước Tề, thời Xuân Thu, Tề Cảnh Công lên núi trông về cố quốc mà khóc.

Ngưu Lang, Chức Nữ: Theo Wikipedia_ Ngưu Lang Chức Nữ, Ngưu Lang Chức Nữ, Việt Nam còn gọi Ông Ngâu Bà Ngâu, là một câu chuyện cổ tích rất nổi tiếng có xuất xứ từ Trung Quốc. Câu chuyện nổi lên từ thời nhà Hán qua lễ Thất tịch, và lan truyền qua Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Do sự phổ biến và tính văn hóa cao, câu chuyện này trở thành một trong “Tứ đại dân gian truyền thuyết” của Trung Quốc, bên cạnh các truyện về Bạch Xà, Mạnh Khương Nữ, và Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài.

Truyện này có liên quan đến các sao Chức Nữ tức Thiên cầm (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), Sông Ngâu hay Sông Ngân, Ngân Hà (Milky Way), và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy âm lịch ở Việt Nam, ở Trung Quốc gọi là lễ Thất tịch.

* Phiên bản Việt Nam

Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.

Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào mồng 7 tháng Bảy. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu.

Thời bấy giờ Sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào, nên Ngọc Hoàng ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ, nối nhau lại làm cầu (cầu ô hoặc ô kiều) cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng Bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng Bảy âm lịch thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.

Nguu Lang Chuc Nu 2

Tuy nhiên, sau một thời gian vì cảm thương cho sự chia lìa của đoi vợ chồng, Ngọc Hoàng trả lại hình hài cho những người thợ mộc và ra lệnh họ phải làm một cây cầu thật vững chắc để Ngưu Lang và Chức Nữ có thể gặp nhau. Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ được sống bên nhau mãi mãi.

* Phiên bản Trung Quốc

Chàng chăn bò trẻ tuổi tên Ngưu Lang nhìn thấy bảy cô tiên xinh đẹp đang tắm trong hồ và đùa giỡn vui vẻ với nhau. Được cổ vũ bởi người bạn đồng hành tinh quái là một con bò đực, chàng lấy trộm váy áo của họ và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Các nàng tiên cử cô em út và xinh đẹp nhất có tên gọi là Chức Nữ ra để lấy lại váy áo. Nàng đành phải làm theo, nhưng do Ngưu Lang đã nhìn thấy thân thể trần tục của Chức Nữ nên nàng đành chấp thuận lời cầu hôn của chàng.

Nàng chứng tỏ mình là một người vợ tuyệt vời, còn Ngưu Lang là một người chồng tốt và họ sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng Thiên Hậu (dị bản: mẹ Chức Nữ) nhận ra rằng một kẻ tầm thường là Ngưu Lang lại dám cưới một nàng tiên đẹp, thế nên bà điên tiết.

(Dị bản: Thiên Hậu bắt Chức Nữ quay lại làm công việc dệt các đám mây ngũ sắc trên bầu trời vì nàng đã không làm công việc đó kể từ khi lấy chồng).

Rút kẹp tóc, Thiên Hậu vạch ra một con sông rộng trên bầu trời để chia cắt đôi tình lang mãi mãi, vì thế tạo ra sông Ngân và trên thực tế người ta nhìn thấy các sao Ngưu Lang và Chức Nữ nằm ở hai bên của dải Ngân Hà.

Chức Nữ phải vĩnh viễn ngồi trên một bờ sông, buồn bã dệt vải, còn Ngưu Lang chỉ nhìn thấy vợ mình từ xa và phải chịu trách nhiệm nuôi hai con.

Tuy nhiên, vì thương cho đôi vợ chồng, Ngọc Hoàng đặc xá cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần, là đêm mồng bảy tháng Bảy. Tất cả các con quạ đen (ô thước) cảm thấy thương hại họ và chúng bay lên nối với nhau thành một chiếc làm cầu (Ô Kiều, Cầu Ô) để đôi vợ chồng có thể đến với nhau. Trong thời gian đó, Ngưu Lang tìm được quả “Hoa Tiên” (là quả mà Hằng Nga đã từng ăn). Vì vậy Ngọc Hoàng cùng với Vương Mẫu cho Ngưu Lang và Chức Nữ cùng ở bên nhau mãi mãi.

Câu chuyện Ngưu Lang và Chức Nữ tạo nhiều cảm xúc, từ đó đi vào nhiều tác phẩm hội họa, thơ văn, và tuồng, cải lương… trên sân khấu.

Hồng Ðức quốc âm thi tập:

Ước gặp Nữ, Ngưu mà thử hỏi
Cầu ô sự ấy có chăng vay

Chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ – Phạm Tâm

Chuyện Chức Nữ–Ngưu Lang truyền mãi
Duyên bắc cầu bằng dải chia ly
Chàng đây thiếp đó tình si
Hai đầu nỗi nhớ mấy thì gặp nhau

Thắm sâu đậm tình sâu nghĩa nặng
Ái ân đầy chẳng đặng chia đôi
Ngàn năm vẫn vẹn không rời
Bên cầu Ô thước một trời ước mong

Chức Nữ, Ngưu Lang – Nguyễn Bính

Sông Ngân nước chảy hững hờ
Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ Sông Ngân
Một năm gặp được mấy lần!
Anh khổ vô ngần Chức Nữ em ơi!

Đôi ta chẳng hợp lòng trời
Một dòng nước bạc ngăn đôi chung tình
Chẳng cho liền cánh liền cành
Đày em trên ấy, đoạ anh dưới này.

Lạc loài đôi lứa thơ ngây
Một năm sống để một ngày gặp nhau
Đôi ta có tội gì đâu
Cớ sao chim chẳng bắc cầu cho qua?

Có chăng tội với Trời già
Chẳng qua là tội đôi ta chung tình
Dây oan mình buộc lấy mình
Con sông bất bình chảy mãi về xuôi

[…]

Tản Ðà:

Trên trời Chức Nữ cùng Ngưu Lang
Một dải Sông Ngân lệ mấy hàng.

Ca dao:

Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền
Một là duyên, hai thời là nợ
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.

(Xích thằng có nghĩa sợi dây màu đỏ. Xem mục: Nguyệt Lão.)

người Đạo thờ vua: Nói việc Vương Ðạo giúp Vua Tấn.

Thông Chí: Vương Ðạo, tự Mậu Hoàng, khi Tấn Nguyên Ðế còn làm Lang Nha Vương, ông biết thiên hạ đã loạn lạc, mới cùng các bậc hiền tài tuấn kiệt trong nước mưu việc Cần Vương. Nguyên Ðế lên ngôi, ông được phong giữ chức Thừa tướng. Khi Nguyên Ðế mất, ông nhận di chiếu phò Minh Ðế rồi Thành Ðế. Ông trải qua 3 đời vua, có công to, làm quan đến chức Thái Phó.

người đẹp sông Tương: Xưa có người bắt được cái gối, đêm nào nằm mơ cũng thấy cùng một mỹ nhân đi chơi bên sông Tương.

người Ðịch chống chèo: chỉ lòng quyết tâm đánh giặc.

Nói việc Tổ Ðịch đời Tấn khi cầm quân đánh phương Bắc. Lúc đi qua sông, đến giữa dòng mới gõ mái chèo mà thề rằng: “Tổ Ðịch không dẹp yên được đất Trung Nguyên thì không qua lại sông này”.

Câu nói này làm ta liên tưởng đến các câu nói khác: “Thề không đánh tan được quân giặc thì không về lại sông này” của Hưng Ðạo Ðại Vương bên sông Bạch Ðằng khi đem quân đi đánh quân Nguyên, và câu Quân tử một đi không trở lại” của Kinh Kha bên sông Dịch Thủy lúc đi hành thích Tần Thủy Hoàng.

người khóc tượng: Nói hành động trung nghĩa. Tục Thông Chí: Lý Quân người đất Thái Nguyên đời Hậu Chu giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Năm Thanh Thái đời Hậu Ðường (934), ông làm Khống học chỉ huy sứ, rồi Kiểm Hiệu Thái úy. Khi Tống đoạt ngôi vua nhà Hậu Chu, Tống Thái Tổ sai sứ đến gia phong ông làm Trung Thư Lệnh, đồng thời dụ ông để ông nói nhà Chu xuống chiếu nhường ngôi cho Tống. Lý Quân cự tuyệt, bọn tả hữu ép ông, ông mới xuống lễ xứ thần nhưng sắc mặt không cung kính. Kịp khi vào cửa công, bày tiệc rượu, ông liền giả say, lấy bức tranh vẽ tượng Chu Thái Tổ treo lên tường mà khóc rầm lên mãi không thôi để tỏ lòng trung với vua cũ, không nhận tước phong của Vua Tống. Về sau, ông chấp binh chống lại Tống, bị thất bại, ông nhảy vào lữa tuẩn tiết.

người mò rận: chỉ người không màng đến sự thế. Vương Mãnh người đất Bắc Hải đời Tấn, tự Cảnh Lược, thuở bé đã có chí lớn. Ông ẩn ở núi Hoa Âm, ngồi nói chuyện mưu lược đánh Tần với Hoàn Ôn, tay vẫn mò bắt rận, xem như không có người nào khác.

ngữ lục: loại sách chép những triết học, tư tưởng và ngôn luận của các danh tăng. Các vị cao tăng đắc đạo ngày xưa khi thị tịch thường được các đệ tử ghi lại tiểu sử và tập hợp các lời dạy trong một thể văn gọi là ngữ lục, như: Lâm Tế ngữ lục, Tuyết Đậu ngữ lục, Cảnh Đức truyền đăng lục… Ở Trung Quốc có hàng trăm bộ ngữ lục như vậy. Nhưng ở nước ta, sách ngữ lục được biên soạn không nhiều và số còn lại rất hiếm, như: Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, Thiền lâm thiết chuế ngữ lục (thất bản), Khóa hư lục, Tam tổ thực lục, Thánh đăng lục, Chuyết Chuyết thiền sư ngữ lục (không đủ bộ), Thủy Nguyệt Thông Giác ngữ lục (mới phát hiện).

ngựa Hồ: ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ, hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh, người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến trận. Nước Hồ vốn là xứ lạnh, khi đông về, gió bấc thổi lạnh tê tái. Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ tê lạnh mỗi độ đông về. Vì thế khi có gió bấc thổi đến thì ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.

Có sách lại chép: nước Hồ đem ngựa cống Vua Hán ở Trung nguyên. Ngựa được nhốt vào chuồng cho ăn uống thật ngon và được chăm sóc rất kỹ. Nhưng khi gió bấc thổi đến thì ngựa lại bỏ cả ăn uống, ngóng về phương bắc hí vang lên những tiếng bi thảm.

Nói đến ngựa Hồ là có ý nói lòng nhớ nước.

Cổ thi:

Hồ mã tê Bắc phong
Việt điểu sào Nam chi

Nghĩa:

Ngựa Hồ hí gió Bắc
Chim Việt đậu cành Nam

Tái hạ khúc kỳ 2 – Lý Bạch

Thiên binh há bắc hoang
Hồ mã dục nam ẩm.

Khúc hát dưới ải kỳ 2 – Ngô Văn Phú dịch thơ:

Binh trời sang cõi Bắc
Ngựa Hồ uống sông Nam

Xem thêm: chim Việt.

ngựa qua cửa sổ: Do chữ bạch câu quá khích (bóng bạch câu, tức bóng mặt trời qua kẽ hở), ý nói thời gian trôi qua rất nhanh, xuất phát từ câu thơ:

Lễ ký tam niên chi tang
Nhị thập ngũ nguyệt chi tất
Nhược tứ chi quá khích

(Chịu tang 3 năm, chỉ 25 tháng là hết, như ngựa tứ qua khe hở).

Trang Tử: “Đời người ta trong khoảng trời đất, như bóng bạch câu qua khe hở.”

Sử ký chép lời Lã Hậu nói với Trương Lương: “Người ta sinh ra đời như bóng Bạch Câu qua khe hở, cần gì phải tự làm khổ mình như thế!”

Lời chú của Sư Cổ trong Hán thư: Ðó là nói về sự nhanh chóng. Bạch câu chỉ ánh mặt trời, khích là khe hở ở tường.

Thạch Sanh:

Bóng câu cửa sổ ngựa bay
Bảy năm thắm thoắt đến ngay bây giờ

Nam Hải tế văn:

Bóng bạch câu bay vụt cửa phù sinh
Hình thương cẩu đúc mòn khuôn đại khối

ngựa quen đường cũ: từ câu chuyện về con ngựa của Quản Trọng (722–645 tCN). Một lần, Quản Trọng cưỡi con ngựa quý của mình đi thăm bạn, Trong hai người đàm đạo với nhau, ngựa của Quản Trọng đi tìm ngựa của người bạn để kết bạn. Sau đó, một vài lần ngựa của Quản Trọng tự đi tìm gặp ngựa của người bạn. Con ngựa của người bạn hí lên mấy tiếng, như có ý ngạc nhiên: “Làm sao mà ngươi biết đường?” Ngựa Quản Trọng lấy chân cào cào xuống cỏ và hí mấy tiếng như muốn trả lời rằng: “Giống ngựa nhà ta một lần đi là quen đường cũ”. Quản Trọng biết chuyện ngựa tự chạy đi thăm bạn, khen: “Ngựa, mày quả là kẻ có tình có nghĩa!”

Sau này, Quản Trọng và Thấp Bằng phò tá Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Xuất binh vào mùa hè, sau nhiều tháng viễn chinh, lúc chiến thắng quân địch đã là mùa đông, khi quay trở về thì tuyết rơi phủ kín đường khiến không ai nhận ra lối về. Quản Trọng bỗng nhớ đến con ngựa của mình giỏi tìm đường trở lại thăm bạn năm xưa, bèn nói với nó: “Ngựa, ngươi hãy đưa chúng ta về theo đường cũ”. Rồi quay sang nói với Tề Hoàn Công: “Trí nhớ của loài ngựa rất tốt, xin để con ngựa già đi trước dẫn đường”. Ngựa của Quản Trọng hí mấy tiếng rồi phi lên trước. Tề Hoàn Công hô ba quân đi theo, qua nhiều triền núi, khe rừng, tuyết dày tìm được đường về.

Dần dà, thành ngữ “ngựa quen đường cũ” có nghĩa xấu, chỉ chứng nào tật ấy, đã quen với thói xấu thì không dứt bỏ được.

Nhan Chân Khanh: đỗ tiến sĩ đời Đường, học rộng văn hay, viết các lối chữ rất đẹp. Khi làm thái thủ Quận Bình Nguyên, đem quân đi đánh An Lộc Sơn, được phong Lỗ Quận Công. Sau Lý Hy Liệt làm phản, Chân Khanh bị Lý giết.

Nhan Hồi (521? – 481 tCN): đồ đệ yêu quý của Khổng Tử, một trong những nhân vật Khổng giáo được tôn kính nhất. Trong Văn Miếu ông được thờ tự và được xem là một trong Tứ Phối.

Nhan Hồi, người nước Lỗ, người giỏi nhất trong số các học trò của Khổng Tử. Nhan Hồi kém Khổng Tử 30 tuổi, được kể là có thiên tư thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng lễ, làm việc gì cũng không lầm lỗi đến hai lần, nói điều gì cũng không cẩu thả, khi giận người nầy không giận lây người kia, đứng đầu khoa đức hạnh trong cửa Khổng.

Nhan Hồi nhà nghèo, ở trong ngõ hẹp, giỏ cơm bầu nước, nếu là người khác thì không chịu được mà lo buồn, Nhan Hồi thì tự nhiên vui vẻ, học đạo. Khổng Tử khen là người hiền và có nhân. Năm Nhan Hồi 29 tuổi thì tóc đã bạc trắng.

Lúc Khổng Tử và các môn đệ bị nước Trần và nước Sái vây khổn ở ngoài đồng, không cho đi qua nước Sở, Khổng Tử hết lương thực. Những người đi theo đều ốm, dậy không nổi, nhưng Đức Khổng Tử vẫn dạy các môn đệ, rồi ngâm thơ, đánh đàn, ca hát, không tỏ ra suy yếu.

Tử Lộ thấy thế có vẻ giận, đến hỏi: “Người quân tử cũng có lúc cùng khốn ư?”

Khổng Tử đáp: “Người quân tử trong lúc cùng khốn thì giữ vững, còn kẻ tiểu nhân trong lúc cùng khốn thì làm bậy.” (Xem thêm mục: quân tử cố cùng.)

Đức Khổng Tử nhìn mặt Tử Cống thấy có vẻ giận, liền nói: “Này anh Tứ, anh cho ta học nhiều mà biết phải không?”

Tử Cống đáp: “Dạ, đúng thế, không phải sao?”

Khổng Tử nói: “Không phải đâu! Ta lấy một điều để quán triệt tất cả.” Khổng Tử biết các học trò còn có chỗ tức tối, bèn gọi Nhan Hồi đến hỏi: “Này anh Hồi! Kinh Thi có nói: Chẳng phải con trủy, chẳng phải con hổ, ở ngoài đồng vắng. Đạo của ta phải hay sai? Tại sao ta gặp cảnh này?”

Nhan Hồi đáp: “Đạo của Phu Tử hết sức lớn lao, nên cả thiên hạ không ai dung nạp được. Nhưng Phu Tử cứ theo đó mà làm, người ta không dung nạp được thì có hại gì! Người ta không dung nạp, nhưng sau nầy người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử. Đạo không được trau giồi, đó là cái điều mà ta lấy làm xấu hổ. Đạo đã được trau giồi mà vẫn không được dung nạp thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua một nước. Người ta không dung nạp được Phu Tử thì có hại gì! Về sau người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử.”

Đức Khổng Tử hớn hở cười nói: “Đúng lắm! Hỡi con người họ Nhan, nếu nhà ngươi lắm của cải thì ta sẽ làm người quản lý của cải cho nhà ngươi.”

Sau đó, Khổng Tử sai Tử Cống sang nước Sở yêu cầu Sở Chiêu Vương đem binh đến rước, Khổng Tử mới thoát được cái nạn ấy.

Đức Khổng Tử thường khen Nhan Hồi: “Hiền vậy thay Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở chỗ ngõ hẹp, giá người khác ở vào cảnh ấy thì lo buồn không chịu được, thế mà Nhan Hồi không bao giờ đổi cái vui của mình. Hiền vậy thay Nhan Hồi!”

Nhan Hồi mất lúc còn rất trẻ, mới 31 tuổi.

nhanh như cắt: Họ Cắt (Falconidea) gồm những loài chim có thân hình mảnh hơn các loài diều, có cánh mỏng và nhọn, cho phép chúng lao xuống với tốc độ rất cao.

_cat lon – peregrine falcon

Riêng loài cắt lớn (tên khoa học: Falco peregrinus) có tốc độ lao xuống nhanh nhất, đúng nghĩa nhanh như cắt: 322 km/giờ.

Nhà Hán: triều đại được thành lập bởi Lưu Bang, một lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Tần, sau khi chiến đấu với Hạng Vũ trong chiến tranh Hán–Sở, được biết đến sau khi qua đời là Hán Cao Tổ. Triều đại nhà Hán bị gián đoạn bởi Vương Mãng, một ngoại thích nhà Hán, tự lập mình lên làm hoàng đế, thành lập nhà Tân (9–23).

Sau đó, hoàng thân Lưu Tú khôi phục lại chính quyền nhà Hán, được biết đến với tên gọi Hán Quang Vũ Đế, tiếp tục nền thịnh trị.

Loạn Vương Mãng chia nhà Hán thành hai giai đoạn: Tây Hán (206 tCN – 9) với kinh đô ở Trường An và Đông Hán (23–220) với kinh đô ở Lạc Dương.

Vua cuối cùng theo trực hệ của nhà Hán là Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, bị Tào Phi ép nhường ngôi vị để ông này lên làm hoàng đế lập ra nhà Tào Ngụy.

Tuy nhiên, Lưu Bị tự xưng là tôn thất nhà Hán (không được ghi chép rõ ràng) lên làm hoàng đế trong giai đoạn 221–223, tiếp nối bởi con trai Lưu Thiện làm hoàng đế trong giai đoạn 223–263. Vì thế, có sách chép nhà Hán kéo dài đến năm 263, thêm được 43 năm.

Kéo dài 4 thế kỷ, nhà Hán được xem như là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ảnh hưởng của “Hán” mạnh và bao quát đến nỗi nhóm dân tộc chiếm phần lớn dân số Trung Quốc được gọi là người Hán, chữ viết Trung Quốc được gọi là chữ Hán, người nam được gọi là Hán tử và từ này được dùng trong thành ngữ như Nam tử Hán đại trượng phu.

nhà huyên: từ chữ huyên đường, phép chuyển nghĩa để chỉ người mẹ. Lấy ý từ Kinh thi:

An đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bôi
(Ước gì được cỏ huyên, trồng ở chái nhà phía bắc).

Theo phương hướng kiến trúc Trung Quốc, chái nhà phía bắc gọi là “bắc đường”. Trong những việc lễ bái, địa vị người mẹ ở bắc đường nên “bắc đường” chỉ chỗ ở của người mẹ; và ở bắc đường có trồng cỏ huyên nên gọi là “huyên đường”. Cỏ huyên còn có tên văn vẻ là “vong ưu thảo”, được cho rằng ăn nó giải được nỗi buồn phiền, từ đó nói lên vai trò của người mẹ đối với con, thường gần gũi bên con, an ủi vỗ về khi con có điều đau khổ.

huyen - lemon lily (Hemerocallis flava)
huyên (Hemerocallis flava)

huyên: (hay còn gọi là lộc song, hoàng hoa thái, kim châm thái, nghi nam thảo…) có tên khoa học là Hemerocallis flava, mùa hạ nở hoa màu vàng được gọi là kim châm, hoa và lá non dùng làm rau ăn.

Người Tàu xưa tin rằng dùng huyên để nấu ăn mang lại may mắn, xua đi ưu phiền, treo tranh cát tường vẽ huyên trong nhà và mang theo hoa huyên thơm bên mình để mong có con trai. Còn có tục lệ trồng cỏ huyên ở phía bắc gian nhà vào mùa Vu Lan báo hiếu để nhớ tới công ơn người mẹ.

Thơ Diệp Mông Ðắc (Tống):

Bạch phát huyên đường thượng
(Tóc bạc trên nhà huyên)

Ý nói mẹ già tóc đã bạc.

Đoạn trường tân thanh, sau khi gặp mả Đạm Tiên về, Kiều khóc lóc, người mẹ tỉnh giấc hỏi han:

Giọng Kiều rền rĩ trướng loan
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì.

Nhà Thanh (1644–1912): triều đại độc đáo trong lịch sử Trung Quốc do người thuộc bộ tộc thiểu số lại cai trị người Hán. Theo Wikipedia_Nhà Thanh, Wikipedia_Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Wikipedia_Hoàng Thái Cực, Nhà Thanh do họ Ái Tân Giác La (Aisin Gioro) gốc gác ở Mãn Châu thành lập. Triều đại này được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (1559–1626) người Nữ Chân xây dựng. Ban đầu là một nước chư hầu của nhà Minh, năm 1609 Nỗ Nhĩ Cáp Xích tự tuyên bố mình là Đại hãn (tức hoàng đế) của vương triều mà tên được được sử sách gọi là Hậu Kim (để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân, từng tồn tại vào thế kỷ 12-13). Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ tộc, xây dựng lại văn tự Nữ Chân, nỗ lực phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người cũng như kỹ thuật bằng cách trọng dụng nhân tài Hán sống tại vùng Mãn Châu. Là nhà quân sự kiệt xuất, một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám “Kỳ”, đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau.

Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương, nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước kỳ phùng địch thủ nhà Minh là tướng Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Dù sự nghiệp còn dang dở, Nỗ Nhĩ Cáp Xích nổi tiếng là người xây dựng nền móng mà sau đó con trai ông, Hoàng Thái Cực, bành trướng uy thế và trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh cai trị Trung Quốc.

Hoàng Thái Cực (1592–1643) tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được người cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Ông cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn (Ligdan Khan), vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết (Ejei) đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế Nguyên cho Hoàng Thái Cực.

Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi tên nước thành Đại Thanh. Cái tên Thanh được chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日, mặt trời) và nguyệt (月, mặt trăng), đều thuộc mạng hỏa. Chữ Thanh (清) được cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều thuộc mạng thủy. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa trong hỏa không thể nào trị được thủy, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan nhà Minh.

Hoàng Thái Cực cũng áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, trọng dụng nhiều nhân tài xuất thân là người Hán hay quan lại cũ của Nhà Minh, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó (thông qua một hệ thống định mức phân bổ hợp lý). Đây là cuộc cải cách mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự lớn mạnh của Nhà Thanh sau này.

Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang, do đó mở rộng biên cương và tập trung quyền lực. Hoàng Thái Cực được xem là Hoàng đế sáng lập triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Việc người Mãn Châu cai trị được trung nguyên là do những sự kiện tình cờ hơn là do quân Thanh tích cực hành động.

Bắc Kinh bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh kết thúc khi Hoàng đế Sùng Trinh, vị vua cuối cùng của nhà Minh, treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan của nhà Minh.

Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý Trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc. Trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi chiếm được Bắc Kinh, Lý Tự Thành cướp người thiếp yêu của Ngô Tam Quế là Trần Viên Viên. Xem thêm mục: Trần Viên Viên.

Được tin mất người yêu, Ngô Tam Quế quyết định mở cổng Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn qua để dựa vào quân Thanh mà báo thù Lý Tự Thành. Nhờ vậy mà người Mãn Châu mới có thể đánh đổ được nhà Minh mà cai trị trung nguyên. Nếu Ngô Tam Quế tích cực phòng ngự Sơn Hải Quan thì có lẽ quân Thanh không bao giờ xâm nhập được vào trung nguyên.

Liên minh Ngô Tam Quế và quân Thanh đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành năm 1644. Hoàng tử Vĩnh Lịch xưng là vua kế vị, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanmar hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại Tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.

Theo Nguyễn Hiến Lê (1983), người Hán lại phải chịu cái ách của Mãn Châu, lâu gấp ba cái ách của Mông Cổ thời Nguyên; nhưng lần này ách không nặng bằng lần trước (Mãn không quá nghi kị Hán, không dùng ngoại nhân để trị, cũng không quá bóc lột quá mức) mà Mãn, Hán sớm biết sống chung với nhau và rốt cuộc có lợi cho cả hai bên. Nhờ hơn một thế kỷ thịnh trị – cho tới cuối thế kỷ 18 – đế quốc mở mang hơn các thời trước (không kể thời Nguyên).

Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của: Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, hoàn thành cuộc chinh phục lớn lao của người Mãn Châu.

Trong thời gian trị vì, nhà Thanh củng cố quyền quản lý của họ đối với Trung Quốc, hòa nhập với văn hóa Trung Quốc, thật sự chăm lo cho dân trung nguyên. Các hoàng đế nhà Thanh từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sát nhập và hòa ước. Họ chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan. Diện tích Trung Quốc rộng nhất trong lịch sử dưới triều Khang Hi.

Dân số Trung Quốc đông gấp trăm lần dân số Mãn Châu, và không có nhiều người Mãn Châu đọc được văn tự Hoa. Vì thế, người Mãn Châu hiểu rõ rằng cần trông cậy vào người Hán để điều hành Trung Quốc. Vì thế mà họ trọng dụng người Hán trong mọi chức vụ từ thấp đến cao. Ví dụ như Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho em trai của Ung Chính là Hoàng tử Dận Trinh.

ban do Nha Thanh
Bản đồ Trung Quốc dưới triều nhà Thanh

Nhà Thanh đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa, tuy thất bại trước nước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á dưới triều Càn Long.

Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ giảm sút trong thế kỷ 19, và phải đối mặt với sức ép từ phương Tây, nhiều cuộc nổi loạn và những thất bại trong chiến tranh, nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Nhà Thanh bị lật đổ sau cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với nhiều sự phản kháng buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế cuối cùng, Phổ Nghi, ngày 12 tháng 2 năm 1912. Giống như nhà Minh sụp đổ do nhiều lỗi lầm của vua Minh, nhà Thanh sụp đổ phần lớn do lỗi lầm của vua Thanh.

nhà vàng: Từ chữ kim ốc, nói nhà lộng lẫy dành cho người đẹp ở.

Hán Vũ cố sự: Hán Vũ Ðế hồi còn bé nói: “Nếu lấy được A Kiều thì xin xây nhà vàng cho nàng ở”. Về sau lên làm vua, Vũ đế lập A Kiều làm hoàng hậu.

Nhạc Phi: Theo Tục thông chí và Wikipedia_Nhạc Phi, Nhạc Phi (1103–1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông có 126 trận chiến với quân Kim và toàn thắng. Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, quân hàm của ông trước khi bị sát hại là Đại Nguyên soái. Ông người đất Thang Âm, thờ mẹ có hiếu, nhà nghèo nhưng rất chăm học, thích đọc Tả Thị Xuân Thu, Tôn Ngô binh pháp. Dưới thời Tuyên Hòa (1119-1125), ông ứng mộ nhập ngũ.

Năm 1126 quân Kim đánh phá vùng bắc Tống rồi vào năm sau bắt đi Thượng hoàng Huy Tông, Vua Khâm Tông cùng hoàng hậu và nhiều phi tần, cung nữ, thêm vô số châu báu.

Từ đó, trong khi Vua Cao Tông chạy về miền nam và thiết lập triều đình ở đây được gọi là Nam Tống, Nhạc Phi cầm quân chống quân Kim với tâm nguyện đưa Huy Tông và Khâm Tông về nước. Ông đánh bại quân Kim dưới quyền Tứ Hoàng tử Ngột Truật trong trận đánh lớn ở Chu Tiên trấn. Nhưng, Vua Tống Cao Tông và Tể tướng Tần Cối lại có tư tưởng chủ hòa, muốn dâng đất Hoài Bắc cho Kim nhằm chấm dứt chiến tranh. Vì thế Nhạc Phi nhận đạo kim bài triệu ông về kinh. Ông không tuân lệnh vì dựa vào nguyên tắc là tướng đã ra chiến trường thì không cần tuân theo mệnh vua. Nhưng một ngày ông liên tiếp nhận 12 đạo kim bài triệu hồi, nên cuối cùng ông đành trở về. Tần Cối đặt điều vu cáo hãm hại ông, bắt ông và con trai ông là Nhạc Vân bỏ ngục. Nhiều đại thần lên tiếng xin tha cho Nhạc Phi. Vợ Cối là Vương thị khuyên chồng hạ thủ ngay Nhạc Phi để tránh sinh lắm chuyện. Tần Cối nghe theo, sai giết cả hai cha con Nhạc Phi. Bấy giờ Nhạc Phi mới 39 tuổi.

Tống Hiếu Tông (1163-1189) sau khi lên ngôi, giải nỗi oan khuất cho Nhạc Phi, phong thụy hiệu, lấy lễ nghi cải táng và lập miếu thờ cho ông ở Hàng Châu. Bức hoành phi trong miếu thờ mang câu nói của Nhạc Phi: hoàn ngã hà sơn (trả lại ta sông núi).

tuong Nhac Phi Hang Chau-Hoan nga ha son
Tượng Nhạc Phi trong miếu thờ ở Hàng Châu

Năm 1211 Tống Ninh Tông truy phong vương vị cho Nhạc Phi là Ngạc Vương.

Nhạc Phi tài kiêm văn võ, để lại Vũ Mục di văn hay Nhạc Trung Vũ Vương văn tập với những áng thơ, từ. Ông được thờ là thủy tổ của “Nhạc gia quyền”, nhưng việc ông có viết một bộ binh thư nào không là dấu chấm hỏi.

Theo Nhạc thị tông phổ và những nghiên cứu của nhà văn, nhà “Nhạc Phi học” nổi tiếng Châu Cù Nhai thì Vũ Mục di thư mà Kim Dung nói đến chính là bộ quyền phổ Nhạc gia quyền phổ dạy môn võ công do Nhạc Phi truyền lại, được lưu giữ ở Hoàng Mai, Hoàng Cương, Tỉnh Hồ Bắc.

Nhạc gia quyền là môn quyền pháp do Nhạc Phi sáng chế và truyền dạy trong đội xung kích chủ lực của quân Tống gọi là “Nhạc gia binh”. Do xuất phát từ thực tế chiến trận đương thời, loại quyền này có đặc điểm là đòn đánh ngắn, hiểm, tính xung sát mạnh, hiệu quả chiến đấu rất cao. Nhạc gia quyền phổ dạy về quyền và binh khí. Ngoài 10 bài quyền chính và thương, đao, kiếm, côn, còn có các phần quyền luận, thuật vận khí, thuật điểm huyệt, giải huyệt, cứu thương, trật đả… nội dung rất phong phú, tính thực dụng cao.

Nhạc Phi cũng xuất chúng về thư pháp, văn chương. Ông để lại bài từ nổi tiếng sau, đầy hùng tâm nhưng cũng bi tráng.

Mãn giang hồng – Nhạc Phi
Máu đầy sông – phanlang dịch Nôm:

Giận tóc dựng ngược
Đứng tựa lan can
Mưa hiu hắt ngừng
Mở mắt trừng lên
Nhìn trời hú lớn
Lòng trai khích động

Ba mươi tuổi công danh như bụi đất
Tám ngàn dặm đường chỉ mây và trăng.

[…]

Mối nhục Tĩnh Khang
Vẫn còn chưa rửa
Thần dân oán hận
Khi nào mới tan!
[…]

Truyện dã sử Thuyết Nhạc toàn truyện (bản dịch ở Việt Nam là Nhạc Phi diễn nghĩa) được chép và lưu hành vào đời nhà Thanh, thuật lại cuộc đời của Nhạc Phi cùng với một số truyền thuyết.

Xạ điêu anh hùng truyện (1957) – Kim Dung, phóng tác về Nhạc gia quyền phổ.

Hoàn Nhan Hồng Liệt dáng vẻ đắc ý, giọng hơi run lên, nói:

Mấy tháng trước đây tiểu vương vô ý tìm thấy giữa đống văn kiện cũ trong cung một văn thư từ tiền triều để lại, đó là mấy bài từ của Nhạc Phi, lời lẽ vô cùng kỳ lạ. Ta suy nghĩ mất mấy tháng rốt lại mới hiểu rõ ý tứ bên trong. Té ra Nhạc Phi lúc bị giam trong ngục biết mình không còn hy vọng được sống sót, y là người tinh trung báo quốc, cũng không phải giả, bèn đem tất cả sở học về việc hành binh bố trận, bí yếu trong việc luyện quân chinh phạt viết ra rõ ràng trong một bộ sách, chỉ chờ tìm được truyền nhân, dùng đó để chống cự quân Kim. May là Tần Cối cũng rất lợi hại, sợ Nhạc Phi lén thông tin tức với người ngoài nên đề phòng rất chặt chẽ, quan lại binh đinh trong ngục người nào cũng là kẻ tâm phúc thân tín của y. Nên biết binh tướng bộ hạ của Nhạc Phi đều dũng cảm thiện chiến, nếu họ tạo phản thì Tống triều không ai ngăn cản được. Năm ấy sở dĩ không ai tới cứu Nhạc Phi đều vì Nhạc Phi không chịu chống lại ý chỉ của triều đình, chứ nếu y đột nhiên đổi ý thì không xong rồi, có phải không? Y lại không biết Nhạc Phi không lo cho tính mạng của mình mà là lo cho giang sơn Đại Tống. Nhưng cũng may là như thế nên bộ binh thư kia của Nhạc Phi trước nay vẫn chưa lọt được ra ngoài.

Mọi người tập trung tinh thần lắng nghe, ai cũng quên cả uống rượu. Hoàng Dung treo người ngoài gác, cũng say mê nghe một cố sự lạ lùng.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

Nhạc Phi không có cách nào đành giấu bộ sách ấy trong người, viết bốn bài từ gì đó. Bốn bài ấy cách luật không đúng, bằng trắc không hợp, câu chữ thì đảo lên đảo xuống, không biết muốn nói gì. Tần Cối tuy có thể nói là tài rộng như biển nhưng cũng không hiểu rõ ý tứ bên trong, vì thế sai người đưa tới nước Đại Kim. Mấy chục năm nay bốn bài từ ấy đều được cất giữ trong bí tịch của triều đình, không ai hiểu được ý nghĩa bên trong, ai cũng nói là lúc Nhạc Phi sắp chết căm hờn viết bừa, lời lẽ không có thứ tự, nào ngờ trong đó lại cất giấu một bí mật rất lớn. Tiểu vương vất vả suy nghĩ, sau cùng đã giải thích được, té ra bốn bài từ ấy đều phải đọc cách ra ba chữ một, từ trên xuống từ dưới lên, xoay đi xoay lại sẽ lập tức rõ ràng. Nhạc Phi trong bốn bài từ ấy dặn dò người sau học bộ binh thư của y để lại để đánh thẳng tới sông Hoàng Long, tiêu diệt Đại Kim ta. Y dụng tâm tuy vất vả, nhưng triều Tống không có người tài giỏi, thì cũng bỏ phí thôi, ha ha!

Mọi người cùng ngạc nhiên khen ngợi, đua nhau ca ngợi tài trí của Hoàn Nhan Hồng Liệt.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

Nghĩ lại Nhạc Phi dùng binh như thần, đánh nhau quả rất lợi hại. Nếu chúng ta tìm được bộ di thư ấy của y thì việc nước Đại Kim thống nhất thiên hạ há chẳng dễ dàng như trở bàn tay sao?

Mọi người sực hiểu ra, nghĩ thầm: “Triệu Vương mời bọn mình tới, té ra là muốn bọn mình đi làm kẻ trộm đào mộ.” Hoàn Nhan Hồng Liệt nói: “Tiểu vương vốn nghĩ là bộ di thư ấy ắt là do y mang theo vào mộ.”

Nói tới đó thì dừng lại một lúc mới nói tiếp:

Các vị là đại anh hùng đại hào kiệt, chẳng lẽ lại mời các vị đi đào trộm mộ sao? Mà nói lại thì Nhạc Phi là kẻ thù của Đại Kim, nhưng y tinh trung thần võ, người trong thiên hạ ai cũng kính phục, chúng ta cũng không thể động vào phần mộ của y. Tiểu vương đã kiểm lại tất cả các mật báo của thám báo từ Nam triều gửi về, cuối cùng tìm ra được một manh mối khác. Nguyên là sau khi Nhạc Phi chết ở Phong Ba Đình rồi thì được chôn cạnh Cầu Chúng An gần đó, về sau Tống Hiếu Tông cho cải táng, đem di thể của y đưa về long trọng mai táng cạnh Tây Hồ, xây dựng đền miếu. Tất cả áo mũ di vật của y đều bị người ta vứt qua một bên, bộ di thư ấy tự nhiên cũng trong đó. Nơi đó cũng ở Lâm An.

Tần Cối thường bị quy trách nhiệm – cùng với vợ là Vương thị đã xúi giục chồng – cho cái chết của Nhạc Phi. Vì thế mà về sau, người Tàu làm hai tượng Tần Cối và Vương thị quỳ trước Nhạc Miếu và lăng mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu. Hai tượng này thường bị người đi viếng miếu nhổ nước bọt lên, và nhiều khi bị hủy hại rồi được đúc lại.

tuong Tan Coi-Vuong thi
Tượng Tần Cối và Vương Thị quỳ trước mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu

Vài trăm năm sau, có Cử nhân tên Tần Giản Tuyền cùng quê Giang Ninh với Tần Cối, mọi người đều nghĩ ông là hậu nhân của họ Tần. Một lần đến bờ Tây Hồ, người quanh đó xin ông viết câu đối đề miếu Nhạc Phi. Không đành lòng từ chối, ông viết:

Nhân tòng Tống hậu vô danh Cối
Ngã đáo phần tiền hối tính Tần

(Người sau đời Tống không tên Cối
Ta đến trước mộ thẹn họ Tần)

Trong khi chính sử (thường do sử quan triều đình viết) tránh né việc quy trách nhiệm cho Cao Tông, ý kiến đúng hơn là chính Cao Tông đóng vai trò chủ đạo trong cái chết của Nhạc Phi. Điển hình là đoạn văn dưới đây.

Xạ điêu anh hùng truyện (1957) – Kim Dung

Dương Thiết Tâm nói: “Hai anh em bọn ta vốn là người Sơn Đông. Chỉ vì không chịu nỗi sự hà hiếp của bọn chó Kim nên ba năm trước tìm tới đây, thích dân vùng này có tình nghĩa nên ngụ lại. Mới rồi nghe tiên sinh nói chúng ta ở Giang Nam cũng như đang ở thiên đường, chỉ sợ ngày nào đó quân Kim lại tới đây, ông nói quân Kim có qua sông không?”

Trương Thập Ngũ thở dài nói: “Giang Nam là trời đất phồn hoa, dưới đất đều là vàng bạc, ngước mắt là thấy gái đẹp, quân Kim ngày nào lại không muốn tới? Có điều họ tới hay không thì chủ ý không phải do nước Kim mà là do triều đình Đại Tống ở Lâm An.”

Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm đều ngạc nhiên, đồng thanh hỏi: “Sao lại lạ thế?”

Trương Thập Ngũ nói: “Bách tính Trung Quốc ta so với người Nữ Chân thì đông hơn gấp trăm lần. Chỉ cần triều đình chịu dùng trung thần lương tướng, chúng ta một trăm người đánh một người của chúng thì quân Kim làm sao chống được? Nửa mảnh giang sơn phía Bắc của Đại Tống chúng ta là do năm xưa ba cha con Huy Tông, Khâm Tông, Cao Tông hai tay dâng lên cho người Kim thôi. Ba ông vua ấy trọng dụng gian thần, coi thường bách tính, các đại tướng ra sức chống Kim ai cách chức được thì cách chức, ai chặt đầu được thì chặt đầu, hai tay bưng giang sơn cẩm tú dâng lên, người Kim từ chối lại là không cung kính, đành phải nhận thôi. Từ nay trở đi nếu triều đình vẫn còn trọng dụng gian thần thì đó chính là quỳ xuống mời xa giá của quân Kim tới, tại sao họ không tới chứ?”

Quách Khiếu Thiên giơ tay đập mạnh xuống bàn khiến cốc chén đũa bát nhảy tung lên, nói: “Đúng thế!”

Trương Thập Ngũ nói: “Nhớ năm xưa Huy Tông Đạo Quân hoàng đế dốc lòng muốn trường sinh bất lão, muốn làm thần tiên, đám gian thần được dùng loại Thái Kinh. Vương Phủ toàn là bọn vô sỉ chuyên giúp vua vơ vét, như Đồng Quán, Lương Sư Thành chỉ là bọn thái giám chuyên bợ đỡ; như Can Cổu, Lý Bang Nhan là bọn lãng tử chuyên hầu hạ hoàng đế chơi bời. Đạo Quân hoàng đế không ngó ngàng gì tới chính sự, cả ngày nếu không cầu tiên học đạo thì phái người đi khắp nơi tìm kiếm các hoa khôi kỹ nữ. Một sớm quân Kim đánh tới trước mắt, y bó tay hết kế, co đầu rút cổ, đem ngai vàng truyền lại cho con là Khâm Tông. Lúc ấy trung thần là Lý Cương đóng giữ kinh thành Biện Lương, đại tướng các nơi chỉ huy quân cần vương, quân Kim đánh không được, chỉ còn cách rút lui. Không ngờ Khâm Tông nghe lời gian thần cách chức Lý Cương, lại không dùng các tướng giỏi có oai vọng quen cầm quân thì làm sao kinh thành không mất? Cuối cùng Huy Tông, Khâm Tông đều bị quân Kim bắt. Hai lão hôn quân ấy mình làm mình chịu cũng được đi, nhưng lại làm hại lây tới hàng vạn vạn bách tính Trung Quốc chúng ta.”

Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm càng nghe càng nổi giận. Quách Khiếu Thiên nói: “Mối nhục lớn hai Vua Huy Khâm bị quân Kim bắt trong niên hiệu Tỉnh Khang chúng ta đã nghe nhiều rồi. Thiên thần thiên tướng gì đó cũng nghe nói qua, chỉ là chuyện nói cho vui, chứ chẳng lẽ lại có thật sao?”

Trương Thập Ngũ nói: “Lại còn giả à?”

Dương Thiết Tâm nói: “Về sau Khang Vương ở Nam Kinh nối ngôi làm vua, thủ hạ có các đại tướng như Hàn Thế Trung, Nhạc gia gia [tức Nhạc Phi], vốn hoàn toàn có thể ra quân Bắc phạt, cho dù không đánh thẳng tới sông Hoàng Long được thì muốn thu phục kinh thành Biện Lương cũng chẳng khó gì! Chỉ hận thằng gian tặc Tần Cối chỉ muốn nghị hòa, hại chết Nhạc gia gia.

Trương Thập Ngũ rót rượu cho hai người Quách, Dương rồi rót cho mình một chén, uống cạn một hơi, nói: “Nhạc gia gia có hai câu thơ là: Chí mạnh đói ăn thịt giặc Hồ / Nói cười khát uống máu Hung Nô.” Hai câu thơ ấy đúng là nói lên tâm sự của toàn thể bách tính Trung Quốc. Ồ, thằng đại gian thần Tần Cối ấy may lắm, tiếc là chúng ta lại sinh muộn mất sáu mươi năm.

Quách Khiếu Thiên hỏi: “Nếu sinh sớm sáu mươi năm thì sao?”

Trương Thập Ngũ nói: “Lúc bấy giờ mà bằng vào khí khái anh hùng, thân thủ hào kiệt của hai vị, tìm tới Lâm An bắt thằng gian thần ấy, ba người bọn ta ăn thịt uống máu y thì không phải ngồi đây ăn đậu hủ uống rượu lạnh!”

Ba người cười rộ.

Dương Thiết Tâm thấy một vò rượu đã cạn liền gọi thêm vò nữa, ba người mặc sức chửi mắng Tần Cối. Người què lại bưng ra một đĩa đậu hủ, một đĩa đậu phụng, nghe ba người chửi tới lúc sướng miệng đột nhiên khà khà buông hai tiếng cười nhạt.

Dương Thiết Tâm hỏi Khúc Tam: “Có chuyện gì vậy? Ngươi nói bọn ta chửi Tần Cối là không phải sao?”

Lão què Khúc Tam nói: “Chửi hay lắm, chửi hay lắm, có gì không đúng chứ! Có điều ta nghe người ta nói trong chuyện giết Nhạc gia gia để giảng hòa thì kẻ đầu sỏ tội ác lại không phải là Tần Cối.”

Ba người đều kinh ngạc, cùng hỏi: “Không phải là Tần Cối sao? Thế thì là ai?”

Khúc Tam nói: “Tần Cối làm Tể tướng, nghị hòa cũng được, không nghị hòa cũng được, y vẫn làm Tể tướng. Nhưng Nhạc gia gia toàn tâm toàn ý muốn diệt Kim, rước hai vua Huy Tông, Khâm Tông về. Hai ông vua ấy mà về thì Cao Tông hoàng đế sẽ làm gì?”

Vương Hồng Sển (1970) có ý kiến tương tự:

Nay thử đọc lại Nhạc Phi diễn nghĩa… ta sẽ thấy có nhiều chỗ khá thương mà cũng có nhiều chỗ khá trách:

    1. Ông Nhạc Phi trong tay cầm binh quyền quá đỗi lớn, lấn áp cả quyền Thiên tử, thảo nào ông vua không ngầm ghét. Vã chăng Nhạc rất được lòng binh tướng bộ hạ, thêm mỗi lần thu phục được tướng mới đều cùng nhau ăn huyết uống thề, làm cho vua lâu ngày sanh lòng ngờ vực, e sợ sự phản trắc của anh tướng có nhiều bề thế hơn mình. Từ sợ đến sự cố tình nhắm mắt để cho Tần Cối làm ra vụ án chỉ trong gang tấc.
    2. Nhạc Phi ngày ngày cứ nhắc nhở Nhị Đế đang bị giam cầm…, tuyên bố nằng nằng quyết định đánh thấu qua Kim Quốc, để cứu và rước hai vua Huy Tôn và Khâm Tôn về nước. Xin hỏi: nếu rước về hai ông vua già kia thì ông vua trẻ đang trị vì Cao Tôn đâu còn ngôi vàng nữa! Vẫn biết lời nói ấy là do lòng trung mà có, nhưng cũng phải kín miệng mới được cho chớ! Ngay thẳng lắm mà không biết giữ lời, đã là tội vậy. Nhạc tự giết mà không biết đó thôi!
    3. Cũng vì bố chữ “tận trung báo quốc” do bà mẹ xâm trên lưng mà Nhạc Phi ôm lòng chịu chết để giữ vẹn một lòng hiếu với mẹ, quên rằng tấm thân ấy phải quý trọng để lo việc cứu quốc là trọng đại hơn.

Sự tích Nhạc Phi, tác giả soạn để làm gương trung hiếu cho hậu thế. Tác giả tán dương trung tư kỷ của Nhạc, để che cái hôn ám của Vua Cao Tôn.

Vịnh Nhạc Vũ Mục – Nguyễn Khuyến, Hoàng Tạo dịch thơ:

Kim bài mấy chữ tới quân trung
Chí cả mười năm một sớm không
Trời đất nỡ sinh điềm ngọc cối (A)
Non sông còn tiếc hẹn Hoàng Long! (B)
Trăm năm nhân thế còn mang hận
Mấy độ sa trường những uổng công
Chỉ khách anh hùng lòng tự rõ
Ở đời ai nịnh với ai trung?

(A) Ngọc cối: nấm ngọc. Tục truyền bên điện Vua Huy Tông có cây cối sinh nấm ngọc, người ta cho đó là điềm Tần Cối được trọng dụng để làm mất nhà Tống.

(B) Trong khi cầm quân đánh Kim, Nhạc Phi nói với tướng sĩ rằng: “Phải đánh thắng đến Hoàng Long [kinh đô nước Kim] sẽ cùng nhau uống rượu mừng thắng trận”.

Nhạn Môn Quan: một cửa ải của Vạn lý Trường thành nằm trên Núi Nhạn Môn thuộc dãy Hằng Sơn, Tỉnh Sơn Tây. Sở dĩ cửa ải mang tên này vì nơi đó có rất nhiều chim nhạn. Có diễn dịch cho rằng cửa ải kiên cố đến nỗi chỉ chim nhạn có thể vượt qua. Thực tế là cửa ải nằm giữa hai bên là dãy núi cao nên người khó đi qua được. Nhạn Môn Quan được Hoàng đế Tần Thủy Hoàng (259-210 tCN) ra lệnh xây dựng để bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược của các bộ lạc phía bắc, nhưng cửa ải này chỉ được hoàn tất dưới thời nhà Đường (618-907).

Nhạn Môn Quan là một cứ điểm quân sự quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Nơi đây từng diễn ra nhiều trận đánh lớn nhỏ trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.

Nhạn Môn Quan nổi tiếng qua điển tích Chiêu Quân cống Hồ. Nhạn Môn Quan cũng là nơi Dương Nghiệp đánh thắng quân Liêu năm 981.

Nhan Mon Quan
Nhạn Môn Quan ngày nay

Nhạn Môn Quan cũng được biết đến trong tiểu thuyết võ hiệp Thiên long bát bộ của nhà văn Kim Dung. Nhân vật Kiều Phong dùng chính sinh mạng của mình để đổi lấy sự bình yên của nhân dân hai nước Tống–Liêu.

nhắc đến Tào Tháo, Tào Tháo tới: có một số diễn giải về nguồn gốc của thành ngữ này, tất cả đều dựa theo tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa mà đa phần là hư cấu.

Diễn giải hợp lý nhất là từ việc Tào Tháo đến cứu giá. Tào Tháo từ khi bình được Sơn Ðông, dâng biểu tâu về triều đình. Triều đình thăng chức cho Tháo làm Kiến Ðức Tướng quân, phong làm Phi đình hầu. Lúc bấy giờ Lý Thôi và Quách Dĩ hoành hành không còn vị nể ai cả. Triều đình không ai dám mở miệng.

Dương Bưu và Chu Tuấn mật tâu với Hiến Ðế rằng: “Nay Tào Tháo cầm hơn 20 vạn quân, mưu thần, dũng tướng trong tay có vài mươi người. Nếu được người ấy để phù trì xã tắc, tiêu trừ đứa gian phi, thì thiên hạ may lắm!”

Cháu Lý Thôi là Lý Tiêm dẫn quân đến vây cung điện, rồi lấy hai cỗ xe, một cỗ chở thiên tử, mộc cỗ chở Phục Hoàng hậu, rồi dẫn xa giá đi. Quách Dĩ dẫn quân đến cũng muốn cướp xa giã. Lý Thôi và Quách Dĩ cứ mỗi ngày một lần đánh nhau ròng rã hơn 50 ngày trời.

Lý Thôi và Quách Dĩ dẫn quân đuổi theo xa giá của Hán Hiến Đế, mỗi người đều mong bắt được ông vua này để làm tin, dựa vào đó mà khống chế thiên hạ. Bấy giờ trời đang giá rét. Vua và hoàng hậu cực khổ không kể xiết. Các bô lão địa phương đem cơm dâng vua và hoàng hậu, nhưng gạo xấu cơm hẩm, vua và hoàng hậu không sao nuốt được. Không có nhà nào cao sạch, vua và hoàng hậu phải vào trọ trong nhà tranh, bốn mặt cửa ngõ không có, chỉ có rào gai tre. Vua vào Lạc Dương trông thấy cửa nhà bị đốt cháy hết cả; đường sá rậm rạp; cỏ mọc cao lấp mắt; trong cung điện chỉ có tường đổ, vách nát. Vua sai Dương Phụng cất tạm một cái cung nhỏ để ở. Trăm quan vào triều mừng đều phải đứng trong đám gai góc. Lý Thôi, Quách Dĩ lại sắp kéo quân đến.

Dương Bưu tâu với vua rằng: “Trước bệ hạ đã giáng chiếu, chưa kịp sai ai mang đi. Nay Tào Tháo ở Sơn Ðông, binh hùng tướng giỏi. Nên truyền gọi y vào chầu để giúp nhà vua.”

Vua nói: “Trước ta đã giáng chiếu rồi, ngươi không cần phải tâu nữa. Cứ sai người mang đi lập tức là xong.”

Bưu lĩnh chỉ, sai ngay người sang Sơn Ðông với Tào Tháo. Tháo tiếp được tờ chiếu, cất quân đi liền.

Vua khởi giá sang Sơn Ðông. Vừa ra khỏi Lạc Dương, chưa đi được một bước đường nào, thấy sứ giả đi Sơn Ðông trở về, tiếp theo là Hạ Hầu Ðôn làm tiên phong, dẫn mười viên tướng giỏi và năm vạn tinh binh đến trước để hộ giá.

Vua mừng phán rằng: “Tào tướng quân thế mới thực là bầy tôi xã tắc!”

Hôm sau, Tào Tháo tự lĩnh đại đội binh mã kéo tới.

Tức là Dương Bưu và vua vừa nhắc đên Tào Tháo không lâu thì Tào Tháo tới khá nhanh.

Nhiên lê đồ: bức tranh vẽ người đốt gậy cỏ lê. Lưu Hướng đời Tây Hán đến đọc sách ở gác Thạch Cừ, có một vị tiên chống gậy cỏ lê đến đốt đầu gậy làm đèn cho Lưu Hướng đọc. Về sau dùng điển này chỉ người chăm học, đọc sách cả đêm.

Nhị Bách: chỉ cửa Hàm Cốc, là nơi hiểm yếu trên con đường vào nước Tần. địa thế nơi đây rất hiểm yếu, hai người (Nhị) trấn giữ có thể thắng trăm người (Bách) nên gọi là Nhị Bách. Từ này từ đó được dùng để chỉ những nơi cực kỳ hiểm yếu.

Xem Quan hà Bách nhị.

Nhị Kiều: truyện Tam Quốc kể: Con trai nhỏ của Tào Tháo là Tào Thực, có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Ðồng Tước, Tào Tháo có sai làm một bài phú gọi là Ðồng Tước đài phú. Bài phú này thực ra đã bị Khổng Minh sửa đổi hai câu. Nguyên văn hai câu này của Tào Thực là:

Bắc hai cầu (kiều) Ðông, Tây nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian

Nhưng Khổng Minh muốn chọc tức Chu Du nên đổi ra là:

Tìm hai Kiều phương Nam về sống
Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân

Khổng Minh giải thích cho Chu Du rằng “Nhị Kiều” là hai nàng Kiều mà giả vờ không biết rằng Đại Kiều là vợ của Tôn Sách và Tiểu Kiều là vợ của Chu Du.

Nền cũ của đài Đồng Tước nay còn ở Tỉnh Hà Nam.

Nhị thập tứ hiếu, có nghĩa hai mươi bốn người hiếu thảo. Truyện 24 người con hiếu thời cổ ở Trung Quốc do Quách Cư Nghiệp biên soạn. Lý Vi Phức (1785- 1849), người làng Vĩnh Thuận nay thuộc ngoại thành Hà Nội, đỗ cử nhân triều Gia Long, diễn ra quốc âm song thất lục bát với tựa Nhị thập tứ hiếu.

24 người ấy gồm: Ðại Thuấn, Hán Văn Ðế, Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên, Trọng Do, Ðổng Vinh, Diễm tử, Giang Cách, Lục Tịch, Ðường Phu nhân, Ngô Mãnh, Vương Tường, Quách Cự, Dương Hương, Chu Thọ Xương, Dữ Kiềm Lâu, Lão Lai Tử, Thái Thuận, Hoàng Hương, Khương Thi, Vương Bao, Ðinh Lan, Mạnh Tông, Hoàng Sơn Cốc.

Nhị Thập Tứ Kiều: còn có tên là Hồng Dược Kiều, ở Tỉnh Giang Tô. Thời xưa có 24 cô gái đẹp thổi sáo tại đây, nên cầu có tên này.

Nhị thập tứ sử: Theo Wikipedia_Nhị thập tứ sử, “Nhị thập tứ sử” là tên gọi chung 24 bộ chính sử được biên soạn qua các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nhị thập tứ sử ghi chép từ nhân vật Hoàng đế trong truyền thuyết cho đến năm Sùng Trinh thứ 17 (1644) nhà Minh. Toàn bộ có 3213 quyển, ước tính 40 triệu chữ. Phương pháp biên soạn sử dụng thể kỷ truyện. Đây thường được coi là một nguồn dữ liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hóa Trung Quốc, và được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, quân sự, địa lý, dân tộc và nhiều chủ đề khác.

24 bộ sử được liệt kê dưới đây:

  1. Sử kýTư Mã Thiên
  2. Hán thư – Ban Bưu, Ban Cố, Ban Chiêu
  3. Hậu Hán thưPhạm Diệp
  4. Tam Quốc chíTrần Thọ
  5. Tấn thưPhòng Huyền Linh (chủ biên)
  6. Tống thưThẩm Ước
  7. Nam Tề thưTiêu Tử Hiển
  8. Lương thưDiêu Tư Liêm
  9. Trần thưDiêu Tư Liêm
  10. Ngụy thưNgụy Thâu
  11. Bắc Tề thưLý Bách Dược
  12. Chu thưLệnh Hồ Đức Phân (chủ biên)
  13. Tùy thưNgụy Trưng (chủ biên)
  14. Nam sửLý Diên Thọ
  15. Bắc sửLý Diên Thọ
  16. Cựu Đường thưLưu Hú (chủ biên)
  17. Tân Đường thưÂu Dương Tu, Tống Kỳ
  18. Cựu Ngũ Đại sửTiết Cư Chính (chủ biên)
  19. Tân Ngũ Đại sửÂu Dương Tu (chủ biên)
  20. Tống sửThoát Thoát (chủ biên)
  21. Liêu sửThoát Thoát (chủ biên)
  22. Kim sửThoát Thoát (chủ biên)
  23. Nguyên sửTống Liêm (chủ biên)
  24. Minh sửTrương Đình Ngọc (chủ biên)

nhị Xuyên: hai con sông Vị Xuyên và Phàn Xuyên.

nhớ người hàng bánh: Ninh Vương nhà Ðường cướp vợ người hàng bánh, đã trải hàng năm mà người vợ vẫn nhớ thương người chồng cũ. Ninh Vương cho gọi người hàng bánh đến, vợ chồng trông thấy nhau, cùng ứa nước mắt. Vương lại trả cho về đoàn tụ với nhau.

nhũn như cho chi chi: Ai cũng hiểu nghĩa bóng của thành ngữ này: chỉ người quá e dè người khác. Về nghĩa đen, con chi chi là con gì?

Theo Bảo Khánh (2015) và Gabe (2017), PGS.TS Phạm Văn Tình, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam cho biết: Con chi chi có thể là một loài cá nhỏ, có thân mềm và vô cùng yếu đuối, thậm chí chỉ cần vớt lên bờ để một lúc là chúng tự tan ra hết. Tại sao lại là “có thể”? Và khi không biết chắc con này là con gì, làm thế nào mô tả được đặc tính của nó? Hay là chỉ suy đoán dựa theo nghĩa bóng của thành ngữ?

TS Nguyễn Kiêm Sơn, chuyên gia nghiên cứu về cá, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, cho biết ông chưa bao giờ nghe nói hoặc đọc tài liệu, từ điển, công trình nghiên cứu nào có nhắc đến về loài cá tên là chi chi. Nhiều khả năng chi chi không phải là tên một loài cá mà chỉ là một con vật có trong tưởng tượng của dân gian. “Tôi đã đi khắp nơi, tìm hiểu về đủ loài cá mà chưa từng nghe ai nói hoặc gặp ở đâu loài cá này. Tìm hiểu qua sách vở cũng không thấy, nên khả năng đó là một loài cá là vô cùng thấp”, TS Nguyễn Kiêm Sơn cho biết.

GS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Dân gian Việt Nam, trong dân gian Việt Nam có rất nhiều sinh vật chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của người dân, việc bóc tách và cố tìm chính xác đó là con gì thực sự rất khó. Và chi chi cũng rất có thể chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú.

Rốt cuộc, các nhà hàn lâm không thể cho ta biết con chi chi là con gì!

nhục Tĩnh Khang: từ câu “Tĩnh Khang sỉ” trong một bài từ nổi tiếng của danh tướng Nhạc Phi:

Mãn giang hồng (Máu đầy sông)) – Nhạc Phi

Tĩnh Khang sỉ
Do vị tuyết
Thần tử hận
Hà thời diệt!

Yến Lan dịch:

Nhục Tĩnh Khang
Chưa trả được
Thần dân hận
Bao giờ dứt!

Năm Tĩnh Khang thứ nhất (năm 1126) quân Kim đánh phá vùng bắc Tống rồi vào năm sau bắt đi Thượng hoàng Huy Tông, Vua Khâm Tông cùng hoàng hậu và nhiều phi tần, cung nữ, thêm vô số châu báu. Tĩnh Khang là niên hiệu của Khâm Tông chỉ có một năm, 1126. Cao Tông chạy về Nam Tống, rồi năm sau lên ngôi, đổi niên hiệu thành Kiến Viêm sau khi hai vua kia bị bắt.

Người Tàu xem nhục Tĩnh Khang là nỗi nhục to tát trong lịch sử Trung Quốc.

Trong tiểu thuyết Xạ điêu anh hùng truyện của Kim Dung, Khưu Xứ Cơ đặt tên cho hai trẻ là Quách Tĩnh và Dương Khang vì mong hai đứa nhớ đến cái nhục Tĩnh Khang.

Xem thêm: Nhạc Phi.

Như Ý, Văn Quân: tên hai nhân vật trong một vở tuồng Việt Nam.

Như Ý là một cô gái trẻ đẹp gặp trong một khu vườn nọ một chàng trai tuấn tú thuộc dòng họ nhà vua là Văn Quân đang tìm cách trốn tránh bọn quan quân đuổi bắt. Như Ý cảm vẻ trẻ trung, tuấn tú của chàng trai bèn tìm cách giúp chàng trốn thoát, bày cách cho chàng mượn một chiếc đèn lồng rồi nhờ nó mà Văn Quân đường hoàng qua được vòng vây bọn lính vì chúng tưởng là cấp chỉ huy đi tuần tra kiểm soát ban đêm. Văn Quân trốn thoát được an toàn. Như Ý từ đó cảm thấy cô đơn và đem lòng yêu Văn Quân tha thiết bèn mường tượng và vẽ lại gần giống hình Văn Quân. Về sau, Như Ý và Văn Quân gặp lại nhau, kết nghĩa vợ chồng.

Nhược thủy: Theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước; tương truyền là nơi tiên ở.

Ninh Thích hoặc Nịnh Thích: Theo Đông Chu liệt quốc và MaxReading.com, Ninh Thích là người nước Vệ thời Xuân Thu, nhà nghèo phải đi đánh xe thuê cho người ở nước Tề. Ngày kia, Tướng quốc nước Tề là Quản Trọng vừa kéo binh đến Núi Dao (tên Hán: Dao Sơn), bỗng gặp một người chăn trâu, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách ngồi trên lưng trâu, gõ sừng ca hát. Quản Trọng nghe tiếng ca biết không phải là người tầm thường, khiến quân sĩ đem rượu thịt đến cho.

Người chăn trâu ăn xong, nói: “Tôi muốn được yết kiến quan Tể tướng.” Quân sĩ nói: “Xe quan Tể tướng đã đi khỏi.” Ninh Thích nói: “Tôi có một câu này nhờ người đọc lại cho quan Tể tướng nghe. Ấy là câu: “Nước trong leo lẻo.” Quân sĩ đem lời ấy nói lại với Quản Trọng.

Quản Trọng không hiểu gì cả, liền hỏi Tĩnh nương, một người tiểu thiếp thông minh học rộng, thường được theo hầu. Tĩnh nương nói: “Thiếp có nghe, xưa có một bài thơ Nước trong. Bài thơ ấy có câu rằng: ‘Nước trong leo lẻo, cá lội giữa dòng, người đến triệu ta, ta cũng bằng lòng’. Ý chừng người ấy muốn ra làm quan”.

Quản Trọng thường được theo hầu khiến dừng xe lại, rồi sai người đòi gã chăn trâu đến hỏi. Gã chăn trâu cúi đầu thi lễ chứ không lạy, xưng tên là Ninh Thích. Quản Trọng hỏi qua họ tên, thân thế và thử thách trình độ học thức. Ninh Thích ứng đáp rất rành mạch.

Quản Trọng khen tài, bảo: “Kẻ hào kiệt lúc chưa gặp thời, không có người tiến dẫn thì sao cho rõ tài được! Đại binh của chúa công ta đi sau, chẳng bao lâu cũng đến đây, ta viết cho nhà thầy một bức thư để cầm đưa cho chúa công ta, tất chúa công trọng dụng.”

Quản Trọng viết một phong thơ, trao cho Ninh Thích để tiến cử cho Tề Hoàn Công. Nhà Vua gọi Quản Di Ngô bằng “Trọng phụ” như là người cha tinh thần, nên có ý kiến gì cũng nghe. Ninh Thích lãnh thơ, rồi ở nơi núi Dao Sơn chăn trâu như cũ.

Cách ba ngày sau, đại binh của Tề Hoàn Công kéo đến. Ninh Thích lại gõ sừng trâu ca hát vang trời, có ý chỉ trích thời thế. Nguyễn Hoài Nam trích dịch:

Nghiêu, Thuấn thái bình không được gặp
Áo cộc che thân độ đến ngang lưng
Ta cho trâu ăn từ tối đến đêm
Đêm tối mờ mờ, bao giờ thấy sáng!

Xem thêm mục: Nghiêu, Thuấn.

Dị bản:

Đời không hiền sĩ
Đất thiếu minh quân
Thương thân ta lại tủi thầm
Hỏi con trâu trắng
Hỏi cụm rừng thâm
Hùng anh sống với âm thầm mãi ư?

Tề Hoàn Công nghe lấy làm giận, sai quân đòi đến, hỏi họ tên rồi bảo: “Ngươi là một đứa chăn trâu, cớ sao lại dám gièm chê việc chính trị?”

Ninh Thích nói: “Tôi dám gièm chê chính trị đâu.”

Tề Hoàn Công nói: “Ngày nay trên thì có thiên tử nhà Chu trị vì, dưới thì các chư hầu theo lịnh. Nhân dân vui vẻ, cây cỏ tốt tươi, dẫu đời Nghiêu Thuấn thái bình chẳng qua cũng chỉ như thế. Vậy mà nhà ngươi dám bảo rằng: ‘Nghiêu Thuấn thái bình đã không được gặp’, lại bảo: ‘Đêm tối mờ mờ, bao giờ thấy sáng’. Thế không phải gièm chê chính trị là gì?”

Ninh Thích nói: “Tôi nghe nói đời Nghiêu Thuấn mưa gió thuận hòa, dân gian không phải lo sợ gì, chỉ việc cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Đời bây giờ trái lại, giềng mối đổ nát, giáo hóa suy đồi, thế mà bảo ‘Nghiêu Thuấn thái bình’ thì thật tôi không hiểu được. Vả lại đời Nghiêu Thuấn trừ bốn kẻ hung ác mà thiên hạ được yên. Từ bấy giờ không phải nói mà dân tin, không phải giận mà dân sợ. Nay chúa công mới hội chư hầu, đã thấy nước Tống bội ước, nước Lỗ hiếp thề, chinh chiến quanh năm. Tôi lại nghe nói Vua Nghiêu bỏ con là Đan Chu mà nhường thiên hạ cho ông Thuấn, Thuấn không chịu nhận bỏ trốn ra Nam Hà, trăm họ rủ nhau mà theo Thuấn. Bấy giờ ông Thuấn bất đắc dĩ mới lên nối ngôi. Nay chúa công giết anh ruột mà cướp ngôi, lại mượn uy thiên tử để sai khiến các chư hầu, nlưng chư hầu đều không phục. Vậy thì tôi không biết có phải là lối vái nhường nhau như Vua Nghiêu, Vua Thuấn ngày xưa không?”

Tề Hoàn Công nghe nói nổi giận, mắng lớn: “Đứa thất phu, dám nói càn!” Liền hô kẻ tả hữu bắt Ninh Thích đem chém.

Ninh Thích không chút sợ hãi, ngước mặt lên trời than: “Ngày xưa Vua Kiệt giết Long Bàng, Vua Trụ giết Tỉ Can, nay tôi cùng với hai ông ấy kể là ba người!”

Quan Đại phu là Thấp Bằng thấy thế, tâu với Tề Hoàn Công: “Người ấy lời nói không dua mị, lòng không sợ uy nghiêm, chắc không phải là kẻ tầm thuờng, xin Chúa công chớ nên giết.

Tề Hoàn Công sực nghĩ lại, cơn giận đã nguôi, bước tới mở trói cho Ninh Thích, và nói: “Ta thử nhà ngươi đó thôi. Nhà ngươi quả là một người khí phách.

Ninh Thích bấy giờ mới lấy phong thư của Quản Trọng dâng cho Tề Hoàn Công. Tề Hoàn Công tiếp lấy đọc, rồi nói: “Nhà ngươi đã có bức thư của Trọng phụ, sao không tâu trình cho sớm?”

Ninh Thích nói: “Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay, tôi trung chọn chúa có đức. Nếu Chúa công ghét người thẳng, ưa kẻ nịnh, thì thà tôi chết đi còn hơn là đưa thư để được trọng dụng.”

Tề Hoàn Công rất đẹp lòng, truyền ngồi vào một cỗ xe theo sau. Tối hôm ấy, khi đóng quân lại nghỉ, Hoàn Công sai thắp đèn lên tự đi tìm mũ áo. Có tên cận thần là Thụ Điêu hỏi: “Chúa công cho tìm mũ áo, có phải muốn phong cho Ninh Thích chăng?”

“Phải.”

Thụ Điêu thưa: “Từ nước ta sang Vệ chẳng xa bao nhiêu, sao chúa công không cho người sang hỏi dò xem. Nếu thực là hiền, bấy giờ sẽ phong tước cho, có chi mà vội.”

Tề Hoàn Công nói: “Người này là một bậc đại tài, không câu nệ những điều nhỏ nhặt. Hoặc giả khi ở nước Vệ, cũng có vài điều lỗi nhỏ, nếu dò hỏi biết những điều lỗi ấy chẳng lẽ lại phong tước cho. Còn nếu bỏ đi không dùng thì đáng tiếc lắm.”

Nói xong, ngay đêm hôm ấy phong cho Ninh Thích làm quan Đại phu, để cùng với Quản Trọng Ngô trông coi quốc chính.

Non Ðào: Sách Liệt tiên truyện chép ở Tỉnh Tứ Xuyên, Núi My Sơn có lắm cây Ðào, ăn quả đào ở đây sẽ được sống lâu và thành tiên.

non nước trăm hai: nhà Tần đóng đô ở Quan Trung, địa thế hiểm yếu, hai người ở trong có thể chống với 100 người ở ngoài.

nói nhăng nói cuội: “nhăng” là từ cổ, có nghĩa băng nhăng, qua quýt; Cuội là một nhân vật trong truyện kể dân gian, nổi tiếng nói dối, từ đó có thành ngữ: nói dối như cuội

Thành ngữ có nghĩa nói vu vơ, hão huyền. Đồng nghĩa: Nói hươu nói vượn.

nói nhiều hơn làm: nguyên là lời nói của Lưu Bị chúa nước Tây Thục đời Tam Quốc: “Nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được.”

Lưu Bị đánh Ngô bị đại bại, chạy về Bạch Đế Thành, lâm bịnh nặng. Trước phút lâm chung, các quan chầu chực bên long sàng. Lưu Bị nhìn thấy có Mã Thốc bèn truyền cho tạm lui ra. Đoạn hỏi Khổng Minh: “Thừa tướng xem tài Mã Thốc thế nào?”

Luu Bi thac co
Tranh minh họa Lưu Bị thác cô

Nguyên Thốc là người có tài bác lãm quần thư, quán thông kim cổ, không có điều nào hỏi mà không biết, không có sách nào hỏi mà không nhớ, nên Khổng Minh thành thật đáp: “Cũng là bậc anh tài đời này.”

Lưu Bị nói: “Không đâu! Trẫm xét thấy người ấy thường nói lớn quá sự thực mà làm thì không được như lời, không thể dùng vào việc lớn. Thừa tướng nên xét kỹ lại.”

Lưu Bị chết.

Khổng Minh đem binh ra Kỳ Sơn đánh Ngụy.

Ngụy chúa là Tào Duệ dùng Tư Mã Ý làm đô đốc cầm binh đánh Thục.

Nguyên phía tây núi Tần Lĩnh có một vị trí trọng yếu gọi là Nhai Đình, cạnh đó có thành Liệt Liễu. Hai chỗ ấy là yết hầu của Hán Trung (đất của Thục). Tư Mã Ý định kéo binh thẳng tới Nhai Đình, chiếm được điểm giao thông quan trọng này thì Dương Bình Quan của Thục cũng sắp lọt vào tay Ngụy.

Nhai Đình mất, tất Ngụy sẽ cắt đứt đường vận tải lương thực thì một vùng Lũng Tây của Thục khó giữ nổi. Như vậy Thục chỉ còn hai cách bị động: rút lui hay ở lại cố thủ. Hễ Ngụy nghe quân Thục chuyển động rút quân về Hán Trung, lập tức chia binh chận các đường nhỏ mà đánh. Nhược bằng quân Thục không lui, Ngụy sẽ cho các lộ quân đào hào, đắp lũy cố giữ chặt đứt các đường rút về của Thục, như vậy chỉ trong vòng một tháng, Thục sẽ bị tuyệt lương, quân chết đói hết.

Khổng Minh vẫn nhận thấy điều đó cho nên chọn tướng đem binh giữ Nhai Đình. Mã Thốc xin đi. Khổng Minh nói: “Nhai Đình chỉ là một mảnh đất nhỏ, nhưng can hệ vô cùng. Nếu chỗ ấy thất thủ thì cả đại quân ta nguy hết đường cứu! Ngươi tuy thâm thông mưu lược nhưng hiềm nơi ấy không có thành quách, lại cũng chẳng có thế hiểm nào mà dựa. Khó giữ vô cùng.”

Thốc nói: “Tôi làu thuộc binh thơ từ nhỏ lại cũng biết phép dùng binh, lẽ nào không giữ nổi một chỗ như Nhai Đình!”

Thấy Thốc cương quyết xin đi và lập “quân lệnh trạng” nên Khổng Minh phát cho 2 vạn 5 ngàn tinh binh và cho thêm một thượng tướng là Vương Bình trợ giúp. Khổng Minh lại kêu Bình vào dặn dò riêng: “Ta vốn biết ngươi bình sinh cẩn thận nên mới đem việc này phó thác cho. Vậy phải thận trọng đề phòng. Đóng trại ở Nhai Đình thì phải đóng chặn ngang đường chính yếu, khiến giậc không đi qua lọt. Hạ dinh trại xong, hãy vẽ ngay đường lối bốn mặt tám phương và hình thế địa lý, lập thành bản đồ đầy đủ, gởi về cho ta xem. Ngoài ra, việc gì cũng phải bàn nhau kỹ càng rồi hãy làm, chớ có coi thường. Nếu giữ được nơi ấy an toàn tức là được công đầu trong việc đánh chiếm Trường An vậy.”

Mã Thốc và Vương Bình kéo quân lên đường rồi, nhưng Khổng Minh còn cẩn thận sai thêm tướng giỏi dẫn binh đóng giữ phía đông bắc và phía sau Nhai Đình để tiếp cứu khi Nhai Đình bị nguy.

Mã Thốc, Vương Bình đến Nhai Đình, trước hết đi quan sát địa thế đóng quân. Thốc xem xét rồi cười nói: “Sao Thừa tướng cẩn thận đến thế! Một nơi ven núi thế này, quân Ngụy đâu dám bén mảng tới.”

Vương Bình nói: “Dù quân Ngụy không dám đến, ta cũng phải đóng trại vào chỗ ngã năm kia để canh giữ năm mặt đường.”

Nói rồi truyền quân sĩ đi đẵn cây đóng trại, tính kế giữ lâu dài.

Mã Thốc không bằng lòng, nói: “Ai đóng trại giữa đường bao giờ? Tiện đây có ghềnh núi, bốn mặt đều kín đáo, cây cối lại rất nhiều, chính là chỗ hiểm trời dành cho ta, cứ đóng quân ngay trên núi là hơn.”

Bình nói: “Tham quân tính sai rồi, đóng trại giữa đường đi, đào hào đắp lũy chấn ngang thì quân giặc dẫu có 10 vạn cũng không thoát qua lọt. Chớ bỏ ngã năm xung yếu này mà lên núi đóng đồn, nếu quân Ngụy ào đến bổ vây bốn mặt thì chống làm sao?”

Thốc cười ha hả: “Ngươi liệu tính không khác gì… đàn bà! Binh pháp có dạy: ‘Từ trên cao nhìn xuống, đánh địch dễ như chẻ tre’. Nếu quân Ngụy đến đây, ta sẽ đánh cho không còn mảnh giáp.”

Bình lại cãi: “Trái núi này thật là chỗ tuyệt địa. Quân Ngụy cứ chặn đứt đường lấy nước thì quân ta chẳng đánh cũng rối loạn ngay.”

Thốc gạt đi: “Đừng bàn nhảm như thế! Tôn Tử có nói: ‘Lăn vào chỗ chết mà tìm được cái sông’. Nếu quân giặc chặn đường lấy nước thì quân ta cũng liều mình tử chiến, một người địch nổi trăm tên. Ta học binh thư đã chán ra rồi. Mọi việc đến Thừa tướng còn phải hỏi ta nữa là! Sao ngươi cứ cản trở ta vậy?”

Bình đành phải khuyên: “Nếu Tham quân nhất định đóng đồn trên núi thì xin chia binh cho tôi đóng một trại nhỏ dưới chân núi phía tây, làm thế ỷ dốc. Quân Ngụy đến, ta có thể cứu ứng lẫn nhau.”

Nhưng Thốc vẫn không nghe. Bỗng thấy dân cư trong núi rầm rộ đổ ra, kéo từng tốp chạy đến, nháo nhác kêu rằng: “Giặc sắp đến nơi”. Vương Bình sốt ruột toan bỏ đi.

Mã Thốc bảo: “Ngươi đã không chịu nghe lệnh, giờ quân Ngụy sắp đến rồi, vậy ta cho ngươi 5 ngàn binh, cứ đi mà đóng trại tùy ý. Rồi đây khi phá xong quân giặc, về trước mặt Thừa tướng, ngươi đừng mong chia công với ta.”

Bình chẳng nói gì nữa, kéo ngay 5 ngàn binh xuống cách xa chân núi 10 dặm rồi hạ trại, rồi lập tức vẽ thành bản đồ, sai người đi suốt đêm về trình Khổng Minh, bẩm rõ mọi việc Mã Thốc tự ý đóng đồn trên núi…

Khổng Minh đặt bản đồ lên án, mở xem qua một lượt bỗng đập tay xuống án, kinh hãi kêu lên: “Chết chưa! Mã Thốc ngu dốt, hãm quân ta vào chỗ nguy rồi!”

Đoạn vội cho người thay Mã Thốc. Nhưng chưa kịp thì có tin cấp báo: “Nhai Đình và Liệt Liễu thất thủ cả rồi”. Khổng Minh giậm chân đập gối than rằng: “Ôi thôi, việc lớn hỏng rồi! Đây là lỗi tại ta!”

Mã Thốc phải nhờ Vương Bình, Cao Tường, Ngụy Diên đem binh tiếp ứng mới được toàn mạng.

Thốc bị xử tử theo quân pháp.

Khong Minh xu Ma Toc
Tranh minh họa Khổng Minh xử Mã Tốc

nồi cơm của Khổng Tử: câu chuyện nổi tiếng liên quan đến Nhan Hồi.

Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ – là hai học trò yêu của Khổng Tử

Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.

May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.

Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm lên miệng.

Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò yêu nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, ăn vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”

Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ.

Một lát sau, rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.

Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước… Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?

Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!”

Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không.”

Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”

Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”

Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín, con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra định vứt đi, nhưng lại nghĩ: ‘cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại.’ Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!”

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

nối điêu: Do chữ tục điêu.

Điêu là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bè đảng, cả bọn lính hầu cùng bọn tôi tớ phục dịch cũng được phong tước. Mỗi khi triệu hội, đẩy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy chê giễu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào).

Nàng rằng: Vâng biết ý chàng
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu
Hay hèn lẽ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.

(“Nối điêu” là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh)

nồi da nấu thịt: xuất phát từ chuyện thợ săn ngày xưa phải làm thịt thú ăn ngay giữa rừng. Vì không có nồi, họ thường lột da thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà hại lẫn nhau.

Thành ngữ trên được gắn với hai anh em Nguyễn Nhạc (Thái Đức hoàng đế 1778-1793) và Nguyễn Huệ (Quang Trung hoàng đế 1789-1792). Hai người thường động binh kiềm chế lẫn nhau để tranh quyền. Khi thành bị vây hãm, Nguyễn Nhạc yếu thế đã than với em rằng: “Nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ?”

Nhắc đến việc trên, ở Bình Định có các câu ca dao:

Lỗi lầm anh vẫn là anh
Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em!

Da nai mà nấu thịt nai
Việc đời như thế không ai động lòng
Thịt nai mà chín bên trong
Da nai cũng cháy còn mong nỗi gì!

nổi quân Hạ: Nói việc Vua Thiếu Khang nổi quân dựng lại nghiệp, trung hưng nhà Hạ.

Nội kinh: còn có tựa Hoàng Đế Nội kinh, là pho sách thuốc rất cổ gồm bộ Tố vấn và bộ Linh Khu hợp lại, dạy về nguyên lý cơ bản và phép châm cứu của Ðông y. Hoàng đế nội kinh là tác phẩm kinh điển được coi là công trình lý luận hàng đầu của nền Y học Đông phương. Các danh y ngày xưa như Hoa Đà, Biển Thước, Y Doãn, Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh… đều coi đây là sách gối đầu giường trong việc nghiên cứu, chẩn trị, bổ, tả liệu dược bệnh nhân và truyền dạy môn sinh đệ tử, và cho đến ngày nay bộ sách vẫn được sử dụng trong thực tế lâm sàng.

nơi nghĩa ở nhân: Mạnh Tử: “Thân ta không thể ở vào chỗ nhân, đi theo con đường nghĩa, gọi đó là mình tự bỏ mình. Nhân là nhà yên ấm của con người, Nghĩa là con đường chính của người.”

nợ ba sinh: xem ba sinh.

nợ như Chúa Chổm: xem mục Chúa Chổm.

núi đất ba lời: Nói 3 lời hẹn ước của Quan Vân Trường trên núi đất.

Tam Quốc diễn nghĩa: Tào Tháo khởi 20 vạn quân đánh Lưu Bị. Lưu Bị thua to phải chạy sang nương nhờ Viên Thiệu. Bấy giờ, Quan Vân Trường đóng giữ Hạ Bì. Tào Tháo đem quân đến đánh, Hạ Bì thất thủ. Vân Trường phải rút quân lên núi đất đóng quân tạm nghĩ. Tào Tháo cho Trương Liêu lên dụ Quan Vân Trường hàng.

Thế cô lực kiệt, Vân Trường giao ước: “Tôi có 3 điều giao ước, nếu Thừa tướng (Tào Tháo) nghe cho, tôi xin lập tức cởi giáp lai hàng, nhược bằng không nghe, tôi đành chịu 3 tội mà chết. Một là: Ta cùng Hoàng thúc (chỉ Lưu Bị) có lập lời thề cùng nhau giúp nhà Hán, nay ta chỉ hàng vua Hán, không hàng Tào Tháo. Hai là: 2 chị dâu ta phải được cấp dưỡng theo bổng lộc của Hoàng Thúc, nhất nhất người ngoài không được đến cửa. Ba là: Hể ta được thấy Hoàng thúc ở đâu, ta lập tức cáo từ rồi đi theo. Ba điều ấy nếu thiếu một điều, ta nhất định không hàng.”

Tào Tháo ưng thuận. Vân Trường rất được Tháo hậu đãi cốt làm ông phải chịu ơn nặng mà không nở bỏ mình về với Lưu Bị nữa, nhưng sau khi biết được tin Lưu Bị, Vân Trường liền từ tạ Tào Tháo mà về với Lưu Bị.

Núi Vọng Phu: cũng có tên là núi Mẫu Tử, cao 2051 thước, thuộc Tỉnh Dak Lak.

Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời; bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn. Hai khối đá này tương tự hình người. Đứng xa ngoài 40 cây số vẫn còn trông rõ. Và, người ta có cảm tưởng như đó là một người mẹ đang bồng đứa con, phóng tầm mắt ra biển khơi đón chờ một người đi mà không bao giờ trở lại. Và, căn cứ theo truyện cổ tích, dân chúng địa phương mới đặt tên núi này là núi Vọng Phu. Người Thượng gọi là T.Yang-Mten.

Tương truyền một thời xa xưa, có hai vợ chồng một bác tiều phu hiếm hoi con, nên bà vợ thường đi cầu tự khắp các đền chùa quanh vùng. May mắn, một ngày kia, bà hạ sinh được một cô con gái; qua năm sau lại hạ sinh được một cậu con trai. Vợ chồng tiều phu rất đỗi vui mừng, cám ơn Trời Phật đã nhỏ lòng thương đến.

Hai chị em lớn lên trong tình thương của cha mẹ.

Một hôm, hai chị em đang ngồi róc mía ăn. Vì giành nhau nhiều ít, đứa em sẵn có con dao trong tay, giáng một nhát lên đầu chị, máu tuôn xối xả. Kinh sợ và hối hận, đứa em bỏ chạy mất. Cha mẹ tìm khắp nơi vẫn không thấy. Vì nhớ con, hai ông bà ngày càng héo mòn rồi lần lượt theo nhau qua đời. Đứa con gái sống bơ vơ, không người thân quyến nương dựa, phải bỏ đi nơi khác tìm cách nuôi thân.

Còn đứa em chạy đến bờ biển, gặp chiếc thuyền buôn sắp nhổ neo vào Nam, liền xin đi theo học nghề buôn bán. Thời gian trôi qua, nó khôn lớn lên và làm ăn khá giả. Bấy giờ lòng chạnh nhớ quê hương, cha mẹ càng nổi dậy nên nhất định về quê. Nhưng, than ôi, khi về đến thì cha mẹ đã hóa người thiên cổ, chị thì bỏ đi biệt tích.

Qua cơn xúc động, chàng sang một làng gần đó sinh cợ lập nghiệp. Chàng gặp một cô gái mồ côi, làm ăn lam lũ nhưng tính nết hiền lành. Cảm vì cùng cảnh ngộ, hai người đem lòng yêu nhau và thành đôi vợ chồng. Ở với nhau một thời gian trong cảnh gia đình thuận hòa đầm ấm, người vợ lại sinh được một trai. Không khí gia đình càng thêm mặn nồng.

Một hôm, người vợ gội đầu sau nhà, người chồng đi làm về, ra đứng xem. Vô tình, chàng thấy ẩn dưới làn tóc vợ có một vết thẹo, lấy làm lạ mới hỏi nguyên do. Người vợ thực tình kể lại kỷ niệm buồn mười năm xưa. Người chồng lặng điếng người khi nhận ra đó là người chị ruột của mình.

Người chồng hết sức đau khổ vì chàng vô tình đã phạm phải lỗi loạn luân. Nhưng chàng đành chôn sâu nỗi khổ tâm ấy tận đáy lòng, không dám cho vợ biết.

Thế rồi ngày hôm sau, lấy cớ đi buôn chuyến xa, chàng từ giã vợ con, giong buồm ra khơi, hẹn ngày trở lại. Người vợ có ngờ đâu lời hẹn về ấy hóa thành lời vĩnh biệt của chồng.

Thời gian năm tháng trôi qua, chồng vẫn không thấy trở về mà âm tín cũng vắng bặt. Buồn rầu, đau khổ, nàng bồng con trèo lên đỉnh núi cao, trông ra ngoài biển cả, mỏi mòn tìm xem có thấy cánh buồm của chồng xuất hiện đâu không? Nhưng than ôi:

Bao năm đâu quản gió mưa
Bồng con đứng đợi vẫn chưa thấy về
Thời gian phai xóa lời thề
Mẹ con hóa đá bên lề tháng năm

(Thơ của Bình Nguyên Lộc).

Từ đấy, những bạn thuyền đi biển, khi qua miền Trung, thấy buồm không căng gió, liền hát lên câu ca dao để mong nàng Vọng Phu giúp đỡ:

Lạy bà cho thổi gió nồm
Chồng bà ở Quảng giong buồm theo vô

Hay là:

Lạy bà cho thổi gió đông
Cho thuyền tôi chạy cho chồng bà lên

Núi Vu: xem mây mưa.

nụ cười nghìn vàng: từ câu nhất tiếu thiên kim. Ý nói giá trị nụ cười của Bao Tự.

Nhà Chu, U Vương (781–770 tCN) có Hoàng hậu tên Bao Tự (cũng có tên Bao Tỷ), người có sắc đẹp lộng lẫy, nhà Vua cực kỳ sủng ái. Có điều lạ, Bao Tự không bao giờ cười. Người đẹp mà cười tất nụ cười càng đẹp, càng duyên dáng thế nào, nên nhà Vua muốn nhìn được nụ cười ấy, mới hỏi, thì nàng đáp: “Tiện thiếp chẳng thiết gì cười. Hôm trước có người xé lụa, nghe tiếng cũng lấy làm vui.”

U Vương liền truyền lệnh cho viên quan giữ kho, mỗi ngày phải đưa vào cung 100 tấm lụa, rồi sai cung nữ đứng xé. Nhưng Bao Tự vẫn chẳng cười. Vua hỏi: “Sao trẫm không bao giờ được nhìn thấy nụ cười của ái khanh?”

Bao Tự thản nhiên đáp: “Tiện thiếp tính vốn ít cười. Tự nhiên như vậy.”

Nhà Vua cười bảo: “Trẫm sẽ có cách làm cho ái khanh cười!”

Thế là Vua truyền lệnh cho các quan: ai có cách nào làm cho Hoàng hậu cười được thì sẽ trọng thưởng một nghìn lượng vàng. Bấy giờ có viên quan tên Quách Thạch Phủ bày mẹo: “Tiên vương xưa có xây hơn hai mươi chòi canh (phong hỏa đài) ở Ly Sơn, lại đặt mấy mươi cỗ trống to, phòng lúc có giặc sẽ nổi lửa trên chòi và đánh trống báo hiệu cho các chư hầu đem quân đến cứu. Ðã lâu rồi thiên hạ thái bình, không bao giờ cần nổi lửa. Nay nhà Vua muốn cho Hoàng hậu cười thì xin nhà Vua hãy cùng Hoàng hậu ngự chơi Ly Sơn, rồi đến đêm nổi lửa đốt lên, bấy giờ chư hầu các nơi sẽ đem quân đổ đến. Hoàng hậu thấy chư hầu bị mắc lừa tất phải bật cười.”

U Vương khen phải, rồi cùng Bao Tự đến Ly Sơn bày tiệc ăn uống trên lầu cao, đoạn truyền cho người đốt lửa và nổi trống. Lửa đỏ ngất trời, tiếng trống hiệu ầm ầm như sấm.

Các trấn chư hầu tưởng kinh đô có loạn, vội sai tướng điều quân, suốt đêm kéo về cứu giá. Không thấy giặc giã đâu cả, chỉ thấy U Vương cùng Bao Tự đang say sưa chè chén bên cạnh bọn cung nữ hát múa, nhạc trỗi vang vầy. U Vương cho người ra bảo: “Rất may là không có giặc giã gì. Vậy chẳng dám phiền đến các chư hầu.”

Bao Tu

Quân tướng các trấn chư hầu ngơ ngác, nhìn nhau rồi truyền cuốn cờ trở về. Bao Tự ngồi trên lầu nhìn thấy quân đội trùng trùng điệp điệp tất tả kéo đến, rồi tiu nghỉu kéo về thì lấy làm thích chí, vỗ tay cười. Nhìn nụ cười tươi tắn của Bao Tự, U Vương cực kỳ thống khoái, kêu lên: “Một nụ cười của ái khanh thật đủ muôn vẻ đẹp.”

U Vương liền truyền đem nghìn lượng vàng thưởng cho Quách Thạch Phủ.

Nhưng sau, quân Khuyển Nhung sang đánh phá, tiến đến Kiểu kinh (kinh đô nhà Chu), U Vương đại bại truyền đốt phong hỏa ở Ly Sơn để cầu cứu. Các trấn chư hầu vì bị mắc lừa lần trước, cho là nhà Vua và Hoàng hậu đang yến ẩm nên không đem quân cứu viện. U Vương bị chúa Khuyển Nhung bắt giết chết. Còn Bao Tự lại sa vào tay của chúa Khuyển Nhung.

Nhưng cuối cùng, các trấn chư hầu xua quân phản công. Quân Khuyển Nhung đại bại. Chúa Khuyển Nhung bỏ chạy. Bao Tự không theo kịp, tự tử.

Lý Bạch có câu: Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim (nụ cười của người đẹp đổi nghìn vàng).

Vương Tăng Nhu vịnh nàng Sủng Cơ, có câu:

Tái cổ liên thành dịch
Nhứt tiểu thiên kim mãi

Nghĩa:

Nhìn lại nửa thành liền cũng chuyển
Một nụ cười nghìn vàng cũng mua

Đoạn trường tân thanh, Mã Giám Sinh nhìn thấy sắc đẹp của Kiều, hắn ca ngợi:

Ðã nên quốc sắc thiên hương
Nụ cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa

nước an làm trí, nước loàn làm ngu: Sách Luận ngữ ghi Khổng Tử nói: Ninh Vũ Tử là người trí khi nước có đạo, lại là người ngu khi nước không đạo. Người ta có thể theo kịp cái trí của ông chứ không thể theo kịp cái ngu của ông.

nước Dương: Nước phép của nhà Phật. Quan Âm lấy nhành Dương Chi nhúng nước Cam lồ vẫy lên chúng sinh để dập tắt đau khổ của người đời.

Nữ Oa: Nhân vật thần thoại Trung Hoa, trước kia trời chưa kín hẳn, đội đá vá trời.

Oa Ngưu: Giống động vật nhỏ, hình tròn dẹt, mình mềm, đầu có sừng, ngọn sừng có mắt. Trang Tử có nói “Có thể dựng nước trên sừng con Oa Ngưu”, ý nói sự bé nhỏ.

Ô Giang: sông Ô ở Cai Hạ, nơi Hạng Vũ bị quân Lưu Bang và các tướng lãnh dồn tới đường cùng, và Hạng Vũ tự sát chết cùng 28 tướng sĩ cuối cùng.

ôm cây đợi thỏ: Sách Hàn Phi Tử: Có người nước Tống một hôm đang cày ruộng, trong ruộng có một cây to, một con thỏ chạy đâm vào cây mà chết. Thấy vậy, người đó bèn bỏ cày, chạy lại ôm cây mong được thỏ nữa.

Chuyện này chê người chí mọn không biết phân tích, cứ cứng nhắc làm việc một cách mù quáng, ngu tối.

(Ðừng lầm điển này với ấp cây.)

Ôn Công: tức Tư Mã Quang.

Tống sử: Tư Mã Quang rất chăm đọc sách, sợ mình nằm ngủ quên nên đẽo chiếc gối tròn để khi nằm đọc sách, nếu có buồn ngủ thi chiếc gối tròn lăn đi mà sực tỉnh dậy đọc tiếp.

Ôn Phi Khanh: người đời Đường, tư chất thông minh, làm từ phú rất hay nhưng không biết giữ gìn tính nết, thích nói lời dâm đãng, bị sĩ phu thời bấy giờ khinh bỉ.

ông già Ba Tri: một người có thật, tên Thái Hữu Kiểm hay Cả Kiểm, sống vào đầu thời Minh Mạng (trị vì 1820-1840). Ông Thái Hữu Kiểm là cháu nội ông Thái Hữu Xưa, gốc ở Quảng Ngãi, sinh cơ lập nghiệp ở Ba Tri từ thế kỷ 18. Ông Xưa từng có công giúp chúa Nguyễn Ánh, được phong chức “Trùm cả An Bình Đông” Quận Ba Tri. Năm 1806, ông Kiểm dựng Chợ Trong bên cạnh Rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này có nơi làm ăn sinh sống. Khi đó có ông Xã Hạc ở Chợ Ngoài chơi ép, đắp đập ngăn khiến cho ghe thuyền từ Sông Hàm Luông không thể vào Chợ Trong. Ông Kiểm bất bình, kiện lên phủ Huyện, phủ Huyện xử Chợ Trong thua với lập luận: “Mỗi làng đều có quyền đắp đập trong địa phận làng mình”.

Cả Kiểm cùng dân buôn bán ở Chợ Trong không chịu phán quyết trên. Ông liền cùng hai ông già nữa là Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi, khăn gói đi bộ từ Ba Tri ra Huế (lộ trình khoảng hơn 1000 cây số) để đưa đơn lên nhờ vua phúc thẩm lại phán quyết bất công kia. Cuối cùng, sau một thời gian dài dò đường đi, ba ông già tới nơi. Lúc này Gia Long mới băng hà, Minh Mạng vừa lên ngôi. Vua thụ lý rồi xử cho dẹp bỏ đập, với lý do rạch là rạch chung, là tuyến giao thông đường thủy chung cho cả Chợ Ngoài lẫn Chợ Trong.

Từ sau lần kiện tụng thành công đó, dân Bến Tre gọi ông Cả Kiểm là “Ông già Ba Tri”.

Sau này, thành ngữ “Ông già Ba Tri” trở thành phổ biến trong dân gian, để chỉ người tuy có vị thế thấp nhưng cứng cỏi, cương quyết tranh đấu cho công lý.

Phạm Lãi: Tướng tài, đã giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô dựng nước Việt.

Xem Ðào Công, Tây Thi.

Phạm Thư: dưới đây là câu chuyện theo Sử ký.

Phạm Thư (? – 255 tCN) là người nước Ngụy, tên tự là Thúc. Phạm Thư đi du thuyết ở các nước chư hầu, ý muốn giúp việc cho Vua Ngụy, nhưng vì nhà nghèo, không có gì để làm vốn, trước tiên phải giúp việc cho trung đại phu nước Ngụy. Tu Giả vâng lệnh Ngụy Chiêu Vương đi sứ sang Tề. Phạm Thư đi theo. Hai người ở lại mấy tháng không có kết quả. Vua Tề Tương Vương nghe nói Thư có tài biện luận, bèn sai người biếu Thư mười cân vương cùng với thịt bò và rượu, Thư từ chối không dám nhận. Tu Giả biết việc đó giận lắm, cho rằng Thư được những tặng phẩm ấy là vì đã đem những điều bí mật của nước Ngụy ra nói với nước Tề nên sai Thư chỉ nhận thịt bò và rượu, còn trả vàng lại.

Sau khi trở về nước, Giả giận Thư cho nên nói với tướng quốc nước Ngụy là Ngụy Tề, một trong những công tử của nước Ngụy. Ngụy Tề cả giận, sai môn hạ lấy roi đánh Thư. Đánh gãy xương sườn, rụng răng, Thư giả vờ chết, bị người ta lấy chiếu bó lại vứt vào trong nhà xí. Khách khứa uống rượu say thi nhau đái lên người Thư, cốt làm nhục Thư để răn những người sau đừng nói bừa bãi. Thư nằm trong chiếu nói với người giữ nhà xí: “Nếu ông có thể đưa tôi ra thì thế nào tôi cũng xin hậu tạ.”

Người giữ nhà xí mới xin đem con người chết ở trong chiếu vứt ra ngoài.

Ngụy Tề đang say, trả lời: “Được.”

Phạm Thư nhờ vậy được thoát. Về sau Ngụy Tề hối hận, lại sai người tìm bắt. Người nước Ngụy là Trịnh An Bình nghe tin ấy bèn mang Phạm Thư đi trốn. Thư ẩn nấp, đổi tên họ là Trương Lộc.

Lúc bấy giờ, Tần Chiêu Vương sai người yết giả là Vương Kê sang Ngụy, Trịnh An Bình giả làm lính, hầu hạ Vương Kê. Vương Kê hỏi: “Nước Ngụy có người nào giỏi có thể cùng ta đi về phía Tây được không?”

Trịnh An Bình nói: “Trong làng của tôi có ông Trương Lộc muốn yết kiến ngài để bàn việc thiên hạ. ông ta bị người ta thù không dám gặp mặt ngài ban ngày.”

Vương Kê nói: “Đến đêm ngươi cùng ông ta đến.”

Đang đêm, Trịnh An Bình cùng Trương Lộc đến yết kiến Vương Kê. Nói chưa hết buổi, Vương Kê đã biết ngay Phạm Thư là người giỏi, bèn bảo: “Tiên sinh đợi tôi ở phía Nam gò Tam Đình.”

Hai người cùng hẹn hò riêng với nhau rồi chia tay.

Vương Kê từ giã nước Ngụy ra đi, qua nơi đã hẹn, mang Phạm Thư lên xe chở vào nước Tần. Khi đi đến Hồ Quan, nhìn xa thấy xe và quân kỵ ở phía Tây đi lại.

Phạm Thư hỏi: “Người đến là ai thế?”

Vương Kê nói: “Đó là Nhương Hầu, thừa tướng nước Tần đang đi phía Đông kinh lý các huyện các ấp.”

Phạm Thư nói: “Tôi nghe nói Nhương Hầu chuyên quyền ở nước Tần, ghét việc đưa những người khách ở các nước chư hầu vào Tần, tôi sợ ông ta làm nhục tôi, tôi hãy tạm trốn trong xe.”

Một lát sau Nhương Hầu quả nhiên đến úy lạo Vương Kê, nhân tiện dừng xe hỏi: “Ở Quan Đông có tin gì mới không?”

Vương Kê nói: “Không có tin gì.”

Nhương Hầu hỏi tiếp: “Ông yết giả có đem người khách nào ở chư hầu cùng về đó không? Đem về vô ích, chỉ tổ làm cho nước nhà rối loạn mà thôi.”

Vương Kê nói: “Không dám ạ.”

Rồi từ biệt ra đi.

Phạm Thư nói: “Tôi nghe nói Nhương Hầu là người lắm mưu trí, nhưng thấy việc thì chậm. Lúc nãy ông ta nghi trong xe có người nhưng quên lục soát.”

Vì vậy Phạm Thư xin xuống xe để chạy, nói: “Thế nào ông ta cũng sẽ hối hận về việc kia.”

Đi được hơn mười dặm, quả nhiên Nhương Hầu sai quân kỵ quay lại lục trong xe. Khi không thấy có khách, họ mới thôi. Vương Kê cùng Phạm Thư vào Hàm Dương.

Sau khi báo công việc đi sứ xong, Vương Kê nhân tiện nói: “Nước Ngụy có ông Trương Lộc là một tay biện sĩ trong thiên hạ. Ông ta nói: ‘Nước Tần nguy như trứng để đầu đẳng’. Nếu được ông ta thì sẽ yên ổn. Nhưng điều đó không thể truyền đạt bằng thư từ. Cho nên thần chở ông ta lên xe về.”

Vua Tần không tin, sai cho ở tại nhà khách, ăn cơm rau, chờ đợi hơn một năm.

Lúc bấy giờ Chiêu Vương đã làm vua được ba mươi sáu năm. Phía Nam, nước Tần đã lấy đất Yên, đất Sính của nước Sở. Sở Hoài Vương bị giữ lại và chết ở đất Tần. Quân Tần phía Đông đánh phá nước Tề, Dẫn Vương đã có lần xưng đế sau đó lại thôi. Tần mấy lần làm cho đất Tam Tấn nguy khốn, chán ghét những kẻ biện sĩ trong thiên hạ, không tin dùng ai.

* Phạm Thư du thuyết vua Tần

Hoa Dương Quân Nhương Hầu là em trai của Tuyên thái hậu, mẹ của Chiêu Vương, Kinh Dương Quân và Cao Lăng Quân đều là em cùng mẹ của Chiêu Vương. Nhương Hầu làm thừa tướng, ba người thay nhau làm tướng quân đều có đất phong. Nhờ thế lực của thái hậu, nên nhà riêng của họ giàu có hơn cả nhà vua. Đến khi Nhương Hầu làm tướng quân nước Tần, ông ta lại muốn vượt qua nước Hàn và nước Ngụy để đánh ấp Cương Thọ của nước Tề, ý ông ta muốn mở rộng đất phong của mình là đất Đào.

Phạm Thư bèn dâng thư lên nhà vua, nội dung như sau:

Thần nghe nói khi nào vua sáng trị vì thì người có công được thưởng, người có tài được làm quan; người khó nhọc nhiều được hưởng lộc hậu, người có công nhiều được tước cao, người nào biết cai trị dân chúng thì chức quan lớn. Cho nên nhũng kẻ không có tài không dám giữ chức, những kẻ có tài năng cũng không dám trốn tránh ở ẩn. Nếu nhà Vua cho lời nói của thần là đúng thì xin nhà Vua đem ra thi hành để càng làm sáng tỏ cái đạo ấy. Nếu nhà Vua cho lời nói của thần là không đúng thì giữ thần mãi ở đây cũng không có ích gì.

Tục ngữ có câu: ‘Vị vua tầm thường thì thưởng người mình yêu mà phạt người mình ghét. Vị vua sáng thì không thế. Khi thưởng thi nhất định thưởng cho người có công; khi phạt thì nhất định phạt kẻ có tội. Nay bụng của thần không đáng chịu đao kiếm, lưng của thần không đáng chịu búa rìu, thần dám đâu đem những việc không chắc chắn để chịu hình phạt của bệ hạ? Dù cho thần là người thấp hèn nên bị bệ hạ coi thường làm nhục đi nữa, lẽ nào bệ hạ lại không trọng con người dung nạp thần đã nói đi nói lại với bệ hạ hay sao?

Vả chăng, thần nghe nói nhà Chu có ngọc ‘Chỉ ách, nước Tống có ngọc ‘Kết lục’, nước Sở có ngọc ‘Biện hòa’, nước Lương có ngọc ‘Huyền lê’. Bốn vật quý ấy do đất đai sinh ra, bị người thợ khéo bỏ rơi nhưng vẫn là đồ vật quý giá của thiên hạ; nhưng con người bị vua thánh vứt bỏ, lẽ nào lại không đủ để giúp ích cho nước nhà hay sao? Thần nghe nói kẻ khéo làm lợi cho nhà thì thu lấy cả cái lợi ở nước, người khéo làm lợi cho nước thì lấy cái lợi ở chư hầu [ám chỉ Nhương Hầu]. Thiên hạ có vị vua sáng thì chư hầu không thể chiếm được cái lợi. Tại sao? Vì nhà vua tước mất cái vinh của họ đem về cho mình. Người thầy thuốc giỏi biết được người bệnh sống hay chết, vị vua thánh thấy rõ việc thành hay bại: có lợi thì làm, có hại thì bỏ, nghi ngờ thì thử một ít xem sao? Tuy Vua Hạ Vũ, Vua Thuấn sống lại cũng không thể thay đổi được cái phép tắc ấy.

Lời nói sâu xa thì thần không dám viết vào giấy, lời nói nông cạn thì nhà Vua không cần phải nghe. Phải chăng đó là vì thần ngu không hợp với ý muốn nhà vua, hay là con người tiến cử thần ở địa vị thấp hèn nên lời nói không đáng dùng? Nếu như không phải như vậy, thì thần xin nhà Vua cho phép có lúc nào rảnh được ngước nhìn nhan sắc, nói một lời không có công hiệu, thần xin chịu tội búa rìu.

Tần Chiêu Vương cả mừng, xin lỗi Vương Kê, sai người lấy xe đưa Phạm Thư vào. Phạm Thư bấy giờ mới được vào yết kiến nhà Vua ở Ly cung. Phạm Thư giả vờ không biết cung nhà vua, cứ bước vào trong. Nhà Vua đến, bọn hoạn quan giận đuổi Thư, nói: “Nhà Vua đến đấy!”

Phạm Thư giả vờ không biết, nói: “Nước Tần làm gì có vua! Nước Tần chỉ có thái hậu và Nhương Hầu mà thôi.”

Ý Phạm Thư muốn khích cho nhà Vua giận. Chiêu Vương đến, nghe lời của Phạm Thư cãi nhau với viên hoạn quan, liền đến đón tiếp, xin lỗi mà nói: “Đáng lý quả nhân phải thân hành lĩnh giáo ngài đã lâu. Nhưng vì có vụ Nghĩa Cừ, gấp quả nhân ngày đêm thân hành thỉnh giáo thái hậu. Nay việc Nghĩa Cừ đã xong, quả nhân mới được thỉnh giáo, thực quả nhân trộm biết mình hồ đồ mờ tối. [Vua của bộ lạc Nghĩa Cừ và Tuyên thái hậu gian díu với nhau sinh hai con. Tuyên thái hậu lừa giết Vua Nghĩa Cừ ở Cam Tuyền rồi sau đem binh tiêu diệt Nghĩa Cừ. Câu nói này chứng tỏ nhà Vua cũng cho lời nói của Phạm Thư là đúng.]

Nhà Vua cung kính theo lễ khách chủ, Phạm Thư nhún nhường. Hôm ấy thấy Phạm Thư yết kiến nhà Vua tất cả các quan không ai không rùng mình biến sắc mặt, thay đổi thái độ. Vua Tần đuổi tả hữu ra ngoài. Trong cung không có ai.

Vua Tần quỳ xuống, cầu khẩn: “Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân?”

Phạm Thư đáp: “Dạ, dạ.”

Một lát sau, Vua Tần lại quỳ xuống nói: “Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân?”

Phạm Thư đáp: “Dạ, dạ.”

Như thế ba lần. Vua Tần quỳ xuống nói: “Thế là tiên sinh cuối cùng vẫn không làm ơn dạy bảo quả nhân sao?

Phạm Thư nói: “Thần đâu dám thế. Thần nghe nói ngày xưa khi Lữ Thượng [tức Lã Vọng] gặp Văn Vương, thì Lữ Thượng chỉ là người câu cá ở bến sông Vị mà thôi. Như thế tức là quen biết sơ. Sau khi nói xong, Văn Vương lập Lữ Thượng làm thái sư, chở lên xe cùng về. Đó là vì lời nói của ông ta sâu sắc, cho nên Văn Vương nhờ có Lữ Thượng mà lập được công, cuối cùng làm vương cả thiên hạ. Trước đây giả sử Văn Vương coi Lữ Thượng là người xa lạ, không cùng nói những lời sâu sắc, thì nhà Chu đã không có cái đức làm thiên tử, và Văn Vương, Vũ Vương không nhờ ai để lập nên nghiệp vương. Ngày nay thần với nhà Vua là kẻ sơ giao, nhưng việc thần muốn trình bày lại là những việc giúp đỡ nhà vua, đụng chạm đến nơi cốt nhục của hoàng gia, thần muốn đem tấm lòng trung ngu dại của mình để tâu lên nhưng chưa biết lòng Vua như thế nào. Vì vậy cho nên nhà Vua hỏi ba lần mà thần vẫn không dám đáp. Không phải thần có điều lo sợ nên không dám nói đâu.

“ Thần biết rằng hôm nay được nói trước mặt nhà vua, rồi ngày mai sẽ bị chết, nhưng thần cũng không dám từ chối. Nếu đại vương quả thực tin dùng lời nói của thần thì đối với thần, cái chết không phải là điều đáng lo, việc trốn tránh không đáng làm cho thần sợ, việc sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người điên, cũng không đủ làm cho thần xấu hổ. Vả chăng, Ngũ đế là những người thánh mà chết; Tam vương là nhân, người nhân mà chết; Ngũ bá là những người hiền mà chết; O Hoạch, Nhiệm Bỉ là những người khỏe mà chết; Thành Kinh, Mạnh Bôn Vương Khánh Ky, Hạ Dục là những người dũng cảm mà chết.

“ Cái chết là điều người ta không ai tránh khỏi. Gặp cái thế tất nhiên, nếu có làm được điều gì có thể bổ ích cho nước Tần một chút thì đó là điều thần rất mong muốn vậy, thần có sợ gì đâu? Ngũ Tử Tư bị bỏ vào đẫy đem ra khỏi cửa Chiêu Quan, ban đêm đi, ban ngày thì nấp, đến đất Lăng Thủy không có gì nuôi miệng, bèn quỳ bằng đầu gối, bò lết, cúi đầu lạy ở trần, vỗ bụng, thổi sáo, ăn xin ở chợ Ngô, cuối cùng làm cho nước Ngô hưng khởi. Thạp Lư thành bá.

“ Nếu như thần được trình bày tất cả mưu kế của mình như Ngũ Tử Tư, thì dù phải suốt đời không được gặp lại nhà vua, nhưng cái thuyết của thần được thi hành, thì thần có gì là lo sợ? Cơ Tử, Tiếp Dư sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người điên, nhưng vô ích đối với nhà vua. Nếu như thần được xếp cùng một hàng với Cơ Tử nhưng lại có điều bổ ích cho vị vua mình cho là người hiền, thì đó thực là một vinh dự lớn của thần. Thần có xấu hổ gì đâu? Điều thần sợ chỉ là sợ rằng sau khi thần chết thiên hạ thấy thần tận trung mà chết, vì vậy cho nên khóa miệng, bó chân không ai dám hướng về nước Tần mà thôi. Bệ hạ ở trên thì sợ thái hậu nghiêm khắc, ở dưới bị bọn gian thần lừa dối, ngồi ở trong thâm cung chưa hề rời khỏi tay người nâng niu, suốt đời bị mê hoặc, không có ai nêu rõ gian tà. Tai họa này nếu lớn thì tôn miếu bị tiêu diệt, nếu nhỏ thì bản thân mình cô độc hiểm nguy, đó là điều thần sợ. Còn như việc cùng khổ, sỉ nhục, chết chóc thì thần đâu dám sợ. Nếu thần chết mà nước Tần được thịnh trị thì còn hơn là sống.”

Vua Tẩn quỳ xuống nói: “Sao tiên sinh nói thế? Nước Tần ở nơi xa xôi hẻo lánh, quả nhân ngu dại, tiên sinh đã hạ cố đến đây, đó là trời kia đưa quả nhân đến làm phiền tiên sinh để bảo tồn tôn miếu của tiên vương vậy. Quả nhân được nghe lời chỉ giáo của tiên sinh, đó là trời thương đến tiên vương mà không vứt bỏ đứa con côi cút. Tiên sinh có việc gì mà nói như vậy? Bất kỳ việc lớn việc nhỏ, trên từ thái hậu, dưới đèn các quan đại thần, xin tiên sinh chỉ giáo hết cho quả nhân, chứ đừng nghi ngờ quả nhân.

Phạm Thư lạy mà Vua Tần cũng lạy. Phạm Thư nói: “Nước của đại vương bốn phía có biên giới vững vàng: phía Bắc có núi Cam Tuyền, cửa ải Cốc Khẩu, phía Nam có dãy sông Kinh, sông Vị, bên phải có đất Lũng Tây, đất Thục, bên trái có cửa ải Hàm Cốc, núi Hào, quân đội thiện chiến có trăm vạn, xe trận có ngàn cỗ, gặp lợi thì xông ra đánh, bất lợi thì rút vào cố thủ. Đó là đất của bậc vương giả vậy! Dân khiếp sợ việc đánh nhau riêng, nhưng dũng cảm trong việc chiến đấu cho nước nhà, đó là dân của bậc vương giả. Nhà Vua nắm được cả hai cái địa lợi, nhân hòa đó.

“ Còn việc lấy quân đội Tần dũng mãnh, xe ngựa đông đúc để khống chế chư hầu thì cũng dễ như xua chó Lô khỏe của nước Hàn đuổi đánh con thỏ què vậy. Cơ nghiệp bá vương có thể làm được, nhưng vì các quan không ai xứng chức vị của mình, cho nên đóng cửa ải đến nay đã mười lăm năm, không dám đem binh lực đánh các nước ở Sơn Đông. Sở dĩ như vậy là vì Nhương Hầu không trung thành với việc mưu lợi ích cho nước Tần và kế của đại vương có chỗ sai lầm vậy.”

Vua Tần quỳ xuống nói: “Quả nhân xin nghe xem kế của quả nhân sai lầm như thế nào?

Thấy xung quanh có nhiều người nghe trộm, Phạm Thư sợ không dám nói việc trong nhà, chỉ nói việc ngoài trước để dò xem ý của nhà Vua như thế nào. Phạm Thư bèn nói: “Nhương Hầu muốn vượt qua nước Hàn, nước Ngụy để đánh đất Cương Thọ của nước Tề, đó không phải là kế hay. Nếu đem ít quân thì không đủ để làm tổn thương nước Tề, đem nhiều quân thì hại đến nước Tần. Theo như ý của thần thì kế của nhà Vua là mình đem ít quân, nhưng lại bắt nước Hàn, nước Ngụy dốc hết binh lực của họ để đánh Tề. Điều đó thật vô lý. Nay nếu ta đã thấy nước theo mình không thân với mình mà lại vượt qua nước người ta để đánh nước khác, thì hỏi có được hay không? Mưu kế như vậy là sơ hở đấy.

“ Vả chăng, ngày xưa Vua Dẫn Vương nước Tề, phía Nam đánh Sở, phá quân diệt tướng, hai lần mở mang đất đai ngàn dặm, nhưng rốt cuộc nước Tề vẫn không lấy được một tấc đất nào. Điều đó đâu phải là vì Vua Tề không muốn lấy đất, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép làm như vậy. Chư hầu thấy nước Tề mỏi mệt, vua tôi không hòa, đem quân đánh tan quân Tề. Tướng sĩ bị nhục, binh lính bị khốn đốn, đều đổ lỗi cho nhà vua, hỏi: ‘Ai bày ra kế này đây?’ Nhà Vua trả lời: ‘Văn Tử [Mạnh Thường Quân] đấy’. Đại thần làm loạn, Văn Tử chạy ra nước ngoài. Cho nên nước Tề sở dĩ thua to là vì nó đánh Sở, làm cho nước Hàn, nước Ngụy được béo. Cách đó gọi là trao binh khí cho giặc, đem lương thực cho kẻ cướp vậy”.

“ Chi bằng nhà Vua cứ giao hiếu với nước ở xa và đánh nước ở gần; được tấc đất nào là tấc đất của nhà vua, được thước đất nào là thước đất của nhà vua. Nay nhà Vua lại bỏ kế đó mà đánh nước ở xa, thế chẳng phải là sai hay sao? Đấy, xưa kia nước Trung Sơn đất vuông năm trăm dặm mà bị một mình nước Triệu nuốt hết. Nước Triệu công thành danh toại, lại được thêm cái lợi nữa, thế mà thiên hạ không ai làm hại được nó. Nay các nước Hàn, Ngụy là những nước ở giữa, là nơi then chốt của thiên hạ.

“ Nếu nhà Vua muốn làm nghiệp bá thì thế nào cũng phải hòa thân với các nước ở giữa làm nơi then chốt cho thiên hạ để uy hiếp nước Sở, nước Triệu. Nếu nước Sở mạnh thì ta bênh vực nước Triệu; nước Triệu mạnh thì ta bênh vực nước Sở. Cả hai nước Triệu, Sở cùng theo ta thì thế nào nước Tề cũng hoảng sợ. Nước Tề hoảng sợ thì thế nào cũng dùng lời lẽ khiêm tốn, đem nhiều của cải đến để thờ nước Tần. Một khi nước Tề đã theo ta thì có thể cầm tù được nước Hàn, nước Ngụy.”

Then chốt của mưu kế Phạm Thư là lấy Hàn, Ngụy ở gần mà giao hiếu với Tề ở xa. Nhưng muốn lấy Hàn, Ngụy thì trước hết phải cô lập nó, cho nên đầu tiên phải giao hiếu với nó để nó thoát ly ảnh hưởng của các nước lớn Tề, Sở, Triệu. Sau đó phải làm sao cho Sở, Triệu phải phục tùng theo mình không can thiệp vào việc đánh Hàn, Ngụy. Muốn vậy thì xui hai nước đánh nhau, giúp nước yếu đánh nước mạnh, làm cả hai nước đều kiệt quệ mà phải thần phục tùng mình. Một khi Hàn, Ngụy, Triệu, Sở đã thuần phục rồi thì nước Tề lúc bấy giờ tự mình, hứng ở vào thế cô, nên thế nào cũng phỉ giao hiếu với Tần khi ấy giao hiếu với các nước xa xôi rồi, việc lấy Hàn, Ngụy dễ như trở bàn tay.

Chiêu Vương nói: “Ta muốn thân với nước Ngụy đã lâu, nhưng nước Ngụy là nước hay thay đổi luôn, quả nhân không thể hòa thân được, xin cho biết làm thế nào để hòa thân với Ngụy.”

Phạm Thư đáp: “Nhà Vua dùng lời lẽ nhún nhường, đem nhiều của cải đến để phụng sự họ; nếu không được thì cắt đất mình mà đút lót cho họ nếu làm thế cũng không được thì phải đem binh mà đánh.”

Nhà Vua nói: “Quả nhân xin vâng theo lời chỉ giáo.”

Bèn cho Phạm Thư làm khách khanh (chức quan ở trên cấp đại phu) lo việc binh, cuối cùng nhà Vua nghe theo mưu kế của Phạm Thư, sai ngũ đại phu và Uyển đánh Ngụy, lấy đất Hoài, hai năm sau đánh lấy đất Hình Khâu.

Khách khanh Phàm Thư lại nói với Chiêu Vương: “Địa hình của nước Tần và nước Ngụy cài vào nhau như bức gấm thêu. Nước Tần có nước Hàn cũng như cây gỗ có mọt, như con người có bệnh ở trong tim trong ruột vậy. Trong thiên hạ không có biến thì thôi, chứ đã có biến thì chẳng nước nào làm cho Tần phải lo sợ bằng nước Hàn đâu! Nhà Vua thu phục Hàn là hơn cả.

Chiêu Vương nói: “Ta từ lâu đã muốn thu phục nước Hàn, nhưng nước Hàn không nghe, vậy phải làm thế nào?

Phạm Thư đáp: “Nước Hàn không nghe sao được! Nhà Vua đem binh xuống đánh Huỳnh Dương thì con đường giao thông của đất Củng và đất Thành Cao bị tắt. Sau đó, quay về phía Bắc chặn đường Thái Hàng thì quân ở Thượng Đảng không xuống được. Một khi nhà Vua đem binh đánh Huỳnh Dương thì nước Hàn sẽ bị chia cắt thành ba khúc, nước Hàn thấy mình thế nào cũng mất, không nghe theo sao được? Nếu như nước Hàn nghe theo thì có thể lo đến cơ nghiệp bá.

Nhà Vua nói: “Phải đấy.

Bèn sai sứ sang nước Hàn.

Phạm Thư ngày càng thân với nhà vua, được nhà Vua tin dùng trong mấy năm. Phạm Thư bèn nói riêng với nhà vua: “Khi thần ở Sơn Đông, thần nghe ở nước Tề có Điền Văn chứ không có Vua Tề, nghe Tần có thái hậu, có Nhương Hầu, Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương chứ không nghe nói có vua. Phàm có nắm được toàn quyền trong nước mới gọi là vua, có nắm được quyền sinh sát mới gọi là vua. Nay thái hậu tự tiện chuyên quyền không đếm xỉa đến nhà vua, Nhương Hầu cho sứ ra đi không báo với nhà vua, Hoa Dương, Kinh Dương xét xử người ta không nể nang ai hết, Cao Lăng muốn làm hay muốn thôi, không cần hỏi nhà vua. Nước có bốn hạng người cao quý ấy mà không nguy thì xưa nay chưa hề có vậy. Nếu người ta theo bốn hạng người quý ấy thì có thể gọi không có nhà vua. Như thế thì uy quyền làm sao cho khỏi bị phá hoại, nhà Vua làm sao còn có thể ban hành mệnh lệnh được nữa?

“ Thần nghe nói vị vua giỏi trị nước thì ở trong nước nắm chắc lấy cái uy thế của mình, ở ngoài nước coi trọng cái quyền lực của mình. Sứ giả của Nhương Hầu nắm lấy quyền lực của nhà vua, uy hiếp chư hầu, chặt phù với thiên hạ, đem quân đánh nước người, ai cũng phải nghe theo. Nếu Nhương Hầu đánh thắng, lấy được đất thì cái lợi lại quay về đất Đào, còn chư hầu thì chịu thiệt hại; nếu Nhương Hầu đánh thua thì nhà Vua kết oán với trăm họ, mà nước nhà lại phải chịu tai họa.

“Thơ có câu: ‘Cây mà nhiều quả thì làm gãy cành, cành bị gãy thì hại đến gốc. Làm đổ thành lớn thì nguy cho nước, đề cao bầy tôi thì hạ thấp nhà vua’. Thôi Trữ, Trác Xỉ cai trị nước Tề, bắn vào đùi nhà vua, rút gân nhà vua, treo nhà vua lên xà ở miếu, một ngày sau thì chết. Lý Đoái cai trị nước Triệu, giam Chủ Phụ ở Sa Khâu được một trăm ngày thì Chủ Phụ chết đói.

“ Nay thần nghe nói Tần thái hậu, Nhương Hầu chuyên quyền, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương giúp cho họ, như thế kết quả là sẽ không còn Vua Tần nữa, đó cũng là cái loại Trác Xỉ, Lý Đoái vậy. Vả chăng, đời Tam Đại, sở dĩ nước mất là vì nhà Vua cứ giao việc nước cho bầy tôi, tha hồ uống rượu, săn bắn, không lo việc chính sự. Những kẻ mà Vua trao quyền binh là những kẻ ghen người hiền, ghét người có tài, đàn áp kẻ dưới, che mắt người trên để làm việc riêng của mình. Họ không lo đến việc nhà Vua, nhưng nhà Vua không tỉnh ngộ, vì vậy cho nên mất nước.

“Nay từ người quan nhỏ nhất trở lên, cho đến những vị quan lớn, thậm chí cả những người hầu hạ xung quanh nhà Vua, không ai không phải là người của Thừa tướng. Thần thấy nhà Vua đứng một mình ở triều, thần trộm lo cho nhà Vua, vạn thế sau này người làm vua nước Tần sẽ không phải là con cháu nhà Vua nữa.”

Chiêu Vương nghe vậy, hoảng sợ, nói: “Phải đấy.”

Bèn phế truất thái hậu, đuổi Nhương Hầu, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương ra ngoài cửa ải. Vua Tần bèn cho Phạm Thư làm thừa tướng. Vua Tần thu ấn của Nhương Hầu, sai Nhương Hầu trở về đất Đào, nhân đó sai các quan cấp cho xe bò để chuyên chở đồ đạc. Đồ đạc chở hơn một ngàn cỗ xe. Khi đến cửa ải, người giữ cửa ải xét lại những đồ quý báu thì thấy những đồ của cải quý báu nhiều hơn cả cung vua. Vua Tần phong cho Phạm Thư đất Ưng, hiệu là Ứng Hầu. Bấy giờ là năm thứ 41 đời Tần Chiêu Vương.

Sau khi Phạm Thư làm thừa tướng nước Tần, nước Tần gọi ông ta là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết, cho là Phạm Thư chết đã lâu. Nước Ngụy nghe nói nước Tần sắp đem quân sang Đông đánh các nước Hàn, Ngụy, nên sai Tu Giả đến nước Tần.

Phạm Thư nghe vậy cải trang, mặc áo quần lam lũ, đi bộ lẻn đến nhà khách, yết kiến Tu Giả. Tu Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi: “Phạm Thúc vẫn không can gì sao?”

Phạm Thư đáp: “Phải.”

Tu Giả cười nói: “Phạm Thúc đến làm thuyết khách ở nước Tần phải không?”

“Thưa không ạ. Trước đấy, Thư có tội với tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách.”

“Nay ông Thúc làm việc gì?

Phạm Thư nói: “Tôi làm thuê cho người ta.”

Tu Giả trong bụng thương hại, giữ lại cùng ngồi ăn cơm, nói: “Phạm Thúc nghèo khổ đến thế sao?”

Bèn lấy một cái áo bào thêu cho Phạm Thư. Nhân đấy, Tu Giả hỏi: “Anh có biết thừa tướng nước Tần là Trương Quân không? Tôi nghe nói ông ta được nhà Vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do thừa tướng quyết định. Công việc của tôi bây giờ thành công hay thất bại đều tùy ở Trương Quân cả. Này anh! Anh có ai bạn bè quen biết quan thừa tướng không?”

Phạm Thư nói: “Ông chủ của tôi quen biết ông ta, nên tôi cũng có thể vào bái yết. Thư này xin giúp ông để cho ông yết kiến Trương Quân.”

Tu Giả nói: “Con ngựa của ta mắc bệnh, trục xe gãy, không có xe tứ mã lớn thì ta không đi.”

Phạm Thư nói: “Tôi sẽ nói ông chủ của tôi mượn cho ông xe tứ mã lớn.”

Phạm Thư về lấy xe tứ mã và tự mình đánh xe đưa Tu Giả vào phủ thừa tướng nước Tần. Người trong phủ nhận ra Phạm Thư, ai nấy đều trốn lánh. Tu Giả lấy làm lạ.

Khi đến cửa nhà thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả: “Ông hãy đợi tôi một lát, tôi xin vào trước để báo với thừa tướng.”

Tu Giả đợi ở ngoài cửa, dừng xe hồi lâu, hỏi người môn hạ: “Ông Phạm Thúc không ra là tại làm sao?”

Người môn hạ nói: “Không có ai là Phạm Thúc cả.”

Tu Giả nói: “Lúc nãy ông ta cùng tôi đi vào đấy mà.”

“Đó là quan thừa tướng của chúng tôi đấy.”

Tu Giả cả kinh biết rằng mình bị lừa, bèn nhờ người môn hạ vào xin tha tội rồi cởi trần lếch vào bằng đầu gối. Bấy giờ Phạm Thư đã bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông để tiếp kiến.

Tu Giả cúi đầu nói: “Tội tôi đáng chết, Giả tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên đến tận mây xanh. Từ nay Giả không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có cái tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, ngài cho sống thì được sống, ngài bắt chết thì xin chịu chết.

Phạm Thư nói: “Nhà ngươi có mấy tội?”

“Nhổ hết tóc của Giả để đếm tội của Giả cũng còn chưa đủ.”

Phạm Thư nói: “Nhà ngươi chỉ có ba tội mà thôi. Trước đây thời Sở Chiêu Vương, Thân Bao Tư vì nước Sở mà đuổi quân Ngô, Vua Sở phong cho ông ta đất Kinh năm nghìn hộ, Bao Tư từ chối không nhận vì mồ mả của ông cha đều ở đất Kinh. Nay mồ mả cha ông của Thư này cũng đều ở đất Ngụy, nhà ngươi trước đây cho rằng Thư này có ngoại tâm đối với Tề, gièm pha Thư với Ngụy Tề, đó là một tội. Lúc Ngụy Tề làm nhục ta ở trong nhà xí, nhà ngươi không ngăn cản, đó là hai tội. Đến khi uống rượu say lại đái vào ta, sao mà nhà ngươi nhẫn tâm đến thế! Đó là ba tội. Nhưng sở dĩ nhà ngươi được khỏi chết, là vì còn thương hại ta, tặng cái áo bào, tức là còn có tình nghĩa với người cũ, cho nên ta tha cho nhà ngươi.”

Phạm Thư mở tiệc lớn, mời tất cả sứ thần các nước chư hầu ngồi trên nhà ăn uống rất sang, rất hậu. Trái lại, Tu Giả phải ngồi ở dưới thềm. Phạm Thư sai đặt một cái máng cho ngựa ăn trước mặt, sai hai người tội nhân bị chạm vào mặt, cho y ăn như người ta cho ngựa ăn vậy.

Phạm Thư mắng: “Nhà ngươi nói với Vua Ngụy hộ ta rằng khá mau mau xách đầu Ngụy Tề đến đây! Nếu không, ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương.”

Tu Giả về báo với Ngụy Tề. Ngụy Tề sợ chạy trốn đến nước Triệu ở nhờ nhà Bình Nguyên Quân..

Sau khi Phạm Thư đã làm thừa tướng, Vương Kê nói với Phạm Thư: “Có ba việc không thể biết, có ba việc không biết làm thế nào. Xe cung một sớm ra muộn [ý nói vua chết], đó là điều thứ nhất không thể biết. Ngài bỗng nhiên bỏ quán xá đi [ý nói bị sa thải] là điều thứ hai không thể biết, tôi bỗng nhiên bị vất ra ngoài ngòi rãnh [ý nói qua đời], đó là điều thứ ba không thể biết. Nếu xe vua một sớm ra muộn thì ngài tuy giận tôi, cũng không biết làm thế nào. Nếu ngài đột nhiên rời khỏi quán xá, thì ngài tuy giận tôi, cũng không biết làm thế nào. Nếu tôi đột nhiên bị ném ra ngoài ngòi rãnh thì ngài tuy có giận tôi, cũng không biết làm thế nào.

Phạm Thư không vui, vào nói với nhà Vua: “Nếu không có Vương Kê trung thành thì không ai có thể đưa thần vào cửa ải Hàm Cốc, nếu nhà Vua không phải bậc hiền thánh thì không có ai có thể làm cho thần được vinh hiển. Nay thần làm quan đến thừa tướng, tước đến bậc hầu, mà Vương Kê chỉ đến chức yết giả đó không phải là ý của ông ta khi đưa thần vào cửa ải.

Chiêu Vương gọi Vương Kê đến, cho làm thái thú Hà Đông, ba năm không báo lên nhà Vua về việc cai trị ở đấy.

Phạm Thư lại tiến cử Trịnh An Bình. Chiêu Vương cho Trịnh An Bình làm tướng quân. Phạm Thư bèn phân tán tài sản trong nhà đem tất cả ra báo ơn những người đã giúp mình trong cảnh khốn khổ. Người mình chịu ơn một bữa ăn cũng báo; người ta trợn mắt với mình một cái cũng trả thù. Phạm Thư làm thừa tướng nước Tần được hai năm.

Năm thứ 42 đời Tần Chiêu Vương (năm 265 TrCN), Phạm Thư sang Đông đánh Hàn, lấy đất Thiểu Khúc, Cao Bình. Tần Chiêu Vương nghe nói Ngụy Tề ở Bình Nguyên Quân, muốn báo thù cho Phạm Thư, bèn giả vờ viết một bức thư dùng lời lẽ khôn khéo đưa cho Bình Nguyên Quân, nói: “Quả nhân nghe nói ngài cao nghĩa muốn cùng ngài làm bạn áo vải, nếu may mắn được ngài đến với quả nhân thì quả nhân xin cùng ngài uống rượu mười ngày.”

Bình Nguyên Quân sợ Tần, vả lại cũng cho là phải nên vào nước Tần yết kiến Chiêu Vương. Chiêu Vương cùng Bình Nguyên Quân uống rượu mấy ngày. Chiêu Vương nói với Bình Nguyên Quân: “Xưa Chu Văn Vương được Lữ Thượng cho làm chức Thái công, Tề Hoàn Công được Quản Di Ngô cho làm trọng phụ (người cha tinh thần). Nay Phạm Quân cùng là bậc thúc phụ của quả nhân, kẻ thù của Phạm Quân ở nhà ông. Xin ông cho người về lấy đầu của hắn đem lại đây, nếu không ta không cho ông ra khỏi cửa ải đâu.”

Bình Nguyên Quân nói: “Tuy mình sang, nhưng kết bạn với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn thấp hèn. Tuy mình giầu, nhưng chơi với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn nghèo túng. Ngụy Tề là bạn của Thắng, nếu ở nhà tôi, cố nhiên tôi không đem ra nộp, phương chi ông ta lại không ở nhà tôi.”

Chiêu Vương bèn đưa thư cho Vua Triệu, nói: “Em trai của nhà Vua ở Tần, kẻ thù của Phạm Quân là Ngụy Tề hiện đang ở nhà Bình Nguyên Quân. Nhà Vua mau mau sai người đem đầu hắn lại đây, nếu không, ta sẽ đem binh đánh Triệu, lại không cho em nhà Vua ra khỏi cửa ải đâu.”

Vua Triệu là Hiếu bèn đem binh lính vây nhà Bình Nguyên Quân rất gấp, đang đêm Ngụy Tề trốn ra, ra mắt tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Ngu Khanh xem chừng không thể can nổi nhà Vua, bèn cởi ấn tướng quốc, cùng Ngụy Tề bỏ trốn, lẻn ra đi. Nghĩ không thể trốn tránh ở nước chư hầu nào trong lúc nguy cấp cho nên lại chạy về Đại Lượng, muốn nhờ Tín Lăng Quân để chạy sang nước Sở.

Tín Lăng Quân nghe tin, sợ Tần, đang do dự chưa dám tiếp kiến, nói: “Ngu Khanh là người như thế nào?”

Lúc bấy giờ Hầu Doanh ở bên cạnh, nói: “Con người ta thật là không dễ biết hết, biết người cũng không phải dễ. Ngu Khanh đi giầy rơm, mang dù yết kiến Vua Triệu, lần thứ nhất được thưởng một đôi bạch bích, một trăm cân vàng, yết kiến lần thứ hai được phong làm Thượng khanh, yết kiến lần thứ ba được trao ấn Tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong lúc bấy giờ thiên hạ tranh nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà Ngu Khanh, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn Tướng quốc, bỏ tước vạn hộ hầu mà lẻn ra đi. Nay kẻ sĩ nguy cấp khốn cùng chạy về với Công tử, Công tử lại hỏi ‘người như thế nào’, thực là con người không dễ biết, biết người cũng không dễ vậy.”

Tín Lăng Quân cả thẹn, lên xe ra ngoài đồng để đón.

Ngụy Tề nghe nói Tín Lăng Quân lúc đầu ngại tiếp kiến mình nên nổi giận tự đâm cổ chết. Vua Triệu nghe tin lấy đầu của Tề đưa cho nước Tần. Tần Chiêu Vương bèn cho Bình Nguyên Quân về nước Triệu.

Năm thứ 43 đời Tần Chiêu Vương (năm 264 tCN), quân Tần đánh lấy đất Phần Hình của nước Hàn, nhân đó xây thành Quảng Vũ ở trên sông Hoàng Hà. Năm năm sau, Chiêu Vương đúng kế của Ứng Hầu tung phản gián vào mua chuộc nước Triệu. Vua Triệu vì vậy cho con Mã Xa là Triệu Quát thay Liêm Pha làm tướng. Quân Tần phá tan quân Triệu ở Trường Bình, rồi vây Hàm Đan.

It lâu sau, Vũ An Quân là Bạch Khởi có hiềm khích với Ứng Hầu, Ứng Hầu gièm với nhà Vua và giết Bạch Khởi, sai Trịnh An Bình đánh Triệu. Trịnh An Bình bị quân Triệu vây rất gấp cho nên đem hai vạn quân đầu hàng nước Triệu. Ứng Hầu ngồi trên chiếu cỏ xin chịu tội. Theo pháp luật nhà Tần, người tiến cử và người được tiến cử không tốt đều có tội như nhau, Vì vậy, Ứng Hầu đáng lý bị tội giết cả ba họ.

Vua Tần Chiêu Vương sợ phạm đến Ứng Hầu bèn ra lệnh trong nước: “Ai dám nói đến việc Trịnh An Bình thì sẽ trị theo tội của Trịnh An Bình.”

Trái lại, còn thưởng cho Ứng Hầu đồ ăn hậu hơn trước, hết sức làm cho Ứng Hầu an tâm. Hai năm sau, Vương Kê làm thái thú Hà Đông, tư thông với chư hầu, bị tội giết, vì vậy Ứng Hầu ngày càng không vui.

Chiêu Vương ra triều thở dài. Ứng Hầu tâu: “Thần nghe nói: vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”. Nay đại vương ra triều lo lắng, thần xin hỏi thần có tội.

Chiêu Vương nói: “Ta nghe nói kiếm của nước Sở sắc mà việc ca múa lại kém. Phàm kiếm mà sắc thì quân sĩ dũng cảm, ca múa mà kém thì suy nghĩ xa. Họ suy xa nghĩ rộng, có nhiều dũng sĩ, ta sợ nước Sở sẽ mưu lấy nước Tẩn. Phàm vật mà không chuẩn bị sẵn thì không thể ứng phó được trong lúc bất ngờ. Nay Vũ An Quân đã chết, bọn Trịnh An Bình làm phản, trong nước không có tướng giỏi, bên ngoài lại nhiều nước thù, ta lo lắng là vì thế.”

Nhà Vua muốn khích lệ Ứng Hầu, Ứng Hầu lo sợ không biết bày mưu kế gì. Thái Trạch nghe vậy, vào nước Tần.

* Thái Trạch khích Phạm Tuy: cuộc đối đáp giữa Thái Trạch và Phạm Tuy được xem là thể hiện thuật hùng biện hay nhất trong thời Chiến Quốc.

Phạm Tuy người nước Yên, đi du học, xin làm quan ở các nước lớn, lại đến nước nhỏ chẳng được ai dùng. Ông sang Triệu bị Triệu đuổi, sang Hàn, Ngụy trên đường đi bị người ta cướp mất nồi, chảo. Nghe nói đương kim Thừa tướng Phạm Tuy đề bạt Trịnh An Bình và Vương Kê đều phạm tội nặng với nước Tần, trong bụng đang có ý hổ thẹn, Thái Trạch bèn đi sang Tần.

Thái Trạch sai người phao tin để khích cho Phạm Tuy gặp mình: “Có người khách nước Yên tên là Thái Trạch, là biện sĩ kiến thức siêu việt, biện luận tài giỏi, khôn ngoan khác thường, anh ta nếu vào yết kiến Vua Tần thì thế nào cũng làm ngài nguy khốn và giật mất địa vị thừa tướng của ngài.”

Phạm Tuy nói: “Việc Ngũ Đế, Tam Đại, học thuyết của bách gia, ta đều biết cả, lời biện luận của mọi người ta đều bẻ gãy được. Nó làm khốn thế nào được ta mà đoạt được địa vị của ta!” Bèn cho người gọi Thái Trạch đến.

Thái Trạch vào, chỉ vái chào chứ không lạy. Phạm Tuy vốn đã không bằng lòng, đến khi tiếp kiến lại thấy y ngạo mạn, bèn trách: “Ông thường phao tin rằng muốn thay ta làm thừa tướng nước Tần, có phải không?”

Thái Trạch đáp: “Phải.”

Phạm Tuy nói: “Xin cho nghe thuyết của ông như thế nào.”

Thái Trạch nói: “Ôi, sao mà ngài thấy muộn thế? Phàm trật tự bốn mùa thay đổi nhau, thành công rồi thì nên rút lui. Thân thể mạnh mẽ, chân tay lanh lẹ, tai mắt tỏ tường, trí khôn sáng suốt điều đó chẳng phải mọi kẻ sĩ đều muốn hay sao?”

Phạm Tuy đáp: “Phải.”

Thái Trạch nói: “Nắm lấy điều nhân, giữ lấy điều nghĩa, làm việc hợp đạo thi hành ân đức, đắc chí trong thiên hạ, thiên hạ vui vẻ, tôn kính hâm mộ đều muốn tôn vinh, đó chẳng phải là chí hướng của kẻ sĩ có tài biện thuyết hay sao?”

Phạm Tuy đáp: “Đúng.”

Thái Trạch lại nói: “Giàu sang vinh hiển, xử lý vạn vật, khiến cho vạn vật đều êm đẹp, tính mạng lâu dài, sống trọn tuổi trời, không phải chết yểu. Thiên hạ nối được cái quy mô của mình, giữ được cơ nghiệp của mình, truyền mãi đến vô cùng, cả danh lẫn thực đều đẹp đẽ, ân đức tràn khắp ngàn dặm, đời đời khen ngợi không bao giờ dứt, cùng với trời đất không bao giờ cùng, đó chẳng phải là dấu hiệu của đạo đức, thánh nhân gọi đó là điềm lành, việc tốt dó sao?”

Phạm Tuy đáp: “Đúng.”

Thái Trạch nói: “Xem việc nhà Tần đối với Thương Quân, nước Sở đối với Ngô Khởi, nước Việt đối với Đại phu Chủng thì kết cục của họ có làm ta vừa ý không?”

Phạm Tuy biết Thái Trạch muốn dùng cách biện thuyết để bắt bí mình, nên dùng lối ngụy biện nói: “Tại sao lại không được? Công Tôn Phương thờ Hiếu Công suốt đời không hài lòng, chỉ lo việc công mà không nghĩ đến việc riêng, đặt ra dao cưa để cấm bọn gian tà, việc thưởng phạt đều rõ ràng, làm cho nước được thịnh trị, phơi gan ruột, bày tỏ nỗi lòng, chịu người ta oán giận, lừa bạn cũ, giành bắt Công tử Ngang nước Ngụy, làm cho xã tắc nhà Tần được yên, làm lợi cho trăm họ, cuối cùng vì nước Tần bắt sống tướng địch, cướp đất ngàn dặm.

“ Ngô Khởi phò tá Điệu Vương, khiến cho việc riêng không được hài đến việc công, giời gièm pha không che được người trung thực, khi nghe lời nói, không cốt nghe kẻ a dua theo mình, không vì việc nguy mà thay đổi hành động, làm việc nghĩa không tránh hoạn nạn, chỉ lo làm sao cho nhà vua xưng bá, làm cho nước được mạnh, không từ tai họa gian nguy.

“ Đại phu Chủng phò tá Việt Vương, vua tuy bị khốn, bị nhục, nhưng mình vẫn đem hết lòng trung thành không chút lười biếng, vua tuy ở trong cảnh nguy vong, vẫn đem hết lòng mà không rời công thành mà không khoe khoang, giàu sang mà không, kiêu ngạo nhác nhớn. Ba người kia đã đạt đến mức độ cao nhất của điều trung, cho nên người quân tử vì giữ nghĩa mà chết, trong lúc hoạn nạn, coi chết như về. Sống mà nhục chẳng bằng chết mà vinh. Kẻ sĩ vốn có cái nghĩa chịu hy sinh thân mình, để cho cái danh được thành. Chỉ cốt đó là đạo nghĩa thì dù có chết cũng không oán hận, có gì là không được đâu?”

Thái Trạch nói: “Vua thánh, tôi hiền là cái phúc lớn trong thiên hạ; vua sáng tôi ngay là cái phúc của nước; cha nhân từ, con hiếu, chồng tín vợ trinh, đó là cái phúc của nhà. Vì vậy cho nên Tỷ Can trung mà không thể bảo tồn được nhà vua Ân(A); Tử Tư(B) khôn mà không thể bảo toàn được nước Ngô; Thân Sinh có hiếu mà nước Tấn nổi loạn(C). Họ đều là những tôi trung, con hiếu, nhưng nước nhà vẫn loạn lạc, vẫn bị tiêu diệt là tại làm sao? Vì không có vua sáng, cha hiền để nghe họ, cho nên thiên hạ đều căm ghét, mắng nhiếc vua và cha mà thương cho kẻ làm tôi và làm con.

“ Nay Thương Quân, Ngô Khởi, Đại phu Chủng làm người tôi thì phải, nhưng vua của họ thì trái. Cho nên đời khen ba người này lập được công nhưng vẫn chê vì họ không được báo đáp, chứ có phải thích việc họ không gặp thời mà chết đâu. Nếu cứ đợi chết rồi sau đó mới được gọi là trung, mới lập được danh tiếng thì Vi Tử(D) không đáng gọi là nhân, Khổng Tử không đáng gọi là thánh, Quản Trọng không đáng gọi là lớn. Người ta lập công, ai lại không muốn được thành đạt toàn vẹn? Thân và danh được toàn vẹn là tốt nhất. Danh có thể nêu gương mà thân thì chết đó là hạng thứ hai. Danh bị ô nhục mà thân được toàn vẹn thì đó là hạng bét.”

Lúc đó, Phạm Tuy mới khen là biện luận giỏi.

Thái Trạch dần dần tìm ra chỗ hở, bèn hỏi: “Thương Quân(E), Ngô Khởi(F), Đại phu Chủng(G) làm tôi tận trung lập nên công, đó là điều đáng mong mỏi. Hoành Yêu phò tá Văn Vương, Chu Công giúp Thành Vương, há không phải là bậc thánh trung hay sao? Theo như ý ngài, làm Thương Quân, Ngô Khởi, Đại phu Chủng với làm Hoành Yêu, Chu Công(H) thì nên làm người nào hơn?”

Phạm Tuy đáp: “Thương Quân, Ngô Khởi, Đại phu Chủng không thể bằng được.”

Thái Trạch hỏi: “Thế thì vua của ngài về mặt nhân từ, tin dùng kẻ trung thần, nhớ đến tình xưa nghĩa cũ, tôn trọng kẻ sĩ có tài và có đạo gắn bó với họ, không bỏ sót người công thần, so với Tần Hiếu Công(I), Sở Điệu Vương(J), Việt Vương thì ai hơn?”

Phạm Tuy đáp: “Chưa biết như thế nào.”

Thái Trạch nói: “Nay vua thân với kẻ trung thần nhiều lắm là như Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, Việt Vương. Về mặt trổ tài trí lực, giúp cho vua bình định được việc nguy, sửa sang chính trị, dẹp loạn, làm cho quân mạnh, trừ bỏ điều lo lắng, tiêu diệt điều tai nạn, mở mang đất đai, trồng trọt ngũ cốc, làm cho nước giàu, nhà no đủ, vua mạnh, xã tắc được tôn trọng, tôn miếu được hiển vinh, thiên hạ không ai dám phạm đến nhà vua, uy thế của vua vang dội khắp bốn bể, công lao vang lừng ở ngoài vạn dặm, thanh danh sáng ngời đến ngàn đời, thì ngài so với Thương Quân, Ngô Khởi, Đại phu Chủng ai hơn?”

Phạm Tuy đáp: “Ta không bằng.”

Thái Trạch nói: “Nay nhà Vua về mặt thân với kẻ trung thần, không quên tình xưa nghĩa cũ đã không bằng Hiếu Công, Điệu Vương, Câu Tiễn, mà về mặt công lao được tin yêu, thân cận ngài lại không bằng Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng. Đã thế, tước lộc, chức vị của ngài lại sang trọng hơn, nhà cửa của ngài lại giàu có hơn cả ba người kia, thế mà ngài còn chưa rút lui thì tôi sợ còn đáng lo hơn cả ba người kia. Tôi xin lo thay cho ngài.

“ Tục ngữ có câu: ‘Mặt trời lên đến đỉnh đầu thì sẽ xế, trăng đầy thì khuyết, sự vật thịnh thì suy.’ Đó là cái lẽ thường của trời đất. Khi tiến khi lùi, khi đầy khi vơi theo thời tiến hóa, đó là cái đạo thường của thánh nhân. Cho nên ‘nước có đạo thì làm quan, nước không có đạo thì đi ở ẩn’(L). Thánh nhân nói: ‘Rồng bay lên trời, lợi thấy kẻ đại nhân’(M). ‘Bất nghĩa mà giàu sang thì ta xem như đám mây nổi”(N).

“ Nay oán thù ngài đã trả, ân đức ngài đã báo, điều sở nguyện đã đạt, thế mà không thay đổi cái kế của mình, thì tôi trộm cho ngài như thế là không nên. Vả chăng con chim trả, chim hộc, con tê ngưu, con viu, chỗ ở không phải là không xa chỗ chết, mà sở dĩ chết là vì ham mồi. Tô Tần, Trí Bá không phải là không đủ trí khôn đề tránh điều nhục, tránh xa cái chết, nhưng sở dĩ đều chết, đó là vì tham lợi không chịu dừng lại(O), cho nên bậc thánh nhân đặt ra lễ để hạn chế cái lòng dục, lấy ở dân có chừng mực, sai dân đúng thời vụ, dùng của cải của dân có mức độ. Cho nên trí họ không tự mãn, hành động của họ không kiêu, luôn luôn theo đạo mà không bỏ. Vì vậy giữ mãi được thiên hạ mà không mất.

“ Ngày xưa Tề Hoàn Công nhóm họp chư hầu, chỉnh đốn thiên hạ, đến khi họp ở Quỳ Khâu thì có ý kiêu căng, chín nước phản lại; Vua Ngô là Phù Sai, quân đội vô địch trong thiên hạ, dũng mãnh coi khinh chư hầu, lấn át nước Tề, nước Tần cho nên rút cục thân bị giết, nước bị mất. Hạ Dục, Thái Sử Hiệu(P) hò hét làm ba quân sợ hãi, nhưng thân bị chết bởi một người tầm thường. Những người này thanh thế đã đến cực thịnh, nhưng không quay về với đạo lý, không khiêm tốn rút lui để an tâm chịu nghèo hèn cho nên mới xảy ra tai họa như thế!

“ Thương Quân làm pháp lệnh cho Tần Hiếu Công, cấm nguồn gốc của tội ác, có công nhất định thưởng, có tội nhất định phạt, làm cho cân ngang nhau, chỉnh lý việc đo lường, điều chỉnh nặng nhẹ, phá vỡ các đường thiên, đường mạch(Q) để cho dân ổn định được nghề nghiệp. Do đó thống nhất được tục lệ, khuyến khích người cày làm hết cái lợi của đất, một nhà không lo hai việc, ra sức cày ruộng, súc tích lương thực, tập nghề chiến trận; kết quả, khi dám binh dành thì mở đất rộng, khi nghỉ binh thì nước được giàu, cho nên trong thiên hạ không đâu địch nổi, có uy thế đối với chư hầu, lập thành cơ nghiệp nước Tần. Công ông ta đã thành, rút cục ông ta lại bị xe xé xác.

“ Đất Sở vuông mấy ngàn dặm, người cầm kích một trăm vạn, Bạch Khởi chỉ huy mấy vạn quân, đánh nhau với Sở, đánh một trận lấy đất Yến, đất Sính, đốt Di Lăng; đánh hai trận phía Nam lấy đất Thục, đất Hán, rồi vượt qua nước Hàn, nước Ngụy đánh nước Triệu mạnh; phía Bắc chôn sống Mã Phục, làm cỏ hơn bốn mươi vạn người, họ bị chôn ở gần Trường Bình, máu chảy thành sông, sóng sôi lên như sấm. Sau đó, vào vây Hàm Đan, khiến cho nước Tần có được cơ nghiệp đế vương. Nước Sở, nước Triệu là nước mạnh trong thiên hạ và là kẻ thù của nước Tần. Nhưng từ đó về sau, Sở, Triệu đều nem nép sợ không dám đánh Tần nữa. Đó là cái thế của Bạch Khởi. Bạch Khởi thân hành đánh lấy bảy mươi thành, nhưng khi công đã thành, lại bị nhà vua trao kiếm chịu chết ở Đỗ Bưu.

“ Ngô Khởi lập phép tắc cho Sở Điệu Vương, giảm bớt uy lớn của các quan đại thần, bãi những người không có năng lực, những người vô dụng, bỏ những chức quan không cần kíp, trừ việc xin xỏ ở cửa nhà tư, thống nhất phong tục nước Sở, cấm những người đi du thuyết, biểu dương những kẻ sĩ giỏi cày và chiến đấu, phía Nam lấy đất Dương Việt, phía Bắc thâu tóm đất Trần, đất Thái, phá kế liên hoành, giải tán kế hợp tung, khiến cho những kẻ sĩ đi du thuyết đều không có cách nào mở miệng, cấm bè đảng để khuyến khích trăm họ, ổn định chính trị nước Sở, binh lực nổi tiếng trong thiên hạ, uy thế làm chư hầu phải phục. Nhưng khi công đã thành, cuối cùng lại bị xé cả tay chân.

“ Đại phu Chủng vì Việt Vương nghĩ mưu sâu bày kế xa, chuyển mất thành còn, nhân điều sỉ nhục mà đổi thành vinh quang; khai khẩn đất đai đầy cỏ dại lập thành ấp trại, vở đất trồng ngũ cốc; cầm đầu kẻ sĩ bốn phương, trên dưới đều hết lòng giúp cho cái hiền của Câu Tiễn, trả được cái thù với Phù Sai; cuối cùng phá được nước Ngô mạnh khiến cho nước Việt làm nên nghiệp bá. Công như thế rõ ràng là rực rỡ vậy. Kết cục Câu Tiễn phụ bạc mà giết ông ta. Bốn người này công thành mà không bỏ đi cho nên tai vạ đến thân mình. Đó là biết duỗi mà không biết co, biết đi mà không biết về vậy.

“ Phạm Lãi biết điều đó vượt ra khỏi ràng buộc của thế lợi, trốn đời, suốt đời làm Đào Chu Công.

“ Ngài không thấy người ta đánh bạc hay sao? Có kẻ muốn tố nhiều, có kẻ muốn tố ít, rồi tiến lên dần dần, đó là điều ngài đã biết rõ.

“ Nay ngài làm tướng nước Tần, bàn kế không rời khỏi chiếu, bàn mưu không ra khỏi nơi lăng miếu, ngồi mà khống chế chư hầu, lấy hết Tam Xuyên để bồi đắp cho đất Nghi Dương phá được cái hiểm ở Dương Trường, chẹn được con đường Thái Hàng, sáu nước không dám hợp tung, đường sạn đạo ngàn dặm thông đến đất Thục, đất Hàn, khiến cho thiên hạ đều sợ Tần. Như thế là điều mong muốn của Tần dã đạt được rồi và công của ngài cũng đã đạt tột độ rồi đó.

“ Nay cũng là lúc nước Tần chia công. Nếu ngài như thế mà không rút lui thì sẽ như Thương Quân, Bạch Công, Ngô Khởi, Đại phu Chủng vậy. Tôi nghe nói: ‘Nhìn xuống nước thì thấy mặt mình; nhìn vào người thì biết dữ lành.’ Kinh Thư có câu: ‘Sau khi thành công, không thể ở lâu.’ Ngài chịu tai họa của bốn người kia làm gì? Tại sao ngài không nhân lúc này trả ấn thừa tướng, trao ấn nhường cho người hiền, rút lui về ở ẩn nơi rừng núi xa, xa lánh thế sự. Như thế thì thế nào cũng được cái liêm của Bá Di, suốt đời làm Ứng Hầu, đời đời xưng công, lại được cái tiếng nhân nhượng của Hứa Do, Diên Lăng Quý Tử, được cái thọ của Kiều, Tùng(R), thế chẳng hơn cuối cùng mắc tai họa sao? Nếu ngài cứ tiếc mà không nỡ rời, nghi ngờ mà không dám quyết định, thì thế nào cũng mắc cái họa của bốn người kia. Kinh Dịch có câu: ‘Càng Long hữu hối’(S). Đó là nói chỉ biết tiến lên mà không biết lùi, chỉ biết duỗi mà không biết co, chỉ biết đi mà không biết về vậy. Xin ngài nghĩ kỹ cho.

Phạm Tuy nói: “Hay lắm! Ta nghe nói: “Chỉ muốn mà không biết dùng thì sẽ mất điều mình muốn; có mà không biết cho là đủ thì sẽ mất điều mình có”. May mắn được tiên sinh chỉ giáo, Thư này xin kính cẩn vâng lời.

Bèn mời vào ngồi, tôn làm thượng khách. Mấy ngày sau, Phạm Thư vào triều, nói với Tần Chiêu Vương: “Vừa có một người khách ở Sơn Đông đến tên là Thái Trạch. Ông ta là người biện sĩ, biết việc Tam Vương, hiểu sự nghiệp Ngũ Bá, biết sự biến đổi của thế tục, có thể giao chính sự nước Tần cho ông ta. Thần thấy người rất nhiều, nhưng không ai bằng, thần cũng không bằng. Thần xin tâu để nhà Vua biết.”

Tần Chiêu Vương mời vào tiếp kiến, cùng nói chuyện rất lấy làm thích, cho làm khách khanh. Phạm Tuy nhân đấy cáo bệnh rút lui, trả lại ấn thừa tướng. Chiêu Vương cưỡng ép Phạm Tuy dậy, Tuy bèn cáo bệnh nặng. Phạm Tuy thôi làm thừa tướng. Chiêu Vương thích kế hoạch của Thái Trạch bèn phong Thái Trạch làm thừa tướng nước Tần, sang Đông thôn tính nhà Chu.

Thái Trạch làm thừa tướng mấy tháng, có người gièm, Thái Trạch sợ bị giết, bèn cáo bệnh trả ấn thừa tướng. Thái Trạch ở Tần hơn mười năm, phò tá Chiêu Vương, Huệ Văn Vương, Trang Tương Vương, cuối cùng phò tá Thủy Hoàng Đế.

Nước Tần được may mắn là có ba thừa tướng kiệt xuất thay nhau nối tiếp: Phạm Tuy (tại vị 271 tCN – 264 tCN), Thái Trạch (tại vị 264 tCN – 249 tCN) và Lã Bất Vi (tại vị 249 tCN – 237 tCN). Mỗi người có kết cục không viên mãn, nhưng đều giúp nước Tần ngày một hùng mạnh rồi cuối cùng thống nhất được Trung nguyên vào năm 221 tCN.

Tư Mã Thiên nhận xét rằng Phạm Thư và Thái Trạch là hai biện sĩ giỏi nhất một thời, thế mà đi du thuyết chư hầu, đến lúc đầu bạc vẫn không có cơ hội thành đạt. Cuối cùng đến nước Tần thì được trọng dụng, để lại dấu ấn đáng kể trong lịch sử nước Tần.

Chú thích

(A) Tỷ Can can gián Vua Trụ mà bị giết, nhà Ân sau đó bị diệt.

(B) Ngũ Tử Tư biết nước Việt thế nào cũng tiêu diệt nước Ngô nên khuyên Vua Ngô đánh Việt, nhưng Vua Ngô không nghe. Tử Tư bị giết, sau đó quả nhiên nước Ngô bị tiêu diệt.

(C) Tấn Hiếu Công sủng ái Ly Cơ. Ly Cơ vu Thái tử Thân Sinh mưu kế giết cha. Thân Sinh sợ mình trình bày oan uổng thì sẽ làm cho cha đau lòng nên tự sát. Sau đó các công tử tranh nhau ngôi, nước Tấn loạn.

(D) Vi Tử can Vua Trụ, Vua Trụ không nghe. Vi Tử bỏ sang Chu.

(E) Thương Quân, xem mục: Thương Ưởng.

(F) Ngô Khởi, xem mục: Ngô Khởi.

(G) Đại phu Văn Chủng, xem mục: điểu tận cung tàng.

(H) Hoành Yêu và Chu Công đều lập công to, lại thành đạt toàn vẹn, cho nên được gọi là thánh trung.

(I) Tần Hiếu Công thi hành biến pháp Thương Ưởng, nhanh chóng làm nước Tần hùng mạnh, nhưng cuối cùng Thương Ưởng vẫn bị giết.

(J) Sở Điệu Vương được Ngô Khởi đề ra pháp luật, tiến hành cải cách giúp nước Sở lại cường thịnh, nhưng cuối cùng Ngô Khởi vẫn bị giết.

(K) Việt Vương được Văn Chủng phò tá tiêu diệt nước Sở, cuối cùng vẫn bức tử Văn Chủng.

(L) Câu của Khổng Tử trong Luận Ngữ.

(M) Câu trong Kinh Dịch, ý nói đã được địa vị tôn quý thì phải đề phòng.

(N) Câu của Khổng Tử trong Luận Ngữ.

(O) Tô Tần đi du thuyết, làm tể tướng sáu nước, sau đó bị người đâm chết ở Tề. Trí Bá đem quân của Hàn, Ngụy đánh Triệu. Hàn, Ngụy sợ Trí Bá nên mưu với Triệu giết Trí Bá.

(P) Tên những dũng sĩ thời cổ.

(Q) Đường nhỏ ở ruộng, đường từ Bắc xuống Nam gọi là thiên, từ Đông sang Tây gọi là mạch.

(R) Hứa Do là nhân tài đời trước, Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho ông, nhưng ông từ chối. Diên Lăng Quý Tử, con thứ tư Vua Ngô, nhà Vua muốn nhường ngôi, nhưng ông không nhận. Vương Kiều, con Chu Linh Vương, và Xích Tùng Tử người đời Thần Nông là những người sống lâu.

(S) Con rồng bay cao sẽ hối hận vì hạ không kịp. Ý nói chỉ biết tiến không biết thoái thì sẽ hối tiếc.

Phan Nhạc: nhà thơ đời Tấn, tên tự là An Nhân nên thường được gọi là Phan An, người đẹp trai, hào hoa, phong nhã, đứng ngang hàng Tống Ngọc: “Đẹp như Phan An, Tống Ngọc..” Vợ Phan An chết sớm, thi sĩ làm nhiều bài thơ nhớ thương gọi là Điệu vong. Trong bài Khiển bi hoài kỳ 3, Nguyên Chẩn có ý phê phán: Những gì nói và làm cho người thân sau khi người thân chết đều chẳng có giá trị gì.

Phán sự đền Tản Viên: xem Tử Văn đốt đền.

Phần, Du: tên hai loại cây thường trồng ở làng quê Trung Quốc. Người ta dùng từ này để chỉ quê hương.

Phần Lão: Phan Ðại Lâm đời Tống, tự là Phần Lão. Ðêm mưa làm thơ, có người đến thúc thuế, cụt hứng phải bỏ dỡ.

phận tóc da: Nói phận làm con phải biết giữ gìn thân thể do khí huyết cha mẹ bẩm sinh ra.

Hiếu kính: Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chí thủy giã. (Thân thể tóc da bẩm thụ ở cha mẹ, kgông dám làm hủy hoại, tổn thương, đó là sự bắt đầu của đạo hiếu.)

Cố sự thành ngữ khảo cũng nói: Chí nhược phát phu, bất khả hủy thương, Tăng Tử thường dĩ thủ thân vi đại (Ðến như cả tóc da không thể hủy thương, Tăng Tử thường lấy việc giữ mình làm trọng).

Phật Biểu họ Hàn: Hàn Dũ dâng biểu can vua việc đón xương Phật, bài biểu có đoạn: “Tự Hoàng đế cho đến Vua Hạ Vũ, Vua Thang, Vua Văn đều hưởng thọ lâu dài, trăm họ yên vui mà thuở ấy chưa có Phật vậy. Ðến đời Minh Ðế nhà Hán mới có Phật pháp mà về sau cứ loạn lạc mãi. Các vua trị vì chẳng được bao lâu. Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần cùng Nguyên Ngụy thờ Phật càng ngày càng thêm kính cẩn thế mà viên đại rất chóng. Duy Vũ Ðế nhà Lương ở ngôi được 48 năm, 3 kỳ xả thân đi làm tăng, sau bị Hầu Cảnh bức phải chết đói: Thờ Phật, cầu phúc mà lại phải vạ. Lấy đó mà xem, thì Phật không nên tin cũng khá biết vậy.”

Phật Ðồ Trừng: ông là người Ấn Ðộ, đến Trung Quốc vào năm Vĩnh Gia thứ 4 (310). Rất được nhà vua sùng vọng, cho cùng thăng điện khi lâm triều. Phật Ðồ Trừng có phép lấy bút nuớc vẽ bùa đọc chú, trong bát nở ra hoa sen chói lọi.

Phật Tích: có nghĩa: dấu vết Phật để lại.

1: Chùa Phật Tích: tức Chùa Thầy, nay thuộc Tỉnh Hà Tây.

2: Nước ta có 2 ngọn núi mang tên Phật Tích, một ở Tiên Sơn, Hà Bắc, một ở Quốc Oai, Hà Nội, đều có thờ Phật. Các thi nhân xưa hay làm thơ vịnh núi Phật Tích ở Quốc Oai.

Phi Liêm: Thần gió.

Theo Hán thư, năm Nguyên phong thứ 2 (109 tCN), mùa đông tháng 10, nhà Hán dựng Thông Thiền Ðài ở Cam Tuyền, Phi Liêm Quán ở Trường Sa.

Ung Thiệu chú: Phi Liêm là loài chim thần có thể gọi gió đến. Năm Vĩnh Linh thứ 5 (62), Hán Minh Ðế đến Trường Sa đón nhận con Phi Liêm và con ngựa đồng đặt ở ngoài cửa Thượng Tây Môn. Phi Liêm thân Hươu, đầu chim Tước, có sừng, đuôi Rắn, vằn như vằn Báo.

Phiên Ngung: Kinh đô của nước Nam Việt xưa, tức Quảng Châu ngày nay, thuộc Tỉnh Quảng Đông.

phiếu mẫu / xiếu mẫu: tức bà lão giặt vải. Theo Sử ký, Hàn Tín người Huyện Hoài Âm, khi còn hàn vi thường ăn nhờ nhà người khác. Một hôm, Tín câu cá ở dưới thành, trong số những người đàn bà giặt vải, có một bà thấy Tín đói, cho Tín ăn cơm suốt mấy mươi ngày. Một ngày, Tín cảm động nói với bà: “Thế nào tôi cũng đền ơn bà xứng đáng”.

Bà ta giận, nói: “Kẻ đại trượng phu không có thể nuôi nổi thân mình, tôi thương cậu nên mời ăn, chứ nào phải mong cậu báo đáp!”

Về sau, Hàn Tín theo giúp Hán Cao Tổ dựng nghiệp nhà Hán, được lập làm Sở Vương, đóng đô ở Hạ Bì. Tín về đến nước bèn đem một nghìn lạng vàng thưởng cho bà lão khi xưa đã cho mình ăn.

Văn học dùng từ “phiếu mẫu” để chỉ người có lòng tốt giúp người không cần trả ơn.

Đoạn trường tân thanh, so sánh tấm lòng của vãi Giác Duyên lúc Kiều khốn khó:

Nghìn vàng gọi chút lễ thường
Mà lòng phiếu mẫu, mấy vàng cho cân!

Phó Duyệt: ẩn ở đất Phú Nghiêm, làm nghề dùng ván ép đất xây tường, về sau Vua Cao Tông nhà Thương mộng thấy được người hiền tướng giúp nghiệp Vương tên là Duyệt bèn cho người vẽ hình giống như trong mộng, đưa tìm khắp thiên hạ, sau quả tìm được ông ở đất Phó Nghiêm mới lập làm tể tướng, lấy tên đất làm họ gọi là Phó Duyệt (Thông chí, Sử ký).

Mai ðình mộng ký:

Diệu Thường cùng nếm vạc mai
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô.

phong: cây phong gồm nhiều loài khác nhau, lá hình bàn tay rẽ làm 3 hoặc 5 gần giống lá cây thầu dầu, cây sau sau. (Lá phong là biểu hiệu của Canada, được thể hiện trên quốc kỳ Canada.) Cây phong ở Trung Quốc chỉ cao khoảng 7 mét trong khi cây phong đường (tiếng Anh: sugar maple, tiếng Pháp: erable à sucre) mọc ở Canada cao tới 40 mét. Cây phong thường mọc nhiều thành rừng ở các xứ ôn đới, mùa thu tán lá tạo thành nhiều sắc màu vàng, cam, đỏ… rất đẹp. Vì thế, cây phong thường được thể hiện trong thơ văn (như trong bài Sơn hành của Đỗ Mục, Thu hứng của Đỗ Phủ, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị).

la phong

Cây phong thường được trồng nơi cung điện, đền đài… nên thi văn thường nói đến bệ phong, đền phong, sân phong, phong đình.

Ở Việt Nam, cây phong không phổ biến (chỉ có ở vùng núi cao), nhưng một số thi sĩ chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc cũng nói đến cây phong như Ngô Chi Lan (thế kỷ 15) trong bài Mùa Thu:

Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm
Rừng phong, lá rụng, tiếng như mưa…

Cung oán ngâm khúc:

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong…

Nhị độ mai:

Thiên ân ban trước phong đình…

phong đình: đình có trồng cây phong. Xem phong.

Phong Kiều dạ bạc: bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế, tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756- đời vua Đường Túc Tông. Trương Kế từng thi đậu tiến sĩ và làm quan trong triều với chức vụ Tự bộ viên ngoại lang, về sau bị đổi ra Hồng Châu coi việc tài phú và mất tại đây. Sinh thời, ông là người học rộng, thích đàm đạo và bàn bạc văn chương, thế sự… đặc biệt rất thích làm thơ. Bài thơ này là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, chỉ với nó ông đã được liệt vào hàng đại gia. Ông sáng tác bài này khi đi thi trượt trở về ghé qua Tô Châu, tức cảnh mà sinh tình.

Nguyên tác bài thơ Phong Kiều dạ bạc sau này được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn Sơn.

Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Trần Trọng San dịch thơ:

Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài
Ngoài lũy Cô Tô, chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai

Phong kieu da bac

Trần Trọng San trong sách Thơ Đường ghi một truyền thuyết khá lãng mạn về bài này như sau.

Một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San, cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung

Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì hai câu thơ mình mới nghĩ ra:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không

nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San dịch thơ như sau:

Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không

Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật.

Tình cờ đêm hôm đó, trên thuyền đậu ở bờ sông gần chùa, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu (Trần Trọng San dịch thơ):

Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài

Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho Trương Kế nghĩ ra hai câu kế tiếp (Trần Trọng San dịch thơ):

Ngoài lũy Cô Tô, chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai

Nhờ đó mà Trương Kế hoàn tất bài Phong kiều dạ bạc.

Xem thêm: Hàn San.

Phong thiện: lễ tế trời. Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng sai đắp đất lên một hòn núi cao, thường là núi Thái Sơn để tế. Việc phong thiện thật chỉ bắt đầu từ đời Hán Vũ Đế và tác giả có dành một chương nói tỉ mỉ về việc này (Phong thiện thư).

Phong Trắc: Sách Thiên hạ dị kỹ: Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn.

Phú Bật: Người đất Hà Nam đời Tống, rất chăm học và có độ lượng. Khi quân Khiết Ðan xâm lăng Tống, đóng đồn ngay trên đất Tống. Phú Bật được cử đi sứ đòi lại đất, cực lực phản kháng bọn xâm lược đồng thời ông trình bày cái lẽ lợi hại của việc chiến hay hòa. Quân Khiết Ðan nghe ra phải rút quân về nước. Ði sứ về ông được phong chức Khu Mật Phó sứ. Ðến đời Vua Tống Anh Tông, ông được lên chức Khu Mật sứ tước Trình Quốc Công. Về hưu, ông cùng Văn Ngạn Bác, Tư Mã Quang… gồm 13 người theo chuyện Của Lão Ðồ của Bạch Cư Dị mà lập nên Lạc Dương Kỳ Anh hội, cùng uống rượu, họa thi làm vui.

Phù Tang: chỉ nơi mặt trời mọc, tức phương đông. Thần thoại cổ Trung Quốc nói rằng thần mặt trời tắm ở ao trời, gọi là đầm Dục Nhật ở Dương Cốc rồi lên chơi ở gốc cây thần gọi là cây Phù Tang, sau đó mới cưỡi xe lữa ruỗi rong qua bầu trời từ Ðông sang Tây.

phù: cái thẻ để làm tin, vua giữ một nửa và người nhận mệnh lệnh của vua (thường để đi đánh xa) để thực hiện việc gìn giữ một nửa. Khi nào nhà vua muốn sai một người thay thế mình thì giao cho người này cái nửa của mình. Nếu hai cái “phù” khớp lại thì đúng là người đến sau thay thế người đến trước để điều khiển quân đội.

phủ việt: búa rìu, chỉ lời chê trách nghiêm khắc. Theo lời tự sách Xuân Thu chính nghĩa của Khổng Dĩnh Ðạt (Ðường), Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu chép việc nước Lỗ ngụ lời bao biếm, sự khen chê cốt ngụ ở chỗ dùng. Có khi chỉ vì một chữ ngụ ý chê (biếm) mà thành tiếng xấu ngàn đời, một chữ ngụ ý khen (bao) mà được tiếng thơm muôn thuở.Vì vậy, người đời sau khi bàn kinh Xuân Thu có nói: Nhất tự chi bao vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm nhục ư phủ việt (Một chữ khen vinh hơn được áo cổn hoa vua ban, một chữ chê nhục hơn phải tội búa rìu).

Hồng Ðức Quốc âm:

Châm chước miện thiền dòng một phép
Quyền hàn cổn việt rạng muôn đời.

Phục Ba

Chinh phụ ngâm:

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Đến Man Khê bàn sự Phục Ba.

Về Giới Tử, xem mục: Hàn thực; về Phục Ba, xem mục: Mã Viện.

Phục Hy: Thông Chí: ông vua thần thoại trong Tam hoàng thời cổ Trung Quốc, có đức nên gọi là Thái Hạo, dạy dân đánh cá, nuôi súc vật để lấy cái ăn nên cũng gọi là Bào Hy, ông đặt ra Bát Quái, chữ viết.

Theo truyền thuyết thì Phục Hy, ông vua hoang đường đầu tiên của Trung Quốc sống trước cả Hoàng Ðế, được coi là người đã đặt ra 8 quẻ và cũng chính Phục Hy đã chồng 8 quẻ thành 64 quẻ. Khoa học hiện đại đã đưa ra thuyết cho rằng sự phát sinh ra quẻ đơn và quẻ kép là bắt đầu từ đời Chu, những quẻ ấy chỉ là phỏng theo những đường nứt trên mai rùa hay xương làm ra khi bói, được thi hành dưới triều đại nhà Thương là triều đại trước nhà Chu.

Quan Âm Thị Kính: còn có tên Quan Âm tân truyện, là một truyện thơ Nôm Việt Nam. Ấn bản của Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, gồm 786 câu lục bát.

Theo Wikipedia_ Quan Âm Thị Kính, từ lâu, truyện thơ Quan Âm Thị Kính được xem là của tác giả “khuyết danh”, nhưng hiện nay có hai giả thuyết như sau:

  • Theo nghiên cứu của Hoa Bằng, thì tác giả của truyện thơ này là Nguyễn Cấp (? –?), một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỷ 19, người Huyện Thọ Xương; nay thuộc Hà Nội. Vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ Nguyễn Công Trứ bấy giờ đang làm Tham tán quân vụ ở Lạng Giang che chở, nên ông đến ẩn tu tại đây. Tác phẩm Quan Âm Thị Kính, được ông sáng tác vào lúc cuối đời, thể hiện phần nào tâm sự u uất của ông.
  • Theo Gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh do Dương Xuân Thự cung cấp, thì truyện thơ Quan Âm Thị Kính do Đỗ Trọng Dư (1786–1868) sáng tác. Ông là người xứ Kinh Bắc, nay thuộc Tỉnh Bắc Ninh. Khi làm Tri phủ Quốc Oai, ông bị kiện là thu tiền của dân không hợp lệ nên bị bãi chức, phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông viết Quan Âm Thị Kính để gửi gắm lòng mình. Năm 1876, con ông là cử nhân Đỗ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948, thì tác phẩm (bản bằng chữ Quốc ngữ) được in ra (trên bản in đề rõ là của Đỗ Trọng Dư).

Đề cập đến vấn đề tác giả, GS. Nguyễn Huệ Chi có ý kiến: “Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai người, Nguyễn Cấp vả Đỗ Trọng Dư, đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính… Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng Dư là người soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện còn là vào năm Tự Đức thứ 21 (1868).

Tóm tắt nội dung:

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông, được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ, thấy một sợi râu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể, nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ.

Tình ngay lý gian, không sao giãi bày được nỗi oan, Thị Kính cắn răng chịu tủi nhục, quay về nhà cha mẹ. Nhưng rồi nỗi oan khổ chẳng biết thổ lộ cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Đang đêm, nàng cắt tóc, cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng oan, bởi thiên hạ đồn là nàng bỏ nhà theo trai!

Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu. Sư cụ không hề biết nàng là gái, nên nhận nàng cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm.

Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ, dụ dỗ “thầy tiểu” Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt, cô ta nên khai liều bào thai là của Kính Tâm. Vì thế Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo, nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này. Sư cụ thấy “chú tiểu” bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng xin nộp phạt thay. Dù thương xót Kính Tâm, nhưng vì sợ ô danh chốn thiền môn nên sư cụ phải để Kính Tâm ra ở ngoài mái tam quan.

Thị Mầu sinh con trai, đem đứa bé bỏ trước cổng chùa. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng. Ngày ngày, Kính Tâm phải bế đứa bé đi xin sữa khắp đầu làng cuối xóm trong sự cười chê của người đương thời. Ba năm sau, Kính Tâm yếu hẳn đi, trước khi mất, viết một lá thư dặn đứa bé giao lại cho cha mẹ mình. Đứa bé vội lên chùa trên báo cho sư cụ. Lúc đó, mới hay Kính Tâm là phụ nữ. Khi lá thư của nàng về đến quê thì mọi người biết nàng không phải là gái giết chồng. Nỗi oan tình của Thị Kính từ đó được tỏ, nàng được về cõi Niết bàn, hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính, nhưng vẫn còn đọng lại một điều gì đó quá nặng nề với người đời.

Từ chuyện tích trên, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giải bày được.

Cũng có thành ngữ “oan Thị Mầu” để nói đến việc sai mười mươi nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Mầu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa lại vẫn cho rằng mình… oan!

Vở chèo Quan âm Thị Kính là vở diễn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống.

Vở chèo: Thị Mầu lên chùa

Video trình diễn sống, NSƯT Thu Huyền:
https://www.youtube.com/watch?v=A3fMAoVyfZY

Vở cải lương Quan Âm Thị Kính – Phượng Trang

MV, trích đoạn, NSƯT Thanh Ngân:
https://www.youtube.com/watch?v=MnfN7EFf2cE

Quan hà Bách nhị: Ðất Quan Trung nước Tần xưa 4 bên núi non vây bọc, thông với các nước khác chỉ qua mấy cửa ải (Hàm Cốc quan, Vũ quan…), địa thế rất hiểm trở.

Sử ký của Tư Mã Thiên có nói với địa thế ấy nước Tần chỉ cần 2 vạn quân là đủ chống chọi với trăm vạn quân chư hầu.

Chữ Bách Nhị là lấy từ đây, nghĩa là 2 vạn địch trăm vạn.

Quan Trung tam Lý: Ðời nhà Thanh tại Tỉnh Thiểm Tây có ba danh nho: Lý Ngung, Lý Nhân, Lý Bách, đều là bạn tâm giao, nên mọi người gọi Quan Trung tam Lý.

Quan Vũ: vị tướng nổi danh nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Theo Tam Quốc chí, Quan Vũ truyện, Quan Vũ tự Vân Trường, trước có tự là Trường Sinh, người ở Quận Hà Đông. Sau có tội bỏ xứ lưu lạc đến Trác Quận. Lưu Bị tập hợp mọi người trong vùng, Vũ với Trương Phi cũng theo hầu. Lưu Bị làm Bình Nguyên tướng, lấy Vũ–Phi làm Biệt bộ tư mã, chia nhau thống lĩnh bộ khúc. Lưu Bị cùng với hai người ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày, mọi thứ đều do Lưu Bị chu toàn, chẳng tị hiềm gian khổ.

Lưu Bị đánh úp Từ Châu của Thứ sử Xa Trụ, sai Vũ giữ thành Hạ Bì, nhận chức Thái thú,

Năm 200, Tào Tháo Đông chinh, Lưu Bị thua chạy sang với Viên Thiệu, Tào Tháo bắt được Vũ đem về, phong làm Thiên Tướng quân, ban cho lễ cực hậu. Thiệu sai Đại Tướng quân Nhan Lương đánh Đông Quận Thái thú Lưu Diên ở Thành Bạch Mã, Tào Tháo sai Trương Liêu cùng với Vũ làm tiên phong đánh lại. Vũ trông xa thấy Lương ở dưới lọng chỉ huy, liền ra roi quất ngựa xông tới đâm chết Lương giữa vạn quân, chém lấy thủ cấp rồi quay về, chư tướng của Thiệu chẳng ai dám làm gì, Bạch Mã được giải vây. Tào Tháo liền phong cho Vũ làm Hán Thọ đình hầu.

Lúc trước, Tào Tháo thấy Vũ là người hùng tráng, muốn tỏ ý lưu lại lâu dài, mới bảo Trương Liêu rằng: “Khanh hãy lấy cái tình của ta đến ướm hỏi y xem.” Liêu liền lấy ý ấy ra hỏi Quan Vũ. Vũ thở dài nói: “Ta biết Tào công đãi ta rất hậu, nhưng ta đã chịu hậu ân của Lưu tướng quân, thề cùng sống chết, chẳng thể bội ước. Ta thà chết chứ chẳng ở lại được, ý ta muốn lập công để báo ơn Tào công rồi sẽ ra đi”. Liêu đem lời của Vũ về báo lại với Tào Tháo, Tào Tháo cảm nghĩa ấy.

Năm 219, Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, phong Vũ làm Tiền tướng quân, ban cho tiết việt. Năm ấy, Vũ xuất binh đánh Tào Nhân ở Phàn thành. Tào Tháo sai Vu Cấm đến giúp Nhân. Đến mùa thu, có mưa lớn, nước sông Hán ngập mênh mông, bảy cánh quân do Cấm đốc suất đều bị dìm trong nước. Vu Cấm hàng Vũ, Vũ lại chém chết được tướng quân Bàng Đức. Các xứ Lương, Giáp, Lục đều có ý ngấm ngầm hưởng ứng Vũ, kết lập bè đảng, Vũ oai trấn cả Hoa Hạ.

Tào Tháo tính chuyện dời về Hứa Đô để tránh mũi nhọn của địch, song Tư mã Tuyên Vương và Tưởng Tế cho rằng Quan Vũ nếu đắc chí, Tôn Quyền ắt hẳn chẳng chịu yên. Nên sai người khéo léo khuyên nhủ Quyền đánh tập hậu, hứa hẹn rằng sẽ cắt hẳn Giang Nam phong cho Quyền, như thế tự nhiên Phàn Thành sẽ được giải vây. Tào Tháo nghe theo. Nguyên khi trước, Quyền sai sứ đến tác thành cho con trai của mình và con gái Vũ, Vũ chửi mắng nhục mạ sứ giả, không đồng ý hôn sự, Quyền rất tức giận.

Hai người dưới quyền Vũ là Nam Quận Thái thú My Phương ở Giang Lăng, tướng quân Phó Sỹ Nhân ở Công An, vốn có hiềm khích với Vũ, bị Vũ coi rẻ. Vũ xuất quân, Phương–Nhân cung cấp quân tư trang, chẳng đầy đủ kịp thời. Vũ nói rằng “khi trở về sẽ trừng trị”, Phương–Nhân trong lòng lo sợ không yên. Bởi thế khi Quyền ngầm dụ hàng Phương–Nhân, hai người sai người nghênh đón Quyền. Tào Tháo bèn sai Từ Hoảng đến cứu Tào Nhân. Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quý trọng nhau (16), lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nhắc đến những việc thường ngày, không bàn bạc gì đến việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền lệnh: “Ai lấy được thủ cấp Vân Trường, sẽ thưởng 1.000 cân vàng”. Vũ lo sợ cuống cuồng, hỏi Hoảng rằng: “Đại huynh, sao lại nói như vậy?” Hoảng đáp: “Ấy chỉ bởi việc nước mà thôi.”

Vũ không đánh được, phải dẫn quân lui về. Quyền chiếm được Giang Lăng, bắt sống hết được vợ con tướng sỹ, quân của Vũ tản mát hết cả. Quyền sai tướng đón đường đánh lén Vũ, chém chết Vũ cùng con của Vũ là Bình ở Lâm Thư.

Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào Tháo, Tào Tháo lấy lễ chư hầu mà an táng cho Vũ.

Sau này Vũ được truy tặng thụy hiệu là Tráng mâu hầu.

Diệp Minh Tâm (2019b) phân tích những hư cấu trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa: La Quán Trung muốn nêu bật nét hào hùng của Quan Vũ, nên thuật hai câu chuyện hư cấu Vũ chất vấn ngang ngược về Mã Siêu và Hoàng Trung, chống lại ý của cấp trên là Lưu Bị. Cả hai câu chuyện gây phản ứng ngược: có ý kiến cho rằng khi chất vấn như thế, Quan Vũ vẫn mang tính háo thắng, vô trách nhiệm và vô kỷ luật (TQDN hư cấu chi tiết Vũ đòi rời Kinh Châu vào Ích Châu đánh với Mã Siêu), lại ấu trĩ đến nỗi được khen bộ râu đẹp cũng đủ đắc ý mà quên chuyện so đo tài năng với Mã Siêu.

Về đức độ của Quan Vũ, Hoa dương quốc chí, Ngụy thị Xuân ThuTam Quốc chí_Thục thư _Quan Vũ truyện trích Thục ký ghi câu chuyện sau. Tào Tháo cùng với Lưu Bị vây Lã Bố ở Hạ Bì (Phì). Nhân khi Bố sai Tần Nghi Lộc đến cầu cứu Quan Vũ, Vũ xin Tào Tháo cho mình lấy vợ của Lộc là Đỗ thị làm vợ. Tào Tháo ưng cho. Bố bị Tháo đánh bại, Vũ lại tỏ ý với Tháo về Đỗ thị. Nghe vậy, Tào Tháo đoán người con gái kia hẳn có nhan sắc, bèn bí mật sai người đi triệu về, thấy quả thật đúng như thế. Tào Tháo chiếm nàng làm của riêng. Vũ bất mãn trong lòng.

Việc xin người có quyền lực ban cho (thật ra là ép bức) vợ của một sứ giả đến xin ân huệ quả là vô nguyên tắc, vô đạo đức.

Còn về chiến công, Tam Quốc diễn nghĩa kể 17 tướng địch bị Quan Vũ hạ khi giao tranh, nhưng thực sự chỉ có Nhan Lương và Bàng Đức.

Người ta tự hỏi: Bỏ qua các chiến tích được người đời ca tụng hết mức và thêm tình tiết nài nỉ Tào Tháo ban người vợ của Lã Bố mà La Quán Trung không nêu ra, tài năng quân sự và đức độ của Quan Vũ thật sự còn lại bao nhiêu?

La Quán Trung khéo tô vẽ Quan Vũ thành một tài năng quân sự siêu việt và một đức độ đáng nể, khiến cho qua nhiều thế hệ đền “Võ Thánh” hoặc “Quan Thánh Đế” thờ Quan Vũ (thường có hình ảnh thanh long đao hư cấu và Chu Thương hư cấu) hiện diện nhiều nơi trong các cộng đồng người Hoa. Thật ra theo chính sử Quan Vũ chỉ là một viên tướng võ biền, chỉ khỏe chứ không có mưu mẹo gì, trên thực tế Trương Phi còn khôn ngoan hơn Quan Vũ.

Không những nâng cao Quan Vũ khi còn sống, La Quán Trung còn nâng Vũ lên mức thần thánh qua các sự hiển linh, và qua sự trừng trị tưởng tượng những người làm chết Vũ.

Vì thế, huyền thoại về Quan Vũ lại giảm thêm giá trị.

Quang Khánh: tên chùa ở Huyện Kim Môn, Hải Hưng. Trong chùa có tấm bia khắc bài thơ nôm đề là Ngự đề Quang Khánh tự, bia dựng năm Hồng Ðức thứ 17 (1486), thác bản thư viện Viện Hán Nôm mang số 11.765. Trước kia có người cho rằng bài thơ này của nữ sĩ Sương Nguyệt ánh, lại có người cho rằng của Lê Thánh Tông.

Chùa còn có tên là “Chùa Mộng” vì nhà sư trụ trì tên là ông Mộng.

quả nhân: cách vua chúa xưng “quả nhân” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử từ thời Xuân Thu–Chiến Quốc. Tả Truyện kể: Tống Mục Công (trị vì: 728–720 tCN) quyết nhường ngôi cho cháu thay vì con trai. Năm 720 tCN khi Tống Mục Công ốm nặng, ông cho truyền Đại Tư Mã Khổng Phụ Gia, nói muốn lập con của Tuyên Công là Dữ Di lên nối ngôi, trong khi các quần thần muốn lập Công tử Phùng, con của Tống Mục Công lên làm vua. Lúc đó Tống Mục Công nói: “Hãy phò tá phụng sự Dữ Di lấy xã tắc làm trọng, như vậy dù quả nhân có chết sẽ không hối hận”. Ông còn bắt con trai là Công tử Phùng sang nước Trịnh làm con tin, nhường ngôi cho cháu, con của anh Tuyên Công là Dữ Di chứ không phải con mình. Dù có ý kiến phản đối, ông vẫn quyết định như vậy để báo ơn anh đã nhường ngôi cho mình.

“Quả nhân” là tiếng tự xưng khiêm nhường của vua chúa, tự cho mình là người ít đức, hay là người “về đức độ làm chưa được tốt”.

Quản Lộ: Theo Viên Cơ, Ðời Tam Quốc, Quản Lộ một đêm đang ngồi dưới đèn chợt có một con vật nhỏ tay cầm mớ lửa kề lên miệng thổi suýt cháy nhà. Lộ sai học trò giơ dao chém đứt đôi lưng thì té ra là một con cáo. Từ đấy trong làng không có hỏa tai nữa.

Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn, thường đêm nằm nhìn trăng sao, thao thức không chớp mắt, cha mẹ ngăn cấm không được.

Vừa lớn lên, Quản Lộ đã làu thông Kinh Dịch, hiểu hết nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số và giỏi cả xem tướng.

Một hôm, Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đương cày ruộng. Lộ đứng lại bên đường, đứng ngắm một lúc, đoạn gọi lại hỏi: “Này anh kia, dám hỏi quý danh là gì? Anh bao nhiêu tuổi?”

“Tôi họ Triệu tên Nhan, 19 tuổi. Dám hỏi tiên sinh là ai?”

Lộ đáp: “Ta là Quản Lộ đây. Ta thấy trên quầng mắt anh có tử khí. Chỉ còn ba ngày nữa là anh chết. Tiếc thay, gương mặt anh xinh đẹp thế mà không thọ!”

Triệu Nhan nghe nói lo sợ, về ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức chạy theo tìm gặp Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất, kêu khóc: “Xin tiên sinh rủ lòng thương, trở lại cứu mạng con tôi.”

Lộ nói: “Đó là số trời, cầu đảo sao được!”

Ông lão năn nỉ, van lơn: “Già này chỉ có một đứa con, xin ngài cứu cho, kẻo khổ một đời…”

Nói xong, cả hai cha con dập đầu lạy, khóc bù lu bù loa, trông rất bi thiết.

Lộ thấy cha con lão thiệt tình, lòng không nỡ bỏ, mới bảo Triệu Nhan: “Anh hãy về tìm một vò rượu ngon rất tinh khiết với một ít thịt nai thật thơm, ngày mai đem vào núi Nam Sơn, tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy ở trên phiến đá có hai dị nhân ngồi đánh cờ. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, một ông quay về hướng Bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp. Bấy giờ thừa lúc hai vị cao hứng mải mê đánh cờ, anh cứ bày rượu thịt ra mâm dâng lên. Đợi cho ăn uống xong, sẽ lạy khóc mà xin tuổi thọ. Như thế may được sửa sổ lại. Nhưng nhớ kỹ một điều: chớ nói là ta xúi anh nhé!”

Ông lão mời Quản Lộ ở lại nhà mình chờ xem.

Hôm sau, Triệu Nhan cắp nắp rượu ngon, nem thơm, dĩa chén vào núi Nam Sơn. Đi độ năm sáu dặm, quả thấy hai dị nhân đang ngồi đánh cờ trên phiến đá, dưới bóng râm một cây tùng. Triệu Nhan đội mâm rượu đến gần. Hai ông vẫn chăm vào bàn cờ, như không có người đứng bên cạnh. Nhan quỳ xuống dâng mâm lên, đặt trên thạch bàn.

Hai ông mải mê đánh cờ, bất giác đưa tay nâng chén… rồi dần dần vừa đánh vừa ăn uống hết cả rượu thịt một cách ngon lành.

Lúc bấy giờ, Nhan mới khóc òa lên và lạy lục xin cầu thọ. Hai ông giựt nẩy mình nhìn lại. Đoạn ông mặc áo đỏ bảo ông mặc áo trắng: “Hẳn là gã họ Quản xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì phải thương nó.”

Ông áo trắng liền rút quyển sổ trong mình ra, tìm xét, rồi bảo Nhan: “Năm nay mày 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ “cửu” lên trên hai chữ “thập cửu” thì mày sẽ sống đến 99 tuổi. Nhưng phải về báo gã Quản Lộ rằng: từ nay phải chừa đi, chớ có tiết lộ thiên cơ nữa. Nếu không trời sẽ khiển phạt, nghe chưa?”

Ông áo đỏ cũng mở sổ, thêm vào một nét bút. Rồi một cơn gió thơm ngào ngạt bay qua, hai vị tiên biến thành hai con hạc trắng, bay lên trời mất hút.

Triệu Nhan mừng rỡ, về nhà hỏi Quản Lộ về hai vị tiên ông ấy.

Quản Lộ nói: “Ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào; ông áo trắng là ngôi Bắc Đẩu đấy.”

Nhan lại hỏi: “Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông?”

Lộ giải thích: “Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành một. Bắc Đẩu ghi sổ tử, Nam Tào ghi sổ sinh. Nay đã được sửa số tuổi rồi anh còn lo gì nữa!”

Cha con họ Triệu mừng rỡ lạy tạ.

Từ đó, Quản Lộ sợ tội tiết lậu thiên cơ không dám khinh xuất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.

Quản Ninh: Thông Chí: ông người đất Chu Hư, người Ngụy thời Tam Quốc, tự ấu An, thích sống ẩn dật xa nơi quyền quý. Ông chơi thân với Hoa Hâm ở đất Bình Nguyên. Một hôm, hai người ngồi đọc sách thì có chiếc xe trang hoàng lộng lẫy đi qua cửa. Hoa Hâm bỏ sách chạy ra xem. Quản Ninh rạch đôi chiếu nói rằng: “Anh ta không phải là bạn nữa rồi”. Từ đó tuyệt giao với Hoa Hâm. Ông mở trường dạy học, không màng gì đến thế sự. Học trò nhiều người thành đạt, triều đình biết tiếng mấy lần vời ra làm quan, ông đều từ chối không nhận. Ông thường đội mũ đen, mặc áo đơn ngắn, thọ 84 tuổi.

quạt mồ: Theo tích của Trang Tử, ông đi chơi về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, cười như nắc nẻ, cười mãi. Vợ Trang Tử thấy lạ, hỏi chồng: “Mình có việc gì mà cười lắm thế?” Trang Tử kể chuyện. Chàng vừa đi qua một cánh đồng; một thiếu phụ xinh đẹp, đội khăn tang, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa mọc, đất còn ẩm. Trang Tử lấy làm lạ, dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. “Hay là nàng thương người dưới mồ nóng bức?” Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: “Thưa quý nhân, nàng quạt mồ là nghĩa làm sao?” Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: “Ðây là mồ chồng thiếp. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăng hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô.”

Nghe vậy, vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó: “Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu trơ trẽn đến thế”. Trang Tử tỏ lòng khâm phục vợ. Và chàng muốn thử lòng vợ. Vốn biết pháp thuật, chàng giả vờ chết, trối với vợ: “Mình quàn tôi một trăm ngày rồi hãy chôn”. Vợ chàng tưởng chàng đã chết, quàn trong nhà.

Ðược mươi hôm, Trang Tử cựa mình hóa phép thành một chàng trai trẻ đẹp, hào hoa. Chàng thư sinh nhận mình là học trò thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: “Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô cho ở lại mấy hôm”. Vợ Trang Tử vừa thấy chàng, đã đem lòng quyến luyến; nàng vội nhận lời. Từ đêm ấy, hai bên quấn quýt nhau, không rời nhau được.

Bỗng một hôm chàng ôm bụng, lăn lộn trên giưưòng, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la thảm thiết. Chàng ú ở nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được chàng: lấy sọ người chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chữa bệnh cho người yêu. Trang Tử nhổm dậy và phá lên cười. Người thiếu phụ xấu hổ quá, ngã bệnh, vài hôm sau thì chết.

Trang Tử thấy nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca bài Cổ bồn, bài ca vừa như cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót xa cho thân phận con người: “Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng…! Nhìn nhau lệ chẳng rơi lã chã…! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương…”

Trang Tử hay Trang Chu, đệ tử nổi tiếng của triết gia Lão Tử, có tư tưởng bi quan về cuộc sống con người.

Ca dao:

Thương thay cho kẻ quạt mồ
Hại thay cho kẻ lấy vồ đập săng.

quạt nồng ấp lạnh: do chữ đông ôn hạ sảnh: quạt khi trời mát, có nghĩa đắp chăn mùa đông, quạt mùa hè, ý nói đạo làm con phụng dưỡng cha mẹ.

Lễ ký: Phàm theo lễ kẻ làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên chỗ nằm, buổi sớm hỏi thăm xem cha mẹ.

Nhị thập tứ hiếu: Hoàng Hương mới lên 7 tuổi mà biết phụng dưỡng cha mẹ. Cậu còn bé, không làm công việc nặng nề để giúp cha mẹ được thì vào mùa hạ cậu quạt cho cha mẹ mát, mùa đông ấp chỗ ngủ cho cha mẹ được ấm.

Đoạn trường tân thanh:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

quăng thoi: ý nói tác động của dư luận làm siêu lòng người. Ngữa vận: Tăng Sâm là bậc đại hiền, một lần có người trùng tên với ông làm sự giết người, người ta tưởng chính là ông bèn tìm đến báo tin cho mẹ ông biết. Hai người đến báo, bà vẫn điềm nhiên ngồi dệt cửi vì tin là con mình không khi nào như thế. Nhưng đến lần báo thứ 3, bà cũng phải ngờ con mình mà quăng thoi đứng dậy.

quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu: Theo Lê Trung Hoa (2005), Câu trên có nghĩa là “Vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chịu chết là bất trung; cha bắt con chết, con không chịu chết là bất hiếu”.

Kim Định (2017) cho rằng câu này là của Thái tử Phù Tô, con trưởng của Tần Thủy Hoàng. Còn Nguyễn Đăng Thục trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I (NXB TPHCM, 1998) cho rằng của Tống Nho. Tuy nhiên, cả hai tác giả đều không nêu ra tư liệu xuất xứ nào. Do đó, cả hai ý kiến đều chưa được chấp nhận.

Nhưng chắc chắn câu đó không phải của Nho giáo Tiên Tần (trước năm 206 trước Tây lịch). Trong sách Luận ngữ của Khổng Tử có câu: “Vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. Mạnh Tử (371-289) nói rõ hơn: “Vua coi bề tôi như chân tay, bề tôi sẽ coi vua như tâm phúc; vua coi bề tôi như chó ngựa, bề tôi sẽ coi vua như người đi đường; vua coi bề tôi như đất cỏ, bề tôi sẽ coi vua như giặc thù”. Và ông nói tiếp: “Chỉ nghe giết một người tên Trụ (tức Trụ Vương), có nghe nói giết vua bao giờ đâu”. Tuân Tử (298-238) tuyên bố: “Giết một tên vua tàn bạo có khác gì giết một tên phu xe độc ác”.

Tóm lại, ở giai đoạn Tiên Tần, Nho giáo rất tiến bộ. Cho nên có lẽ câu trên chỉ ra đời sau này nhưng chưa biết vào thời nào và của ai.

quân tử cố cùng: người quân tử đến lúc cùng khốn vẫn giữ khí tiết. Theo Luận ngữ, Vệ Linh Công nói: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (Người quân tử lúc cùng vẫn giữ vững khí tiết, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng ắt làm bậy.)

Có một giai thoại về Nguyễn Văn Xiển tức Xiển Bột (sinh vào khoảng 1860). Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đỡ là Án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là Án Tiêu. Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng “tiêu”. Hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội.

Lệnh ban ra khiến Xiển Bột rất ghét quan huyện. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan.

Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai.

Quan nổi trận thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám đem quần áo rách đến bán cho quan bao giờ!

Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói: “Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử…”.”

Quan buột miệng nói:

Quân tử cố cùng, quân tử cùng, quân tử cố
(Quân tử bền lòng lúc cùng quẫn, quân tử cùng quẫn, quân tử bền lòng)

Lấy ý trong Luận ngữ.

Xiển Bột trần tình:

Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm
(Khổng Minh bắt để tha, Khổng Minh tha, Khổng Minh bắt).

Lấy ý trong Tam quốc diễn nghĩa: Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần lại tha.

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình với lời trần tình của Xiển đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt: Mình mắng nó cùng quẫn, nó xin tha!

Câu của quan khó ở hai chữ “cố” nghĩa nôm là cầm cố, và chữ “cùng” nghĩa nôm là cùng quẫn.

Tài tình của Xiển ở hai chữ “cầm” lấy nghĩa nôm cầm cố như trên, và chữ “túng” nghĩa nôm là túng tiền, vừa đối chữ vừa đối nôm.

Quân thiều: tên một khúc nhạc trên trời.

Quần Ngọc: Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị Phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ, câu đầu là: Hoàng lăng miếu tiền xuân dĩ không, chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là Nga Hoàng và Nữ Anh hẹn sau 2 năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.

Nga Hoàng và Nữ Anh là tên hai người vợ của Vua Thuấn, con gái Vua Nghiêu. Không biết có phải là 2 người này không… (Miếu Nhị Phi là miếu thờ 2 bà). (TQ).

quế cung: Nam bộ yên hoa ký: Vua Trần Hậu Chủ có xây cho nàng Trương Lệ Hoa một cung quế, có cửa sổ tròn giống như mặt trăng, giữa sân có một cây quế.

Có sách giải thích rằng gọi là quế cung vì phòng của cung phi ngày xưa thường lát tường bằng gỗ quế để giữ hơi ấm.

Nói chung, quế cung chỉ chỗ ở của cung phi.

quốc sắc thiên hương: tức sắc nước hương trời. Sắc nước là sắc đẹp nhất nước, hương trời là hương thơm chỉ có trên trời (thế gian không có); ý nói sắc đẹp hiếm có về thể chất lẫn tinh thần. “Quốc sắc thiên hương” trong văn chương cổ điển Trung Hoa chỉ về cái đẹp của hoa mẫu đơn, lấy hoa mẫu đơn làm tiêu biểu.

Sách Tùng song tạp lục chép: Vua Ðường Minh Hoàng ngự thưởng hoa mẫu đơn trong nội điện, hỏi thị thần: thơ vịnh hoa mẫu đơn của ai hay nhất? Thị thần tâu: có thơ của Lý Chính Phong, trong đó có câu:

Quốc sắc triều hàm tửu
Thiên hương dạ nhiễm y

Nghĩa:

Người quốc sắc ban mai hay say rượu (ý nói hoa đỏ)
Mùi thiên hương đêm nhuốm áo khăn (nói về hương thơm)

Mẫu đơn là một thứ hoa thơm, đẹp và quý nhất trong các loại hoa, được gọi là loài hoa vương giả. Cho nên “quốc sắc thiên hương” chỉ một tuyệt sắc giai nhân so sánh với hoa mẫu đơn.

Đoạn trường tân thanh, Mã Giám Sinh nhìn thấy sắc đẹp của Kiều, hắn ca ngợi:

Ðã nên quốc sắc thiên hương
Nụ cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.

Quy khứ lai hề: xem Ðào Tiềm.

Quỷ Cốc Tử: Theo Wikipedia_Quỷ Cốc Tử, Quỷ Cốc Tử là nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Họ tên không rõ ràng, con người ông được người đời sau hư cấu nên mang tính huyền bí, theo sách Đông Chu liệt quốc tên ông là Vương Hủ người đời Tấn Bình Công, là bạn thân của Tôn Tử và Mặc Tử. Quỷ Cốc Tử còn có một tên khác nữa là Vương Thiền nên ông có có hiệu là Vương Thiền lão tổ. Quỷ Cốc Tử là một nhà tư tưởng, nhà truyền giáo, có rất nhiều học trò theo học, trong số đó có nhiều người trở nên nổi tiếng thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bốn học trò được nổi tiếng hay được nhắc đến là Tôn Tẫn người nước Tề, Bàng Quyên và Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương (kinh đô nhà Chu). Ngoài ra ông còn có hai học trò nổi tiếng khác là Lã Bất Vi (theo Tây Hán diễn nghĩa) và Địch Thanh (theo Vạn Hoa lâu diễn nghĩa).

Đông Chu liệt quốc chép về ông như sau.

Đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỷ Cốc (hang quỷ), vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở. Trong núi ấy có một người ẩn sĩ, tự đặt hiệu cho mình là Quỷ Cốc tử. Tương truyền rằng người ấy họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình Công, nguyên trước ở Văn Mộng sơn, cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy. Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỷ Cốc, người ta vẫn gọi là Quỷ Cốc tiên sinh. Ông là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp.

Mấy môn học vấn ấy là:

  1. Số học, nhật nguyệt tương vĩ đều thu cả ở trong bàn tay, xem việc trước đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm;
  2. Binh học, lục thao tam lược, biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỷ thần khôn biết;
  3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn dương;
  4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên.

Người ẩn sĩ ấy đã có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỷ Cốc để nương mình. Ban đầu đôi khi Quỷ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người, nói những điều tốt, xấu, dữ, lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao. Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại.

Trong số học trò, có mấy người được nổi tiếng cùng một lúc, là Tôn Tẫn, người nước Tề; Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương. Tẫn và Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng.

Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là giỏi lăm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền của để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, thì trong lòng khấp khởi, muốn giã từ Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói.

Nhưng Quỷ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng: “Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà cầu lấy giàu sang?”

Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng: “Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không?”

Tiên sinh nói: “Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho.”

Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa. Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng bực, các cây cối ít có hoa nở. Bàng Quyên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật quý giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng: “Trong núi không có hoa.”

Tiên sinh nói: “Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia?”

Bàng Quyên không giấu được, phải lấy ra đưa trình. Nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ. Tiên sinh nói: “Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không? Đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lần nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm. Hoa này hái ở hang Quỷ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ ‘qui’ có chữ ‘ủy’, nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy.”

Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ.

Tiên sinh lại nói: “Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình. Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy, đừng quên: ‘gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo’.”

Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng: “Lời giáo hối của tôn sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ.”

Tiên sinh hỏi Tôn Tẫn: “Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không?”

Tôn Tẫn nói: “Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau!”

Tiên sinh nói: “Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không?”

Tẫn nói: “Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được?”

Tiên sinh nói: “Không làm được! không làm được!”

Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói. Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng: “Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta.”

Học trò vâng lời. Khi đến lượt Tôn Tẫn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tẫn rằng: “Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tôn Vũ tử [tức Tôn Vũ], xưa kia ông ngươi đem dâng Vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân Sở. Sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô đài; từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa. Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy; ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho.”

Tôn Tẫn nói: “Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này?”

Tiên sinh nói: “Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to. Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được!”

Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc. Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại. Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào.

Tiên sinh mừng mà nói rằng: “Ngươi biết dụng tâm như thế, thì tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy.”

Lại nói Bàng Quyên khi vào chầu Ngụy Huệ Vương, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm. Quyên mừng nghĩ thầm rằng thầy ta nói gặp dê thì tươi, lời nói ấy quả không sai. Huệ Vương cử Quyên làm nguyên soái và kiêm chức quân sư. Quyên luyện binh, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng. Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu. Lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang.

Quyên nghe nói Tôn Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, cũng theo lệnh Huệ Vương viết thư mời đến phò tá Ngụy.

Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỷ Cốc tiên sinh. Tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thầy, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến. Tiên sinh nghĩ rằng Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy Vương, thôi đành cứ để cho đi vậy, liền bảo Tôn Tẫn đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ là tiết tháng chín. Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm trả ngay vào trong bình.

Tiên sinh liền đoán rằng: “Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tính chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tài hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người đều quý trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một loài với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng. Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình. Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được!

Tiên sinh bèn đổi tên cho là “Tẫn”. Theo nghĩa chữ thì chữ “tẫn” là một thứ cực hình chặt chân. Quỷ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết.

Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem.

Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi.

Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mộ, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh. Tiên sinh hỏi: “Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không?”

Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại. Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đoán rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành; Tần gặp gỡ ngày, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng.

Tiên sinh lại nói: “Ta xem Tôn, Bàng hai người thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai người mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay.”

Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy.

Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi, thì vài hôm sau, tiên sinh cũng bỏ Quỷ Cốc mà ngao du, có người nói tiên sinh đã lên tiên rồi.

Đúng như Quỷ Cố Tử tiên đoán, Bàng Quyên hại Tôn Tẫn bị chặt chân, về sau bị Tôn Tẫn cho phục quân bắn chết ở Mã Lăng, ứng với câu của thầy như cành hoa: ‘gặp ngựa thì héo’.

Xem thêm: Trương Nghi, Tô Tần.

ra môn ra khoai: hai cây khoai môn (khoai sọ) và môn nước khá giống nhau, nhưng củ môn nước ăn vào sẽ gây ngứa trong miệng rất khó chịu, vì thế không nên nhầm lẫn giữa hai loài.

Thành ngữ này có nghĩa là phân biệt cho rõ ràng.

Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”. Cây ngô và cây khoai không thể nhầm được.

to dia - Mexican primrosewillow (Ludwigia octovalvis)
tổ đỉa (Ludwigia octovalvis)

rách như tổ đỉa: Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, còn được gọi là rau mương (tên khoa học là Ludwigia octovalvis), thường mọc ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá dài và hẹp mọc lơ thơ nên cành lá tạo hình ảnh như vải bị rách te tua thành từng mảnh nhỏ.

Vì vậy, thành ngữ trên chỉ quần áo quá rách rưới.

rắn Hán: chỉ đế nghiệp nhà Hán. Theo Sử ký, Mẹ Hán Cao Tổ trước đây có một lần nghĩ trên bờ một cái đầm lớn, mộng thấy nằm với một vị thần. Lúc bấy giờ, sấm chớp nổi lên, trời tối mịt. Thái Công đến xem thì thấy trong người bà có một con giao long. Sau đó, bà có mang và sinh Cao Tổ, là vua dựng nghiệp nhà Hán.

rìu Hoàng Việt, cờ Bạch Mao: Tượng trưng uy quyền của người chỉ huy quân đội. Là những thứ mà vua chúa và chủ súy dùng để chỉ huy quân đội khi tiến hành đem quân chinh phạt. Rìu để trừng phạt kẻ không tuân lệnh, cờ để ra hiệu chỉ huy. Khi đem quân phạt Trụ, Khương Tử Nha (chủ súy của Chu Vũ Vương) đã cầm các thứ này.

rối như mớ bòng bong: Theo Lê Văn Thưa (2016) và Phạm Hoài Nhân (2017), bòng bong là một loài dương xỉ có sức sinh trưởng nhanh, nếu mọc từ một gốc thân cây khác lâu ngày sẽ quấn chằng chịt xoắn xít, ken dày thành mảng lớn với vô số nhánh phủ kín quanh thân cây chủ mà leo lên cao. Có tên khoa học là Lygodium microphyllum thuộc Chi Bòng bong Lygodium, loài dây leo này thường mọc hoang ở khắp vùng đồng bằng và cũng ở vùng rừng tràm ngập nước như ở Đồng Tháp, U Minh… Lá kép lông chim 2, 3 lần, dài nhiều mét, thứ diệp mang 2-6 cặp tam diệp, tam diệp chót thường chẻ đôi. Lá mang bào tử, bào tử già rơi xuống đất mọc lên cây con, lâu ngày thành những bụi bòng bong rậm rạp.

bong bong
Bòng bong (Lygodium microphyllum)

Thân bòng bong chứa nhiều cellulose nên rất chắc. Trước khi có dây nylon, dân gian dùng dây bòng bong để cột các vật dụng cần thiết, kết nối để làm các dụng cụ đánh bắt cá như lờ, lọp, trúm…

Có một giải thích khác: theo từ điển Khai Trí Tiến Đức, mớ bòng bong là tên gọi các xơ tre mảnh quấn quanh nhau khi ta gọt tre. Thật ra, tên gọi mớ bòng bong theo cách này không được thông dụng.

Rồng Phụng Kinh Châu: Chỉ Gia Cát Lượng hiệu Phục Long và Bàng Thống hiệu Phụng Sổ. Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Lưu Bị tự Huyền Đức cưỡi ngựa nhảy qua Sông Đàn Khê để chạy thoát khỏi một âm mưu gây hại thì gặp một mục đồng, liền hỏi thăm đường về Tân Dã.

Mục đồng hỏi: “Ông có phải là Huyền Ðức không?”

Huyền Ðức lạ lắm, hỏi làm sao mà biết.

Ðứa trẻ nói: “Thầy tôi có khách là cứ bàn đến tên ông và tả hình dạng mặt mày.Tôi thấy giống nên hỏi vậy thôi.”

Huyền Ðức hỏi thầy là ai. Mục đồng nói: “Tư Mã Huy, tự Ðức Thái, hiệu là Thủy Kính tiên sinh.”

Huyền Ðức tìm đến gặp Thủy Kính tiên sinh, vội thưa: “Tôi là Huyền Ðức, xin bái yết tiên sinh.”

Kính hỏi luôn: “Nghe ông bấy lâu ôm chí cả, chẳng hay nghiệp lớn nên chưa?”

Huyền Ðức thưa rằng vận hạn đang gặp gian nguy.

Thủy Kính nói: “Ðó là vì tả hữu thiếu người giúp đỡ.”

Huyền Ðức kể tên Tôn Hoàng, My Chúc, Giản Ung, Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân.

Thủy Kính đáp: “Quan, Trương. Triệu sức đánh muôn người nhưng thiếu người điều khiển. Tôn Càn, Mê Truớc v. v… đều là bạch diện thơ ainh, chưa phải là bậc kinh luân tế thế.”

Huyền Ðức hỏi phải làm sao.

Thủy Kính nói: “Ở đây nhiều người tài, ông nên tìm cho ra.”

Huyền Ðức hỏi là ai và xin được chỉ bảo.

Thủy Kính nói: “Phục Long, Phụng Sồ, được một trong hai vị ấy thì an thiên hạ.”

Cuối cùng, cả hai người về phò tá Lưu Bị. Gia Cát Lượng làm Quân sư còn Bàng Thống làm Quân sư trung lang tướng – được xem như Phó Quân sư.

Thành ngữ “Rồng Phụng Kinh Châu” trên chỉ bậc tài giỏi nói chung.

ruộng Lạc Hầu: Loại ruộng cấy lúa nước của người Việt cổ, theo nước thủy triều lên xuống mà cày cấy.

ruộng tình: Do chữ tình điền, nghĩa mượn chữ sách Lễ ký nói rằng đức Thánh Vương đặt lễ nghĩa để trị tình người cho nên tình của người ta là ruộng của Thánh Vương.

ruột đứt khúc: chỉ sự sầu khổ. Chuyện Cổ Huống đời Ðường đề thơ thả ở ngòi ngự, trong có câu: “Lúc những cung nữ ở cung thượng dương đau ruột”.

Xem tiếp: Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong cổ văn phương Đông – S đến Y

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *