Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn học phương Đông – S đến Y

Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn học phương Đông – S đến Y
Diệp Minh Tâm
2020

sa nang ủng thủy: Theo Tây Hán chí, sa nang ủng thủy là một chiến thuật của tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Sở tại Sông Duy thuộc Tỉnh Sơn Đông. Đây là chiến thuật lấy bao cát (sa nang) để chặn nước nguồn (ủng thủy) rồi chờ giặc đổ đến thì cạy bao cát lên, xổ nước xuống làm ngập quân địch.

Long Thư là tướng của Sở đem binh đánh Hán. Hàn Tín lui binh 5 dặm, nói với các tướng: “Long Thư là danh tướng, ỷ mình mạnh mà đến đây, ta phải dùng trí thắng, chớ nên dùng sức.”

Hôm sau, Hàn Tín ra ngựa đối địch với Long Thư. Thơ đánh mỗi lúc càng hăng, càng mạnh. Hàn Tín bỏ chạy. Thơ xua quân, đuổi theo. Đến sông Duy, nước cạn khô. Binh của Hàn Tín giục ngựa qua sông một cách dễ dàng. Tướng Sở là Chu Lan theo sau lấy làm nghi hoặc, tiến đến ngăn Long Thư: “Sông Duy sâu dài, nước cuồn cuộn chảy, nay lại không có nước, chắc là chúng đã chận ở trên nên nước không đổ xuống được. Chúng đợi binh ta qua sông rồi xổ nước thì bấy giờ ta làm sao ngăn kịp?”

Long Thư không tin, nói: “Hàn Tín đã thua chạy, còn rảnh đâu mà bày mưu kế! Vả lại nước sông tùy mùa hạn lụt. Lúc này là tháng chạp nhằm tiết đông, ấy là lúc nước kém nên sông cạn, có lấy chi làm lạ.”

Bấy giờ trời đổ tối. Vừa lúc ấy có quân báo là Hàn Tín còn ở gần trước đây. Long Thư lập tức huy động ba quân qua sông đuổi theo, quyết bắt Hàn Tín cho kỳ được. Vừa đến giữa sông, thấy có chiếc lồng đèn treo trên cao, Long Thư tò mò đến xem. Bên cạnh đèn ấy có dựng một mộc bài đề 6 chữ lớn: điếu đăng cầu trảm Long Thư (treo lồng đèn chém Long Thư). Long Thư nói: “Hàn Tín thấy binh ta rượt gấp, muốn cho binh ta lui nên dựng mộc bài dọa ta.”

Chu Lan suy nghĩ một lúc nói: “Đêm hôm tăm tối lẽ nào hắn làm gấp được! Hay hắn đã làm sẵn để dẫn dụ binh ta đuổi theo đến chỗ này đặng binh Hán coi chừng lồng đèn mà tiến đến. Vậy ta chặt ngã đèn tất binh Hán phải loạn.”

Long Thư đưa dao chặt ngã đèn.

Ánh đèn vừa tắt thì đột nhiên binh Hán đã mai phục từ đâu nhất loạt đổ đến như vũ bão. Tiếng la hét vang dậy cả một vùng trời. Rồi nước từ trên ngọn sông Duy ầm ầm đổ xuống nhanh như tên bắn.

Binh Sở khủng khiếp. Đương ở giữa sông, họ không sao đứng vững được. Nước tràn đến cuồn cuộn, cuốn phăng chúng đi như cuốn phăng những chiếc lá vàng. Long Thư hốt hoảng, giục ngựa chạy khan. Ngựa của Long Thư là Thiên lý cu nên nhảy vài bước là đến bờ. Hắn vừa muốn tìm đường chạy thì một tiếng súng nổ vang, tướng Hán là Tào Kham, Hạ Hầu Anh cùng một số tướng tá xông ra bao vây. Long Thư tả xông hữu đột, không thoát khỏi được. Đêm tối dày đặc lại ở vào một thế bị động, địa hình địa vật không biết nên không phương xoay trở, giữa lúc vòng vây mỗi lúc càng siết chặc, Long Thư dầu có sức mạnh cử đảnh bạt sơn cũng khó lòng mong thoát khỏi.

Ngọn đao của Tào Kham phạt ngang chiếu một ánh sáng loang loáng. Long Thư trở tay chẳng kịp bị một đao ngã gục tại phía bắc sông Duy. Còn tướng Chu Lan thừa lúc binh loạn và trời tối, trốn thoát được, hú hồn hú vía.

Đó là trận đánh lịch sử sa nang ủng thủy của nhà quân sự đại tài Hàn Tín đời Tây Hán trong cuộc Hán Sở tranh hùng.

Nước Việt cũng có trận đánh như thế.

Thực dân Pháp chiếm lấy Việt Nam. Cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp. Cuộc kháng chiến kéo dài đến 10 năm. Tuy chí phấn đấu kiên trung có thừa nhưng sức người có hạn nên lực lượng nghĩa quân ngày càng hao mòn. Quân Pháp đánh rát quá, năm 1895, cụ Phan phải rút quân về đóng ở thung lũng của Núi Vụ Quang, cách đồn Pháp không bao xa. Cụ dự đoán sớm muộn nay mai Pháp cũng đến vây đánh.

Nhìn dòng Vụ Quang thấy quanh co một giải trắng phau, nước cuồn cuộn chảy, cụ Phan vui vẻ nói: “Nếu quân Pháp kéo đến đánh ta thì con sông kia có thể cự địch được lắm. Ta sẽ dùng kế sa nang ủng thủy của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa mới được.”

Quả thực, lúc quá nửa đêm, Pháp kéo đến đánh trái núi có đồn nghĩa quân đóng. Nhưng trước khi chúng chưa đến thì cụ Phan đã kéo quân dời qua đóng trên một thung lũng núi khác.

Quân Pháp bao vây, chĩa súng bắn như mưa nhưng không thấy nghĩa quân bắn trả lại một tiếng. súng nào. Đồn tại bằng cây lá bị đạn phát cháy. Bấy giờ Pháp mới đoán chắc là nghĩa quân đã sợ bỏ chạy từ lúc nào. Chúng xông lên núi xem rõ hư thực. Đến nơi chẳng thấy bóng một người. Còn lại và nhà chưa bị cháy, thấy có ít nhiều khí giới là dao cùn, gươm mẻ bỏ nằm ngổn ngang. Quân Pháp bấy giờ càng tin chắc là nghĩa quân hoảng sợ bỏ chạy thực.

Giữa lúc quân Pháp đương lục lạo ngẩn ngơ trong những đồn trại bỏ trống như thế thì bỗng nghe có tiếng trống, tiếng hò hét vang dậy từ dưới chân núi đưa lên. Nhìn xuống, thấy lô nhô một toán quân độ trên trăm người phất cờ, gióng trống toan xông lên núi để đánh. Đồng thời tiếng súng bắt đầu nổ đoành đoàn tứ phía.

Quân Pháp biết đó là là nghĩa quân, tức tốc đổ xuống núi chận đánh và đuổi bắt. Từ xa, hai bên ứng chiến bằng súng đạn. Một lúc, đạo quân này xem chừng núng thế, vội vàng rút lui, nương theo những lùm cây và mô đất để tránh đạn. Quân Pháp thừa thế đuổi theo và bắn dữ dội. Nhưng đạo quân bại tẩu chỉ chạy được một quãng đường thì nằm phục xuống bắn trả lại. Rồi một lúc lại bỏ chạy. Cứ chạy lại bắn. Cứ bắn lại chạy. Quân Pháp càng tức, càng giận, phát ghét càng cố rượt theo quyết giết ráo cho kỳ được mới nghe.

Ra tới Sông Vụ Quang, đạo quân “bại tẩu cư” chạy dựa bên mé sông. Đến một chỗ nước hơi cạn, họ bỏ hết cả cờ trống và quân giới tại mé sông, rồi tranh nhau lội qua sông mong thoát thân cho mau. Quân Pháp đuổi nà tới, đến chừng thấy đạo quân bại tẩu đã sang sông thì chúng ùa xuống sông để đuổi cho kịp. Nước chỉ đến đầu gối.

Nhưng khi chúng lội đến giữa sông thì bỗng trên núi cao có tiếng súng lệnh làm hiệu. Chúng chưa hiểu ất giáp ra sao thì bỗng dưng nước cuồn cuộn đổ đến. Tiếng nước chảy ầm ầm như đất lở trời nghiêng…

Nguyên cụ Phan truyền cho nghĩa quân lấy những khúc gỗ lim to ghép liền vào nhau thành từng bè lớn. Đoạn đóng suốt thân cây này qua cây kia thật chặt, và lấy mây rừng buộc cứng lại, rồi đặt ngay đầu nguồn sông Vụ Quang, là sông phát nguyên từ núi Vụ Quang đổ xuống. Nghĩa binh cốt chận đầu nguồn cho nước dưới sông cạn nhiều, rồi dùng kế dụ địch, đợi quân Pháp qua đến giữa sông thì chặt dây cho nước đưa cây trôi xuống. và hai bên sông lại phục binh chờ sẵn.

Lạ gì nước trên nguồn bị cây chặn lại, tức đường bí lối đã lâu, nay cây tháo ra, nước được tự do hoạt động mà chảy. Gỗ lim to tướng theo nước từ trên cao trôi phăng xuống mạnh mẽ hung hăng như đàn sấu đói. Trời có sương mù, quân Pháp vô ý lại không thấy được xa, vả lại bị phục binh bắn xuống dữ dội, chúng hốt hoảng lúng túng vừa bị nước cuốn vừa bị cây đẩy, lại thêm đạn bắn tứ tung, thật là một trận cực kỳ kinh khủng.

Trận này, quân Pháp không kể lính tập, chết mất ba viên võ quan. Nghĩa quân đoạt lấy gần 50 khẩu súng cùng đồng hồ, dây nịt bằng da vô số.

Đây là trận sa nang ủng thủy ở Việt Nam. Có khác với Hàn Tín là không dùng bao cát mà dùng cây chận nước.

Về sau, một chí sĩ là Phạm Văn Ngôn đi qua chỗ trận đánh này, có làm hai bài thơ Hoài Vụ Quang sơn cố sự. Dưới đây là một trong hai bài ấy, Đào Trinh Nhất dịch Nôm:

Gió lạnh sương mù buổi rạng đông
Ba quân phục sẵn ở bên sông
Chiêng khua một tiếng quân reo dậy
Đê phá trên nguồn nước chảy hung.

Sách Văn Công: Sách Gia lễ của Chu Văn Công, tức Chu Hy đời Tống quy định nghi lễ tang ma, cưới xin.

sánh phượng: sánh với chim phượng hoàng, ý nói có người chồng xứng đáng. Tả Truyện: Xưa kia, họ Ý Thị làm quan đại phu nước Trần, muốn gã con gái cho Kính Trọng bèn bói một quẻ. Vợ Ý Thị xem quẻ bói và đoán rằng: “Tốt, đó là quẻ chim phượng, chim hoàng cùng bay, tiếng hát nghe vang vang, con cháu họ Quỳ (Họ Kính Trọng, tức họ vua nước Trần) sẽ được nuôi dạy trong nhà họ Khương (họ vua nước Tề) năm đời thịnh vượng, đều ở hàng quan khanh, trải 8 đời không ai hơn được cả.”

sáu lễ: Lục lễ, chỉ 6 lễ trong cưới xin thời xưa.

Sáu lễ này là: Nạp thái (lễ dạm hỏi), vấn danh (hỏi tên tuổi), nạp cát (đưa điềm tốt), nạp trưng (đưa sính lễ), thỉnh kỳ (xin ngày cưới), thân nghinh (đón dâu).

Nghi lễ: Nạp thái dung nhạn (dùng chim nhạn làm lễ nạp thái).

Lời Sớ nói: Hôn lễ có 6, 5 lễ dùng chim nhạn là: nạp thái, vấn danh, nạp cát, thỉnh kỳ, thân nghinh. Chỉ có lễ nạp trưng là không dùng chim nhạn.

sáu nẻo luân hồi: do chữ lục đạo luân hồi, chữ của nhà Phật.

Chúng sinh mỗi người tùy theo cái nghiệp của mình mà luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác theo 6 nẽo là: Thiên đạo, nhân đạo, A Tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Ðịa ngục dành cho những kẻ đại ác, phải chịu rất nhiều đau khổ. Ngạ quỷ là nơi phải bị đói khát, súc sinh ở đây phải bị hành hạ, cấu xé. 3 nẻo này gọi là 3 nẻo ác, còn lại 3 nẻo thiện được hưởng sung sướng nhưng vẫn phải chịu khổ.

Sào Do: tức Sào Phủ và Hứa Do. Theo Sao sỹ truyệnSử ký, hai người có tài năng đời Vua Nghiêu. Vua Nghiêu muốn nhuờng ngôi cho, cả hai đều từ chối và sống ẩn dật nơi dân dã.

Sào Phủ: Người đời Thượng cổ. Vua Nghiêu nhường thiên hạ cho, ông không nhận lui về cùng Hứa Do ẩn ở núi Cơ Sơn, lấy ngọn cây làm chỗ ở nên gọi là Sào Phủ ().

Thơ Tiết Cứ (Ðường): Thượng tưởng Văn Vương hóa, do tư Sào Phủ hiên (Còn nghe đến sự giáo hóa của Văn Vương, như nhớ đức hiền của Sào Phủ).

Bạch Vân Quốc ngữ:

Của Thạch Sùng nào của ấy
Danh Sào Phủ há danh không!

sạn đạo: đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá. Sạn đạo chạy dọc Sông Dương Tử, dài hàng chục cây số, được làm từ thời Hán, người xưa dùng để di chuyển dọc theo con sông khi nước lũ lụt, hoặc để cho phu kéo thuyền đi ngược dòng nước. Có hai loại sạn đạo.

  • Một loại do sức người đục lõm vào vách núi, sâu 2-3 m, cao 3 m, chạy dọc sườn núi thành những lối đi ven sườn núi cách mặt nước hàng bốn năm chục mét, người ta có thể dùng cáng 4 người khiêng di chuyển dễ dàng trên sạn đạo. Ðứng dưới thuyền, trông lên vách núi chỉ thấy như là một vết vạch ngang lõm vào núi, chạy dài dọc hàng chục cây số theo vách núi, không ai tưởng được đó là một con đường.
  • Một loại sạn đạo khác được đục nhiều lỗ vào vách núi (cách nhau cỡ 1 m) rồi cắm những thanh gỗ ngang, trên thanh gỗ đó bắc những tấm ván dọc thành những cầu khỉ treo vào vách núi để làm lối đi, những đoạn sạn đạo này thường ngắn. Người ta thấy rất nhiều loại sạn đạo này dọc theo Cù Ðuờng Hạp hay Tiểu Tam Hạp.
san dao
Sạn đạo hiểm trở ở Hoa Sơn, thuộc Tây An, đang được trùng tu

Sách Hán Sở tranh hùng kể: sau khi được Bá Vương Hạng Vũ phong làm vua Quan Trung, Hán Vương Lưu Bang kéo quân đi. Trương Lương dẫn đường cho đến sạn đạo. Quân Hán Vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chân có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau: “Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này.”

Trương Lương bước đến nói với Hán Vương: “Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc.” Lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc.

Trương Lương bái biệt Hán Vương, giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại.

Hán Vương tiễn đưa mấy dặm đường.

Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ, và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đã đốt sạn đạo rồi.

[Ta tự hỏi nếu sạn đạo là một con đường mòn hay đường đá thì làm sao mà đốt được, dù có đốt thì vẫn dùng được. Thật ra đốt sạn đạo nghĩa là đốt những chiếc cầu khỉ bằng gỗ cắm vào vách núi, con đường sẽ sụp đổ, thế thì hết lối đi về.]

Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than: “Ôi chao! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây, trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi!”

Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói: “Trời ơi! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nữa!”

Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương: “Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng, xin Ðại vương lượng xét.”

Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói: “Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền.”

Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường.

Câu chuyện tiếp theo là mưu kế thần sầu của Hàn Tín.

Trước đó, Trương Lương lấy ra một bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói: “Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đèo. Không cần đến sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thương qua chân Núi Cô Vân, vòng sang Núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy. Con đường này bí mật lắm, ngay người Hán Trung cũng không ai biết.”

Ít lâu sau khi được Hán Vương phong chức Nguyên soái, Hàn Tín gọi Phàn Khoái đến trướng bảo: “Tướng quân làm chức Tiên phong, phải vì quốc gia tận lực. Nay mai Chúa thượng xuất giá Ðông chinh, mà sạn đạo khi xưa đã bị Tử Phòng đốt rồi, quân mã không làm sao đi được. Nay tướng quân phải đem một vạn nhân mã, sửa sang lại con đường đó. Ta cho Chu Bột cùng Trần Vũ đi theo giúp sức, hạn trong một tháng phải sửa sang xong, nếu sai lệnh sẽ chiếu quân luật trị tội. Tướng quân nên đi ngay, chớ vì khó nhọc mà bất bình.

Phàn Khoái nghe nói, ướt mồ hôi, sợ hãi thưa: “Nguyên soái đã sai thì dẫu chết tôi cũng chẳng dám từ. Tuy nhiên, sạn đạo nguy hiểm vô cùng, dài hơn ba trăm dặm, nếu muốn tu bổ phải ba năm chưa chắc đã xong, huống hồ chỉ trong một tháng thì làm sao hoàn thành được? Thôi, nếu Nguyên soái muốn giết Khoái này, thì Khoái này xin chịu chết ngay trước trướng.

Hàn Tín vừa cười vừa nói: “Tướng quân nghĩ lầm rồi! Việc gì ta lại muốn giết tướng quân! Phàm kẻ làm tôi, gặp việc không nên sợ khó, nếu sợ khó chẳng bao giờ làm được chuyện phi thường. Tướng quân tự hào là trung nghĩa, can đảm hơn người, vậy phải nhân dịp này làm cho thiên hạ thấy cái trung nghĩa và can đảm ấy, cớ sao lại lo sợ?”

Phàn Khoái muốn nói nữa nhưng lại sợ phạm quân luật, đành phải thở dài lui ra.

Sau khi thấy Hàn Tín huấn luyện binh sĩ thành thục, Hán vương hỏi Hàn Tín: “Nguyên soái liệu sức quân bây giờ đã Ðông chinh được chưa?”

Hàn Tín quỳ tâu: “Tâu Ðại vương, hạ thần đã sai Phàn Khoái đi sửa sạn đạo rồi, hạn trong một tháng phải xong.”

Hán vương ngạc nhiên, nói: “Sạn đạo gian nguy, lên ghềnh xuống thác, dài hơn ba trăm dặm. Công trình vĩ đại ấy dẫu ba năm chưa chắc đã xong, Nguyên soái trù liệu một tháng thì làm sao thành việc?”

Hàn Tín tâu: “Việc quân cơ có nhiều chuyện lạ, xin Ðại vương cứ an tâm, chẳng bao lâu hạ thần sẽ rước Ðại vương ngự giá Ðông chinh, xin Ðại vương đừng hỏi vội.”

Hán vương hiểu ý, không hỏi nữa.

Còn Phàn Khoái dẫn một vạn nhân phu đến sạn đạo, thấy núi non trùng điệp, khe suối quanh co, đèo cao chót vót, vực thẳm muôn trùng, chỗ đường cũ trước kia bị đốt giờ đây cây cối um tùm, không chỗ chen chân, dấu cũ không còn nhìn thấy nữa. Cả đoàn nhân phu chỉ nhìn nhau than thở, không biết làm cách nào để khởi công.

Phàn Khoái nghĩ thầm: “Thôi rồi! Thế này là Hàn Nguyên soái không dám phá Sở, nên sai ta đi làm cái chuyện khó khăn này để lấy cớ sạn đạo chưa xong, không bao giờ ra quân cả.”

Nghĩ rồi, Phàn Khoái nói với dân phu: “Việc làm hiểm trở như vầy dẫu cho mười vạn dân phu làm suốt ba năm chưa chắc đã xong. Nay quân lệnh rất nghiêm, Chúa thượng lại đang tin Nguyên soái, nếu chúng ta không tiến hành ắt rơi đầu, chi bằng cứ làm, đến đâu hay đến đó.”

Dân phu theo lời, xúm nhau chặt cây, đốn gỗ. Nhưng sức người yếu ớt không thấm vào đâu cả. Làm luôn mấy ngày mà chỉ phát được một đoạn đường đi không lọt một con ngựa.

Phàn Khoái ngước mặt lên trời than: “Chà! Thật đáng giận cho Tử Phòng! Ðốt Sạn đạo làm gì để ngày nay lụy đến Khoái này?”

Trọng lúc đang lo buồn chợt thấy quan Thái trung Lục Giả dẫn một nghìn quân kỵ đến, đưa cho Phàn Khoái một phi hịch.

Phàn Khoái mở ra đọc. Hịch rằng:

Ðại Hán phá Sở Nguyên soái Hàn Tín lưu ý Phàn tướng quân. Nay mai Ðại quân sẽ Ðông chinh, vậy phải kíp sửa sang sạn đạo lập ngày đã định. Nếu quá hạn chiếu theo quân pháp trị tội.

Phàn Khoái đọc hịch xong dậm chân kêu trời, nói: “Nguyên soái định giết Khoái tôi rồi! Ðường sá thế này mà hạn một tháng, dẫu thợ trời cũng chưa làm xong, huống chi chúng tôi là người phàm xác thịt!”

Nói rồi buồn bã dẫn Lục Giả về trại dân phu để thết đãi.

Nhân lúc vắng người, Lục Giả ghé tai bảo nhỏ Phàn Khoái mấy câu.

Phàn Khoái mừng rỡ, nét buồn đổi ra nét hân hoan. Tuy nhiên vẫn làm ra vẻ khệnh khạng; nói giữa đám dân phu: “Công trình to tát thế này mà Nguyên soái bảo một tháng phải làm xong. Khoái tôi phen này chắc chết!”

Dân phu thấy vậy cũng thương thầm cho số phận Phàn Khoái.

Hôm sau, Phàn Khoái viết biểu sai người về triều dân cho Hán vương.

Biểu rằng:

Muôn tâu Ðại vương, từ lúc hạ thần theo phò Ðại vương đến nay không có công việc nào dám để bê trễ. Nay tu bổ Sạn đạo là công trình vĩ đại, Nguyên soái chỉ cấp có một vạn dân phu, hẹn một tháng phải hoàn thành, nếu không phải tội chết. Thiết nghĩ: dẫu hạ thần có gắng sức đến đâu cũng vô ích. Chẳng ai có thể làm công việc quá sức người được.

Cái chết của hạ thần tất không tránh khỏi. Nếu Ðại vương thương tình, xin xuống chiếu truyền dân các quận quyện lân cận, điền bát cho một vài vạn dân phu nữa, may ra có thề gỡ được nguy cơ trước mắt!

Khoái tôi muôn phần sợ hãi, cúi dâng biểu kính xin ơn trên soi xét.

Hán vương xem biểu xong, lập tức sai Ngự sử là Chu Bột cầm một đạo sắc, hỏa tốc đến quận Phổ An bắt một vạn dân phu giao cho Phàn Khoái.

Phàn Khoái được thêm dân phu mừng rỡ, kêu Chu Bột, Trần Vũ đến chia ra làm nhiều toán, mỗi toán có một toán trưởng coi làm.

Ðoạn kề vào tai Chu Bột và Trần Vũ nói nhỏ mấy câu.

Ðêm ấy, hai tướng, mỗi người dẫn một đoàn dân phu tinh tráng thay đổi y phục, vượt núi ra đi.

Từ khi Chương Hàm được phong làm Ung vương, trấn Tam Tần, sai cháu là Chương Bình vào giữ ải Ðại Tản Quan để đề phòng quân Hán Trung.

Chương Hàm lại hạ chỉ truyền rằng: “Phải giữ vững cửa quan, hễ có tin tức gì không được án động, phải cấp báo với Tam Tần để liệu đường phòng bị.”

Nay, nhân nghe tin Hán vương dùng Hàn Tín làm Nguyên soái; lại nghe báo Phàn Khoái làm Tiên phong, tu bổ Sạn đạo, để hưng binh Ðông chinh, Chương Bình lập tức phi báo với Ung vương.

Chương Hàm nghe báo cười lớn, nói với kẻ tả hữu: “Hàn Tín trước kia ở Sở là một tên vác giáo theo hầu, nay bỏ Sở về Hán, chẳng qua cũng chỉ để sai khiến mà thôi, không biết vì lẽ gì mà Hán vương lại phong làm Nguyên soái? Vả Hàn Tín là kẻ đê tiện, thuở hàn vi làm lắm chuyện hèn mạt, nhất đán được phong làm tướng thì ba quân còn ai phục, làm sao điều khiển nổi chư tướng? Lại như sạn đạo dài ba trăm dặm, đã bị đốt phá mà tu bổ lại thì biết bao giờ mới xong? Cách hành binh ấy chẳng qua là mưu trí của đứa tiểu nhân, làm trò cười cho thiên hạ.”

Tả hữu nghe Chương Hàm nói, tỏ ý can: “Phạm quân sư đã từng căn dặn Ðại vương phải lưu tâm đề phòng quân Hán, nhất là từ khi Hán vương dùng Hàn Tín làm tướng. Nay quan trấn thủ đã cấp báo, đó là chuyện chẳng lành, xin Ðại vương chớ khinh thường.”

Chương Hàm nói: “Sạn đạo là nơi hiểm trở, việc tu bổ không phải ngày tháng mà xong được. Nếu chưa sửa xong sạn đạo, dẫu quân Hán có cánh bay lên trời cũng không vượt được sang Ðông. Ngay bây giờ ta đề phòng là vô ích, chờ lúc chúng sửa gần xong sạn đạo sẽ hay.”

Chương Hàm vẫn điềm nhiên, không lo lắng gì cả.

Chương Bình thấy vậy cũng bỏ mặc, không tâu báo nữa, ngày đêm rượu chè be bét cùng với quân sĩ vui thú tiêu dao.

Rồi một hôm, bỗng có quân giữ cửa vào báo: “Có một trăm dân phu tu bổ sạn đạo, không chịu nổi sự khổ sở, trốn đến đây xin đầu hàng.”

Chương Bình vỗ tay cười lớn, nói: “Ta đang muốn biết nội tình của chúng. Thế là gặp dịp lắm! Hãy truyền cho chúng nó vào.”

Quân sĩ vâng lệnh, ra dẫn bọn dân phu vào.

Chương Bình hỏi: “Bọn ngươi ở xứ nào đến đây, có việc chi?”

Dân phu phục xuống đất lạy dài, kêu khóc và nói: “Chúng tôi là tráng đinh quận Phổ An, bị Hán vương bắt đi làm sạn đạo, ngày đêm cực nhọc, đói rét, Phàn Khoái lại là người nóng nảy, đánh đập luôn tay. Vả chăng, sạn đạo là con đường hiểm trở, mà bắt phải làm một tháng cho xong thì không thể nào làm nổi. Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Nguyên soái, ba quân không phục bỏ trốn rất nhiều. Chúng tôi chắc không sao thành sự được Vì vậy chúng tôi đến đây, nguyện núp bóng tướng quân, đem thân lập công. Trong đoàn chúng tôi có hai người Tổng giáp võ nghệ tinh tường, có thể giúp ích cho tướng quân sau này được. Xin tướng quân vui lòng thu nhận.”

Chương Bình cho gọi hai người Tổng giáp đến hỏi: “Hai ngươi tên gì?”

“Bẩm tướng quân, chúng tôi là phường săn ở quận Phổ An, một người tên Diêu Long, một người tên Ngân Vũ. Vì Hán vương bắt phu tu bổ sạn đạo, không có người trông coi, nên bản quận bắt hai tôi làm Tổng giáp. Không ngờ, lúc đưa phu đến nơi, thấy sạn đạo gian nan, công việc trăm phần cực nhọc, đã không cơm ăn, lại bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi không dám trốn về bản quận nên phải đến đây tình nguyện theo tướng quân lập thân, chờ lúc thiên hạ thái bình sẽ trở về quê quán.”

Chương Bình lại hỏi: “Vì sao Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Ðại tướng, các ngươi có biết chăng?”

“Bẩm tướng quân, Hàn Tín có tánh khoe khoang được Tiêu Hà phục tài tiến cử, và Hán vương nghe theo lời Tiêu Hà trọng dụng. Thực ra, tướng sĩ không ai phục cả. Chính Phàn Khoái cũng đem lòng căm giận mà chẳng dám nói ra. Lúc này Hán vương cũng vì lẽ đó mà bối rối lắm.”

Chương Bình nghe hai người nói đúng với lời đồn đãi nên tin lời thu dụng ngay. Hai người từ khi đắc dụng, tỏ ra tận tụy hơn người. Mọi việc được giao phó đều thi hành rất chu đáo. Bởi vậy, Chương Bình rất yêu dùng. Chỉ trong một tháng đã cho hai người làm chức Ðại kỳ bài, việc lớn nhỏ đều đem ra bàn luận.

Giữa lúc đó, nơi Hán Trung, Hàn Tín chuẩn bị quân mã đã xong, xin với Hán vương chọn ngày xuất quân.

Tướng sĩ hay tin đều ngơ ngác bảo nhau: “Sạn đạo chưa tu bổ xong mà Nguyên soái chọn ngày khởi binh thì không biết phải đi lối nào?”

Ai nấy đều hồ nghi, nhưng không dám hỏi.

Hán vương nghe Hàn Tín xin thỉnh giá xuất chinh, liền đòi Tiêu Hà vào hỏi: “Phàn Khoái sửa sang sạn đạo chưa xong, Hàn Nguyên soái lại xin xuất quân là ý làm sao?”

Tiêu Hà cũng không biết được, xin phép sang dinh Hàn Tín để hỏi cho tường tận.

Tiêu Hà đến nơi, Hàn Tín vội vàng mũ áo ra đón chào.

Tiêu Hà theo Hàn Tín vào thính đường, hỏi nhỏ: “Nguyên soái vừa xin thỉnh giá xuất chinh, Chúa thượng rất nghi ngờ về việc sạn đạo chưa làm xong, không biết quân sĩ phải đi lối nào, nên sai tôi đến hỏi Nguyên soái.”

Hàn Tín mỉm cười nói: “Thừa tướng khéo giả vờ hỏi tôi. Trước kia Tử Phòng đốt sạn đạo tất đã tìm ra lối khác rồi. Việc ấy lẽ nào Thừa tướng không biết đến!”

Tiêu Hà ngập ngừng nới: “Tôi cũng biết, nhưng không rõ lắm. Vã lại Chúa thượng thấy Nguyên soái sai Phàn Khoái đi sửa sạn đạo, đem lòng nghi hoặc, xin Nguyên soái nói rõ phương lược để Chúa thượng an tâm.”

Hàn Tín nhìn quanh, thấy không có ai, liền kề tai nói nhỏ với Tiêu Hà: “Ðó là cái kế giả danh đi sửa sạn đạo cho bọn Chương Hàm không phòng bị. Chúng ta lẻn đi lối Trần Thương, chỉ trong năm ngày có thể đến Tản Quan được. Chừng ấy Chương Bình dẫu có cánh cũng không thoát khỏi tay ta. Không cần mất một mũi tên cũng lấy được Tản Quan rồi.”

Hàn Tín thực hiện y như thế. Khi Hàn Tín thần tốc dẫn quân đến Tản Quan, quân canh rối loạn, không dám lên mặt thành chống giữ. Chương Bình nóng ruột, thân dẫn quân sĩ lên mặt thành. Lúc đó Ngân Vũ, Diêu Long và một trăm dân phu đầu hàng trước kia, cũng đều cầm giáo lên mặt thành cả. Diêu Long và Ngân Vũ xông đến bắt Chương Bình trói lại.

Quân sĩ trong thành thấy chủ tướng đã bị bắt, đều bỏ vũ khí, quì mọp xuống đất.

Diêu Long, Ngân Vũ đâu phải ai xa lạ, chính là Chu Bột và Trần Vũ, tướng của Hán Vương. Trước đây Hàn Tín sai Lục Giả đến Sạn đạo bảo Phàn Khoái sai Chu Bột và Trần Vũ giả cách đầu hàng. Ðợi khi Hàn Tín đến thì dùng đá dựng ở cửa quan làm ám hiệu, và lợi dụng lúc Hàn Tín công thành bắt Chương Bình.

Đó là kế Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương: bề ngoài tu sửa sạn đạo, lẻn đi đường Trần Thương.

Vì vậy chỉ trong mười hôm, Hàn Tín đã hạ được Tản Quan, đệ nhất kỳ công trong bước đường Ðông chinh của Hàn Tín.

* * *

Trong Tam Quốc chí, khi Lưu Bị và Khổng Minh cho lui quân vào Thục Trung bằng đường sạn đạo, sau khi rút lui tới Thục rồi thì ra lệnh “đốt đường sạn đạo”. Khổng Minh giảng với các tướng là đốt đường về như vậy để binh sĩ nhất trí ở lại Hán Trung, không nghĩ đến đường về quê hương nữa. Về sau, khi Thục phồn thịnh rồi, Khổng Minh sai Ngụy Diên sửa sang lại đường sạn đạo để tiến quân ra tấn công quân Ngụy. Như vậy sạn đạo này là một con đường rất quan trọng từ thời Hậu Hán, con đường duy nhất di chuyển vào Thục.

săn hươu: chỉ việc giành thiên hạ. Xem đuổi hươu.

Sâm Thương: tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng Đông buổi tối, một phía Tây ban sáng. Theo Truyện Thần tiên, Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ , quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự. Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.

Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà. Thanh Thương là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai họa đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,

Ngọc Hoàng xử ngay đôi trẻ: “Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trần.”

Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêu. Một chiều, không nén được đau thương, Trường Quang thét lớn: “Thanh Thương, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hoàng thêm giận, nói: “Ừ, muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.” Các tiên ông tiên bà thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họa, đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.

Nghe lời câu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng bầu trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau. Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.

Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao “vượt”, bay đi xẹt lại trọn kiếp mà kiếm tìm.

Đoạn trường tân thanh:

Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân.

Ca dao Việt Nam:

Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng!

Ghi chú: sao hôm và sao mai thật ra là một ngôi sao duy nhất (Anh ngữ: Venus).

sân hòe: cây hòe (tên khoa học: Styphnolobium japonicum) cho gỗ quý, thời xưa thường được trồng trước mặt các vị tam công (Thái sư, Thái phó và Thái bảo) đứng chầu, trong sân ngoại triều của vua. (Hai triều khác là yến triều và nội triều, gọi chung là tam triều.)

hoe - Pagoda tree (Styphnolobium japonicum)
hòe – Pagoda tree (Styphnolobium japonicum) Ảnh: Wikipedia

Đời nhà Tống, có Vương Hựu, tự tay trồng ba cây hòe trong sân nhà và nói rằng: “Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến chức tam công.” Quả đúng về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến một trong tam công.

Nhân đó, người ta cũng dùng chữ “sân hòe” để chỉ nhà có con cái hiển đạt.

Đoạn trường tân thanh:

Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình

Sân hòe chỉ sân nhà cha mẹ, ý nói nhà có con làm nên.

Trân cam là vị ngon vị ngọt, ý nói sớm tối chiều hôm trông nom thức ăn hầu cha mẹ.

Cả hai câu: hai em Thúy Vân và Vương Quan còn thơ ngày, Kiều lo lắng không ai thay mình phụng dưỡng tốt cho cha mẹ.

Trong văn học, hình tượng cây hòe xum xuê tươi tốt thường dùng biểu trưng cho cảnh con cháu trong gia đình phát đạt, đông đúc.

Đoạn trường tân thanh:

Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc một sân quế hòe.

Nguyễn Trãi cũng có bài thơ Hòe:

Mống lành nẩy nẩy bởi hòe trồng
Một phát xuân qua một phát trông
Có thuở ngày hè trương tán lục
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công.

Trong bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi cũng có câu:

Rồi hóng mát thủa ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán dợp dương.

sân lai: sân nhà ông lão Lai, về sau được dùng theo nghĩa thông thường. Theo Nhị thập tứ hiếu, Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu liệt quốc, bảy mươi tuổi vẫn còn cha mẹ già. Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn, có khi làm bộ vấp bậc thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.

Thu phong oán của Chiêu Quân (Thái Bạch dịch thơ):

Vòi vọi đường xa muôn dặm cách
Mưa nắng sân lai xót dãi dầu!

Đoạn trường tân thanh:

Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

“Sân lai” có nghĩa thân thương chỉ sân nhà cha mẹ.

sân phong: xem phong thu.

sân Trình: Sân nhà họ Trình, chỉ trường học nhà Nho. Họ Trình tức anh em Trình Hạo và Trình Di là những danh nho và là học trò Chu Ðôn Di, nhà Triết học dựng nền Lý học đời Tống. Trình Hạo tự Bá Thuần và em là Trình Di tự Chính Thúc, hiệu Y Xuyên, người Lạc Dương. Trình Hạo chủ về đường cùng Lý, tìm hiểu thấu đáo mọi lẽ, chú các sách Nho Gia và Lục Kinh. Còn Trình Di suốt đời lấy chữ “Thành” làm gốc, chủ lấy việc hiểu các lẽ đến cùng, lo trước tác và chú thích kinh truyện, mở trường dạy học trò rất đông. (Tục Thông Chí, quyển 542).

Lục Vân Tiên:

Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.

Sầm Tham (715-770): thi nhân đời Đường và là đại biểu cho thơ về chủ đề biên tái. Bố làm thứ sử, mất sớm. Sầm Tham vào đời háo hức, muốn lập sự nghiệp, lo toan việc nước. Ông dâng thư lên Đường Huyền Tông bàn về quốc sách, sau đó đi thi Tiến sĩ được làm chức quan nhỏ lo việc quân binh. Năm Thiên Bảo thứ 8, theo Cao Tiên Chi đến An Tây, đánh dẹp ở biên ải, rồi về Trường An. Năm Thiên Bảo thứ 13 làm chức phán quan cho Phan Thường Thanh ở An Tây, rất được yêu mến và ca tụng. Thời loạn An Lộc Sơn, ông theo Đường Túc Tông (756-762) làm chức Hữu Bổ khuyết. Đến thời Đường Đại Tông, ông lại làm quan ở biên ải, sau đó được thăng Thứ sử Gia Châu. Ông mất trên đường đi làm quan Thành Đô, thọ 55 tuổi. Tác phẩm có Sầm gia châu thi tập.

Suốt đời gắn bó với việc chống chọi với vùng đất biên giới ở phía bắc, ông rất thông cảm với nỗi khổ của dân chúng trong chiến tranh kéo dài liên miên. Thuộc cảnh sắc, phong tục, ngôn ngữ vùng biên ải, nên thơ biên tái của Sầm Tham có những suy nghĩ, ngôn từ độc đáo, cảnh và người hào hùng, tráng lệ nổi tiếng đứng hàng đầu về thể loại này ở đương thời.

So với Cao Thích, thơ biên tái của Sầm Tham khí thế mãnh liệt, khắc nghiệt, đề tài đa dạng, phong phú hơn. Lối miêu tả của ông gây được những ấn tượng mạnh mẽ, dù chỉ mấy câu:

Thu về đầy bóng nhạn
Hè hết lặng hơi ve
Vách lều mưa ẩm ướt
Màn lông gió lạnh tê

(Thu ở Luân Đài)

Những bài thơ nổi tiếng nhất về biên tái của ông có thể dự vào những bài thơ hay hàng đầu của thơ Đường như các bài Sông Tẩu mã tiễn Đại phu họ Phong xuất quân dẹp Tây nhung hoặc bài Bài ca tuyết trắng tiễn Võ phán quan về kinh đô.

Ông là đại biểu xuất sắc nhất về thơ biên tái thời Đường, sau ông là Cao Thích.

se tơ: xem chỉ hồng.

sen vàng: Từ chữ kim liên, chỉ gót chân, bước chân của người đẹp. Theo Bửu Kế (1968): Bên Tàu về đời Ngũ Ðại, Trần Hậu Chúa hết sức yêu mến Phan Quy Phi, nên trong điện lát hoa sen làm bằng vàng để cho nàng đi lên trên, và nói: “Quy Phi đi mỗi bước, chân lại nở sen vàng”. Sách Nam Sử ghi: Ðông Hôn Hầu có người vợ yêu là Phạm Phi. Hầu cho người lấy vàng đúc thành hoa sen mà lát xuống nền nhà rồi bảo Phạm Phi đi lên trên. Hầu bảo: Bộ bộ sinh liên hoa giã (Mỗi bước nở ra một hoa sen).

Trường hận ca – Bạch Cư Dị (Yã Hạc Trịnh Nguyên dịch thơ):

Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt
Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào.

Đoạn trường tân thanh:

Sương in mặt, tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng, như gần như xa (190)

Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra (3008)

sinh hoàng: sinh là loại nhạc khí làm bằng quả bầu có những ống nhỏ khi thổi phát ra tiếng, hoàng là mảnh đồng trong ống sinh.

Sĩ Trĩ: tức Tổ Ðịch đời Tống. Bấy giờ, nửa Trung Quốc từ dòng Trường Giang trở lên bị Hung Nô chiếm. Căm thù giặc, ông xin vua cầm quân đi đánh. Khi tới giữa dòng sông, ông gõ mái chèo mà thề rằng: “Chuyến đi này nếu không diệt được giặc thì không về qua dòng sông này nữa.”

song đường: chỉ cha mẹ. Từ chữ xuân đường chỉ cha và huyên đường chỉ mẹ.

Sông Tam Kỳ: Ðoạn Sông Hồng chảy qua vùng Việt Trì, Bạch Hạc thuộc Vĩnh Phú. Đây là nơi hội tụ của Sông Thao, Sông Lô, Sông Ðà. Vùng sông nước này rất nổi tiếng về cảnh trí.

Ca dao:

Ai ơi, đứng lại mà trông
Kìa núi Tam Ðảo, nọ Sông Tam Kỳ.

sóng Tương:

Bích câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên tương tư:

Ôi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn.

Xem mục: Sông Tương.

Sông Tuy giải Hán Cao: Nói việc Hán Cao Tổ được giải vây ở Sông Tuy (Tên Hán-Việt: Tuy Thủy). Theo Hán thư, Hán Cao Tổ đem hết quân ở Quang Trung, tập hợp tất cả binh sĩ Hà Nam, Hà Ðông, Hà Nội đi xuống phía Nam xuôi dòng sông Giang sông Hán để đánh quân Sở. Hạng Vũ nghe tin, đem quân rời bỏ đất Tề qua đất Lỗ, ra khỏi Hồ Lăng, đến Huyện Tiêu đánh nhau một trận lớn với quân Hán ở phía đông Linh Binh thuộc Bành Thành trên Sông Tuy, phá tan quân Hán. Quân Hán chết nhiều, dòng Sông Tuy Thủy bị nghẽn lại không chảy được. Hạng Vũ vây Hán Cao Tổ 3 vòng liền. Ðúng lúc nguy cấp, có trận gió cực to thổi từ phía tây-bắc tới, cây đổ, nhà tốc mái, cát bay mịt mù. Ban ngày mà trời tối sầm lại, quân Sở rối loạn. Hán Cao Tổ nhờ thế mới cùng mấy mươi quân kỵ trốn thoát.

Sông Tương: tên Hán-Việt: Tương Giang hay Tương Thủy, là chi lưu chính của Trường Giang, chảy qua Tỉnh Hồ Nam, đổ vào Hồ Ðộng Ðình. Từ nơi phát nguyên Sông Tương đến nơi hợp với Sông Tiêu được gọi là Tiêu Tương. Thời cổ, Tiêu Tương tượng trưng cho sự ly biệt.

Trong thần thoại, hai người vợ của Vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh theo không kịp chồng, khi nghe tin chồng chết thì hai bà ngồi khóc rồi nhảy xuống sông Tương tự vẫn. Hai người biến thành thần Sông Tương, được gọi là Tương phi.

Về sau, người ta nhắc đến Sông Tương theo điển tích để tả nỗi nam nữ tương tư.

Theo Tình sử, vào triều Hậu Chu thời Ngũ Quý (905-955), ở Tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có người con gái của Lương Tiêu Hồ được gọi là Ý nương, có sắc đẹp lại hay chữ, cùng với Lý sinh là họ hàng con cô con cậu. Lý sinh thường qua lại rất nhiều. Nhân ngày Trung thu ngắm trăng, chàng ngầm hẹn ước với Ý nương, lưu luyến không rời. Sự việc lâu ngày lộ ra, Tiêu Hồ nổi giận, ngăn cấm hai người gặp nhau.

Thời gian qua, gặp ngày trời thu, Ý nương viết một bài thơ ngũ tuyệt thổ lộ tâm tình mòn mỏi đợi chờ.

Trường tương tư (Tương tư dài) – Lương Ý nương:

Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để tương tư bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn.

Ngã tại Tương Giang đầu
Quân tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
.

Vũ Ngọc Khánh dịch thơ:

Người bảo Sông Tương sâu
Tương tư sâu gấp bội
Sông sâu còn có đáy
Tương tư chẳng bến bờ.

Chàng ở đầu Sông Tương
Thiếp ở cuối Sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước Sông Tương.

Lý Sinh tiếp được, đọc xong, cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ với Lương ông, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Ông trước còn dùng dằng, sau đọc được khúc Trường tương tư của con, lấy làm cảm động nên vui lòng cho Sinh thành mối lương duyên.

Đoạn trường tân thanh chuyển hóa bài thơ trên chỉ bằng hai câu:

Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.

“Sông Tương”, “tương tư” là hình ảnh của hai người yêu nhau phải xa nhau, thương nhớ nhau.

Chinh phụ ngâm:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Nơi Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Trường ca Hòn vọng phu – Lê Thương:

Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng

Bá Duy, với ca từ, trong chương trình “Hát vui – Vui hát”:
 https://www.youtube.com/watch?v=Dl8IAz6WXMI

Ca khúc Ai về Sông Tương – Thông Đạt

Theo Đông Kha (2019),

Thời trẻ, nhạc sĩ Thông Đạt ở trong Thành Nội và yêu một cô gái ở làng Kim Long. Tuy nhiên, duyên không thành vì gia đình nho phong của cô gái không có cái nhìn thiện cảm với những người nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, bị người đời gán cho cái tội “xướng ca”. Vậy là họ chia tay để cô gái đi lấy chồng.

Nhiều năm sau, nhạc sĩ Thông Đạt vào rạp cine Tân Tân ở gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc Sông Hương để xem phim. Bỗng ngay ở hàng ghế trước mặt ông có một cô gái tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt nhưng từ dáng dấp đến hương tóc thoang thoảng mùi hoa ngâu của người thiếu nữ đã làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long. Nhạc sĩ Thông Đạt bị xúc động đến nỗi không thể còn ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem phim, nên vội vàng ra khỏi rạp. Ông đạp xe dọc theo bờ Sông Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội.

Trong thoáng chốc, dòng Sông Hương hiện ra như là dòng Sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư Trung Quốc. Ông vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức nghệ thuật với sự chấn động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai về Sông Tương được viết ra trong vòng mười lăm phút!

Ông lấy cảm hứng từ bài Trường tương tư mà viết thành ca khúc Ai về Sông Tương, và tâm sự: “Đối với tôi thì Sông Tương là Sông Hương.”

Ca khúc Ai về Sông Tương – Thông Đạt

Video âm thanh, Quang Dũng:
https://www.youtube.com/watch?v=nfK5bBzBYRk

sông vàng hai trận: Nói việc Quan Vân Trường hai lần xuất trận chém Nhan Lương và Văn Xú ở sông Hoàng Hà (Sông Vàng) để tạ ơn Tào Tháo mà về với Lưu Bị.

Sơn Đông:

  1. Vào thời Tần Thủy Hoàng là miền đất ở phía đông Núi Hào (tên Hán: Hào Sơn), tức là tất cả sáu nước, còn miền đất ở phía tây tức là nước Tần.
  2. Sơn Đông bây giờ.

Sở Liêu: xem Nằm giá.

Sở Khanh: tên một nhân vật trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, nay được dùng như một danh từ chung để chỉ kẻ phản bội, lọc lừa: “thằng sở khanh”, “bọn sở khanh”.

Bị bán vào lầu xanh của Tú Bà, Thúy Kiều bị ép tiếp khách làng chơi; nàng không chịu nên bị Tú Bà xỉ mắng, toan đánh đập; nàng rút dao giấu trong tay áo tự vẫn, song mọi người cứu được. Tú Bà phải đấu dịu, hứa sẽ gả nàng vào nơi tử tế. Sự thật, mụ âm mưu đưa Kiều vào bẫy, bắt buộc nàng tiếp khách. Ở lầu Ngưng Bích, nàng cô đơn, tủi phận, nhớ nhà, nhớ quê. Bỗng có một chàng trai trẻ, dáng vẻ thư sinh, tên là Sở Khanh, nhìn nàng ra vẻ xót xa, đánh tiếng muốn cứu người ra khỏi chốn lầm than. Qúa mức đau khổ, Kiều phải nhắn người nhờ Sở Khanh cứu vớt, khắc nó gởi giấy cho Kiều hẹn một buổi tối sẽ đón nàng đi trốn. Ðúng giờ hẹn, Sở Khanh đến. Sau khi nghe nàng kể nỗi oan khổ và lời cầu khẩn của nàng, Sở Khanh khoe mình “có ngựa truy phong” và kẻ hầu khoẻ mạnh, và hứa sẽ đưa nàng đi trốn. Tuy có hồ nghi vì lời nói huênh hoang của Sở Khanh, Kiều “cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Nàng bước xuống lầu và lên ngựa theo Sở Khanh trốn đi. Rừng khuya, trăng lạnh, sương sa, nàng xót thương tấm thân lưu lạc. Tiếng gà gáy, tiếng người lao xao. Nhà trước, nhà sau, nàng không thấy bóng Sở Khanh đâu. Nó “đã rẽ dây cương lối nào”. Nàng đang hoảng sợ thì Tú Bà dẫn một đoàn người ập đến bắt và lôi về nhà, rồi không nói không rằng, mụ đánh đập nàng tơi bời. Từ ngày ấy, Kiều bước vào quãng đời kỹ nữ.

Sở từ: Theo Nguyễn Hiến Lê (1997), Sở từ chỉ chung những tác phẩm trước Khuất Nguyên (như những bài Cửu ca), của Khuất Nguyên và sau Khuất Nguyên.

Ai cũng nhận Sở từ là kỳ tích trong văn học cổ của Trung Quốc, khác hẳn với Kinh Thi:

  • Kinh Thi là thơ; Sở từ là văn xuôi có vần.
  • Kinh Thi chỉ là những bài ca ngắn; Sở từ là những trường thiên, có khi vài trăm, vài ngàn chữ.
  • Kinh Thi để ca, Sở từ để đọc.
  • Kinh Thi phần nhiều là tác phẩm của bình dân; Sở từ là tác phẩm của văn nhân.
  • Kinh Thi dùng những câu ngắn có điệp tự; Sở từ thường dùng những câu dài có đối.

Sau cùng, còn 2 điểm này quan trọng nhất:

  • Kinh Thi thuộc loại tả chân; Sở từ thuộc loại lãng mạn.
  • Kinh Thi nói nhiều về nhân sự; Sở từ dùng nhiều thần thoại.

Sở từ ảnh hưởng nhiều đến đời sau, nhưng không bằng Kinh Thi. Theo nhiều học giả ở Trung Quốc, loại thơ 7 chữ ở đời Đường gốc ở Sở từ và lối miêu tả vừa nhiều chi tiết, vừa điêu luyện, lối dùng chữ tinh xác, bổng trầm, có nhạc điệu của Tống Ngọc đã sản xuất thể phú ở đời Hán.

Sở, Tần: hai nước mạnh thời Chiến Quốc (479–220 tCN) cùng 5 nước: Yên, Tề, Triệu, Nguỵ, Hàn được gọi là “Thất hùng”, tranh đánh nhau mưu lấy quyền bá chủ. Nước nào cũng tìm cách thu hút nhân tài để tạo vi cánh, xây dựng thế lực. Do đó, phát sinh một hạng người khi thì qua nước này khi thì sang nước khác để mưu tìm danh lợi. Lại còn có kẻ lừng khừng:

Bỏ Sở về Tần e Sở giận
Bỏ Tần về Sở ngại Tần ghen

Đoạn trường tân thanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần
Riêng mình nào biết có xuân là gì!

Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du áp dụng một cách khiên cưỡng hai ý niệm không liên quan với nhau. “Mưa Sở” ý nói tình tự hoan lạc nam nữ – xem mục: mây mưa. Còn “mây Tần” chỉ lòng thương nhớ quê hương. Một số nhà nghiên cứu Truyện Kiều cho rằng Nguyễn Du ghép vào cho đối để diễn ý “mây mưa”, vì văn xưa hay dùng Tần đối với Sở (theo Từ điển truyện Kiều của Ðào Duy Anh), và đặt mây tần cho đối với mưa sở (viết không hoa) khiến lời thơ thêm đẹp (theo Truyện Kiều chú giải của Vân Hạc Lê văn Hòe).

Theo ý kiến khác: không lẽ Nguyễn Du vốn là nhà thơ lớn lại bị khiên cưỡng về vần điệu để phải vụng về hay vô trách nhiệm! Thật ra tác giả mượn tính chất của bọn đầu cơ chính trị để nói đến thói của khách làng chơi: tìm cách thỏa mãn nhục dục rồi đi, không thủy chung gì cả, còn Kiều tiếp khách mà mặc cho khách dày vò chứ không biết tình ái là gì! (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)

Sở Trang Vương (?–591 tCN; trị vì 614–591 tCN): vị quân chủ thứ 25 của nước Sở, chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người thứ năm trong năm người lần lượt làm bá chủ chư hầu. Xem thêm các mục: Ngũ BáXuân Thu Chiến Quốc.

Sở Trang Vương là con trai của Sở Mục Vương, quân chủ thứ 24 của nước Sở. Ông là một trong những vị Sở Vương có thành tựu đáng kể nhất và có cuộc đời độc đáo: từ một vị quân chủ ăn chơi trụy lạc, bỏ bê chính sự, đến một vị đại bá chủ. Dưới triều đại của ông, nước Sở trở nên cực thịnh, đặc biệt là đánh đại bại nước Tấn, thảo phạt nước Trịnh.

Ban đầu, sau một cơn nội loạn, Sở bị Tấn lợi dụng lúc có tang đem quân đánh các đồng minh của Sở. Các đại thần xin Sở Trang Vương xuất binh để tranh bá với nước Tấn. Nhưng ông lại làm ngơ, chỉ lo ăn chơi với đám quý phi, ban ngày thì du ngoạn săn bắn, đêm đến thì bày tiệc uống rượu, không mảy may để ý đến việc triều chính và cơ nghiệp bá chủ, bỏ ngoài tai mọi lời khuyên của đại thần. Tình trạng này kéo dài ba năm trời. Trang Vương cho dựng một tấm biển gỗ trên viết: “Ai dám can ngăn thì chém.”

Đông Chu liệt quốc chép chuyện quần thần can gián Sở Trang Vương khá lý thú:

Một hôm, quan đại phu là Thân Vô Úy vào yết kiến, thấy Sở Trang Vương tay phải ôm nàng Trịnh Cơ, tay trái ôm nàng Sái Nữ, xung quanh chỗ ngồi đầy những đàn địch chuông trống. Sở Trang Vương hỏi Thân Vô Ý rằng: “Quan Ðại phu vào đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói điều gì?”

Thân Vô Úy nói: “Tôi tới đây không phải muốn uống rượu và nghe hát, nguyên vì mới rồi tôi đang đi chơi, có người đem một câu đố đố tôi, tôi không đoán ra được, vậy tôi muốn tâu lên để đại vương nghe.

Trang Vương nói: “Câu đố gì mà đại vương không đoán ra được, hãy nói cho ta nghe!”

Thân Vô Úy nói: “Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc, đậu ở trên gò cao nước Sở, đã ba năm nay, mà không thấy hay, cũng không thấy kêu, không biết là con chim gì.”

Trang Vương hiểu là Thân Vô Úy có ý can mình, mới cười mà bảo rằng: “Ta biết rồi! Con chim ấy không phải là con chim thường, ba năm nay không bay, bay tất cao đến tận trời, ba năm không kêu, kêu tất làm cho người phải khiếp sợ. Nhà ngươi hãy đợi mà xem.”

Thân Vô Úy sụp lạy rồi đi ra. Ðợi trong mấy hôm thấy Sở Vương vẫn chơi bời như cũ. Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến. Khi vào, trông thấy Trang Vương, liền khóc oà lên, Trang Vương nói: “Tại sao mà khóc lóc như vậy?”

Tô Tòng nói: “Tôi khóc vì nỗi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.”

Trang Vương nói: “Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, vì sao mà nước Sở mất?”

Tô Tòng nói: “Tôi muốn can đại vương, đại vương tất không nghe mà giết tôi. Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa! Mà đại vương thì cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, còn gì mà nước Sở không mất!”

Trang Vương bỗng nhiên biến sắc mà bảo rằng: “Ta đã có lệnh: ai can thì bắt tội chết, sao nhà ngươi đã biết chết mà còn dám can, chẳng ngu lắm ư?”

Tô Tòng nói: “Tôi dẫu ngu nhưng chưa đến nỗi ngu lắm như đại vương.”

Trang Vương nổi giận mà nói rằng: “Sao nhà ngươi dám bảo là ta ngu lắm?”

Tô Tòng nói: “Ðại vương làm vua một nước, có muôn cỗ xe, có đất nghìn dặm, binh mã hùng cường, chư hầu tin phục, đó là cái lợi muôn đời. Nay say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, đến nỗi nước lớn đến mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi chẳng qua chỉ đến chết mà thôi, nhưng đại vương giết tôi, thì đời sau tất gọi tôi là trung thần, ví tôi như Long Bàng và Tí Can thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào! Còn cái ngu của đại vương thì đến nỗi muốn làm một đứa thất phu cũng không thể được! Thôi tôi nói đến đây là hết, xin cho mượn thanh gươm của đại vương đeo để tôi đâm cổ trước mặt đại vương, cho khỏi trái với cái mệnh lệnh của đại vương đã ban bố.

Trang Vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng mà bảo rằng: “Tôi, xin đại phu hãy thôi! Lời nói của đại phu thật là trung thực, ta xin nghe!”

Nói xong, liền bỏ hết âm nhạc, xa Trịnh Cơ, lìa Sái Cơ, lập Phàn Cơ làm chủ trong cung. Sở Trang Vương nói rằng: “Khi trước ta săn bắn, Phàn Cơ thường can mà ta không nghe, Phàn Cơ bèn không ăn thịt các giống cầm thú nữa. Ấy là người nội trợ hiền của ta đó!”

Trang Vương lại bổ dụng nhân tài, chỉnh đốn chính sự trong nước, rồi điều quân đi đánh Tống, sai quân sang cứu Trịnh, cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm, bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương. Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh,

Năm 612 tCN, nước Sở bị nạn đói. Người tộc Nhung tràn vào cướp phía tây-nam nước Sở. Nước Dung nhân đó phản Sở, kêu gọi các bộ tộc ngoại tộc cùng đánh Sở.

Sở Trang Vương mang quân ra đánh. Các bộ tộc rút lui sau. Quân Sở tiến sang đánh nước Dung. Quân nước Dung, có nhiều bộ tộc trợ chiến, đánh bại quân Sở trận đầu.

Tướng Sở là Sư Thúc nghe tình hình bèn bàn kế đánh giả thua nhiều trận cho quân địch chủ quan. Quân Sở ra giao tranh thua liền 7 trận. Nước Dung từ đó khinh quân Sở. Sở Trang Vương sai sứ cầu cứu thêm nước Tần và nước Ba.. Có quân hai nước giúp, quân Sở đánh bại quân Dung. Sau đó Sở Trang Vương cùng Tần và Ba diệt nước Dung. Các tộc đều xin quy phục.

Sau những giằng co quanh nước Trịnh, đến năm 599 tCN, nghe hai đại thần nước Trần là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy sang Sở báo tin Hạ Trưng Thư giết Trần Linh Công cướp ngôi, Sở Trang Vương mang quân sang đánh. Quân Sở nhanh chóng đánh bại và bắt được Trưng Thư.

Sở Trang Vương mang Trưng Thư tới Lật Môn xé xác. Gặp mỹ nhân Hạ Cơ, mẹ của Hạ Trưng Thư – người phụ nữ góa bụa, từng tư thông với cả Trần Linh Công cùng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, Sở Trang Vương say mê và muốn mang về nước. Vu Thần vội can ông không nên lấy Hạ Cơ, vì sẽ mang tiếng háo sắc. Trang Vương gả Hạ Cơ cho tướng Tương Lão.

Sở Trang Vương đón Công tử Ngọ về làm vua nước Trần, tức là Trần Thành Công.

Năm 598 tCN, Sở Trang Vương lại đánh Trịnh. Trịnh Tương Công xin quy phục Sở, cùng nước Trần thề trung thành với Sở.

Nhưng rồi Trịnh trở mặt lại theo Tấn, dự thề ở Yên Lăng. Năm 597 tCN, Sở Trang Vương vây nước Trịnh. Vua Trịnh phải cầu cứu nước Tấn. Tấn Cảnh Công sai quân đi cứu Trịnh nhưng không kịp: Trịnh Tương Công đã đầu hàng nước Sở, rồi mang quân phối hợp với Sở cùng đánh Tấn. Sở Trang Vương thi hành chính sách của tướng quốc Vỉ Ngao, sắp xếp quân Sở rất nghiêm chỉnh, phối hợp giữa các đạo quân khá thuần thục. Quân Sở giữ phép tắc rất chặt chẽ.

Kết quả, quân Sở đại thắng quân Tấn.

Sau khi thắng trận, Sở Trang Vương tế sông Hoàng Hà, dựng một ngôi miếu thờ các vua đời trước. Vua nước Trịnh và vua nước Hứa phải sang nước Sở triều kiến Sở Trang Vương.

Thắng được quân Tấn, Sở Trang Vương xác lập ngôi vị bá chủ chư hầu.

Nhân đà thắng trận, Sở Trang Vương diệt nước Tiêu, chinh phạt chư hầu khác.

suối vàng: do chữ hoàng tuyền. Ngày xưa, khi đào sâu xuống lòng đất, người ta phát hiện mạch nước ngầm, nước chảy ra từ lớp đất thường có màu vàng. Cho nên cổ nhân thường gọi tầng sâu thẳm của lòng đất là huỳnh tuyền (suối vàng). Con người sau khi chết được chôn xuống dưới đất, nên nói đến “suối vàng” để chỉ nơi chốn của người chết. Từ này do điển tích như sau.

Đời Xuân Thu (722-479 tCN), Trịnh Trang Công rất có hiếu với mẹ. Vì mẹ bất chính nên Trang Công có lời thề rằng: “Chẳng phải chốn suối vàng thì chẳng nhìn nhau”.

Nguyên vợ của Trịnh Vũ Công là Khương thị sinh được hai con, con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ tên là Đoạn. Cái tên Ngộ Sinh là do việc đẻ ngang làm cho Khương thị chịu nhiều đau đớn. Vì đó mà Khương thị đâm ra ghét Ngộ Sinh, thương Đoạn. Lại Đoạn người khôi ngô, thông minh, mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ như son, sức khỏe lạ thường, thêm tài kỵ xạ. Khương thị rất mực thương yêu Đoạn, muốn sau này Đoạn được nối ngôi nên trước mặt chồng thường khoe đứa con này là nhân tài và tỏ ý muốn Đoạn được nối ngôi thế tử. Trịnh Vũ Công bảo: “Anh em có thứ bậc, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa Ngộ Sinh không có tội lỗi gì, sao lại bỏ trưởng mà lập thứ được!”

Thế là Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm thế tử, còn Đoạn thì đem đất Cung phong cho. Khương thị càng bất bình.

Vũ Công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức là Trịnh Trang Công. Khương thị rất buồn, bảo Trịnh Trang Công: “Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm mà chỉ để cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ bé không đủ dung thân, sao yên lòng được?”

“Vậy xin mẫu thân dạy cho biết ý muốn?”

“Sao con không lấy đất Chế Ấp mà phong cho em con.”

“Chế Ấp là nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mệnh cấm phong cho bất cứ ai. Vậy trừ đất ấy, mẫu thân muốn chỗ nào, con sẽ vâng lời.”

“Nếu vậy phong cho Đoạn ở Kinh Thành.”

Trịnh Trang Công im lặng. Khương thị thấy thế nổi giận, nói: “Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Đoạn đi sang nước khác, để nó kiếm cách gì làm ăn được thì nó làm!”

Trịnh Trang Công thở dài: “Con đâu lại làm thế được!”

Hôm sau, Trang Công vời Đoạn vào phong cho đất Kinh Thành.

Đại phu là Sái Túc can rằng: “Kinh Thành là một ấp lớn, đất rộng, người đông. Nếu đem phong cho Đoạn thì mai hậu người tất cậy thế chuyên quyền.”

Trang Công nói: “Mẫu thân ta muốn như vậy thì ta phải làm theo vậy.”

Đoạn được phong đất Kinh Thành, vào cáo biệt mẹ. Khương thị đuổi kẻ hầu cận rồi bảo Đoạn: “Anh mày không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi mày lắm điều bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản, nó mới phong đất Kinh Thành cho mày, ấy là vị nể chứ chưa chắc thành thật. Con về Kinh Thành nên lo luyện tập binh mã, phòng bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng cho mà chiếm lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có chết cũng được hả dạ.”

Đoạn lãnh lệnh mẹ rồi ra đóng ở đất Kinh Thành.

Từ đấy, Đoạn giả cách đi săn bắn mà luyện tập binh mã, tìm kiếm mưu mô chiếm lấy nước Trịnh. Đoạn lại chiếm luôn cả hai ấp gần đó. Hai quan ấp tể trốn vào Trịnh kêu cứu. Trịnh Trang Công không nói gì, chỉ cười lạt mà thôi.

Đại phu Sái Túc và quan thượng khanh là Công tử Lữ nằng nằng tâu xin Trang Công cho đem quân đi dẹp. Trang Công nói: “Đoạn dẫu vô đạo nhưng chưa rõ tội lỗi. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu, bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Đoạn tất làm càn, không hề kiêng nể, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước chẳng ai giúp Đoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không trách oán gì được.”

Công tử Lữ nói: “Mặc dù vậy nhưng tôi sợ thế lực Đoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu cách gì cho Đoạn phản nghịch, nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.”

Trang Công cho là phải. Bấy giờ cả hai mới tính kế nhau.

Sáng hôm sau, Trang Công ra lệnh giao việc quốc chính cho Sái Túc để vào triều nhà Chu. Khương thị nghe biết mừng lắm, cho là có dịp cướp được nước, vội vã viết thư sai người tâm phúc đem đến Kinh Thành, hẹn với Đoạn chiếm lấy nước Trịnh. Nhưng Công tử Lữ đã cho người đón đường, giết tên đưa thư và đoạt lấy thư. Trang Công xem xong niêm lại, rồi sai kẻ tâm phúc giả làm người của Khương thị đem thư sang đưa cho Đoạn và lấy thư trả lời về. Thư của Đoạn hẹn đến ngày mùng 5 tháng 5 thì khởi sự.

Trang Công tiếp được thư, mừng nói: “Tờ cung chiêu của Đoạn sẵn có đây rồi. Mẫu thân hẳn không còn binh vực thế nào được.”

Đoạn từ khi tiếp được thư mẹ liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh; rồi phao tin rằng mình về Trịnh phụng mạng coi việc quốc chính và mở cửa thành tiến quân. Công tử Lữ sai quân giả dạng lái buôn vào thành, đợi khi Đoạn cất quân thì đốt lửa làm hiệu cho Lữ biết mà đem quân đến, trong thành sẽ mở cửa đón.

Lữ vào được thành liền kể tội trạng của Đoạn và đem những đức tính của Trang Công yết cho nhân dâng biết. Đoạn biết cớ sự không thành, rút quân về Cung Thanh. Trịnh Trang Công đem quân tiến đánh. Đoạn tự tử.

Trang Công vào thành, ôm thây Đoạn than khóc, lại đem tất cả thư từ của mẹ gởi cho Đoạn và thư của Đoạn gởi cho mẹ gói làm một gói, truyền Sái Túc trao lại cho Khương thị. Trong lúc buồn tức, Trang Công truyền an trí mẹ ở Đỉnh Ấp và thề rằng: “Chỉ đến khi xuống suối vàng, mẹ con mới gặp mặt được”.

Khương thị trông thấy cả hai bức thu, lấy làm hổ thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trang Công nữa nên theo lệnh an trí ở Đỉnh Ấp.

Trang Công về cung, thấy vắng mẹ, lòng chua xót than thở: “Ta buộc lòng mà để em chết, nay nỡ tình nào lìa mẹ nữa. Ta thật có tội với luân lý.” Nhà Vua rất lấy làm hối nhưng đã lỡ thề rồi. Quan trấn Đỉnh Ấp là Đĩnh Khảo Thúc biết ý Trang Công nên mới bày cách giải lời thề là cho người đào đất đến tận mạch nước, rồi làm một cái nhà dưới hầm bên cạnh suối đem Khương thị xuống ở, đặt thang dài để Trang Công xuống gặp mẹ. Trang Công sụp lạy mẹ, nói: “Ngộ Sinh này bất hiếu, lâu nay thiếu sự phụng thờ mẹ, xin mẹ tha tội cho.”

Khương thị nói: “Đó là lỗi của mẹ, con không có tội gì.”

Đoạn đỡ Trang Công dậy, mẹ con khóc lên não ruột. Trang Công liền dắt mẹ lên thang rồi ngồi xe, và tự tay cầm cương đưa mẹ về cung.

Hình thức đào đất tận mạch nước suối để xuống nơi gặp mẹ cho đúng lời thề “gặp nhau ở suối vàng”.

Đoạn trường tân thanh, lúc Thúy Kiều cùng hai em đi dự hội đạp thanh và lễ thanh minh:

Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng biết cho.

“Suối vàng” hoặc “hoàng tuyền”, “chín suối” hoặc “cửu tuyền” chỉ chỗ ở của người chết.

Sư Khoáng: Nhạc sư nước Tấn thời Xuân Thu, tự Tử Dã, có thể nghe thanh âm mà biết điều lành dữ. Theo sách Tả Truyện: ngày Bính Dần, quân nước Tề đang đêm rút lui, Sư Khoáng báo cho Tấn Hầu rằng: “Giống quạ và những giống chim khác kêu tiếng nghe vui, chắc là quân Tề đã rút lui.” Quả như vậy.

Sư Miện: Nhạc sư nổi tiếng đạo đức đời Chu, mắt bị mù. Khổng Tử dìu ông đi, gặp bậc thềm thì hô “Thềm đây”, đến chiếu thì hô “Chiếu đây” cho ông biết.

sư tử Hà Ðông: chỉ đàn bà ghen tuông hung hãn. Theo Truyền Ðăng Lục, Trần Tháo thường cùng Tô Đông Pha luận bàn về bút pháp và về sự thành bại của cổ kim, rất thích đạo Phật, đã từng ăn rau, ở chùa, không màng gì đến thế sự. Vợ Tháo là Liễu thị, tính hung hãn hay ghen. Mỗi lần Tháo mở tiệc mời khách, nếu có ca kỹ đến hát xướng mua vui thì Liễu thị ở nhà sau máu ghen nổi lên, lấy gậy đánh sàn sạt vào tường, gầm thét om sòm, khách không chịu nỗi phải bỏ ra về. Tô Thức nhân đấy mới có thơ đùa Trần Tháo (dịch Nôm):

Ai hiền như cư sĩ Long Khâu
Bàn về thuyết không đêm không ngủ
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống
Gậy tuột khỏi tay tim bàng hoàng.

[Thuyết không là thuyết về “sắc” và “không” của nhà Phật]

Tô Đông Pha dùng từ “Hà Đông” là mượn câu thơ của Đỗ Phủ:

Hà Ðông nữ nhi thân tích liễu
(Người con gái đất Hà Ðông họ Liễu).

Đông Pha mượn chữ Hà Ðông để chỉ Liễu thị vợ Tháo, còn “sư tử rống” là tiếng nhà Phật để nói sự uy nghiêm của Phật tổ, nói giọng thuyết pháp của Phật âm thanh chấn động thế giới như sư tử rống. Nay Trần Tháo thích đàm luận đạo Phật, Tô Thức bèn mượn tiếng nhà Phật để đùa, chỉ cái tính hung hãn hay ghen của Liễu thị.

Tú Xương trong bài thơ vịnh cảnh lấy lẽ, có câu:

Hậu hạ đã cam phiền cát lũy
Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông.

sư tử hống: Tiếng gầm của sư tử, đây là tiếng của nhà Phật dùng để nói sự uy nghiêm của Phật tổ, nói giọng thuyết pháp của Phật âm thanh chấn động như sư tử gầm.

sức cất vạc, sức cử đỉnh: Nói sức mạnh của Hạng Vũ. Truyện Hán Sở tranh hùng chép: Hạng Vũ nói với Hoàn Sở và Vũ Anh: “Nay Vua Nhị Thế vô đạo, dân chúng lầm than, các anh hùng hào kiệt đều nổi lên dấy nghĩa, mong cứu dân khỏi vòng tai biến. Nhị vị tướng quân sẵn tài vũ dũng, có thể giúp ích cho đời, nếu cứ ẩn mãi trong chốn sơn lâm phỏng có ích gì. Hạng Công tích thảo dồn lương nơi Quận Cối Kê, quyết lòng rửa hờn cho sáu nước, nếu hai vị tướng quân bằng lòng hợp tác sau này thành công phú quý cùng hưởng.”

Hoàn Sở nói: “Tần tuy vô đạo, song binh lực còn mạnh, nếu không có tài cái thế khó nổi thành công. Chúng tôi nhắm sức mình chưa đủ, không dám mưu việc lớn. Ngài đã dám đứng ra tính việc đại nghĩa, hẳn tài cán siêu quần. Bao giờ chúng tôi thấy được tài năng của ngài thì mới quy thuận, băng không chỉ vẽ hổ không thành, mang tiếng với đời mà thôi.”

Hạng Vũ nói: “Nhị vị tướng quân muốn thử tài tôi bằng cách nào?”

Hoàn Sở nói: “Ở dưới sườn núi có miếu Vũ Vương. Trước miếu có cái đỉnh nặng mấy nghìn cân. Nếu ngài lay nổi ba lượt, thì quả là người có sức mạnh vô địch.”

Hạng Vũ nói: “Thế thì đưa tôi đến đó xem thử.”

Hai tướng dẫn Hạng Vũ, Quý Bá và bọn tùy tướng xuống sườn núi, vào miếu Vũ Vương. Giữa sân có một cái đỉnh đồng cao bảy thước, chu vi năm thước, nặng ước năm ngàn cân. Hạng Vũ xem qua rồi bảo viên tiểu tướng đẩy thử xem. Viên tiểu tướng cố sức đẩy mạnh, mặt đỏ bừng, nhưng đỉnh đồng không hề lay chuyển.

Hạng Vũ, xăn tay áo, đẩy mạnh một cái, đỉnh đồng ngã xuống rồi lại đỡ lên như cũ. Ba lần như vậy, vẫn không lấy gì làm nặng nhọc.

Lưu nữ tướng:

Thiên uy biếc sắc non sông
Dầu tài cất vạc xem không kể gì!

Sử ký: bộ chính sử do Tư Mã Thiên biên soạn, được xem là một trong những bộ sử vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Đây là bộ sử đứng đầu trong Nhị thập tứ sử, là tên gọi chung 24 bộ chính sử được biên soạn qua các triều đại phong kiến Trung Quốc.

Tư Mã Thiên (145-87 tCN) là sử gia đời Hán Vũ Đế nhưng tiếng tăm lưu truyền ngàn đời sau, tác giả của bộ Sử ký. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức Thái sử tại triều.

Tư Mã Thiên sống thời thơ ấu cày ruộng, chăn cừu, làm bạn với những người nông dân bình thường, và học các sách sử cổ. Lên mười tuổi, ông đã học Tả Truyện, Quốc Ngữ, Thế Bản, và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời trước.

Tư Mã Đàm hết sức chú ý đến việc giáo dục con. Năm Tư Mã Thiên hai mươi tuổi, ông bảo con lên đường đi du lịch để xem tận mắt những nơi sau này Tư Mã Thiên sẽ phải viết sử. Ông đi chu du khắp nước, khảo sát về địa lý, phong tục từng miền, gặp di tích nào cũng dừng bước để nghiên cứu. Phàm những cảnh kỳ quan cùng quê hương các vĩ nhân, ông đều để chân đến.

Tư Mã Thiên trước tiên đi về nam đến Trường Giang, vượt Sông Hoài, Sông Tứ, thăm mộ mẹ Hàn Tín; đoạn lên Núi Cối Kê xem nơi Vua Hạ Vũ triệu tập chư hầu, vào Hang Vũ Động tìm di tích Vua Hạ Vũ. Ở Cối Kê ông nghe những chuyện kể về Việt Vương Câu Tiễn. Ông lên Cô Tô tìm di tích Ngũ Tử Tư; đi thuyền trên Thái Hồ sưu tầm truyền thuyết về Tây Thi, Phạm Lãi. Sau đó, ông đi ngược lên Trường Sa, đến bến Mịch La khóc Khuất Nguyên; đến Sông Tương trèo lên Núi Cửu Nghi nhìn dấu vết mộ Vua Thuấn và khảo sát những tục cũ từ thời Hoàng Đế. Ông lên miền Bắc vượt Sông Vấn, Sông Tử đến Tề, Lỗ, bồi hồi nhìn lăng miếu của Khổng Tử; say sưa nghe nhân dân kể chuyện Trần Thiệp; đến đất Tiết thăm hỏi di tích của Mạnh Thường Quân; lên Bành Thành, quê hương Lưu Bang, để tìm hiểu rõ thời niên thiếu của những con người dựng nên nhà Hán. Ông sang nước Sở thăm đất phong của Xuân Thân Quân, đến nước Ngụy hỏi chuyện Tín Lăng Quân rồi trở về Tràng An.

Sau chuyến đi ấy kéo dài ba năm, ông còn đi những chuyến khác cũng để tìm tài liệu. Trong thời xưa, việc đi lại rất khó khăn, trên đường giặc cướp rất nhiều, những nhà du thuyết có bôn ba từ nước này sang nước khác thì cũng chỉ ở trong một địa bàn rất hẹp, chứ chưa có ai vì mục đích khoa học mà lại đi xa như vậy. Trừ miền Quảng Đông, Quảng Tây, còn từ Vân Nam, Tứ Xuyên cho đến Vạn Lý Trường Thành, ở đâu cũng có vết chân của ông. Ông là một trong những nhà du lịch lớn nhất của Trung Cổ.

Những cuộc du lịch cung cấp cho Tư Mã Thiên vô số tài liệu, truyền thuyết, giúp ông thấy được thái độ của nhân dân đối với những nhân vật, những biến cố lịch sử và cho ông rất nhiều chi tiết điển hình về đời sống từng người trong lúc còn hàn vi. Chính những cuộc “đi chơi” như vậy làm cho Tư Mã Thiên có được một ý thức sâu sắc về sự vĩ đại của tổ quốc, về tất cả mọi mặt để thành nhà sử gia vĩ đại của cả một dân tộc. Mã Tồn, một văn sĩ đời sau, nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường.” Câu nói đó không phải là quá đáng.

Sau lúc đi du lịch về, ông làm Lang trung, là chức quan nhỏ có trách nhiệm bảo vệ nhà Vua khi đi ra ngoài. Trong thời gian ấy, ông biết Lý Lăng cùng làm Lang trung như ông, và thường gặp Lý Quảng.

Năm 110 tCN, Vũ Đế chuẩn bị làm lễ phong thiên ở Thái Sơn. Tư Mã Đàm trên đường đi theo nhà Vua, mắc bệnh nặng, cầm tay con khóc mà dặn rằng: “Tổ ta đời đời làm sử quan. Sau khi ta chết đi, thế nào con cũng nối nghiệp ta làm Thái sử. Khi làm Thái sử chớ quên những điều ta muốn bàn, muốn viết… Hiện nay bốn biển một nhà, Vua sáng tôi hiền, ta làm Thái sử mà không chép được rất lấy làm xấu hổ. Con hãy nhớ lấy!”

Ông khóc mà vâng lời.

Ba năm mãn tang, ông thay cha làm Thái sử lệnh (108 tCN) chuẩn bị viết bộ Sử ký, thực hiện hoài bão lớn nhất của người cha, đồng thời là điều mong ước duy nhất của mình. Từ 106 tCN, ông không giao tiếp với khách khứa, bỏ cả việc nhà, ngày đêm miệt mài biên chép. Như thế được bảy năm thì xảy ra vạ Lý Lăng.

Lúc bấy giờ có giặc Hung Nô rất mạnh đánh vào biên thùy. Năm 99 tCN, Hán Vũ Đế sai Lý Quảng Lợi cầm ba vạn quân đánh Hung Nô. Bấy giờ Lý Lăng, một võ tướng anh hùng, cháu của danh tướng Lý Quảng, cầm năm ngàn quân vào biên giới Hung Nô. Bị tám vạn quân Hung Nô bao vây mà không được quân tiếp viện, Lăng chỉ huy cuộc chiến đấu suốt mười ngày liền, giết hơn vạn quân địch. Nhưng cuối cùng vì cách xa biên giới, bị chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, mệt mỏi không còn sức chiến đấu, Lăng phải đầu hàng. Mến tài năng, giặc Hung Nô dụ dỗ đầu hàng. Lý Lăng bất đắc dĩ tạm thời đầu hàng để bảo toàn sinh mạng mình và quân lính hầu chờ thời cơ rửa nhục.

Tin về đến triều đình, có kẻ gièm pha với Vũ Đế bảo Lăng phản quốc. Vũ Đế nổi giận muốn giết cả nhà Lăng, quần thần đều hùa theo ý nhà Vua, chẳng xét đúng sai, đổ mọi tội lỗi cho Lý Lăng, phủ sạch mọi công lao của Lý gia từ khi lập quốc.

Tư Mã Thiên biết Lăng từ hồi hai người còn làm Lang trung, tuy không đi lại chơi bời, nhưng mến phục Lăng là người can đảm, có phong thái của người quốc sĩ, nên tâu: “Lý Lăng mang năm nghìn quân thâm nhập vào nước địch, đánh nhau với quân địch mạnh, luôn mười ngày liền, giết và làm bị thương vô số. Vua tôi Thiền Vu sợ hãi, đem tất cả kỵ binh toàn quốc bao vây. Lăng một mình hăng hái chiến đấu ở ngoài ngàn dặm, tên hết, đường về bị cắt, cứu binh không đến, người chết và bị thương chồng như núi, nhưng nghe Lý Lăng hô hào, binh lính đều phấn chấn vuốt máu, chảy nước mắt giơ nắm tay không, xông vào mũi nhọn cùng Hung Nô quyết chiến. Thần cho rằng Lý Lăng có thể sánh với những danh tướng ngày xưa. Nay tuy thất bại, nhưng xem ông ta còn muốn có cơ hội báo đáp nước nhà.”

Ông hy vọng lời nói của mình có thể giảm nhẹ tội Lý Lăng, không ngờ Vũ Đế càng giận, cho ông cố ý đề cao Lăng để chê Lý Quảng Lợi nhút nhát không lập nên công lao gì, mà Quảng Lợi lại là anh của Lý phu nhân rất được nhà Vua yêu quý. Thân là một quan chép sử trung thành với sự thật, bản thân Tư Mã Thiên từng nhiều lần thẳng tay vung bút ghi lại những tật xấu của nhà Vua, khiến Vũ Đế từ sớm đã không vừa mắt. Bởi vậy, vụ việc của Lý Lăng trở thành một cái cớ hoàn hảo để Vũ Đế xử vị quan này. Vũ Đế bèn sai bắt giam Tư Mã Thiên giao cho Đỗ Chu xét xử.

Nhân vật Đỗ Chu được Tư Mã Thiên ghi trong Khốc lại truyện (kể về quan tham). Có người trách y: “Ông thay nhà Vua coi pháp luật, tại sao không căn cứ vào pháp luật mà xét, trái lại chỉ lo chìu theo ý nhà Vua?” Đỗ Chu đáp: “Luật lệnh ở đâu mà ra? Chẳng phải do nhà Vua mà ra đó sao?” Gặp phải bọn quan lại như vậy, cố nhiên Tư Mã Thiên không có cách nào khỏi tội.

Bấy giờ có phép lấy tiền chuộc tội. Ông cần năm mươi vạn đồng tiền để chuộc được tội chết. Trong bức thư ông viết sau này cho Nhâm An, một người bạn cũ sắp bị chém, một người cùng chung cảnh ngộ, ông kể lại nỗi cay đắng của mình. Nhà ông nghèo, ông mải mê theo đuổi sự nghiệp của mình quên cả gia sản, nên không sao chuộc được tội. Bạn bè, thân thích, không ai giúp cho một đồng, không ai nói hộ một lời vì sợ nhà Vua ghét lây. Kết quả, con người ngang tàng, hai mươi ba tuổi đầu đi khắp Trung quốc, nhà học giả lớn nhất của thời đại, con người ôm cái hoài bão làm Chu Công, Khổng Tử, cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà Vua,” và bị thiến! Đó là một trong những tội nhục nhã nhất ngày xưa. Còn phải mang thêm tội bất hiếu vì không có người nối dõi tông đường.

Mấy lần uất ức quá, ông nghĩ đến việc tự vẫn. Những ông thấy rằng nếu chết đi thì chẳng ai khen mình là tử tiết, mà thế tục sẽ bảo đó là vì xấu hổ mà tự sát. Vả chăng, sự nghiệp chưa tròn, Sử ký còn dở dang, lời dặn của cha còn đó. Ông gạt nước mắt, nói: “Người ta ai cũng có một lần chết, có cái chết nặng như Thái Sơn, có cái chết nhẹ như lông hồng,” và cố gắng gượng sống.

Bị tội cung hình, Tư Mã Thiên nhớ lại chưa hoàn thành được lời di chúc của cha, nên thấy bổn phận mình trong lúc này là phải sống để nối nghiệp cha, nối chí người trước… Vì nghĩ như thế nên ông can đảm nhận lấy hình phạt; rồi từ đó ông kiên nhẫn nằm trong ngục tù, dùng những ngày sống thừa để hoàn thành bộ Sử ký.

Trong bài tựa bộ này, ông tự ví với các thánh hiền đời trước:

Ông Thái sử gặp cái họa Lý Lăng, bị giam trong cảnh xiềng xích, bùi ngùi than rằng: “Đó là lỗi của ta ư? Đó là lỗi của ta ư? Thân ta bị hủy không dùng được nữa”. Rồi nghĩ kỹ lại rằng: “Những lời nói bóng bẩy trong Kinh Thi, Kinh Thư là để diễn cái chí của cổ nhân. Hồi xưa Tây Bá bị giam trong ngục Dữu Lý mà viết Chu Dịch; Khổng Tử bị nguy ở Trần, Sái mà soạn Xuân Thu; Khuất Nguyên bị phóng mà làm thiên Ly Tao; Tả Khâu mù mới có bộ Quốc Sách; Tôn Tử què chân mới bàn về binh pháp; Bất Vi phải đày qua Thục mà bộ Lã Thị truyền lại đời sau; Hàn Phi bị tù ở Tần mới có hai thiên Thuyết nạn, Cô phẫn; 300 thiên trong Kinh Thi đại để là thánh hiền phát phẫn mà làm ra. Những vị đó đều có nỗi uất kết, không nói rõ được lòng mình nên thuật việc mới kể từ Đào Tường đến đời Lâm Chỉ, bắt đầu từ đời Hoàng Đế.

Sau khi ra khỏi ngục, Tư Mã Thiên đã trở thành người tàn phế, đời không còn thấy chút thú vị gì. Có lẽ cũng vì thương tình và hối hận nên Hán Vũ Đế thăng cho ông lên chức Trung thư lệnh. Đó là một chức quan to, ở gần vua, được ra vào cung cấm, được xem tất cả tài liệu mật. Nhưng lòng ông vẫn cảm thấy buồn chán, không tha thiết gì đến danh lợi, việc đời, chỉ chuyên tâm biên soạn bộ Sử ký mà thôi.

Nhờ chí kiên quyết nên Tư Mã Thiên hoàn thành được một bộ chính sử có giá trị của Trung Quốc. Cho đến ngày nay, có non hơn hai ngàn năm, ai cũng nhìn nhận Sử ký là một công trình tổng hợp vĩ đại. Và ai cũng lấy làm khâm phục tài năng và ý chí kiên nhẫn có một không hai của Tư Mã Thiên.

Hiện nay người ta vẫn chưa biết ông mất vào năm nào. Người ta chỉ biết ông viết bức thư trả lời cho Nhâm An năm ông 53 tuổi (93 tCN), và sau đó không có thêm tài liệu gì về ông. Theo Vương Quốc Duy trong Thái sử công hành niên khảo, có lẽ ông mất năm 60 tuổi (86 tCN), cùng một năm với Vũ Đế.

Bộ Sử ký, như tác giả nói, không phải viết ra để mưu danh tiếng trước mắt. Sau khi ông chết, không mấy ai biết đến nó. Bộ sử này được cất kỹ mãi đến thời cháu ngoại của ông là Dương Vận, thời Tuyên Đế mới được công bố.

Sử ký là một tác phẩm đồ sộ, có tất cả 526.000 chữ, chia làm 5 phần: Bản kỷ, Biểu, Thứ, Thế gia, Liệt truyện, tóm tắt như sau.

* Bản kỷ: Sự tích của các đế vương, gồm có, gồm có Ngũ đế; Hạ, Thương, Chu; Tần; Hạng Vũ; các bản kỷ về nhà Hán: Cao Tổ, Lữ Hậu, Hiếu Văn, Hiếu Cảnh, Hiếu Vũ. Mục đích của Bản kỷ là chép lại sự việc của những người, những nước có tác dụng chi phối cả thiên hạ.

Hiện nay thiếu mất bản kỷ của Hiếu Cảnh Hán Văn Đế và Hiếu Vũ Hán Vũ Đế. Vương Túc đời Ngụy nói: “Vũ Đế nghe nói ông ta viết Sử ký bèn lấy bản kỷ của Hiếu Cảnh và của mình xem, giận lắm vứt đi, cho nên phần này chỉ có mục đề thôi, không viết gì.” Điều này cho thấy sử quan rất được tôn trọng thời xưa, ngay cả một vị vua sắt đá là Vũ Đế vẫn không thể ép buộc Tư Mã Thiên phải viết ra sao và không được viết điều gì. Khi ông ta không hài lòng bèn đem bản thảo hủy bỏ chứ không làm hại tác giả.

Cách làm táo bạo là Tư Mã Thiên dành cho Hạng Vũ một bản kỷ riêng, cho dù Hạng Vũ không làm đế, lại là kẻ thù của nhà Hán. Đó cũng là vì ông tôn trọng sự khách quan. Hạng Vũ tuy về danh nghĩa không phải là người làm chủ các chư hầu đánh lại nhà Tần (đó là địa vị của Nghĩa đế), nhưng trong thực tế, người có công lớn trong việc tiêu diệt nhà Tần, người phong đất cho chư hầu cai trị thiên hạ trong năm năm, chính là Hạng Vũ.

* Biểu: Công trình khoa học rất quý, ghi chép, năm, tháng, biến cố, giúp cho các nhà sử học hiểu được vị trí của từng sự kiện và sự tương quan của nó về thời gian cũng như về không gian với các sự kiện khác, đặc biệt ở trong một nước mênh mông lại chia cắt phân tán như Trung Quốc cổ.

Trước Tư Mã Thiên, mỗi sử quan ghi theo niên biểu của nước mình. Lấy ví dụ như trong Đông Chu liệt quốc ta đọc những năm như “năm Bình Vương thứ 13”, “năm thứ 9 đời Hoàn Vương”, “năm thứ 8 đời Tống Chiêu Công”, “năm thứ 7 đời Lỗ Văn Công”, “năm thứ 11 đời Tần Hoàn Công”, v.v. Thật khó để biết từng năm đó ứng với năm nào ở các nước khác. Tư Mã Thiên gỡ mối bòng bong này cho ta thấy rõ.

* Thư: Lịch sử một nước chủ yếu là lịch sử của những thiết chế của nó. Tư Mã Thiên nhận thấy điều đó nên viết tám thư dành cho tám mặt. Điều này cũng biểu hiện rằng ông có một kiến thức bách khoa. Phần này rất quý về mặt nghiên cứu. Tác giả nêu rõ sự biến đổi, những cống hiến về lễ, nhạc, luật lệ, việc làm lịch, thiên văn, kinh tế, v.v… qua các thời đại. Điều làm chúng ta hết sức ngạc nhiên là ông có những hiểu biết chính xác về mọi mặt và ở đâu ông cũng có những nhận xét tổng quát rất thấu đáo. Ví dụ nhw: thiên Phong thiện thư nói về những mê tín, cúng tế của vua chúa với một giọng châm biếm chua chát; thiên Hà cừ thư nói về các con sông đào ở Trung quốc; tThiên Bình chuẩn thư nói về kinh tế.

Những thiên này viết chính xác đến nỗi người đời sau thường dựa vào đó để đính chính những sai sót trong các sách cổ nói về những thiết chế xã hội. Chúng giúp ta biết tác giả nhận ra tầm quan trọng của những sự kiện kinh tế, khoa học, văn hóa… đối với lịch sử một nước.

* Thế gia: Lịch sử chư hầu, chẳng hạn các nước Tề, Lỗ, Triệu, Sở…; những người có địa vị lớn trong quý tộc như các thái hậu, những người được phong một nước như Chu Công, Thiệu Công, và những người có công lớn như Trương Lương, Trần Bình… Đáng chú ý nhất là tác giả xếp vào thế gia hai thường dân không hề có một tấc đất phong. Đó là Khổng Tử, một người có địa vị đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung quốc, và Trần Thiệp, anh chàng cố nông đã cầm đầu cuộc nông dân khởi nghĩa đầu tiên của lịch sử dân tộc Hán. Cách nhìn như vậy chứng tỏ một tầm nhìn khác thường.

* Liệt truyện: Danh từ này do chính tác giả đặt ra. Phần này bao gồm những nhân vật khác nhau và những sự việc rất khác nhau. Đáng để ý trước hết là phần dành cho những nước ở ngoài địa bàn Trung Quốc mà ông là người đầu tiên đưa vào lịch sử với tính cách những bản khái quát đứng đắn và khoa học: Nam Việt, Đông Việt, Triều Tiên, Tây Di, Đại Uyển, Hung Nô. Phần khác là dành cho những người tai mắt trong xã hội cũ như những danh tướng (Mông Điềm, Lý Quảng, Vệ Thanh), những người làm quan to (Trương Thích Chi, Công Tôn Hoằng…) Điều đáng chú ý nhất ở đây là ông đã nhìn thấy vai trò to lớn của những con người bình thường, thường không có chức tước gì nhưng có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với cả dân tộc. Đó là những du hiệp, những thích khách, trọng nghĩa, khinh tài; những nhà văn như Khuất Nguyên, Tư Mã Tương Như mà ông nêu lên giá trị và nhận xét về nghệ thuật; những thầy thuốc, thầy bói, thậm chí những anh hề mà trong con mắt của ông lời nói có giá trị. Và cố nhiên một con người yêu nhân dân và sự thật như Tư Mã Thiên không thể nào quên những tên sâu mọt, đàn áp bóc lột dân chúng, những bọn khốc lại chỉ lo a dua nhà vua, tàn sát dân lành, những bọn ngoại thích lộng quyền, và vô số những nhân vật ti tiện mà ông mạt sát bằng những lời phẫn nộ.

Thế giới của Tư Mã Thiên bao la như vậy! Quy mô của tác phẩm làm ta ngợp, bút lực của tác giả làm ta sợ. Đối với những người yêu văn học Trung quốc, tác phẩm đưa đến một cảm giác rất lạ.

Về phương diện sử học, Sử ký có bốn đặc điểm:

  • Bộ sử đầu tiên chép việc nhiều đời, không như những bộ sử trước chỉ chép riêng một đời: Xuân Thu hoặc Chiến Quốc.
  • Tác giả chú trọng về niên đại (chronologie). Sử gia trước ông không theo một quy tắc nào nhất định trong sự kê niên đại (trừ bộ Xuân Thu của Khổng Tử, nhưng bộ này chỉ chép việc trong một thời đại). Đến ông mới lập ra niên biểu của 12 nước chư hầu và niên biểu của các lục quốc.
  • Tác giả không những chép những hành vi của vua chúa còn ghi cả văn hóa như lễ, nhạc, triết học, văn học, và kinh tế, thương mại…
  • Thái độ của tác giả rất thành thực: điều nào chưa nghiên cứu rõ thì tồn nghi. Nếu có nhiều thuyết bất đồng thì kê hết.

Sử Trung Quốc: tác giả là Nguyễn Hiến Lê (1912-1984). Trong bộ sử này, Nguyễn Hiến Lê bao gồm từ thời nguyên thủy và thời phong kiến đến thời Trung Hoa Cộng sản (đến năm 1976, Mao Trạch Đông chết, Hoa Quốc Phong kế vị).

Theo Vương Trí Nhàn (2018), đóng góp của Nguyễn Hiến Lê trong khoa Trung Quốc học là ở chỗ tận dụng ưu thế thời đại mang lại cho nó một cái nhìn khác các bậc tiền bối. Xuất thân từ Tây học, song ông lại có thời gian về học với người bác là một bậc thâm nho, nhờ đó bồi đắp cho mình cái vốn Hán học chắc chắn. Trong suốt cuộc đời ông luôn luôn có cái nhìn phối hợp Đông Tây khi cần xem xét các vấn đề cơ bản mà người trí thức phải đối mặt.

Hai cuốn sách quan trọng của Nguyễn Hiến Lê làm theo hướng này là bộ Sử Trung Quốc, và bộ đôi Khổng Tử–Luận Ngữ.

Cái nhìn của ông là từ bên ngoài và không phụ thuộc vào cách giải thích của chính người Trung Quốc. Nhưng ông vẫn biết tìm ra những khía cạnh tốt đẹp mà cả Đông và Tây, cổ điển và hiện đại, đều phải công nhận. Ông cải chính nhiều sự hiểu nhầm về Trung Quốc.

Lược lại một số ý trong cuốn Sử Trung Quốc bàn về chính trị, và những lời bàn chung quanh khái niệm dân ở Nho học, là những điều hiện mang tính thời sự.

* Trị quốc chi đạo (i)

Một lần ở một hiệu sách thuộc ga Bắc kinh, tôi [Vương Trí Nhàn] thấy một cuốn sách dày cộp mang tên như trên. Chợt nhận ra việc quản lý quốc gia ở nước Trung Hoa cổ được ghi chép rất đầy đủ và nâng lên tới trình độ một bộ phận quan trọng trong văn hóa.

Đọc cuốn Sử Trung Quốc Nguyễn Hiến Lê viết cuối đời, càng thấy rõ điều đó.

— Tần Thủy Hoàng độc tài chuyên chế. Ông giết trí thức. Nhưng đó không phải là cách cai trị lưu manh vô học. Đã tin dùng trí thức nào (như thừa tướng Lý Tư) là dùng đến triệt để. Đốt sách, kể cả Tứ thư Ngũ Kinh nhưng là đốt những bộ tạp nham, trong khi vẫn tàng trữ một bộ trong triều đình. Với những điều luật bắt buộc thư đồng văn xa đồng quỹ, ông ta có công đưa mọi sinh hoạt của quốc gia vào nền nếp. Các trường học dưới thời ông dạy rất kỹ môn pháp luật quốc gia.

— Thời Tiên Tần, TQ đã có những nhân vật quản lý xã hội đầy tài năng và có tư duy hiện đại như Quản Trọng, Thương Ưởng. Trung Quốc cuối thế kỷ XX cũng đang lặp lại nhiều biện pháp của Thương Ưởng.

— Triệu Khuông Dẫn vua nhà Tống được quân lính đặt lên ngai vàng nhưng công việc đầu tiên khi lên ngôi là đặt văn quan trên võ quan và hạn chế quyền lực của các chỉ huy quân đội.

— Trong các biện pháp cải cách của Vương An Thạch đời Tống cũng có nhiều việc rất hiện đại, chẳng hạn khi tuyển dụng quan lại chỉ huy các việc nông điền thủy lợi không dùng người văn hay chữ tốt vừa đỗ đạt mà thiên về dùng người có chuyên môn tức có kinh nghiệm.

— Sau các chiến thắng quân sự lẫy lừng, chế độ cai trị mà Hốt Tất Liệt áp đặt lên xã hội Trung Hoa hết sức tùy tiện “triều đình là một mớ hỗn độn vô tổ chức, hiệu lệnh ban ra địa phương không nghe; mỗi gia đình đại thần tự làm chính trị, mỗi người tự coi là quốc gia.”

— Trong số lý do khiến Mãn Thanh về sau thành công, có lý do này: “triều đình ít can thiệp vào đời sống của dân”, “đất đai mênh mông mà số quan lại rất ít”. Sách còn ghi rõ: hơn 450 triệu dân chỉ có 100.000 quan lại.

* Trị quốc chi đạo (II)

Các xã hội chiến tranh là những xã hội tham nhũng nặng nề. Lần đầu tiên tôi biết điều đó là từ phần viết về nhà Nguyên trong cuốn Những bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung quốc, của nhóm Cát Kiếm Hùng, bản tiếng Việt của nhà sách Văn Lang 2004.

Nhưng mới đây đọc lại hóa ra các sử gia chuyên về sử Trung quốc đã viết về tình trạng thiếu pháp luật và tham nhũng của các chính quyền quân sự từ lâu.

Theo Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi (1997), bắt đầu ngay từ thời Chiến Quốc, thời các chư hầu đánh giết lẫn nhau, “quan lại đa số tham nhũng: Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký thiên 119 chỉ chép truyện của năm vị quan tốt, mà thiên 122 chép truyện của mười tên quan xấu (chữ Hán gọi là khốc lại). Kẻ sĩ tranh nhau ăn tới mức Phạm Tuy tể tướng Tần, tư cách chẳng cao đẹp gì mà cũng phải ví họ với bầy chó của Vua Tần: “khi bình thường nằm thì cùng nằm, đi thì cùng đi, ngừng thì cùng ngừng, không cắn nhau; nhưng hễ ném cho chúng một khúc xương thì chúng vùng dậy, nhe nanh ra cắn nhau. Chỉ tại tranh ăn… Xã hội từ trên xuống dưới đầy trộm cướp.”

* Quan lại xuất thân từ dân nghèo càng dễ tham nhũng

Trong việc soạn Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê dựa nhiều vào các nhà sử học phương Tây, nhưng bao giờ cũng dẫn họ ra rất đầy đủ sau đó có ý kiến riêng của mình.

Ví như quanh chuyện quan lại và tham nhũng ở Trung Quốc. Lối tuyển người làm quan ở đây là qua khoa cử, nó có cái mạnh là tránh đi vào cha truyền con nối của quý tộc châu Âu, và đấy là điều khiến cho Voltaire cũng từng khâm phục.

Nhưng một nhà nghiên cứu là Eberhard lưu ý ta một điểm khác. Ông này khi nghiên cứu về các đời Đường Tống đã nói rằng nguồn gốc của tệ tham nhũng là do quan lại được trả lương quá thấp.

Khi nghiên cứu sang thời Minh, Eberhard lại lưu ý đám quan lại xuất thân từ các tầng lớp dân càng nghèo, do đỗ đạt mà thành quan càng dễ tham nhũng. Tại sao? Muốn đỗ thì phải hối lộ quan trường, đỗ rồi muốn được bổ dụng thì phải đút lót nhà quyền quý… Đến lúc ra làm quan thì phải tham nhũng để thu hồi vốn và trả nợ.

Chép lại nhận xét này của Eberhard, Nguyễn Hiến Lê tỏ ý không tin.

Nhưng tôi thì lại thấy đáng tin vì nó giúp tôi giải thích tình hình quan chức thời nay.

* Chung quanh khái niệm dân trong nho học

Đây là một điểm mà theo tôi Nguyến Hiến Lê có cách hiểu khác hẳn với đa số chúng ta hiện nay và ông giữ quan niệm này cho tới cùng.

Nguyễn Hiến Lê – Cuộc đời và tác phẩm là tên một cuốn sách của Châu Hải Kỳ. Có lẽ ở Việt Nam ít ai được hạnh phúc như Nguyễn Hiến Lê. Từ trước 1975, ông được người bạn ở xa là Châu Hải Ký theo dõi từng bước đi.

Những năm cuối cùng trong cuộc đời Nguyễn Hiến Lê lại được ông Châu tiếp tục quan tâm và nhất là đoạn miêu tả về cái chết của Nguyễn Hiến Lê rất cảm động.

Riêng tôi, đặc biệt chú ý tới trang 431 của cuốn sách tiểu sử này, ở đó Châu Hải Kỳ viết “kết thúc chương chót này, tôi cầu xin ông cho phép tôi trưng ra một đoạn thư trích” có liên quan tới việc dạy học của Khổng Tử. Chữ “họ” sau đây là chỉ các học giả Hà Nội.

… Họ không đọc gì hết mà phê bình thì mình bắt bẻ làm quái gì, phí công. Chẳng hạn trong sách Nhà giáo họ Khổng, tôi nói rõ rằng trước Khổng chỉ có những trường của triều đình cho con quý tộc học, Khổng là người đầu tiên mở trường tư dạy bất kỳ hạng người nào, từ kẻ nghèo chỉ mang lại một gói nem; và ông dạy như vậy chú ý để đào tạo hạng bình dân có học thay bọn quý tộc vô học trong việc trị nước. Công ông lớn lao như vậy mà họ chê là phong kiến, thì nhắc tới họ làm gì cho phí giấy. Thôi đi anh ơi…

Sở dĩ Châu Hải Kỳ phải đưa đoạn này ở cuối sách và Nguyễn Hiến Lê tự nhiên có giọng bi phẫn, là vì ở đây chạm tới một đề tài hình như quan trọng nhất của Nguyễn Hiến Lê là Khổng giáo. Theo cách trình bày của các học giả Hà Nội, thì Khổng Tử đáng muôn lần căm giận, vì đã khinh bỉ nhân dân, đề cao sự thống trị của bọn ngụy quân tử. Nói chung là người ta không chú ý tới khái niệm dân mà Khổng Tử đã đề cập. Khi nói tới Nho giáo thì người ta chỉ nói đến chữ Lễ, Trung, đầy tính ràng buộc, và bằng cách đó thì bảo đảm uy quyền của giai cấp thống trị.

Nhưng trong các tài liệu viết về đạo Khổng mà Nguyễn Hiến Lê gặp lại ở phương Tây thì ông thấy một điều ngược lại, và ông trình bày trong nhiều tập sách, cuối cùng là tập trung ở cuốn Khổng Tử mà ông soạn trong thời gian từ sau 1975.

Như đoạn trên đã viết, chính ra Khổng Tử là người đã rất gần gũi với người dân bình thường. Ông biết rằng việc cai trị cần đến kiến thức nên đã dân chủ hóa kiến thức, và sẵn sàng mang lại những kiến thức quyền lực truyền đạt đến người dân thường.

Với Nguyễn Hiến Lê, đó là mặt tích cực, mặt trội nhất của Khổng Tử, và ông không thể chịu được cách hiểu cách hiểu sai của nhiều học giả Hà Nội. Ông giận họ cũng là phải.

sử xanh: Do chữ thanh sử. Thời xưa, khi chưa chế ra giấy, người ta dùng các thanh tre xanh (thanh giản) đem nướng khô mà vẫn giữ được màu xanh của cật rồi dùng bút dao (bút sắc nhọn như dao) ghi chép sử trên đó, nên gọi là sử xanh.

Thơ Lưu Trường Khanh:

Công danh mãn thanh sử
(Công danh đầy sử xanh).

Đoạn trường tân thanh:

Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn đầy sử xanh.

Câu đối viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013) của Hà Sĩ Phu:

Võ công kiệt xuất lưu thanh sử!
Văn cách khoan hòa đắc thế tâm!

sửa mũ dưới đào: Do chữ Lý hạ bất chỉnh quan (dưới cội mận chớ nên sửa mũ) vì phòng sự hiềm nghi bẻ trộm.

sự biến Huyền Vũ môn: sự kiện huynh đệ tương tàn giữa ba đứa con của Đường Cao Tổ Lý Uyên (hoàng đế sáng lập nhà Đường) xảy ra ở cửa Huyền Vũ vào năm 626. Lý Thế Dân có bốn con trai, trong số đó con cả là Thái tử Lý Kiến Thành và con trai thứ tư là Tề vương Lý Nguyên Cát – cả hai đều bất tài nhưng vẫn nuôi nhiều tham vọng. Hai người cấu kết với nhau để chống lại người con trai thứ hai là Tần vương Lý Thế Dân vốn có nhiều tài năng hơn, dưới trướng có tướng lĩnh giỏi hơn, lập được nhiều chiến công lẫy lừng trên chiến trường. Vì thế, các thuộc hạ của Lý Thế Dân đều cho rằng Lý Thế Dân có công lao lớn với triều Đường nên xứng đáng ở vào ngôi vị cao hơn, ra sức khuyến khích Lý Thế Dân tranh ngôi thái tử. Tuy nhiên theo lệ cũ thì thái tử không nhất thiết phải đích thân lãnh binh, lập nhiều công trạng; làm thái tử quan trọng nhất là danh chính ngôn thuận và có năng lực chính trị tốt. Lý Kiến Thành là con trưởng nên được chọn làm thái tử từ đầu, được Đường Cao Tổ chuyên tâm bồi dưỡng đạo trị quốc và cũng không có sai phạm gì lớn.

Đường Cao Tổ cảm kích công lao của Lý Thế Dân, phong Lý Thế Dân làm Thiên Sách Thượng tướng, ban cho nhiều đặc quyền, nhưng trước sau chưa từng tỏ ý muốn thay thái tử. Mâu thuẫn bùng nổ từ đây: Lý Thế Dân ra sức chiêu mộ người tài, xây dựng thế lực riêng, trong khi Lý Kiến Thành cảm thấy Lý Thế Dân có ý đe dọa đến ngôi thái tử của mình nên tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của người em thứ tư là Lý Nguyên Cát cùng với một số phi tần và đại thần của Đường Cao Tổ, ý đồ hạ thấp uy tín, tước dần quyền lực và tiến tới làm suy yếu hoàn toàn vây cánh của Lý Thế Dân, khiến Lý Thế Dân không còn đủ thực lực đe dọa ngôi vị của mình nữa.

Khi cuộc tranh đấu giữa hai người đến hồi cao trào, Lý Kiến Thành khuyên Đường Cao Tổ cô lập Lý Thế Dân bằng cách điều đi xa hoặc là xử tội chết những văn thần võ tướng trong phủ Tần Vương. Danh tướng Trình Giảo Kim bị điều đi xa làm thứ sử, Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối bị điều ra khỏi phủ Tần Vương, còn Uất Trì Kính Đức suýt nữa bị Lý Uyên xử tội chết. Năm 626 khi Đông Đột Quyết xâm phạm lãnh thổ, Đường Cao Tổ nghe lời Lý Kiến Thành cử Lý Nguyên Cát lãnh binh thay Lý Thế Dân kháng địch, lại mang theo nhiều binh tướng cũ của Lý Thế Dân. Lúc đó trong phủ Tần Vương, mọi người đều tự cảm nhận được sự nguy hiểm, dồn dập khuyên Lý Thế Dân nên có sự chuẩn bị sớm để tránh bị hại.

Theo kế của các thủ hạ là Trưởng Tôn Vô Kỵ, Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối, Lý Thế Dân quyết định ra tay trước. Đầu tiên Lý Thế Dân dâng sớ tố giác Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát thông gian với hai phi tần của Đường Cao Tổ là Doãn Đức phi và Trương Tiệp dư, lại tố giác  thêm hai anh em nhiều lần định hại mình. Đường Cao Tổ tức tốc hạ chỉ triệu Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát vào cung trần tình xem ai phải ai trái.

Lý Thế Dân bí mật sai Tần Thúc Bảo và Uất Trì Kính Đức dẫn phục binh mai phục ở cửa Huyền Vũ, đợi lúc Kiến Thành và Nguyên Cát đi vào liền đổ ra tấn công. Lý Thế Dân tự tay bắn chết Lý Kiến Thành, còn Lý Nguyên Cát thì bị Uất Trì Kính Đức giết chết. Bộ hạ của Lý Thế Dân báo cho Đường Cao Tổ biết Kiến Thành và Nguyên Cát đã chết, thêm rằng hai người đều không biết chuyện lược thao, lại chẳng có công lao gì với thiên hạ, ghen ghét Tần Vương công cao vọng trọng, cùng nhau bày gian kế, nay nhà Vua bất tất phải bi thương, trong khi Tần Vương công trùm vũ tục, núi sông đều theo phục, nếu giao cho nối ngôi, ủy cho việc nước, chẳng còn gì đáng lo nữa.

Đường Cao Tổ sửng sốt và đau đớn trước sự biến, nhưng trước việc đã rồi, ông không thể trị tội Thế Dân vì Thế Dân là con trai duy nhất còn sống sót, cũng là người duy nhất có tư cách thừa kế ngôi vị, hơn nữa bản thân Thế Dân có công chinh chiến bốn phương để dựng lên cơ nghiệp nhà Đường.

Vì thế Đường Cao Tổ phong Lý Thế Dân làm Thái tử, hai tháng sau thì nhường ngôi, lên làm Thái thượng hoàng,

Đây là một vết đen trong đời Thế Dân, chẳng những anh và em ông bị giết, mà theo lệ, năm con trai của Kiến Thành và năm con trai của Nguyên Cát cũng bị hành hình, vì sợ họ sẽ liên kết với nhau mà trả thù cho hai người cha thì Lý Thế Dân khó chống đỡ.

tai vách mạch rừng: Theo diễn giải thông thường như Wiktionary, thành ngữ này xuất phát từ câu “Rừng có mạch vách có tai,” nghĩa là kín như rừng vẫn có những lối đi nhỏ (mạch), người ta có thể biết được, kín như vách, người ta vẫn có thể nghe được.

Theo Trịnh Mạnh (2003), câu nói đúng phải là “tai vách mạch dừng”: vách là bức ngăn trát đất, dừng là những thanh tre nhỏ ken vào vách. Thành ngữ Hán cũng có câu Bích trung hữu nhĩ (trong vách có tai).

Câu trên có ý nói tin tức dễ lan truyền từ người này qua người khác, khuyên ta nên kín đáo.

tam bành: Theo Chư chân huyền ảo, là tinh thần của con người hiện diện ở ba nơi: óc, tim và dạ dày. Cái Thần ấy có thể làm hại người. Ba nơi chư Thần ấy, Đạo gia gọi là “Tam thi”.

Theo Thái Thượng Tam thi trung kinh, có ba vị thần là Bành Cứ hiện diện ở đầu, Bành Chất ở bụng, Bành Kiêu ở chân. Ba thần này gọi là “Tam Bành”, hay xúi giục người làm bậy. Đến ngày Canh Thân, ba vị thần này lén tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho người mau chết để khỏi phải theo dõi nữa. Người ta tin rằng những sự giận dữ, nóng nảy là do Tam Bành xúi giục gây ra để cho người dễ làm bậy.

Đoạn trường tân thanh:

Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên

Nghĩa là Tú Bà nghe Kiều nói về việc nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh thì mụ bị mất món thu nhập lớn do bán trinh Kiều cho khách làng chơi, nên nổi giận đùng đùng.

Văn Nôm dùng “tam bành” để chỉ chung cơn giận dữ, đặc biệt của người đàn bà.

tam Châu: Theo Phật giáo, là ba Châu lớn nằm trong Tứ Đại Bộ Châu nơi cõi thiêng liêng. Tam Châu gồm có: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Ba Châu nầy thuộc cõi Trung giới, mắt phàm không nhìn thấy được.

tam cố thảo lư: có nghĩa ba lần đến lều cỏ, là câu chuyện nổi tiếng có thật trong lịch sử, khi Lưu Bị ba lần đến tìm Gia Cát Lượng vào năm 207 (Tam Quốc chí). Lần thứ ba Lưu Bị mới gặp được Gia Cát Lượng, và Gia Cát Lượng trong nhà tranh ở Long Trung bàn sách lược chia ba thiên hạ, tức là Long Trung sách.

Tam co thao lu_2
Tam cố thảo lư

Lúc này Lưu Bị đã bước vào tuổi 47, còn Gia Cát Lượng khi ấy mới 27 – tuổi tác giữa vị quân chủ họ Lưu và Ngọa Long tiên sinh chênh lệch nhau đúng 20 năm. Khi thấy Lưu Bị khẩn thiết mời, Gia Cát Lượng nhận lời đến phò trợ rồi giúp đưa Thục trở thành một trong ba nước của thế chân vạc đúng theo Long Trung sách.

tam cung lục viện: Thời Hán, nơi ở của hoàng đế, thái hậu và hoàng hậu gọi chung là tam cung”. Có khi là nơi ở của thái hoàng thái hậu, thái hậu và hoàng hậu là tam cung. Thời Mục Tông nhà Đường đã đem 2 thái hậu cùng với hoàng hậu hợp xưng là tam cung. Có thể thấy, cách nói của các đời có khác nhau.

Lục viện không phải là sáu viện (chỉ được ghép theo tam cung theo tính đối xứng) mà thật ra nguyên là lục uyển, chỉ cung uyển nơi hoàng hậu cư trú.

Trường hận ca – Bạch Cư Dị, ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý phi:

Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh
Lục cung phấn đại vô nhan sắc.

Dịch:

Quay đầu lại cười hiện ra trăm vẻ đẹp
Khiến phi tần lục cung đều thất sắc.

Như vậy, tam cung lục viện chỉ đơn giản là nơi ở của hoàng đế và các phụ nữ có quan hệ gần.

tam cương ngũ thường: chuẩn mực đạo đức, đời sống chính trị–xã hội được Khổng Tử đặt ra và nam giới phải theo, bên cạnh tam tòng tứ đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội nào duy trì được tam cương ngũ thường thì xã hội đó sẽ an bình, hạnh phúc.

Tam cương: cương nguyên nghĩa là sợi dây ở mép lưới đánh cá (tức giềng mối), nhờ nó mà lưới chắc chắn hơn và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác.

Như vậy hiểu đơn giản, tam cương chỉ ba mối quan hệ chính trong xã hội:

1/ Quân thần cương: mối quan hệ vua tôi
2/ Phụ tử cương: mối quan hệ cha con
3/ Phu phụ cương: mối quan hệ vợ chồng

Theo tam cương, người trên (vua. cha, chồng) phải có trách nhiệm yêu thương, chăm sóc, bao bọc người dưới (thần, con, vợ). Ngược lại, người dưới có trách nhiệm tôn trọng, yêu thương, phục tùng, hiếu thuận với người trên. Theo Khổng Tử, nếu giữ được mối quan hệ như vậy thì gia đình sẽ hạnh phúc, êm ấm, quan hệ vua–dân hài hòa, đất nước yên bình, ổn định.

Ngũ thường: năm điều thông thường trong cuộc sống con người hình thành nên đạo đức mà mỗi người phải có. Đó là:

  • Nhân: cách làm người. Để làm người tốt thì phải có cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. Trước khi muốn thành tài thì phải thành người.
  • Lễ: lễ độ, dạy con người cư xử cho phải phép, tôn trọng và hòa nhã với mọi người.
  • Nghĩa: chính nghĩa, công bằng, dạy con cư xử theo lẽ phải.
  • Trí: sự sáng suốt. Người có trí là người biết cách phân biệt đúng–sai, thiện–ác.
  • Tín: sự tin tưởng, dạy con người biết giữ chữ tín, nó lời phải giữ lấy lời.

Xem thêm mục: ngũ luân.

tam đảo: Ba hòn đảo tiên là: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu.

Lời chú sách Sơn Hải kinh nói: “Ba hòn đảo to như núi Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu ở trong bể Bột Hải. Trên đảo có tiên ở, cung thất đều làm bằng vàng ngọc, điểu thú toàn một màu trắng, xa nhìn trông như mây”.

Tam Đại: hợp xưng thời kỳ của ba triều đại Hạ (khoảng thế kỷ 21 đến thế kỷ 16 tCN), Thương (1766–1122 tCN) và Chu (1122–249 tCN) trong lịch sử Trung Quốc.

Từ Tam Đại xuất hiện sớm nhất trong một tác phẩm từ thời kỳ Xuân Thu là Luận Ngữ, quyển Vệ Linh công: “với dân đời nay, cứ lấy đạo ngay thẳng của Tam Đại mà thi hành”. Từ này sang thời Chiến Quốc, cũng vẫn được dùng để chỉ Hạ, Thương và Tây Chu.

Sau thời nhà Tần, ý nghĩa của Tam Đại bắt đầu bao quát cả thời kỳ Đông Chu, lối dùng cũ cùng với đó đã bị loại bỏ.

tam giáo cửu lưu: Ba giáo phái là Nho giáo, Phật giáo, Ðạo giáo và 9 học phái lớn thời Chiến Quốc là: Nho gia, Ðạo gia, Âm Dương gia, Phật gia, Danh gia và Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia.

Từ này dùng chỉ đủ mọi hạng người trong xã hội.

Tam Hoàng Ngũ Đế: thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, gồm các vị quân chủ huyền thoại trong giai đoạn 2852–2205 tCN, ngay trước thời nhà Hạ. Do không có di tích đủ lớn để khảo cứu nên mô tả về thời kỳ này mang tính truyền thuyết nhiều hơn là thực tế lịch sử. Đó là thời kỳ sơ khai tối cổ của Trung Quốc. Nền văn minh mới bắt đầu khởi phát nên còn rất thô sơ và dân chúng rất thưa thớt, sống thành từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có chữ viết và cũng không có dấu tích công trình gì còn sót lại.

* Tam Hoàng: ba vị quân chủ đầu tiên mang tính chất huyền hoặc. Theo truyền thuyết, ba vị này được cho là thần tiên hoặc bán thần, những người đã sử dụng các phép màu để giúp dân. Do phẩm chất cao quý nên họ sống lâu và thời kỳ cai trị của họ hòa bình thịnh vượng. Các học giả Trung Hoa không nhất trí với nhau về Tam Hoàng cụ thể là ai, phần lớn chịu ảnh hưởng nhiều bởi các truyền thuyết dân gian. Thuyết thường thấy nhất cho rằng Tam Hoàng là Phục Hy (4486–4365 tCN), Nữ Oa và Thần Nông (3220–3080 tCN).

* Ngũ Đế: năm vị quân chủ nối tiếp Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung Hoa, đưa dân tộc này thoát khỏi tình trạng sơ khai. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Thái Lan không nhất quán về việc Ngũ Đế là 5 người naog. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên được xem là chính thống nhất, theo sách này thì Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế (2698–2599 tCN), Chuyên Húc (trị vì 78 năm theo truyền thuyết), Đế Khốc (2551–2445 tCN), Đế Nghiêu (trị vì 70 năm theo truyền thuyết), và Đế Thuấn (trị vì 50 năm theo truyền thuyết).

Theo Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, các vị quân chủ đó đều do người Trung Quốc tưởng tượng ra, chỉ có Nghiêu, Thuấn có thể coi là bán thực bán huyền (semi-historique). Trong đó, Nghiêu và Thuấn còn được gọi là Nhị Đế, cùng với Hạ Vũ, người sáng lập ra nhà Hạ, được Nho giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức.

tam Ngô: chỉ vùng Ngô Châu, Thường Châu và Hồ Châu.

tam Phủ: chỉ chung các thần ở trên trời (Thiên Phủ), âm phủ (Ðịa Phủ), trong lòng sông biển (Thủy Phủ) ở Ðộng Ðình và Xích Lân.

Tam quốc chí: bộ sử của Trần Thọ.

Tây Tấn diệt ba nước Ngụy, Thục, Ngô của thời Tam quốc để thống nhất Trung nguyên năm 280. Sau đó 5 năm, Trần Thọ biên soạn xong Tam Quốc chí, tác phẩm được xếp vào hệ thống 24 bộ chính sử Trung Quốc. Vì đã làm quan nhà Tây Tấn, Trần Thọ lấy triều đại nhường ngôi cho nhà này là Tào Ngụy làm chính thống. Dù vậy, Tam Quốc chí được xem là sử liệu khá xác thực cho giai đoạn lịch sử thời Tam Quốc, khác hẳn với tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa vốn chứa nhiều hư cấu. Xem thêm: Diệp Minh Tâm (2019b).

Bốn bộ sử liệu sau đây góp phần không nhỏ cho Trần Thọ hoàn thành bộ Tam Quốc chí:

1/ Ngụy thư của Ngụy Thâu;
2/ Tam Quốc chí của Ngư Hoạn;
3/ Ngô thư của Vi Chiêu; và
4/ Tấn thư của Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ.

Riêng Thục Hán không có chính sử (triều đình của Lưu Bị không có quan chép sử), Trần Thọ phải tự thu thập tư liệu để viết.

Trần Thọ có chủ ý loại bỏ những chuyện thần bí, những chuyện đáng ngờ, thiếu hợp lý nhằm tâng bốc Tấn và Ngụy. Vì thế, Tam Quốc chí được xem là có độ chính xác cao, được đánh giá ngang với những bộ chính sử xuất sắc như Sử ký của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Cố và Hậu Hán thư của Phạm Diệp.

Một khuyết điểm của bộ Tam Quốc chí là chủ yếu chép về các nhân vật thời Tam Quốc chứ không chép về địa lý, kinh tế và chế độ chính trị như Sử ký trước đó và Tư trị thông giám sau này. Khuyết điểm thứ hai là Tam Quốc chí quá giản lược, bỏ sót một số thông tin quan trọng. Ví dụ như Trần Thọ chỉ ghi chép về những dị tộc triều cống Ngụy mà bỏ sót những dị tộc triều cống Thục và Ngô. Đây có thể do Thục và Ngô không được xem là chính thống.

Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu mới về thời Tam Quốc xuất hiện. Tống Văn Đế (trị vì 424-453) thấy nội dung của Tam Quốc chí quá sơ lược nên ra lệnh cho sử quan Bùi Tùng Chi chú thích.

Nhờ có độ lùi 130 năm (năm 413), Bùi Tùng Chi tập hợp được hơn 200 sử liệu để bổ sung các phần mà Trần Thọ không chép hoặc chép thiếu, bằng cách:

  • dẫn ý kiến của các tác giả khác nhau để phân định thực hư;
  • kể thêm uẩn khúc trong một số sự kiện;
  • bổ sung sự kiện còn thiếu;
  • thêm chi tiết về cuộc đời của một số nhân vật; và
  • bổ sung một số nhân vật còn thiếu.

Kết quả là bản Tam Quốc chí chú giải dài gần gấp đôi so với bản Tam Quốc chí nguyên thủy. Tống Văn Đế gọi công việc chú giải của Bùi Tùng Chi là “bất hủ”. Lý do chính là vì Bùi Tùng Chi làm việc một cách bao quát và cẩn thận. Ông dẫn chứng thông tin từ nhiều sử liệu, kể cả sử liệu đáng ngờ. Những chuyện không hợp lý thì ông giải thích bằng câu như “sử liệu này không đáng tin”. Các sách trích dẫn và tác giả đều được ông ghi chép đầy đủ để độc giả rộng đường tham khảo. Đây là ý hướng của các nhà sử học hiện đại mà vào thế kỷ 4 Bùi Tùng Chi đã áp dụng.

Nhờ công lao của Bùi Tùng Chi, bộ Tam Quốc chí chú giải được cân bằng hơn. Ví dụ như ông phê phán Tư Mã Ý khi diệt Tào Sảng một cách nặng nề trong chú giải sau này thêm vào, nên nói tới Tư Mã Ý một cách thẳng thắn, không như Trần Thọ ở đời Tấn viết Tam Quốc chí phải tránh nói không hay về Tư Mã Ý.

Tuy nhiên, có lẽ vì tham khảo nhiều nguồn nên Tam Quốc chí có vài đoạn không nhất quán với đoạn khác.

Ở Việt Nam, Tam quốc chí do Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính, Nhà xuất bản Văn học và Nhà sách Tri thức Trẻ phát hành tháng 6/2016, gồm 3 tập.

Tam Quốc diễn nghĩa: nguyên tên Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, là tiểu thuyết do La Quán Trung (khoảng 1330-1400) viết vào thế kỷ 14, nội dung bắt đầu từ việc loạn Khăn Vàng khởi sự năm 184 cho đến khi nhà Tấn thống nhất Trung Quốc năm 280, tức 97 năm.

Trung Quốc có nhiều bộ sử chứa nội dung xác thực nhưng lại khô khan, phần lớn chỉ có giới nghiên cứu lịch sử chịu khó đọc. Riêng bộ Sử ký của Tư Mã Thiên thì có sức hấp dẫn ít nhiều đối với đại chúng. Nhiều độc giả vẫn cảm thấy Tam Quốc chí khô khan, cách viết lan man khó theo dõi, đọc chỉ để tìm hiểu lịch sử thôi.

Đến khi Tam Quốc diễn nghĩa được La Quán Trung viết ra thì tình hình khác hẳn: từ thế hệ này qua thế hệ khác đều đọc tiểu thuyết này một cách say mê thích thú. Tam Quốc diễn nghĩa được viết một cách mạch lạc từ hồi này qua hồi kế, thêm những tình tiết truyền cảm về sắc diện và tâm tư con người, những nhân vật kiệt xuất, những trận chiến hào hùng, những mưu mô lôi cuốn, những mẩu chuyện thần kỳ… Người đọc xem xong một hồi đều nôn nóng muốn xem hồi kế tiếp (bị kích thích bởi câu ở cuối hồi: “xem hồi sau sẽ rõ” hoặc “hạ hồi phân giải”), và xem xong quyển sách rồi trong đời vẫn muốn xem đi xem lại.

Tam Quốc diễn nghĩa thường bị chỉ trích ở chỗ đề cao quá đáng những nhân vật của Hậu Hán mà dè bỉu quá tệ hại những nhân vật chống nhà Hán. Đó là do tư tưởng “ủng Lưu phản Tào” hoặc “tôn Lưu biếm Tào” của La Quán Trung: xem Thục Hán là chính thống, lên án Tào Ngụy, còn Đông Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Người nào thuộc nhà Hán thì dù bất tài cũng được tác giả tô vẽ thành nhân vật kiệt xuất hoặc chính nhân quân tử. Ai thuộc phe đối nghịch thì dù là bậc anh hùng hào kiệt, ông cũng gán cho cái tội “gian thần quốc tặc”. Thế là có nhiều hư cấu để đạt mục đích này.

Ý kiến chung cho rằng Tam Quốc diễn nghĩa là “bảy thực ba hư”, nhưng cũng có lời bình cho rằng phần thực còn kém hơn. Ví dụ như Trần Văn Đức cho rằng Tam Quốc diễn nghĩa “già nửa là sự tô vẽ phi lịch sử”.

Qua ngòi bút phù phép của La Quán Trung – thêm chọn lọc có chủ đích những truyền thuyết dân gian – nhiều độc giả thần tượng hóa một số nhân vật và oán ghét một số nhân vật khác, đồng thời có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc tưởng đó là sự thật. Về việc này, xem: Diệp Minh Tâm (2019b).

tam Tấn: tên chung để chỉ Hàn, Triệu, Ngụy thời Xuân Thu, có khi cốt chỉ Ngụy vì Ngụy là nước mạnh hơn hai nước kia.

tam Tần: vào thời Hán-Sở tranh hùng là ba nước Ung, Tắc và Địch.

Phạm Tăng bày mưu với Hạng Vũ: “Nếu muốn thiên hạ khỏi cho Ðại vương là kẻ cướp công thì nên phong Bái Công vương chức. Ba Thục, cũng thuộc đất Quan Trung, nhưng non sông hiểm trở, nhà Tần trước đây thường đầy kẻ có tội vào đấy. Vậy cứ phong cho Bái Công làm Hán Vương, rồi phong cho Chương Hàm, Tư Mã Lân, Ðổng Ể làm vua vùng Tam Tần để chẹn đường hiểm yếu, không cho Bái Công thoát ra khỏi đất Ba Thục, phải chết già trong hung địa. Tuy tiếng là phong vương song kể như là đày biệt xứ”.

Sở Bá Vương nói: “Kế ấy rất hay”. Liền luận công phong thưởng:

Bá Vương phong thưởng như sau:

  • Bái công làm Hán Vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện.
  • Chương Hàm làm Ung Vương, đóng đô ở Phế Khẩu, cai trị đất Thượng Tần, gồm 38 huyện.
  • Tư Mã Hân làm Tắc Vương, đóng đô ở Lịch Dương, cai trị đất Hạ Tần, gồm 18 huyện.
  • Ðổng Ể, làm Ðịch Vương, đóng đô ở Cao Nô, cai trị đất Trung Tần, gồm 30 huyện.

Tam Thanh: ba vị thần tiên tối cao trong Đạo giáo ngự trị ở ba cõi trong sạch nhất:

  • Ngọc Thanh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, cõi ngự trị gọi là Thánh cảnh.
  • Thượng Thanh: Linh Bảo Thiên Tôn, cõi ngự trị gọi là Chân cảnh.
  • Thái Thanh: Đạo Đức Thiên Tôn, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân, cõi ngự trị gọi là Thanh cảnh.
Tam Thanh
Tam Thanh

Trong các tranh tượng thờ Tam Thanh, cả ba được tạo hình thành ba ông già. Nguyên Thủy Thiên Tôn ngồi giữa, cầm viên ngọc, Đạo Đức Thiên Tôn ngồi bên trái, cầm cây quạt, Linh Bảo Thiên Tôn ngồi bên phải, cầm cây như ý.

tam tịnh thực: Hay tam bạch tịnh, là sữa, lạc (cao sữa), cơm. Khi hành giả Mật giáo hành trì pháp tu thì dùng ba món này.

tam tòng: Ba điều phải theo của người phụ nữ (Ðạo Nho).

Theo Nghi lễ, tam tòng là cố vi giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử (chưa lấy chồng thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con).

Tam Vương: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu.

Truyện Hán Sở tranh hùng:

Hạng Vũ hỏi ý Trương Lương về việc lập tôn hiệu. Sau khi trình bày về Ngũ Đế, Trương Lương nói:

“ Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu.

“ Vua Hạ Vũ họ Tự tên Cao Mật sinh trưởng ở Tây Thương, Vua Nghiêu dùng làm Tư Không, nối cha là ông Cổn, giữ việc trị thủy. Ðóng đô ở An Ấp, thọ 100 tuổi truyền được 19 đời, cộng 432 năm.

“ Nhà Ân là dòng dõi Vua Ðế Cốc, họ Cơ tên Lý, tức là Vua Thành Thang, đuổi Vua Kiệt ra Nam Sào lên ngôi thiên tử, thọ 100 tuổi, truyền 31 đời cộng 629 năm.

“ Vua Văn Vương (nhà Châu) nhân Vua Trụ (nhà Thương) vô đạo sửa chính đức, thu nhân tâm, sau Vua Hạ Vũ nối nghiệp, bốn năm chinh phạt, giết Vua Trụ, làm thiên tử, thọ 93 tuổi, cộng 867 năm.

“ Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức.”

tang bồng hồ thỉ: có nghĩa cung làm bằng cành dâu (tang hồ) và tên làm bằng cỏ bồng (bồng thỉ). Nói việc tung hoành làm nên nghiệp lớn.

Theo tục cổ Trung Quốc: Khi sinh con trai thì dùng cung làm bằng gỗ dâu và tên làm bằng cỏ bồng bắn 6 phát lên trời, xuống đất và ra 4 phương với ý mong muốn đứa con sau này sẽ tung hoành khắp 4 phương để lo mưu việc lớn.

Lời sớ Lễ Ký: Dâu và cỏ bồng là những vật có tố chất vốn có từ thời Thái cổ.

Nội Tắc: bồng là thứ cỏ ngăn ngừa sự loạn, dâu là cây gốc của các loại cây.

Câu trên được nói tắt là tang bồng. Từ đó, có những thành ngữ “chí tang bồng”, “nợ tang bồng”.

Chu Sử (Tống): Sao biết được chí tang bồng của người trai!

Nợ tang bồng – Nguyễn Công Trứ:

Chí tang bồng hẹn với giang san
Đường trung hiếu, chữ “quân thân” là gánh vác.

Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái
Cái công danh là cái nợ nần.

tang lễ: lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết.

Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ “trọng nhất là ba việc: ăn, tang và tế”. Theo Mạnh Tử thì: “Đạo trị thiên hạ cần nhất là khiến dân nuôi người sống và tang người chết mà không có điều di hám”. Bởi thế ở xã hội Việt Nam cũng như ở xã hội Trung Hoa, lễ tang còn có phong tục và lễ nghi phiền phức hơn việc hôn nhân nữa.

Việc tang trọng nhất là tang cha mẹ.

Khi cha mẹ hấp hối thì phải đem ngay ra giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết vì lẽ quang minh chính đáng. Bấy giờ phải đặt tên thụy, tục gọi là tên hèm hay tên cúng cơm, rồi thưa cho cha mẹ biết. Đoạn lấy một mảnh lụa trắng dài 7 thước để lên mặt, sau khi kết thành hình người gọi là hồn bạch để hồn người chết tựa vào đó. Khi tắt hơi thì người nhà lấy một chiếc khăn tay hay một tờ giấy phủ trên mặt, khiêng xác đặt xuống đất rồi lại khiêng lên giường, có ý để cho người hấp thụ sinh khí của đất may ra có sống lại được. Đoạn một người cầm cái áo của người chết, tay tả cầm cổ, tay hữu cầm lưng, do đường trước trèo lên mái nhà để gọi tên và hú hồn người chết ba lần, rồi do đường sau nhà mà xuống. Đó là lễ phục hồn. Bấy giờ con cháu mới khóc và thay bỏ hết đồ trang sức mà quấn tóc và đi chân không, cùng ăn cháo để tỏ lòng đau thương.

Sau khi lập người tang chủ (thường là người con trưởng, là cháu trưởng thừa trọng) và người chủ phụ (vợ người chết hay vợ tang chủ) thì phải lo việc trị quan, nghĩa là sửa soạn quan tài theo nghi tiết nhất định, rồi tắm gội và thay quần áo mới cho người chết để sắp sửa làm lễ phạm hàm. Lễ này, người nhà dùng một chén gạo nếp và ba đồng tiền, chia ra ba lần mà bỏ vào miệng người chết. Bấy giờ đến lễ tiểu liệm (một mảnh dọc, ba mảnh ngang) và đại liệm (một mảnh dọc, năm mảnh ngang), theo nghi tiết mà lấy vải bọc lấy xác người chết cho kín.

Khi nhập quan, con cháu sắp hàng ở trước quan tài để khóc và làm lễ. Những người giúp việc khiêng xác bỏ vào quan rồi khiêng quan đặt ở giữa nhà. Từ bây giờ, con cháu phải trải rơm ở hai bên linh cữu và thay phiên nhau ngồi hầu suốt đêm ngày.

Khi đặt cữu đã xong, nhà giàu sang thì đặt linh sàng ở phía đông có đủ mùng màn chăn gối. Nhà hẹp thì chỉ đặt linh tọa ở trước cữu mà thôi. Cứ sáng và tối thì làm lễ triêu tịch điện, rước hồn bạch ở linh sàng ra linh tọa, rồi lại rước từ linh tọa vào linh sàng.

Trước khi làm lễ thành thục, phải lập minh tinh là thứ cờ hiệu bằng lụa đỏ có chữ ghi họ tên, chức tước cùng thụy hiệu chết bằng phấn trắng. Khi làm lễ thành phục thì con cháu người chết theo nghi tiết phủ phục mà mặc đồ tang, rồi quỳ lạy và khóc trước linh cữu.

Đồ tang phục có năm bậc gọi là ngũ phục.

Áo đại tang để cha mẹ là áo trảm thôi (vải sô chặt bằng dao chớ không dùng kéo hay sổ gấu có mảnh vải đính ở sau lưng (phụ phiến), hai mảnh đính ở hai vai (thích). Ở lưng thắt một dây chuối hai vòng, ngoài phủ một cái áo rộng bằng vải sô. Trên đầu có một cái khăn bằng vải sô bỏ múi sau gáy. Con trai có mũ vành bằng bẹ chuối (mũ nùn) và gậy tre đẽo tròn nếu tang cha hay gậy vông đeo vuông nếu tang mẹ. Gái thì đội mũ nhọn (mũ mấn) bằng vải to che kín cả mặt.

Nếu mẹ chết trước cha, thì con để tang là áo cũng may theo kiểu trảm thôi (sổ gấu) nhưng gấu có viền qua loa. Về tang ông bà, chị em, anh em, chú bác cô dì thì tùy theo thứ tự thân sơ mà may đồ cơ phục (để một năm), đồ đại công (để chín tháng) bằng vải to, đồ tiểu công bằng vải hơi thô và đồ ti ma (để ba tháng) bằng vải nhỏ.

Trước khi tống táng thì làm lễ thiên cữu (dời cữu đi chỗ khác hoặc xích đi một chút), và lễ yết tổ tức rước hồn bạch đến từ đường để cáo tổ tiên.

Đến ngày phát dẫn thì làm lễ khiển diện tức là lễ tiễn biệt, rồi rước linh cữu đến đại dư. Khi phát dẫn thì đi trước hết là phương tướng (người mặc áo mũ đạo sĩ, đeo nạ cầm dao) để khu trục tà quỷ; thứ đến có cờ đan triệu viết chữ “trung tín” (nếu đàn ông) hoặc “trinh thuận” (nếu đàn bà) bằng phấn trắng; thứ đến là các đồ minh khí cùng đối trướng của người phúng điếu, kế đến minh tinh, linh xa rước hồn bạch, rồi đến đại dư. Con trai thì chống gậy tre (tang cha), hoặc gậy vông (tang mẹ) đi lùi ở trước linh cữu. Còn con gái, dâu thì đi theo sau linh cữu trong một cái màn trắng (bạch mạc). Sau cùng là các người tôn trưởng họ hàng và bằng hữu đi đưa.

Dọc đường, con gái con dâu có lệ là thỉnh thoảng phải nằm lăn xuống đường khóc lóc kể lể để cỗ đại dư vượt qua. Người ta lại rắc những thoi vàng giấy để đánh dấu lối cho linh hồn người chết mà biết lối về.

Đám tang nhà phú quý, dọc đường thỉnh thoảng có làm trạm trung đồ (đạo trung) để dừng linh cữu lại làm điện tế. Đến huyệt lại có trạm để tế hạ huyệt. Trước khi hạ huyệt thì làm lễ tế Thổ thần. Khi đặt quan tài vào huyệt thì có thầy phong thủy phân kim lấy hướng, trải minh tinh lên mặt quan tài rồi cho đắp mồ. Đắp xong thì làm lễ thành phần. Đoạn rước hồn bạch hay thần chủ vào linh xa về nhà rồi đưa lên linh tọa. Sau đó làm lễ phản khốc (khóc lại) và lễ sơ ngu (cầu cho vong hồn được an tĩnh). Sau gặp ngày nhu nhựt (ất, đinh, tỵ, tân, quý) thì làm lễ tái ngu; gặp ngày cương nhựt (thân, bính, tuất, canh, nhâm) thì làm lễ tam ngu.

Tống táng được ba ngày thì phải ra thăm mộ, làm lễ “mở cửa mả”. Rồi cứ 7 ngày làm một tuần chay cho đến 49 ngày thì làm lễ chung tất, cùng lễ 50 ngày và 100 ngày. Được một năm thì làm lễ tiểu tường (giỗ đầu), sau một năm nữa thì làm lễ đại tường (giỗ hết). Được 27 tháng thì làm lễ đoạn tất hay lễ trừ phục (mãn tang). Từ đấy về sau cứ hàng năm đến ngày kỵ lại phải làm lễ, cho đến khi người chết lên đến bậc tổ ngũ đại thì chôn thần chủ rồi thờ chung ở từ đường, chớ không làm giỗ riêng nữa. Trong khoảng tiểu đại tường, cứ đến tuần trung nguyên (rằm tháng bảy), người ta thường đốt đồ mã cho người chết hai kỳ. Kỳ đầu gọi là mã biếu (quỷ sứ), kỳ sau mới thực cho người chết dùng. Có nhiều nơi, người ta đốt đồ mã vào kỳ giỗ đầu và giỗ hết.

Tục đốt mã nguyên theo tục xưa chôn đồ dùng thật kèm với người chết, sau mới thay bằng đồ giấy. Người ta tin rằng người chết xuống âm phủ cũng tiêu dùng tiền và quần áo nên phải đốt đồ mã để cho người chết khỏi thiếu thốn. Bởi theo mê tín và lý luận đơn giản, người ta cho rằng: “Dương sao thì âm vậy”.

Về đại tang thì sau khi chôn cất yên rồi, con cháu đem mũ gậy và áo rộng treo ở bên linh tọa. Khi làm lễ thì mới dùng đến. Lúc thường thì chỉ mặc quần áo và chít khăn tang mà thôi. Trong thời hạn đại tang, người con còn phải ăn ở theo lễ. Theo sách Gia lễ: khi con cái có tang cha mẹ phải nằm rơm gối đất, không được vui chơi, không được nghe đàn hát, ăn uống thịt rượu, không được kết hôn, phải kiêng phòng sự (đàn bà có thai trong kỳ đại tang thì phải vạ). Người đương làm quan mà gặp đại tang thì phải xin nghỉ để cư tang, hết hạn mới xin bổ lại.

Sau ba năm đoạn tang, hoặc vài năm sau nữa, người ta thường cải táng. Khi ấy phải mời thầy phong thủy tìm lấy huyệt tốt rồi làm lễ bốc mả (cải táng). Trước hết là khai mả nhặt lấy xương xếp vào một cái tiểu sành rồi đậy thực kín. Nhà giàu sang thì dùng quan quách khâm liệm như khi hung táng.

Tục cải táng ở miền Bắc rất phổ thông, người ta thường gọi là làm ma khô, đối với lễ hung táng là làm ma tươi. Từ Hoành Sơn trở vào Nam thì trừ khi người ta tưởng rằng mộ động thì phải cải táng, còn thường thì chôn cất một lần là xong.

Lễ tang rất phiền phức. Tục lệ tang ma khôn dứt bỏ được dễ dàng vì tôn giáo, luân lý, nghi lễ, phong tục và luật lệ phối hợp lại gây nên một áp lực mạnh mẽ, thúc bách cá nhân phải tuân theo. Trừ khi dân trí tiến bộ bớt mê tín và khi điều kiện sinh hoạt thay đổi hẳn. Cho nên ta đã thấy từ khi người chết vừa tắt hơi cho đến lễ đạm tất thì mỗi lần làm lễ phải có thầy phù thủy hay thầy tu tụng kinh và làm phép. Nếu ngày chết là ngày xấu, như ngày trùng tang trùng phục thì người ta phải tìm thầy phù thủy làm phép, đại khái là bỏ bùa vào quan tài và yểm bùa ở cửa để hung sát sợ mà không dám làm hại; hoặc làm chay, lập đàn cúng lễ. Những kẻ chết oan, chết trẻ chưa thành gia thất, những kẻ bất đắc kỳ tử đều là những thứ ma thiêng hay hãm hại người sống nên muốn trừ tai ách, người ta phải làm chay để siêu độ vong hồn hoặc để giải oan.

Những thứ phiền toái này làm tê ngừng dòng tình cảm giữa người sống và người chết cùng huyết thống của một ông tổ. Đúng như điều nhận xét của dân chúng vốn thiết thực, nhưng không thể chống lại được sức mạnh của những “sự vật đã thành” mà họ vẫn ngấm ngầm phản đối:

Sống thì hít hít, hôn hôn
Chết thì bùa yểm, bùa chôn, bùa trừ!…

hoặc:

Sống thì chả được cho ăn
Chết thì làm giỗ, làm văn tế ruồi.

tang thương: từ câu Thương hải biến vi tang điền (bể xanh biến thành ruộng dâu), chỉ việc đời biến đổi. Nhiều người bây giờ hiểu thành “tang tóc, thương đau” là không đúng. Thần tiên truyện: Vào thời Ðông Hán, Tiên nhân Vương Phương Bình giáng cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: “Từ khi được tiếp hầu ông tới nay, bể đông đã ba lần biến thành ruộng dâu”.

Cung oán ngâm khúc:

Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Ðái Ðức Tuấn (bút hiệu Tchya):

Ðời tựa bánh xe lăn chuyển mãi
Phong trần chọn mặt khách tang thương.

Tang thương ngẫu lục: tựa có nghĩa “Ghi chép ngẫu nhiên trong cuộc bể dâu”, là tập ký bằng chữ Hán do đôi bạn thân Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cùng hợp soạn vào khoảng Lê mạt-Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 tại Việt Nam.

Bài Tựa in ở đầu tập cho biết những chuyện biến thiên thời cuối nhà Lê khiến người ta có cảm khái tang thương, tập sách Tang thương này sở dĩ có là vì thế đó.

Ban đầu Tang thương ngẫu lục chỉ có bản viết tay trong một thời gian gần trăm năm. Đến năm 1896, Tiến sĩ Gia Xuyên Đỗ Văn Tân đang là Tổng đốc Hải Dương quyên tiền khắc ván, từ đó mới có bản in.

Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục, bản tiếng Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch.

Từ điển văn học của Nguyễn Phương Chi nêu ý kiến:

Một số lớn truyện ghi chép những giai thoại về các nhân vật lịch sử với ý thức đề cao những người đã góp công trạng trong việc gìn giữ, xây đắp và tô điểm cho nước non, xứ sở (như Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Công Hãng, Đặng Trần Côn, Bà vợ thứ ông Nguyễn Kiều…)

Một số truyện miêu tả một vài cảnh sinh hoạt xa hoa trong phủ chúa, cảnh những con quan ngang ngược lộng hành ngay chốn kinh thành; đối lập với đấy, là cảnh sống của các tầng lớp nhân dân đang bị bần cùng, bị đẩy ra chiến trường vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn thống trị (như: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, Quận mã Đặng Lân…).

Một số truyện khác, với nghệ thuật điêu luyện, hai tác giả đã khắc họa những danh lam, thắng cảnh, những di tích…với nhiều phong vị và màu sắc (Chùa Phật Tích, Hồ Gươm…).

Cuối cùng, là một truyện ma quỷ, một số sự tích hoang đường, kỳ lạ. Đây chính là nét đặc sắc làm nên giá trị của sách. Bởi ở chỗ màu sắc hoang đường được vận dụng như thủ pháp nghệ để ghi lại những hình ảnh của thời đại đầy biến động. (Ma Đồng Xuân, Nội đạo tràng, Mẹ ranh càn sát…).

Với lối văn kể chuyện giản lược, ngắn và súc tích. Tang thương ngẫu lục tuy chưa thể xếp ngang hàng với Vũ trung tùy bút, song nó cũng là một tập truyện ký có giá trị văn học và sử học đáng kể.

tao khang: tao là bã rượu, khang là cám gạo, là những thức ăn của người cùng khổ. Theo Hậu Hán thư, Tống Hoằng nhà nghèo, có chí học tập. Vợ chồng sống đạm bạc, vất vả nhưng vẫn yêu quý nhau. Tống Hoằng sau khi thi đỗ làm quan triều Quang Vũ Ðế đến tước Thượng khanh. Vũ Ðế có người chị là Công chúa Hồ Dương mới góa chồng, có cảm tình với Tống Hoằng.

Nhà Vua có ý muốn giúp chị tái giá, một hôm cho triệu Tống Hoằng vào bệ kiến rồi nhân hỏi dò (vì Hoằng đã có vợ): “Tục ngữ có nói: Sang thì đổi bạn, giàu thì đổi vợ, có phải nhân tình là thế ư?” Vốn là người có tình nghĩa, Hoằng đáp: “Thần nghe nói bạn bè từ thuở nghèo hèn không thể quên nhau, người vợ tao khang không bỏ cho ra khỏi nhà”; có ý nói không thể bỏ nhau.

Câu trả lời của Tống Hoằng khiến cho Quang Vũ và Công chúa Hồ Dương bỏ ngay ý định và càng cảm kích ông hơn.

Lục Vân Tiên, đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi:

Chàng dầu gặp hội biển vàng
Thiếp xin vẹn chữ tao khang đạo hằng.

Bài Dạ cổ hoài lang của Phạm Văn Lầu:

Đường dầu xa, ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tao khang.

Sau này “tao khang” nói trại thành “tao khương” hoặc “tào khang”, đều chỉ tình nghĩa từ buổi còn nghèo túng, giống như khi cùng ăn bã rượu và cám gạo.

tái ông thất mã: có nghĩa “ông già ở biên giới mất ngựa”. Theo sách Hoài Nam Tử, một ông lão sống gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn. Ông lão nói: “Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!”

Cách mấy tháng, con ngựa trở về lại quyến thêm một con ngựa hay tốt. Những người quen thuộc kéo đến xem ngựa và chúc mừng. Ông lão nói: “Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!”

Từ khi được ngựa hay tốt, con ông lão thích cưỡi. Chẳng may té què chân. Người quen thuộc đều đến hỏi thăm, chia buồn. Ông lão nói: “Con què thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!”

Cách một năm có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão vì què, không phải đi lính. Lúc này hàng xóm láng giềng mới thấy những lời của Tái Ông quả thật thâm thúy.

Tái ông thất mã trở nên một thành ngữ để chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó biết trước được. Trong cái phúc thường khi có cái họa; trong cái họa lại có cái phúc. Cổ ngữ cũng có câu: “Họa là chỗ dựa của phúc, phúc tiềm ẩn họa rình rập.”

Bài ca lưu biệt – Huỳnh Thúc Kháng, trước khi tác giả bị Pháp đày đi Côn Đảo:

Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt
Ngựa tái ông họa phước biết về đâu!

tám ngàn xuân thu: ý nói việc trường sinh mãi mãi. Sách Trang Tử ghi: Ðời Thượng cổ có giống cây Ðại Xuân, lấy 8000 năm làm mùa xuân, 8000 năm làm mùa thu”.

tài kiêm tám đấu: tài kiệt xuất, lỗi lạc. Thông chí: Tào Thực, người nước Ngụy thời Tam Quốc, con Tào Tháo, lên 10 tuổi đã giỏi nghề văn, hạ bút thành chương. Tào Tháo cho là lạ. Về sau, Tào Thực văn tài càng thêm lỗi lạc. Tạ Linh Vân thường nói: “Văn chương trong thiên hạ được một thạch [10 đấu], Tử Kiến riêng một mình đã chiếm hết 8 đấu.”

tài mệnh ghét nhau: Nói việc người có tài, vận mệnh thường long đong.

Hữu cảm – Lý Thương Ẩn (Lam Điền dịch thơ)

Chí thú mình ta đã nửa đời
Xưa này tài mệnh hại nhau thôi
Người đừng vẽ rắn thêm chân nữa
Chén rượu đào ngon khó nếm trôi.

Đoạn trường tân thanh:

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Tào Cao: Ðại Tư mã nước Sở, Hạng Vương sai giữ ở Thành Cao, sau vì đánh nhau bị thua quân Hán trên Sông Tỵ (Tên Hán-Việt: Tỵ Thủy) nên tự tử mà chết.

Tào Cữu: Đại Tư mã nước Sở. Hạng Vương sai Cữu giữ thành Cao, dặn cố thủ không được đánh. Quân Hán khiêu chiến mấy lần không được liền dùng kế nhục mạ Cữu suốt mấy ngày. Cữu nổi giận đem quân vượt Sông Tỵ mà đánh. Quân lính mới sang được nửa sông thì bị đánh bại, vật báu của nước Sở đều bị lấy hết. Cữu và Tư Mã Hân đều tự tử.

Tào Đường: thi nhân đời Vãn Đường, năm sinh và năm mất không rõ. Ông tên chữ là Nghiêu Tân, hiệu Tố Quá đạo sĩ, người Quế Châu. Trong Toàn Đường thi có chép hơn 140 bài thơ của ông.

Tào Nga: nhân vật tượng trưng cho lòng hiếu thảo. Xem mục: tuyệt diệu hảo từ.

Tào Thực: Theo Wikipedia_Tào Thực, Tào Thực (192–232) là một trong 25 người con trai của Tào Tháo. Tào Thực không được nhắc đến nhiều trong chính sử Tam Quốc chí nhưng được ca ngợi trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. So với các anh em, ông không giỏi võ bằng anh cả Tào Ngang (chết trận khi còn trẻ), không có tài quân sự như Tào Phi và Tào Chương, trí tuệ thì không bằng Tào Xung (chết yểu), nhưng nổi tiếng là nhà thơ kiệt xuất.

Hậu thế về sau nhớ đến ông qua giai thoại “bảy bước thành thơ” (thất bộ thành thi) trong Tam Quốc diễn nghĩa, và một số tác phẩm cá nhân như Lạc Thần phú, Tặng bạch mã Vương Bưu, Khuê tình

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi lên tức vị Ngụy Vương. Hoa Hâm thưa: “Lâm Trì Hầu Tào Thực, Tiêu Hoài Hầu là Tào Hưng, cả hai đều không về bôn tang, nên sai sứ đến đó vấn tội.” Tào Phi nghe lời.

Chưa đầy một ngày, sứ giả về thưa: “Tào Hưng sợ vấn tội nên đã tự vận.”

Hôm sau nữa, sứ Lâm Trì về thưa: “Tào Thực ngày đêm uống rượu, làm thơ ngạo mạn, chẳng chịu vâng lệnh, lại nói: ‘Ngày trước Ngụy Vương muốn lập ta là thế tử, nhưng bọn nịnh thần sàm tấu nên lập anh ta! Nay cha ta mới chết được vài ngày mà đã đến vấn tội. Anh em gì lũ ấy!’”

Tào Phi cả giận, truyền bắt Tào Thực và Ðinh Nghi đem về. Tào Phi lại dạy đem Ðinh Nghi chém trước.

Mẹ Tào Phi là Biện Thị nghe Tào Hưng đã tự vận, lại nghe Tào Thực bị bắt thì buồn giận lắm, bèn ra điện đòi Tào Phi ra mắt. Tào Phi vội vã đứng hầu.

Biện Thị khóc: “Con chớ vì địa vị mà hại tình cốt nhục. Nay em con nó ỷ tài mà làm liều, thì con cũng nên nghĩ đến mẹ.”

Tào Phi chẳng dám cãi, dạ dạ lui ra, liền đòi Tào Thực ra mắt.

Phi nói: “Ta với ngươi đáng lẽ phải giữ tình cốt nhục. Sao ngươi vô lễ thế? Vậy ngươi hãy đi bảy bước, nếu làm được bài thơ, ta sẽ dung tha.”

Tào Thực đi vừa hết bảy bước (thất bộ thành thi) thì đọc (dịch thơ):

Nấu đậu bằng dây đậu
Ðậu ở trong chảo khóc
Vốn thiệt một gốc sanh
Ðốt nhau sao quá gấp!

Tào Phi xem thơ, ngùi ngùi rơi lệ. Rồi khiến Thực làm Ân Vương Hầu.

tảo mộ: tảo có nghĩa là quét, mộ là mồ mả. Thường thường cuối năm và đầu năm, người ta có lệ đi thăm, làm cỏ và sửa sang phần đầu năm, người ta có lệ đi thăm, làm cỏ và sửa sang phần mộ người thân.

Đoạn trường tân thanh:

Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Tạ công: tức Tạ An đời Tấn. Ở đời Đường, họ Tạ là một trong những họ quý phái, nhiều người muốn làm rể nhà họ Tạ nên thường dùng từ Tạ công để chỉ nhạc phụ, dùng từ Tạ gia để chỉ gia đình và nhà ở của ý trung nhân hoặc của vợ.

Tạ Diễu: người đời Lục Triều, nổi tiếng về thơ ngũ ngôn, khi làm Nội sử ở Tuyên Thành, phía bắc Phủ Ninh Quốc, Tỉnh An Huy hiện nay, ông cho xây một ngôi lầu mang tên Tạ Diễu của mình.

Tạ Ðạo Uẩn: con nhà thế phiệt đời nhà Tấn (265-419). Theo Thông chí, Tạ Ðạo Uẩn là con gái An Tây Tướng quân Tạ Dịch đời Tấn. Nàng nổi tiếng thông minh, học rộng, có tài biện luận, giỏi thơ văn. Tạ Dịch ngưòi đất Dương Hạ, chú Tạ Ðạo Uẩn là Tạ An thường hỏi Kinh thi, nàng đều trả lời rành rọt. Một hôm, nhân họp mặt gia đình, gặp buổi tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An chỉ tuyết, hỏi: “Cảnh tuyết rơi có thể ví với cái gì được?” Tạ Lãng thưa: Có thể ví với muối tán nhỏ bay không đều nhau trong không trung.” Ðạo Uẩn lại nói: Không bằng ví với sợi bông liễu bay khi gió thổi.” Tạ An phục tài.

Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng: “Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bậc công khanh.”

Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.

Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.

Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.

Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.

Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đoạn thuật nàng Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng và đề thơ trên bức tranh, Kim Trọng khen nàng:

Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này!

tạo hóa: đấng tạo ra muôn vật với mọi sự biến hóa, đổi thay, theo quan niệm duy tâm.

Ngày Vũ Trọng Phụng (1912-1939) mất, Đồ Phồn viết đôi câu đối, được khắc tại mộ chí nhà văn tài danh này:

Cạm bẫy người tạo hóa khéo căng chi! qua giông tố tưởng nên số đỏ
Số độc đắc văn chương vừa trúng thế, nỡ dứt tình không một tiếng vang.

Cạm bẫy người, Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, Dứt tình, Không một tiếng vang là tựa các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.

Ghi chú: “con tạo” cũng là tạo hóa, nhưng được dùng với ý nghĩa than van.

tăm cá: tin tức do cá đem đến.

Cổ thi:

Khách tùng viễn phương lai
Di ngã song lý ngư
Hô đồng phanh lý ngư
Ngư trung hữu tố thư

Dịch:

Khách từ phương xa lại
Cho ta cặp lý ngư
Gọi đồng ra mổ cá
Trong ruột có bức thư.

Về sau người ta dùng điển này để nói về tin tức.

Hoa tiên:

Tịt mù tăm cá bóng chim mấy trùng.

tăng già: tăng là thầy tu; già tức tức già lam, chữ gốc tiếng Phạn để chỉ cái chùa.

Phan Trần:

Tăng già chịu việc hôn nhân trở lời.

Tăng Nhụ: Thượng Hữu Lục: Ngưu Tăng Nhụ đời Ðường, đi thi trượt về đến núi Minh Cao trời tối lạc đường. Một lúc có một bóng trăng lên, thoáng thấy như mùi hương lạ, xa trông một chỗ có bóng đèn, tìm đến thì thấy một tòa cung điện rực rỡ, thì ra là miếu của bà Thái hậu họ Bạc đời Hán. Bà Bạc Hậu hiện lên mời đón rồi lại họp cả các bạn như Trích phu nhân, Chiêu quân, Thái Chân, Phan Phi… để cùng làm thơ. Tăng Nhụ cũng làm một bài.

Tăng Sâm: tức Tăng Tử, sinh thời Xuân Thu, người nước Lỗ, học trò giỏi của Ðức Khổng Tử, tác giả sách Ðại học. Là một bậc đại hiền, ông được liệt vào tứ phối, được thờ chung với Ðức Khổng Tử.

Tăng Sâm nổi tiếng có hiếu, một trong Nhị thập tứ hiếu. Tuy nhà nghèo nhưng ông vẫn cố sức kiếm miếng ngon để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông vào rừng đốn củi, có khách đến chơi, bà mẹ không biết làm thế nào để gọi con về, mới cắt ngón tay xem con có động lòng không. Quảnhiên Tăng Sâm thấy xúc động liền gánh củi về.

Lại có điển Tăng Sâm giết người như sau: Bà mẹ Tăng Sâm đang ngồi dệt vải thì có người đến báo tin Tăng Tử giết người. Bà vẫn điềm nhiên ngồi trên khung cửi vì cho rằng con mình không thể nào là kẻ sát nhân được. Người thứ hai cũng lại đến báo cho bà biết tin ấy, nhưng bà vẫn không tin. Nhưng qua đến người thứ ba thì bà hốt hoảng chạy đi tìm con để xem hư thực thế nào cho rõ. Thì ra một kẻ trùng tên với Tăng Sâm phạm tội giết người.

Nghĩa bóng của thành ngữ “Tăng Sâm giết người”: Bất cứ việc gì, dầu không có mà nghe mãi sẽ tin là thật.

Tân Mãng: Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, đổi quốc hiệu là Tân nên gọi là Tân Mãng. Hán Quang Vũ khởi binh đánh, Mãng nói: “Trời đã sinh đức ở ta, quân Hán làm gì được ta?”

Tân phương bát trận: Sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn, ngoài ra ông còn soạn bộ Cổ phương bát trận.

Tây cung: nơi ở của cung phi bị ruồng bỏ.

Tay cung Xuan oan

Tây cung xuân oán – Vương Xương Linh
Nỗi oán mùa xuân ở Tây cung – Hải Đà dịch thơ:

Cung Tây đêm vắng ngát hoa xuân
Muốn cuốn rèm châu oán hận dâng
Ôm ấp cung đàn nghiêng dáng nguyệt
Chiêu Dương(A) mờ mịt bóng cây ngàn.

Chú thích:
(A) Chiêu Dương: tên cung điện của hậu phi.

Tây Kinh Lưu thủ: Chức quan lưu giữ (tây) kinh thành. Khi hoàng đế thân chinh hoặc tuần hành nơi xa thì giao cho thân vương, trọng thần lưu giữ kinh thành, tùy nghi xử lý công việc.

Tây Môn Báo: Sử ký của Tư Mã Thiên thuật câu chuyện này như sau.

Thời Ngụy Văn Hầu, Tây Môn Báo làm huyện lệnh ở Ấp Nghiệp. Báo đến Ấp Nghiệp gặp các trưởng lão hỏi dân tình khổ sở vì điều gì. Các vị trưởng lão nói: “Khổ vì chuyện Hà Bá lấy vợ nên dân nghèo.” Báo hỏi tại sao.

Họ đáp: “Quan tam lão  và những người thuộc lại mỗi năm thu thuế trăm họ được mấy trăm vạn, lấy ra hai ba mươi vạn để cưới vợ cho Hà Bá. Còn bao nhiêu thì cho ông đồng bà cốt chia nhau.Bọn bà cốt thấy nhà nào có con gái dẹp thì nói nên gả cho Hà Bá và đem đồ sính lễ đến cưới. Họ tắm rửa cho cô ta, lấy the lụa mặc cho cô ta, cho ở một mình, ăn chay, dựng nhà trai cung ở trên bờ sông Hoàng Hà, bày cờ đỏ màn the, cho người con gái sống ở trong cung. Cô ta có đủ thịt bò, rượu, cơm. Làm như thế hơn mười ngày. Sau đó lại đánh phấn tô điểm cho cô ta, chuẩn bị giường chiếu như cô dâu thật, để cô gái trên giường cho trôi trên dòng Hoàng Hà. Lúc đầu còn trôi trên mặt nước, đi được mấy dặm rồi chìm. Nhà nào có con gái đẹp cũng rất sợ ông đồng bà cốt bắt gả cho Hà Bá, cho nên nhiều người mang con gái trốn đi nơi xa. Vì thế trong thành vắng tanh không người, lại càng đói kém. Tục này đã có từ lâu. Dân gian tin rằng nếu không lấy vợ tho Hà Bá thì nước dâng lên chết hết dân.

Tây Môn Báo nói: “Khi nào Hà Bá lấy vợ, xin cụ tam lão, các ông đồng bà cốt, các phụ lão tiễn người con gái trên Hoàng Hà đến nói với tôi; tôi cũng muốn tiễn cô ta.”

Họ đều nói: “Dạ.”

Đến hôm ấy, Tây Môn Báo đến họp trên Hoàng Hà. Cụ tam lão, các thuộc lại, những người tai mắt, các bô lão trong làng nhân dân đến xem hai ba nghìn người. Bà cốt là một bà già, tuổi đã bảy mươi. Bọn con gái làm đệ tử theo bà đến mười người, tất cả đều mặc áo the mỏng đứng đằng sau bà cốt chính.

Tây Môn Báo nói: “Gọi người vợ Hà Bá đến đây xem xấu đẹp thế nào!”

Người ta dẫn đến người con gái ở trong màn ra trước mặt Báo. Báo nhìn người ấy, đoạn quay lại bảo tam lão, ông đồng bà cốt: “Người con gái này không đẹp. Phiền bà cốt xuống sông báo với Hà Bá khi nào tìm được người đẹp để thay sẽ đưa dâu.”

Liền sai thuộc hạ và quân lính ôm bà cốt già ném xuống sông.

Một lát sau, Báo lại nói: “Bà cốt già sao đi lâu thế? Các đệ tử phải giục bà ấy đi!

Lại sai ném một người đệ tử xuống sông.

Một lúc sau, Báo lại nói: “Đệ tử sao lâu về thế? Phải sai một người nữa đi giục họ về.”

Lại ném một đệ tử xuống sông nữa.

Tây Môn Báo lại nói: “Bà cốt già và đệ tử đều là đàn bà con gái, không thể trình bày công việc được. Xin phiền vị tam lão xuống trình bày đầu đuôi.”

Lại sai ném tam lão xuống Hoàng Hà. Tây Môn Báo cắm bút lên đầu làm ra vẻ cung kính, quay về phía sông một hồi lâu. Các vị trưởng lão và thuộc lại đứng bên cạnh đều khiếp vía.

Tây Môn Báo quay lại nói: “Bà cốt già, tam lão không về! Bây giờ làm thế nào?” Muốn sai một người thuộc lại và một người trưởng lão xuống giục.

Hai người này đập đầu van xin, đầu muốn vỡ, máu chảy lênh láng trên đất, sắc mặt xám như tro nguội.

Tây Môn Báo nói: “Được, ta hãy đợi một chút.”

Một lát sau, Tây Môn Báo bảo: “Ông lại đứng dây, Hà Bá giữ khách như thế lâu rồi. Cho tất cả về nhà.”

Thuộc lại và dân chúng Ấp Nghiệp đều hoảng sợ. Từ đó về sau không ai dám nói đến việc Hà Bá lấy vợ nữa. Tây Môn Báo sai dân đào mười hai con ngòi để đem nước sông Hà vào tưới ruộng của dân, ruộng đều đầy nước. Lúc bấy giờ dân chúng đào ngòi rất khổ cực, không muốn làm.

Báo nói: “Dân chúng có thể vui thích khi việc đã thành, nhưng ta không thể cùng họ lo toan khi bắt đầu làm. Nay các cụ và con em tuy lo lắng, khổ sở vì ta, nhưng một trăm năm sau thế nào con cháu của các cụ cũng sẽ nhớ đến lời ta.”

Đến nay, nhờ được thủy lợi, nhân dân đều được no đủ, giàu có. Mười hai con ngòi chạy thẳng, cắt mất đường của xe. Đến khi nhà Hán lên, quan lại cho rằng cầu của mười hai cái ngòi chắn mất đường đi, các ngòi lại  gần nhau không tiện, muốn hợp các ngòi lại, ở trên đường cái, gộp ba ngòi làm một cầu. Nhân dân và các phụ lão đất Nghiệp không chịu nghe quan lại, cho rằng đó là điều Tây Môn Báo đã làm; phép tắc của người hiền không thể thay đổi được. Rút cục quan lại phải nghe theo, gác việc ấy lại. Tây Môn Báo làm huyện lệnh đất Nghiệp nổi tiếng trong thiên hạ, ơn đức lưu lại đời sau không khi nào hết. Chẳng phải là một vị đại hiền sao?

Truyện nói: “Tử Sản cai trị đất Trịnh, dân không thể dối. Tử Tiện cai trị đất Đan Phụ, dân không nỡ dối. Tây Môn Báo cai trị đất Nghiệp, dân không dám dối.” Tài năng của ba người này ai giỏi hơn? Người nào biết phân tích đạo trị người thì mới biết điều đó.

Tây sương ký: Theo Wikipdia_Tây sương ký, Tây sương ký có nghĩa “Truyện ký mái Tây”, là tựa vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, sáng tác trong khoảng 1297-1307 đời Nguyên Thành Tông, miêu tả một cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến. Tây sương ký xuất phát từ Hội chân ký có nghĩa “Ghi chuyện gặp tiên”, còn được gọi là Oanh Oanh truyện, của Nguyên Chẩn đời Đường.

Bốn hồi cuối của Tây sương ký, theo nghi vấn của Kim Thánh Thán, rất có thể không phải do Vương Thực Phủ viết, mà do Quan Hán Khanh, một nhà văn cùng thời với Vương Thực Phủ chấp bút. Bản dịch của Nhượng Tống cũng chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi-Trương thì kết thúc.

Tóm tắt nội dung:

Thôi Oanh Oanh là tiểu thư xinh đẹp, con gái của một vị tướng quốc. Khi bố chết, hai mẹ con nàng về quê, nhưng gặp loạn đành tạm lánh ở chùa Phổ Cứu, đất Bồ. Trương Quân Thụy, một thư sinh nghèo, cha mất sớm, vãng du sang đất Bồ chơi, khi ngoạn cảnh chùa gặp Oanh Oanh. Chàng đắm đuối trước sắc đẹp của nàng bèn tìm cách vào chùa xin trọ. Đêm đến, họ Trương ngâm thơ tỏ tình, Oanh Oanh họa lại. Khi Tôn phu nhân làm chay cho chồng thì Trương Quân Thụy cũng nhờ sư cụ của chùa thêm một phần lễ làm chay cho cha mình để có dịp gần Oanh Oanh.

Lại có một nhân vật mang tên Tôn Phi Hổ, vốn là thủ lĩnh thảo khấu đem quân bao vây chùa, đòi lấy Oanh Oanh. Thôi phu nhân tuyên bố ai giải vây được chùa sẽ gả con gái cho. Trương Quân Thụy bèn viết thư nhờ bạn là tướng quân Đỗ Xác đem binh tiến đánh và bắt được Tôn Phi Hổ.

Thôi phu nhân mở tiệc ăn mừng và mời Oanh Oanh. Ai cũng tưởng là tiệc cưới, nhưng Thôi phu nhân lật hẹn, nói đã hứa gả cho cháu ngoại Trịnh Hằng, nên chỉ cho phép Oanh Oanh nhận Quân Thụy làm anh em. Cả Oanh Oanh và Trương Quân Thụy đều rất mực đau khổ, người hầu gái của Oanh Oanh mang tên Hồng nương cũng bất bình.

Sau buổi tiệc, Quân Thụy ốm tương tư, Oanh Oanh sai Hồng nương sang thăm. Khi ra về, Trương Quân Thụy viết thư nhờ Hồng nương đưa cho Oanh Oanh nhưng Hồng nương không dám đưa mà bỏ vào hộp nữ trang. Oanh Oanh vô tình đọc được, rất mừng nhưng lại tự ái mắng Hồng, rồi viết thư trả lời Trương Quân Thụy, sai Hồng nương mang sang. Do viết khi Oanh Oanh đang giận dữ, Hồng nương tưởng đó là thư Oanh Oanh cự tuyệt Quân Thụy nên an ủi Quân Thụy hết lời. Thế nhưng, sự an ủi đó lại càng khiến Quân Thụy tuyệt vọng. Chỉ đến khi giở thư ra, thấy đây bài thơ:

Trăng sáng đêm rằm

Cửa hé theo luồng gió
Trăng chờ dưới mái Tây
Chạm tường hoa động bóng
Người ngọc đến đâu đây

Hóa ra là Oanh Oanh hẹn chàng ở mái phía Tây lúc trăng lên, họ Trương vui mừng liền hết bệnh.

Đêm hôm đó như đã hẹn Quân Thụy vượt tường đến mái Tây. Nhưng vì có Hồng nương theo bên cạnh nên Oanh Oanh thẹn thùng. Nàng trở mặt mắng chàng khiến chàng ngẩn người chẳng hiểu vì sao. Hồng nương cũng không rõ thực hay giả vờ, ngỏ ý tố cáo Quân Thụy với Thôi phu nhân nhưng bị Oanh Oanh ngăn lại. Về phòng, Quân Thụy lại trở bệnh nặng.

Vài hôm sau, Trương đang ngủ ngoài hiên, chợt có người đánh thức. Chàng giật mình ngồi dậy thì thấy Hồng bảo: “Có cô Thôi đến.” Trương bàng hoàng, tưởng mình chiêm bao nhưng vẫn thành tâm chờ đợi. Một lúc Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng e thẹn, ngượng ngùng, nũng nịu… Không có vẻ nghiêm khắc như trước. Trương phơi phới lòng xuân, tưởng như mình được làm bạn với tiên, nhân gian đâu có con người như thế.

Thôi phu nhân nghe tin sai Hồng nương đến thăm. Oanh Oanh cũng viết thư hẹn tối đến thăm. Từ đó Oanh Oanh và Trương Quân Thụy bí mật đi lại, quan hệ với nhau như vợ chồng.

Tay suong ky
Hồng nương đưa Thôi Oanh Oanh đến gặp Trương Quân Thụy

Chuyện vỡ lở, Thôi phu nhân trách mắng Hồng nương, nhưng Hồng đã dùng lý lẽ thuyết phục phu nhân tác thành cho đôi trẻ. Bà nghe theo, nhưng bắt Quân Thụy phải vào kinh thi hội, đỗ đạt mới cho kết hôn. Hai người đau khổ chia tay nhau. Buổi tiễn đưa Trương, Thôi đọc mấy câu thơ:

Rẻ rúng thôi đành phận
Van lơn nhớ buổi đầu
Xin đem lòng lúc trước
Thương lấy kẻ về sau

[Bản dịch của Nhượng Tống kết thúc ở đây.]

Quân Thụy thi đỗ trạng nguyên, vâng lệnh triều đình lưu lại kinh đô làm quan. Oanh Oanh vui mừng khôn xiết và mong ước tái ngộ. Nhưng Trịnh Hằng lại phao tin Quân Thụy đã lấy vợ khác. Thôi phu nhân định cho Trịnh Hằng cưới Oanh Oanh, nhưng Quân Thụy về kịp, nhờ tướng quân Đỗ Xác phân giải. Đỗ Xác đứng ra làm chủ hôn cho Quân Thụy và Oanh Oanh.

Kim Thánh Thán về sau xếp Tây sương ký vào vị trí thứ 6 trong “Lục tài tử thư” (Sáu cuốn sách tài tử ưu tú).

Đoạn trường tân thanh, đoạn kể Thúy Kiều gặp Kim Trọng dưới trăng. Khi chàng “có chiều lả lơi”, nàng bảo người yêu:

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tầy Thôi, Trương

Và khuyên thêm:

Mái Tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Trong truyện của Nguyên Chẩn, Trương Quân Thụy phụ bạc bỏ Thôi Oanh Oanh nên Nguyễn Du mượn tích này viết: “Mái Tây để lạnh hương nguyền” để nói về mối tình dang dở.

Bích Câu kỳ ngộ:

Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung.

“Mái Tây” chỉ mối tình gây tai tiếng.

Tây Thi: một trong tứ đại mỹ nhân, chỉ bốn phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sắc đẹp của họ được ca ngợi qua 4 cụm từ nổi tiếng để tả mỹ nhân là trầm ngư, lạc nhạn, tu hoa, bế nguyệt, tức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Bốn người gồm có:

1/ Vương Chiêu Quân “chim sa”
2/ Tây Thi “cá lặn”
3/ Dương Quý phi “hoa nhường”
4/ Điêu Thuyền “nguyệt thẹn”.

Tay Thi
Tây Thi

Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, vốn tên là Thi Di Quang. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở Trữ La Sơn. Trữ La có hai thôn: Đông thôn và Tây thôn, phần nhiều là họ Thi. Vì nàng ở về Tây thôn nên gọi là Tây Thi (Người con gái họ Thi ở phía Tây).

Theo Ngô Việt Xuân Thu: Việt Vương Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho Ngô Vương Phù Sai. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn mong rửa được nhục thù. Đại phu Văn Chủng hiến 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để làm mê hoặc Vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm, tuyển được hai ngàn mỹ nữ, lại chọn hai người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Đán. Câu Tiễn sai Tướng quốc Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước hai nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ.

Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài cõi đón. Đường xá chật ních những người. Phạm Lãi liền để hai nàng ở nhà quán xá rồi truyền dụ rằng: “Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng tiền”. Chỉ trong một lúc mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, khác nào như tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài cõi ba ngày, tiền thu không xiết kể. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một lão nhạc sư đến dạy múa hát.

Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Đán cùng số mỹ nữ học múa hát đã được tinh xảo, Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho Vua Ngô là Phù Sai. Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy Vua Ngô, tâu rằng: “Đông hải tiện thần là Câu Tiễn cảm ơn đại vương, không thể đem thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy cố tìm khắp trong nước được hai mỹ nhân khéo nghề múa hát nên sai chúng tôi đem nộp vương cung để giữ việc quét rửa.”

Phù Sai trông thấy hai nàng, rất lấy làm hài lòng nhận lấy mỹ nữ. Tây Thi và Trịnh Đán được Phù Sai yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô Vương sủng ái hơn. Nàng đi dạo nơi đâu cũng dùng đồ nghi vệ theo địa vị phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi uất ức không nói ra, được hơn một năm đau chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở Hoàng Mao Sơn và lập đền thờ cúng.

Còn lại Tây Thi, Phù Sai cho lập Quán Khuê cung ở Linh Nham sơn, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra dạo, ngắm cảnh. Lại xây Đài Cô Tô cho nàng ở, xây cất Hưởng Điệp lan, Ngoạn Hoa Trì cho Tây Thi đến ngắm hoa, xây Giếng Ngô Vương cho nàng thưởng trăng và soi bóng mình dưới làn nước trong. Phù Sai lại lập cầm đài để Tây Thi ngồi đàn và Phù Sai thưởng thức những cung đàn tuyệt diệu của nàng. Phù Sai lại cho đào một con sông con ở trong thành, từ nam sang bắc rồi làm một chiếc buồm gấm để nàng Tây Thi dong thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và, còn rất nhiều nơi nữa, cứ mỗi lần nàng ngự đến là trở nên một di tích “lịch sử” mà Phù Sai sắp đặt kiến trúc cho.

Phù Sai từ khi được Tây Thi cứ ở luôn trên Đài Cô Tô, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì khác. Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận. Ngô Vương Phù Sai tự tử.

Có nhiều thuyết nói về kết cục của Tây Thi.

Mặc Tử cho rằng Tây Thi chính là do bị dìm trên sông.

Riêng Tình sử kể câu chuyện lãng mạn: trong trận tấn công nước Ngô, đốt phá Đài Cô Tô, Phạm Lãi đón rước Tây Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ đi ngao du trên Ngũ Hồ, cứ thế mà sống, không vướng bận chuyện nhân thế nữa.

Theo tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc, Câu Tiễn phu nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào, rồi đẩy xuống sông mà bảo rằng: “Nó là cái vật vong quốc, còn để làm gì!” Tiểu thuyết này còn phản bác cụ thể chuyện Phạm Lãi đem Tây Thi đi Ngũ Hồ.

Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau, nên cho trọn tình chung thủy. Truyện này thấy chép trong Tình sử. Có lẽ những nhà tiểu thuyết diễm tình giàu cảm, giàu tưởng tượng và cũng giàu lòng nhân đạo, thấy đôi trai tài gái sắc, nhất là đối với Tây Thi, một bậc sắc nước hương trời lại có công to với nước mà bị chết một cánh oan uổng, bi thảm như thế nên quá xúc cảm, viết thành câu chuyện kia để an ủi oan hồn của người đẹp chăng?

Xem thêm Ðào Công, Phạm Lãi.

Hồng lâu mộng, Lâm Đại Ngọc làm thơ vịnh Tây Thi (dịch thơ):

Trôi theo hoa sóng ngán cho đời
Luống để Vua Ngô nhớ thiếp hoài
Đừng bảo Đông Thi (A) nhăn mặt vụng
Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.

(A) Tương truyền Tây Thi nhăn mặt mà người ta vẫn thấy đẹp, còn có nàng Đông Thi rất xấu, bắt chước nhăn mặt, người ta trông thấy bỏ chạy.

Tây Vương Mẫu: Bà tiên cai quản các tiên nữ. Theo Tập Thiên lục, Tây Vương Mẫu, còn được gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Dao Trì Thánh Mẫu, Tây Vương Kim Mẫu, Kim Mẫu Nguyên Quân hoặc Vương Mẫu nương nương, là vị nữ thần rất nổi tiếng trong truyền thuyết từ thời cổ đại của Đạo giáo Trung Quốc. Cung Khuyết của Vương Mẫu trên núi Quy Sơn có thành dài ngàn dặm, lầu ngọc 12 tòa. Bên trái có Ao Dao Trì, bên phải có Sông Hoàn Thúy (tên Hán: Hoàn Thúy Thủy). Dưới chân núi có Sông Nhược Thủy (tên Hán: Nhược Thủy), bao quanh sóng cao nghìn trượng không có cách nào lên đến được. Vương Mẫu có vườn đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già, 3000 năm mới kết quả, thường có mở tiệc đào tiên mời chư tiên về dự.

Lần đầu tiên Tây Vương Mẫu được nhắc tới là trong cuốn Sơn Hải Kinh. Tương truyền, Vương Mẫu là thủ lĩnh của bộ tộc mẫu hệ, tuy nhiên đến thời Hán Vũ Đế, người ta miêu tả bà như một tiên nữ mặc trang phục hoàng hậu và là lãnh đạo của chúng tiên nữ.

Tay Vuong Mau
Tây Vương Mẫu

Cùng với sự phát triển của Đạo giáo, vào thời Đông Tấn, các truyền thuyết cho rằng Tây Vương Mẫu là con gái của Nguyên Thủy Thiên Tôn, tất cả các tiên nữ hoặc những người đắc đạo thành tiên là nữ đều thuộc quyển quản lý của bà.

Tây Vương mẫu được liệt vào hàng tứ thánh, ngang với ba vị thiên tôn Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Xem thêm mục: Tam Thanh.

Hoa Sơn (A) đề Vương Mẫu từ – Lý Thương Ẩn
Viết trên miếu thờ Vương Mẫu ở núi Hoa – Nguyễn Minh dịch thơ:

Dưới núi sen, miếu thờ khoá kín
Ao Dao Trì đường đến rất dài
Ma Cô (B) may gặp ngoài khơi
Khuyên cô trồng trúc, chớ hoài trồng dâu.

(A) Hoa Sơn còn gọi là Thái Hoa Sơn, nay trong Huyện Hoa Âm, Tỉnh Thiểm Tây.

(B) Ma Cô: tên tiên cô sống trên một trong ba núi tiên ngoài biển đông, từng nói thấy nương dâu biến thành biển, rồi lại biến thành nương dâu.

Hoa điểu tranh năng:

Nhớ xưa ở chốn đào viên
Bà Vương Mẫu mở Thọ Diên vui mừng.

tấc đất tấc vàng: Theo Nguyễn Văn Ngọc (2003), ngày xưa, ở một làng nọ có một lão nông cả đời gắn bó với ruộng đồng. Ông yêu quý mảnh đất của mình, luôn thỏa nguyện với công việc trồng cấy. Nhờ mảnh đất ấy, đời sống ngày một no đủ, con cái trong nhà trưởng thành. Tuy vậy, những đứa con ông tuy được hưởng hoa mầu từ ruộng vườn do tay ông lao động mà lại không mấy mặn mà với đất, đôi khi chểnh mảng việc đồng áng.

Một ngày kia, ông già bị bệnh nặng, nghĩ đến ruộng đất yêu quý rồi đây không ai cày xới thì lấy làm đau lòng. Biết mình không qua khỏi, ông gọi hai đứa con lại mà trối: “Trong đám đất nhà mình có chôn một hũ vàng, sau khi cha mất, các con gia công chịu khó cuốc xới lên tìm kiếm, chắc sẽ giàu to.”

Người cha mất rồi, anh em nhà nọ bảo nhau ra cuốc xới hết đám ruộng này sang đám ruộng khác. Mỗi lần cày xới chả thấy vàng đâu, họ đành bảo nhau trồng cây trên mảnh đất đó. Năm qua tháng lại, cuốc xới đất tơi xốp, lại chăm bón tưới nước đầy đủ nên lúa tốt bời bời, ngô sai bắp, khoai sai củ. Mùa thu hoạch đến, thóc chất đầy nhà, ngô khoai nhiều vô kể. Lúc ấy họ mới nghĩ ra rằng người cha quá cố của mình đã nói đúng: họ đã tìm thấy vàng trên mảnh ruộng của mình chính là cuộc sống no đủ mà tấc đất đem lại.

Ca dao:

Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.

Tấn Tần: chỉ việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công, còn Tần Mục Công gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.

Hoa tiên:

Trộm toan kén lứa chọn đôi
Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.

Ca dao:

Gặp đây hỏi khách Châu Trần
Còn không hay đã Tấn Tần cùng ai?

Xem thêm: Châu Trần.

Tấn Văn Công (697–628 tCN; trị vì 636–628 tCN): vị quân chủ thứ 24 của nước Tấn, chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người thứ tư trong năm người lần lượt làm bá chủ chư hầu. Xem thêm các mục: Ngũ BáXuân Thu Chiến Quốc.

Tấn Văn Công tên thật là Cơ Trùng Nhĩ, có một sự nghiệp khá lý thú: lưu vong 19 năm qua nhiều nước, được phò tá bởi các thủ hạ trung kiên, sau trở về lên ngôi vua nước Tấn, tạo nên nền móng cho sự hùng mạnh của nước Tấn trong cả thế kỷ về sau.

Trùng Nhĩ là con trai trưởng của Tấn Hiến Công, vua thứ 19 nước Tấn. Khi còn trẻ, Trùng Nhĩ đã tỏ ra kính trọng kẻ sĩ, được nhiều người quý mến theo giúp. Năm 17 tuổi, ông đã có 5 kẻ sĩ giỏi theo phò tá là Triệu Thôi, Hồ Yển, Giả Đà, Tiên Chẩn và Ngụy Sưu.

Trùng Nhĩ là con trai trưởng nhưng mẹ ông không phải là vợ chính của vua cha. Cho nên con trai phu nhân Tề Khương là Thân Sinh, tuy chỉ là con thứ 3, lại được lập làm Thế tử do là đích tử (con của chính thất).

Hiến Công sủng ái hai chị em Ly Cơ (sinh Hề Tề) và Thiếu Cơ (sinh Trác Tử), có ý định phế Thân Sinh để cho Hề Tề lên thay. Vì ba công tử Trùng Nhĩ, Di Ngô và Thân Sinh đã lớn mà Hề Tề còn nhỏ nên chưa tiện thay ngôi, Hiến Công bèn tính kế đưa ba con lớn đi trấn thủ ba nơi xa.

Năm 655 tCN, Hiến Công nghe lời gièm pha của Ly Cơ, giết Thân Sinh và lập Hề Tề làm Thế tử. Trùng Nhĩ và Di Ngô cũng bị Ly Cơ gièm pha, sợ hãi vội bỏ chạy về đất trấn thủ.

Tấn Hiến Công điều quân đuổi đánh hai người. Trùng Nhĩ kịp chạy thoát sang quê mẹ ở đất Địch. Nhiều người nước Tấn mến mộ ông bèn bỏ nước Tấn chạy theo phò tá ông.

Năm 652 tCN, sau khi đuổi Di Ngô sang đất Lương, Tấn Hiến Công lại đánh nước Địch để truy kích Trùng Nhĩ nhằm bảo vệ ngôi Thế tử sau này cho Hề Tề. Nước Địch là quê mẹ Trùng Nhĩ, vì Trùng Nhĩ mà mang quân ra chống cự. Quân Tấn không thắng được, phải rút lui.

Người nước Địch gả Quý Ngỗi cho Trùng Nhĩ, sinh được 2 người con.

Năm 651 tCN, vua cha Tấn Hiến Công qua đời. Đại phu Lý Khắc giết hai vua mới: trước là Hề Tề, sau là Trác Tử, rồi mời Trùng Nhĩ về làm vua. Trùng Nhĩ sợ vây cánh những người chống đối còn đông nên thác cớ bất hiếu không để tang cha mà từ chối trở về.

Di Ngô được làm vua mới, tức là Tấn Huệ Công. Năm 644 tCN, ông kết oán với nước Tần, sợ mọi người rước Trùng Nhĩ về, nên sai người ám sát ông. Có người báo tin cho Trùng Nhĩ, ông bèn bỏ nước Địch chạy sang nước Tề.

Trên đường qua nước Vệ, Trùng Nhĩ được Vệ Văn Công đón tiếp. Sau những ngày đói khổ, ông tới được nước Tề nương nhờ bá chủ Tề Hoàn Công. Trùng Nhĩ được Tề Hoàn Công hết sức trọng vọng và gả một người con gái trong họ là nàng Tề Khương cho làm vợ.

Năm 643 tCN, Tề Hoàn Công mất, các con tranh giành ngôi vua, trong nước biến loạn. Triệu Thôi và Cữu Phạm bàn nhau đưa Trùng Nhĩ đi nơi khác, nhưng ông quá yêu Tề Khương không muốn rời. Tề Khương bèn chuốc rượu cho Trùng Nhĩ say để Triệu Thôi đưa lên xe đi khỏi nước Tề.

Xe của Trùng Nhĩ qua nước Tào. Tào Cung Công đối xử không tốt với ông, nhưng ông được đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ chu cấp.

Đến nước Tống, ông được Tống Tương Công coi trọng, nhưng vì Tống vừa bị Sở đánh bại trong trận chiến giành quyền bá chủ nên Tống không thể giúp được gì.

Trùng Nhĩ bèn chạy sang nước Trịnh. Trịnh Văn Công không đón tiếp, ông đành chạy sang nước Sở. Sở vừa thắng Tống, rất trọng thị ông. Vua Sở mở yến tiệc thiết đãi, hỏi ông rằng sau này sẽ báo đáp nước Sở thế nào, Trùng Nhĩ trả lời rằng: “Nếu hai nước phát sinh chiến tranh, nước Tấn sẽ lui nhường nước Sở 3 xá [tức 90 dặm]”.

Đại tướng nước Sở là Thành Đắc Thần nghe câu trả lời này, đoán được chí lớn của Trùng Nhĩ và đề nghị Sở ra tay trước giết công tử này để trừ hậu họa, tuy nhiên Sở Vương từ chối độc kế này của Thành Đắc Thần.

Nước Tần giận Cơ Ngữ tự ý trốn về làm Vua Tấn Hoài Công thay vua cha Di Ngô Tấn Huệ Công, nên Tần Mục Công bèn sai sứ đến rước Trùng Nhĩ đến.

Trùng Nhĩ đến nước Tần, được Tần Mục Công gả cho 5 người con gái, trong đó có Hoài Doanh là vợ cũ của vua cháu Tấn Hoài Công.

Tháng 3 năm 636 tCN, Tần Mục Công sai quân đưa Trùng Nhĩ về nước, trở thành Tấn Văn Công. Tháng đó, Tấn Văn Công sai người giết Tấn Hoài Công.

Vây cánh những người chống lại Tấn Văn Công còn khá đông, cầm đầu là Lã Sảnh và Khước Nhuế vốn là bầy tôi gần gũi của Tấn Huệ Công. Hai người mưu ám sát ông và lập vua khác.

Tấn Văn Công mới về nước, sợ vây cánh họ Lã và họ Khước chưa diệt hết, bèn vi hành bí mật trở lại Tần để lánh nạn. Tần Mục Công đón tiếp ông, rồi bắt giết Lã Sảnh và Khước Nhuế. Sau đó Tần Mục Công sai quân hộ vệ Tấn Văn Công trở về nước Tấn lần nữa. Từ đó nước Tấn yên ổn.

Năm 636 tCN, Chu Tương Vương bị Vương tử Đái cướp ngôi, chạy sang lưu vong ở nước Trịnh và cầu cứu Tấn Văn Công. Năm 635 tCN, Tấn Văn Công mang quân đón Chu Tương Vương về đất nhà Chu, diệt Vương tử Đái. Chu Tương Vương được phục ngôi, ban cho Tấn Văn Công ngọc khuê và cung tên, rồi cắt đất Dương Phàn và Hà Nội cho Tấn Văn Công.

Năm 633 tCN, Sở Thành Vương mang quân bao vây nước Tống. Tống Thành Công cầu viện nước Tấn. Tấn Văn Công bèn lập 3 đạo quân, ra trận đánh quân Sở.

Đầu năm 632 tCN, Tấn Văn Công đánh nước Tào là chư hầu của Sở, đồng thời báo thù việc đối xử không tốt của Tào Cung Công trên đường lưu lạc trước đây. Tấn Văn Công định mượn đường nước Vệ nhưng Vệ Thành Công không cho, vì vậy ông chuyển sang đánh nước Vệ, đánh chiếm thành Ngũ Lộc.

Công tử Mãi chiếm giữ nước Vệ xin hòa với nước Tấn. Tấn Văn Công cho nước Vệ giảng hòa rồi mang quân đánh nước Tào. Quân Tấn vây hãm nước Tào trong 3 tháng, cuối cùng chiếm được thành, bắt sống Tào Cung Công.

Quân Sở vẫn đang vây hãm nước Tống. Tấn Văn Công có ơn với cả Vua Tống và Vua Sở trên đường lưu lạc nên phân vân khó xử chưa biết ủng hộ bên nào. Tiên Chẩn hiến kế bắt nước Tào và nước Vệ cắt đất cho nước Tống khiến Sở Thành Vương phải giải vây Tống sang cứu Tào và Vệ. Quả nhiên Sở Thành Vương rút quân khỏi nước Tống, muốn rút về nước và giảng hòa với Tấn. Tướng Sở là Thành Đắc Thần không đồng tình, nhất định đòi giao tranh với quân Tấn. Sở Thành Vương giận Đắc Thần, chỉ cấp cho ít quân.

Thành Đắc Thần sai sứ là Uyển Xuân đến gặp Tấn Văn Công, đề nghị phục ngôi cho Vua Tào và Vua Vệ thì quân Sở sẽ thôi đánh Tống. Tấn Văn Công bắt giữ Uyển Xuân, không đàm phán với Đắc Thần. Mặt khác, ông sai người ngầm giao hẹn với Vệ Thành Công và Tào Cung Công sẽ phục ngôi cho hai người nếu họ tuyệt giao với nước Sở. Vua Tào và Vua Vệ chấp nhận làm theo Tấn Văn Công.

Thành Đắc Thần thấy hai chư hầu Tào, Vệ tuyệt giao Sở để theo Tấn, nổi giận thúc quân đánh Tấn. Tấn Văn Công giữ đúng giao ước với Sở Thành Vương khi nương nhờ ở nước Sở, hạ lệnh quân Tấn lui 3 xá là 90 dặm để nhường quân Sở, tới Thành Bộc. Tuy nhiên Thành Đắc Thần đang hăng hái không chịu lui binh, tiếp tục thúc quân Sở tiến lên truy kích.

Cuối cùng. Quân Tấn đại thắng quân Sở.

Trịnh Văn Công nghe tin Sở bị Tấn đánh bại, bèn sai sứ đến xin quy phục nước Tấn. Tấn Văn Công đồng ý cho Trịnh giảng hòa.

Tấn Văn Công rút quân về, làm cung điện cho Chu Tương Vương, còn mang trăm cỗ xe bắt được của nước Sở và 1000 tù binh Sở dâng. Vua Chu phong ông làm bá chủ chư hầu. Từ đó Tấn Văn Công chính thức trở thành bá chủ.

Nghe tin Sở Thành Vương trách tội khiến Thành Đắc Thần phải tự tử, Tấn Văn Công mới hết lo việc chiến tranh với nước Sở. Ông phục ngôi cho Vua Vệ và Vua Tào.

Mùa đông năm đó, Tấn Văn Công lại hội chư hầu ở đất Ôn và sai sứ mời Chu Tương Vương tới hội chư hầu ở Hà Dương. Vì thiên tử đã suy yếu, Tương Vương phải đến theo triệu tập của nước Tấn. Sử ký viết về sự kiện này rằng: “Sử sách tránh việc bề tôi triệu kiến quân chủ, nên chỉ ghi: Thiên tử đi tuần thú ở Hà Dương”. Tấn Văn Công chủ trì chư hầu mà thề “tôn nhà vua, không được hại lẫn nhau”.

tất giao: sơn và keo dính chặt vào nhau. Theo truyền kỳ Trung Quốc, xưa có hai người bạn học tên là Lôi Nghĩa và Trần Trọng chơi thân với nhau. Cả hai cùng ứng thí. Lôi Nghĩa thi đậu, nhưng Trần Trọng lại trượt. Lôi Nghĩa thương bạn còn gia cảnh ngặt nghèo, muốn nhường tên bảng vàng cho Trần Trọng, nhưng không được quan trường chấp thuận. Lôi Nghĩa bèn giả điên để khỏi bị bổ làm quan.

Đến khoa thi sau, cả hai lại cùng đi thi và đều đỗ. Bấy giờ cả hai mới nhận áo mão triều đình cùng ra làm quan.

Người đời có câu ca ngợi tình bạn Lôi Nghĩa và Trần Trọng: “Tất giao vi kiên, bất như Lôi dữ Trần”, có nghĩa: keo sơn bảo là bền, chẳng bằng Lôi với Trần.

Đoạn trường tân thanh:

Một lời gắn bó tất giao
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.

Tầm Dương: tên con sông, một nhánh của Trường Giang thuộc Tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, chảy qua Huyện Cửu Giang đời Ðường, nằm sát Núi Lư (Tên Hán-Việt: Lư Sơn), một thắng cảnh và núi thiêng của Phật giáo, ngày nay được gọi là Cửu Giang (Jiujiang).

Bến Tầm Dương là bối cảnh cho kiệt tác Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Xem thêm mục: Tỳ bà hành.

Chinh phụ ngâm:

Bến Tầm Dương chàng còn ngoảnh lại
Chốn Tiêu Tương thiếp hãy trông theo.

Tần: tên nước thời Xuân Thu, ở vùng Thiểm Tây. Cũng là tên triều đại trước triều Hán do Tần Thủy Hoàng sáng lập. Triều Tần chỉ dài 15 năm, trải 2 đời, 3 vua (221–207 tCN).

Cần lưu ý rằng các triều đại ở Trung Quốc thường lấy tên vùng đất khởi nghiệp làm tên triều đại chứ không lấy họ nhà vua làm tên như ở ta.

Tần Cối (1091-1155): tể tướng dưới thời Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc, lãnh đạo của phái chủ hòa trong chiến tranh Tống–Kim. Ông thường bị hậu thế đánh giá là gian thần, Hán gian. Ông đỗ tiến sĩ rồi được bổ nhiệm vào chức quan cấp cao trong triều. Năm 1127, quân Kim tấn công chủ lực vào kinh đô Biện Kinh của Bắc Tống. Thái thượng hoàng Tống Huy Tông, vua đương nhiệm Tống Khâm Tông cùng bị quân Kim bắt giải về nước Kim, cùng với vợ chồng Tần Cối, một số quan lại triều đình, nhiều phi tần và vô số châu báu vàng bạc. Việc này xảy ra vào niên hiệu Tĩnh Khang thời Tống Khâm Tông, và người Tàu cho rằng sự kiện Tĩnh Khang là mối ô nhục nặng nề nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Giữa năm 1127, Khang vương lên ngôi ở Nam Kinh, trở thành Cao Tông triều Nam Tống. Kim chủ Ngô Khất Mãi sau đó đưa Tần Cối đến phục vụ cho người em là Thát Lại. Theo sự tích dân gian, Thát Lại cử Tần Cối về nam làm gian tế trong việc nghị hòa với triều Tống.

Năm 1130, lúc Thát Lại đang đi chinh chiến, Tần Cối về yết kiến Cao Tông, nói rằng mình đã cùng vợ là Vương thị và tì bộc nguyên một nhà giết giám ngục rồi cướp thuyền, theo đường biển mà trở về nam,. Các đại thần trong triều tỏ ý nghi hoặc, cho rằng triều sĩ nhiều vị bị bắt sao chỉ một Tần Cối trốn về được. Vả lại đường đi từ Yến Sơn đến Lâm An là 2800 dặm, tại sao người Kim sao không có ai truy bắt để Cối trốn thoát. Và Vương thị với Tần Cối bị giam ở hai nơi riêng biệt, sao có thể cùng trở về. Nhưng một số quan lại triều đình ra sức biện bạch, nói Tần Cối đáng tin dùng. Cao Tông mới phong Cối làm Lễ bộ Thượng thư.

Năm 1135, Kim chủ Thịnh chết, Thát Lại cầm đầu phe chủ hòa đang đắc thế ở Kim, nhân đó hai nước bàn việc nghị hòa. Tần Cối chủ trương nghị hòa với Kim, liên tục thuyết phục Cao Tông nghị hòa, được thăng làm tể tướng và nắm giữ mọi quyền hành trong triều. Ông ta loại trừ những người chống đối việc nghị hòa.

Năm 1140, Kim chủ sai Ngột Truật và Tản Li Hát chia quân hai lộ tấn công Tống. Một vùng lớn của triều Tống rơi vào tay người Kim chỉ trong có 1 tháng. Danh tướng Nhạc Phi cầm quân chống trả, đạt được một số thắng lợi ban đầu. Thấy Nhạc Phi thắng trận liên tục, Tần Cối rất lo lắng, sợ kế sách nghị hòa của mình thất bại. Ông ta mê hoặc được Cao Tông, không loại trừ đưa ra viễn cảnh: nếu Nhạc Phí dẫn quân đánh tới kinh đô nước Kim và đưa hai vua ông nội và cha Cao Tông về nước theo ý nguyện thì số phận Cao Tông sẽ lung lay (tức là địa vị Tần Cối sẽ lung lay theo). Vì thế mà Cao Tông bỏ qua thù nhà nợ nước, chỉ muốn bám lấy địa vị của mình để hưởng phú quý. Nước Kim vì bị Nhạc Phi đánh bại nên muốn tìm cách trừ khử vị danh tướng này, đưa ra điều kiện này cho việc nghị hòa. Vô hình trung, Nhạc Phi trở thành vật chướng ngại trong cả mưu đồ hai bên Tống và Kim.

Từ đó Cao Tông làm theo sách lược nghị hòa của Tần Cối, hạ lệnh triệu Nhạc Phi từ chiến trường trở về. Ban đầu Nhạc Phi không muốn về vì nghĩ theo nguyên tắc tướng ở mặt trận có khi không tuân mệnh vua. Vốn là nhà chỉ huy quân sự thuần túy, Nhạc Phi không nhìn ra yếu tố chính trị trong cuộc chiển Tống–Kim và quan hệ khúc mắc giữa Thái thượng hoàng Tống Huy Tông, cựu hoàng Khâm Tông và đương kim hoàng đế Cao Tông. Sau đó Cao Tông phát liên tiếp 12 đạo kim bài thúc giục Nhạc Phi về nhanh. Nhạc Phi không còn cách khác, đành nuốt nước mắt mà về. Tần Cối dùng âm mưu hiểm độc, tạo khẩu cung giả để bắt cha con Nhạc Phi và Trương Hiến giam vào ngục.

Các đại thần được lệnh xét án, thấu hiểu nỗi oan của Nhạc Phi nên treo mũ từ quan. Tần Cối giao việc xét án cho Vạn Sĩ Khiết. Sĩ Khiết có hiềm khích với Nhạc Phi, nên tra tấn rất mạnh mà Nhạc Phi vẫn không nhận tội. Cuối cùng thì làm một bản khẩu cung giả nữa, giao cho Tần Cối. Nhưng do chứng cớ chưa rõ ràng nên không thể xét tội. Việc này kéo dài đến tận cuối năm 1141. Việc để lâu ngày, nhiều đại thần lên tiếng phản bác và cầu xin tha cho Nhạc Phi. Hàn Thế Trung đích thân hỏi thẳng là Nhạc Phi phạm tội gì, Cối đáp: “Nhạc Vân, con của Phi, đi lại thư từ với Trương Hiến để bàn việc tạo phản, tuy không cớ chứng cớ, nhưng không có nghĩa là không có việc đó.”

Hàn Thế Trung tức giận nói: “Mấy chữ ‘không có nghĩa là không’ của ông thì mọi người sẽ nghĩ sao đây?” Tần Cối im bặt, không nói được lời nào.

Đầu năm 1142, nghe tin Lưu Doãn Thăng ở Kiến Khang thay mặt trăm họ kêu oan cho Nhạc Phi, Tần Cối cảm thấy bối rối. Vợ ông là Vương thị khuyên ông nên hạ thủ ngay với Nhạc Phi để tránh sinh lắm chuyện. Tần Cối nghe theo, sai giết Nhạc Phi trong ngục, Nhạc Vân và Trương Hiến bị chém ở chợ. Một số đại thần gần gũi với Nhạc Phi bị cách chức hoặc bị giết. sau vụ này Tần Cối được phong chức Thái sư, tước Công.

Sau đó, Kim chủ Đán lại phái Ngột Truật dẫn quân tiến xuống phía nam, lần này quân Tống không thể chống trả vì các tướng lĩnh quyết chiến đã bị Tần Cối loại trừ. Cao Tông sợ hãi, quyết định nghị hòa.

Tần Cối đáp ứng hết tất cả yêu sách của Kim: cắt đất, triều cống hàng năm, vua Tống nhận sắc phong và xưng thần với Kim chủ.

Tần Cối tiếp tục hãm hại vô số trung thần lương tướng không ăn cánh với mình, thay thế bằng lũ tay chân. Phần lớn các đơn hặc tội thời đó do Cối thao túng. Năm 1155, Tần Cối tiếp tục vu cáo trung thần, ép cung họ khai khống cả thảy 53 người âm mưu đại nghịch để định giết hết đi, nhưng việc chưa thành thì Cối bị bệnh nặng. Rồi Tần Cối chết, thọ 66 tuổi, được truy phong Kiến Khang quận vương.

Tần Cối thường bị quy trách nhiệm – cùng với vợ là Vương thị đã xúi giục chồng – cho cái chết của Nhạc Phi. Vì thế mà về sau, người Tàu làm hai tượng Tần Cối và Vương thị quỳ trước Nhạc Miếu và lăng mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu. Hai tượng này thường bị người đi viếng miếu nhổ nước bọt lên, và nhiều khi bị hủy hại rồi được đúc lại.

Về sau, danh từ chung “tần cối” chỉ gian thần mãi tìm cách mưu hại người tài.

Xem thêm: Nhạc Phi.

Tần Hoài: tên con sông từ Tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào Sông Trường Giang, liên quan đến bài thơ Bạc Tần hoài (Đỗ bến Tần Hoài) của Đỗ Mục (618-907).

Một đêm, Đỗ Mục ghé thuyền trên bến Tần Hoài gần một quán rượu, đêm đã khuya, hơi sương mù như khói tỏa trên mặt nước, bãi cát chiếu sáng lồng trong ánh trăng xanh. Bấy giờ trong quán, khách còn đang say sưa ăn uống, bên cạnh những ả hát xướng để mua vui cho khách. Lắng nghe giọng hát bên kia sông đưa sang, nhà thơ xúc cảnh sinh tình:

Bạc Tần hoài – Đỗ Mục,
Đỗ bến Tần Hoài – Khương Hữu Dụng dịch thơ:

Nước lồng khói tỏa, cát trăng pha
Thuyền đỗ Sông Hoài cạnh tửu gia
Con hát biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát Hậu đình hoa.

Về khúc ca Hậu đình hoa, xem mục: Hậu đình hoa.

bac-tan-hoai

Ca khúc Đêm tàn bến Ngự – Dương Thiệu Tước

Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Ôi! vẳng nghe tiếng ai âm thầm trầm ngân!

Tần Mục Công (? – 621 tCN, trị vì 659–621 tCN): vị quân chủ thứ 14 của nước Tần, chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông, là người thứ ba trong năm người lần lượt làm bá chủ chư hầu. Xem thêm các mục: Ngũ BáXuân Thu Chiến Quốc.

Tần Mục Công là người đưa nước Tần từ vị trí một chư hầu xa xôi hẻo lánh ở phía tây-bắc Trung Quốc vươn lên địa vị bá chủ thời Xuân Thu. Là người trọng nhân tài, Tần Mục Công thu phục và sử dụng nhiều danh thần người ngoài nước Tần như Bách Lý Hề, Kiển Thúc, Công Tôn Chi, Phi Báo. Ông nhiều lần giao chiến với nước Tấn hùng mạnh ở hướng Đông và thôn tính các bộ tộc Tây Nhung về hướng Tây. Những cuộc chinh phạt của Mục Công giúp ông được xưng tụng trong sử sách là một trong Ngũ Bá tiêu biểu nhất của thời Xuân Thu.

Tần Mục Công là em của Tần Thành Công, quân chủ thứ 13 nước Tần.

Năm 660 tCN, Tần Thành Công mất. Mặc dù Thành Công có nhiều con trai nhưng không rõ tại sao không người nào được nối ngôi, mà ngôi vua lại được truyền cho em là Nhậm Hảo, tức Tần Mục Công.

Năm 656 tCN, Tần Mục Công sang nước Tấn, lấy con gái Tấn Hiến Công là Mục Doanh. Năm 655 tCN, Tấn Hiến Công diệt nước Ngu và nước Quắc, bắt được đại phu nước Ngu là Bách Lý Hề. Vua Tấn cho Bách Lý Hề làm người hầu cho Mục Doanh, theo Tần Mục Công về nước Tần.

Bách Lý Hề từ nước Tần trốn sang đất Uyển, bị dân biên giới nước Sở bắt được. Nghe tiếng Bách Lý Hề có tài, Tần Mục Công sai người sang chuộc Bách Lý Hề về Tần, nhưng sợ nước Sở biết là người giỏi, nên ông chỉ dùng 5 bộ da dê để chuộc. Người nước Sở bằng lòng cho Bách Lý Hề về Tần.

Tần Mục Công đích thân ra đón rước và trọng dụng Bách Lý Hề. Bách Lý Hề tiến cử Kiển Thúc, Mục Công cũng phong Kiển Thúc làm Thượng đại phu. Từ đó, hai người giúp Tần mạnh lên.

Năm 655 tCN, cha vợ Tần Mục Công là Tấn Hiến Công truất Thế tử Thân Sinh (em trai phu nhân Mục Doanh), lập Hề Tề làm Thế tử. Hai người anh em vợ của Mục Công là Trùng Nhĩ và Di Ngô cũng phải bỏ trốn sang nước ngoài. (Xem chi tiết ở trên.)

Tần Mục Công đem quân đưa Di Ngô làm vua, tức Tấn Huệ Công. Ông này không muốn cắt Hà Tây như đã giao hẹn, bèn sai đại phu Bì Trịnh đi sứ nước Tần, nói thác cớ đất Hà Tây là do vua cha mở mang, không dám tự cắt. Tần Mục Công vô cùng tức giận.

Năm 647 tCN, nước Tấn mất mùa, xin thóc của nước Tần. Tần Mục Công bằng lòng giúp vì chỉ ghét Huệ Công chứ không ghét dân Tấn.

Sang năm sau, nước Tần bị mất mùa, Tần Mục Công nhớ đến việc năm trước, bèn sai sứ sang xin mua thóc của nước Tấn. Tấn Huệ Công không cho, lại còn khởi binh đánh Tần để nhân Tần bị đói mà diệt Tần.

Tần Mục Công điều quân ra đón đánh. Cuối cùng, ông đánh bại quân Tấn một trận lớn và bắt sống được Tấn Huệ Công.

Tần Mục Công muốn giết Tấn Huệ Công, nhưng Chu Tương Vương là người cùng họ với nước Tấn đứng ra xin cho Vua Tấn. Chị Huệ Công là vợ Mục Công cũng xin tha mạng cho em. Tần Mục Công bèn thả Tấn Huệ Công, bắt phải ăn thề ở Vương Thành và cho về.

Tháng 8 năm 645 tCN, Tấn Huệ Công dâng dất Hà Tây như đã cam kết và cho Thế tử Ngữ sang làm con tin nước Tần, được Tần Mục Công gả con gái (Hoài Doanh) cho. Từ đó cương thổ nước Tần đến giáp với sông Hoàng Hà.

Khi Mục Công lên ngôi, nước Tần tiếp tục mở mang bờ cõi về phía Tây, cho quân dần xâm lấn vào các bộ lạc Tây Nhung. Năm 623 tCN Mục Công cử đại binh tấn công Tây Nhung và giành thắng lợi lớn khiến cho 20 tiểu quốc ở đây quay sang quy phục nước Tần, khiến cho biên giới nước Tần được mở rộng chưa từng có,

Danh tiếng bá chủ Tây Nhung của Tần Mục Công làm vang dội chư hầu và ông được coi là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, tuy nhiên vì ông chỉ hùng cứ phía Tây chứ không đủ sức tiến xuống Trung Nguyên nên cũng có thuyết không xếp ông vào hàng ngũ Ngũ Bá.

Tuy vậy, Tần Mục Công tạo tiếng vang lớn khi hỗ trợ cho Công tử Trùng Nhĩ về nước lên ngôi là Tấn Văn Công, như kế ở trên.

Sai lầm của Tần Mục Công là vào năm 627 tCN, không nghe lời can ngăn của Bách Lý Hề và Kiển Thúc, phong hai con của hai người này làm tướng dẫn quân đánh Tấn. Quân Tần thua to.

Năm 625 tCN, Tần Mục Công lại sai quân quân đánh Tấn báo thù. Quân Tấn đánh bại quân Tần lần thứ hai.

Năm 624 tCN, Tần Mục Công thân dẫn quân đi đánh nước Tấn. Quân Tấn cố thủ trong thành không ra giao chiến, Mục Công bèn dẫn quân Tần đi thu nhặt hài cốt của lính Tần tử trận trước kia rồi quay về nước.

Năm 623 tCN, Tấn Tương Công mang quân đánh Tần để báo thù trận Vương Quan. Quân Tấn đánh chiếm đất Tân Thành của nước Tần.

Do chiến bại dưới tay Tấn vì tự ra quyết định, Tần Mục Công không đủ sức tranh ngôi minh chủ của Tấn.

Tần Thiếu Du: người đời Tống, học rộng nhưng tính kiêu ngạo, vi có tài nên được cử làm chức Hán lâm học sĩ, giữ việc chép sứ với Tô Triệt, Tô Thức. Sau lấy em hai ông này.

tên: người thời nay về tên mỗi người chỉ có một tên riêng gồm họ, tên và có thể có thêm tên lót. Người thời xưa có tên phức tạp hơn. Thời xưa, ở Trung Quốc, tầng lớp quý tộc quan lại, ngoài họ tên chính thức, khi lớn lên người ta thường đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu.

* Tên riêng (danh): do ông, bà, cha, mẹ đặt cho. Việc đặt tên cũng có những phép tắc nhất định, như thời nhà Chu, cách đặt tên của tầng lớp quí tộc được quy định: trẻ nhỏ thường phải sau khi sinh ra được 1 tháng hoặc 100 ngày mới được đặt tên riêng (danh). Thời cổ đại, tên người (danh) thường được đặt đơn giản và người ta lấy can chi đặt làm danh, đó có thể là có liên quan đến sự coi trọng thời gian của người đương thời. Sau này, theo sự phát triển của văn hóa và ngôn ngữ văn tự, tên người ngày càng được đặt một cách phong phú hơn. Hoặc có người lại cố tình đặt cho con những tên xấu để cho phù hợp với sự quan niệm là dễ nuôi và không bị chết yểu.

* Tên chữ (tự): thường là giải thích và bổ sung cho danh, giữa danh và tự có mối liên hệ chặt chẽ về ý nghĩa, biểu thị sự hô ứng và bổ sung cho danh, nên còn được gọi là biểu tự. Tên tự được đặt khi đã thành niên và thường do cha mẹ hoặc bề trên đặt cho, cũng có khi do chính bản thân tự đặt. Việc đặt tên tự là chứng tỏ người đó bắt đầu được mọi người trong xã hội công nhận và tôn trọng. Khi đặt tên tự, người ta thường căn cứ vào danh để chọn từ tương ứng mang ý nghĩa liên quan và phụ trợ cho danh, như: Gia Cát Lượng có tên tự là Khổng Minh (lượng là sáng còn khổng minh là rất sáng). Có trường hợp tự và danh được lấy câu chữ trong cổ thư, như Tào Tháo thời Tam Quốc, tự là Mạnh Đức lấy từ câu trong Tuân Tử: phù thị chi vị đức tháo (dịch nghĩa: đó là phẩm hạnh của đức).

Danh và tự của người xưa còn được dùng để chỉ quan hệ thứ bậc trong gia tộc, biểu thị anh em trong gia đình, và người ta thường có thêm chữ bá (mạnh) là lớn, trọng là thứ hai, thúc là em, quý là út; như Bá Di, Thúc Tề, Trọng Hối, Mạnh Đức, v.v..

* Tên hiệu (hiệu): tên gọi được đặt khi người ta đã thực sự trưởng thành. Giới sĩ phu và văn nhân thời phong kiến thường có tên hiệu hoặc biệt hiệu của mình. Tên hiệu là do người sử dụng tự đặt, không hề bị chi phối bởi gia tộc, thứ bậc trong gia đình. Thông qua việc đặt tên hiệu, hoặc biệt hiệu, người ta có thể tự do gửi gắm tư tưởng và tình cảm, biểu lộ chí hướng và hoài bão, thể hiện sở thích của mình trong cuộc sống. Cũng có khi, biệt hiệu được người đương thời gán cho, dùng quen thành như tên vậy.

Việc đặt tên hiệu hoặc biệt hiệu đôi khi còn để mang dấu ấn địa phương, quê hương bản quán của mình. Một người có thể thay đổi khá nhiều tên hiệu hoặc biệt hiệu, và thông qua sự thay đổi này có thể hiểu được quan niệm sống, tâm tư tình cảm và tư tưởng của người đó trong cuộc sống ở các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng có người chọn hiệu hoặc biệt hiệu chỉ là học đòi làm sang, chứ không hề phù hợp với thân thế và sự nghiệp của họ chút nào.

* Tên thụy (thụy): thường do vua ban cho một vị quan khi người này từ trần. Tên thụy nói lên tư cách hành vi của vị quan lúc sinh thời. Thường thì chỉ có những tư cách hành vi tốt thôi (thụy nghĩa là tốt); tốt nhưng phù hợp với sự thật. Lê Lai là một ví dụ hay: Vua Lê Thái Tổ ban cho Lê Lai tên thụy là Toàn Nghĩa.

Đại Việt sử ký toàn thư có ghi tên thụy của những vị quan lừng lẫy. Còn những vị ít nổi tiếng hơn, vua cũng có ban tên thụy, nhưng sách sử không ghi. Không ghi vì họ không biết; chỉ có con cháu của các quan mới kính cẩn ghi tên vua ban vào gia phả.

Gia phả Việt Nam thường viết tên thụy, tên hiệu, tên tự liền vào nhau. Không hợp lý: tên thụy chỉ có sau khi chết. Đáng lẽ phải viết tên thụy sau cùng.

Dưới đây là ví dụ về các tên của một số nhân vật nổi tiếng.

ten_vi du

Tết Đoan Dương: cũng được gọi là Tết Đoan Ngọ. Theo phong tục Tàu, tết này ăn vào ngày mồng 5 tháng 5, vì quan Đại phu nước Sở (một nước chư hầu thời Xuân Thu, ở vào địa phận Tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ) là Khuất Nguyên trầm mình tự tử tại Sông Mịch La vào ngày mồng 5 tháng 5. Từ ấy, mỗi năm đến ngày tháng này, người Tàu tổ chức cuộc lễ đua thuyền ngụ ý vớt xác Khuất Nguyên vì cảm mến kẻ trung thần. Tục ấy lâu ngày thành lệ vui chơi. Xem thêm: Khuất Nguyên.

Tết Trùng Cửu: theo phong tục của Tàu, Tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9.

Nguyên đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người Huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: “Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du [một loại tiêu], uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn.”

Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy.

Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.

Vì tích trên, nên về sau hằng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn… Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ.

Sách Phong Thổ Ký lại chép: Cuối đời nhà Hạ (2205-1818 tCN), Vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà Vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông.

Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn… Tục ấy thành lệ.

Đến đời Hán Văn Đế (176-156 tCN), Vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà Vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy.

Sau đến đời nhà Đường (618-907), ngày mồng 9 tháng 9 thành ngày lễ tết gọi là Trùng Cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh.

Cổ thi có câu: Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao.

Đăng cao là lên chỗ cao. “Trùng cửu” và “Đăng cao” đều do điển tích trên.

Tề Hoàn Công (715–643 tCN; trị vì 685–643 tCN): vị quân chủ thứ 16 của nước Tề, chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông, là người thứ nhất trong năm người lần lượt làm bá chủ chư hầu. Xem thêm các mục: Ngũ BáXuân Thu Chiến Quốc.

Để gây dựng nghiệp bá, Tề Hoàn Công được sự giúp đỡ đắc lực của Quản Trọng. Nước Tề ở miền Sơn Đông ngày nay, thời đó đã chiếm được hết bán đảo Sơn Đông, đất đai rất rộng, có núi, có biển, có nhiều tài nguyên (quan trọng nhất là muối), kinh tế và thương mại thịnh nhất: chở đồng, sau này thêm sắt nữa, từ phương nam lên bằng thuyền theo các con sông, để bán cho cả miền bắc Trung Hoa; muối thì bán cho cả miền Đông Trung Hoa. Tề lại đúc những đồng tiền đầu tiên. Nhờ vậy mà Tề giàu nhất, và hễ giàu thì văn hóa cũng cao, vượt hẳn nhà Chu.

Những tiến bộ đó phần lớn là nhờ công lao của Quản Trọng, nhà chính trị có tài nhất thời Xuân Thu, được Vua Tề rất trọng vọng. Tuy Quản Trọng xuất thân trong giới bình dân nhưng Hoàn Công dùng làm tướng quốc, quyền hơn cả các “cha anh” của nhà Vua.

Quản Trọng biết trọng lễ nghĩa liêm sỉ, lại có tài chính trị khi hiệu triệu các chư hầu thề với nhau (minh thệ) cùng “tôn vương” tức tôn Vua Chu, và “nhương di” tức chống sự xâm lăng của các bộ tộc ở vùng biên cương mà người Tàu cho là man di.

Lễ nghi rất tôn nghiêm. Các chư hầu họp nhau trên một cái “đàn”, người ta lớn tiếng khấn quỷ thần, đọc bản văn lời thề, giết một con trâu rồi chôn bản văn đó với xác con trâu hay máu của nó. Mỗi người quệt vào môi một ít máu trâu rồi lớn tiếng thề.

Cần nhất là phải giữ chữ tín, thì các chư hầu mới đoàn kết và xã hội mới khỏi loạn. Có thể vì vậy mà sau này Khổng Tử đề cao đức tín, đặt nó gần ngang hàng với nhân, lễ, nghĩa, coi nó là đức cần thiết của người quân tử (người trị dân). Đó là một nét đặc biệt của đạo Khổng, và một số học giả phương Tây ngày nay cũng nhận rằng không dân tộc nào trọng đức tín bằng dân tộc Trung Hoa.

Tề Hoàn Công đem quân đuổi bộ tộc Địch, giúp Vệ lập lại được nước, nên được chư hầu tin. Nước Sở vì bội lỗi thề, ông họp chư hầy đem quân phạt Sở. Như vậy, bất chấp thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu, nhưng ông có công với Trung Quốc, cho nên đời sau, Khổng Tử cũng phải khen ông trong Luận Ngữ: “Quản Trọng giúp Hoàn Công, khiến Hoàn Công làm bá các chư hầu, thiên hạ quy về một mối, nhân dân đến ngày nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì ngày nay chúng ta phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như người Di Địch) rồi.”

Để được các nước sợ phục, Tề đóng vai trò người cứu giúp các nước bị xâm lấn và lập lại “công bằng” giữa các chư hầu. Tề Hoàn Công đem quân đuổi người Địch ngoại tộc, giúp nước Vệ lập lại được nước; lại giúp Yên Trang Công đánh diệt các nước Cô Trúc và nước Nhung xâm lấn. Do đó, nước Tề được chư hầu tin. Nước Sở vì bội lời thề, Vua Tề họp chư hầu đem quân phạt Sở. Như vậy, Vua Tề bất chấp thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu.

Sau Tề Hoàn Công, các chư hầu nổi lên làm bá cũng noi theo gương, kết hợp hoạt động quân sự và chính trị để khiến các nước khác nể sợ và suy tôn mình.

Tề Kỷ: Sư Tề Kỷ họ Hồ là một thi sĩ sống vào cuối đời nhà Đường và đầu thế kỷ thứ 10. Ông sinh tại Trường Sa Tỉnh Hồ Nam. Mồ côi từ thuở nhỏ, ông xuất gia tu học Thiền Tông tại chùa Đồng Khánh trên núi Đại Khuê (?). Sau trụ trì tại chùa Chi Long Hưng tại Giang Lăng, Tỉnh Hà Bắc. Thơ của sư Tề Kỷ hơn 800 bài được sưu tập trong 10 quyển Bạch liên tập và có thể tìm thấy trong Toàn Đường thi chương 838 đến 847.

Tề nhân: Người nước Tề. Sách Mạnh Tử ghi: Người nước Tề, nhà có vợ cả và vợ lẽ, người chồng cứ mỗi lần ra đi thì rượu thịt no say rồi trở về nhà. Vợ cả hỏi chồng cùng ăn uống với những ai thì anh chồng nói là cùng ăn toàn với những bậc giàu có sang trọng cả. Vợ cả bảo vợ bé rằng: “Chồng ta ra đi rượu thịt no say trở về, hỏi cùng ăn uống với ai thì bảo cùng ăn uống với toàn những bậc giàu sang mà sao không thấy một người giàu sang nào đến chơi nhà. Hay ta thử dò xem chồng ta đi những đâu.” Sáng sớm hôm sau, vợ cả dậy lén đi theo chồng, đi cùng khắp ngõ ngách trong thành mà chẳng thấy người nào dừng lại chuyện trò với chồng mình cả. Cuối cùng, anh chồng đi đến nghĩa địa ở phía đông ngoại thành, đến gần những người đang cất mộ tế lễ xin ăn những cơm thừa, canh cặn, ăn chưa nó lại mong ngóng đến xin ăn đám khác. Ðó là cách rượu thịt no say của chồng.

Vợ cả về nhà kể chuyện cho vợ bé nghe rồi cả hai ngồi trông nhau mà khóc và xỉ mắng chồng. Anh chồng vẫn chưa biết chuyện, ngật ngưỡng ở ngoài bước vào, vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ.

Đặc ngữ Tề nhân của người Tàu chỉ kẻ có sĩ diện hão lại lắm tật khoe khoang.

Tề Thiên Ðại Thánh: tức Tôn Ngộ Không, nhân vật chính trong Tây Du ký. Ngộ Không vốn là một con khỉ nở từ đá mà ra, cầu tiên học đạo có nhiều phép lạ, từng xuống thủy cung yêu sách Long Vương, xuống âm cung xóa sổ Diêm Vương. Trời vời lên làm Bật Mã ôn (Chức coi ngựa nhà trời). Ngộ Không không chịu, làm náo động thiên cung rồi bỏ về. Mấy tướng nhà trời muốn bắt đều bị đánh bại. Trời phải phong cho làm Tề Thiên đại thánh (Thánh to bằng trời). Sau, Ngộ Không quy Phật, cùng Ðường Tam Tạng sang Tây Trúc thỉnh kinh.

tệ: trong lĩnh vực tài chính, ngày xưa chỉ bất kỳ vật gì có thể thay tiền. Sử ký viết về triều Hán: “Trong việc đúc tiền và nấu muối, có những người có hàng vạn cân vàng nhưng họ vẫn không giúp nước nhà trong lúc nguy cấp và dân nghèo lại càng nghèo khổ. Do đó, thiên tử và cửu khanh bàn nhau thay đổi tiền làm ra tệ để chi dùng đồng thời trừng trị bọn hoang dâm và bọn chiếm đoạt.”

Vì thế mà cụm từ tiền tệ tổng hợp cả hai loại hình liên quan đến tài chính.

tham bát bỏ mâm: Bát chỉ là phần nhỏ nằm trong cái mâm. Thế mà có người muốn giành lấy một bát, quên rằng mâm còn nhiều món khác. Đó là tư tưởng tầm thường, được miếng nào hay miếng ấy, không biết nhìn xa trông rộng.

Vì lẽ đó, thành ngữ cũng được dùng để phê phán lối nhìn thiển cận, tư tưởng manh mún, thiếu tính toán. Bỏ được tư tưởng tham bát bỏ mâm thì mới có thể tiếp cận được lối làm ăn lớn.

thang mây: thang bằng mây dùng để leo thành cao. Thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống. Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn Vua Sở: “Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì!”

Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử tiếp: “Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì?”

Vua Sở hăm hở: “Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ!”

Mặc Tử cười khẩy: “Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.”

Vua Sở bực tức, nói: “Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?”

Mặc Tử đáp: “Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không.”

Vua Sở đồng ý cho thử trận. Đúng như lời Mặc Tử, quân lính dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.

Sở Kinh Vương cả giận, nói với Mặc Tử: “Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.”

Mặc Tử hiểu ý Vua Sở, trả lời: “Cách của nhà Vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hóa cái thang mây sáng chế của nhà Vua rồi.”

Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.

Đoạn trường tân thanh:

Thang mây rón bước ngọn tường
Phải người hâm mộ rõ ràng, chăng nhe.

Thanh bình điệu: có nghĩa (“Khúc hát thanh bình”), một điệu nhạc danh tiếng được mọi người ái mộ dưới đời Đường.

Theo Nhạc sử, trong cung Đường Minh Hoàng mới trồng một loài hoa mẫu đơn rất quý, được gọi là mộc thược dược. Ngày hoa nở đầu tiên, Minh Hoàng đưa Dương Quý phi đến thưởng hoa. Ban nhạc do nhạc trưởng Lý Quý Niên điều khiển, toan bắt đầu đàn hát, Đường Minh Hoàng ngăn lại và nói: “Thưởng danh hoa, đối phi tử, sao lại dùng những bài hát cũ?” Rồi Minh Hoàng truyền Lý Quý Niên cầm giấy hoa vàng đòi Lý Bạch đến, bảo Lý Bạch làm ngay ba bài Thanh bình điệu. Bấy giờ Lý Bạch còn say rượu (có nơi nói Dương Quý phi phải phun nước lạnh vào mặt mới bàng hoàng tỉnh lại) liền vung bút viết ngay ba bài. Cả Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi đều rất hài lòng.

Thanh bình điệu kỳ 2 có hai câu, Trần Trọng San dịch thơ:

Hỏi nơi cung Hán ai người giống?
Phi Yến còn nhờ mới điểm trang.

Hai câu trên gây ra một biến cố nhỏ. Cao Lực sĩ vốn có ác cảm với Lý Bạch, nhân bài hát này dèm pha với Dương Quý phi rằng Lý Bạch có ý ngạo mạn khi so sánh Dương Quý phi với nàng Triệu Phi Yến, một phi tần dâm đãng của Hán Thành Đế. Có một điểm tế nhị khác là Dương Quý phi có khổ người mập mạp trong khi Triệu Phi Yến có thân hình ẻo lả, nên Quý phi cho rằng mình bị chê bai, chí ít thì cảm thấy tự ti, từ đó không ưa Lý Bạch.

Vì thế mà nhiều lần Minh Hoàng muốn phong quan chức cho Lý Bạch nhưng vẫn không thành, vì Dương Quý phi cản trở. Lại do tính gàn dở thiếu tề chỉnh, say xỉn suốt ngày, khó có tư cách làm quan, Lý Bạch không tiến thân được ở Trường An, phải xin vua trở về quê, rồi đi ngao du, vui với danh lam thắng cảnh của miền trung và nam Trung nguyên.

Thanh bình điệu quả là một bài thơ định mệnh. Được quân vương sủng ái, đãi ngộ như tân khách cũng nhờ nó, mà công thành dở dang cũng vì nó. Nhưng có lẽ tiền định cả. Trời cao đã không để cho Lý Bạch say men chính quyền hay nhẹ bước đường mây. Bắt Lý Bạch phải say rượu, say thú phong lưu, say văn chương thi phú, phải dang dở trên đường tiến thân, thì hậu thế mới được thưởng thức mấy ngàn bài thơ trác tuyệt, văn học sử Trung Hoa mới có nhà thơ tiên của vạn đời.

Ly Bach_Thanh binh dieu

Xem thêm mục: Lý Bạch.

thanh chiên: có nghĩa thảm xanh, chỉ của báu gia truyền. Sách Thế thuyết tân ngữ kể rằng: Một đêm, Vương Tử Kính đang nằm trong phòng thấy bọn trộm kéo đến khuân hết đồ đạc đi. Tử Kính bèn bảo chúng: “Các thứ khác thì có thể lấy nhưng hãy để lại tấm thảm xanh vì đó là vật kỷ niệm của nhà ta.”

Vĩnh vi thanh chiên: Mãi mãi là của báu gia truyền.

thanh mai trúc mã: trẻ con Trung Hoa thường bẻ cành trúc giả làm ngựa cưỡi, do đó mới có danh từ “trúc mã”; bẻ cành mai xanh làm roi ngựa nên có danh từ “thanh mai”. Thanh mai là cây cùng chi với cây táo, trái dùng để làm xí muội hoặc ô mai.

Thanh mai trúc mã lấy lời và ý từ bài thơ Trường Can hành của Lý Bạch (701-762) đời Đường. Đây là một thiên diễm tình bằng thơ ngũ ngôn dài 30 câu.

Trường Can hành kỳ 1 – Lý Bạch
Bài hát Trường Can kỳ 1 – Trúc Khê dịch thơ:

Tóc em mới kín trán
Trước cửa bẻ hoa đùa
Chàng cưỡi ngựa trúc lại
Quanh ghế tung mơ chua.

Cùng ở xóm Trường Can
Đôi trẻ vui tha hồ
Mười bốn làm vợ chàng
Thơ ngây em hổ thẹn

[…]

Tháng tám bươm bướm vàng
Bay đôi trên áng cỏ
Xúc cảm em đau lòng
Héo già thương má đỏ.

Chàng sớm rời Tam Ba (A)
Báo trước thư về nhà
Đón chàng em há quản
Đến tận Trường Phong Sa (B)

(A): Tam Ba là Ba Đông, Ba Quận và Ba Tây, phía đông Tỉnh Tứ Xuyên, chỉ những nơi chồng đi qua trên đường về.

(B) Trường Phong Sa: một vùng thuộc Tỉnh An Huy, cách Trường Can là quê chàng và nàng 700 dặm. Ý nói dù đường có xa đến như thế nàng vẫn không ngại.

Bài thơ kể: Thuở nhỏ, cùng ngụ xóm Trường Can, chàng và nàng thường nô đùa bên nhau một cách vô tư. Năm mười bốn tuổi, nàng về làm vợ chàng, lúc nào cũng e thẹn, nghìn lần gọi cũng không một lần dám quay đầu lại. Năm mười lăm tuổi mới bắt đầu dám đưa mắt nhìn nhau mà hứa suốt đời gắn bó với nhau. Chàng nguyện sẽ làm như gã Vỹ Sinh, thà để cho nước thủy triều dâng ngập ở chân cầu (là nơi hẹn hò) chứ nhất định không rời nếu nàng chưa đến.

Nàng thề sẽ làm hòn vọng phu chờ cho đến khi chàng trở về, nếu một mai chàng phải ra đi. Năm nàng mười sáu thì chàng phải đi xa thật. Nàng trông chờ mỏi mòn, nhìn ra trước cửa thì dấu chân chàng rêu đã in đầy. Tháng tám, nàng nhìn bướm vàng bay từng đôi mà sinh lòng thương cảm, làm cho dáng người tiều tụy. Nàng mong chàng gửi thư cho biết khi nào trở về để nàng đi đón, dù có xa bảy trăm dặm đường đến Trường Phong Sa vẫn không nản lòng.

Lời nàng thì như thế nhưng bao giờ chàng về hoặc chàng có về hay không thì nhà thơ bỏ ngỏ. Nếu chỉ hiểu mấy tiếng thanh mai trúc mã trong phạm vi mấy câu đầu thì đó quả là sự quấn quýt vô tư giữa con trai và con gái lúc còn thơ nhưng toàn bài thì lại là cả một mối tình ngọt ngào.

Về sau, thanh mai trúc mã chỉ những cặp trai gái từ thuở nhỏ đã quen biết nhau, khi lớn lên có cơ may kết duyên với nhau.

Thanh Minh: tên một thời tiết, tức là một khoảng thời gian phân định sẵn trong lịch Tàu.

Lịch cổ nước Tàu chia một năm ra làm 8 tiết, gọi là “Bát tiết”: lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.

Lịch Kim (tức là lịch đời Hán trở lại) của Tàu thì chia năm ra làm 24 Khí hoặc Tiết. Cứ ba ngày là một Hậu; 5 Hậu là một Khí hoặc Tiết. Một năm có 24 Khí hoặc Tiết. Mỗi tháng chia làm 2 Khí. Khí nhằm vào những ngày đầu tháng thì gọi là Tiết Khí. Khí nhằm vào giữa tháng thì gọi là Trung Khí. Tiết Khí và Trung Khí thường gọi tắt là Tiết và Trung.

Đoạn trường tân thanh, đoạn tả cảnh Thanh Minh:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

“Thanh minh trong tiết tháng ba” là do câu Thanh minh tam nguyệt tiết, nghĩa là: Tiết thanh minh đầu tháng ba.

Theo cách dùng thuật ngữ của Tàu thì chỉ nói “Tiết tháng ba” hay Tam nguyệt tiết tức Tam nguyệt khí tiết thì người ta hiểu ngay là nói đầu tháng ba. Vì tiết đây là tiết khí nói tắt, mà tiết khí nghĩa là thời tiết nhằm đầu tháng. Vậy thì “trong tiết tháng ba” có nghĩa là “vào đầu tháng ba”.

Tục Tàu, nhân tiết Thanh Minh, người ta tổ chức lễ thăm mộ gọi là “lễ tảo mộ”, tức là lễ quét tước sửa sang mồ mả. Và, nhân lễ tảo mộ ngoài đồng, mà tự nhiên có hội gọi là “hội đạp thanh” tức là hội giẵm trên đám cỏ xanh ở ngoài đồng.

* Giai thoại Bùi Hữu Nghĩa sửa thơ Đỗ Mục

Có một bài thơ thất ngôn như sau:

 Thanh Minh – Đỗ Mục

Thanh Minh thời tiết vũ phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng giao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Diệp Minh Tâm dịch:

Trời Thanh Minh mưa bay lất phất
Người trên đường lạnh đến nát lòng
Mới thử hỏi nơi nào bán rượu
Trẻ chăn trâu chỉ Hạnh Hoa thôn.

Thế mà Bùi Hữu Nghĩa cho rằng bài thơ này quá dư thừa chữ nghĩa. Cụ đề nghị gọt dũa bài thơ, cắt bỏ 2 chữ ở mỗi câu, thành ra bài thơ ngũ ngôn như sau:

 Thời tiết vũ phân phân
Hành nhân dục đoạn hồn
Tửu gia hà xứ thị
Giao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Dịch:

Trời mưa bay lất phất
Người lạnh đến nát lòng
Hỏi nơi nào bán rượu
Trẻ chỉ Hạnh Hoa thôn.

Lý do cho việc cắt chữ là như sau, từ câu trên xuống câu dưới:

    1. Tựa bài thơ là Thanh Minh rồi, cần gì phải lặp lại đó là thời tiết Thanh Minh! Nên cắt bỏ hai chữ “Thanh Minh”.
    2. Người không đi trên đường thì chẳng lẽ xuống ruộng mà đi! Nên cắt bỏ hai chữ “trên đường”.
    3. Muốn hỏi thì cứ hỏi ngay, cần gì phải mào đầu vòng vo! Nên cắt bỏ hai chữ “Mới thử”.
    4. Đi trên đường quê khi mưa lất phất mà gặp trẻ thì đó là trẻ chăn trâu thôi, phải tự hiểu lấy! Nên cắt bỏ hai chữ “chăn trâu”.

Hóa ra bài thơ vẫn giữ nguyên nghĩa, nhưng Bùi Hữu Nghĩa cho rằng câu cú súc tích, chặt chẽ hơn, loại bỏ chữ dư thừa.

* Giai thoại câu đối của Nguyễn Khuyến

Tương truyền, một góa phụ bán thịt lợn mang đến cho Nguyễn Khuyến (Tam nguyên Yên Đỗ) hai món ăn mà ông thích. Thế là ông tặng hai câu đối chữ Hán như sau:

Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

Dịch:

Bốn mùa, tám tiết luôn chung thủy
Dặm liễu, gò bồ muốn điểm trang

Đôi câu đối nói lên ý chung thủy của góa phụ trước sự xao xuyến, đòi hỏi được điểm trang của dặm cây liễu, gò cỏ bồ. Tuy nhiên, hai câu lại lồng hai cụm từ tiếng Việt thuần túy chỉ hai món ăn Việt Nam: bát tiết canh và đôi bồ dục (cật heo). Đó là hai thứ mà bà hàng thịt mang đến cho nhà thơ vì biết ông ưa thích. Thơ Hán-Việt mang ý hướng sâu lắng của người phụ nữ, lại lồng chữ Nôm mang ý cảm kích của nhà thơ.

Người tổng hợp bài này xem đôi câu đối trên là tuyệt vời về nội dung và cách dùng từ ngữ.

thanh nang: có nghĩa túi xanh, chỉ sách nói về các phép chữa bệnh. Hậu Hán thư: Hoa Ðà là thầy thuốc nổi tiếng thời Hậu Hán bị Tào Tháo hạ ngục. Lúc sắp chết nhân cảm cái ơn người cai ngục thường đem cho rượu và thức ăn nên Hoa Ðà đã biếu ông ta cái Thanh nang đựng các phép chữa bệnh chưa hề truyền cho ai. Thanh Nang này sau bị vợ người cai ngục đốt mất vì nghĩ rằng dầu cho ông ta học được thần thuật chăng nữa thì rốt cục cũng phải bỏ mạng trong ngục như Hoa Ðà, do đó các phép chữa bệnh nói trong Thanh Nang bị thất truyền.

thanh tỏa: cửa cung, chỗ các quan đợi vào chầu.

thanh vân: mây xanh, chỉ đường lập công danh. Theo Sử ký, Thầy Phạm Thư Tư Giã cúi đầu chịu tội chết và nói: Giã bất ý năng tự chí ư thanh vân chi thương. Giả bất cảm phục độc thiên hạ chi thư, bất cảm phục dự thiên hạ chi sư. (Giả này không ngờ ngài có thể tự mình lập được công danh. Từ nay, Giả tôi không dám đọc sách của thiên hạ, cũng không dám dự vào việc thiên hạ).

thao lược: chỉ sách binh pháp, gồm Lục thaoTam lược, là hai bộ sách thuộc về binh pháp cổ Trung Hoa.

Lục thao: Binh pháp do Khương Thượng tự Tử Nha, cũng gọi là Lữ Vọng hay Khương Thái công, người đời nhà Chu (1134-314 tCN) soạn ra. Thao là binh pháp, lục thao gồm có:

1/ Văn thao: thu phục nhân tâm
2/ Võ thao: định thiên hạ, giữ nước
3/ Long thao: kén chọn tướng
4/ Hổ thao: hành quân, tiến thoái động tĩnh theo thiên lý
5/ Báo thao: chiến đấu với địch, theo trạng thái biến hóa của địch
6/ Khuyển thao: huấn luyện quân sĩ.

Còn Tam lược là mưu lược đánh trận:

* Tướng lược: mưu lược làm tướng
* Quân lược: mưu lược của quân sĩ
* Trận lược: mưu lược đánh trận.

Tam lược tức Thái công binh pháp gồm 3 quyển, tuơng truyền do Hoàng Thạch Công, người đời Tần Hán (221 tCN-196), soạn để ban cho Trương Lương, thực tế là sách ngụy tạo của người đời sau.

Lục Vân Tiên:

Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.

Đoạn trường tân thanh, đoạn nói về tài của Từ Hải:

Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

“Lược thao gồm tài” là gồm tài thao lược, ý nói có tài dùng binh bố trận, có tài về chiến lược chiến thuật, thông hiểu binh pháp.

Thái Bạch Kim Tinh: chỉ núi Hoa Sơn ở Trung Quốc. Theo thuyết thiên văn cũ của Trung Quốc thì ở Kim Tinh có vị thần là Thái Bạch làm chủ vùng phân dã Hoa Sơn.

Thái bình quảng ký: một bộ sách lịch sử và dã sử lớn, do nhóm Lý Phương (12 người) đời Tống biên soạn theo lệnh của Vua Tống Thái Tông. Sách bắt đầu được biên soạn vào năm 977), đến năm 978 thì hoàn thành. Bởi sách được hoàn thành trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, biên soạn cùng lúc với bộ Thái Bình ngự lãm, nên được gọi là Thái Bình quảng ký. Nội dung sách lấy đề tài từ dã sử, tiểu thuyết, Thích tạng, Đạo kinh… từ đời Hán đến đời Tống, và lấy trước tác của tiểu thuyết gia làm chủ, trích dẫn khoảng hơn 400 loại sách.

Thái Diễm: Theo Wikipedia_Thái Diễm, Thái Diễm cũng đọc là Sái Diễm tự Chiêu Cơ, nhưng sau trùng húy với Tư Mã Chiêu nên người đời sau đổi thành Văn Cơ. Bà là một trong những nữ văn nhân đầu tiên của Trung Quốc và là nữ thi nhân duy nhất trong những văn sĩ trứ danh thời Hán Hiến Đế Lưu Hiệp (181–234).

Một nữ sĩ tài hoa mà bạc phận, bà là tác giả của Bi phẫn thi, thi phẩm được coi là kiệt tác thể loại thơ tự sự của thi ca cổ điển Trung Quốc. Ngoài ra, bà còn giỏi lý số, thơ phú, hùng biện và âm luật.

Thái Diễm là người Trần Lưu (nay thuộc Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Cha bà là Thái Ung, nhà văn, nhà sử học và làm quan cuối thời Đông Hán, nổi tiếng tài hoa và uyên bác, tinh thông thiên văn, số học, biện luận và âm luật. Tương truyền ông nói với một người chụm củi rằng: “Tôi nghe tiếng củi nổ, biết là củi tốt, chớ nên chụm”. Ngay sau đó, ông xin khúc củi cháy dở đem về, làm thành một cây đàn, tiếng rất trong. Nhờ có người cha như vậy, nên khi 8 tuổi, Thái Diễm đã giỏi văn thơ, cũng rất thông thạo âm luật.

Năm 16 tuổi, Thái Diễm lấy chồng là Vệ Trọng Đạo, một danh sĩ khá nổi danh, thuộc một gia tộc lớn ở Hà Đông. Nhưng chẳng bao lâu thì chồng bị bệnh chết. Nhà chồng cho là bà khắc mệnh, lại chưa có con, nên cho về nhà mẹ đẻ. Sau đó trong loạn lạc thời Hưng Bình, bà bị quân Đổng Trác bắt đi rồi lưu lạc tới Nam Hung Nô (nay thuộc vùng Nội Mông), bị nạp làm thiếp của Tả Hiền Vương (tên gọi vua của Hung Nô). Bà sống ở đó 12 năm và sinh được hai con trai.

Theo Hậu Hán thư, vào tháng 11 năm Hưng Bình thứ 2 thời Hán Hiến Đế (194-195), Lý Thôi và Quách Dĩ bị Tả Hiền Vương của Nam Hung Nô đánh bại, rất có thể Thái Diễm bị quân Hồ bắt nộp cho Tả Hiền Vương trong khoảng thời gian này. Sau nhờ có Tào Tháo vốn là bạn thân của cha bà, vì thương xót bà nên cho sứ giả đem vàng ngọc tới chuộc về (nhưng hai con bà bị giữ lại). Câu chuyện về sau được gọi là “Văn Cơ về Hán”, trở thành một đề tài của kinh kịch và hội họa.

Tào Tháo lại đứng làm chủ gả Văn Cơ cho người cùng quận là Đổng Tự.

Sau đó, Đổng Tự làm quan bị tội, Thái Diễm đích thân đi khẩn cầu Tào Tháo.

Lúc ấy Tào Tháo đang mở tiệc chiêu đãi công khanh danh sĩ, bèn nói với khách khứa rằng: “Con gái của Thái Ung đang ở bên ngoài, hôm nay cho mọi người gặp một lần!” Thái Diễm rối tung tốc, bỏ giày ra, dập đầu thỉnh tội, nói chuyện trật tự rõ ràng, tình cảm chua xót bi thương, khách khứa cũng vì thế mà bi thương bồi hồi.

Nhưng Tào Tháo lại nói: “Công văn giáng tội đã phát đi, làm sao bây giờ?”

Thái Diễm nói: “Minh công có hơn hàng vạn binh mã, sĩ tốt cả trăm, há tiếc một người một ngựa đốc thúc cứu vớt một sinh mệnh hấp hối sao?”

Tào Tháo rốt cuộc bị Thái Diễm làm cho cảm động mà đặc xá Đổng Tự.

Đang khi ấy Tào Tháo trông thấy Thái Diễm trời đông lạnh mà còn tháo giày bới tóc, bèn cấp cho bà một chiếc giày và vớ giữ tạm ấm. Nhân khi xưa Thái Ung chứa rất nhiều sách trong nhà, Tào Tháo nhớ lại bèn hỏi: “Nghe nói nhà của nàng khi trước có rất nhiều sách cổ, hiện tại còn có thể nhớ không?”

Thái Diễm đáp: “Lúc trước phụ thân để lại cho tôi có 4000 cuốn, nhưng bởi vì chiến loạn trôi giạt khắp nơi, bảo tồn kém cỏi, hiện tại tôi có thể ghi nhớ chỉ có 400 thiên”.

Tào Tháo lại nói: “Ta phái 10 người bồi hầu phu nhân viết, có thể chứ?”

Thái Diễm khước từ nói:”Nam nữ thụ thụ bất thân, cứ cho tôi giấy bút, tự tay tôi viết cho Minh công”. Vì thế Thái Diễm tự tay viết 400 thiên sách mà mình còn nhớ đưa cho Tào Tháo, không có một chút sai lầm.

Tác phẩm của Thái Diễm nay còn lại hai bài Bi phẫn thi và “Mười tám điệu phách của người Hồ”.

Khi về nước, nàng Thái Diễm làm bài Bi phẫn thi dài 540 chữ, tả nỗi long đong của mình, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ. Điệp luyến hoa dịch thơ đoạn cuối:

Người cô trong cảnh độc
Sầu uất nát tâm can
Lên cao phóng tầm mắt
Hồn phách tựa lìa tan.

Chợt như là đã chết
Người theo phải trấn an
Mới nhìn và thở lại
Dẫu sống như chẳng còn!

Thân nay gửi người mới
Gắng giữ lấy tinh thần
Lưu lạc nên rẻ rúng
Thường sợ lại gian nan.

Đời người có là mấy
Ưu hoài suốt trăm năm!

Xem thêm mục: tuyệt diệu hảo từ.

Thái Hòa: Lam Thái Hòa, tương truyền là một dật sĩ cuối đời Ðường, thường mặc quần áo rách, một chân xỏ giầy một chân dẫm đất, đi lang thang ở đường ở chợ, một tay cầm một thanh gỗ dài 3 thước, uống rượu say nhừ rồi gõ thanh gỗ làm phách mà hát nghêu ngao.

thái tân chi ưu: nỗi lo không nhặt được củi (thái tân: nhặt củi). Là lời viện cớ bệnh của kẻ sĩ để từ chối công việc vì không phải thời để thi thố tài năng. Sách Mạnh Tử chép: Hôm trước có mệnh vua vời, bị cảm bệnh không thể phụng mệnh vua vào triều được.

Thái Thượng Lão quân: xem mục: Lão Tử.

Thánh nữ (đền): Tương truyền Vua Trần Anh Tông nam chinh đóng quân ở đây, đêm mộng thấy một người con gái nói: “Thiếp là Triệu nữ nương tử bị sóng gió làm chết đuối, vâng lệnh Thượng đế làm Hải thần ở đây đã lâu, nay nghe tin bệ hạ nam chinh, xin nguyện giúp đỡ thành công” Hôm sau, nhà Vua hỏi bô lão thì quả có chuyện như vậy. Sau đó quân nhà Vua vượt bể, sóng gió yên lặng. Khi thắng lợi trở về, nhà Vua bèn xuống chiếu lập đền thờ, sai quan tới tế lễ. Trong tự điển được phong làm Thượng đẳng thần.

Tháp nhạn: Tháp do pháp sư Huyền Trang đời Ðường dựng, các tân khoa Tiến sĩ thường đến đó ngoạn cảnh, khắc tên mình lên chân tháp.

Nam Bộ tân thư: Vi Triệu mới thi đỗ, đến vãn cảnh chùa Từ Ân, nhân đề tên mình lên chân tháp. Các người lớp sau hâm mộ bắt chước làm theo mà có tục ấy.

Sơ kính tân trang:

Bảng hùm tỏ phạm tháp nhàn diễu trương.

thành tích bất hảo: Theo Trịnh Mạnh (2003), đây là thành ngữ đã bị nói lầm. Thành tích có nghĩa tốt; không ai nói “thành tích xấu”. Đúng ra, phải là nói là “thanh tích bất hảo”: thanh là tiếng, tích là vết; cả thành ngữ có nghĩa tiếng tăm và vết tích không tốt.

Dù cách nói lầm đã thành thói quen, nhưng cần hiểu đúng ý của thành ngữ này.

Thành Đô: thành phố tại tây-nam Trung Quốc, Tỉnh lỵ Tứ Xuyên. Thành Đô là một trong những trung tâm giao thông vận tải và giao thương quan trọng của Trung Quốc. Hơn 4000 năm trước, nền văn hóa Kim Sa thời kỳ đồ đồng được phát sinh tại khu vực này. Đồng bằng màu mỡ Thành Đô được gọi là “Thiên Phủ Chi Quốc”, có nghĩa là “đất nước thiên đường”. Vào thời Tam quốc, Thành Đô là kinh đô nước Thục của Lưu Bị.

thành hạ yêu minh: có nghĩa ăn thề dưới chân thành, chỉ việc xin hòa ở thế yếu. Ðấy là nói lễ ước hẹn Thúc giáp giải binh ra hàng.

Tả truyện: Nước Sở đánh nước Giảo, đánh cho nước Giảo thua to, bắt Giảo phải ăn thề ở chân thành rồi rút quân về.

Đoạn trường tân thanh, tả cảnh Từ Hải chủ quan, không phòng bị:

Tin lời thành hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.

Thành Thang (1847–1760 tCN): thường được gọi là Thương Thang, Vũ Thang, Thiên Ất, Đại Ất hay Cao Tổ Ất, là vị vua sáng lập triều đại nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì trong giai đoạn 1790–1760 tCN, khoảng 30 năm; trong đó 17 năm là thủ lĩnh bộ lạc, 13 năm làm quân chủ nhà Thương.

Ông nổi tiếng trong lịch sử là vị quân chủ hiền minh, được sự trợ giúp của hai đại thần Y Doãn và Trọng Hủy, đã khởi binh lật đổ Hạ Kiệt tàn bạo, người cai trị cuối cùng của nhà Hạ.

Người đời sau ngưỡng mộ công tích sự nghiệp và đức độ của ông, cùng với Đại Vũ và Chu Vũ vương hợp xưng làm Tam vương. Người đời đều cao sự nghiệp của những người đã tạo ra 3 triều đại lớn là nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu. Tam vương thường được hợp xưng với Nghiêu, Thuấn được gọi chung là Nhị đế Tam vương.

thạch sùng: con thằn lằn. Tương truyền, Thạch Sùng vốn là lái buôn lớn đời Tấn, giàu có tột bậc. Sau vì thi giàu sang với Vương Khải, bị thua mất hết gia sản, tiếc quá mà chết, hóa thành con thằn lằn suốt đời chép miệng tiếc rẽ của cải đã mất.

Thạch Tấn: tức Thạch Kính Ðường lập nên nhà Tấn thời Ngũ đại, lên ngôi vua năm 936, xưng là Tấn Cao Tổ. Ông cắt đất 16 châu làm lễ tạ ơn Khiết Ðan là ngươì đã lập ông ta làm vua nước Tấn.

Thạch Mạn Khanh: người đời Tống, tính lỗi lạc, có khí tiết, biết phân biệt điều phải điều trái. Thơ hay chữ tốt, thường làm những bài nói về sách lược quốc phòng

Thằng xe cho nợ: chỉ việc có vay có trả. Chu Thù nhà nghèo, chiêm bao thấy thượng đế thương mình. Ngài hỏi vị thần Tư Mệnh: “Nó có giàu được không?” Tư Mệnh nói: “Số nó nghèo lắm, nhưng hiện có số tiền của thằng Xe, có thể cho nó mượn được, rồi đến ký thằng Xe nó sinh ra thì lại phải trả.” Sau Chu khá giàu. Ðúng đến kỳ hạn phải trả nợ, Chu xe tiền của chạy đi trốn. Buổi tối, Chu dừng xe nghỉ ở dọc đường gặp một người đàn bà chửa xin tạm nằm ở dưới xe. Ðêm ấy, người đàn bà đẻ đứa con trai, vì nghĩ nó đẻ dưới xe bèn đặt tên là thằng Xe. Từ đấy, Chu làm gì cũng thất bại, lại thành ra nghèo kiết.

Thân Bất Hại: Sử ký: là người đất Kinh, vốn là một viên quan nhỏ ở nước Trịnh, nhờ có học thuật nên thành thân cận với Hàn Chiêu Hầu, Chiêu Hầu dùng Thân Bất Hại làm tướng quốc. Thân Bất Hại bên trong lo sửa đổi chính sự, lễ giáo, bên ngoài lo đối phó với chư hầu. Suốt trong mười lăm năm, cho đến khi Thân Tử mất, nước được bình yên, binh mạnh, không nước nào xâm lấn nước Hàn. Học thuyết của Thân Tử gốc ở Hoàng Đế, Lão Tử, nhưng lấy việc hình danh (một chi nhánh của phái Pháp gia) làm chủ. Thân Bất Hại có viết quyển sách gồm hai thiên gọi là Thân Tử.

thất bảo: bảy sản vật quý, gồm có: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, san hô.

Thất tịch:

  1. Ðêm mồng 7 tháng 7 âm lịch, là lúc theo truyền thuyết chim ô thước bắt cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm gặp nhau một lần.

Chữ Thất tịch chỉ sự hòa hợp vợ chồng.

  1. Thất Tịch còn là tên bài ca của Trương Lỗi đời Tống.

thất túng thất cầm: có nghĩa bảy lần thả bảy lần bắt. Theo truyện hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng dẫn quân Hán đánh dẹp bọn Mọi ở phương Nam do tù trưởng Mạnh Hoạch cầm đầu. Ông muốn thu phục nhân tâm, nên bắt được Mạnh Hoạch nhiều lần nhưng không giết và cứ thế thả ra. Sau mỗi lần, Mạnh Hoạch làm phản và đánh trả lại. Ðến lần thứ bảy Mạnh Hoạch nói với Khổng Minh: “Ông là người nhà trời, kẻ phương Nam này không dám phản nữa.”

Câu chuyện trên là đề tài cho một giai thoại văn chương sau.

Cuối thời phong kiến của Việt Nam, có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đỡ là Án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là Án Tiêu. Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng “tiêu”, ví dụ như hạt tiêu thì phải nói là hạt ớt v.v…, và hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội.

Lệnh ban ra khiến Nguyễn Xiển (có biệt danh Xiển Bột, sinh vào khoảng 1860) rất ghét quan huyện. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan.

Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai.

Quan nổi trận thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám đem quần áo rách đến bán cho quan bao giờ!

Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói: “Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử…”

Quan buột miệng nói:

       Quân tử cố cùng, quân tử cùng, quân tử cố.
      
(Quân tử bền lòng lúc cùng quẫn, quân tử cùng quẫn, quân tử bền lòng)

Lấy ý trong Luận ngữ, Vệ Linh Công nói: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ” (Người quân tử lúc cùng vẫn giữ vững khí tiết, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng ắt làm bậy.)

Vế ra khó ở hai chữ “cố” nghĩa nôm là cầm cố, và chữ “cùng” nghĩa nôm là cùng quẫn. Từ Hán-Việt quá súc tích khiến cho việc dịch Nôm bó tay!

Xiển Bột trần tình:

       Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm
      
(Khổng Minh bắt để tha, Khổng Minh tha, Khổng Minh bắt).

       Lấy ý trong Tam Quốc diễn nghĩa: Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần lại tha.

Tài tình ở chữ “cầm” lấy nghĩa nôm là cầm cố như trên, và chữ “túng” nghĩa nôm là túng tiền, vừa đối chữ vừa đối Nôm.

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình với lời trần tình của Xiển đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt: Mình mắng nó cùng quẫn, nó xin tha!

Quan phục tài Xiển, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói: “Bẩm quan, tiền này không ‘ớt’ được ạ.” Quan vô tình mắng: “Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?”

Chỉ chờ có thế, Xiển liền vả cho quan ba cái tát vào mồm. Quan hô lính bắt trói. Xiển ngăn lại nói: “Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi không dám nói ra chữ kia nên mới nói ‘ớt’. Bây giờ tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!”

Quan sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.

thấy nhàn: nghĩa đen: thấy chim nhạn (ngỗng trời), nghĩa bóng: nhận được tin. Xem mục: Tô Vũ.

Chinh phụ ngâm, đoạn diễn tả tình cảm của người chinh phụ trông tin chồng, có câu:

Trải mấy thu, tin đi, tin lại
Tới xuân này, tin hãy vắng không
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.

thần Mày Trắng: tên do chữ Bạch Mi. Ở các lầu xanh ngày xưa, các mụ Tú Bà thường dựng một bàn hương án giữa nhà, có treo một tượng đồ. Tượng này vẽ hình người có đôi lông mày trắng gọi là thần Bạch Mi (thần Mày Trắng).

Sách Dã Hoạch biên chép: các thanh lâu thường thờ thần Bạch Mi. Thần này mặt to, râu dài, cưỡi ngựa cầm dao, xem na ná như hình Quan Công, nhưng lông mày trắng và mắt đỏ.

Không ai hiểu được tranh vẽ ai và lai lịch thần Mày Trắng ra sao. Nhưng các thanh lâu đều quen thờ như vậy, coi là một vị tổ sư để cầu phù hộ cho nghề được phát đạt, cửa hàng được đông khách, cũng như tất cả các nghề khác.

Đời nhà Minh (1368-1628), các cô bán dâm ở lầu xanh có cách đuổi vía lạ lùng. Khi nào một cô xui xẻo, ế hàng thì đến trước thần Mày Trắng, trút bỏ áo quần, đốt hương van vái cầu xin. Đoạn lấy hoa mới đổi lấy hoa đã cúng trên bàn thờ đem lót dưới chiếu mình nằm. Như vậy cô sẽ đắt khách hàng. Theo quan niệm của họ như thế, không biết có thực đắt khách không.

Trong Đoạn trường tân thanh, đoạn tả cảnh thanh lâu của Tú Bà, có những câu:

Giữa thì hương án hẳn hoi
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày
Lầu xanh quen thói xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.

thần nanh mỏ đỏ: chỉ hạng người tinh quái, độc ác. Đúng ra, thành ngữ này bị biến âm từ “thành nanh mỏ đỏ”, là tên địa phương chỉ một loài chim bói cá có lông màu xanh, ngực nâu, mỏ đỏ. Loài bói cá thường đậu yên một chỗ bên bờ nước để rình rập, khi thấy cá thì bổ nhào xuống thật nhanh dùng mở đớp được được mồi, vậy là mang tiếng “tinh quái”. (Trịnh Mạnh, 2003).

Thần Phù:

1: Cửa bể Thần Phù thuộc Huyện Tống Sơn (Nga Sơn?), Tỉnh Thanh Hóa xưa. Cửa bể này xưa nổi tiếng phong cảnh hùng vĩ và sóng gió rất dữ. Sau bị phù sa lấp cạn từ đời Hậu Lê, nay là cánh đồng bát ngát thuộc vùng Phát Diệm (Hà Nam Ninh) và Nga Sơn (Thanh Hóa). Tương truyền ngoài khơi có hòn núi nơi Từ Thức gặp tiên.

2: Thần Phù còn là tên ngọn núi ở xã Nga Tiên, Huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Mạch núi chạy từ dãy Tam Ðiệp ra biển, phân chia đất ái Châu (Thanh Hóa) và các trấn vùng đồng bằng Sông Hồng (Nam Châu).

Thẩm Thuyên Kỳ (khoảng 656-714/715): tự Vân Khanh, người Tương Châu, nay thuộc Hà Nam, là một thi nhân đời Đường. Ông tề danh cùng Tống Chi Vấn, người đời thường gọi là Thẩm-Tống.

Thẩm Tự Cơ: người hầu hạ và đồng thời cũng là tình nhân của Lữ Hậu, vợ Lưu Bang. Khi Lưu Bang chết, Thẩm Tự Cơ làm Tả Thừa tướng, lui tới trong cung thông dâm với Thái hậu, nhưng Tư Mã Thiên tránh nói thẳng việc xấu xa này, nên chỉ viết “Tả Thừa tướng không làm việc nước, xem xét việc trong cung như một viên lang trung lệnh.”

thập dạng chi tiên: Giấy mười thức, chỉ loại giấy hoa tiên được Tạ Công ở Ích Châu (nay là Tứ Xuyên, Trung Quốc) sản xuất, còn gọi là Thập dạng loan tiên.

Thơ Ðào Phổ có câu: Thập dạng loan tiên xuất Ích Châu

thập trân: mười món ăn quý. Thập trân đời Tần và Hán: Nem công Tứ Xuyên, Chả phượng Tây Khương, Da tây ngu (tê giác) Tây Tạng, tay gấu Mông Cổ, gân hươu Liêu Ninh, mí mắt đười ươi Hiệp Tây, chân voi Thanh Hải, yến sào Tây Sa, trùng thảo Quảng Tây, trúc sáng Vân Nam.

Ông H. Duy Việt trình bày qua 10 món ăn ấy trong một thiên du ký.

* Nem công Tứ Xuyên là nem làm bằng da và thịt con công đánh bẫy ở rừng trúc Tỉnh Tứ Xuyên, thuộc phía tây nam Trung Hoa. Công tên chữ là Khổng Tướcm ưa ở nơi gò, đồi cao để bay dễ dàng; và ở gần rừng tre, trúc và cây cao rậm rạp, những nơi thường có những thú dữ như cọp, beo. Săn bắt nó rất khó. Công trống Tứ Xuyên sinh ra được 36 tháng thì đuôi dài trên hai thước. Khi nó múa, lông xòe tròn như cái lọng hay cái bánh xe, có đủ màu sắc của cầu vòng. Mật công rất độc, ăn phải sẽ chết. Nhưng thịt và da công thì có thể giải được hết thảy các thứ độc do thời khí gây nên.

* Chả phượng Tây Khương là đem một con trống và một con mái, lựa giống vàng hay trắng, đuôi dài, đánh bẫy ở Tây Khương, đem cắt tiết rồi nhổ lông sống chớ không nhúng nước sôi như làm lông gà, vì nếu nhúng như vậy thì chả sẽ nát và mất giòn. Bỏ hết ruột, gan, mề, mật, phổi. Lấy dao sắc lột bỏ da, chỉ lấy thịt nạc. Xương, đầu, cánh, chân đều bỏ cả. Thịt nạc cắt thành miếng nhỏ, cho vào cối đá mà quết. Lấy nước mắm, tiêu, xì dầu, một chút hàn the tán nhỏ, một chút mật ong (hay đường trắng), và cứ năm phần thịt phượng thì cho vào một phần mỡ gà trống thiến béo, rồi tiếp tục quết đến bao giờ thành chả nhuyễn mới thôi. Bấy giờ nặn chả ấy thành viên bằng ngón tay cái, để vào nồi hấp cách thủy cho thịt vừa chín tới; đoạn lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu.

* Da tây ngu Tây Tạng là da nách con tê giác. Tại miền rừng núi ở về phía tây Trung Hoa như chân dãy núi xứ Tây Tạng có loài tây ngu, tê ngu, tây ngưu hay tê giác. Da tê giác dầy, gấp lại thành miếng như áo giáp. Tuy nhiên chỉ có da ở nách hai chân trước và háng hai chân sau là mềm. Người đi săn phải nhắm trúng chỗ ấy mà đâm mới hạ nổi nó. Nhưng làm gì đến gần được! Muốn săn nó chỉ có lối đánh bẫy mà thôi. Thịt tê ngưu dai, ăn không ngon. Chỉ có da nách của nó là ăn được. Đem da tươi cạo hết lông, lọc hết mỡ; rồi ban ngày đem phơi nắng, tối lại sấy lửa đến 100 ngày. Đoạn tẩm rượu Mai quế lộ một tháng rồi đem phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng, vì người ta tin rằng nếu để ngoài trời, da sẽ bay đi mất. Khi muốn ăn da ấy, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm. Người ta nghiệm rằng đã ăn được da tây ngu thì sau sẽ hết bịnh hôi nách và không bao giờ bị phong sương mang bịnh.

* Tay gấu Mông Cổ: Tại miền bắc Trung Hoa, nhất là ở rừng xứ Mông Cổ có loại gấu nâu và gấu trắng rất to lớn. Cứ đến mùa đông, gấu này vào hang hay khe đá, bụi cây mà ngủ trong 3 đến 6 tháng, không ăn uống gì cả. Nó nằm thu mình lại, thò hai tay ra ngoài như để phơi nắng. Thế rồi khi đông tàn, tuyết tan, xuân đến, gấu thức dậy. Việc đầu tiên của nó là liếm hai bàn tay. Liếm cả ngày, cả đêm, không đi kiếm mồi mà cũng no! Người ta cho rằng hai bàn tay của nó đã thu được âm dương của trời đất khi nó ngủ, nên lúc thức dậy nó liếm tay thay vì ăn thức ăn. Chính vì thế mà người ta chuộng bàn tay gấu mà gọi là “hùng chưởng”. Ăn tay gấu sẽ được khỏe mạnh, sống lâu. Người ta lại cho rằng: khi bắt được gấu thì các chất tinh khiết của mạch nó đều chạy lên cả hai bàn tay. Đây cũng là thêm một lý do để làm cho món tay gấu thành ra quý, bổ. Muốn tay gấu trở thành thức ăn, người ta phải nhúng bàn tay gấu vào mỡ gấu đun sôi đủ một trăm lần để làm lông. Đoạn lấy gân trong bàn tay ngâm vào nước nhựa trái đu đủ trong một ngày một đêm, rồi lại ngâm vào nước tro một ngày. Bấy giờ mới đem rửa gân và da gang bàn tay bằng rượu, rồi nấu các vị thuốc bổ, trong đó có huỳnh kỳ, khởi tử, hoài sơn, v.v…

* Gân hươu Liêu Ninh: Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý, vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng. Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn. Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu (chanh hay muốn tiêu), mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ.

* Mí mắt đười ươi: Tại rừng rậm Tỉnh Hiệp Tây có một loài đười ươi lớn, tay dài, mặt trắng, lông nâu và có đôi mắt và đôi môi rất to. Đây là một giống khỉ lớn, đi bằng hai chân rất mau và có một sức khỏe kinh khủng. Săn được nó là một điều rất khó khăn. Vì nếu vô phúc bị nó bắt được thì nó sẽ nắm lấy đầu mà bóp bẹp như bóp một hột vịt. Đặc tính của nó hay cười, thích uống thứ gì cay như rượu. Người săn bắt đười ươi dùng mấy chụp dép da hay guốc gỗ và mấy hũ rượu mạnh đặt ở trước cửa hang của chúng. Đười ươi biết ngay người ta muốn bắt chúng, nên kéo nhau bỏ hang đi hết. Nhưng một lúc sau tiếc của, chúng kêu nhau trở lại lấy rượu uống, lấy dép guốc đi rồi cười giỡn cả khu rừng lại múa may, nhảy nhót. Một lúc say mềm thì ngã lăn ra đất mà ngủ, mồm há ra mà cười với trời. Bấy giờ, người ta xông ra trói, bắt dễ như trở bàn tay. Mí mắt, môi đười ươi phơi khô để làm vị ăn. Lông thì làm bút lông thật tốt.

* Chân voi Thanh Hải: chân của con voi ở Thanh Hải. Voi ăn cây cỏ, hoa quả. Thường voi được 25 đến 30 năm mới đẻ con. Ở trên rừng voi sống lâu tới 100 năm. Có con sống trên 200 năm. Chân voi tuy lớn, cục mịch thế mà rất tài tình. Khi dẵm lên đâu thì nó biết ngay chỗ nào mềm, chỗ nào cứng nên ít khi bị sa hố. Vì trong gang bàn chân của nó có một lớp thịt rất mềm; sau lớp thịt ấy có nhiều dây thần kinh thật tinh vi. Chính lớp thịt ấy, người ta lấy để làm món ăn, vì nó ngon giòn, nuốt qua cổ họng đã thấy trong người khoan khoái, và chữa khỏi bịnh gân cốt. Người ta lấy thịt trong bàn chân voi rồi ninh một ngày một đêm, đoạn nấu với các vị thuốc và đem ăn cùng với thạch (rau câu) vì hai thứ giòn, mềm như nhau. Thạch sẽ dẫn chất bổ của thịt chân voi đi khắp cơ thể ta một cách nhanh chóng.

* Yến sào Tây Sa: món tổ yến tìm thấy trên đảo mà Tàu gọi là Tây Sa, Việt Nam gọi là Hoàng Sa. Tổ yến làm bằng nước miếng của chim yến. Người Á Đông công nhận tổ yến là món ăn thật bổ, ngon. Khi chế biến, người ta ngâm yến sào vào nước nóng, cho dầu phộng vào nước để lọc hết lông và chất dơ, nhặt hết lông bằng tăm, chế nước dùng bằng thịt gà, thịt chim hay đường phèn… Có biết làm thì món yến sào quý giá kia mới trở nên ngon và bổ, xứng đáng là một món ăn đắt tiền nhất mà xưa nay vua chúa cũng như những người mắc phải bịnh nặng hay những người muốn tẩm bổ cho thân thể khỏe mạnh và cường tráng… hay hơn nữa để đông con.

* Trùng thảo Quảng Tây: Theo người dân vùng núi Tỉnh Vân Nam thì đó là một thứ rễ cây tự nhiên biến đổi thành con sâu và sâu ấy có chất bổ đặc biệt. Ăn nó sẽ trừ được bá bịnh, nhất là về lao lực. Nhưng có người lại cho rằng đó là hình con sâu sống ở trên loại cây bổ như cây nhân sâm trên rừng hay cây tam thất. Vì ăn nhiều chất bổ của hai loại thảo mộc ấy nên tự nhiên biến thể vào thành ra rễ cây giống như rễ cây sâm hay rễ cây tam thất.

Nhưng lại có thuyết cho rằng trùng thảo là một con tằm dại sống trên một vài cây thuộc loại nhân sâm, nhất là cây đinh lăng rừng. Khi thời tiết đổi thay bất thường, có nhiều con sâu bị một thứ nấm (tống cú) xuất hiện, mọc trên đầu, trên cổ, dưới phía đuôi. Trước còn nhỏ, ngắn; sau dần mọc dài ra, con tằm dại ấy bị cây hút hết thịt rồi ít lâu chết lăn xuống đất. Trong giới lương y, người ta vào rừng nhặt các sâu ấy đem về sao tẩm thành một môn thuốc bổ và chữa những chứng nan y có công hiệu.

Món ăn trùng thảo khó tìm được, vì họa có năm tằm dại bị nấm ăn mới có, nên rất đắt tiền. Già trẻ trai gái đều ăn món trùng thảo được. Người ta thường bắt sâu tươi về phơi khô để dành hoặc làm món ăn. Họ nấu với vi yến hoặc đem chiên giòn với mỡ gà trống thiến.

Còn món trúc sáng Vân Nam thì làm bằng màng mỏng ở trong giống cây trúc rừng. Người ta cho rằng những khóm trúc nào đã mọc được 100 năm bên bờ suối thì mới có trúc sáng. Nhưng theo những nhà bác học thì trúc sáng không phải là màng mỏng ruột cây trúc mà là một thứ nấm mọc ở gốc cây tre, cây trúc.

Nấm này hình dài, mỏng như lụa, có trổ nhiều lỗ như màng nhện. Nếu ta thả vào chậu nước nóng ma xem thì thấy rõ hình cây nấm. Chân nấm dày, mình mỏng, lỗ hoa to lớn, đầu như chụp nón mỏng. Theo sách Đông y, người Trung Hoa biết lấy nấm trúc sáng để làm thuốc giải độc, lọc máu và nhuận trường từ thời xa xưa. Cũng như các vị thuốc quý, ngày nay trúc sáng đã thành món ăn ngon và bổ.

Tục truyền rằng: ngày xưa, hoàng hậu và cung phi cưng của Tần Thủy Hoàng hàng ngày ăn canh trúc sáng để cho da mặt được tươi đẹp.

thẻ rồng: Xưa, người ta dùng cái chậu đồng chạm hình con rồng, dùi lỗ cho nước nhỏ xuống. Trong chậu có khắc từng khoảnh, mỗi khi nước đổ lưng đến khoảnh nào thì bỏ một cái thẻ để đếm khắc giờ trong ngày đêm.

Hoa Tiên:

Song hồ nấn ná thôn dâu
Thẻ rồng xuân điểm ngày thâu chìm chìm.

Thiên hậu:

1/ Theo Thanh nhất thống chí: Thiên hậu là tên một bị thần biển con gái đất Phủ Ðiền đời Tống. Lúc sinh bà có hào quang và hương thơm xông ngào ngạt. Khi đã lớn, bà thường ngồi chiếu đi lại trên đại dương, cưỡi mây chu du trên các đảo. Sau khi hóa, bà hay bận áo đỏ bay lượng trên mặt biển. Ðời Khang Hy nhà Thanh, bà được phong làm Thiên Phi rồi gia phong Thiên hậu.

2/ Xem Võ Tắc Thiên.

thiên ma bách chiết: Nghìn lần mài trăm lần bẻ, ý nói trải qua nhiều gian nan trắc trở, nhiều vùi dập đọa đày, thử thách.

thiên mạch giao thông: Ðường bờ thông nhau. Thiên là những đường bờ ruộng từ Bắc xuống Nam, mạch là những đường bờ ruộng từ Ðông sang Tây.

Thiên San: tên một dãy núi ở phía đông-nam Tân Cương ngày nay. Thời Sơ Đường, mãnh tướng Tiết Nhân Quý dẫn quân đi đánh giặc Thiết Lặc, lập công lớn ở núi này. Tương truyền địch quân đông hơn mười vạn, 18 tướng tới khiêu chiến. Quý rút tên bắn 3 phát chết ngay 3 tướng, số còn lại xuống ngựa xin hàng.

“Thiên San” về sau chỉ chiến công hiển hách.

Trường ca Hòn vọng phu của Lê Thương:

Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.

Thế Sơn / Họa Mi / Ngọc Hạ & Thiên Tôn:
https://www.youtube.com/watch?v=oX5geLJxxTM

Thiên Thai: tên một núi thuộc Huyện Thiên Thai, ở Tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Tương truyền đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên Núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở đấy. Sách Thần tiên truyệnU minh lục chép: đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình (năm 58) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Ðoan ngọ cũng gọi Ðoan dương (mùng 5 tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người ta thường vào Núi Thiên thai hái thuốc chữa bệnh. Hai chàng Lưu, Nguyễn cùng đi. Nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về, vơ vẩn trong núi gần tháng trời mà không tìm được lối ra. Lương thực mang theo đã hết, đành phải hái những quả đào chín mọng hai bên bờ suối hay ven chân núi để ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà uống.

Nhìn dòng nước trong núi chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và lá rau tươi lững lờ trôi, nên đoán chắc cách chỗ người ở không xa nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực kỳ đẹp đẽ. Ðang ngẩn ngơ đứng nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất thanh tao: “Lưu, Nguyễn hai chàng sao mà đến chậm thế!”

Nghe gọi đích danh mình, hai chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa lúc ấy hai cô gái rẽ hoa đi ra, thực là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vào động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ vì được gặp người – lại người đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.

Thien ThaiÐến động bước vào, nhìn thấy chung quanh toàn trang trí cực kỳ mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi hương. Ðến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và nem dê rừng, mùi vị thơm phức, mời hai chàng dùng. Tối lại, một đoàn mỹ nữ đem mâm đào chín và rượu ngọt đến, đoạn múa hát dâng đào và rượu, chúc tụng “Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt”. Nói xong, họ lại họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển, giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn rực rỡ kết tụi ngũ sắc, hai chàng Lưu, Nguyễn say sưa cho mình hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.

Ðến khuya, tiệc tàn khách về. Hai nàng Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng giữa hai nàng và hai chàng bền duyên giai ngẫu.

Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, hai chàng Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian.

Ở đây, ngày ngày tháng tháng, tiết trời ấm áp hơn xuân. Không Hạ, không Thu, không Ðông, đâu đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trôi trong mây thanh gió mát đượm mùi hương phảng phất phảng phất quanh mình. Nhưng thời gian hai năm trôi qua, cảnh dầu đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm lượn, chim hót… cũng không sao xóa được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng, không cho về. Nhưng lòng mơ nhớ cố hương ray rứt người lữ thứ, hai chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không lưu chồng được, hai nàng ngậm ngùi, thở dài bảo: “Nhờ hồng phúc tiền thân mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hòa hợp chốn Thiên Thai. Tưởng rằng duyên ưa phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới luyến nhớ đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen, kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ lụy, hai chàng có trở về chốn trần gian thì liễu cũ hoa xưa chắc không còn được như ngày trước nữa. Chia ly ai chẳng não lòng nhưng nghiệp chướng khó mà diệt nổi.”

Thế rồi hai nàng tiễn chân hai chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận xuống núi. Nhìn xa xa khói lam phủ nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai chàng ra khỏi núi Thiên Thai, chẳng mấy chốc xuống về quê cũ.

Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu, Nguyễn là người đồng hương nữa. Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ? Lối cũ không còn. Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ đã xa lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng gặp một cụ già tuổi đã gần trăm, hai chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm. Cụ già bèn kể lại cách đây độ 400 năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên Nguyễn Triệu, nhân tiết Ðoan Ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích.

Bấy giời Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên Thai. Nhưng thảm thay, đi vòng vo, quanh quẩn… cuối cùng lại lủi thủi trở về, vì lối xưa đã lạc mất rồi. Ở quê cũ cho đến đời Tấn Vũ Đế (265-275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu mới bỏ đi, không ai còn gặp nữa.

Ðời nhà Ðường, Tào Ðường làm 5 bài thơ thuộc loại thơ “du tiên” miêu tả sự gặp gỡ và sự cách biệt giữa Lưu Thần, Nguyễn Triệu cùng hai nàng tiên ở núi Thiên Thai.

  • Bài một: Lưu, Nguyễn du Thiên thai (Lưu, Nguyễn đi chơi Thiên thai)
  • Bài hai: Lưu, Nguyễn động trung ngộ tiên nhân (Lưu, Nguyễn gặp nàng tiên trong động)
  • Bài ba: Tiên tử tống Lưu, Nguyễn xuất động (Nàng tiên tiễn Lưu, Nguyễn ra động)
  • Bài bốn: Tiên tử động trung hữu hoài Lưu, Nguyễn (Nàng tiên trong động nhớ Lưu, Nguyễn)
  • Bài năm: Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên thai bất phục kiến chư tiên tử (Lưu, Nguyễn trở lại Thiên thai không gặp các nàng tiên)
  • “Thiên Thai” có nghĩa cảnh tiên, nơi làm say mê lòng người, nơi người yêu ở, hoặc cảnh đẹp chỉ có trong ước mơ.

Đoạn trường tân thanh, đoạn nhân dịp người nhà đi vắng, Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng:

Sẵn tay mở khoá động đào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.

Lưu Nguyễn vào Thiên Thai – Tản Đà

Xưa đời Hán ở bên Trung Quốc
Tiết Đoan Dương hái thuốc là ai?
Lưu Thần, Nguyễn Triệu hai người
Rủ nhau vào núi Thiên Thai một ngày

Đường luẩn quẩn đông tây chẳng biết
Lương mang theo đã hết, không còn
Đào đâu, trông thấy đầu non
Bảo nhau lên hái ăn ngon đỡ lòng

Xuống dưới núi thấy giòng nước chẩy
Hột cơm vừng bỗng nẩy đâu ra
Cùng nhau vui sướng bao là
Rằng đây, hẳn nữa, không xa có người

Lại qua tới một nơi đầu núi
Thấy hai cô con gái tuyệt trần
Gọi ngay Nguyễn Triệu, Lưu Thần
Hỏi sao đến muộn cho phần chờ lâu

[…]

Khắp chúng bạn, nhạc tiên đem gẩy
Buổi chiều hôm ai nấy lại về…
Hai chàng ở lại ngủ nghê
Động phòng làm lễ, phu thê vui vầy

Nằm quên cả là chầy hay chóng
Tính hôm mai chừng đúng nửa năm
Nửa năm xuân khí êm đềm
Bên tai trăm tiếng con chim gợi sầu

Lưu với Nguyễn cùng nhau thơ thẩn
Nhớ quê hương lẩn thẩn xin về
Hai cô thương xót trăm bề
Rằng: “Hai anh đã muốn về thì thôi

[…]

Xa chẳng mấy, đến bên đường cái
Về đến làng không một ai quen
Bấy đời con cháu lớn lên
Chỉ nghe cụ hái thuốc tiên không về

Buồn lúc ấy không quê không quán
Nỗi bơ vơ chán nản cõi đời
Thiên Thai trở lại tìm ai
Thôi thời cửa động đã cài then hoa

Ca khúc Thiên Thai – Văn Cao

Tác giả bài này không ngần ngại mà đồng ý với một đánh giá cho rằng đây là ca khúc hay nhất của Văn Cao.

Bản thu âm, Thu Giang, với ca từ:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/thien-thai-thu-giang.dn4X7aqZQEBd.html

Tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ

Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…

Tiên Nga tóc xoã bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.

Trời cao, xanh ngắt. – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga.

Khi cao, vút tận mây mờ
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không.

Thiên Thai thoảng gió mơ mòng
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay…

Ca khúc Tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ & Phạm Duy

Đây là một kết hợp tuyệt vời giữa những vần thơ tuyệt vời và những cung điệu tuyệt vời!

Tieng sao thien thai

Video trình diễn sống, Quỳnh Như & Thiên Vũ, trong chương trình “Solo cùng Bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=r10hv3Bim7Q

Tống biệt – Tản Đà

Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!

Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.

Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.

Ca khúc Tống biệt của Võ Đức Thu, phổ thơ Tản Đà:

Video âm thanh, Khánh Ly & Lệ Thu:
https://www.youtube.com/watch?v=hKhqyYAZqYA

Thiếu phụ Nam Xương: tức nàng Vũ Thị Thiết. Theo Truyền kỳ mạn lục, Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương (thuộc trấn Sơn Nam, nay là Huyện Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam, thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không để bất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng.

Bấy giờ nàng đang có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản.

Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, nỗi buồn không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm rồi mất. Nàng hết lời thương xót, việc ma chay tế lễ đều lo liệu như đối với cha mẹ ruột.

Rồi giặc Chiêm thua, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”

Đứa con nói: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.”

Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói: “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.”

Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.

Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng: “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.”

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả.

Nàng bất đắc dĩ nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang (con sông chảy qua Huyện Nam Xương) ngửa mặt lên trời mà than rằng: “ Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”

Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.

thieu phu Nam XuongMột tối, chàng phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn. Chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến rồi!”

Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách: “Đây này!”

Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.

Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng. Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả.

Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng: “Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.”

Linh Phi sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng: “Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa.”

Phi đặt yến để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có nhiều mỹ nhân. Trong số có một người, chỉ hơi điểm qua một chút son phấn, trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận.

Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng: “Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?”

Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói: “Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông!”

Phan nói: “Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không tinh vệ mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?”

Vũ thị nói: “Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng!”

Phan Lang nói: “Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao?”

Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói: “Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.”

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả đưa Phan ra khỏi nước.

Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn: “ Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.”

Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói: “Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.”

Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi.

Nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.”

Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.

[Xem thêm các mục: Tào Nga, tinh vệ, ngựa Hồ, chim Việt]

Thế kỷ 15, Vua Lê Thánh Tông khi đi đánh giặc qua đây (nay là Xã Chân Lý, Lý Nhân, Hà Nam), nghe chuyện, vào chiêm ngưỡng và thắp hương nơi cổ miếu, bày tỏ lòng thương cảm Vũ Nương qua bài thơ nổi tiếng:

Miếu vợ chàng Trương – Lê Thánh Tông

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng.

Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt
Giảo oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.

Khi chiến thắng trở về, Vua Lê Thánh Tông hạ lệnh cho địa phương xây dựng lại thì nơi đây mới được mở rộng và làm khang trang lên, được gọi là Đền Bà Vũ. (Như Quỳnh, 2017)

Câu chuyện trở thành một đề tài cho âm nhạc, kịch nghệ.

Thiền Vu: vào thời Hán, là tước vua cầm đầu Hung Nô, dưới Thiền Vu có Hữu Hiền Vương và Tả Hiền Vương.

Thiện Văn: tức Dư Thiện Văn. Khoảng niên hiệu Chí Chính nhà Nguyên có người học trò là Thiện Văn, giữa ban ngày thấy hai người lực sĩ đến nói là vâng mệnh Quảng Lợi Vương (Vua Thủy) sai đón Thiện Văn theo đi. Ðến bến sông xuống một chiếc thuyền thấy hai con rồng vàng cắp mà đem đi, rồi xuống đến Thủy phủ. Quảng Lợi Vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu đầu của tòa đền Linh Ðức sắp dựng. Thiện Văn liền làm hộ một bài rất hay. Khi khánh thành, Thiện văn lại được dự một bữa yến lớn.

Thoại Ngọc Hầu (1761–1829): tên thật là Nguyễn Văn Thoại (còn đọc là Thụy), là một danh tướng và cũng là một nhà kỹ trị tài giỏi của nhà Nguyễn. Ông lập được công lớn, được phong tước Hầu. Nhà Nguyễn thường lấy tên các công thần ghép vào tước, nên người ta quen gọi ông theo tước là “Thoại Ngọc Hầu”.

Ông gốc ở Phủ Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam thời Nguyễn; nay thuộc Phường An Hải Tây, Quận Sơn Trà, Đà Nẵng. Nguyễn Văn Thoại lớn lên lúc Trịnh và Nguyễn đánh nhau liên miên, tiếp theo nữa là phong trào Tây Sơn nổi dậy (1771). Vì thế, năm 1775 mẹ ông phải dẫn ông và hai em chạy nạn vào Nam, định cư ở làng Thới Bình trên cù lao Dài, nằm giữ Sông Bang Tra và Sông Cổ Chiên; nay thuộc địa phận Huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long.

Năm 1777, lúc 16 tuổi Nguyễn Văn Thoại đến xin đầu quân Nguyễn tại Định Tường. Năm 1778, ông có mặt trong trận chiến chiếm lại thành Gia Định.

Năm 1782, quân Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn ở cửa Cần Giờ, ông phò chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Định Tường. Từ năm 1784 đến năm 1785, ông theo chúa Nguyễn sang Xiêm La hai lần để cầu viện.

Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Trong dịp tặng thưởng các bề tôi có công, Nguyễn Văn Thoại cũng chỉ được phong Khâm sai Thống binh cai cơ, nhận nhiệm vụ ra thu phục Bắc Thành rồi được giữ chức Trấn thủ ở nơi đó. Ít lâu sau ông nhận lệnh làm Trấn thủ Lạng Sơn, rồi lại vào Nam nhận chức Trấn thủ Định Tường (1808).

Năm 1812, ông sang Cao Miên đón Nặc Ông Chân về Gia Định. Năm 1813, ông hộ tống Nặc Chân về nước và ở lại nhận nhiệm vụ bảo hộ Cao Miên.

Ở Cao Miên được ba năm, Thoại Ngọc Hầu được triệu về nhận chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817). Cũng trong năm này, ông cho lập 5 làng trên cù lao Dài.

Ở trấn Vĩnh Thanh, ông lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:

  • Kênh Thoại Hà: khởi đào vào năm 1818, dài hơn 30 km, nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Đào xong được vua Gia Long cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
  • Kênh Vĩnh Tế: đào theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc-Hà Tiên (tức nối sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan). Phải huy động hàng vạn nhân công thực hiện trong giai đoạn 1819-1824 (có trì hoãn 4 lần). Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Tế.
  • Năm 1823, ông cho lập 5 làng bên bờ Kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông.
  • Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi cho việc đi lại của nhân dân.
  • Lộ Núi Sam-Châu Đốc, dài 5 km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng văn bia được ghi trong sử sách.

Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này.

Riêng Kênh Vĩnh Tế – gắn liền với tên tuổi của Thoại Ngọc Hầu – có giá trị hết sức to tát về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng. Đây là một con kênh đào lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời quân chủ: bắt đầu từ bờ tây Sông Châu Đốc thẳng nối giáp với Sông Giang Thành, thuộc Thành phố Hà Tiên, Kiên Giang ngày nay. Trừ chiều dài Sông Giang Thành 42 km có sẵn, phần phải đào mới là 37 km.

Năm 1835, Vua Minh Mạng cho đúc Cửu đỉnh đặt trong Thành Nội Hế để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình Kênh Vĩnh Tế được chạm khắc trên Cao đỉnh – đỉnh lớn nhất.

Năm 1821, Thoại Ngọc Hầu giữ chức Thống chế bảo hộ Cao Miên, kiêm Án thủ Châu Đốc đồn, kiêm quản trấn Hà Tiên. Ghi nhớ công lao bảo hộ của ông, năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Thoại Ngọc Hầu (để trả ơn ông), 3 vùng đất. Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 vùng đất Chân Sum (nay thuộc An Giang) và Mật Luật (sau thành đất Huyện Tây Xuyên).

Khoảng năm 1820-1828, Thoại Ngọc Hầu cho xây Đình Châu Phú thờ Nguyễn Hữu Cảnh, một vị khai quốc công thần đã có công rất lớn trong việc khai hoang lập làng, xác lập chủ quyền, bình định an dân trên vùng đất Gia Định xưa.

Trong dân gian cũng truyền rằng chính Thoại Ngọc Hầu đã cho cất Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam. Lúc đầu, miếu được dựng lên bằng vật liệu đơn sơ: tre, lá… Năm 1972, miếu được xây dựng quy mô lớn và hoàn chỉnh như hiện nay. Người thiết kế là kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng. Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là một trong những di tích lịch sử danh thắng của tỉnh An Giang được cả nước biết đến.

Sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, có vị quan tên Vũ Du tố cáo Thoại Ngọc Hầu khi còn sinh tiền đã nhũng nhiễu dân địa phương. Vua Minh Mạng cho mở cuộc điều tra, bắt tội ông làm quan không liêm chính. Hậu quả là Thoại Ngọc Hầu bị truy giáng từ Chánh nhị phẩm xuống Chánh ngũ phẩm, hai người con trai – Nguyễn Văn Lâm (con bà cả Châu Thị Tế và Nguyễn Văn Minh con bà thứ Trương Thị Miệt) – bị thu hồi tập ấm, gia sản của ông lúc sinh thời bị tịch thu để đem chia cho dân Miên, đất của ông bị phát mãi… Nghĩa là từ công thần ông trở thành kẻ tội đồ.

Sau này triều đình làm sáng tỏ ra được thực chất đây là một vụ vu oan giá họa, Vũ Du bị cách chức đày đi Cam Lộ, Quảng Trị. Nhưng vua Minh Mạng lại không có hành động gì để phục hồi danh dự và quyền lợi của gia đình Thoại Ngọc Hầu. Sau này, ông chỉ được truy phong Trung đẳng thần theo sắc của vua Khải Định năm 1924. Sắc này ở dạng “bổn nhì” vì sắc thời Minh Mạng đã bị thu hồi.

Việc phục hồi danh dự cho Thoại Ngọc Hầu bị lấn cấn ở chỗ sau khi ông bị vu cáo rồi bị truy giáng một cách oan uổng, hai con trai Nguyễn Văn Lâm và Nguyễn Văn Minh cùng con gái nuôi Thị Nghĩa và chồng là Võ Vĩnh Lộc hẳn là do uất ức nên tham gia đoàn quân của Lê Văn Khôi chống lại triều đình. Sau khi quân triều đình Minh Mạng chiếm được thành Phiên An năm 1835 của quân phản loạn, hàng nghìn người vụ loạn Khôi bị xử chém. Hai con trai, con gái nuôi và con rể của Thoại Ngọc Hầu đều chung số phận.

Có lẽ do vụ việc này, vua Minh Mạng tức giận lây mà không phục hồi danh dự cho Thoại Ngọc Hầu và hẳn không ai trong triều dám tấu cho việc này.

Thoại Ngọc Hầu đóng góp công lao trong các việc phát triển đất nước là thế, nhưng khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn, hai con đường mang tên ông – giống như những con đường mang tên nhân vật triều Nguyễn – bị đổi tên: đường Thoại Ngọc Hầu thành Phạm Văn Hai và đường Nguyễn Văn Thoại thành Lý Thường Kiệt.

Nguồn: thoaingochau.org (2013), Wikipedia_Kênh Vĩnh Tế, Wikipedia_Thoại Ngọc Hầu

thói nước Trịnh: Nói thói tà dâm của trai gái. Nước Trịnh thời Xuân Thu có nhiều thói tà dâm phóng đãng, trai gái trèo tường đón ngõ hẹn nhau ngoài nội để đùa bỡn là chuyện phổ biến.

Kinh Thi còn chép một số ca dao nước Trịnh phản ánh tình trạng tà dâm phóng đãng đó.

Vân Tiên:

Chẳng phen thói nước Trịnh đâu
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình

thỏ bạc:

Đoạn trường tân thanh, tả mộ Đạm Tiên:

Trải bao thỏ lặn, ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!

Đoạn trường tân thanh, khi Kiều nghĩ về số phận của mình:

Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!

“Thỏ” hoặc “thỏ bạc” chỉ mặt trăng vì theo truyền thuyết trên mặt trăng có con thỏ ngọc giã thuốc trường sinh, “ác” tức ác vàng hay “kim ô” chỉ mặt trời vì theo truyền thuyết trên mặt trời có con quạ vàng. Hai đoạn có nghĩa: trải bao lần mặt trăng lặn, mặt trời xế bóng, tức thời gian dài trôi qua.

Xem thêm mục: ác vàng.

Thôi Giao: xem Cửa Hầu, Chàng Tiêu.

Thôi Hạo: hoặc Thôi Hiệu (khoảng 704-754), người Biện Châu (nay là Tỉnh Hà Nam), đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 11 (723) làm quan đến chức Tư Huân viên ngoại lang. Ông sống phóng túng, ít gìn giữ, do đó người đời có người không thích. Thơ ông đến nay còn 14 bài, nổi tiếng với bài thơ Hoàng Hạc lâu. Truyền thuyết nói rằng, Lý Bạch đến Hoàng Hạc lâu đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút không làm thơ nữa! Ông để lại một tập thơ vài trăm bài.

Thôi Hộ: (618-907): tự Ân Công, người Quận Bác Lăng, nay là Định huyện, Tỉnh Trực Lệ, Trung Quốc, sống vào đời Đường Đức Tông. Thôi Hộ lận đận khoa cử, lại là người tuấn nhã, phong lưu nhưng sống khép kín, ít giao du. Đến năm 796, niên hiệu Trinh Nguyên, Thôi Hộ đậu Tiến sĩ, làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam. Xem mục: hoa đào năm ngoái.

Thôi, Trương: xem Tây sương ký.

Đoạn trường tân thanh:

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương

thôi xao: thôi là đẩy, xao là gõ.

Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn. Cảnh vắng, trăng thanh, chim đậu trên cành cây bên bến nước, bóng người chiếu xuống mặt nước đầm, sư thấy lòng thơ lai láng, tức cảnh ngâm (dịch thơ):

Chim đỗ cây bến nước
Sư gõ cửa dưới trăng
Mình đi bóng chiếu xuống
Tựa cây mà thở than

Giả Đảo ngâm đi ngâm lại, nhận thấy chữ thôi trong câu Tăng thôi nguyệt hạ môn không được ổn, nên đổi lại xao. Nhưng cũng không vừa ý. Ông đọc thôi rồi lại xao, lại đọc xao rồi đọc thôi. Rốt cuộc ông phân vân không biết dùng chữ nào cho thích hợp.

Ông tức quá, bước xuống lừa, đứng giữa đường đi, đưa tay đẩy (thôi) rồi gõ (xao), gõ rồi đẩy giả như đứng trước nhà bạn vậy. Ông cứ làm như thế mãi mà không thấy phải dùng chữ nào.

Hàn Dũ vì can vua nên bị giáng chức tại triều ra làm thứ sử ở Triều Châu. Buồn cho thân thế, thấy trăng thanh gió mát nên cũng thong thả dạo chơi. Xa xa thấy một nhà sư đứng bên con lừa, tay lúc đưa tới đưa lui, lúc đưa qua đưa lại như thằng điên thì rất lấy làm lạ. Hàn lần bước đến gần lên tiếng, nhà sư mới giựt mình ngừng lạị Hàn Dũ hỏi thì Giả Đảo thuật lại sự tình. Hàn bật cười và bàn: “Nên dùng chữ Xao (gõ) là đúng hơn”.

Giả Đảo đồng ý nên câu Tăng thôi nguyệt hạ môn đổi ra Tăng xao nguyệt hạ môn.

Hai tiếng “thôi xao”, trong văn chương ngày nay để chỉ là “chọn chữ làm văn thơ”. Đây cũng là một gương sáng cho những người làm thơ, làm văn phải chọn chữ cho xác đáng, thích hợp. Chớ không được dùng từ ngữ ẩu!

Ta cũng có thành ngữ: “Nghĩ ra một chữ rụng mấy sợi râu”, cũng đồng một ý nghĩa như trên.

Giả Đảo lại có một bài thơ (Hoài Nam Tử dịch):

Ba năm được hai câu
Ngâm lên giọt lệ trào
Tri âm bằng chẳng hiểu
Về ẩn chốn non cao!

Thơ Đường: Vương Sĩ Trinh đời nhà Thanh chia thơ Đường làm ba thời kỳ:

  • Sơ Ðường (618- 712) gồm có những nhà thơ nổi tiếng: Dương Quýnh, Hạ Tri Chương, Lạc Tân Vương, Lư Chiếu Lân, Lưu Hy Di, Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, Trương Nhược Hư, Vương Bột và cuối thời này thì có Trần Tử Ngang, Trương Cửu Linh
  • Thịnh Ðường (713- 824) có Bạch Cư Dị, Cao Thích, Giả Ðảo, Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Liễu Tôn Nguyên, Lưu Vũ Tích, Lý Hạ, Mạnh Giao, Mạnh Hạo Nhiên, Nguyên Chẩn, Nhung Dục, Sầm Tham, Thôi Hạ (Hiệu), Thôi Hộ, Thường Kiển, Trương Kế, Trường Tịch, Vi Ứng Vật, Vương Chi Hoán, Vương Duy, Vương Hàn, Vương Xương Linh
  • Vãn Đường (825- 907) có Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn, Ôn Ðình Quân, Trịnh Cốc, Trương Hựu.

Đoạn trường tân thanh, quan phủ khen thơ của Kiều:

Khen rằng “Giá đáng Thịnh Ðường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”

Vua Tự Ðức có hai câu thơ để khen bốn nhà thơ cự phách (tuy cường điệu):

Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Ðường.

Nghĩa: văn của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát đoạt được cả văn đời Tiền Hán; thơ của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương lấn được thơ thời Thịnh Ðường.

thu ba: có nghĩa sóng mùa thu. Từ câu thơ của Tô Đông Pha: Giai nhân vị khửng hồi thu ba (Mắt người đẹp ướt và sáng như sóng mùa thu).

Cung oán ngâm khúc:

Áng đào kiển đâm bông não chúng
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành

(Khóe thu ba: khóe mắt như sóng mùa thu)

thu không: nghĩa đen là không thu thứ gì. Ngày xưa ở kinh thành hay các tỉnh thành, mỗi khi trời sắp tối, quân lính đi lùng trong thành, khi đã biết đích xác không có quân gian ẩn núp lúc ấy mới ra hiệu để đóng cửa thành lại. Ý nói trong thành không có gì lạ cả.

Đoạn trường tân thanh:

Kiều từ trở gót trướng hoa
Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không.

Thuần Vược: Do chữ Thuần lô tức Thuần canh lô khoái: canh rau thuần, gỏi cá vược (lô), chỉ phong vị nơi quê nhà.

Tấn thư: Trương Hàn giỏi văn chương, tính phóng khoáng, không hay câu nệ nhỏ nhặt. Ông vào đất Lạc, Tề Vương Quýnh vời đến cho giữ chức thuộc quan. Bấy giờ Quýnh đương cầm quyền mà ông đã từng nói rằng: “Thiên hạ loạn lạc, mối họa chưa định được, phàm người có tên tuổi trong bốn bể cầu được lui về mà hưởng an nhàn là rất khó.” Rồi nhân một buổi gió thu bắt đầu thổi mà nhớ canh rau Thuần, gỏi cá vược (Thuần canh lô khoái) ở quê nhà. Ông than rằng: Nhân sinh quý đắc thích chí, hà năng kỳ quan sổ thiên lý dĩ, yêu danh tước hồ (Ðời người ta quý nhất là được điều thích chí, sao có thể chịu trói buộc mình ở ngoài ngàn dặm mà cầu danh cầu tước!). Ðoạn ông sai người nhà thắng ngựa, chuẩn bị hành lý rồi bỏ quan trở về quê cũ.

Thuận Hóa: vùng đất có ý nghĩa lịch sử đặc biệt của Việt Nam. Thuận Hóa là địa danh hành chính cũ bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế ngày nay. Đây nguyên là đất các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô và Châu Lý của Chiêm Thành.

Năm 1069, Vua Chế Củ của Chiêm Thành bị bại sau cuộc chiến với Lý Thánh Tông, bị bắt giải về Đại Việt. Ông xin cắt đất 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để tự chuộc mình nên được tha về. Nhà Lý đặt tên vùng đất mới là Tân Bình.

Đến năm 1306, Vua Chiêm Thành là Chế Mân lấy Huyền Trân Công chúa và đổi lấy hai châu Ô, Lý làm quà sính lễ. Năm 1307, Trần Anh Tông tiếp thu hai châu vào Đại Việt và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Sau này hai châu được gom lại thành phủ Thuận Hóa dưới thời nội thuộc nhà Minh.

Năm 1466, Lê Thánh Tông phân chia địa giới hành chính cả nước Đại Việt thành 12 đạo thừa tuyên và chính thức đặt Thuận Hóa làm thừa tuyên Thuận Hóa, bao gồm cả phủ Tân Bình.

Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất này và cùng con cháu các đời xây dựng Thuận Hóa thành xứ Đàng Trong, dần dà lấn chiếm Chiêm Thành và Chân Lạp rồi kéo dài xuống tận mũi Cà Mau.

Đến đời nhà Hậu Lê và nhà Mạc, Thuận Hóa là một đơn vị hành chính cấp tỉnh, trải dài từ Đèo Ngang (Quảng Bình) cho tới tận các huyện Nông Sơn, Quế Sơn, Duy Xuyên (Quảng Nam) ngày nay.

Năm 1604, Nguyễn Hoàng cắt Huyện Điện Bàn thuộc Trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào Trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ 17-18) là vùng đất trải dài từ phía nam Đèo Ngang cho tới Đèo Hải Vân.

thuốc điểm mắt rồng: Tôn Tư Mạo là ẩn sĩ đời Ðường, làu thông cả Bách Gia Chư Tử, kiêm sành cả nghề thầy thuốc. Ðường Thái Tông mời làm quan ở kinh sư, ông không nhận, lui về ở trong núi, hơn trăm tuổi mới mất. Tương truyền có con rồng mắc bệnh đến cầu chữa, có con cọp nuốt phải cây kim thoa cũng đến cầu rút hộ.

Thuyết nan: (Cái khó trong việc du thuyết): tựa một quyển sách của Hàn Phi. Sử ký tóm tắt nội dung của Thuyết Nan: Phàm cái khó trong việc du thuyết chính là ở chỗ làm thế nào biết được cái tim của con người mình muốn thuyết phục để dùng cái thuyết của mình mà đối phó… Phàm việc làm mà thành là do chỗ bí mật; lời nói mà thất bại là do chỗ bị tiết lộ. Bản thân mình chưa chắc đã tiết lộ ra, nhưng chỉ cần nói đến cái mà người ta giấu thì đã nguy đến thân rồi. Nhà vua có điều sai mà người du thuyết lại dùng những lời sáng tỏ, dùng cái nghĩa lý hay để suy luận ra sai lầm của nhà vua thì nguy đến thân.

Nếu ta chưa được ân huệ nhà vua tưới đến mà lại đem hết những điều ta biết ra nói thì hoặc là cái thuyết của ta sẽ được dùng đem đến kết quả nhưng ta chẳng được ơn đức; hoặc là cái thuyết không được dùng xảy ra thất bại, thế là ta bị nghi ngờ. Như thế thì nguy đến thân.

Phàm nhà vua được cái kế của ta, nhưng muốn xem đó là công lao của mình, mà người du thuyết lại muốn cùng biết, thế thì nguy đến thân. Nếu nhà vua rõ ràng muốn làm một việc gì và cho đó là công lao của mình mà kẻ du thuyết lại cùng biết điều đó thì nguy đến thân. Nếu mình cưỡng ép nhà vua làm những điều nhà vua quyết không làm, bác bỏ những điều nhà vua quyết không bỏ, thì nguy đến thân.

Cho nên nói: Nếu ta đem những người tôn quý trong triều ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho là ta ly gián; nếu ta đem những người thấp hèn ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho ta muốn bán quyền. Ta bàn đến cái nhà vua thích, thì nhà vua sẽ cho là ta nịnh hót; ta bàn đến cái vua ghét, thì nhà vua sẽ cho là ta thăm dò nhà vua.

Nếu ta nói tóm tắt, ít lời, thì nhà vua sẽ cho là ta không có kiến thức gì và khinh ta. Nếu ta nói mênh mông, lời lẻ phu phiếm, thì nhà vua sẽ thấy là nhiều quá và chán. Nếu ta cứ trình bày sự việc theo ý muốn nhà vua, thì nhà vua sẽ bảo ta “nhút nhát không dám nói hết sự lý”. Nếu ta suy nghĩ sự việc và nói rộng, thì nhà vua sẽ bảo ta “thô lỗ và ngạo mạn”.

Tất cả những điều khó này trong việc du thuyết không thể không biết đến.

Phàm việc thuyết phục là cốt ở chỗ biết tô điểm cho cái mà nhà vua quý trọng, từ bỏ cái mà nhà vua ghét. Hễ nhà vua tự cho cái kế mình là sai, thì ta chớ nêu chỗ nó sai lầm mà bắt bẻ đến cùng.

thúc quý: Nói đời suy loạn, sắp có diệt vong. Phúc Chu Hy (Tống): Tai thúc quý nhi thả nhiên, Thần hưu minh chi cảnh vận (ở đời suy loạn mà còn được thế, huống hồ ở thời buổi thịnh trị).

Lời sớ Tả Truyện: Chính sự suy vi gọi là Thúc Thế (đời suy loạn), đời Thúc Thế còn hơn đời Quý Thế là đời sắp diệt vong.

Thúc Tử: Thượng hữu lục: Nhan Thúc Tử đời Chu, người nước Lỗ, một mình ở một cái nhà, đêm mưa bão, nhà láng giềng phía bắc bị đỗ, một cô gái chạy sang trú nhờ. Thúc Tử bắt cô gái cầm một cây nến ở tay, nến hết lại đưa cây khác để đốt tiếp. Ðến sáng mới thôi. Ông giữ mình ngay sạch đến như thế.

thù chín đời: Công Dương truyện, Trang Công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai Công mà phục thù, đương thời gọi là mối thù chín đời.

Sau khi lên ngôi, Vua Gia Long nhắc đến điển tích trên: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn Kinh Xuân Thu” nhằm biện minh cho những hình phạt tàn khốc đối với những người theo Tây Sơn và thân nhân của họ. Mồ mả và người đã chết như Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cũng không tha.

Đại Nam thực lục ghi chép các hình phạt tàn khốc như sau:

  • Dẫn Nguyễn Quang Toản và các em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, cho 5 voi xé xác (buộc mỗi con voi vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi chạy đi các hướng).
  • Đào lên hài cốt của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ giã nát rồi vất đi.
  • Phá hủy mộ Nguyễn Huệ.
  • Giam xương sọ của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ ở Nhà đồ Ngoại, năm Minh Mạng thứ 2 (1822) đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi.
  • Xử tử Nguyễn Quang Toản và Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Vũ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ; Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bộ hạ.
  • Xử lăng trì và cắt nát thây con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu phe Tây Sơn, tổng cộng 31 người.

Võ Hương An (2014) còn viện dẫn nguồn để kể ra những hình phạt khác:

  • Trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em Vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyện Nhạc).
  • Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Gia Long ra lệnh truy tầm mọi nơi những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã.

Về hành động trước đó của nhà Tây Sơn đối với nhà Nguyễn, Đại Nam thực lục ghi Nguyễn Huệ “sai đồ đảng đào các lăng” mà không nêu rõ tất cả các tên lăng, chỉ có một tên là Lăng Hoàng Khảo tức là lăng Cơ Thánh. Bản dịch Nôm phụ chú đó là Lăng Nguyễn Phước Noãn, trong khi Nguyễn Phước Noãn chính là Nguyễn Ánh. Thế thì thật hư thế nào?

Nhưng Võ Hương An (2014) ghi Nguyễn Huệ “đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn” mà không dẫn nguồn và “giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần” rồi kết luận “quả nhiên Vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chạy chút nào.”

Tóm lại, chính sử triều Nguyền ghi chi tiết về những hành động trả thù nhà Tây Sơn với câu nói biện minh của Gia Long, nhưng ghi rất ít về việc Nhà Tây Sơn phá lăng mộ các chúa Nguyễn, Điều này là dễ hiểu: bộ Đại Nam thực lục bịcác vua triều Nguyễn kiểm duyệt. Từ đó, ta có tình huống “một nửa sự thật không phải là sự thật”.

thủ thiện phụ nhân: Lấy điều lành mà khuyên người thì lòng nhân của người ngày càng tiến. Luận Ngữ: Tăng Tử nói rằng: Người quân tử nhờ văn chương để họp bầu bạn, nhờ bầu bạn giúp để tiến đức nhân.

Thủy hử: Theo Wikipedia_Thủy Hử, Thủy hử hay Thủy hử truyện, nghĩa đen là “bến nước”, là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm “Tứ đại danh tác”. Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am; cũng có người cho là của La Quán Trung. Truyện bắt nguồn từ những ghi chép về cuộc khởi nghĩa Tống Giang trong Tống sử và một số ghi chép mang tính chất dã sử trong Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.

Thủy hử có nhiều phiên bản: bản 70 hồi, 100 hồi, 114 hồi, 115 hồi, 120 hồi, 140 hồi,… Theo Lỗ Tấn, có tổng cộng sáu bản Thủy hử, thuộc hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Trong đó, bản 100 hồi được xem là gần với nguyên tác nhất, với tựa đề ban đầu là Trung nghĩa Thủy hử truyện, nội dung gồm việc các anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa (thường nằm trong khoảng 70 hồi) và bình Liêu đánh Phương Lạp. Bản Thủy hử phổ biến nhất là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán – một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Kim Thánh Thán cắt bỏ nhiều nội dung, bao gồm việc đánh Liêu và Phương Lạp, chỉnh sửa lại theo quan điểm cá nhân, thêm bình luận của cá thân, từ đó tạo thành bản 70 hồi thường thấy ngày nay, gọi là Bình bản Thánh Thán hay Quan bản, Kim bản.

Từng nhóm anh hùng tập hợp riêng lẻ, rồi sau đó tất cả đều tụ về Lương Sơn. Thủy hử phản ánh thực trạng trong xã hội phong kiến nhiều đời: “quan bức thì dân phản”, điều đó rất hợp với tâm lý của đông đảo quần chúng lao động nghèo khổ bị bóc lột, áp bức nên Thủy hử dễ đi sâu vào tiềm thức của nhân dân.

Điều khiến Thủy hử trở nên ly kỳ, hấp dẫn là ngoài tính cách đa dạng của các nhân vật, các tình tiết còn mang nhiều tính bất ngờ, thú vị cho người đọc. Người thủ lĩnh đầu tiên của Lương Sơn Bạc là Vương Luân, nhưng chính Vương Luân lại bị Lâm Xung giết để tôn Tiều Cái. Tiều Cái được xem là người khai sáng Lương Sơn, nhưng lại không thuộc vào số 108 vị anh hùng – không thuộc vào 36 vị thiên cang hay 72 vị địa sát – vì ông tử trận trước khi Lương Sơn tập hợp đủ 108 người.

Tài năng, tính cách của các anh hùng Lương Sơn cũng phong phú, mỗi người một vẻ. Ngoài những người giỏi chinh chiến trên lưng ngựa như Quan Thắng, Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Tần Minh, Đổng Bình… đánh bộ như Lý Quỳ, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm… còn một đội ngũ các tướng chuyên đánh bằng thủy quân như anh em họ Trương, 3 anh em họ Nguyễn, Lý Tuấn; các quân sư tài ba như Ngô Dụng, Chu Vũ; những người di chuyển nhanh hoặc giỏi đột nhập như Đới Tung, Thời Thiên… Đặc biệt, trong các anh hùng Lương Sơn còn có 3 phụ nữ (Cố Đại Tẩu, Hỗ Tam Nương và Tôn Nhị Nương).

thủy quốc: chỉ vùng Giang Nam, nơi có nhiều sông hồ.

thủy thiên nhất sắc: Trời nước một màu. Chỉ cảnh trời nước bao la cùng một màu xanh như hòa nhập với nhau. Từ này thường dùng tả cảnh mùa thu.

Thơ Vương Bột đời Ðường: Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (Nước mùa thu cùng bầu trời bao la hòa làm một màu.)

Thục đế: xem đỗ quyên.

Thương Ưởng: còn được gọi là Vệ Ưởng hoặc Công Tôn Ưởng (khoảng 390–338 tCN), là nhà chính trị gia, pháp gia nổi tiếng, Thừa tướng nước Tần của thời Chiến Quốc, có công đưa nước Tần từ lạc hậu thành hùng mạnh vượt bậc. Theo Sử ký, Thương Ưởng lúc nhỏ thích học hình danh, phò tá tể tướng nước Ngụy là Công Thúc Toa làm trung thứ tử. Công Thúc Toa biết Ưởng hiền, nhưng chưa có dịp tiến cử. Khi Toa mắc bệnh, Ngụy Huệ Vương thân hành đến thăm bệnh, hỏi: “Nếu như bệnh của Công Thúc đưa đến việc chẳng may thì ai lo việc nước nhà?”

Công Thúc Toa nói: “Trung thứ tử của Toa là Công Tôn Ưởng, tuy trẻ tuổi, nhưng có tài cao, xin nhà Vua giao phó việc nước cho ông ta.”

Nhà Vua im lặng. Vua sắp đi, Toa đuổi mọi người ra, nói: “Nếu nhà Vua không nghe tôi, không dùng Ưởng, thì phải giết y đi, chớ để cho y ra khỏi biên giới.”

Nhà Vua nhận lời mà đi ra.

Công Thúc Toa gọi Ưởng đến từ tạ, nói: “Hôm nay, nhà Vua hỏi tôi, ai có thể làm tể tướng, tôi nói anh. Sắc mặt nhà Vua có vẻ không tin lời tôi. Tôi trước tiên phải lo đến vua, sau mới nghĩ đến bầy tôi, cho nên tôi nói với nhà Vua ‘nếu nhà Vua không dùng Ưởng thì phải giết anh ta đi.’ Nhà Vua đã hứa. Vậy anh phải mau mau trốn đi, nếu không sẽ bị bắt đấy.”

Ưởng nói: “Nhà Vua đã chẳng nghe lời của ông cho tôi làm tể tướng, lẽ nào lại có thể nghe lời nói của ông mà giết tôi?”

Rốt cuộc Ưởng không đi.

Sau khi đi ra, Huệ Vương nói với các quan hầu: “Công Thúc bệnh nặng, thực đáng thương! Ông ta muốn quả nhân nghe theo Công Tôn Ưởng để trị nước, há chẳng quá sai lầm sao?”

Sau khi Công Thúc Toa chết, Công Tôn Ưởng nghe tin Tần Hiếu Công ra lệnh trong nước tìm nhân tài để nối nghiệp của Tần Mục Công, đem quân sang hướng đông lấy lại đất đai bị cướp, bèn đi sang hướng tây vào đất Tần. Ưởng nhờ một người tôi yêu của Hiếu Công là Cảnh Giám để xin yết kiến Hiếu Công. Khi đã gặp Vệ Ưởng, Hiếu Công nói chuyện một hồi lâu, nhiều khi buồn ngủ, không nghe.

Sau đó, Hiếu Công giận, quở Cảnh Giám: “Người khách của nhà ngươi láo lếu, dùng làm sao được!”

Cảnh Giám trách Vệ Ưởng.

Vệ Ưởng nói: “Tôi đem đế đạo ra nói với nhà Vua, nhưng chỉ vì nhà Vua không hiểu rõ đó thôi.” [Đế đạo tức là đạo Ngũ Đế, ý muốn làm cho vua giống như Nghiêu, Thuấn.]

Năm ngày sau, Cảnh Giám lại xin nhà Vua cho Ưởng được yết kiến. Ưởng lại yết kiến Hiếu Công, nhà Vua tỏ ra vui vẻ hơn, nhưng vẫn chưa trúng ý nhà Vua.

Sau đó, Hiếu Công lại trách Cảnh Giám, Cảnh Giám cũng lại trách Vệ Ưởng.

Ưởng nói: “Tôi đem vương đạo ra nói nhưng chưa lọt vào tai đó thôi. Xin cho Ưởng được yết kiến lần nữa.” [Vương đạo tức là đạo của Tam Vương, ý muốn làm cho Vua giống như Hạ Vũ, Thành Thang, Vũ Vương.]

Ưởng lại yết kiến Hiếu Công, Hiếu Công khen nhưng vẫn chưa dùng.

Sau khi hội kiến đi ra, Hiếu Công nói với Cảnh Giám: “Người khách của nhà ngươi giỏi đấy, có thể nói chuyện được!”

Thương Ưởng nói: “Tôi đem bá đạo ra nói với nhà Vua, ý nhà Vua là muốn dùng đấy. Nếu nhà Vua còn gọi tôi đến yết kiến thì tôi đã biết phải nói những gì rồi!” [Bá đạo tức là đạo làm bá chủ chư hầu như Tề Hoàn Công, Tần Mục Công thời Xuân Thu.]

Thương Ưởng lại yết kiến Hiếu Công. Hiếu Công cùng y nói chuyện, không biết đầu gối của mình đã lê đến trước chiếu của y. Nói mấy ngày không chán.

Cảnh Giám hỏi: “Ông làm sao nói đúng ý nhà Vua đến nỗi nhà Vua vui thích như thế?”

“Tôi đem đạo đế vương ra nói với nhà Vua, muốn nhà Vua sánh với thời Tam Đại, nhưng nhà Vua nói ‘Điều đó viễn vông, ta không thể chờ được, vả chăng những vị vua hiền, đều được nổi danh trong thiên hạ, ngay trong đời mình, lẽ nào ngồi bùi ngùi đợi mấy trăm năm mới thành đế vương sao?’ Vì vậy tôi đem cái thuật làm cho nước mạnh nói với nhà Vua, nhà Vua rất thích. Nhưng cũng khó mà sánh đức với đời Thương, đời Chu được!”

Sau khi Hiếu Công dùng Thương Ưởng, Ưởng muốn thay đổi pháp độ, nhưng sợ thiên hạ bàn tán.

Thương Ưởng nói: “Hành động không kiên quyết thì không nổi tiếng được, sự việc không xác định thì không nên công cán gì! Vả chăng, những kẻ làm việc cao hơn người thường bị thế tục chê bai. Những kẻ có ý nghĩ lỗi lạc thế nào cũng bị dân chúng trách móc. Người ngu thì việc đã thành vẫn còn mờ ám không biết; người khôn thì việc chưa tỏ mầm mống đã thấy rồi. Dân chúng không thể cùng ta lo liệu buổi đầu mà chỉ có thể cùng ta yên vui khi công việc đã xong. Bàn cái “chí đức” không thể hòa đồng với thế tục; làm nên công lớn không cần hỏi ở dân chúng. Vì vậy cho nên bậc thánh nhân nếu có thể tìm cách làm cho nước mạnh thì khi không bắt chước phép cũ, nếu có thể làm cho dân lợi thì không câu nệ ở lề thói ngày xưa.”

Hiếu Công khen: “Phải!”

Cam Long nói: “Không phải thế! Thánh nhân không đổi dân để dạy, kẻ trí giả không thay đổi pháp độ để trị. Thuận dân tục mà dạy thì không khó nhọc mà lại thành công; theo phép mà trị thì quan lại làm đã quen mà dân cũng thích.”

Thương Ưởng trả lời: “Lời của ông Long là lời của thế tục! Người thường thì thuận theo tục cũ; kẻ học giả say đắm vào những điều mình đã nghe, hai hạng người ấy làm quan giữ phép thì được, chứ không thể cùng bàn đến việc ở ngoài phép tắc. Đời Tam Đại đều làm vương, nhưng lễ khác nhau, Ngũ Bá đều làm bá, nhưng phép tắc khác nhau. Kẻ trí giả làm ra pháp chế, người ngu lại lo ngăn cản người hiền thay đổi lễ, kẻ bất tiếu lại câu nệ.”

Đỗ Chí nói: “Nếu không có lợi gấp trăm lần thì không thay đổi pháp chế, nếu không có công hiệu gấp mười lần thì không thay đổi đồ dùng. Bắt chước xưa thì không sai lầm, theo lễ thì không lệch lạc.”

Thương Ưởng trả lời: “Trị đời không phải chỉ có một cách, trị nước không bắt chước xưa. Vì vậy Thành Thang, Vũ Vương không theo xưa mà làm vương; Vua Kiệt nhà Hạ, Vua Trụ nhà Ân không thay đổi lễ mà nát. Không nên chê người làm trái xưa, không nên khen người chỉ theo lễ.”

Hiếu Công nói: “Phải!”

Bèn cho Thương Ưởng làm tả thứ trưởng rồi ra lệnh thay đổi pháp chế.

Ưởng sai chia dân thành từng nhóm, năm hộ, mười hộ, phải kiểm soát nhau và bị ràng buộc vào nhau. Ai không tố cáo kẻ gian thì bị chém ngang lưng; ai tố cáo kẻ gian thì cũng được thưởng ngang với người chém đầu quân địch; người che giấu quân gian bị phạt ngang với người đầu hàng quân địch. Gia đình có hai người con trai trở lên mà không chia của ở riêng thì bắt đánh thuế gấp đôi. Ai có quân công thì cứ theo thứ bậc mà được thưởng, ai đánh nhau vì việc riêng thì đều bị hình phát lớn hay nhỏ, tùy theo nặng hay nhẹ mà trị. Ai ra sức vào nghề nghiệp gốc, cày cấy, dệt vải, cung cấp nhiều lúa thì được tha khỏi sưu dịch; trái lại, ai chỉ lo kiếm lợi nhuận mà không sản xuất, cùng những người lười mà nghèo thì đều bắt cùng với vợ con làm nô; người tôn thất mà không có quân công, thì không được ghi vào sổ sách họ nhà vua. Định cấp bậc tước trật cao thấp rõ ràng; ghi tên các ruộng vườn, thần thiếp, áo quần theo số hiệu từng nhà. Ai có công thì hiển vinh, ai không có công thì tuy giàu có cũng không được vinh hoa. Những điều này biểu hiện cụ thể nguyên lý cơ bản của học thuyết “hình danh”: mọi người bình đẳng trước pháp luật, lấy thưởng và phạt làm nguyên lý trị nước, không cần thuyết phục hoặc giải thích gì cả.

Sau khi soạn đầy đủ pháp chế mới (gọi là tân lệnh), Thương Ưởng vẫn chưa ban bố vì sợ dân không tin mình. Ưởng bèn dựng một cây gỗ dài ba trượng ở cửa phía nam chợ của kinh đô, quảng cáo rằng, ai có thể mang nó đến cái cửa phía bắc thì cho mười lạng vàng. Dân lấy làm lạ, không ai dám mang đi.

Ưởng lại nói: “Ai có thể mang đi thì cho năm mươi lạng vàng!”

Có một người mang, Ưởng liền cho năm mươi lạng, để chứng tỏ mình không lừa dối. Đây là điển tích tỉ mộc lập tín (dựng cột gỗ để tạo lòng tin).

Ti moc lap tin
Tỉ mộc lập tín (dựng cột gỗ để tạo lòng tin)

Rồi Thương Ưởng ban bố pháp lệnh. Lệnh thi hành trong dân gian được chẵn năm. Lúc đầu người ở trong kinh đô nước Tần nói lệnh không tiện có hàng ngàn.

Bây giờ Thái tử phạm pháp, Thương Ưởng nói: “Pháp lệnh mà không thi hành được, là do người trên phạm.”

Thương Ưởng muốn lấy pháp luật trị Thái tử, nhưng Thái tử là người sẽ nối ngôi cho nên không thể trừng trị. Ưởng trừng trị Thái phó của Thái tử là Công tử Kiên, chạm vào mặt thầy Thái tử là Công Tôn Giả. Ngày hôm sau, người Tần đều theo lệnh. Pháp lệnh thi hành được mười năm, dân Tần rất vui mừng, ngoài đường không nhặt của rơi, trong núi không có trộm cướp, nhà đủ người no, dân dũng cảm trong lúc chiến đấu vì việc công, khiếp sợ không dám đánh nhau vì việc riêng, làng xóm đều được trị an. Trong số những người xưa kia nói lệnh không tiện, có người đến nói lệnh tiện.

Thương Ưởng nói: “Đó đều là bọn dân làm cho việc giáo hóa rối loạn.”

Bèn đày tất cả những người ấy ra biên giới. Sau đó dân không ai dám bàn bạc gì về pháp lệnh nữa. Tức là dân không được khen chê gì cả, chỉ lo chấp hành thôi.

Vua bèn cho Ưởng làm đại lương tạo, đem binh vây đất An Ấp của nước Ngụy, bắt ấp này phải đầu hàng.

Được ba năm, Ưởng sai xây đắp cung điện và cửa khuyết ở Hàm Dương, Tần dời đô ở Ung đến đấy. Ưởng ra lệnh cấm cha, con, anh em cùng ở chung một nhà; phân cư và hợp các làng, xóm, nhỏ lại thành huyện, đặt chức quan lệnh và thừa. Được tất cả ba mươi mốt huyện. Bỏ bờ ruộng, đường thiên đường mạch, nhờ đó việc đánh thuế được tăng. Thống nhất hộc, thùng, quả cân, cân, thước, tấc. Lệnh thi hành được bốn năm, công tử Kiền lại phạm pháp bị cắt mũi.

Được năm năm, người Tần giàu mạnh. Thiên tử biếu Hiếu Công thịt tế, chư hầu đều đến mừng. Năm sau, quân Tề đánh bại quân Ngụy ở Mã Lăng, bắt bỏ tù Thái tử Ngụy là Thân, giết tướng quân Bàng Quyên.

Năm sau (340) Thương Ưởng nói với Hiếu Công: “Nước Tần với nước Ngụy cũng giống như con người có bệnh trong tim gan vậy. Nếu nước Ngụy không thôn tính nước Tần, thì nước Tần cũng phải thôn tính nước Ngụy. Tại sao? Vì nước Ngụy ở phía tây dãy núi hiểm đóng đô ở An Ấp cách Tần con Sông Hoàng Hà và một mình thu tất cả nguồn lợi miền Sơn Đông. Gặp điều kiện thuận lợi thì Ngụy đem quân về hướng tây đánh Tần. Ngụy gặp điều kiện không có lợi thì ta có thể qua phía đông để mở đất. Nay Tần được lúc nhà Vua hiền thánh, nước nhờ vậy cường thịnh; trái lại nước Ngụy năm ngoái bị Tề đánh thua to, chư hầu làm phản. Ta có thể nhân lúc này mà đánh Ngụy. Ngụy không chống cự nổi Tần, thì thế nào cũng phải dời về đông. Ngụy dời về đông, Tần nhờ sự hiểm trở của núi sông quay mặt về đông để khống chế chư hầu, đó là cái nghiệp đế vương vậy.”

Hiếu Công cho là phải, sai Thương Ưởng làm tướng đánh Ngụy. Nước Ngụy sai Công tử Ngang làm tướng đón đánh. Khi hai quân gần nhau, Thương Ưởng đưa thư cho tướng Ngụy là công tử Ngang, nói: “Tôi trước đây chơi thân với Công tử, nay cả hai đều làm tướng của hai nước, không nỡ đánh nhau. Tôi muốn gặp mặt công tử ăn thề, uống rượu mừng và bãi binh để cho Tần và Ngụy được yên.

Công tử Ngang nước Ngụy cho là phải. Hội họp ăn thề xong, uống rượu. Thương Ưởng phục võ sĩ bắt Công tử Ngang bỏ tù, nhân đó đánh quân Ngang, đem Ngang về Tần. Binh của Ngụy Huệ Vương mấy lần bị quân Tề, quân Tần đánh phá, trong nước trống rỗng, ngày càng hao mòn nên lo sợ. Ngụy Huệ Vương bèn sai sứ cắt đất Tây Hà dâng cho Tần để giảng hòa.

Rồi Ngụy phải bỏ An Ấp, dời đô đến Đại Lương, đổi tên nước là Lương. Lương Huệ Vương nói: “Quả nhân hối hận không nghe lời của Công Thúc Toa! (Ý nói đã không nghe theo lời khuyên giết Vệ Ưởng.)

Sau khi đánh phá quân Ngụy trở về. Tần phong cho Thương Ưởng mười lăm ấp ở đất Ư, đất Thương, hiệu là Thương Quân.

Thương Ưởng làm tể tướng nước Tần mười năm, tôn thất và gia đình quyền quý nhiều người oán.

Triệu Lương ra mắt Thương Ưởng. Thương Ưởng hỏi: “Ưởng được gặp ông là nhờ Mạnh Lan Cao tiến cử, nay Ưởng muốn được kết bạn với ông có được không?”

Triệu Lương nói: “Tôi không dám mong được thế. Khổng Khâu có nói: ‘Nếu tiến cử người hiền thì những người yêu dân tự tiến cử mình; nếu tụ họp bọn bất tiếu thì những người theo vương đạo tự rút lui.’ Tôi là kẻ bất tiếu, cho nên không dám vâng mệnh. Tôi nghe nói: ‘không phải địa vị của mình mà lại giữ lấy là tham địa vị; không phải cái danh tiếng của mình mà cứ chiếm lấy là tham danh.’ Tôi nếu chịu cái ơn của ngài, sợ là tham địa vị, tham danh, cho nên không dám vâng mệnh.”

Thương Ưởng nói: “Người không vừa ý về việc ta cai trị nước Tần sao?”

Triệu Lương nói: “Tự nghe mình là thông, nhìn vào mình là minh, thắng được mình là cường. Vua Thuấn có nói: ‘Kẻ tự cho mình là thấp thì đáng tôn quý vậy’. Ngài có lẽ nên làm như Vua Thuấn; không nên hỏi tôi.”

Thương Ưởng nói: “Trước kia tập tục ở Tần bắt chước theo bọn Nhung, Địch: cha con không phân biệt, cùng ở chung một nhà. Nay ta thay đổi cách dạy dỗ làm cho con trai con gái phân biệt, xây dựng cung điện to lớn cũng như ở nước Lỗ, nước Vệ. Ngươi xem ta cai trị nước Tần với Ngũ Cổ đại phu [Bách Lý Hề] thì ai giỏi hơn?

Triệu Lương nói: “Một nghìn tấm da dê không giá trị bằng cái nách của một con cáo; một nghìn người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Vũ Vương nhờ bầy tôi nói thẳng nên thịnh vượng, Vua Trụ nhà Ân vì bầy tôi a dua nên mất. Nếu ngài không cho Vũ Vương là không phải, thì tôi xin nói thẳng suốt ngày mà ngài đừng trị tội tôi. Như thế có được không?

Thương Ưởng nói: “Tục ngữ có câu: ‘Lời nói trau chuốt là phù hoa, lời nói ngay là thành thực; nói khó nghe là thuốc, nói ngọt là bệnh tật.’ Nếu ông quả thực chịu suốt ngày nói điều thẳng, thì đó là thuốc cho Ưởng này. Ưởng phải phò tá ông làm thầy, lẽ nào ông lại chối từ!”

Triệu Lương nói: “Ngũ Cổ đại phu là người nhà quê ở đất Kinh, nghe tin Tần Mục Công hiền, được yết kiến, đi không có tiền, tự bán mình cho người khách ở Tần, mặc áo cộc chăn dê. Được chẳn một năm, Tần Mục Công biết đến, cất nhắc từ dưới miệng trâu mà đặt trên đầu trăm họ, nước Tần không ai dám oán trách. Làm tể tướng nhà Tần sáu bảy năm, phía đông đánh Trịnh, ba lần lập vua nước Tấn, một lần cứu họa nước Sở, thi hành giáo hóa ở trong bờ cõi, làm cho người đất Ba đến nộp đồ cống, đức ban ra các chư hầu và các rợ Nhung đều theo phục. Do Dư nghe vậy, đến cửa khuyết xin yết kiến. Ngũ Cổ đại phu làm tể tướng nước Tần, lúc mệt không ngồi xe, lúc nắng không che lọng, đi ở trong nước không có xe tùy tùng, không có người mang giáo mác hộ vệ, công lao ghi ở sử sách, đức hạnh lưu lại đời sau. Khi Ngũ Cổ đại phu chết, trai gái nước Tần chảy nước mắt, trẻ con không ca hát, người giả gạo không hò, đức của Ngũ Cổ đại phu là như thế.

“ Nay ngài yết kiến Vua Tần nhờ người tôi yêu là Cảnh Giám tiến cử, đó không phải là theo cách để có danh dự. (Ý nói việc tiến cử không qua cách chính thức mà qua lối luồn lọt.) Ngài làm tể tướng không lo đến trăm họ mà lại ra sức xây cung khuyết, không phải là cách lập công. Về mặt hình phạt thì chạm vào mặt sư phó của Thái tử, dùng hình phạt nặng nề để tàn hại nhân dân, như vậy là cách nuôi oán, chất họa. Tự mình tu đức để giáo hóa dân, thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên, thì nhanh hơn pháp luật. Nay ngài lập uy quyền một cách trái, biến pháp một cách sai đã tám năm nay; ngài lại giết Chúc Hoan và chạm vào mặt Công Tôn Giả. Kinh Thi nói, ‘Ai được nhân tâm thì hưng thịnh, ai mất nhân tâm thì tan vỡ.’

“ Mấy việc trên đây không phải là việc thu được nhân tâm. Khi ngài đi ra, xe tùy tùng có hàng chục, xe đi theo mang áo giáp, người khoẻ mạnh xương sườn liền nhau cùng ngồi tham thặng, kẻ cầm giáo mác chạy hộ vệ bên xe. Nếu thiếu một trong những điều này là ngài không đi. Kinh Thư nói, ‘Ai cậy vào đức thì sẽ hưng thịnh, ai cậy vào sức thì sẽ mất.’

“ Ngài đang nguy như hạt móc buổi sáng, thế mà lại còn muốn sống lâu sao được? Tại sao ngài không trả lại mười lăm ấp, vui làm vườn ở nơi xa, khuyên Vua Tần cất nhắc kẻ sĩ ở ẩn trong núi sâu, nuôi người già, hỏi thăm người cô [không anh, không cha], kính bậc cha anh, sắp xếp những người có công, tôn những người có đức, như thế may ra có thể an được chút ít. Nếu ngài còn tham cái giàu có ở ấp Thương, ấp Ư, chất chứa điều oán giận của trăm họ, thì một khi Vua Tần rời bỏ tân khách mà không ra triều [ý nói vua băng hà], người nước Tần bắt ngài là sự hiển nhiên, điều nguy vong có thể đứng nhón chân mà đợi!”

Thương Ưởng không nghe theo.

Năm tháng sau, Tần Hiếu Công mất, Thái tử lên ngôi. Bọn Công tử Kiền báo Thương Ưởng muốn làm phản. Vua sai người bắt Thương Ưởng. Thương Ưởng bỏ trốn, đến cửa quan muốn vào ở nhà trọ.

Người nhà trọ không biết đó là Thương Ưởng, nói: “Theo phép của Thương Quân, cho người ở trọ không có giấy chứng nhận thì bị liên lụy.”

Thương Ưởng thở dài mà rằng: “Than ôi! Cái tệ hại của kẻ làm pháp lệnh đến như thế ư!”

Thương Ưởng trốn sang Ngụy. Người Ngụy giận y lừa Công tử Ngang và đánh phá quân Ngụy, nên không nhận. Thương Ưởng muốn đi sang nước khác.

Người Ngụy nói: “Thương Quân là thằng giặc của Tần. Nước Tần mạnh, ta không tống cổ tên giặc đã vào đất Ngụy về thì không được.”

Bèn đuổi về Tần. Thương Ưởng sau khi trở lại nước Tần, chạy về ấp Thương cùng bọn tôi tớ đem binh về hướng bắc đánh đất Trịnh. Tần đem binh đánh Thương Ưởng, giết y ở Dẫn Trì thuộc đất Trịnh.

Tần Huệ Vương lấy xe xé xác Thương Ưởng để thị uy, nói: “Chớ có làm phản như Thương Quân!”

Rồi giết cả nhà Thương Ưởng.

Vì thiếu khôn khéo, gây thù chuốc oán với giới quý tộc mà Thương Ưởng bị hại. Tuy nhiên, di sản mà Thương Ưởng để lại cho nước Tần thật là to tát. Nhờ những cải cách sâu rộng của ông mà nước Tần hùng mạnh hẳn lên, cuối cùng gồm thâu sáu nước mà lần đầu tiên trong lịch sử thống nhất được Trung nguyên.

thử thủ: Ðầu chuột. Thành ngữ Hán có câu: “Thử thủ phấn sự” (Ðầu chuột hỏng việc), là lời châm biếm người không có tính quyết đoán.

Lời chú sách Cố sự thành ngữ khảo nói: Con người ta xử sự công việc mà cứ như đầu chuột vốn có tính hay nghi và không quyết, cứ thò ra thụt vào ở cửa hang thì tất phải hỏng công việc.

Thượng thư lỗ chó: Đời Nam Tống bên Tàu (1127-1275) có quan tể tướng tên Hàn Xà Trụ. Vốn một gã vô học bất tài, nhưng nhờ thế lực mỹ nhân mà làm được tể tướng. Vua thích gái đẹp, Hàn lo lắng dâng gái đẹp cho. Trong dinh của Hàn bao giờ cũng sẵn chứa giai nhân để phòng một khi nhà Vua cần đến. Hàn vẫy tiền không tiếc tay để mua những người đẹp toàn quốc. Nhiều gái đẹp trinh liệt đã phải khổ sở vì hắn. Dùng tiền tài vô hiệu thì Hàn lại dùng đến uy quyền, cưỡng ép bắt ngang. Do đó, Hàn được vua thương. Các quan trong triều phần nhiều sợ uy thế của Hàn. Ai ai cũng nịnh hót để mong được yên thân hay để Hàn cất nhắc đề cử.

Một hôm, Hàn cùng các tân khách dạo chơi. Đi qua một trang viên, thấy phong cảnh đẹp, Hàn khen rằng: “Thật rõ là cảnh nông thôn, hiềm vì tĩnh mịch quá, thiếu tiếng chó sủa.” Hàn vừa nói xong thì bỗng có tiếng “ăng ẳng” phát lên.

Ồ, chó đâu chẳng thấy mà lại nghe tiếng chó sủa đây? Mọi người ngạc nhiên, nhìn quanh quất nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy bóng chó. Giữa lúc ấy thì có tiếng “ăng ẳng” tiếp theo. Bấy giờ mọi người mói cười ầm lên. Thì ra quan thị lang Triệu Sư Trạch nhại tiếng chó sủa để làm vui tai quan tể tướng.

Ở trong triều có một viên quan tên Hứa Cập Chi. Lão này cũng chẳng thua gì lão Sư Trạch. Đối với tể tướng họ Hàn, Cập Chi hàng ngày muốn bẩm báo điều gì thì quỳ gối khấn đầu, trông vẻ sợ sệt, khép nép cung kính.

Một hôm gặp lễ sinh nhật của Hàn, Cập Chi bận việc mua sắm lễ vật nên đến chậm. Cửa tư dinh của Hàn đã đóng, tên lính gác cửa không cho vào. Cập Chi lo sợ quá. Không dâng lễ vật ắt sau này sẽ bị quở mắng hay tai vạ. Con đường quan thế nào cũng bị đứt đoạn. Năn nỉ mãi không được, hắn rơm rớm nước mắt.

Tên lính gác bắt cười thầm. Lòng sẵn ghét bọn xu nịnh nên quyết không cho vô, bảo rằng: “Lệnh của quan tể tướng đã dạy, cãi lệnh sẽ bay đầu, ai vô đây thế?” Túng quá, Cập Chi nhìn thấy có một cái lỗ chó, liền khòm lưng chui vào dinh để dâng lễ mừng thọ.

Biết được sự việc, Xà Trụ lấy làm cảm động! Và cũng nhờ đó mà Hứa Cập Chi được cất nhắc làm đến chức thượng thư. Người đương thời biết chuyện cười thầm, gọi lén là “Thượng thư lỗ chó!”

tiêu phòng: chỉ nơi cho cung nữ ở. Theo Hán thư: Tiêu phòng là tên một điện trong cung Vị Ương, nơi Hoàng hậu ở, vách có trát hồ tiêu tán nhỏ cho thơm và ấm.

Cung oán ngâm khúc:

Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

Tiêu Sử: Ðông Chu liệt quốc: Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống Tiêu, Vua Tần Mục Công đem con gái là nàng Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau, vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời.

Tiêu Sương: tên giống ngựa quý và hiếm thời xưa. Tả truyện: Ðường Thành Công qua nước Sở có đưa theo một con ngựa Tiêu Sương. Tử Thường muốn được giống ngựa đó.

Lời sớ của Mã Dung nói: “Tiêu Sương là loài ngựa, giống hình con nhạn, thiên hạ ít có.”

Tiêu Tương (Trung Quốc): xem mục Sông Tương.

Tiêu Tương (Việt Nam): Theo Vân Nhi (2011), Tiêu Tương vốn là con sông cổ ở làng Cổ Bi (nay thuộc Phường Đình Bảng, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh). Sông đã chết vì bị bồi đắp thành bình địa nhưng lại sống mãi trong tâm thức của người dân Kinh Bắc với những huyền thoại, chuyện kể và ngay cả trong những làn điệu dân ca chữ tình.

Đại Nam nhất thống chí chép: “Sông Tiêu Lương cũ ở địa giới Phủ Từ Sơn, phát nguyên từ cái đầm lớn ở Xã Phù Lưu, Huyện Đông Ngàn, chảy từ phía tây sang đông bắc qua Xã Tiêu Sơn Huyện Yên Phong, chuyển sang địa phận hai huyện Tiên Du và Quế Dương vào Sông Thiên Đức.”

Địa chí Hà Bắc ghi: “Sông Tiêu Lương, còn gọi là sông Tiêu Tương, ở địa giới Huyện Tiên Sơn. phát nguyên từ Hồ Lãng Bạc chảy từ phía tây sang đông-bắc qua Xã Tương Giang, Vân Tương, qua các làng quan họ nổi tiếng như Lim, Bưởi, Ó, Se, Bò… rồi chảy vào sông Cầu.”

Ngoài ra, các công trình nghiên cứu của các học giả, các nhà nghiên cứu đương thời cũng có đề cập đến sông Tiêu Tương nhưng đều chưa đi đến thống nhất. Tuy nhiên, những chi tiết trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh khiến nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Thị Thủy Chung mới đây cho rằng, trước khi đổ về đầm Phù Lưu, Sông Tiêu Tương là một nhánh của Sông Hồng, tách ra từ phía đông Huyện Mê Linh, qua phía bắc Huyện Phong Khê, tiến gần sát phía nam Cổ Loa…

Không có tài liệu nào giúp cho việc xác định dòng chảy thực tế của Sông Tiêu Tương một cách rõ ràng. Tuy nhiên, vai trò của dòng sông này trong lịch sử phát triển của vùng Kinh Bắc nói chung và vùng đồng bằng Bắc Bộ lại được khẳng định rất rõ ràng.

Theo các tài liệu và truyền thuyết, thời An Dương Vương, dòng sông này không chỉ là một huyết mạch giao thông quan trọng mà còn là một hào lũy thiên nhiên che chắn, bảo vệ kinh đô Cổ Loa non trẻ của quốc gia Âu Lạc. Về sau, cũng nhờ con sông này, nhà Hán mở đường bộ dọc đó sang Việt Nam và nhanh chóng trở thành con đường đi sứ giữa hai nước, được gọi là Quan lộ. Đây cũng là con đường quân sự, con đường giao lưu kinh tế, văn hóa quan trọng của các lộ phía bắc. Thời Pháp thuộc, Quan lộ được nắn thẳng và mở rộng thành Quốc lộ 1, vẫn là một huyết mạch quan trọng hàng đầu trong hệ thống giao thông của Việt Nam.

Sông Tiêu Tương tồn tại đến khoảng thế kỷ 15 thì bị “chết”. Nguyên nhân là do Hồ Quý Ly cho đào lòng Sông Đuống để uốn thẳng dòng chảy, Sông Tiêu Tương bị mất nguồn nước và bị bồi lấp dần. Ngày nay, dấu hiệu về dòng sông cổ này chỉ còn tồn tại ở một vài khúc và trở thành một số ao, đầm…

Theo Cảnh Linh (2014), Trước kia, Sông Tiêu Tương chảy qua đất Kinh Bắc bắt đầu từ một nhánh Sông Hồng. Khởi nguồn là cửa Sông Đuống, dòng Tiêu Tương chảy tới Phù Lưu, kéo qua Đình Bảng, dọc Tương Giang, rồi Lim, Xuân Ổ… và hòa nhập Sông Cầu. Xưa còn có một nhánh chảy về Phật Tích, Tiên Du. Sông Tiêu Tương uốn lượn như những đài hoa tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, kỳ thú. Nhưng giờ đây, Sông Tiêu Tương chỉ tồn tại như một dòng sông huyền thoại với những chuyện tình bất tử cùng những làn điệu dân ca quan họ xao xuyến lòng người.

* Câu chuyện Trương Chi – Mỵ Nương

Đến bất cứ một khúc Sông Tiêu Tương còn sót lại, chạy dọc con đường quốc lộ A1 cũ, bao giờ cũng lung linh vẻ đẹp huyền ảo của câu chuyện nàng Mỵ Nương rơi lệ xuống chén ngọc. Nàng nhớ tiếng hát của Trương Chi, cùng với tình yêu say đắm của chàng đã đi xuống tuyền đài. Truyện kể, người ta đã vớt xác Trương Chi lên ở một cổng sông ở kề xóm Bà La, Đình Bảng.

Người dân Kinh Bắc tự hào nói tiếng hát của chàng Trương Chi giờ đã được cha ông truyền lại muôn đời qua các làn điệu dân ca quan họ. Người ta còn kể, Lầu Tây nơi mà Mỵ Nương ngồi bên Sông Tiêu Tương chảy qua là ở đồi Hồng Vân (Lim). Phải chăng để chia sẻ mối tình bi thảm ấy mà hàng năm, cứ đến ngày 13 tháng Giêng, trai gái khắp vùng về đây trẩy hội và hát giao duyên. Và cũng chính vì thế, hầu hết trong nhiều lời ca và giai điệu quan họ bao giờ cũng phảng phất nỗi buồn, nhất là những bài về tình yêu giữa liền anh và liền chị.

* Một mối tình bí ẩn vĩ đại

Câu chuyện tình của mẹ Vua Lý Thái Tổ bên Sông Tiêu Tương này mới thấy còn bí ẩn hơn câu chuyện giữa Trương Chi và Mỵ Nương. Vào khoảng năm 959, chùa Tiêu do thiền sư Lý Vạn Hạnh, người Làng Đình Bảng chủ trì. Khi đó, ngài mới 21 tuổi, xuất gia tu học ở Chùa Lục Tổ nhưng đã tinh thông phật pháp và binh pháp vì được rèn luyện, học tập từ nhỏ. Ngài còn có người em trai là Lý Khánh Văn cũng trụ trì ở Chùa Cổ Pháp (còn gọi là Chùa Dận) bên kia bờ Sông Tiêu Tương.

Một hôm, có người đàn bà ôm đứa con trai mới đẻ đến đặt ở cửa tam quan Chùa Cổ Pháp rồi bỏ đi. Thiền sư Lý Khánh Văn nghe thấy tiếng trẻ khóc, thấy xót lòng bèn bế vào chùa nuôi nấng và đặt tên là Lý Công Uẩn. Đó là vào năm 974. Thời gian trôi đi, Lý Công Uẩn lớn lên khỏe mạnh và tỏ ra có khí chất khác thường, học hành sáng dạ. Khi đến 5 tuổi, Lý Công Uẩn được cha nuôi đưa sang Chùa Tiêu Tương để học thầy trụ trì Chùa Tiêu là Lý Vạn Hạnh. Từ đó, sự nghiệp của Lý Công Uẩn được Thiền sư Lý Vạn Hạnh gây dựng cho đến mấy chục năm sau trở thành vị vua đầu triều nhà Lý, lấy danh xưng là Lý Thái Tổ, lên ngôi năm 1009.

Nhưng trong suốt những năm tháng ấy, câu chuyện về người mẹ sinh một đứa con hoang trở thành một ông vua được bàn dân thiên hạ khắp nơi tò mò. Có chuyện tình oan trái hay cay đắng gì đây? Sau này người ta xác định được người đàn bà ấy chính là Phạm Thị Ngà, người ở Dương Lôi. Chuyện kể người đàn bà họ Phạm kia có thời gian làm việc ở chùa và đã quan hệ gần gũi, thân thiết với sư thầy. Khi thấy người con gái có thai, thầy bèn đuổi đi. Nhưng đến ngày sinh nở, người mẹ đã trả lại con cho nhà chùa. Họ còn đặt vè trong dân gian thế này:

Con ai đem bỏ chùa này
Nam mô di phật con thầy, thầy nuôi.

Lại có chuyện kể, người cha của đứa bé là một người làm thuê ở Chùa Tiên Sơn và đã gặp người con gái xinh đẹp Làng Dương Lôi. Hai người có lòng yêu mến nhau. Khi người con gái có mang thì người làm thuê kia bị đuổi ra khỏi chùa. Cả hai dắt díu nhau vào rừng, không có nơi ăn chốn ở và đói khát cùng đường. Người chồng uống phải nước giếng độc, bị chết trong rừng. Lúc đó, người vợ chỉ còn một con đường đến ăn mày cửa Phật. Sau khi sinh con xong, để lại cho nhà chùa nuôi, người mẹ ra đi. Chuyện này còn được thêu dệt lên cùng những tình tiết huyền tích khác như trong một đêm nằm ngủ, Thiền sư Lý Khánh Văn thấy mộng báo, sáng mai hãy đón hoàng đế đến chùa. Khi Thiền sư ra chỉ thấy một người đàn bà sắp đẻ nên cưu mang giúp đỡ. Và người con được sinh ra sau này chính là Vua Lý Thái Tổ.

Nhưng có lẽ còn ly kỳ hơn khi có chuyện kể chính Thiền sư Lý Vạn Hạnh mới là cha đẻ thực sự của Vua Lý Thái Tổ. Trước đó, khi xảy ra chuyện, ngài đã nhờ Lý Khánh Văn gánh vác hộ, nhận đứa bé làm con nuôi để lấy họ Lý. Chính vì thế mà Lý Vạn Hạnh dồn toàn bộ tâm trí và tài năng để dạy dỗ, tạo dựng nghiệp lớn cho con trai tiếp nối lý tưởng trị vì thiên hạ của mình. Thiền sư còn tạo dựng những thế lực trong triều Tiền Lê cùng những lời sấm truyền trong dân gian để chớp thời cơ cho Lý Công Uẩn đoạt ngôi vua như mệnh trời sắp đặt. Triều họ Lý chính do một tay ông dựng lên. Thậm chí, chuyện Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thành Thăng Long năm 1010 cũng bắt đầu từ ý tưởng của Lý Vạn Hạnh. Hơn nữa, sau này, Vua Lý Thái Tổ về quê nội ở Đình Bảng để chọn đất thờ và trở thành lăng mộ hiện nay ở đền Bát Đế. Phải chăng việc này thêm khẳng định cha ngài chính là Sư tổ Lý Vạn Hạnh!?

Tiến Phúc: tên một ngôi chùa cổ ở Tỉnh Giang Tây (Trung Quốc). Chùa này có một tấm bia khắc chữ rất đẹp. Tương truyền đời Tống, Phạm Trọng Yên làm quan ở Bá Dương, có một người học trò nghèo dâng ông một bài thơ, ông mến phục tài bèn cho người học trò kia rập chữ trên bia Tiến Phúc bán lấy tiền cho đỡ nghèo túng. Chưa rập chữ xong thì một đêm, bia bị sét đánh vỡ tan.

tiếng phong hạc: Do chữ phong thanh hạc lệ: tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu, chỉ sự trông ngóng chờ đợi.

Tấn thư: Phù Kiên đem trăm vạn quân dàn trận ở Phí Thủy. Tạ Huyền dẫn 8000 quân tinh nhuệ vượt sông đánh giặc. Quân Phù Kiên tan vỡ vứt giáp chạy tán loạn, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu (Phong thanh hạc lệ) cũng tưởng là quân đến cứu viện.

Tiếp Dư: Họ Lục, tên Thông, người đời Vua Chiêu Vương nước Sở, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan. Người đương thời gọi ông là Sở cuồng (Kẻ cuồng nước Sở).

Tiết Ðào: con gái của một vị quan tên Tiết Trịnh ở Thành Đô, Tỉnh Tứ Xuyên, trong thời Vua Ðường Ðại Tông (763–766). Nàng học giỏi, tư chất thông minh, vừa lên sáu đã biết làm thơ. Lời thơ tuy có phần diễm lệ, nhưng ý tứ thiếu vẻ trang nhã, thanh tao.

Năm Tiết Ðào lên tám, một hôm vào mùa Thu, đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già nhưng cành lá sum sê, đứng sừng sững trước nhà, trông như sát từng mây. Tiết Trịnh ngắm cảnh, buột miệng ngâm (dịch thơ):

Trước sân cây đồng già
Chót vót vào mây xa

Tiết Ðào liền ngâm tiếp (dịch thơ):

Cành đón chim nam bắc
Lá đưa gió lại qua

Nghe lời thơ có ý thiếu phong nhã, Tiết Trịnh thở dài nghĩ: “Nghiệp chướng đã vướng vào mình rồi. Cứ như lời thơ này, con gái ta về sau ắt là một đứa lãng mạn, bất hạnh!”

Mấy năm sau, Tiết Trịnh bị bạo bệnh qua đời. Vì làm quan thanh liêm nên sau khi chết, đời sống gia đình họ Tiết rất chật vật. Tiết Ðào bấy giờ đã khôn lớn phải xin gia nhập phường ca kỹ, ngày ngày đàn hát ngâm thơ đón kẻ tao nhân mặc khách, lấy tiền nuôi mẹ già.

Ở chốn ca lâu, mang tấm thân ngà ngọc, tài học uyên thâm ra để mua vui cho những kẻ có tiền, Tiết Ðào lấy làm buồn rầu, thường sáng tác những bài hát phổ vào nhạc điệu để dạy đoàn ca nữ múa hát hay chính nàng nhịp phách ca ngâm. Những bài hát của nàng được truyền tụng trong phường, nên nàng được nhiều người trọng vọng, thường được gọi là Tiết tú tài. Những văn nhân tài tử bốn phương nghe danh, đổ đến để cùng nàng đề xướng thơ họa, mong được Tiết Ðào lưu ý đến mình. Nhưng mắt xanh chẳng lọt vào ai, nàng vẫn làm nghề ca kỹ, xướng hoa thơ với những người nổi tiếng kể cả Bạch Cư Dị, Đỗ Mục…

Nhờ danh tiếng, Tiết Ðào kiếm được chút vốn liếng bèn dựng một ngôi nhà bên cầu Vạn Lý. Nàng lại chế ra một thứ giấy ngũ sắc có vẻ cây tùng, cây bá, cây liễu, hoa sen rất đẹp. Giấy này dùng để viết thi ca, vì do Tiết Ðào sáng chế nên về sau gọi là “hoa tiên Tiết Ðào”.

Quan Tư Mã Thiển Châu là Vương Kiến mến tài năng nên đến cầu Vạn lý thăm, và tặng nàng một bài thơ (bản dịch của Bùi Khánh Ðản):

Nàng Hiệu thư lang ở bến sông
Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông
Ngày xuân cửa đóng hoa ngăn gió
Bao kẻ tôi mày đã uổng công.

Ðến đời Vua Hiến Tông (806–820) có quan Tả thập di tên Nguyên Chẩn, một danh nho đương thời, vâng chiếu chỉ thanh tra đất Thục, nghe danh Tiết Ðào mong gặp mặt nên nhờ bạn giới thiệu. Ðôi bên gặp nhau đối ẩm, xướng họa thơ văn xem chừng tương đắc. Thế là từ đấy cả hai quyến luyến không rời.

Nhưng rồi vì công vụ, Nguyên Chẩn phải trở về kinh đô Trường An phục mệnh. Kẻ lên ngựa chẳng yên lòng dứt áo, người ở lại ngậm ngùi ôm nặng nỗi nhớ nhung. Lại một điều chẳng may, tướng trấn thủ Tây Xuyên là Lưu Tích tạo phản, đốt phá Thành Đô, Nguyên Chẩn nóng lòng sốt ruột, nhờ người đi vào đất Thục tìm nàng Tiết Ðào. Nhưng lần nào cũng hoàn toàn thất vọng vì đường bị nghẽn, tin tức vắng bặt. Nguyên Chẩn buồn bã thương nhớ giai nhân. Tuy quan san cách trở, thời gian qua mau, nhưng mối tình kỳ ngộ sâu xa đối với Tiết Ðào, vẫn canh cánh bên lòng.

Riêng về Tiết Ðào, từ ngày chia tay cùng ý trung nhân thì vẫn mỏi mắt đón chờ tin tức, nhưng vẫn vắng bặt bóng chim tăm cá. Ngày tháng trôi qua, tuổi càng chồng chất, nghĩ buồn thương cho thân phận vô duyên nên lui về ở đầm Bạch Hoa, cất am, mặc áo cà sa, lần chuỗi bồ đề. Rồi nàng qua đời trong cô đơn.

Sau này còn có cái giếng mang tên nàng (Tiết Đào Tĩnh). Có độ năm trăm bài nho truyền ở đời.

Đoạn trường tân thanh, diễn tả cảnh khách làng chơi ra vào thanh lâu để tìm Kiều, ý nghĩa không được phong nhã đúng như trong thơ của Tiết Đào:

Dập dìu lá gió cành chim

Tiết phụ ngâm: tựa một bài thơ của Trương Tịch, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường (766-827), đậu Tiến sĩ dưới triều Vua Đức Tông. Năm 799, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ, cuối cùng lên đến chức Quốc tử tư nghiệp. Cuộc đời Trương Tịch được lưu lại ở sách sử Trung Quốc bằng sự nghiệp văn chương với một thi tập gồm 7 quyển, nhưng chỉ có bài Tiết phụ ngâm là nổi tiếng nhất.

Hoàn cảnh bài Tiết phụ ngâm được sáng tác là như sau.

Nước Tàu thời bấy giờ trên danh nghĩa có chính quyền trung ương nhưng chính quyền nầy không có thực quyền, không thống nhất chỉ đạo, đất nước bị cai trị bởi nhiều phiên trấn. Mỗi phiên trấn nằm dưới quyền sinh sát của một vị Tiết độ sứ; mỗi người chuyên chế, hùng cứ mỗi phương. Nếu phiên trấn nào do vị Tiết độ sứ nắm quyền mà tuân mạng triều đình thì được cho là thuận đảng, Tiết độ sứ nào dùng binh lực đối kháng, cưỡng lệnh triều đình thì bị cho là nghịch đảng. Các phiên trấn thường chống chọi nhau luôn, gây không biết bao cảnh tang tóc cho nhân dân, không khác cảnh 12 sứ quân tại nước ta vậy.

Lúc đó, Trương Tịch chưa ra hợp tác với triều đình trung ương, ông là một tân khách trong mạc phủ của một vị Tiết độ sứ thuộc về thuận đảng. Với bản tính thuần lương nên ông muốn đem tài sức giúp cho vị thủ lĩnh của mình để mong đem được bình an, thạnh trị cho dân chúng, đem thống nhất cho đất nước, để cho nhân dân yên tâm cày cấy sinh sống.

Bấy giờ, Lý Sư Đạo là một Tiết độ sứ thuộc nghịch đảng, vốn là một tay quật cường, dũng mãnh, binh lực hùng mạnh. Biết Trương Tịch là người có tài đức nên ông ân cần viết một phong thư, cùng với lễ vật, sai bộ hạ đem đến đón Trương Tịch về giúp cho ông ta trong công cuộc xây dựng sự nghiệp riêng. Hiểu được tình thế chung lúc đó cũng như bản tính, thực lực của họ Lý, Trương Tịch biết hoàn cảnh cá nhân mình không thể về giúp cho vị Tiết Độ Sứ này được nhưng không dám từ khước ngay. Ông biết rõ thế lực của Lý thì mạnh, nếu ông cự tuyệt ngay thì chắc chắn hai trấn phải sinh ra đấu chiến hơn thua. Nếu việc này xảy ra, phiên trấn mà Trương Tịch phục vụ chắc bị thua thiệt, do đó, Trương Tịch phải nhận thư và quà biếu, gởi lời cám ơn để rồi sẽ tìm cách thoái thác sau. Đó là kế hoãn binh tốt nhất cho cả ông và quân dân trong hai phiên trấn.

Sau một thời gian suy tính, Trương Tịch đi đến quyết định hoàn lại lễ vật cho Lý Đạo Sư. Ông làm một bài thơ kèm trong những món đồ đã nhận trước đó gởi lại cho Lý Tiết Độ sứ. Bài thơ nhan đề là Tiết phụ ngâm.

Tiết phụ ngâm – Trương Tịch; Phụng Hà dịch thơ:

Dẫu biết rằng em đã sang ngang
Chàng vẫn tặng em ngọc dạ quang
Đôi ngọc em đeo trong áo thắm
Để lòng nhớ mãi mối tình chàng.

Vườn em kế bên lầu ngự uyển
Chồng em vác kích điện Minh Quang
Biết chàng dạ sáng như nhật nguyệt
Thờ chồng em giữ đạo tao khang
Gạt hai hàng lệ xin trả ngọc
Nay mới gặp nhau, đã muộn màng!

Tiet phu ngam
Tranh minh họa Tiết phụ ngâm

Ý thơ mượn thân phận người con gái đã có chồng cần phải tùng nhất nhi chung (theo một bề đến chết), để nói thân phận mình, một khi đã phò tá chúa này rồi thì cần phải trọn đạo làm tôi trung thần bất sự nhị quân (tôi trung không phò hai vua). Ai có thương đến thì xin cám ơn vậy.

Lý Sư Đạo tiếp được bài thơ, xem qua càng sinh lòng cảm mến mà không còn theo đuổi và sinh sự gì cả.

Nước ta cũng có bài ca dao:

Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?

Tương truyền bài ca dao này do Đào Duy Từ làm ra. Nguyên lúc bấy giờ, nước Việt Nam chia làm hai miền. Miền Bắc thuộc chúa Trịnh; miền Nam thuộc chúa Nguyễn. Hai họ tạo thành cuộc Nam Bắc phân tranh. Đào Duy Từ ở miền Bắc, người có tài nhưng không được Chúa biết đến và trọng dụng nên trốn vào Nam, được chúa Nguyễn trọng đãi. Rồng đủ vi cánh lại gặp gió to, tài thao lược của họ Đào vang dậy đến Bắc Hà. Chúa Trịnh Tráng bấy giờ lấy làm hối tiếc, cho người lén vào Nam, đem lễ vật quý báu dâng cho Đào, yêu cầu Đào trở lại giúp mình. Đào từ chối bằng mấy câu ca dao, mượn lời của một cô gái có chồng đã khéo léo từ khước người yêu mình để nhắn gởi chúa Trịnh, như nhà thơ Trương Tịch ở Trung Hoa.

Tuy vậy, chúa Trịnh không nản, vẫn tiếp tục theo đuổi, dụ dỗ. Đào Duy Từ lại phải gởi nhắn thêm hai câu thơ lục bát về Bắc, ý chí keo sơn kiên quyết của mình:

Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.

tiền dưỡng liêm: Theo Wikipedia_Tiền dưỡng liêm: tiền dưỡng liêm là khoản tiền do triều đình nhà Nguyễn cấp thêm ngoài lương bổng để nuôi lòng liêm khiết của quan lại. Tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi triều vua có mức tiền dưỡng liêm khác nhau.

Ý niệm về tiền dưỡng liêm chính thức được đặt ra dưới thời nhà Lý và sau này nhấn mạnh trong thời Lê sơ. Vua Lý Thánh Tông, với chính sách ưu dụng đại thần, cho là: “Ân riêng mưa móc đượm nhuần / Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm”. Năm 1473, Vua Lê Thánh Tông định chế độ bổng lộc cho quan lại trong kinh, ngoài trấn, và đãi ngộ người hiền tài hợp lý: “Đặt quan để làm việc, tất phải có lương bổng để nuôi, rồi sau mới bắt phải thanh liêm được. Bởi vì người làm quan có đầy đủ thì mới bắt đầu làm điều thiện. Mặt khác, triều đình có gia ơn cho người làm quan thì họ mới gia ơn cho dân. Do đó, để cho người làm quan giữ được đức thanh liêm thì lương bổng phải hậu và phải bảo đảm nuôi sống được họ” và “Những nơi ít việc và nơi rất ít việc, những chức thong thả và những chức rất thong thả, tiền bổng có khác nhau”.

Theo Lịch triều hiến chương loại chí, cũng trong thời Hồng Đức vua cấp thêm cho các quan “liêm lộc điền” (ruộng dưỡng liêm cho các quan), tức là cấp ruộng đất để tự làm cho đủ ăn, khỏi lấy tiền của dân, cũng như Luật Hồng Đức quy định hình phạt rất nghiêm khắc với hành vi tham nhũng, hối lộ. Năm 1498, Vua Lê Hiến Tông ban lệnh “cấp tiền quý bổng liêm khiết” cho quan lại liêm chính như tiền thưởng thêm.

Vào thời Nguyễn, lệ cấp tiền dưỡng liêm chỉ được đặt ra trong những năm cuối triều Gia Long và lúc đầu chỉ để dành cho quan lại đứng đầu cấp phủ, huyện như tri phủ, tri huyện. Vua Gia Long cho rằng “Phủ, huyện ở gần nhân dân, chức nhỏ nhưng việc nhiều, ngoài bổng chính ra, cấp thêm tiền gạo dưỡng liêm để tỏ đặc cách”. Còn Vua Minh Mạng thì nói rằng “tiền dưỡng liêm là để khuyến khích tiết tháo trong sạch.”

Sau này, các chức như thự Tri phủ, thự Tri huyện, Tri châu, Đồng tri phủ cũng được cấp loại tiền này. Đặc biệt, vào đầu triều Vua Tự Đức còn cấp tiền cho các phái viên thu thuế quan, và từ khi có lệ cấp tiền bổng lộc cho quan lại tại kinh thành thì một số chức quan cấp tỉnh cũng được hưởng như Quản đạo, Án sát, Bố chánh, Tuần vũ, Tổng đốc.

Mặc dù cùng là đối tượng được hưởng chế độ tiền dưỡng liêm nhưng tất cả đều là quan lại cấp địa phương. Quan chức thuộc bộ máy trung ương ở kinh thành đều không nằm trong chế độ ưu đãi này.

Từ năm 1831, Vua Minh Mạng chia các phủ, huyện, châu cả nước làm 4 hạng là tối yếu khuyết (tối quan trọng), yếu khuyết (quan trọng), trung khuyết (bình thường), giản khuyết (ít việc). Tùy theo 4 hạng trên mà mức độ tiền dưỡng liêm khác nhau.

Giá trị thực tế của khoản tiền dưỡng liêm dưới triều Gia Long, Minh Mạng rất lớn, tương đương với số lương bổng họ được nhận thực hàng tháng. Điều này có ý nghĩa rất lớn về vật chất vì quan lại có thể dựa vào tiền dưỡng liêm để đủ tiền sinh sống và bảo vệ tính thanh liêm cần thiết cho mình. Tiền dưỡng liêm thật sự là một biện pháp tương đối hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại triều Nguyễn.

Tiền Khởi (710-782): người đất Ngô Hưng (nay thuộc Hồ Châu, Tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc). Năm Thiên Bảo thứ 10 đời Ðường Huyền Tông (751) thi đậu Tiến sĩ, được bổ làm Hiệu thư lang, đi sứ đất Thục, rồi về thăng làm Khảo công lang. Giữa thời Ðại Lịch, đời Ðường Ðại Tông, làm chức Hàn Lâm học sĩ. Nổi tiếng ngang với Lang Sĩ Nguyên, người đương thời có câu: “Tiền hữu Thẩm Tống, Hậu hữu Tiền Lang” (trước có Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, sau có Tiền Khởi, Lang Sĩ Nguyên). Tiền Khởi là một trong 10 tài tử đời Ðại Lịch.

Xem thêm: Tương linh cổ sắt.

tiền nhân hậu quả: Kiếp trước là nguyên nhân cho hậu quả của kiếp này. Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, nếu kiếp trước tạo ra cái nhân thì kiếp này hưởng cái quả và cứ thế luân hồi.

Truyền đăng lục:

Muốn biết nguyên nhân kiếp trước
Hãy xem hưởng thụ kiếp này
Muốn biết kết quả đời sau
Hãy xem việc làm đời này.

Tiền Xích Bích Phú: một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, người ở Huyện Mi Sơn (thuộc Tứ Xuyên ngày nay), con của Tô Tuân, anh của Tô Triệt. Cả ba cha con đều là văn gia trứ danh đời nhà Tống, được người đương thời hâm mộ và gọi là “Tam Tô”.

Tô Thức làm quan đời Tống Nhân Tông. Đến triều Thần Tông, Vương An Trạch lên làm tể tướng, thi hành việc cải cách chính trị, Tô Thức cùng em dâng sớ lên Thần Tông, công kích dự án tân pháp của họ Vương. Vì xúc phạm đến tể tướng nên Tô Thức bị biếm ra Hàng Châu, rồi Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu và Quỳnh Châu.

Trong thời gian ở Hoàng Châu (nay thuộc Tỉnh Hồ Bắc), Tô Thức làm nhà ở Đông Pha (sườn đồi phía đông) nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ, được đời gọi là Tô Đông Pha.

Ở đây, ông làm hai bài Tiền Xích Bích phúHậu Xích Bích phú. Xích Bích là tên một dãy núi tại Huyện Gia Ngư, Tỉnh Hồ Bắc, trên bờ phía nam Sông Dương Tử. Đây là một di tích lịch sử của Trận Xích Bích. Xem mục: Trận Xích Bích.

Tô Thức bị trích ra Hoàng Châu, tức Huyện Hoàng Cương ngày nay, thuộc Hồ Bắc nhưng cách xa Huyện Gia Ngư. Tại Hoàng Châu có một dãy núi đá sắc đỏ cũng gọi là Xích Bích hoặc “Xích tị cơ”, Tô Thức nhân đi chơi đến đây làm bài Xích Bích phú.

Thanh nhất thống chí dẫn lời của Hồ Khuê trong Xích Bích khảo cho rằng: “Tô Tử Chiêm đã lầm lẫn Xích tị cơ tại Hoàng Châu với Xích Bích tại Huyện Gia Ngư”. Nhưng có lý nào một người như Tô Thức mà lại lầm lẫn với một di tích danh tiếng trong lịch sử? Sự thật có lẽ đơn giản là nhà thơ thấy tên Xích Bích ở nơi này nên liên tưởng đến Trận Xích Bích ở nơi kia; và nói đến trong bài phú với dụng ý luận anh hùng và ký thác tâm sự. Ông sáng tác Xích Bích phú trong thời gian bị biếm trích, tâm hồn đang đau khổ và chán nản nên muốn tìm nguồn an ủi ở những lẽ phi thường. Bởi vậy, trong bài có những tư tưởng tiêu sái, phóng khoáng, siêu thoát.

Tô Thức là một nhà văn thơ lỗi lạc. Văn của ông hàm súc, bôn phóng; thơ cũng tuấn dật, thanh cao. Nét chữ của ông lại đẹp, vẽ khéo, đúng là một văn hào, thi gia kiêm nghệ sĩ.

Bài Tiền Xích Bích phú hay hơn bài Hậu Xích Bích phú. Vì thế bài Tiền Xích Bích phú được nhiều văn gia thi sĩ như Phạm Sĩ Vy, Phan Kế Bính… dịch ra Việt văn.

Dưới đây là bản dịch thơ của Quân công thị (Hoằng Hóa Quận Vương), con thứ 66 của Vua Minh Mạng:

Năm Nhâm Tuất mùa thu tháng bảy
Mới qua rằm trăng hãy còn hin
Ông Tô cùng khách dời thuyền
Chơi nơi Xích Bích gần miền Kinh Châu

Gió phảng phất dòng sâu sóng lặng
Cất chén mời khách hẳn vui ưa
Ngâm nga Nguyệt xuất thi xưa
Liền câu yểu điệu cảnh giờ khéo in

Phương đông thoắt trăng lên chóp núi
Trong Đẩu, Ngưu noi dõi dần dà
Sông trong, nước rạng bao la
Ngang giăng móc trắng, là đà trời xanh

Bồng một chiếc thích tình hứng cảnh
Nước mênh mang muôn khoảnh xông pha
Phới như cỡi gió bay qua
Nương không lóng biết đâu là đến đâu

Phơ phơ giống đời hầu có một
Bỏ phàm trần cởi lốt lên tiên
Chừng khi ấy dốc rượu liền
Vui chi xiết gõ mạn thuyền ca xoang

Trổi một khúc: Thuyền lan, chèo quế
Vỗ trong ngần ngược vẻ rạng trôi
Đăm đăm luống dạ ai hoài
Mỹ nhân trông tưởng cách trời một phương

Thổi tiêu sẵn có chàng đạo sĩ
Nương lời ca rủ rỉ họa theo
Cô cô loan phượng tiếng kêu
Dở hờn, dở khóc, dở chiều, dở than!

[…]

Ấy tạo vật là kho vô tận
Ta cùng ngươi chỗ sẵn chơi chung
Khách cười chi xiết mừng lòng
Vội vàng rửa chén, rắp mong nghiêng bầu

Cơm rượu thảy hồi lâu ráo xáo
Chén bát đà lộn lạo ngửa nghiêng
Cùng nhau chiếu gối trong thuyền
Không dè trời đã rạng liền hướng đông

Trong bài hát nói Chữ nhàn của Nguyễn Công Trứ có câu:

Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất
Để ông Tô riêng một thú thanh cao
Chữ nhàn là chữ làm sao?

Tiểu Lân: Nàng Tiểu Lân, thông minh, tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay, là ái phi của Vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều.

Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ nài ép.

Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn tỳ bà. Nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ (dịch Nôm):

Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang.

Đoạn trường tân thanh:

Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân!

Tiểu Thanh ký: tên một quyển sách kể chuyện nàng Phùng Tiểu Thanh, là một cô gái Trung Quốc sống khoảng đầu thời Minh. Nhiều ý kiến cho rằng nàng là người Dương Châu, con nhà gia thế, tên chữ là Phùng Huyền Huyền. Vốn thông minh nên từ nhỏ nàng đã thông hiểu các môn nghệ thuật cầm kì thi họa, lại có phong tư lộng lẫy hơn người. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Cô Sơn, gần Tây Hồ. Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Nhưng đau khổ muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt là Phần dư tập.

Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài tình mà bạc mệnh, Nguyễn Du viết ra bài thơ sau:

Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du
Đọc chuyện nàng Tiểu Thanh – Vũ Tam Tập dịch thơ:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Hai câu kết trong nguyên tác Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như trở thành nổi tiếng như là tiếng lòng của Nguyễn Du.

tiểu tinh: nghĩa đen là sao nhỏ, nghĩa bóng chỉ phận lẽ mọn tức người vợ lẽ. Tiểu tinh nguyên lấy tựa “Thơ Tiểu tinh” gồm hai chương trong Kinh thi. Bài thơ mượn lời người vợ lẽ mọn để diễn đạt tư tưởng an phận thủ thường, cam chịu định mạng. Ban ngày, người vợ lẽ không dám đến gần tiếp xúc đấng phu quân, sợ vợ cả bắt gặp. Phải đợi đến đêm sao mọc, nàng mới dám đến lén lút với chồng, để rồi lại vội vàng lén lút trở về phòng mình, khi đằng đông sao sắp lặn, tức là trước khi trời sáng.

Lời lẽ trong thơ “Tiểu tinh” tuy có so sánh thân phận khổ đau, buồn tủi của người vợ lẽ với thân phận hạnh phúc, ấm áp của người vợ cả, nhưng không tỏ ý ghen tuông, chỉ có cam chịu với số kiếp.

Đoạn trường tân thanh, khi Kiều tự cam chịu là vợ lẽ của Mã Giám sinh:

Nàng rằng: Phải bước lưu ly
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.

Tiết Trung hòa thượng tỵ: Lễ Trung dung: “Hỷ, nộ, ai, lạc chưa bộc phát gọi là trung, phát đều bên trong gọi là hòa”. Thượng tỵ là phép tế lễ bên sông (vào mùa xuân và mùa thu) nhằm ngày tỵ trung tuần tháng ba Âm lịch, để trừ các quái ác (hỷ, nộ, ai, lạc) trong lòng, cho nên được gọi tiết Trung hòa thượng tỵ. Ðến năm Dân quốc thứ 19, lễ này đổi thành ngày mùng ba tháng ba Dương lịch.

tin cá: Do chữ ngư tín, chỉ tin tức, thư từ nói chung. Nhữ Nam tiên hiền truyện: Cát Nguyên thấy có người bán một con cá to, bèn nói với anh ta: “Xin tạm phiền nhờ con cá ấy đến chỗ ở của Hà Bá.” Người bán cá đáp cá đã chết. Nguyên bèn lấy đan thư bỏ vào miệng cá rồi thả xuống nước, một lát con cá nhảy lên bờ nhả ra một bức thư màu xanh đen như lá cây rồi bay mất.

tin nhạn: Trước nhất, cần định rõ chim nhạn là chim gì. Theo Anon. (2015), Hiện nay, nếu bạn lật từ điển (kể cả wikipedia tiếng Việt) thì sẽ thấy hầu hết ghi chim nhạn là loài chim thuộc họ Sẻ, có khi còn đồng nhất với chim én. Kể cả nhiều từ điển Anh-Việt mới cũng dịch con chim swallow là chim én, hoặc chim nhạn. Thế nhưng, trong ca dao tục ngữ và thơ văn cổ, khi nói tới chim nhạn là nói tới loài ngỗng thiên di (tức chim di trú, thiên = đổi, di = dời). Chữ nhạn viết chữ Hán 雁, trong tiếng Trung Quốc hiện đại lẫn tiếng Nhật đều chỉ con ngỗng trời. Các từ điển Hoa-Anh hay Nhật-Anh đều dịch là “wild goose”. Tra các từ điển tiếng Việt, Hán-Việt cũ cũng thấy định nghĩa nhạn là con ngỗng trời. Ví dụ như Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của ghi “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng”.

Theo điển cố “Tô Vũ chăn dê” trong văn học Tàu, chim nhạn lúc di cư được Tô Vũ dùng để đưa thư về trung nguyên. Điều này khá hợp lý vì ngỗng trời có kích thước to lớn, có thể mang thư được, trong khi con chim én lại bé tí xíu. Trong thơ văn cổ có từ “tin nhạn”, nghĩa là chỉ tin tức từ xa về nói chung.

Lê Mạnh Chiến (2013) cho thấy các từ điển soạn sau 1975 đều ghi nhạn là én, cũng như dịch swallow (Anh) và hirondelle (Pháp) là chim nhạn. Từ đó dẫn tới các sách phân loại sinh học dần gán cho én cái tên nhạn và con ngỗng trời dần mất đi cái tên ban đầu của nó.

Có lẽ khó mà thay đổi một cái sai đã thành hệ thống như việc gọi én là nhạn như thế này. Nhưng ít nhất, việc chúng ta có thể làm là luôn luôn nhớ chim nhạn nghĩa gốc là con ngỗng trời. Ngày xưa người ta còn phân biệt con mái là nhạn, con trống là hồng, nhưng nhiều khi dùng chung là nhạn.

Xem thêm mục: Tô Vũ.

tin sương: Do chữ sương tín: chim báo tin có sương xuống, tức chim nhạn, chỉ tin tức.

Cổ kim thi thoại: Giống chim bạch nhạn (ngỗng trắng) ở phương Bắc, mỗi lần bay xuống phương Nam thì có sương xuống, nên người ta gọi bạch nhạn là sương tín.

Thơ Trần Cơ:

Sương tín tảo tùy thu nhạn chí
(Tin sương sớm theo nhạn mùa thu bay đến).

tin xuân: chỉ tin tức, Xem tin sương.

tinh biểu: tinh là lá cờ có rìa thêu, biểu là bêu tỏ. Ngày xưa, mỗi khi vua ban lời khen thưởng cho người tiết tháo, trung trinh thì thêu tờ khen ấy vào lá cờ hoặc ở bức biểu mà ban cho nên gọi là tinh biểu.

tinh đèn: Viên Cơ: Tống Tiềm làm chức Tuần Kiểm ở Cam Lăng có đón một người bạn tên là Triệu Dương Huấn đến nhà ngồi dạy trẻ học. Một đêm Triệu thấy có một người đàn bà đẹp đứng dưới đèn ngâm thơ khêu gợi rồi tắt phụt đèn đi. Từ đấy, hai người đêm nào cũng quấn quýt với nhau. Lâu rồi Tống Tiềm biết, bèn sai người nhà vây bắt được người đàn bà ấy, nắn cổ tay thấy bé tí, nhìn ra thì là cái quặng đèn, bèn đốt bỏ cái quặng ấy đi.

tinh vệ: tên giống chim nhỏ ở bãi biển.

Thuật Di ký: Ngày xưa, con gái Viêm Ðế đi chơi, vượt bể bị chết đuối hóa ra con chim tinh vệ, ngày cứ đến núi Tây ngậm đá về biển Đông hòng lấp biển cho hả giận.

Tinh vệ chỉ nỗi oan ức.

Đoạn trường tân thanh:

Tình thâm, bể thảm, lạ điều
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?

(Ví hồn Thúy Kiều sau khi trầm mình trên Sông Tiền Đường như là hồn oan)

Tín Lăng Quân (? – 243 tCN): tên thật Ngụy Vô Kị, là một công tử nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, một trong Chiến Quốc tứ Công tử lừng danh trong lịch sử:

  • Mạnh Thường Quân Điền Văn nước Tề;
  • Bình Nguyên Quân Triệu Thắng nước Triệu;
  • Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ nước Ngụy;
  • Xuân Thân Quân Hoàng Yết nước Sở;

Tín Lăng Quân là con út của Ngụy Chiêu Vương, em cùng cha khác mẹ với Ngụy An Ly Vương. Năm 277 tCN, Ngụy Chiêu Vương chết, An Ly Vương nên ngôi, phong Ngụy Vô Kị là Tín Lăng Quân (tương đương với tước Hầu).

Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kị được đánh giá là một vị công tử nhân hậu, trọng người hiền, hào phóng chiêu đãi và khiêm tốn với kẻ sĩ, biết nghe lời kẻ sĩ khuyên bảo. Khách trong phủ tới ba nghìn người.

Mạnh Thường Quân của nước Tề bị gièm pha mất chức Tướng quốc, bèn sang nước Nguỵ nương nhờ ông. Mạnh Thường Quân khuyên ông kết giao với Bình Nguyên Quân của nước Triệu, là em trai của Triệu Hiếu Thành Vương. Tín Lăng Quân nghe theo, bèn giao du với Bình Nguyên Quân và trở nên thân thiết. Sau đó ông gả chị cho Bình Nguyên Quân, quan hệ hai bên càng thân.

Lúc bấy giờ chư hầu nể trọng Công tử, đã hơn mười năm không dám đem binh đánh Ngụy.

Công tử đang cùng Vua Ngụy (anh cùng cha khác mẹ) đánh cờ, bỗng ở biên giới phía Bắc có khói đốt lên để báo hiệu. Bộ hạ nhà Vua nói: “Giặc Triệu đến, sắp vào bờ cõi.”

Vua Ngụy thôi đánh cờ, muốn triệu tập các quan đại thần để bàn việc chống cự. Công tử can nhà Vua, nói: “Không phải giặc đâu. Đó là Vua Triệu đi săn đấy thôi.”

Rồi lại đi tiếp nước cờ. Vua lo sợ không còn bụng dạ nào nghĩ đến việc đánh cờ. Lát sau, có người từ phương Bắc đem tin về, nói: “Đó là Vua Triệu đi săn đấy thôi chứ không phải có giặc cướp.”

Vua Ngụy cả kinh, hỏi: “Tại sao Công tử lại biết điều đó?”

Công tử nói: “Môn khách của thần có người dò biết được những việc bí mật của Vua Triệu. Vua Triệu làm gì thì người khách ấy báo ngay với thần, cho nên thần biết.”

Sau đó Vua Ngụy sợ Công tử có tài và nhiều bộ hạ giỏi nên không dám giao việc chính sự trong nước cho Công tử.

Nước Ngụy có một ẩn sĩ tên là Hầu Doanh, bảy mươi tuổi, nhà nghèo, làm người giữ cửa thành Di Môn ở Đại Lương. Công tử nghe tin đến mời, đem hậu lễ để biếu.

Hầu Doanh không chịu nhận nói: “Thần tu thân, giữ nết trong sạch mấy mươi năm nay, quyết không vì làm chức giữ cửa thành khổ sở mà nhận tiền bạc của Công tử.”

Công tử bèn đặt tiệc rượu, hội họp tân khách đông đủ. Khách ngồi xong đâu vào đấy, Công tử thân hành đánh xe ngựa, để trống chỗ ngồi bên trái (tức chỗ tôn quý), đi đón Hầu Doanh. Hầu Doanh sửa qua áo mũ bước thẳng lên xe, ngồi chỗ còn trống, để dò ý Công tử. Công tử vẫn cầm dây cương một cách cung kính. Giữa đường, Hầu Doanh nói với Công tử: “Tôi có người bạn làm nghề bán thịt ở chợ, xin ngài ghé qua để tôi đến thăm ông ta.”

Công tử đánh xe vào chợ. Hầu Doanh xuống xe, đến thăm anh bạn Chu Hợi, nhìn ngang nhìn ngửa, cố ý dùng dằng, nói chuyện với người khách một hơi lâu, trong khi nói chuyện lại liếc nhìn Công tử. Vẻ mặt Công tử lại càng ôn hòa.

Lúc khách khứa tôn quý nước Ngụy đầy cả nhà, chờ đợi Công tử nâng cốc. Người ngoài chợ đều xem Công tử cầm dây cương chờ, các quân kỵ đi theo đều chửi thẩm. Hầu Doanh thấy sắc mặt Công tử trước sau không thay đổi, bèn từ tạ người khách mà lên xe. Khi đến thà, Công tử dẫn Hầu Sinh lên ngồi ở ghế trên, giới thiệu và khen ngợi Hầu Doanh với các tân khách. Tân khách đều kính sợ.

Công tử đến trước mặt Hầu Doanh chúc thọ. Hầu Doanh nói với Công tử: “Hôm nay Doanh này làm cho Công tử thực khó nhọc! Doanh là người giữ cửa thành mà được Công tử thân hành đánh xe đến đón trước đông đảo mọi người. Đáng lý tôi không nên ghé vào nhà người bạn. Nay Công tử lại chịu khó đưa tôi đến. Doanh này muốn Công tử được tiếng thơm nên cố ý giữ xe và quân kỵ của Công tử ở giữa chợ, Công tử lại càng cung kính, người ngoài chợ đều cho Doanh là đứa tiểu nhân, Công tử là bậc trưởng giả, biết nhún mình trước kẻ sĩ.”

Công tử bèn mời tiệc, Hầu Sinh được làm thượng khách. Hầu Sinh nói với Công tử: Người bạn tôi tên Chu Hợi mà tôi đến nhà là một nhân tài, trong đời không ai biết đến, cho nên ở ẩn cùng với những người hàng thịt đó thôi.”

Công tử mấy lần đến thăm Chu Hợi, anh này không đáp lễ. Công tử lấy làm lạ.

Năm 237 TrCN, Tần Chiêu Vương sau khi phá quân Triệu ở Trường Đình, lại tiến binh vây Hàm Đan. Chị của Công tử là vợ Bình Nguyên Quân, em trai Vua Huệ Văn Vương nước Triệu, mấy lẩn đưa thư cho Ngụy Vương và Công tử xin nước Ngụy cứu viện. Vua Ngụy sai tướng quân Tấn Bỉ cầm mười vạn quân đi cứu Triệu.

Vua Tần sai sứ giả nói với Vua Ngụy: “Ta đánh Triệu, sớm chiều thể náo cũng phá Triệu, chư hầu ai dám cứu thì sau khi phá Triệu, thế nào ta cũng đem binh đến đánh trước.”

Vua Ngụy e sợ, sai người ngăn Tấn Bỉ, giữ quân lại đóng dinh ở đất Nghiệp, tiếng là cứu Triệu, nhưng thực ra là đi nước đôi để chờ xem thình thế. Sứ giả của Bình Nguyên Quân liên tiếp kéo sang Ngụy, trách Ngụy Công tử: “Thắng sở dĩ tự phụ về chỗ kết nghĩa hôn nhân là vì cho rằng Công tử là ngườì có nghĩa khí cao, có thể giải cứu người ta lúc nguy khốn. Nay Hàm Đan sớm chiều sẽ phải đầu hàng nước Tần mà cứu binh của Ngụy không đến, thế thì Công tử cứu nguy khốn cho người khác ở chỗ nào? Vả chăng, nếu Công tử khinh Thắng này, bỏ Thắng phải đầu hàng nước Tần, thế thì Công tử không thương hại chị của Công tử sao?”

Công tử lo lắng, mấy lần xin Ngụy Vương, và giục môn tân khách biện sĩ tìm đủ mọi cách nói với Ngụy Vương. Nhưng Ngụy Vương sợ Tần, rốt cuộc không nghe lời Công tử. Công tử tự nghĩ mình không thể nào thuyết phục được nhà Vua thì không nên sống một mình để nước Triều mất, định tụ tập các môn khách, quân kỵ và hơn một trăm cỗ xe, muốn cùng những người khách qua đánh quân Tần, rồi cùng chết với nước Triệu.

Công tử đi qua cửa Di Môn ghé thăm Hầu Sinh, kể lại đầu đuôi tại sao mình liều chết với quân Tần và từ biệt ra đi. Hầu Sinh nói: “Công tử cố gắng đi nhé! Tôi già yếu rồi, không đi theo được.”

Công tử đi được mấy dặm, trong lòng không vui, nghĩ: “Ta đối đãi Hậu Sinh chu tất, thiên hạ không ai không biết. Nay ta sắp chết, thế mà Hầu Sinh không có nửa lời tiễn ta, phải chăng ta có điều gì không phải?

Bèn quay xe về, hỏi Hầu Sinh. Hầu Sinh cười và nói: “Tôi đã biết thế nào Công tử cũng quay lại.”

Lại nói: “Công tử yêu kẻ sĩ nổi tiếng khắp thiên hạ, nay gặp nạn không có phương kế nào khác mà chỉ muốn lao vào quân Tần, như là ném thịt cho hổ đói chứ có ích gì đâu! Thế thì dùng môn khách làm cái gì? Nhưng Công tử đối đãi với tôi rất hậu, Công tử ra đi mà tôi không tiễn, vì vậy tôi biết Công tử sẽ thắc mắc mà trở lại.”

Công tử vái mà vấn kế. Hầu Sinh bèn đuổi người ra rồi nói riêng: “Doanh này nghe nói nửa mảnh binh phù của Tấn Bỉ thường để ở trong phòng ngủ của nhà Vua mà nàng Như Cơ được nhà Vua rất yêu, ra vào nơi phòng ngủ của nhà Vua, có thể ăn trộm được. Doanh nghe nói cha của Như Cơ bị người ta giết. Như Cơ mang hận ba năm, muốn tìm người báo thù cho cha nhưng từ nhà Vua trở xuống, không được một người nào. Như Cơ khóc với Công tử. Công tử sai người khách chém đầu kẻ thù kính dâng lên Như Cơ. Như Cơ muốn báo ơn Công tử dù chết vẫn không từ, nhưng vẫn chưa có dịp đấy thôi. Nay nếu Công tử mở miệng nói với Như Cơ một lời thì thế nào Như Cơ cũng bằng lòng trộm giúp binh phù. Một khi đã có được hổ phù, giành lấy quân đội của Tấn Bỉ, đem quân về phía Bắc, cứu nước Triệu, đuổi nước Tần về phía Tây, đó là Công lao của Ngũ bá đời xưa.

Công tử nghe theo kế của Hầu Sinh, nói với Như Cơ. Như Cơ quả nhiên trộm được binh phù của Tấn Bỉ đưa cho Công tử.

Công tử ra đi, Hầu Sinh nói: “Tướng quân đã ở ngoài biên giới thì có những lúc không nghe theo lệnh của nhà Vua, để tiện lợi cho việc nước. Công tử mang nửa mảnh ghép binh phù dù ghép với nửa mảnh của Tấn Bỉ, nhưng nếu Tấn Bỉ nghi ngờ mà muốn muốn hỏi lại nhà Vua thì Công việc hỏng mất. Người bạn của tôi là anh hàng thịt Chu Hợi có thể cùng đi với Công tử, anh ta là một lực sĩ. Nếu như Tấn Bỉ nghe theo thì tốt lắm. Nếu không thì anh ta sẽ đánh chết.

Công tử khóc. Hầu Sinh hỏi: “Công tử sợ chết hay sao? Tại sao lại khóc?”

Công tử nói: “Tấn Bỉ là một lão tướng oai vệ. Tôi đến sợ ông ta không nghe, đành phải giết ông ta, cho nên tôi khóc đó thôi.”

Công tử bèn mời đi Chu Hợi. Chu Hợi cười mà rằng: “Tôi là anh hàng thịt múa dao ở chợ búa, mà Công tử lại thân hành mấy lẩn đến thăm hỏi. Tôi sở dĩ không đáp lễ là vì nghĩ rằng không cần gì cái trò lễ nghi lặt vặt ấy. Nay Công tử có việc nguy cấp, đó là lúc tôi hiến tính mạng cho Công tử.”

Bèn cùng Công tử ra đi.

Công tử đi qua tạ ơn Hầu Sinh, Hầu Sinh nói: “Tôi đáng lý phải đi theo, nhưng đã già đi không được, xin tính ngày công tử đến quân doanh Tấn Bỉ, tôi sẽ quay đầu về hướng Bắc, tự đâm vào cổ để tiễn công tử.” Ý nói sau này sẽ bị Vua Ngụy bắt tội chết, nên sẵn lòng chết trước.

Công tử bèn ra đi.

Đến đất Nghiệp, Công tử giả lệnh của Vua Ngụy thay Tấn Bỉ. Tấn Bỉ ghép hai mảnh binh phù vẫn lấy làm ngờ, giơ tay, nhìn Công tử nói: “Nay tôi cầm binh mười vạn, đóng đồn ở nơi biên giới là một Công việc nặng nề của nước. Ông đi một chiếc xe đến đây thay tôi, là nghĩa thế nào?”

Tấn Bỉ có ý không chịu nghe theo. Chu Hợi giấu ở trong ống áo cái chùy sắt bốn mươi cân, đánh Tấn Bỉ chết, Công tử bèn chỉ huy quân của Tấn Bỉ, chỉnh đốn lại đội ngũ, ra lệnh trong quân: “Nếu cha và con ở trong quân thì cha trở về; nếu anh và em ở trong quân thì anh trở về; nếu là con một không có anh em thì trở về mà nuôi cha mẹ.”

Chọn được tám vạn quân, tiến đánh quân Tần. Quân Tần giải vây rút lui, Công tử bèn cứu được Hàm Đan, bảo tồn nước Triệu.

Kể từ khi Công tử cùng Hầu Sinh từ biệt, đến khi đến quân doanh thì quả nhiên Hầu Sinh quay mặt về phía Bắc mà tự đâm cổ chết.

Vua Ngụy giận Công tử ăn trộm binh phù và lừa giết Tấn Bỉ. Công tử cũng tự biết thế, nên sau khi đã đuổi quân Tần, cứu được nước Triệu, sai các tướng đem quân trở về nước Ngụy, còn mình cùng với môn khách ở lại nước Triệu.

Hiếu Thành Vương nước Triệu cho rằng Công tử có ơn với mình, đã giả lệnh vua giành binh phù của Tẩn Bỉ để cứu nước Triệu nên bàn với Bình Nguyên Quân phong cho Công tử năm thành. Công tử nghe vậy sắc mặt có ý kiêu căng, tỏ vẻ tự khoe công trạng của mình.

Có môn khách nói với Công tử: “Có việc không có thể quên, lại có việc nên quên đi. Hễ người ta có ân đức đối với Công tử thì Công tử chớ quên; hễ Công tử có ân đức đối với người ta thì xin Công tử quên đi. Vả chăng, giả lệnh Vua Ngụy, giành lấy quân của Tấn Bỉ để cứu Triệu, đối với Triệu thì có công nhưng đối với Ngụy thì chưa phải là tôi trung. Công tử lại tự kiêu lấy đó làm công lao của mình, tôi trộm nghĩ Công tử làm như thế là không phải.”

Công tử lập tức tự trách mình như là người không chốn dung thân. Vua Triệu thân hành tưới nước quét đường giữ lễ của người chủ đón tiếp, đưa Công tử lên thềm phía Tây. Công tử khép nép từ tạ, bước lên theo thềm phía Đông, tự nói rằng mình là người có tội với nước Ngụy, không có công lao gì với nước Triệu. Vua Triệu tiếp rượu mãi đến chiều, vẫn không nỡ nói việc biếu năm thành vì biết Công tử sẽ từ chối. Công tử vẫn cứ ở Triệu. Vua Triệu cho Công tử đất Hoắc để thu thuế mà nuôi môn khách. Nước Ngụy cũng lại cho Công tử hưởng lộc đất Tín Lăng, nhưng Công tử vẫn ở lại nước Triệu.

Công tử nghe nói ở nước Triệu có Mao Công ẩn mình giữa những người đánh bạc và Tiết Công ẩn mình giữa những người bán tương. Công tử muốn gặp hai người ấy, nhưng họ trốn tránh, không chịu ra tiếp Công tử. Công tử biết chỗ họ ở bèn đi bộ một mình đến nhà, từ đó hai người kia chơi với Công tử rất là tương đắc.

Bình Nguyên Quân nghe vậy nói với vợ: “Lúc đầu ta nghe nói em phu nhân là người có một không hai trong thiên hạ; nay ta xem ra thì ông ta lại chơi bời với bọn đánh bạc và bán tương, hóa ra chỉ là người càn dở thôi.”

Phu nhân nói với Công tử. Công tử bèn từ tạ phu nhân ra đi mà rằng: “Lúc đầu tôi nghe nói Bình Nguyên Quân là hiền tài, cho nên tôi phụ Vua Ngụy mà cứu nước Triệu để xứng đáng với Bình Nguyên Quân. Cách giao du của Bình Nguyên Quân chỉ có tân khách cho nhiều để tự khoe khoang mà thôi, chứ không tìm kẻ hiền sĩ. Vô Kỵ từ khi ở Đại Lương vẫn thường nghe nói hai người này là hiền tài, khi đến Triệu e còn không được gặp mặt. Vô Kỵ chơi với họ, còn sợ họ không muốn chơi với mình nữa kìa. Nay Bình Nguyên Quân thấy thế làm thẹn, như vậy không phải là người đáng cùng tôi giao du. Có lẽ không hơi đâu mà giao du với ông ta nữa.”

Bèn chuẩn bị hành lý để đi. Phu nhân đem tất cả nói lại với Bình Nguyên Quân. Bình Nguyên Quân bèn cất mũ để xin lỗi, cố ý giữ Công tử lại. Môn hạ của Bình Nguyên Quân nghe vậy, một nửa bỏ Bình Nguyên Quân mà theo Công tử. Kẻ sĩ trong thiên hạ lại đến theo Công tử. Công tử làm cho khách của Bình Nguyên Quân đổ về Công tử.

Công tử ở lại Triệu mười năm không về. Nước Tần nghe tin Công tử ở Triệu, bèn đem binh đánh Ngụy. Vua Ngụy lo lắng, sai sứ đến mời Công tử về. Công tử sợ nhà Vua giận mình nên ngăn cấm các môn hạ: “Ai dám làm người truyền đạt cho sứ giả Vua Ngụy thì sẽ bị giết.”

Các tân khách đều đã bỏ Ngụy sang Triệu, không ai dám khuyên Công tử trở về.

Mao Công và Tiết Công đến yết kiến Công tử, nói: “Sở dĩ Công tử được trọng ở Triệu, nổi danh khắp chư hầu, là vì có nước Ngụy. Nay Tần đánh Ngụy, Ngụy nguy cấp mà Công tử không lo đến. Nếu nước Tần phá thành Đại Lương, san phẳng tôn miếu của tiên vương thì Công tử còn mặt mũi nào mà đứng trong thiên hạ?”

Nói chưa dứt lời, Công tử liền thay đổi sắc mặt, giục người đánh xe về để cứu Ngụy.

Vua Ngụy thấy Công tử, hai người cùng khóc, Công tử được trao ấn thượng tướng quân. Năm 247 TrCN Công tử sai sứ báo khắp các chư hầu. Chư hầu nghe Công tử làm tướng, đều sai tướng đem quân cứu Ngụy. Công tử cầm quân cả năm nước đánh tan quân Tần. Mông Ngao bỏ chạy. Công tử bèn thừa thắng đuổi quân Tần đến ải Hàm Cốc, chẹn đường quân Tần, quân Tần không dám ra. Lúc bấy giở uy thế của Công tử làm rúng động cả thiên hạ. Khách các nước chư hầu dâng binh pháp, Công tử đều ghi là của mình, cho nên thế tục gọi là Ngụy Công tử binh pháp.

Vua Tần lo lắng bèn cho người đem một vạn cân vàng sang Ngụy, tìm người khách của Tấn Bỉ, khiến y gièm Công tử với Ngụy Vương rằng: “Công tử trốn ra nước ngoài đã mười năm nay làm tướng nước Ngụy, chư hầu đều theo. Chư hầu chỉ nghe nói Ngụy Công tử chứ không nghe nói đến Vua Ngụy. Công tử nhân lúc này muốn quay mặt về hướng nam làm vua. Chư hầu sợ uy Công tử cũng muốn cùng nhau lập Công tử.”

Nước Tần mấy lần sai phản gián, giả vờ mừng Công tử được lập làm Ngụy Vương. Ngày nào cũng nghe lời gièm pha thì Ngụy Vương không thể không tin, về sau quả nhiên sai người thay Công tử làm tướng.

Công tử tự biết mình lại vì gièm pha mà bị phế truất, bèn cáo bệnh không ra chầu, cùng tân khách uống rượu suốt đêm, lại gần đàn bà. Ngày đêm vui chơi, bốn năm sau chết vì tửu sắc. Năm ấy An Ly Vương nước Ngụy cũng mất. Tần nghe tin Công tử đã chết, bèn sai Mông Ngao đánh Ngụy lấy hai mươi thành, bắt đầu đặt Đông Quận. Sau đó Tần dần dần nuốt Ngụy như tằm ăn dâu, được mười tám năm thì bắt Ngụy Vương, làm cỏ dân thành Đại Lương.

Lúc Hán Cao Tổ còn nhỏ, thường nghe nói Công tử là hiền tài, đến khi lên ngôi vua, mỗi lần đi qua thành Đại Lương, Cao Tổ thường tế Công tử. Năm 195 TrCN, sau khi đánh Kình Bố trở về, nhà Vua cử năm nhà giữ mồ mả Công tử, đời đời hàng năm bốn mùa tế tự Công tử.

tìm hương: Từ chữ tầm hương, xuất phát từ câu thơ Tư thị tầm hương khứ hiệu trì của Ðỗ Mục nói về việc duyên lứa lỡ làng.

Tô Châu: Thành phố có lúc mang tên là Cô Tô, nơi được Vua Hạp Lư chọn làm kinh đô nước Ngô (từ năm 514 tCN), thuộc Tỉnh Giang Tô. Đại Vận Hà chảy qua thành phố này, là một kênh đào nổi tiếng thế giới. Tô Châu cảnh đẹp người xinh, cùng với Hàng Châu được mệnh danh là thiên đàng hạ giới của Trung Hoa. Người Trung Hoa có câu: “Sống ở Hàng Châu, cưới gái Tô Châu, ăn cơm Quảng Châu và chết ở Từ Châu”. Tô Châu, Hàng Châu đều nằm trong lưu vực Trường Giang, một con sông lớn của Trung Hoa, tương truyền đây là nơi xuất phát của người Việt Nam.

Tô Ðông Pha: (1036-1101): tức Tô Thức, tự Tử Chiêm, hiệu Ðông Pha, người Nga My thuộc Tỉnh Tứ Xuyên. Ông là một nhà thơ, nhà tản văn lừng danh đời Tống, thường chơi thân với các nhà sư.

Tô Hiến Thành (1102–1179): quan đại thần phụ chính nhà Lý, phụng sự hai triều vua Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không phải là tôn thất nhà Lý. Ông sinh ra ở Xóm Lẻ thuộc Làng Hạ Mỗ, nay thuộc Xã Hạ Mỗ, Huyện Đan Phượng, Hà Nội.

Trong chính sử, Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu tiên với vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi. Năm 1140, Thân Lợi tự xưng là con trai Lý Nhân Tông và nổi loạn chống vua Lý Anh Tông ở khu vực phía bắc (nay là Thái Nguyên). Quân của Thân Lợi cuối cùng bị quân nhà Lý do Đỗ Anh Vũ chỉ huy đánh tan. Thân Lợi bị Tô Hiến Thành bắt và bị chém đầu theo lệnh của Lý Anh Tông năm 1141, 400 đồng đảng bị xử lưu đày. Tuy nhiên đến cuối năm 1142, Tô Hiến Thành viện dẫn những việc nhân đức mà các đời vua trước từng làm, mong nhà vua tha tội cho 400 người lưu đày, nhằm tạo phúc cho dân chúng. Vua Lý Anh Tông nghe theo mà tha tội cho họ.

Sự nghiệp làm tướng võ của Tô Hiến Thành chủ yếu là dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Tiếp nối gương của Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái úy Tô Hiến Thành cùng vua Lý Anh Tông đi dẹp loạn các nơi, mở mang bờ cõi thêm về phía tây-bắc. Sự nghiệp võ công của ông chống Chân Lạp xâm lược, chinh phạt Chiêm Thành; làm cho vị thế của quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Anh Tông trở nên lớn mạnh với các nước lân bang và với nhà Tống; buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164.

Sự nghiệp làm quan văn của Tô Hiến Thành hiển hách không kém, phần lớn công lao tập trung ở giai đoạn cuối đời, khi ông trở thành đại thần phụ chính tài năng và đức độ cuối cùng của nhà Lý. Ở giai đoạn trước đó, công lao lớn nhất của ông là việc tổ chức khai hoang lấn biển các vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa và Hà Tĩnh ngày nay, đặc biệt đối với vùng đất Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội Kiểm hiệu Thái phó Bình chương Quân quốc Trọng sự (Tể tướng).

Khi vua Lý Anh Tông lâm bệnh nặng, biết mình khó qua khỏi, gọi ông vào giao phó việc phò giúp thái tử Long Cán, khi ấy còn quá nhỏ tuổi, lên ngôi báu. Nguyên trước đó, vua Lý Anh Tông lập người con lớn là Long Xưởng làm thái tử. Nhưng do Long Xưởng ăn ở vô đạo, vào cung thông dâm với phi tần của vua cha, nên bị vua cha truất ngôi thái tử, con thứ là Long Cán được cho làm thái tử.

Sau khi Lý Anh Tông băng hà năm 1175, mẹ Long Xưởng là Chiêu Linh Thái hậu đem vàng bạc đút lót cho vợ của Tô Hiến Thành để mong Tô Hiến Thành giả di chiếu, phế Long Cán và tái lập Long Xưởng lên ngôi báu. Tô Hiến Thành biết chuyện, khảng khái nói: “Ta là đại thần, nhận mệnh tiên tổ lo giúp vua còn bé. Nay lại ăn của đút mà làm chuyện phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng?”

Biết chuyện, Thái hậu lại cho gọi ông vào cung để dỗ dành, thuyết phục, nhưng Tô Hiến Thành kiên quyết không nghe theo: “Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ há chịu! Huống chi, lời tiên đế còn văng vẳng bên tai. Thái hậu lại chẳng nghe việc của Y Doãn, Hoắc Quan hay sao? Thần không dám vâng lệnh!”

Cuối cùng, Long Cán vẫn được lập lên ngôi thiên tử theo đúng di mệnh của Lý Anh Tông. Đó là vua Lý Cao Tông, lên ngôi khi mới được 2 tuổi. Tô Hiến Thành giữ quyền phụ chính Thái sư, hết lòng hết sức phò giúp ấu chúa nên trong ngoài đều yên ấm.

Do tuổi già sức yếu mà thời gian phò trợ ấu chúa của ông không được là bao.

Năm Cao Tông lên 6 tuổi, Tô Hiến Thành lâm bệnh nặng, mọi việc lúc này dồn lên quan Gián nghị Đại phu Trần Trung Tá. Là người tài năng đức độ, lại lo cho công việc nên Trần Trung Tá chắng mấy khi ghé thăm Tô Hiến Thành đang bệnh nặng. Trong khi đó quan Tham tri Chính sự Vũ Tán Đường lại ngày đêm túc trực tỏ vẻ lo lắng cho bệnh tình của Tô Hiến Thành, lo cơm nước thuốc thang cho ông

Lựa rằng Tô Hiến Thành khó bề qua khỏi, Đỗ Thái hậu (mẹ vua Lý Cao Tông) tới thăm, hỏi ông chuyện người có thể thay thế ông cầm cương, giữ lái chuyện triều chính: “Nếu ông có mệnh hệ nào thì ai là người có thể thay thế ông được?”

Tô Hiến Thành không cần suy nghĩ, đáp luôn: “Người thay thế thần chỉ có thể là Trần Trung Tá.”

Thái hậu ngạc nhiên, hỏi: “Tán Đường ngày ngày hầu hạ, thuốc thang cho ông, sao ông không tiến cử? Trần Trung Tá luôn thờ ơ với ông, sao ông lại ưa chuộng làm vậy?”

Tô Hiến Thành nói rành rẽ: Nếu Thái hậu hỏi người lo việc đại sự quốc gia, thần cử Trần Trung Tá. Nếu cần người phục dịch cơm nước, thuốc thang, thì ngoài Võ Tán Đường, chẳng còn ai hơn được!”

Thái hậu hết lời ngợi khen Tô Hiến Thành vì tấm lòng cương trực, không lụy tình riêng mà quên việc đại sự.

Do bệnh nặng, Tô Hiến Thành không qua khỏi, mất năm 1179.

Tiếc rằng, sau này, Đỗ Thái hậu không nghe theo lời ông mà lấy em trai mình là Đỗ An Di thay Tô Hiến Thành giữ quyền phụ chính. Do bất tài, kém đức, Đỗ An Di làm hư hỏng Lý Cao Tông, khiến cho Cao Tông trở thành vị vua tăm tối, tạo mầm mống phá vỡ cơ đồ nhà Lý.

Bình về việc này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Tô Hiến Thành nhận việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập nhưng vẫn đứng vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yên dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa. Huống chi cho tới lúc sắp chết còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng, Thái hậu không dùng lời nói của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy”.

Bàn về công đức của Tô Hiến Thành, nhà sử học Phan Huy Chú viết: “Ông là quan đầu triều, nhận trọng trách, hết lòng hết sức, khéo xử trong khi biến cố, dù sóng đánh đập lay chuyển mà cột đá vẫn trơ trơ không dời, cuối cùng khiến cho trên yên, dưới thuận, thực không thẹn với phong thể bậc đại thần xưa.”

Tô Hiến Thành được tôn thờ qua 72 cơ sở thờ tự (đình, đền) ở khắp các làng xã trong Tỉnh Thanh Hoá.

Nguồn: Trần Hưng (2020), Wikipedia_Tô Hiến Thành.

Tô Vũ: người đời Hán, tên thật Tô Tử Khanh. Theo Hán thư, Thời Hán Vũ đế (trị vì 141–87 tCN), Tô Vũ làm Trung Lang tướng. Cầm cờ tiết đi sứ Hung Nô, chúa Hung Nô bắt Tô Vũ phải hàng phục nhưng Tô Vũ không chịu khuất phục nên bị tống giam vào một cái hang lớn không cho ăn uống gì cả. Tuyết xuống, Tô Vũ lấy tuyết và lông chim mà ăn, sau ông bị bắt đày đi chăn một đàn dê đực ở Bắc Hải với sắc chỉ của chúa Hung Nô: “Bao giờ đàn dê đẻ con, sứ thần Tô Vũ mới được trở về đất Hán”. Nơi đây không có một bóng người, không có lấy một thứ để ăn, Tô Vũ phải đào hang bắt chuột mà ăn.

Suốt 19 năm bị đày ở Hung Nô cực khổ như vậy nhưng Tô Vũ vẫn giữ tấm lòng trung với nước, vẫn chống cờ tiết nhà Hán khi đi chăn dê. Nhà Hán biết tin sứ thần nêu tấm gương trung nghĩa với đất nước và đã bị giam trong hang cho chết. Hán Vũ Ðế vô cùng thương xót.

to-vu-chan-de
Tô Vũ cầm cờ tiết của Vua Hán đi chăn dê

Năm tháng trôi qua, người Hán tin rằng Tô Vũ đã bị hại. Song, một hôm, một con chim nhạn (ngỗng trời) từ phương Bắc bay về, đậu xuống sân rồng; chim mang thư của Tô Vũ báo tin chàng còn sống. Hóa ra là Tô Vũ buộc thư vào chân chim nhạn. Mùa đông, nhạn tránh rét bay về Trung Nguyên, một số bay vào vườn thượng uyển có con chim mang thư. Ðến khi Hung–Hán hòa thuận nhau, Thiền Vu cho Tô Vũ về nước. Vũ được phong tước quan Nội hầu, khi chết được vẽ hình thờ ở Kỳ Lân các.

Trong truyện Song phụng kỳ duyên lúc Chiêu Quân cống Hồ đến Nhạn Môn Quan, nàng cũng xé vạt áo lụa, cắn móng tay viết thư buộc vào chân chim nhạn để gởi về Vua Hán.

Quốc âm thi tập:

Ðời Thương khách biết cầu xem Y Doãn
Nhà Hán ai ngờ được Tử Khanh

Khuê oán kỳ 1 – Thẩm Như Quân

Nhạn tận thư nan ký (A)
Sầu đa mộng bất thành

Nỗi oán khuê phòng kỳ 1 – Trần Đông Phong dịch thơ:

Nhạn hết thư khôn gửi (A)
Buồn nhiều mộng chẳng thành

(A): Ý nói không còn nhạn bay nên không thể nhờ nhạn đưa thư theo cách của Tô Vũ.

Cung oán ngâm khúc:

Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng
Đêm năm canh lắng tiếng chiêng rền

Đoạn trường tân thanh:

Tin nhạn vẩn, lá thư bời
Ðưa người cửa trước, rước người cửa sau

Chinh phụ ngâm:

Trải mấy thu, tin đi, tin lại
Tới xuân này, tin hãy vắng không
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng

(“Thấy nhàn” là thấy chim nhạn tức ngỗng trời, có nghĩa nhận được tin)

Di bút – Phan Thanh Giản

Ải bắc ngày trông tin nhạn vắng
Thành nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.

Dạ cổ hoài lang – Cao Văn Lầu

Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàng
Vào ra luống trông tin nhạn
Năm canh mơ màng

Hoài Lâm cùng Tấn Bảo và Nhật Duy, Sen Vang Music:
https://www.youtube.com/watch?v=du700MEaTlw

“Tin nhạn” có nghĩa đen là tin do ngỗng trời mang đến, nói chung chỉ tin tức đang trông mong.

tôn hiệu: danh xưng của bậc vua chúa. Hán Sở tranh hùng trình bày cách chọn tôn hiệu của Hạng Vũ thời chiến tranh Hán Sở như sau.

Hạng Vũ nói với Trương Lương: “Nay ta muốn làm vua ở Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải. Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn, vậy ngươi thử nói ta nghe.”

Trương Lương nghĩ thầm: “Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý.”

Nghĩ rồi ôn tồn đáp: “Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kể qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế, đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn.” Rồi Trương Lương trình bày sơ lược về năm vị đế này và thêm: “Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?”

Hạng Vũ tự nghĩ: “Ngũ Đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp.”

Liền hỏi lại Trương Lương: “Còn tôn hiệu nào khác chăng?”

Trương Lương đáp: “Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu.” Rồi Trương Lương trình bày sơ lược về ba vị vương này và thêm: “ Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?”

Hạng Vũ nói: “Hiệu vương thì ta có thể xưng được. Song dưới hiệu vương còn có tôn hiệu nào khác chăng?”

Trương Lương nói: “Dưới tam vương thì có ngũ Bá, tức là: Tề Hoàn Công, Tống Trương Công, Tần Mục Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương. Năm đời Bá đều vì thiên hạ trừ tàn bạo, gây một uy lực to lớn, bá tánh đều tùng phục. Minh công dụng tôn hiệu ấy được chăng?”

Hạng Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói: “Vương hiệu tuy hợp với cổ mà không hợp với kim, Bá hiệu thì hợp với kim lại không hợp với cổ. Muốn cho cổ kim hợp nhất ta lấy cả hai tôn hiệu, xưng là “Bá Vương”. Ta vốn sinh ở đất Sở, từ sông Hoài sang phía Bắc là địa phận Tây Sở, vậy từ nay ta xưng là Tây Sở Bá Vương.”

Tôn Tẫn: Ðông Chu liệt quốc: Tôn Tẫn người nước Tề thời Chiến Quốc, con cháu Tôn Vũ. Trước kia, Tôn Tẫn cùng Bàng Quyên học binh pháp với thầy Quỷ Cốc Tử. Về sau, Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, nhưng vẫn tự cho mình không tài giỏi bằng Tôn Tẫn nên ngầm sai người mời Tôn Tẫn đến rồi mượn pháp thuật mà trị tội: Chặt 2 chân và chạm vào mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình không xuất đầu lộ diện được. Sứ giả nước Tề đến đất Lương, Tôn Tẫn mang thân đã bị hình phạt lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm lên xe đưa về Tề.

Tướng Tề là Ðiền Kỵ phục tài bèn tâu với Uy Vương phong Tôn Tẫn làm thầy. Khi Ðiền Kỵ làm tướng cầm quân đi đánh Ngụy, Tôn Tẫn làm quân sư ngồi trong xe kín bàn mưu kế. Ðiền Kỵ theo kế Tôn Tẫn đánh cho Ngụy phải kiệt quệ.

13 năm sau, Ngụy và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Ðiền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn, tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy liền rời bỏ Hàn quay về. Tôn Tẫn nói với Ðiền Kỵ: “Quân Ngụy vốn hung tợn và khinh quân Tề, quân Tề mang tiếng khiếp nhược. Người thiện chiến thì nhân cái thế của mình mà lợi dụng. Ngài hãy sai quân Tề vào đất Ngụy làm 10 vạn cái bếp, hôm sau làm 5 vạn cái, lại ngày hôm sau nữa làm 3 vạn cái.” Bàng Quyên đi được 3 ngày cả mừng nói: Ta vốn biết quân Tề nhát gan, mới vào đất ta 3 ngày mà quân sĩ bỏ trốn đã quá nửa.” Bèn bỏ bộ binh mang khinh binh, cùng lính tinh nhuệ một ngày đi gấp đôi đường đuổi theo.

Tôn Tẫn trù tính họ đi đến đêm thì đến Mã Lăng. Ðường Mã Lăng hẹp, hai bên hiểm trở, có thể phục binh, bèn sai người chặt cây to, bôi trắng và viết: “Bàng Quyên tử vu thử thụ chi hạ” (Bàng Quyên chết ở dưới gốc cây này). Lại sai một vạn quân Tề giỏi bắn tên nấp ở bên đường, hẹn ban đêm thấy lửa đốt lên thì đều bắn ra. Bàng Quyên quả nhiên đêm ấy đến dưới gốc cây bị đẽo, thấy có chữ viết trên gỗ bôi trắng bèn cho đốt đuốc xem. Ðọc hàng chữ chưa xong thì 1 vạn nỏ của quân Tề đền bắn ra. Quân Ngụy trốn chạy tán loạn, Bàng Quyên tự biết mình trí cùng binh bại bèn tự đâm cổ chết. Quan Tề thừa thắng phá ta tất cả quân Ngụy.

Từ đó Tôn Tẫn nổi danh trong thiên hạ, đời truyền binh pháp của ông.

Tôn Vũ: Ðông Chu liệt quốc: Tôn Vũ, còn gọi là Tôn Tử, là một nhà binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, người nước Tề, sống vào cuối thời Xuân Thu (Khoảng thế kỷ thứ 5 tCN).

Tôn Vũ đem sách binh pháp yết kiến Vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư nói: “Ta đã đọc 13 thiên của ông rồi, nay ông thử áp dụng binh pháp điều khiển quân đội một cách tiểu quy mô có được không?” Tôn Vũ đáp: “Ðược”. Hạp Lư nói: “Ðem đàn bà ra thí nghiệm có được không?” Tôn Vũ đáp: “Ðược”.

Vua bèn bằng lòng cho gái đẹp trong cung ra, tất cả 180 người, Tôn Vũ chia ra làm 2 đội, lấy hai người phi Vua nuông chiều làm đội trưởng, sai tất cả đều cầm giáo. Tôn Vũ ra lệnh nói: “Khi ta nói đàng trước thì các người nhìn vào quả tim, nói bên trái thì nhìn tay trái, nói bên phải thì nhìn tay phải, đàng sau thì nhìn đàng sau lưng.”

Sau khi đã đưa ra kỷ luật, Tôn Vũ bèn đặt Phủ Việt, ban lệnh 3 lần, nhắc nhở 5 lượt. Sau đó đánh trống ra lệnh nhìn về bên phải, bọn con gái cười rộ. Tôn Vũ nói: “Kỷ luật không rõ ràng, nhắc nhở hiệu lệnh không kỹ càng đó là tội của tướng.” Lại ra lệnh và nhắc nhở 3 lần, 5 lượt rồi đánh trống ra lệnh nhìn về bên trái. Bọn con gái lại cười rộ.

Vũ nói: “ Kỷ luật không rõ ràng, nhắc nhở hiệu lệnh không kỹ càng đó là tội của tướng. Nay đã hiểu rõ kỷ luật rồi mà không theo luật là tội của đội trưởng.” Tôn Vũ muốn chém đầu 2 người đội trưởng.

Vua Ngô ngồi trên đài xem thấy sắp chém 2 người ái cơ, hoảng hốt vội sai sứ truyền lệnh, nói: “Quả nhân đã biết cách dùng binh của tướng quân rồi, không có 2 ái cơ ấy thì quả nhân ăn không ngon, xin đừng chém.”

Tôn Vũ nói: Thần đã vâng mệnh lệnh bệ hạ làm tướng, tướng đã ở trong quân thì có khi không theo lệnh vua.” Bèn sai chém 2 người đội trưởng để thị uy, đem người kế tiếp làm đội trưởng, lại đánh trống chỉ huy. Bọn con gái nhìn bên phải, bên trái, trước sau, quỳ đứng đều nghiêm chỉnh, đúng đắn, không ai dám ho he. Tôn Vũ sai sứ giả báo với nhà Vua: “Binh đã chỉnh tề, bệ hạ có thể dùng nó thế nào cũng được, có thể sai nó dù nhảy vào lửa, vào nước.”

Hạp Lư cho Tôn Vũ làm tướng. Phía Tây quân Ngô phá Sở, đi vào đất Sính, phía Bắc uy hiếp nước Tề, nước Tấn, nổi tiếng chư hầu.

Bộ Tôn Tử Binh pháp gồm 13 thiên: 1. thủy kế, 2. Tác chiến, 3. Mưu công, 4. Quân hình, 5. Binh thế, 6. Hư thực, 7. Quân tranh, 8. Cửu biến, 9. Hành quân, 10. Ðịa hình, 11. Tựu địa,. Hỏa công, 13. Dụng gián.

Tôn Tử Binh pháp là quyển sách gối đầu giường của các nhà quân sự á đông ngày xưa và hiện vẫn còn được nghiên cứu tại các học viện quân sự và còn được ứng dụng trong nhiều lãnh vực khác.

Thiên Nam Ngữ lục:

Kiêm hay thao lược cơ quyền
Bội trăm Bạch Khởi, chấp ngàn Tôn Ngô.

Tố Nga: Theo Bửu Kế (1968): tố có nghĩa là trắng, nga là nàng con gái. Tương truyền lúc Ðường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt Ðiện thấy 10 người con gái mặc áo trắng, cỡi hạt trắng múa hát. Về sau dùng chữ tố nga để chỉ mặt trăng, và cũng có nghĩa là người con gái đẹp.

Bích Câu kỳ ngộ, lúc Tú Uyên được mời chào một tranh thiếu nữ:

Liền tay xin lĩnh xem qua
Truyền thần một tượng tố nga rành rành.

Đoạn trường tân thanh:

Ðầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Tống Chi Vấn (khoảng 656-710): còn có tên là Thiếu Liên, tự là Diên Thanh, quê quán ở Hà Nam. Tuy không có tài liệu nào cho biết rõ năm sinh nhưng ông mất năm 710, và do đó được xếp vào những nhà thơ của Sơ Ðường. Không rõ cuộc đời sĩ tử của ông ra sao nhưng hoạn lộ của ông bắt đầu rất sớm. Mới hai mươi tuổi đã được Võ Tắc Thiên vời ra làm quan tại Tập Hiền quán, sau đó không lâu lại được thăng làm Khảo công viên Ngoại lang, rồi Thượng phương Giám thừa.

Sau khi Ðịch Nhân Kiệt qua đời, vì Võ Tắc Thiên rất tin dùng hai viên quan là Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, nên hai người này quyền hành rất lớn, hống hách ngang ngược nổi tiếng một thời. Tống Chi Vấn cùng với Thẩm Thuyên Kỳ theo về với nhóm này. Ông cũng là một trong những quan viên cực lực đề bạt em của Trương Dịch Chi làm Trưởng sử trước Vũ Hậu, vốn là đầu mối dẫn đến vụ án oan của Tể tướng Ngụy Nguyên Trung và Trương Duyệt sau này. Năm 705, lợi dụng cơ hội Vũ Hậu bị bệnh nặng, Tể tướng Trương Giản Chi làm một cuộc binh biến giết chết nhóm Võ Tam Tư, Trương Dịch Chi. Tống Chi Vấn bị biếm đi làm Tham quân ở Lũng Châu. Khi Ðường Trung Tông lên ngôi, ông được phục chức trở về Trường An, thăng dần lên đến Đại học sĩ ở Tu Văn Quán rồi mất không lâu sau đó.

Các nhà nghiên cứu Ðường thi thường xếp Tống Chi Vấn chung với Thẩm Thuyên Kỳ và gọi chung họ là Tống–Thẩm vì về mặt văn học cả hai đều là bậc thầy của thể thơ cung đình, ứng chế. Thể thơ này do Thượng Quan Nghi khởi xướng và được Thượng Quan Uyển Nhi (cháu nội của Thượng Quan Nghi) tiếp tục đề xướng trong nội cung dưới thời Vũ Hậu. Thơ cung đình (Cung Thể thi) hết sức chú trọng đến mặt đối ngẫu, nhạc tính và thanh điệu, và có lẽ vì vậy mà thường nghèo nàn về ý tứ. Ðề tài của nó cũng thường eo hẹp, quanh quẩn trong chuyện ca ngợi công đức của vua chúa hoặc thù ứng trong những bữa tiệc của hoàng gia. Nhưng cũng chính vì phải theo một quy luật gò bó như vậy nên hậu nhân đã đánh giá rằng công lao lớn nhất của Tống-Thẩm là họ đã đóng góp một phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh và kiện toàn hình thức của luật thi.

Khi không bị gò bó trong Cung Thể thi, thơ Tống Chi Vấn có những ý tứ rất bất ngờ.

Tống Ngọc: người nước Sở thời Chiến Quốc, cùng với Trường Khanh (tức Tư mã Tương Như đời Hán), cả hai đều đẹp trai và nổi tiếng về từ phú.

Văn học cổ dùng từ Tống Ngọc, Trường Khanh để chỉ hạng văn nhân, tài tử. Xem mục: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

Tiểu sử của Tống Ngọc còn mơ hồ. Người ta biết ông có tài văn chương qua các thiên Chiêu hồn, Ðại chiêu, Cửu biện và nhiều bài phú như Ðăng đồ tử hiếu sắc phú , Cao đường phú… Chỉ có biết chắc hơn ông là người đẹp trai, lãng mạn, đa tình…

Về văn chương, Tống Ngọc có một số sở trường về miêu tả, như trong hai thiên Chiêu hồnÐại Chiêu, ông tả mỹ nhân thì môi son, răng trắng, xương nhỏ, thịt đầy, mày cong và dài, dung nhan tú nhã, vui vẻ khoan thai; tả cung thất thì nào sân, nào hiên, cửa son, gác tía… Trước ông, chưa ai tả tỉ mỉ, đầy đủ chi tiết như thế.

Theo Tình sử, Vuơng Trung là một đại thần của nước Sở. Một lần vua cho lĩnh ấn tiên phong đi dẹp loạn, bị thất trận. Ông bị giáng chức, được bổ làm thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Ái nữ là Vương Kiều Loan cũng theo cha về nhiệm sở mới. Kiều Loan là một giai nhân tuyệt sắc đang độ tuổi trăng tròn, bản chất thông minh, lại được cha mẹ cưng chìu, từ nhỏ đã thông làu kinh sử, văn hay chữ tốt. Năm tháng nàng chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng. Tài sắc vẹn toàn, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, nên khó mà tìm cho được người môn đăng hộ đối. Nàng có một người cô là Tào Di, góa chồng. Mẹ nàng đưa bà về sống chung với gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.

Một hôm, trong tiết thanh minh, hai cô cháu cùng đám thị nữ tản bộ đến hoa viên thưởng ngoạn. Đang mải ngắm hoa xuân, Vương Kiều Loan linh cảm có ai từ bên kia bức tường đang đăm đăm nhìn mình. Chỉ đôi mắt ai đó thôi, Kiều Loan đã thẹn thùng đỏ mặt, đôi chân líu quíu không dời bươc được. Nàng níu lấy áo bà cô, giục đưa về phòng; các thị nữ cũng líu ríu về theo.

Vườn hoa đã vắng bóng giai nhân, nhưng hương thơm còn đọng lại. Chàng trai lần bước ra, đôi mắt tẩn ngẩn như mất hồn; chợt trông thây chiếc khăn tay của ai còn vướng trên cành hoa, chàng cầm lấy áp vào môi. Một thị nữ của Vương Kiều Koan quay trở lại tìm chiếc khăn cho chủ. Chàng trai tự giới thiệu tên là Tống Ngọc, biết tên của thị nữ là Minh Hà và dò được quí danh của cô chủ. Tống Ngọc không trả lại khăn, mà chỉ năn nỉ nhờ thị nữ trao lại cho chủ một tấm hoa tiên, bài thơ vừa mới viết (dịch thơ):

Khăn rơi mỹ nữ đượm hơi hương
Tạo hóa khiến xui kẻ vấn vương
Gởi khúc tương tư tình tha thiết
Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên

Từ tuổi dậy thì vừa chớm, giai nhân chỉ ẩn mình phòng the, chỉ biết vui cùng đèn sách. Nay nhận được lời tỏ tình tuy quá đường đột nhưng chao ôi là tình. Trong lòng như sóng dậy, Vương Kiều Loan không chợp mắt, cuối cùng không nén được rộn ràng, tấm hoa tiên đề thư phúc đáp:

Thân em như khôi ngọc trong lành
Khuê các ẩn mình kín cửa quan
Ngày vắng dạo xem hoa dưới mái
Đêm thanh bầu bạn trăng bên mành.

Một mình ngắm hoa nào ai tỏ
Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc
Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình
Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách
Đừng trao tâm sự rối ren lòng.

Tống Ngọc nhận được thơ từ tay Minh Hà, chàng lại phúc đáp. Từ đó, tỳ nữ Minh Hà là chim xanh, thơ đi tình về cho đôi lứa. Thời gian qua, đến lúc yêu đương đã chín mọng rồi, vậy mà Tống Ngọc vẫn phớt lờ chuyện mai mối, Vương Kiều Loan phải thúc giục. Chàng trai viện cớ này, cớ nọ để trì hoãn. Rồi một chiều, Tống Ngọc lén đến bên tường đông, tỏ ý muốn vào tận sâu khuê phòng. Nàng từ chối; nhưng khi Tống Ngọc tiu nghỉu ra về, thì Kiều Loan lại sai Minh Hà đem đến một tấm hoa tiên:

Đôi lời xin ngỏ cùng ai
Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi
Phòng xuân mở rộng đêm nay
Trăng đưa hoa bóng gót lài rẽ sang

Vầng trăng vừa ló đầu núi, Tống Ngọc đã vội vàng nhẹ bước đến tường đông. Tỳ nữ Minh Hà đứng đợi ở cửa phòng. Lúc được đưa vào gặp, Kiều Loan cho mời bà cô Tào Di đến, rồi quay lại nhỏ nhẹ cùng Tống Ngọc: “Thiếp là người đoan chính, chàng đâu phải là kẻ phàm phu. Chúng ta đã yêu nhau là do tài sắc, đã thành keo sơn gắn bó. Yêu chàng, thiếp đâu còn tiếc lấy thân, nhưng chỉ sợ vườn xuân cánh bướm, biết rồi có giữ được nguyện ước hay không. Vậy chúng ta hãy nguyện lời thề thủy chung đầu bạc răng long. Nếu không, chẳng hóa ra vì ham mê muội ái ân mà chúng ta quên nghĩa đá vàng.”

Đôi uyên ương nhờ bà cô đứng ra chứng giám lời thề nguyền. Làm chứng xong, bà cô rút êm, để lại phòng the cho gió trăng. Ngoài phòng, Minh Hà ngồi canh cửa. Sáng tinh mơ, Kiều Loan đánh thức tình lang dậy, thủ thỉ bên tai chàng: “Đời con gái, thiếp đã trao trọn cho chàng rồi. Thiếp chỉ mong chàng giữ trọn lời thề, sống chết có nhau đến trọn kiếp. Từ đây về sau, khi nào có thể gặp nhau được, thiếp sẽ sai bảo Minh Hà đến đón chàng.”

Từ đó, đôi trai gái không còn kín đáo trao cho nhau những vần thơ tình ủ ấp hương, mà chỉ cách khoảng một hai hôm, lại được sự dẫn dắt của thị nữ Minh Hà, để tìm gặp nhau trong ái ân hoan lạc. Tường đông rộn ràng hoa bướm, nào đâu ngờ càng rộn ràng hơn trong lòng thiếu nữ Minh Hà, đang xuân thì phơi phới, cứ phải lấp ló trộm nhìn cảnh dập dìu gái trai. Và, thời gian không lặng lẽ qua đi, trong suốt ba năm, những khoảng hở không gặp Kiều Loan, Tống Ngọc lại lén lút dan díu với Minh Hà. Sau rồi, Kiều Loan hay chuyện, đau đớn không lường, nhưng chuyện đã rồi, đành ngậm đắng, và hối thúc Tống Ngọc phải làm lễ thành hôn với mình.

Từ lâu, Vương Thiên Hộ đã lợm danh Tống Ngọc, chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn chuơng uyên bác, nhưng lại chuyên bề trăng gió, đã làm cho biết bao giai nhân bẽ bàng, nên quyết liệt từ chối lờ cầu hôn. Bị từ hôn, vui hay buồn không biết, Tống Ngọc lặng lẽ ra đi, nối tiếp cuộc sống ngắt hoa bẻ cành.

Đau thương cho Kiều Loan, vò võ trông ngóng người yêu quay trở lại, rồi đau tình đến chết. Trước khi lìa đời, nàng để lại bản Trường hận ca và ba mươi bài thơ tuyệt mệnh.

Trường hận ca – Vương Kiều Loan
Trường hận ca – Phan Duy Chung dịch Nôm:

Thiên trường hận vì đâu mà viết
Lệ tương tư bi thiết mảnh tình
Sớm khuya hồn mộng lung linh
Mượn thơ khóc khóc bạc tình đời hoa

Lâm An thiếp quê nhà yêu dấu
Vì phụ thân thất mối quân cơ
Nam Dương Thiên Hộ bây giờ
Thâm khuê phận thiếp trúc tơ êm đềm

Không bước khỏi cửa thềm Châu phủ
Mười tám năm hỷ hủ sách đèn
Bỗng nhiên giữa hội Đạp thanh
Du xuân thuở ấy mà thành dây oan

Tình len lỏi phòng loan tịch mịch
Chiếc khăn là dây buộc oan khiên
Được chàng gửi tấm hoa tiên
Tương tư lòng thiếp ngày đêm võ vàng

[…]

Chỉ vì dại cuộc đời thơ mộng
Thú phong lưu uất hận muôn đời
Tài hoa thôi cũng là người
Một thiên bạc mệnh cho đời mỉa mai

Thân thiếp đã ngoài vòng đoan chính
Thế thì thôi liệu tính cho xong
Sống làm chi, nghĩa đèo bòng
Mang sầu chín suối đúc thành thiên thu

Nhớ ngày ấy yêu nhau tha thiết
Càng yêu nhiều càng ghét bấy nhiêu
Diên Lăng ngàn dặm phiêu diêu
Lệ sầu gửi đến ít nhiều tâm tư

Tình sau trước hình như có thế
Chỉ yêu nhau rồi để hờn nhau
Ví chàng có đọc thơ sầu
Sầu này cũng chỉ một câu hận trường!

Tương truyền, một lần Vua Sở hỏi Tống Ngọc: “Tiên sinh hẳn có khuyết điểm trong tính hạnh nên trong nước không có mấy người khen. Phải thế chăng?”

Tống Ngọc đáp: “Trong nước không có ai khen, hạ thần thực rất lấy làm vẻ vang. Khi xưa ở kinh đô, có một nhà ca nhạc trứ danh. Buổi đầu hát khúc Hạ lý ba nhân, cả thiên hạ đều nức nở khen hay; rồi hát khúc Dương a hệ lộ thì người khen còn có vài trăm; lại hát đến khúc Dương xuân bạch tuyết thì chỉ còn hơn mười bằng lòng. Vì khúc hát càng cao, người hiểu lại càng ít. Chim phụng giương cánh bay chín tầng mây, dọc ngang trong khoảng mênh mông vô tận; chim én đậu ở hàng rào, không cùng chim phụng biết đất trời là rộng nên chê chim phụng lung lăng. Cá côn sớm dậy ở Côn Lôn, trưa nằm vườn non Kiệt Thạch, tối bơi về biển Mạnh Trư; cá chép ở ao tù, không cùng cá côn biết sông biển là lớn nên chê cá côn hiếu sự. Người ta tư tưởng càng cao, tính hạnh càng quý lại càng ít có người biết đến. Cho nên, lời chê của thiên hạ, hạ thần vui lòng nhận lấy, và lại mong thiên hạ ngày càng chê thêm mãi lên…”

Nếu tương truyền quả thực như thế, Tống Ngọc là một người có tài năng khác thường nhưng lại quá phóng túng.

Đoạn trường tân thanh:

Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

Ý nói: sớm chiều, Kiều phải tiếp khách mà toàn là khách phong lưu tài tử thêm phóng túng (như Tống Ngọc, Trường Khanh), chứ không phải kẻ tầm thường mà đứng đắn.

Tống Tương Công (? – 637 tCN; trị vì 650–637 tCN: vị quân chủ thứ 20 của nước Tống, chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người thứ hai trong năm người lần lượt làm bá chủ chư hầu. Xem thêm các mục: Ngũ BáXuân Thu Chiến Quốc.

Sau khi Tề Hoàn Công chết, nước Tề suy yếu vì nội loạn do các công tử tranh giành ngôi vua. Công tử trưởng Vô Khuy tự lập làm vua, thế tử Chiêu chạy sang nước Tống xin giúp. Tống Tương công nghe tin, bèn hội chư hầu các nước Vệ, Tào và Chu tiến vào nước Tề hợp sức với lực lượng của người Tề để dẹp loạn. Quân Tống đánh bại quân Tề Vô Khuy, Vô Khuy bị giết. Tống Tương Công lập thế tử Chiêu làm vua, tức là Tề Hiếu Công. Sự kiện này khiến chư hầu liệt Tống Tương Công vào hàng Bá, tức người thứ hai trong Ngũ Bá, nhưng cũng khiến Tương Công ảo tưởng về sức mạnh của nước Tống vốn thực chất không phải là một chư hầu lớn mạnh như Tề hay Sở.

Sau khi đưa Tề Hiếu Công lên ngôi, Tống Tương Công tự cho là có công lao lớn, muốn thay Tề Hoàn Công làm bá chủ.

Năm 641 tCN, Tống Tương Công tổ chức hội chư hầu. Đằng Tuyên Công vốn nhiều lần không dự với Tề Hoàn Công, lần này cũng không theo lệnh Tống Tương Công. Tống Tương Công bèn mang quân đánh nước Đằng, bắt giam Đằng Tuyên Công. Thấy vua nước Tắng không theo lệnh, Tống Tương Công sai Chu Văn Công giết vua nước Tắng để lấy máu tế thần. Dù có lời khuyên can nhưng Tương Công không nghe theo.

Hành động của Tống Tương Công khiến nước Tào cũng bất bình, Tào Cung Công bỏ không thần phục Tống. Tống Tương Công bèn mang quân vây nước Tào nhưng không thắng được.

Năm 639 tCN, Tống Tương Công lại muốn tổ chức hội chư hầu. Tống Tương Công muốn nhờ sức nước Sở để hiệu triệu chư hầu, bèn nhờ cậy Sở Thành Vương. Sở Thành Vương giả vờ nhận lời. Tang Văn Trọng và Công tử Mục Di khuyên ông không nên vì nước Tống không đủ mạnh, nhưng ông không nghe theo. Tống Tương Công mời nước Sở, Sở Thành Vương nhận lời.

Mùa thu năm 639 tCN, Tống Tương Công đến đất Vu để hội chư hầu cùng nước Sở. Khi ra hội, các nước Sái, Trịnh, Tào, Trần, Hứa đều sợ nước Sở mạnh nên ngả theo Sở. Sở Thành Vương bèn đặt phục binh, chờ Tống Tương Công đến liền bắt giữ rồi đem quân đánh Tống.

Nước Tống tạm lập Công tử Mục Di lên làm vua để giữ nước.

Năm 639 tCN, Sở Thành Vương mời Lỗ Hi Công đến hội minh ở đất Bạc. Lỗ Hi Công xin Sở Thành Vương thả Tống Tương Công về. Sở Thành Vương nghe theo.

Tuy bị bắt một lần nhưng tham vọng bá chủ của Tống Tương Công không dừng lại. Mùa hạ năm 638 tCN, ông muốn báo thù nước Sở, lại hội binh với các nước Vệ, Hứa, Đằng đánh Trịnh là nước cùng phe với Sở. Trịnh Văn Công cầu cứu Sở. Sở Thành Vương mang quân cứu, hai bên giáp trận ở trận Hoằng Thủy.

Khi Tống Tương Công bày trận xong thì quân Sở vẫn chưa sang sông hết. Tư Mã là Cố khuyên Tương Công đánh ngay vì quân Sở đông hơn. Ông không nghe theo, cho rằng đánh trận cần đàng hoàng không dùng thủ đoạn. Khi quân Sở qua sông xong chưa kịp bày trận, Tư mã Cố lại khuyên nên đánh, nhưng ông vẫn không nghe theo. Khi quân Sở bày trận xong xông tới giáp chiến rất mạnh mẽ, quân Tống không chống nổi, bị thua tan tác, chết rất nhiều. Bản thân Tống Tương Công bị thương ở đùi.

Năm 637 tCN, Tề Hiếu Công (người được Tống Tương Công cưu mang và lập làm Vua Tề) mang quân lấn nước Tống, vây hãm đất Mân vì cớ nước Tống không tham dự hội thề ở nước Tề. Lúc đó, Tống Tương Công còn nằm bệnh vì vết thương trong trận đánh với quân Sở. Tháng 5 năm đó, ông không qua khỏi và mất.

Do sự nghiệp của Tống Tương Công không nổi trội trong các chư hầu nên có sử gia loại ông ra khỏi hàng Ngũ Bá.

tốt mã giẻ cùi: giẻ cùi là một loài chim đẹp : mỏ đỏ, đuôi dài. Nhưng giẻ cùi hót không hay, lại thích ăn phân chó, phân lợn. Vì vậy giẻ cùi không ai quý mà lại bị khinh khi, ghê tởm.

_gie cui

Ca dao:

Giẻ cùi tốt mã dài đuôi
Hay ăn cứt chó, ai nuôi giẻ cùi!

Thành ngữ “tốt mã gẻ cùi” chế giễu người có mã đẹp bề ngoài nhưng lòng dạ bẩn thỉu và bất tài.

Tổ Ðịch: Thông Chí: Tổ Ðịch người đất Phạm Dương đời Tấn, tự Sỹ Nhã, tính không hay câu thúc. Thời Tấn Nguyên đế, Tổ Ðịch tự hiến mình xin đầu quân đi đánh phương Bắc. Vua bằng lòng cho giữ chức Phấn Uy tướng quân. Tổ Ðịch cầm quân ra đi, khi qua sông đến giữa dòng mới gõ mái chèo mà thề quyết dẹp giặc. Quả nhiên về sau phá được Thạch Lặc, khôi phục toàn bộ đất phía nam Sông Hoàng Hà.

Tổ Long: miếu thờ Tần Thủy Hoàng. Sứ giả Tần đêm đi qua Hoa Âm, có người ngăn lại bảo “Năm nay Tổ Long chết”. Tổ Long chỉ Tần Thủy Hoàng, vì Long (rồng) là hình tượng của vua (Hoàng); Tổ là người mở đầu, ứng với chữ Thủy.

tơ hồng: Theo Khai nguyên thiên bảo di sựThiên bảo dị sử, Thời nhà Đường (618-907), Tể tướng Trương Gia Trinh có năm người con gái sắc nước hương trời, tuổi gần bằng nhau, trang sức ăn mặc giống nhau, đi đứng nói cười như hệt, ngày đêm quanh quẩn khuê phòng. Họ Trương đang kén rể quý.

Có chàng nho sĩ tài danh tên là Quách Nguyên Chấn thường lui tới gia trang đối ẩm với Gia Trinh. Mến mộ tài năng đức hạnh của chàng nho sĩ, ông già ngỏ ý muốn gả một trong năm cô con gái của mình. Nguyên Chấn mừng khấp khởi, nhưng cả năm cô gái đều đẹp như tiên giáng trần, trông giống nhau quá nên không biết chọn ai và ông già cũng không biết nên gả cô con gái nào. Và cả năm nàng cũng đồng ý nhưng vẫn thành thực nhường nhau.

Ông nghĩ ra một cách, dạy năm người con gái của ông ngồi sau màn, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau cho tròng ra phía trước. Ông bảo Nguyên Chấn: “Anh rút được sợi tơ của người nào thì ta gả cho người ấy.” Nguyên Chấn rút sợi tơ đỏ (hồng ti) lấy được người con gái thứ ba rất đẹp và có đức hạnh.

Đoạn trường tân thanh, được tin chú mất, Kim Trọng phải về hộ tang, tìm Kiều để từ giã:

Sự đâu chưa kịp đôi hồi
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.

“Chỉ hồng” hay “trao tơ” chỉ việc chọn người phối ngẫu.

Ghi chú: có diễn giải cho rằng “chỉ hồng” liên quan đến điển tích xích thằng (sợi dây màu đỏ) của Nguyệt Lão, là người trong truyền thuyết xe duyên vợ chồng. Tuy ý nghĩa gần giống nhau là liên hệ tới nhân duyên, có sự khác biệt về cơ bản: điển tích “tơ hồng” là về sự chọn lựa của đôi lứa theo may rủi, còn xích thằng chỉ sự ràng buộc về nhân duyên đã định sẵn mà con người không thể chọn lựa.

Xem thêm mục: Nguyệt Lão.

trai tứ chiếng: Theo Trịnh Mạnh (2003), “Tứ chiếng” là “tứ chính” được nói chệch đi. Đó là tên gọi tắt của “tứ chính trấn”, tức bốn trấn ở xung quanh kinh đô: Sơn Nam (tức vùng Nam Định, Hà Nam), Kinh Bắc (vùng Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Dương (vùng Hải Dương, Hải Phòng), Sơn Tây (vùng Sơn Tây, Hà Đông).

Trai tứ chiếng chỉ những người đàn ông ở các nơi vào làm ăn ở Kinh đô.

“Trai tứ chiếng” ban đầu chỉ có nghĩ vô thưởng vô phạt là những chàng trai đến từ mọi nơi, không phải là người địa phương. Dần dà, thành nghữ này có ý miệt thị, nhất là trong câu “trai tứ chiếng gái giang hồ”. Không loại trừ đây là do thái độ kỳ thị của dân địa phương đối với những người từ phương xa tới.

Trang Tích: Thời Xuân Thu, Trang Tích là người nước Việt làm quan nước Sở. Hàng ngày sống ở triều đình Sở nhưng khi ốm đau ông rên bằng tiếng Việt. Người ta thường dẫn tích này để nói con người không quên quê hương tổ quốc.

Trang Tử (~369 – 286 tCN): người nước Lương thời Chiến Quốc, là nhân vật trung tâm của phái Ðạo gia, đã đưa đạo gốc thành một học phái ngang hàng với Nho gia và Mặc gia. Học thuyết của ông là phát triển học thuyết của Lão Tử. Ông soạn sách hơn 10 vạn chữ, đại để đều theo lối ngụ ngôn. Lời của ông mông lung, phóng túng, công kích đạo Nho, đạo Mặc để thỏa ý mình, cho nên từ bậc vương công, đại nhân trở xuống đều không ai biết quý trọng tài năng của ông.

Sở Uy Vương nghe ông là người hiền bèn sai sứ mang hậu lễ đến đón ông, cho làm Tể tướng. Trang Tử cười bảo sứ giả nước Sở: “Nghìn vàng là lợi to, khanh tướng là ngôi quý đấy, nhưng ông không thấy con bò lúc Tế giao hay sao? Nó được ăn mấy năm, được mặc đồ vóc thêu để đưa vào nhà Thái miếu. Lúc bấy giờ muốn làm con lợn nhỏ có được không? Ông đi ngay cho, đừng làm bẩn đến ta, ta chỉ chơi đùa trong nơi ngòi vắng để tự vui, không để cho kẻ có nước trói buộc, trọn đời không ra làm quan để thỏa chí ta.”

tranh vân cẩu: Tranh đám mây biến thành hình con chó, chỉ sự đổi thay khôn lường của cuộc đời.

Ðỗ Phủ (dịch Nôm):

Trên trời mây bồng bềnh như chiếc áo trắng
Phút chốc lại biến thành con chó xanh.

Cung oán ngâm khúc:

Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

Trác Văn Quân: tài nữ nổi danh thời Tây Hán, thê tử của Tư Mã Tương Như. Xem mục: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

trả bích: Từ chữ khan bích. Đây là tích của Trùng Nhĩ nước Tấn khi chạy nạn sang nước Tào. Tào Cung Công tính hay chơi bời, không thiết gì đến chinh sự, chỉ tin dùng những kẻ tiểu nhân xu nịnh. Bọn tiểu nhân ấy thấy những người theo hầu Công tử Trùng Nhĩ đều là tay hào kiệt cả, nên đem lòng ghen ghét, không muốn cho ở lâu tại nước Tào, liền bảo Tào Cung Công chớ nên tiếp đãi.

Quan đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ can rằng: “Nước Tào ta cùng nước Tấn nguyên vẫn thân nhau. Nay Công tử Trùng Nhĩ gặp lúc cùng khổ mà qua nước ta, thì ta nên tiếp đãi mới phải.”

Tào Cung Công không nghe. Hi Phụ Cơ trở về đến nhà, vợ là Lã thị trông thấy nét mặt âu sầu, liền hỏi rằng: “Chẳng hay trong triều hôm nay có việc gì mà phu quân lại ra ý buồn bã như vậy?”

Hi Phụ Cơ bèn đem chuyện Trùng Nhĩ đến mà Tào Cung Công không tiếp đãi kể lại cho vợ nghe. Lã thị nói: “Mới rồi thiếp đi hái dâu ở ngoài thành, thấy bọn Trùng Nhĩ đi qua. Thiếp không trông rõ Trùng Nhĩ, nhưng thấy các người theo hầu đều là tay hào kiệt cả, xem thế đủ biết rằng Trùng Nhĩ tất có ngày lấy lại được nước Tấn; bấy giờ họ đem quân sang đánh nước Tào ta thì ta hối sao cho kịp! Chúa công đã không nghe lời, thì phu quân nên nghĩ cách mà tư giao với Trùng Nhĩ; thiếp xin sửa soạn mấy bàn thực phẩm, rồi để lẫn ngọc bích trắng vào mà dâng Trùng Nhĩ. Phu quân nên đi ngay.”

Hi Phụ Cơ theo lời, đêm hôm ấy đến công quán yết kiến Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ đang đói bụng, ngồi một mình, nghĩ đến Tào Cung Công mà tức giận. Bỗng nghe có quan đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ xin vào yết kiến và dâng thực phẩm. Trùng Nhĩ cho mời vào. Hi Phụ Cơ sụp lạy, trước hết xin lỗi hộ cho Vua Tào, rồi sau mới thuật đến cái tình tư giao của mình và dâng thực phẩm.

Trùng Nhĩ khen rằng: “Không ngờ nước Tào mà có người bầy tôi hiền như thế này, nếu tôi may mà được phục quốc, thì sẽ xin báo ơn lại.”

Trùng Nhĩ ngồi ăn, trông thấy trong mâm cơm có ngọc bích trắng, mới hỏi Hi Phụ Cơ rằng: “Quan đại phu có lòng tử tế mà cho ăn để tôi được khỏi đói thế là quý lắm rồi, sao lại còn dùng đến ngọc bích?”

Hi Phụ Cơ nói: “Đó là tấm lòng kính mến của chúng tôi, xin công tử cứ nhận cho.”

Trùng Nhĩ nhất định không lấy ngọc bích.

Hi Phụ Cơ lui về, nói riêng một mình rằng: “Trùng Nhĩ cùng khổ như vậy, mà không tham ngọc bích của ta, chí khí to tát biết thế nào mà lường được!”

Từ đấy người ta dùng chữ khan bích (trả lại bích ngọc) để nói lên chí khí cao cả, không bị vật chất tầm thường làm cho lung lay.

trả châu: Lâm Tích thuở nhỏ lên kinh, dọc đường trọ ở một cái quán tại Sái Châu, bắt được một túi ngọc châu đến mấy trăm hạt. Tích hỏi chủ quán xem ai trọ trước đó, chủ quán bảo đó là Khu Trọng Tân. Tích kể họ tên và chỗ ở của mình, dặn hễ gặp Trọng Tân thì bảo cứ chỗ đó mà tìm, mình muốn được gặp. Sau Trọng Tân quả đến tìm châu, chủ quán bảo tìm Tích. Tích thấy nói đúng bèn đưa trả lại tất cả. Tân muốn đưa biếu một ít nhưng Tích nhất định không nhận, bèn bỏ ra hơn trăm quan tiền làm chay ở chùa để cầu phúc cho Tích. Tích sau thi đỗ làm quan đến Thái Trung Ðại Phu, con là Ðức Tân làm đến Lại Bộ Thị Lang. Nhà ấy nối đời làm nên khoa hoạn mãi.

trạo bồng: chiếc ghe có vòm được che chung quanh bằng những tấm phên đan.

trâm anh: trâm là cái trâm để cài búi tóc; anh là cái dải mũ; hai thứ dùng trang sức cho chiếc mũ của sĩ tử, quan chức; trâm anh chỉ nhà thế tộc có người đỗ đạt, làm quan.

Đoạn trường tân thanh:

Nguyên người quanh quất đâu xa
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Trấn Quốc (chùa): Ngôi chùa nằm trên bờ Hồ Tây Hà Nội có lịch sử lâu đời. Theo tấm bia dựng năm Dương Hòa thứ 5 (1639) thì chùa vốn tên là An Quốc, đến năm Hoằng Ðịnh 16 (1615) mới đổi tên là Trấn Quốc.

Trần Bình (? – 178 tCN): có xuất thân tầm thường, nhờ có mưu trí mà lên đến chức Thừa tướng phục vụ Lưu Bang và dòng dõi họ Lưu khi chống lại họ Lữ bên ngoại.

Trần Bình trước theo Vũ Vương Hạng Vũ làm Đô úy, về sau vì việc đánh Ân Vương không xong, Bình sợ bị giết bèn một mình đến tìm đến doanh trại của Hán Vương Lưu Bang, nhờ Ngụy Vô Tri tiến cử.

Lưu Bang cũng cho Bình làm Ðô úy. Bình bị tố cáo đã thông dâm với chị dâu và nhận vàng các tướng. Hán Vương gọi Ngụy Vô Tri đến trách. Vô Tri nói: “Điều thần nói là về tài năng, điều bệ hạ hỏi là về đức hạnh. Nay nếu có người đức hạnh nhưng không dùng được việc gì để quyết định thắng phụ, thì bệ hạ có hơi sức nào dùng đến làm gì? Sở, Hán đang chống nhau, thần tiến kẻ sĩ có mưu lạ, chỉ nên xem mưu kế của ông ta thật sự có lợi cho quốc gia hay không mà thôi. Còn về việc thông dâm với chị dâu và lấy vàng thì hơi đâu mà ngờ vực!

Lưu Bang lại trách Trần Bình. Bình thưa: “Thần theo Ngụy Vương, Ngụy Vương không biết dùng mưu của thần, cho nên thần bỏ đi theo Hạng Vương. Hạng Vương không tin người, những người ông ta yêu dùng nếu không phải người họ Hạng thì là anh em bên vợ, tuy có kẻ sĩ kỳ tài cũng không thể dùng được, cho nên thần bỏ Sở. Thần nghe Hán Vương biết dùng người, cho nên về theo đại vương. Thần mình trần đến đây, nếu không lấy vàng thì không có gì dùng. Nếu như mưu kế của thần có cái gì dùng được thì xin đại vương dùng; nếu không dùng được thì số vàng vẫn còn ở đấy cả, thần xin gói lại nộp vào của công, xin được từ chức mà về.”

Lưu Bang xin lỗi, thưởng thêm nhiều của, phong làm Hộ quân Trung úy cai quản tất cả các tướng. Từ đó, các tướng không dám nói năng gì nữa.

Trần Bình được ngồi cùng xe với Lưu Bang bàn mưu lập kế, kể cả kế phản gián chống Hạng Vũ. Lưu Bang cho là phải, bèn đem ra bốn vạn cân vàng cho Trần Bình để tùy ý tiêu dùng, không hỏi đến việc phân phát thế nào. Trần Bình xuất nhiều vàng, tung tin phản gián vào quân Sở. Kết quả là giữa Hạng Vũ đâm ra nghi kỵ với quân sư Phạm Tăng và vị tướng tài ba Chung Ly Muội. Phạm Tăng nổi giận, xin từ chức về quê, chẳng bao lâu thì qua đời.

Sau khi Hán Cao Tổ mất, Lã Hậu muốn lập những người họ Lã làm vương, mưu việc cướp ngôi vua nhà Hán. Vương Lăng chống lại, Lã Hậu muốn bãi bỏ Vương Lăng, bèn cho Vương Lăng làm Thái phó mà cướp quyền Thừa tướng của Lăng. Lăng cáo bệnh xin về. Trần Bình giả vờ nghe theo Lã Hậu mà được làm Thừa tướng. Ðến khi Lã Hậu chết, Bình và Chu Bột cùng bàn mưu khôi phục vương quyền nhà Hán.

Năm (201 TrCN), có người dâng thư nói Sở Vương Hàn Tín làm phản. Cao Đế hỏi. Các tướng nói: “Hãy mau mau đem quân chôn sống cái thằng nhãi ấy đi thôi!”

Cao Đế im lặng. Hỏi Trần Bình. Bình cố ý từ tạ, nói: “Các tướng nói thế nào?”

Vua kể đầu đuôi, Trần Bình nói: “Có ai biết con người dâng thư lên nói rằng Tín làm phản không?”

“Chưa.”

Trần Bình hỏi: “Tín có biết điều đó không?”

“Không biết.”

Bình nói: “Về mặt tinh nhuệ thì quân của bệ hạ có hơn quân của Tín không?”

“Không thể hơn.”

Bình nói: “Trong các tướng cầm quân của bệ hạ, có ai hơn Hàn Tín không?”

“Không ai bằng.”

Bình nói: “Quân đã không tinh nhuệ bằng quân Tín, tướng cũng không bằng Tín, mà lại đem binh đánh thì tức là thúc dục nó phải đánh. Thần trộm nghĩ đó là nguy cho bệ hạ.”

Nhà Vua nói: “Bây giờ làm thế nào?”

Bình nói: “Thiên tử ngày xưa đi tuần thú , họp chư hầu. Phương nam có đầm Vân Mộng, nên họp chư hầu ở đất Trần. Đất Trần là giáp giới phía tây của đất Sở. Tín nghe thiên tử đi chơi hội họp thường, thì thế nào cũng cho là vô sự và ra khỏi bờ cõi để nghênh tiếp. Bệ hạ nhân đó bắt lấy. Việc này chỉ cần đến sức của một lực sĩ mà thôi.”

Cao Đế cho là phải, làm theo mưu kế của Trần Bình mà bắt được Hàn Tín.

Sau đó Bình thường làm Hộ quân Trung úy theo nhà Vua đánh Trần Hy và Kình Bố, tất cả sáu lần bày kế, được phong thêm đất sáu lần. Những kế lạ của Bình rất bí mật, trong đời không ai nghe nói là những kế gì.

Sau khi đánh phá quân của Kình Bố về, Lưu Bang bị thương, đi chậm rãi đến Trường An. Yên Vương là Lư Quán làm phản, nhà Vua sai tướng quốc Phàn Khoái đem binh đánh. Sau khi đi, có người gièm pha Phàn Khoái. Lưu Bang nổi giận.

Vua dùng mưu của Trần Bình, gọi Giáng Hầu Chu Bột nhận chiếu chỉ ở bên giường, nói: “Trần Bình phải mau mau đi ngựa trạm đưa Chu Bột đến làm tướng thay Phàn Khoái; khi Bình vào trong quân doanh thì phải lập tức chém đầu Phàn Khoái.”

Hai người nhận chiếu chỉ rồi ruỗi ngựa trạm đi, chưa đến quân doanh giữa đường bàn với nhau: “Phàn Khoái là người kỳ cựu của nhà vua, lập được nhiều công, lại lấy em gái Lữ Hậu là Lữ Tu, vừa thân lại vừa sang, nhà Vua khi giận dữ muốn chém, nhưng sợ sau sẽ hối hận. Ta chỉ nên bỏ tù rồi đưa đến cho nhà Vua, tùy ý nhà Vua giết lấy.”

Bình gọi Phàn Khoái đến rồi bỏ vào xe tù đưa về Trường An.

Bình đang đi, nghe tin Lưu Bang chết. Bình sợ Lữ hậu và Lữ Tu giận, bèn phi ngựa trạm đi về trước. Bình gặp sứ giả mang chiếu ra lệnh cho Bình và Quán Anh đóng binh ở Huỳnh Dương. Bình nhận chiếu chỉ, lập tức lại phi ngựa về cung khóc rất thảm thiết, nhân tâu trình sự việc trước đám tang. Lữ hậu thương hại nói: “Ông mệt nhọc, hãy ra nghỉ đã!”

Đó là thêm một mánh của Trần Bình để tránh tội chết.

Bình sợ bị gièm, cố xin ở chầu chực trong cung, Thái hậu bèn cho Bình làm Lang Trung lệnh, nói: “Ông hãy giúp đỡ, dạy dỗ Hiếu Huệ.”

Vì vậy, về sau việc gièm pha của Lữ Tu không có kết quả. Phàn Khoái về, được tha và phục tước ấp.

Năm thứ sáu đời Hiếu Huệ (189), Tướng quốc Tào Tham chết, An Quốc Hầu là Vương Lăng được phong làm Hữu Thừa tướng, Trần Bình làm Tả Thừa thừa tướng (tương đương phó thủ tướng ngày nay).

Vì trước kia Trần Bình đã bàn mưu với Lưu Bang bắt Phàn Khoái, cho nên Lữ Tu nhiều lần gièm pha Trần Bình: “Trần Bình làm thừa tướng không lo công việc, ngày uống rượu ngon, thích chơi gái.”

Trần Bình nghe nói, lại càng làm quá hơn trước. Lữ Thái hậu nghe vậy riêng lấy làm mừng, nói với Trần Bình trước mặt Lữ Tu: “Tục ngữ có câu ‘Miệng đàn bà, con trẻ nói không dùng được.’ Chỉ cần ông với ta thôi, chớ sợ Lữ Tu gièm pha.” Đó là mưu kế của Trần Bình để tránh thiệt thân.

Lữ Thái hậu lập bọn nhà ngoại họ Lữ làm vương và nắm binh quyền. Trần Bình và Chu Bột giả vờ nghe theo. Khi bị Vương Lăng trách móc, Trần Bình trả lời: “Bẻ thái hậu trước mặt, can gián giữa triều đình thì chúng tôi không bằng ông. Nhưng việc bảo toàn xã tắc, giữ vững cho con cháu họ Lưu thì ông sẽ không bằng chúng tôi.”

Vương Lăng không biết trả lời như thế nào.

Một thời gian sau, Lữ Thái hậu cướp quyền thừa tướng của Lăng. Lăng cáo bệnh xin về. Lữ Thái hậu bèn cho Thẩm Tự Cơ làm Tả Thừa tướng, Trần Bình làm Hữu Thừa tướng. Đó là đích nhắm của Bình: tìm cách có thêm quyền hành trong tay để dễ hành động kế tiếp.

Tư Mã Thiên chép trong bộ Sử ký rằng Thẩm Tự Cơ không làm việc trong triều mà thường lo việc ở trong cung cấm. Đó là cách viết khéo, mọi người đều hiểu Vương Lăng vào cung cấm để thông dâm với Thái hậu.

Đến khi Lữ Thái hậu chết, Bình và Thái úy là Chu Bột cùng bàn mưu, cuối cùng giết hoặc phế truất tất cả bọn họ Lữ, lập Hiếu Văn hoàng đế. Đó mới đích thực là mưu đồ của Trần Bình.

Trần Bình có nhiều mưu kế lạ giúp vua mà sử quan không biết hết để viết ra. Chính ông cũng nhìn nhận: Ông bày ra nhiều âm mưu, đó là điều đạo Lão cấm, hết đời ông con cháu không thể hưng khởi được nữa, là vì ông gây nhiều âm báo! Đúng thế: người chắt (con của cháu nội) phạm tội cướp vợ người ta bị chém vứt ở chợ, tước bị xoá bỏ. Đó là vết nhơ trầm trọng trong gia tộc của Trần Bình.

Trần Ðoàn: Tống sử: Trần Ðoàn người đất Chân Nguyên, học rộng tinh thông Kinh Dịch, tự hiệu là Phù Giao Tử. Cuối đời Ðường, thi tiến sĩ không đỗ mới đến ở núi Vũ Dương tu tiên, chỉ uống hít khí trời không cần ngũ cốc, có thể ngủ hàng trăm ngày liền mới dậy. Về sau, ông dời đến ở núi Hoa Sơn, Vua Thái Tông rất trọng, nhiều lần triệu tập ông ra làm quan nhưng ông không chịu, bèn ban hiệu cho ông là Hi Di Tiên sinh.

Thơ Hà Mộng Quế đời Tống: Bạch Vân đôi lý khán Trần Ðoàn (Trong đụn mây trông thấy Trần Ðoàn).

Trần Hậu Chủ: hay chữ, ham mê tửu sắc sau khi lên ngôi vua, suốt ngày chỉ chơi đùa với phi tần và hiệp khách, ăn yến làm thơ, chẳng nghĩ gì đến công việc. Khi quân Tùy đến đánh vẫn còn say rượu, hát xướng. Sau bị tướng nhà Tùy là Hàn Cầm Hổ bắt được ờ trong giếng Cảnh Dương đem về. Vua Tùy phong cho làm Trường Thành Công.

Trần Hy: Hán Cao Tổ phong Trần Hy làm Tướng quốc coi quân biên. Sau Trần Hy cùng Vương Hoàng làm phản, tự lập làm vương, cướp phá Triệu, Đại.

Trần Phồn tháp: giường Trần Phồn. Xưa Trần Phồn có bạn tri kỷ đến thăm, Trần Phồn dành riêng một cái giường để bạn nằm. Khi bạn đi rồi, Trần Phồn treo giường lên vách chờ bạn trở lại mới đem giường xuống.

trần trần: Trơ ra, lì ra, đây chỉ thái độ bền bỉ, nhẫn nại.

Hoa Tiên:

Ấp cây một mực trần trần

Đoạn trường tân thanh:

Tháng tròn như gửi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều.

Trần Tử Ngang (661-702): thi hào đời Đường, đỗ Tiến sĩ năm Vĩnh Thuần (682) đời Vua Đường Cao Tông. Tác phẩm của ông có Trần thập di tập (Tập thơ thu thập những phần còn sót lại của họ Trần), trong đó có khoảng 120 bài thơ.

Thời Sơ Đường, văn học còn chịu ảnh hưởng văn trào “diễm lệ” đời Lục triều. Thấy lối văn ấy ưa “ủy mị, đồi phế”, “lộng lẫy, đẹp đẽ quá mà tuyệt nhiên không gửi gắm điều gì” (chữ của Trần Tử Ngang), trong hoàn cảnh đó, ông đề xướng lối văn có tinh thần “phong nhã” và “phong cốt Hán-Ngụy” (tức thời Kiến An), bao hàm một nội dung tư tưởng lành mạnh, cứng cỏi. Ông nói: “Văn chương sa vào cái tệ đã 500 năm rồi, phong khí của Hán, Ngụy không truyền lại Tấn, Tống… Tôi, những lúc nhàn, đọc thơ Tề, Lương, lời thì rất đẹp mà tình ý đều không có, lần nào cũng thở dài”. Bởi vậy, ông ra sức cổ súy cho phong trào “phục cổ”, để rồi Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên là những người tiếp thu, phát triển làm cho phong trào ấy trở nên mạnh mẽ trong thời Thịnh Đường…

Từ chủ trương ấy, Trần Tử Ngang làm được một số bài thơ ưu tú, xây dựng được một phong cách thơ có nội dung, có hình tượng, lành mạnh, chất phác…, chứng minh lý luận ấy là đúng đắn và có sức sống. Đặc biệt là 38 bài Cảm ngộ (Cảm cánh gặp gỡ), mượn xưa ví nay, nói lên hoài bão của mình, hoặc nhờ cảnh gửi tình, vạch trần và châm biếm hiện thực, hoặc trực tiếp phản ánh hiện thực. Bài thì đả kích Võ Hậu xây chùa tạc tượng, phung phí tiền của mà “không cứu giúp dân đen” (bài 19), bài thì phơi trần cuộc chiến tranh phi nghĩa (đánh Sinh Khương), mang tai vạ đến cho binh lính và dân lành (bài 29).

Bên cạnh đó, Trần Tử Ngang cũng có một số bài hoài cổ (như bài Bạch Đế hoài cổ [Ở thành Bạch Đế nhớ chuyện xưa], Kế khâu lãm cổ [Lên gò Kế xem cảnh năm xưa]) và đề tặng khi ly biệt (như bài Xuân dạ biệt hữu nhân [Ngày xuân tiễn bạn])…

Nhìn chung, Trần Tử Ngang là người có khả năng và cao vọng lớn nhưng không được trọng dụng, nên đã trút nỗi bất bình và buồn chán trong hàng loạt bài thơ.

Xuân dạ biệt hữu nhân – Trần Tử Ngang
Ngày xuân tiễn bạn – Hải Đà dịch thơ:

Khói xanh vờn đuốc bạc
Tiệc ngon thơm rượu nồng
Tri ân tình cầm sắt
Đường đi ngăn núi sông
Khuất vòm cây trăng sáng
Sông Ngân tỏa ánh mờ
Lạc Dương chừ muôn dặm
Gặp nhau, biết bao giờ?

Trần Viên Viên theo Wikipedia_Trần Viên Viên, Trần Viên Viên (1624–1681) là một phụ nữ nổi danh trong lịch sử Trung Quốc có cuộc đời lạ kỳ: tuần tự làm vợ của ba người đàn ông xưng làm hoàng đế và không người nào có kết cục viên mãn. Bản thân Trần Viên Viên bị quy cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sụp đổ của nhà Minh và việc nhà Thanh của người Mãn Châu cai trị người Hán.

Trần Viên Viên nguyên họ tên là Hình Nguyên, quê ở Thường Châu, Giang Tô. Mẹ mất sớm, cha là thương nhân nhỏ do cảnh nghèo nên bỏ đi xa, để lại cô con gái duy nhất cho người em vợ nuôi. Do hoàn cảnh mồ côi sớm, nên lớn lên Viên Viên mang họ Trần của người dượng. Lớn lên là danh kỹ tại khu vực Đào Hoa Ổ nhai đạo, Tô Châu với nhan sắc khuynh quốc khuynh thành, hoa minh tuyết diễm, hát hay múa đẹp, sắc nghệ quán thế.

Cuộc đời của Trần Viên Viên được kể lại bởi chính nhân vật này qua ngòi bút của Kim Dung trong tác phẩm Lộc đỉnh ký, trong cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ này và Vi Tiểu Bảo.

Lý Tự Thành và Ngô Tam Quế xuất hiện, rồi hai người gây sự đến mức đánh nhau.

Trần Viên Viên nhìn thân thủ của Ngô Tam Quế, lẩm bẩm: “Thân thủ y vẫn còn mau lẹ phi thường. Mấy năm gần đây ngày nào y cũng luyện võ công, vì… vì y còn muốn làm Hoàng đế, định cất quân đánh Bắc Kinh.”

[Khi ấy, Vua Minh là Sùng Trinh đang sủng ái Điền Quý phi, làm cho Chu hoàng hậu rất ghen tức. Biết chuyện, cha của Chu hoàng hậu đến kỹ viện bỏ tiền ra mua Viên Viên, để đưa vào cung phục vụ nhà Vua. Kề cận được Viên Viên, Vua Sùng Trinh cứ ở mãi trong cung không muốn ra thiết triều. Khoảng thời gian này, các nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của Lý Tự Thành. Sau khi hay tin quân nổi dậy đánh lấy ba thành trì lớn, cộng thêm lời can gián của các quan, Vua Sùng Trinh mới cho nàng ra ở trong phủ Chu quốc trượng.]

Trần Viên Viên ôn lại những gì sau khi ra khỏi Hoàng cung, trở về phủ Chu quốc trượng. Một hôm Chu quốc trượng mở đại yến thết khách, kêu nàng ra múa hát giúp vui. Đêm hôm ấy Ngô Tam Quế được thấy mặt nàng. Bây giờ nghĩ lại nàng còn nhớ rõ lắm. Quang cảnh bữa tiệc hiển hiện ra trước mặt nàng.

Dưới ánh đèn lửa, cặp mắt đầy nhục dục của hắn sáng rực lên như lửa cháy hau háu nhìn nàng qua bàn tiệc không chớp. Thứ nhãn quang này Trần Viên Viên đã được thấy nhiều rồi. Người đàn ông khi mắt chiếu ra những tia hàn quang như vậy thì chẳng khác gì con dã thú nhìn thấy mồi chực xông vào vồ lấy mà ôm cho chặt, mà cắn xé đối phương. Nhưng lúc này giữa chốn đông người, Ngô Tam Quế chỉ thèm thuồng mà không dám.

Trong đầu nàng bỗng bật ra một ý nghĩ: “Vừa rồi tên đại quan trẻ nít kia ngó thấy ta cũng đã lộ ra những tia mắt giống hệt như vậy mới thực là tức cười. Té ra một thằng nhỏ ngó thấy ta cũng bị nữ sắc làm cho mê hoặc.”

Bất giác nàng buông tiếng thở dài, miệng lẩm bẩm: “Than ôi! Giống đàn ông là thế đó! Từ lão già cho chí thằng trẻ nít cũng đều một giuộc như nhau.”

Trần Viên Viên tiếp tục ôn lại màn kịch xảy ra sau bữa tiệc tại phủ Chu quốc trượng: Ngô Tam Quế xin Quốc trượng cho đem ta đi. Sau mấy bữa, Hoàng đế phái hắn đến trấn thủ Sơn Hải Quan đề phòng vệ quân Mãn Châu tiến đánh. Ngờ đâu Lý Tự Thành đánh vào phá Bắc Kinh trước. Sùng Trinh hoàng đế phải chết treo trên núi Môi Sơn.

Bọn bộ hạ của Lý Tự Thành bắt ta đem dâng cho lão. Lý Tự Thành là một hán tử thô hào khiến Sùng Trinh hoàng đế trong giấc ngủ mơ màng cũng phải khiếp sợ.

Lý Tự Thành [tự xưng là Sấm Vương] đánh phá Bắc Kinh [năm 1644], cực kỳ bận rộn, cực nhọc. Biết bao viên đại thần nhà Minh bị hắn giết chết. Vậy mà cứ đêm đến hắn vào bầu bạn với ta vẫn tỏ ra cực kỳ khoan khoái. tiếng cười của hắn vang động trong phòng. Tiếng ngáy của hắn cũng rất lớn. Thường thường nửa đêm ta lại bị tiếng ngáy của hắn khua náo làm cho tỉnh giấc. Trên cánh tay, bắp đùi cũng như trước ngực hắn đều mọc lông dài. Trước nay ta chưa thấy người đàn ông nào rậm lông như hắn…

Ngô Tam Quế nguyên trước đã đầu hàng Lý Tự Thành, nhưng nghe Lý Tự Thành cướp đoạt ta rồi liền đến mượn quân Mãn Châu, dẫn Thanh binh tiến vào quan ải [tức Sơn Hải Quan].

Bất giác Trần Viên Viên buông tiếng thở dài, than thầm: “Phẫn nộ vì chưng gái má hồng.”

Nàng nghĩ đến chuyện kế tiếp:

Lý Tự Thành kéo quân ra cùng Ngô Tam Quế mở cuộc đại chiến ở Nhất Phiến Thạch. Hai bên đang chiến đấu thì đột nhiên tinh binh của Mãn Châu xuất hiện. Bọn bộ hạ của Lý Tự Thành bị đại bại, toàn quân tan vỡ. Bọn chúng kể lại chiến trường Nhất Phiến Thạch thây chất như non, máu chảy thành sông trong vòng mấy chục dặm. Bọn chúng còn bảo ức vạn người chết đó là vì ta. Than ôi! Ta làm thác oan mấy chục vạn người ư? Ta có đáng phải chịu tội nghiệt thâm trong như vậy chăng?

Lý Tự Thành binh bại tướng thua, chạy về Bắc Kinh liền lên ngôi Hoàng đế. Kế đó lão dẫn ta chạy về phía tây.

Ngô Tam Quế kéo quân đuổi theo.

Lý Tự Thành tuy bại trận mà vẫn cười vui sảng khoái. Quân đội của lão ngày một ít dần. Cục diện lâm vào tình thế bất lợi mà lão cũng chẳng để tâm. Lão vẫn nói nguyên trước lão là con người với hai bàn tay trắng, cùng lắm là lão trở lại như ngày trước cũng chẳng có chi là lạ. Lão còn bảo trong đời lão đã làm được ba điều đắc ý:

Một là bức tử được Hoàng đế nhà Đại Minh.
Hai là lão đã được lên ngôi Hoàng đế.
Ba là lão đã ngủ với đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.

Lão ăn nói rất thô tục. Và lão cho rằng trong ba điều đắc ý thì điều thứ ba là hay hơn hết.

Trần Viên Viên ôn lại những chuyện về Ngô Tam Quế. Nàng phê phán trong lòng:

Ngô Tam Quế cũng nhất tâm toàn trí muốn làm Hoàng đế nhưng lão không bao giờ nói ra miệng. Nhưng hắn không giấu được ta. Trong lòng hắn lúc nào cũng e dè rồi đâm ra do dự. Lắm lúc muốn động thủ rồi lại không dám. Nếu bữa nay hắn không chết tất có một ngày kia hắn bước lên ngôi Hoàng đế, dù làm Hoàng đế ở thành Côn Minh và chỉ làm một ngày thôi cũng được. Vĩnh Lịch Hoàng đế chạy trốn qua Miến Điện, Ngô Tam Quế rượt theo để giết ngài.

Trần Viên Viên lại tự hỏi: Người ta bảo có ba vị Hoàng đế chết uổng mạng về tay ta. Thực ra chỉ có Sùng Trinh và Vĩnh Lịch là hai vị Hoàng đế. Còn Lý Tự Thành làm Đại Thuận Quốc Hoàng đế. Sự thực ta có làm gì khiến các ngài phải uổng mạng? Cái chết của Sùng Trinh Hoàng đế mà đổ lên đầu ta liệu có đáng hay không? Bữa nay Ngô Tam Quế chưa hiểu sống chết thế nào. Nếu quả sau này hắn lên làm Hoàng đế thì ta lại mang tội hại thêm một vị Hoàng đế. Thân ta sao lại phải chịu nhiều điều xúi quẩy như vậy? Hỡi ơi! Giang sơn nhà Đại Minh bao la bát ngát với mấy chục vạn binh tướng, mấy trăm vạn bách tính uổng mạng về ta ư? Cả bốn vị Hoàng đế cũng bị Trần Viên Viên này làm hại thật chăng?

Rồi nàng than thầm: “Người thiên hạ đổ tội cho ta, nhưng ta tự kiểm điểm lại thì chưa từng làm việc gì bại hoại, cả một câu hại người ta cũng chưa từng nói ra.”

Trần Viên Viên sợ nhất là bọn đàn ông đánh giết nhau. Mặt nàng lộ vẻ chán ngán, trong lòng lại nhớ lại những chuyện đã qua.

Ngày ấy Lý Tự Thành bị thua liểng xiểng. Bao nhiêu binh mã dưới trướng tan vỡ hết. Trong đêm tối ta và y cũng thất lạc nhau. Bọn bộ hạ Ngô Tam Quế bắt được ta lền đưa về dâng cho chủ soái. Dĩ nhiên Ngô Tam Quế cực kỳ hoan hỉ. Hắn bảo ta: “Người thiên hạ đều thóa mạ hắn là đại Hán gian, nhưng đã vì ta thì dù mang bao tiếng xấu hắn cũng vui lòng”. Thành ý của hắn đã khiến ta xiết bao cảm kích.

Ta nghĩ rằng: Ngô Tam Quế là đại Hán gian cũng vậy mà là đại trung thần cũng thế, cốt sao hắn đối với ta một dạ chân thành là đủ làm cho ta thỏa mãn. Huống chi hắn lại vì ta mà chẳng cần điều chi nữa. Ở đời ít thấy người nào làm được như vậy. Hồi đó ta yên trí là từ đó về sau ta sẽ được hưởng những ngày thanh nhàn yên ổn. Nào nhất phẩm phu nhân, nào đường đường mệnh phụ ta cũng không màng. Chỉ mong sao khỏi phải chuyển từ tay người đàn ông này qua tay người đàn ông khác.

Nhưng ta về ở Côn Minh được có mấy năm. Ngô Tam Quế được phong làm Phiên Vương. Theo thể lệ triều đình thì bậc thân vương thê tử cũng được tấn phong.

Em Ngô Tam Quế là Ngô Tam Mai đến nói với ta: “Việc tấn phong thê tử khiến Vương gia rất phiền não”.

Theo lẽ thì người được tấn phong là ta, nhưng vì chỗ xuất thân của ta khắp thiên hạ đều biết. Nếu đưa danh tự của ta để Hoàng thượng gia phong thì không khỏi có chỗ tiết mạn triều đình. Ngô Tam Mai vừa cho ta hay Ngô Tam Quế buồn phiền về việc tấn phong thê tử, dĩ nhiên ta hiểu ngay mình xuất thân là một tên kỹ nữ ty tiện, không đáng được hưởng phong cáo của triều đình.

Ta không muốn để người vì mình mà lâm vào tình trạng nan giải, nên không chờ Ngô Tam Mai nói hết đã gạt đi và bảo y vụ này giải quyết dễ lắm. Xin Vương gia lựa chọn một người thục nữ danh gia nào khác để tâu Hoàng thượng tấn phong cho khỏi thương tổn đến thanh danh của Vương gia.

Ngô Tam Quế liền xin lỗi ta và rất ân hận về vụ này. Hừ! Được tấn phong hay chẳng tấn phong thì đối với ta có điều chi trọng đại? Ta chỉ cần tình ý của Vương gia đối với ta cứ giữ nguyên như vậy là xong. Ngờ đâu việc đời có mấy khi chiều ý người. Ta phải ra ngoài vương phủ để Vương gia chính thức làm lễ hôn phối và lập người tấn phong…

Tran Vien Vien
Tượng Trần Viên Viên tại Thái Hòa Cung Kim điện, Côn Minh

Về kết cục của Trần Viên Viên, Nguyễn Duy Chính (2014), viện dẫn Trung Quốc Toàn sử quyển 4 (Diễm sử) như sau.

Nhờ có quân Thanh hợp lực, Ngô Tam Quế đánh bại Lý Tự Thành, đoạt lại được người ái thiếp Trần Viên Viên. Sau khi quân Thanh chiếm được trung nguyên, Ngô Tam Quế được phong làm Bình Tây Vương, trấn nhậm Vân Nam. Y cho xây một hoa viên tuyệt đẹp, lấy tên là Giả Ngọc Viên Lâm, ngày ngày cùng thị thiếp yến ẩm.

Một hôm Ngô Tam Quế đang ở trong hoa viên đãi khách, Trần Viên Viên sai tì nữ đỡ ra, đến trước mặt Ngô Tam Quế quì xuống thưa rằng: “Tiện thiếp được hầu hạ vương gia lâu năm, vương gia không hiềm là kẻ xuất thân ca kỹ, kiếp này không biết lấy gì báo đáp, chỉ đành đợi đến kiếp sau. Bây giờ thiếp đã thấy cõi trần này là hư ảo, từ nay cắt tóc đi tu, lấy ngọn đèn quyển kinh làm bạn cho qua kiếp sống thừa.”

Nói xong nàng rút trong tay áo ra một con dao ngắn, cắt soẹt mấy cái, mái tóc mượt như tơ rơi lả tả. Ngô Tam Quế đang định ngăn lại nhưng không kịp nữa rồi bèn khuyên lơn, hai người lại đằm thắm như khi trước.

Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, Ngô Tam Quế không còn thấy Trần Viên Viên đâu nữa, lập tức cho tập trung người nhà bổ đi tìm thì bắt gặp Trần Viên Viên đã xuất gia tại một ngôi chùa cách vương phủ không xa tên là Thê Vân Tự. Ngô Tam Quế tới nơi thấy Trần Viên Viên đang ngồi tụng kinh bèn khẩn cầu nàng quay về vương phủ. Viên Viên nghiêm mặt đáp: “Trên đời này không có bữa tiệc nào mà không có lúc tàn. Vương gia đãi người vì sắc đẹp, một khi niên lão sắc suy, rồi cũng sẽ bỏ thiếp. Than ôi! Biển khổ không bờ, quay đầu thấy bến. Nếu như vương gia không buông tha thì cứ giết thiếp đi.”

Ngô Tam Quế thấy Trần Viên Viên ý chí sắt đá như thế đành phải để nàng ở đây và ra lệnh cho cất ở bên cạnh một tòa ni am. Ngày ngôi chùa xây xong, Ngô Tam Quế cho người đến chúc mừng thì Trần Viên Viên đã vào phòng treo cổ tự tử.

Bình Tây Vương hối hận, cho hậu táng nàng theo nghi lễ vương phi, chôn tại khu rừng tùng gần Thê Vân Tự, ngôi mộ đến nay vẫn còn.

Vũ Đức Sao Biển (2015) đúc kết:

Với 48 trang giấy đầy ấn tượng, Kim Dung nêu ra trong tiểu thuyết của mình một phản đề: sự sụp đổ của các triều đại phong kiến Trung Hoa không phải do nhan sắc phụ nữ làm ra như dư luận lịch sử đã kết án. Bản thân nhan sắc không có tội. Cái tội đó là tội của những hôn quân vô đạo nịch ái nữ sắc, lãng quên số phận của trăm họ. Qua Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng công nhận một ông Khang Hy người Mãn Châu làm vua còn tốt đẹp hơn một ông Vua Sùng Trinh người Hán gấp ngàn lần. Vậy thì đừng nên đem những cái thất bại lịch sử của đàn ông để trút lên đôi vai của phụ nữ. Với một bút pháp kể chuyện có xen mô tả khá tinh tế, Kim Dung xây dựng một Trần Viên Viên trở thành đệ nhất đại mỹ nhân trong hàng ngàn nhân vật nữ trong tiểu thuyết của mình. Những Tiểu Long Nữ, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Mẫn, Tiểu Siêu, Hân Tố Tố, Viên Tử Y, Vương Ngữ Yên… cũng là những đại mỹ nhân nhưng là đại mỹ nhân ở tuổi 18-20. Họ không thể sánh bằng Trần Viên Viên ở tuổi 40 tươi đẹp, chân tình, trí tuệ, tài hoa và đau khổ!

Viên Viên khúc, bài ca phổ nhạc bài thơ cùng tên, được trình bày trong phim Lộc đỉnh ký (2008):

Video âm thanh: https://www.youtube.com/watch?v=b9XpgZQRG5I

Xem thêm mục: Ngô Vĩ Nghiệp.

Trận Xích Bích: Theo Wikipedia_Trận Xích Bích, Trận Xích Bích diễn ra vào mùa đông năm 208 cuối thời Đông Hán giữa liên quân Tôn Quyền–Lưu Bị với quân đội lấy danh nghĩa triều đình của Tào Tháo. Đô đốc Đông Ngô là Chu Du dùng hỏa công đốt doanh trại và chiến thuyền của Tào. Vách đá bên bờ sông vì lửa đốt cháy rực ánh đỏ nên người ta gọi trận địa này là “Xích Bích” (có nghĩa: vách đỏ).

Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn–Lưu trước đội quân đông đảo hơn của Tào Tháo. Chiến thắng này góp phần củng cố vị trí cho hai chư hầu Tôn Quyền, Lưu Bị ở hai bờ Trường Giang, đồng thời ngăn cản việc Tào Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa, tạo cơ sở cho sự hình thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô.

Xich Bich

Trong hình bên, chữ chạm khắc trên vách núi ở địa điểm được nhiều người cho là nơi diễn ra trận Xích Bích, gần thành phố Xích Bích ngày nay thuộc Hàm Ninh, Tỉnh Hồ Bắc. Các chữ chạm trên đá này đã tồn tại ít nhất một ngàn năm.

Tuy là một trận đánh lớn có ý nghĩa quyết định trong lịch sử Trung Quốc, nhưng vị trí chính xác của Xích Bích cho đến nay vẫn là điều gây tranh cãi. Phần lớn các học giả cho rằng Xích Bích nằm ở đâu đó trên bờ nam Trường Giang giữa tây-nam Vũ Hán ngày nay và đông-bắc Ba Khâu (nay là Thành phố Nhạc Dương).

Các thông tin chi tiết nhất về trận đánh được ghi trong bộ sử Tam quốc chí của Trần Thọ. Trận Xích Bích cũng được tường thuật trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, với phần lớn chi tiết là hư cấu (Diệp Minh Tâm, 2019b).

trên bộc trong dâu: Do chữ tang gian bộc thương tức là bãi trồng dâu bên Sông Bộc. Hậu Hán thư địa dư chí cho rằng: đất nước Vệ có bãi trồng dâu bên sông Bộc là nơi kín đáo nên trai gái thường đến đấy tư tình. Nguyên đời Xuân Thu, trai và gái ở nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn nhau đến nơi đó để trao đổi ân ái.

Lễ ký: Trong ruộng dâu, trên bãi Sông Bộc là tiếng nhạc mất nước.

Đoạn trường tân thanh:

Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi!

“Trên bộc trong dâu” đã trở nên thành ngữ, chỉ thói dâm ô, phóng đãng của trai gái.

tri âm: nghĩa đen: hiểu biết tiếng đàn. Xem mục: Bá Nha, Tử Kỳ.

tri kỷ: Đời Xuân Thu, Quản Di Ngô (725– 645 tCN), tự là Trọng, vốn người có tài kinh bang tế thế. Ngày còn hàn vi, chưa gặp thời, thường cùng bạn là Bảo Thúc Nha đi buôn chung. Lúc chia lời, Quản Trọng thường lấy phần hơn. Người ngoài thấy thế bất bình, nhưng Bảo Thúc Nha vui vẻ nói: “Quản Trọng không phải tham mà lấy tiền ấy, chỉ vì gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ nên ta cũng bằng lòng nhường cho hắn.”

Quản Trọng ở chỗ thị tứ thường bị lắm kẻ nạt dọa, hà hiếp mà không một lời phản kháng. Mọi người cười cho là hèn mạt, nhu nhược, nhưng Bảo Thúc Nha cho bạn là người khoan dung.

Quản Trọng thường đàm luận cùng Bảo Thúc Nha nói nhiều điều sai lầm. Bảo nói: “Đó là con người chưa gặp vận. Chớ lúc gặp thời thì trăm việc không hỏng việc nào.”

Lúc theo việc quân, mỗi khi ra trận thì Quản Trọng đi sau; khi thu quân về thì Quản Trọng đi trước. Mọi người đều chế giễu cho là nhát. Bảo Thúc Nha nói: “Quản Di Ngô nào phải nhát gan, chỉ vì người còn mẹ già nên phải giữ thân thể để phụng dưỡng mẹ.”

Quản Trọng ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi, người người đều khinh. Nhưng Thúc Nha nói: “Di Ngô không phải là kẻ bất tiếu, vì chưa gặp thời, chưa gặp được vua hiền mà thôi.”

Về sau, Quản Trọng phò Công tử Củ; Bảo Thúc Nha phò Công tử Tiểu Bạch. Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch vốn anh em khác mẹ tranh ngôi nhau. Công tử Củ thất bại ở nhà nước Lỗ, bị vua nước Lỗ giết chết. Vua Lỗ lại bắt Quản Trọng và Thiệu Hốt là người phò Công tử Củ nộp cho Tiểu Bạch tức Tề Hoàn Công đương làm chúa nước Tề.

Thiệu Hốt tự tử. Còn Quản Trọng thì chịu làm tên tù, và chịu tội với Tiểu Bạch vì trước kia đã bắn nhằm đai bụng của Tiểu Bạch. Mến tài của Quản Trọng và do Thúc Nha tiến cử, Tiểu Bạch dùng Quản Trọng làm tướng quốc.

Người ta chê Quản Trọng không giữ được khí tiết như Thiệu Hốt. Nhưng Thúc Nha lại bảo: “Di Ngô nhẫn nhục phò tá Hoàn Công không phải vô sỉ mà là người không câu chấp những tiểu tiết thường tình. Đó chính là kẻ có chí làm lợi cho cả thiên hạ.”

Quản Trọng nghe được lời phê phán của Bảo Thúc Nha, thường thở dài nói: “Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu biết ta (tri kỷ) ở đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi.”

“Tri kỷ” nghĩa là biết mình. Người biết rõ về mình là người tri kỷ.

Cổ văn có câu: Đắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận, nghĩa là: “Ở đời có được một người tri kỷ thì không còn ân hận gì nữa”.

Tchya (Đái Đức Tuấn), một nhà thơ hiện đại cũng có câu:

Tri kỷ tìm nhau mắt đã mờ

Trong Đoạn trường tân thanh, đoạn diễn tả lúc Từ Hải gặp Thúy Kiều ở thanh lâu, Kiều đề cao Từ Hải, Từ lấy làm thống khoái, có câu:

Nghe lời vừa ý gật đầu
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!

Triều Vân: Người đời Tống, là kỹ nữ ở Tiền Đường. Khi Tô Thức làm quan ở đấy, lấy làm nàng hầu, lúc trước thì chưa biết chữ nghĩa gì, sau nhờ có Tô Thức dạy bảo, biết làm thi từ, lại hiểu đạo Phật. Sau Tô Thức bị biếm ra Huệ Châu, đám tỳ thiếp bỏ cả, chỉ có một mình Triều Vân đi theo.

triều y: y phục các quan phải mặc khi vào chầu triều.

Tây dịch tỉnh tức sự (Trần Trọng San dịch):

Tây Dịch tỉnh mây vừa loe nắng sớm
Mưa thưa núi Bắc chấm triều y.

Triệu Hỗ (810-856): tự là Thừa Hựu, sinh quán ở Sơn Ðông ngày nay. Tên ông cũng có khi đọc là Giả. Ngay khi còn bé, ông đã tỏ ra có biệt tài, từng làm khách Nguyên Chẩn lúc bấy giờ đang là Quan sát sứ Tỉnh Chiết Ðông, rồi làm Tùng sự cho bạn của Ðỗ Mục là Thẩm Truyền Sư. Ðược Thẩm Truyền Sư mến mộ tài năng, năm mới 17 tuổi ông đã được cử làm Hương cống lên cư ngụ Trường An. Ở đây ông kết du rộng rãi với các văn nhân đương thời, thường chỉ suốt ngày “nghêu ngao vui thú yên hà.” Ông quen biết và đã từng thề thốt nặng lời với một ca kỹ, nhưng nàng này lại bị Tiết độ sứ của Chiết Tây cưỡng ép bắt đem về làm thiếp.

Vì thấy mình không thể đòi lại người ngọc nếu chẳng có công danh, Triệu quyết chí đi thi. Năm 32 tuổi, ông đậu Tiến sĩ dưới triều Ðường Vũ Tông. Vừa mới biết mình đậu, mặc dù chưa có chức phận gì lớn lao, ông đã gởi ngay một bài tứ tuyệt cho viên Tiết độ sứ kia (Ðỗ Bằng Ðoàn dịch thơ):

Hiu quạnh nhà không xuân lại tươi
Mây mưa biệt hẳn chốn Dương đài
Từng nghe kể chuyện Sa Tra Lợi
Người đẹp ngày nay đã thuộc ai?

Chẳng biết vì thẹn hay vì sợ, Viên Tiết độ sứ vội trả ngay người ngọc về cho Triệu. Hai người gặp nhau ngay trên đường Triệu vinh quy, người con gái khóc lóc thảm thiết rồi chết. Triệu mai táng nàng ngay chỗ họ gặp lại nhau.

Sau khi đậu tiến sĩ, Ðường Vũ Tông có ngày hỏi đến thơ của Triệu. Ông dâng lên vài bài trong đó có bài Ðề Tần hoàng. Nhà Vua đọc tới hai câu “Chỉ nghe sáu nước theo rìu búa / Chẳng có quần nho luận đúng sai” nghĩ rằng Triệu luận cổ suy kim nên tỏ ý không ưa thích. Có lẽ vì lý do này mà đường công danh của Triệu rất lận đận, mãi đến năm 42 tuổi, tức là 10 năm sau khi thi đậu, mới được bổ làm một chức quan nhỏ ở Vị Nam. Ông mất không lâu sau đó.

Thơ Triệu phần lớn có nội dung nhớ nhung quê hương, buồn bã đường công danh, hoặc để thù tiếp với bạn bè. Ðỗ Mục đọc bài Trường An thu vọng (còn có tựa là Trường An vãn thu) của ông rất thích hai câu “Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái, trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu”, cứ ngâm nga mãi và gọi luôn Triệu là Triệu Ỷ Lâu.

Triệu Phi Yến (?- 1 tCN), hoàng hậu thứ hai của Hán Thành Đế (51–7 tCN), có nguồn cho biết tên thật là Triệu Nghi Chủ.

Triệu Phi Yến được xem là đệ nhất mỹ nhân thời Hán bên cạnh Vương Chiêu Quân vốn là một trong “Tứ đại mỹ nhân”. Bà nổi tiếng với dung mạo tuyệt thế, thân thể nhẹ nhàng tựa như chim yến, nên được gọi là Phi Yến (có nghĩa: chim yến bay). Chính sử ghi về bà rất ít nhưng dã sử thì nhiều, vì vậy bà trở thành một trong những mỹ nhân phổ biến trong truyền thuyết dân gian từ rất sớm.

Trieu Phi Yen
Triệu Phi Yến

Trong văn học dân gian Trung Hoa, Triệu Phi Yến thường được so sánh một cách đối lập với Dương Hoàn (Dương Quý phi) của thời Đường với câu ví nổi tiếng Hoàn phì Yến sấu, có nghĩa Dương Hoàn béo, Phi Yến gầy.

Phi Yến có tài múa rất hay, như bay như lượn tựa chim yến, nên được gọi là Phi Yến (có nghĩa: chim én bay).

Ban đầu, Phi Yền làm cung nữ của Hán Thành Đế (32-6 tCN). Vẻ đẹp kiều diễm lại thêm tài ca múa khiến cho ông vua này say đắm.

Qua thời gian chung sống với nhà Vua, do không có con nên Phi Yến tìm cách đưa em gái Hợp Đức vào cung, hy vọng sẽ mang long thai và Phi Yến nhanh chóng có được quyền lực.

Từ khi có mặt của chị em họ Triệu, hậu cung Hán Thành Đế trở nên rối ren, sóng gió, tranh giành đẫm máu. Triệu Phi Yến đơn thuần chỉ là một cô gái đẹp, muốn lấy lòng nhà Vua và ham mê quyền lực trong khi người em gái Triệu Hợp Đức về nhan sắc không hề thua chị, nhưng cực kỳ mưu mô và độc ác. Hai chị em họ giở trò hù dọa khiến Ban Tiệp dư, cũng là một tuyệt sắc mỹ nhân trong cung, sợ bị hại nên phải trốn đi. Từ sự kiện này, có điển tích về “Gấm nàng Ban”. Xem thêm: Ban Tiệp dư.

Hán Thành Đế bị đánh giá là hôn quân, mê say hai chị em Phi Yến mà không lo việc triều chính, khiến cho quyền hành trong triều đều bị phân hóa vào tay họ Vương, dòng họ của mẹ ông là Vương Chính Quân, tạo tiền đề cho Vương Mãng chiếm quyền lực.

Rốt cuộc, Hợp Đức tự vẫn và Phi Yến bị bức phải tự sát.

Câu chuyện hai chị em Phi Yến–Hợp Đức là điển tích cho thành ngữ “hồng nhan họa thủy”: ý nói người đẹp như nước mang đến tai họa. Gốc câu này là từ bộ sử Tư trị Thông giám. Khi Hán Thành Đế cho Triệu Hợp Đức vào cung làm tiệp dư, thì một nữ quan là Náo Phương Thành nói: “Đây là cái họa nước, nước ắt dập lửa vậy. Đó là lời ví von vì đã thấy trường hợp của Phi Yến, ví nhà Hán như lửa (người lập nên nhà Hán là Lưu Bang mạng hỏa), còn người đẹp như nước.

Trong ba bài Thanh bình điệu của Lý Bạch để ca tụng sắc đẹp lộng lẫy của Dương Quý phi đời Đường Huyền Tông, bài thứ hai có câu nhắc đến Triệu Phi Yến:

Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang

Phan Như Xuyên dịch:

Ướm hỏi Hán cung ai sánh kịp?
Phấn son Phi Yến cũng xin nhường.

Tuy ca tụng sắc đẹp của Dương Quý phi, nhưng nhà thi hào tài hoa họ Lý vẫn phải nhìn nhận Triệu Phi Yến là một trang quốc sắc thiên hương.

Triệu Quát (? – 583 tCN): con trai của Triệu Xa, người nước Triệu thời Chiến Quốc.

Triệu Quát từ lúc nhỏ học binh pháp, nói việc binh cho thiên hạ không ai bằng mình. Y thường cùng cha là Triệu Xa bàn việc binh, Xa không thể bắt bẻ được, nhưng vẫn không cho là phải. Mẹ Quát hỏi Xa tại sao thế, Xa nói: “Việc binh là nơi chết người mà Quát nói một cách khinh thường quá, nước Triệu không cho Quát làm tướng thì thôi, chứ nếu cho nó làm tướng, thì người phá vỡ quân Triệu nhất định là Quát.

Khi Quát sắp đi, người mẹ dâng thư nói với nhà Vua: “Không để cho Quát làm tướng được.”

Vua hỏi: “Tại sao?”

Người mẹ thưa: “Xưa kia thiếp phục vụ cha nó. Trong thời cha nó làm tướng, hạng người ông ta thân hành bưng cơm nước, cho ăn có đến hàng chục, hạng ông ta xem là bạn có đến hàng trăm. Đại vương và tôn thất thưởng cho cái gì thì đưa tất cả cho các quân lại và sĩ phu. Ngày được nhận mệnh lệnh làm tướng, không hỏi đến việc nhà. Nay Quát mới làm tướng mà ngồi ngoảnh mặt về hướng Đông để tiếp khách ra vẻ kẻ cả (ngày xưa đại tướng và tể tướng ngồi quay mặt về hướng Đông), quân lại không ai dám ngẩng lên nhìn. Vàng lụa nhà Vua cho đều đem về cất ở nhà, hàng ngày xem có nhà cửa ruộng vườn gì có lợi, nên mua thì mua. Nhà Vua xem nó có bằng cha nó không? Cha con bụng dạ khác nhau, xin nhà Vua chớ sai đi.”

Nhà Vua nói: “Bà đừng nói nữa, ta đã quyết định rồi.”

Mẹ Triệu Quát nói: “Nếu nhà Vua vẫn sai nó đi, nhưng làm không nổi việc, thiếp có thể khỏi tội không?”

Nhà Vua nói: “Được.”

Sau khi Triệu Quát đã thay thế Liêm Pha, bèn thay đổi tất cả những luật lệnh, thay đổi nhiều chỉ huy quân đội. Tướng Tần là Bạch Khởi nghe vậy, thả kỳ binh, giả vờ thua chạy cắt đứt đường vận lương của Triệu, chia cắt quân Quát làm hai, quân sĩ rời rạc. Được hơn bốn mươi ngày, quân sĩ đói khổ, Triệu Quát đem quân tinh nhuệ ra đánh quân địch. Quân Tần bắn chết Triệu Quát. Binh của Quát bị bại, mấy chục vạn người đầu hàng Tần, Tần đều chôn sống hết. Triệu trước sau mất bốn mươi lăm vạn quân.

Năm sau quân Tần vây Hàm Đan hơn một năm, suýt nữa thì nước Triệu bị tiêu diệt. Nhờ có các chư hầu Sở, Ngụy đến cứu nên mới giải được vây ở Hàm Đan. Vua Triệu cũng vì mẹ Quát trước kia đã nói nên không giết bà.

Xem thêm: Triệu Xa.

Triệu Việt: Triệu Việt Vương, vốn tên là Triệu Quang Phục. Thời Lý Nam Ðế, ông là tướng cầm quân đánh giặc Lương, sau Lý Nam Ðế trao cả binh quyền cho ông. Tương truyền có lần ông bị bao vây ở đầm Nhất Dạ, được Chữ Ðồng Tử cưỡi rồng đến trao cho móng rồng, làm vũ khí giết giặc, từ đó mà đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thu phục lại đất nước, tự xưng là Triệu Việt Vương.

Triệu Xa: nhân tài về mặt quản lý và quân sự của nước Triệu thời Chiến Quốc. Theo Chiến Quốc sáchSử ký, Triệu Xa (? -?) lúc đầu giữ chức điền bộ lại nước Triệu. Trong một lần đi thu tô thuế, ông vô tư thi hành theo phép công, vì nhà Bình Nguyên Quân không chịu xuất tô, Triệu Xa xử trí theo phép nước, giết chín người chủ sự của nhà Bình Nguyên Quân. Bình Nguyên Quân nổi giận đòi giết Triệu Xa, ông nhân dịp này liền nói:

Ngài là quý công tử nước Triệu, nay dung túng người nhà mà không tuân hành phép công, thế thì phép nước sẽ suy yếu; phép nước suy yếu, quốc gia sẽ suy yếu; quốc gia suy yếu, các nước sẽ đem quân xâm phạm; các nước đem quân xâm phạm, nước Triệu không thể tồn tại nữa; như thế Ngài làm sao mà giữ được sự giàu sang phú quý của ngài như thế này được nữa? Người có địa vị cao quý như ngài, nếu giữ được phép công thì cả nước trên dưới công bằng hợp lý, quốc gia sẽ hùng mạnh; quốc gia hùng mạnh, nền thống trị của nước Triệu vững bền; ngài là thân tộc của quốc quân, lẽ nào bị thiên hạ coi thường được?

Bình Nguyên Quân nghe những lời ấy, biết Triệu Xa là nhân tài, liền tiến cử với Triệu Vương. Triệu Vương tín nhiệm giao cho ông quản lý tô thuế cả nước. Tô thuế cả nước vì thế được công bằng hợp lý, trăm họ giàu có, kho tàng quốc gia sung thực.

Về sau ông được nhà Vua phong làm tướng quân, dốc lòng trị quân, đối với người dưới quyền thì nghiêm túc mà ôn hòa, hễ được ban thưởng là đem phân chia cho các cấp dưới.

Năm 269 tCN Tần đánh Hàn, đóng quân ở Ứ Dự/ Yên Dư. Vua cho mời Liêm Pha đến hỏi: “Có thể cứu không?”

Liêm Pha nói: “Đường xa hiểm trở và hẹp, khó cứu.”

Vua cho gọi Nhạc Thừa đến hỏi. Nhạc Thừa cũng đáp như Liêm Pha.

Lại cho gọi Triệu Xa, Xa đáp: “Đường xa hiểm trở và hẹp, cũng như hai con chuột đánh nhau trong hang, bên nào dũng cảm sẽ thắng.”

Vua bèn sai Triệu Xa làm tướng cứu Hàn. Binh đi cách Hàm Đan ba mươi dặm, Xa ra lệnh trong quân: “Kẻ nào dám lấy việc quân sự can ngăn thì xử tử.”

Quan Tần đóng ở phía Tây Vũ An. Triệu Xa lấy việc đánh bất ngờ làm phương châm chiến lược, dẫn quân ra khỏi Hàm Đan ba mươi dặm về phía tây thì dừng lại, xây đồn đắp lũy ở đó, giả vờ như là không dám tiến quân đánh Tần. Quan Tần reo hò tiến, tất cả các ngôi nhà ở thành Vũ An đều rung động. Trong quân có một người nói phải cứu gấp Vũ An. Triệu Xa liền chém ngay. Cứ cố thủ giữ thành đứng lại hai mươi tám ngày không đi. Lại xây thêm thành lũy.

Một tên thám thính của Tần trà trộn vào, Triệu Xa cho ăn ngon và thả cho về. Y lẻn về báo với tướng Tần, làm cho quân Tần phán đoán là quân Triệu nhỏ yếu, không dám tiến quân. Tướng Tần mừng rỡ nói: “Rời khỏi nước ba mươi dặm mà quân lại không đi, còn xây thêm thành lũy thì Ứ Dự không phải là đất của Triệu rồi.”

Sau khi đã cho tên thám thính của Tần đi, Triệu Xa cuốn gọn binh giáp hành quân tốc hành trong hai ngày một đêm, sai những người bắn giỏi đi cách Ứ Dự năm mươi dặm mà đóng quân. Thành lũy của quân đã đắp xong, quân Tần nghe tin đem cả toán quân đến. Binh sĩ là Hứa Lịch xin can về việc quân sự. Triệu Xa nói: “Cho vào.”

Hứa Lịch nói: “Quân Tần không ngờ quân Triệu đã đến đây. Nó đến đây khí thế hùng mạnh, tướng quân phải tập trung đội ngũ lại mà đợi, nếu không thì chắc sẽ thua.

Triệu Xa nói: “Xin vâng lệnh!”

Hứa Lịch nói: “Xin chịu tội chết.”

Triệu Xa nói: “Hãy đợi lệnh sau xem.”

Khi lâm trận, Hứa Lịch lại nói: “Ai chiếm được đỉnh núi phía Bắc sẽ thắng, ai đến sau sẽ thua.”

Triệu Xa cho là phải, liền cho một vạn người rảo bước lên trên núi. Quân Tần đến sau, tranh ngọn núi nhưng không lên được. Triệu Xa thả quân đánh, phá tan quân Tần.

Quân Tần bị đánh tan bỏ chạy, bèn giải vây Ứ Dự mà trở về. Huệ Văn Vương nước Triệu phong cho Xa hiệu là Mã Phục Quân, cho Hứa Lịch làm Quốc úy.

Do đó, Triệu Xa cũng ngang hàng với Liêm Pha, Lạn Tương Như.

Xem thêm: Triệu Quát.

Trình Hạo: đỗ tiến sĩ đời Thần Tông nhà Tống, học rộng, làm bộ sách Định tính. Trình Di: em ruột Trình Hạo, tính thành thực, thấu hiểu mọi sự vật, làm truyện giải thích Kinh Dịch Kinh Xuân Thu.

Trịnh–Nguyễn phân tranh, theo Wikipedia_Trịnh–Nguyễn phân tranh, Trịnh–Nguyễn phân tranh là thời kỳ phân chia giữa chế độ “Vua Lê Chúa Trịnh” ở phía bắc Sông Gianh (sử gọi là Đàng Ngoài) và Vhúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong).

Ban đầu, cả thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu “phù Lê diệt Mạc” để tạo chính nghĩa khi lấy lòng thiên hạ. Sau khi nhà Mạc đã bị đánh đổ, trên danh nghĩa, cả Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đều là bề tôi của nhà Hậu Lê, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều là lãnh thổ của nhà Lê. Nhưng trên thực tế thì khác, cả hai đều tạo thế lực cát cứ cho riêng mình, vua nhà Hậu Lê không còn thực quyền nên không chặn được sự phân tranh giữa hai họ Trịnh–Nguyễn.

Bản đồ dưới đây chỉ vùng cát cứ của hai họ Trịnh–Nguyễn. Miền Bắc còn có tàn dư nhà Mạc cát cứ ở vùng Cao Bằng và chúa Bầu chỉ chung các đời dòng họ Vũ cát cứ ở Tuyên Quang. Miền Nam họ Nguyễn tiếp giáp với Chiêm Thành. Vào thời này, Đế quốc Khmer rất rộng, còn chiếm lĩnh cả miền đông Nam Bộ và miền Tây.

ban do Trinh-Nguyen phan tranh
Bản đồ Trịnh–Nguyễn phân tranh

Cuộc đối đầu quân sự Trịnh–Nguyễn mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627.

Trước sau trong 46 năm ròng rã, hai bên Trịnh–Nguyễn đánh nhau lớn 7 lần và một số lần đánh nhau quy mô nhỏ hơn. Chiến trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.

Hai bên đều có lợi thế và điểm yếu nên không thể tiêu diệt được nhau, tuy cùng mang khẩu hiệu “Phù Lê”. Sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến, chia cắt lâu dài. Sông Gianh, sử sách hay gọi là Linh Giang, trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài từ năm 1673.

Nước Đại Việt trong giai đoạn này bị chia cách hơn 150 năm.

Ca dao:

Sông Gianh nước chảy đôi dòng
Đèn chong đôi ngọn, biết trông ngọn nào?

Lạy Trời cho nổi gió Nồm
Cho thuyền Chúa Nguyễn giong buồm ra khơi

trong giá trắng ngần: Theo Trịnh Mạnh (2003), Câu thành ngữ này có nghĩa là trong trắng. Nhưng đây lại là các vế so sánh : trong như giá, trắng như ngần.

Trong như giá có hai cách giải thích : giá là cây giá đậu, thân nó trong. Cũng có người giải thích giá là tuyết giá. Nhưng ở nước ta tuyết giá không phổ biến, nên có lẽ phải hiểu giá là giá đậu.

Ngần là loại cá trắng như bạc suốt từ đầu đến đuôi.

Có nguồn diễn giải “trắng như ngần” là do “trắng như ngân” nói trại ra, nhưng câu lạ tai này không thuyết phục: “trắng như bạc” thì nói và nghe suôn sẻ hơn.

Đoạn trường tân thanh:

Tiếc thay trong giá trắng ngần
Đến phong trần cũng phong trần như ai!

trong tuyết đưa than: Do chữ tuyết trung tống thán, chỉ việc cứu giúp người lúc khẩn cấp. Tống sử: Năm Thuần Hóa thứ 4 (993), đời Vua Tống Thái Tông có mưa tuyết, trời rét lắm. Vua sai quan Trung sứ đưa gạo ăn và than đốt cho những người già và người nghèo khổ.

Lục Vân Tiên:

Ít người trong tuyết đưa than
Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương!

tru di tam tộc: Có nhiều cách giải thích từ này.

Có người giải thích: “tộc” là “họ”, “tru di tam tộc” là giết ba họ của một người (Họ hàng của cha, họ hàng của mẹ, họ hàng của vợ).

Có người cho “tộc” là “đời”. Tru di tam tộc là bị giết 3 đời: Bản thân và anh em ruột, đời con trai và đời cháu trai trực hệ.

Cũng có người hiểu “tộc” là “đời” nhưng cách hiểu lại khác: hoặc là cha mẹ, anh em, vợ con; hoặc là cha mẹ, các con và các cháu.

Trung Thu: Có nhiều diễn giải về ý nghĩa và nguồn gốc của Tiết TrungThu, từ truyền thuyết của Hằng Nga–Hậu Nghệ đến chú Cuội–chị Hằng, từ họa tiết trên trống đồng Việt Nam đến thiên tình sử Dương Quý Phi–Đường Minh Hoàng, hoặc lịch sử lễ hội đời nhà Lý và đời Lê–Trịnh, v.v.

Diễn giải thông thường là chiếc bánh Trung Thu có liên quan đến Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, người lập ra triều Minh. Theo Kiên Định (2019), Vào đầu thế kỷ 14, Trung Quốc bắt đầu chịu sự xâm chiếm và nằm dưới sự cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyên–Mông. Trong nhiều năm, từng nhóm nhỏ người Hán nổi lên chống phá đều bị dẹp tan, mãi về sau mới có Chu Nguyên Chương dựng cờ khởi nghĩa. Lúc đầu, ông chiêu tập binh mã và đạt được nhiều thắng lợi. Nhưng về sau ông gặp nhiều trở ngại khi muốn công phá thành Tô Châu để làm đầu cầu tiến đánh Nam Kinh. Chu Nguyên Chương rất buồn phiền nhưng quân sư của ông là Lưu Bá Ôn đưa ra một kế sách…

Lưu Bá Ôn sai người cải trang thành đạo sĩ lẻn vào nội thành Tô Châu, loan tin đồn rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế sắp cho 5 vị thần giáng xuống để gieo tai ương trong thành vào mùa đông năm ấy. Dân chúng nghe tin vô cùng hoang mang hoảng hốt.

Có thêm tin đồn rằng, nếu muốn thoát khỏi ôn dịch này thì Trung Thu năm ấy phải mua bánh thưởng trăng. Nhân cơ hội đó, Lưu Bá Ôn lệnh cho thủ hạ nhét mảnh giấy thông báo về cuộc khởi nghĩa vào trong nhân bánh. Những người mua bánh sẽ phát hiện trong đó có mảnh giấy với dòng chữ: “Đêm Trung Thu, sát Thát tử, nghênh nghĩa quân”.

[Dị bản: Một vị tướng của quân Minh thời đó nhận thấy người Mông Cổ không ăn bánh trung thu, vì thế ông ta mở một tiệm bán bánh và trong mỗi cái bánh là một miếng giấy nhỏ viết: “Giết tất cả bọn Mông Cổ vào ngày răm tháng 8”.]

Lưu Bá Ôn lại sai người thông tin tới các đoàn quân, cổ vũ mọi người cùng nhau đứng lên khởi nghĩa vào đêm rằm tháng 8. Đến ngày đó, quả nhiên từ khắp các ngả đường từng đoàn quân đồng lòng hưởng ứng, cuộc khởi nghĩa. Rất nhanh sau đó, Từ Đạt đánh hạ Nguyên và cuộc khởi nghĩa thành công.

Tin tức được truyền đến, Chu Nguyên Chương rất vui mừng nhanh chóng ra khẩu dụ: lấy “phương tiện truyền thông tin” là nguyệt bỉnh (bánh thưởng trăng) làm món điểm tâm ban tặng cho quần thần và binh lính dịp Trung Thu. Sau này khi ông trở thành vị hoàng đế kiến lập nhà Minh, phong tục ăn bánh trung thu càng được coi trọng. Mỗi năm vào dịp này, quần thần và binh lính đều được phân phát bánh và thưởng trăng.

Về sau người Trung Quốc lấy việc thưởng thức bánh trung thu vào ngày rằm tháng Tám để kỷ niệm sự kiện ấy. Từ đó phong tục ăn bánh trong ngày tết Trung Thu dần dần được lưu truyền cho tới ngày nay.

truông Nhà Hồ, phá Tam Giang: hai vùng nguy hiểm cho sự giao thông giữa đàng Trong và đàng Ngoài trong thời Trịnh, Nguyễn phân tranh.

Ca dao nổi tiếng diễn tả nỗi niềm một chàng trai đàng Ngoài đối với người yêu đàng Trong:

Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang!

Câu hát ru con:

Phá Tam Giang chắn ngay nẻo nhớ
Truông Nhà Hồ làm khổ lòng nhau
Cho nên xin hẹn kiếp sau
Đổ truông Nhà Hồ, đập phá Tam Giang.

* Truông Nhà Hồ: theo Nguyễn Phúc (2016) và Nguyễn Trung Hiếu (2016), đây là vùng đất hoang, cây cỏ mọc um tùm. Truông Nhà Hồ nay nằm ở đoạn giáp giới giữa Xã Vĩnh Chấp (Vĩnh Linh, Quảng Trị) và Xã Sen Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), cách Thị trấn Hồ Xá (trước là Làng Hồ Xá), Huyện Vĩnh Linh khoảng 1 km. Không rõ tại sao có tên “Nhà Hồ”, phải chăng liên quan đến địa danh Hồ Xá? Trước đây truông Nhà Hồ là một vùng đất rộng bạt ngàn, bao trùm cả một phần phía bắc Huyện Vĩnh Linh (nay là các xã Vĩnh Tú, Vĩnh Long, Vĩnh Chấp). Truông này có cây cối um tùm, từng là sào huyệt của một băng cướp rất nguy hiểm, ai đi qua đó cũng thường bị chúng cướp của đòi tiền mãi lộ, thậm chí bắt bớ, giết chóc.

Thực tế, truông Nhà Hồ chẳng phải là nơi thâm sâu cùng cốc, xa xôi hiểm trở gì mà nằm ngay bên QL1, sát bên con dốc có tên là Sáu Độ. Chỉ có điều đây là một khu rừng thấp, um tùm cây cối, dây leo và không có một văn bia, dấu tích gì làm mốc nên người ta không biết đó chính là truông Nhà Hồ, dẫu từng đi ngang qua rất nhiều lần. Tất nhiên, phần còn lại của truông Nhà Hồ không thể rộng lớn như ngày trước mà giờ cũng chỉ còn một nhúm nhỏ thuộc Thôn Tứ Chính (Xã Vĩnh Tú, Huyện Vĩnh Linh).

Qua hàng trăm năm biến thiên, truông nhà Hồ hiện còn khoảng 10 ha và được gọi là rú Tứ Chính hoặc rú Cát, là thảm thực vật gồm nhiều giống loài, trong đó chủ yếu là cây dẻ và cây trâm bầu.

* Phá Tam Giang: phá là đầm nước. Phá Tam Giang nằm trong hệ thống đầm phá Tam Giang–Cầu Hai, có diện tích 50 kí-lô-mét vuông, trải dài hơn 20 kí-lô-mét khoảng từ cửa Sông Ô Lâu đến cửa Sông Hương thuộc địa phận ba huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Thừa Thiên–Huế. Phá Tam Giang thường có sóng to, ngày xưa tàu thuyền qua đây thường bị sóng đánh chìm.

Bên cạnh những câu ca dao cổ trên, sau này còn xuất hiện một câu ca dao khác:

Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm.

Nội tán chỉ ông Nguyễn Khoa Đăng, thuộc hạ của Chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1722, ông được sai mang quân đi triệt hạ giặc cướp vùng này. Nội tán Nguyễn Khoa Đăng cho lính giả làm lái buôn, phục kích bắt hết lục lâm, thảo khấu trú ẩn ở vùng rừng núi Hồ Xá. Từ đó dẹp yên và dân lành thông thương mua bán giữa hai vùng Nam–Bắc. Sau ông vào Huế, trị sóng thần phá Tam Giang. Ông sai người lặn xuống phá, đào bới mở rộng cửa phá. Một mặt ông loan báo trong dân chúng là quan Nội tán sẽ dùng súng thần công bắn sóng thần trừ họa. Đến ngày đã định, Nguyễn Khoa Đăng mang súng hướng ra phá, ra lệnh bắn. Ba tiếng súng ầm ầm vang lên, khói bốc mù mịt. Tương truyền trên mặt phá, một luồng đỏ như máu từ từ loang ra. Nguyễn Khoa Đăng bảo với mọi người là thần sóng đã bị trúng đạn chết, từ nay không phải lo sợ nữa. Từ đó thần sóng không còn, thuyền bè qua lại trên phá Tam Giang đều bình an vô sự. Nỗi lo sợ về truông Nhà Hồ, phá Tam Giang không còn nữa, nhưng câu hát xưa vẫn còn, nay được chắp thêm hai câu ghi nhớ công ơn của quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng.

Truyền Ðăng: núi gần Sông Bạch Ðằng, Quảng Ninh ngày nay. Theo Ðại Nam nhất thống chí, Vua Trần Nhân Tông có bài thơ khắc ở đây, nay vẫn còn nên núi này còn có tên là “Núi thơ đề”.

truyền y bát: “y” ở đây là áo cà sa, “bát” là cái bát để đi khất thực (xin ăn); vì thế sư sãi tùy thân chỉ có cái áo và cái bát. Sư thầy hoặc chưởng môn “truyền y bát” tức là truyền nhiệm vụ trụ trì một ngôi chùa hoặc chưởng môn một môn phái cho người kế tục.

trúc bạch: Tre lụa, chỉ sử sách vì ngày xưa người ta thường viết trên thẻ lụa hoặc tre.

Trúc lâm Thất hiền: chỉ bảy bậc hiền tài sống khoảng cuối đời nhà Ngụy và đầu nhà Tấn, giữa những năm 200–300. Bảy bậc hiền tài đó là các ông: Sơn Đào (205-283), Nguyễn Tịch (210-263), Lưu Linh (220-300), Hướng Tú (221-300), Kê Khang (223-263), Vương Nhung (234-305), Nguyễn Hàm.

Đây là nhóm Thanh đàm của Đạo gia, bàn về những vấn đề thanh cao, những tư tưởng siêu việt. Đây cũng là nhóm đại diện cho phong trào sống theo tự nhiên, tính tình phóng đạt, để cho tình cảm lãng mạn nẩy nở tự do, không chịu gò ép trong lễ nghi hay giới luật.

Gọi là Trúc lâm thất hiền vì bảy ông này hay gặp nhau ở rừng trúc, đàn ca, ngâm vịnh, bàn bạc văn chương và say túy lúy.

Truc lam that hien
Trúc lâm Thất hiền

Theo Nguyễn Hiến Lê (1983), Trúc lâm Thất hiền nổi tiếng vì thói khinh đời ngạo vật, phóng đãng, bất chấp lễ nghi. Kẻ thì chính ngày Đoan ngọ lấy quần treo đầu gậy, cắm ở giữa sân để phá tục cổ (Nguyễn Hàm); kẻ thì dám uống rượu, ăn thịt trong đám tang mẹ, kẻ thì thoa phấn bôi son, giả làm đàn bà. Hết thảy đều say sưa suốt ngày như Lưu Linh, tác giả bài Tửu đức tụng (ca tụng cái đức của rượu). Chủ nghĩa của họ là chủ nghĩa cá nhân, văn chương của họ là văn chương duy mỹ. Rằng đẹp thì đẹp thật, như gấm như hoa (người đời sau nói: đẹp như văn thơ đời Lục Triều); nhưng tủi thì cũng tủi thậm, nhà tan nước mất vào tay bộ tộc Ngũ Hồ. Đó là nhược điểm của họ mà cũng là đặc sắc của họ. Người đương thời phục họ, gọi họ là thất hiền vì họ không ham danh lợi.

Xem thêm: Kê Khang, Lưu Linh.

trúc mai: cây trúc và cây bương. Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng, lá to có thể dùng gói bánh, thân to dùng làm cột nhà. Cây bương già có hoa, gần giống bông lau nhưng dài hơn, người ta gọi là bông mai, thường bó làm chổi, gọi là chổi bông mai. Mai này không phải cây mơ ngoài Bắc, cũng không phải cây mai vàng trong Nam.

Măng bương to và mập, người ta gọi là măng mai. Trong ca dao Lính thú ngày xưa có câu:

Miệng ăn măng trúc măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?

Trúc mai ở đây chỉ người bạn tình chung thủy. Vì trúc và mai có đốt thẳng lóng ngay (tiết thẳng); và suốt đời không thay đổi đốt, lóng ấỵ Người ta mượn trúc mai để chỉ người bạn suốt đời giữ được trọn tiết (tiết nghĩa đen là đốt, như đốt trúc), không thay lòng đổi dạ, không nghĩ quanh co (tre bao giờ cũng thẳng) tức là người giữ trọn được lời thề.

Hai người thề bồi với nhau, người này không giữ được lời thề, tức là mang nợ (lời thề) với người kia. Và, theo thuyết luân hồi của đạo Phật: người mắc nợ kiếp này thì kiếp sau phải làm trâu ngựa để trả cái nợ cho người chủ nợ, như thế là tức là người giữ trọn lời thề.

Hình dung bằng cây trúc, cây mai là những người trọn đời giữ vững lòng ngay tiết thẳng.

Đoạn trường tân thanh, đoạn diễn tả lúc nàng Kiều bán mình chuộc cha, đành lỗi ước với Kim Trọng, nàng than thở có câu:

Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

Và, đoạn diễn tả cảnh của Kiều lúc sống đầm ấm với Thúc Sinh:

Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông

[“Một nhà sum họp trúc mai” là mai trúc ở chung nhau, tức là vợ chồng sum họp, căn cứ vào điển cố trên]

Nhưng “trúc mai” còn có một nghĩa khác. Đây không phải là cây tre và cây mơ, cũng không phải là cây tre và cây bương. Mà chính do tiếng “mai trúc” đảo ngược. Nghĩa là tre làm mai mối.

“Mai trúc” do điển tích chép trong sách Lưỡng ban thu vũ am tùy bút: Ở cửa Sông Liêu Khê, Huyện Long Môn, Quảng Đông, có một cái đầm (hồ), tên là “Đỗ Phụ đàm” (nghĩa là đầm đánh đố được vợ). Có một cậu bé và một cô bé trạc tuổi nhau, thường ngồi chơi bên mé đầm. Hai trẻ rất thân. Một hôm cả hai bảo nhau: “Chúng ta bây giờ chơi thân nhau nhưng không biết có được thân với nhau mãi chăng? Đây rồi khi lớn lên, kẻ nơi người ngả.”

Hai trẻ đều buồn. Nhưng rồi lại nghĩ ra một cách đánh đố nhau, chẻ một lóng tre ra làm đôi, mỗi người cầm một mảnh liệng xuống giòng nước, nguyền với nhau rằng: hễ hai thanh tre ấy mà trôi khép lại làm một thì hai bên kết làm vợ chồng. Có thế mối tình thân mật, gần gũi nhau được mãi mãi.

Cả hai thực hành, quả nhiên hai mảnh tre trôi xuôi và khép liền nhau như lóng tre chưa chẻ.

Thế là cô cậu lấy nhau làm vợ chồng. Và, đầm ấy có tên là “Đỗ Phụ đàm”. Giống tre mọc ở trên bờ đầm gọi là “mai trúc”, nghĩa là giống tre làm mai mối.

Đời Thanh (1644-1909), thi hào Khuất Ông Sơn có thơ vịnh trúc mai (bản dịch của Vân Hạc Lê Văn Hòe):

Một đôi thanh trúc khép như in
Thanh trúc xe nên duyên bách niên
Mai trúc trên đầm nay vẫn tốt
Rườm rà cành nhánh cháu con hiền

Trùng cửu hoặc Trùng dương: Ngày mồng 9 tháng 9. Theo Tục tề hài ký, nguyên thời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người Huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: “Mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn.”

Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy.

Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.

Tiết Trùng cửu cả nhà lên núi, chiều tối trở về thấy gà, chó, trâu, dê đều chết sạch.

Vì tích trên, nên về sau hằng năm, đến mồng 9 tháng 9, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn… Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ.

Sách Phong Thổ ký lại chép: Cuối đời nhà Hạ (2205-1818 tCN), Vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà Vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông. Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn… Tục ấy thành lệ.

Đến đời Hán Văn Đế (176-156 tCN), nhà Vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà Vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy.

Sau đến đời nhà Đường (618-907), ngày mồng 9 tháng 9 thành tiết Trùng cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh.

Cổ thi có câu: “Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao”.

“Đăng cao” là lên chỗ cao. “Trùng cửu” và “Đăng cao” đều do điển tích trên.

Trương Chi, Mỵ Nương: hai nhân vật trong truyện cổ tích dân gian của Việt Nam.

Không rõ xuất xứ cổ nhất của câu chuyện này. Tương truyền nó được chép trong một tập thơ bằng chữ Nôm đầu thế kỷ 18 hoặc thế kỷ 19. Câu chuyện này rất phổ biến ở vùng Kinh Bắc. Theo nhà thơ Nguyễn Khôi (Khôi Đình Bảng), câu chuyện gắn liền với Sông Tiêu Tương ở quê nhà Quan họ, Bắc Ninh.

Truong Chi My NuongCòn trong một bài hát Quan họ có đoạn:

Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay
Cô Mỵ nương vốn ở lầu tây
Con quan Thừa tướng ngày rày cấm cung

Trương Chi có chiếc thuyền chài
Chèo thuyền ngang dọc hôm mai dãi dầu
Trương Chi mới hát một câu
Gió đưa phảng phất tới lầu Mỵ Nương

Mỵ Nương nghe hát thì thương
Nhưng chông thấy mặt anh chường lại chê
Trương Chi buồn bã ra về
Cắm sào giữa bến hát thề một câu

Kiếp này đã dở dang nhau
Có sang kiếp khác lấy nhau cũng không thành.

Cũng theo lời Khôi Đình Bảng, Lầu Tây chính là đồi Hồng Vân (hay đồi Lim), là nơi tháng giêng trai gái các làng hẹn nhau đến đây thi hát Quan họ trong hội Lim để tưởng nhớ mối tình Trương Chi–Mỵ Nương” và để kết bạn tình. Tương truyền trai gái Quan họ chỉ được yêu nhau chứ không được lấy nhau, có lẽ là vì theo họ kết hôn là mồ chôn luyến ái, tình chỉ đẹp khi còn dang dở.

Câu chuyện là như sau.

Ngày xưa, có nàng Mỵ Nương là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, con của một vị quan đại thần. Nàng sống như chim trong lồng, lúc nào cũng buồn bã. Cha nàng thấy vậy liền cất cho nàng một ngôi nhà nhỏ bên dòng sông cạnh nhà để nàng ra đó thư giãn.

Nàng vẫn thường ra căn nhà đó thêu thùa, đọc sách và say đắm một tiếng hát trên dòng sông. Tiếng hát ấy là của Trương Chi, một anh thanh niên ở làng chài ven sông.

(Dị bản: tiếng sáo thay vì tiếng hát.)

Bỗng có một thời gian tiếng hát không còn xuất hiện. Mỵ Nương do quá thương nhớ tiếng hát mà sinh bệnh, vóc dàng ngày thêm hao gầy. Nhiều vị đại phu được cha nàng mời đến mà vẫn không tìm ra nguyên nhân căn bệnh.

Một hôm, vô tình cha nàng biết được tiếng hát của anh thanh niên tên Trương Chi chính là nguyên nhân căn bệnh của con gái. Ông mời chàng đến, mong vì thế mà Mỵ Nương sẽ khỏi bệnh. Nhưng khi chàng đến phủ, ông thấy chàng xấu xí thì lệnh chỉ được hát từ ngoài sân vọng vào chứ không được ra mắt Mỵ Nương để tránh cho nàng phải thất vọng. Mỵ Nương nghe thấy tiếng hát quen thuộc thì hồi phục nhanh chóng. Rồi nàng khỏi bệnh và xin cha cho mời người hát ngoài sân vào để nàng cảm ơn. Bất đắc dĩ, cha nàng đành cho gọi Trương Chi vào. Vừa thấy Trương Chi, Mỵ Nương vô cùng thất vọng vì dung mạo hát chàng vô cùng xấu xí. Nàng tỏ ý lạnh nhạt, bảo Trương Chi đi ra, và không còn mê tiếng sáo của chàng như trước kia nữa.

Song, từ lúc trông thấy Mỵ Nương, Trương Chi lại thầm yêu nàng that thiết. Trở về con thuyền; chàng lại hát, nhưng Mỵ Nương không muốn nghe nữa. Tiếng hát của chàng buồn bã, đau đớn. Đến một hôm, trên con thuyền trống trải, chàng quá tuyệt vọng, nhảy xuống dòng nước tự vẫn.

(Dị bản: Một hôm chàng tìm đến Mỵ Nương và thổ lộ nỗi lòng mình với nàng. Nhưng nàng từ chối. Trương Chi thất vọng và đau buồn cho thân phận nghèo hèn của mình, không thiết làm ăn gì nữa, mang bệnh tương tư, biếng ăn, mất ngủ, sầu héo dần mà chết.)

Những người bạn cùng làng chài vớt xác chàng và đem chôn. Đến khi bốc mộ, mọi người thấy một khối cầu, to bằng quả cam, trong suốt như pha lê bèn đem gắn vào mạn chiếc thuyền cũ của chàng.

Một lần tình cờ, cha Mỵ Nương đi ra bến sông, thấy có một viên hình cầu đẹp và sáng như ngọc ở mạn một chiến thuyền câu liền mua về rồi sai thợ ngọc làm thành chiếc chén uống trà. Nghe nói cha vừa đặt làm chiếc chén mới rất đẹp Mỵ Nương đòi cha cho dùng thử. Khi vừa rót trà vào, nàng thấy trong chén trà hiện lên hình bóng Trương Chi, và tiếng hát năm xưa vang lên như than như trách.

Mỵ Nương chạnh lòng nhớ lại mối tình đã qua. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén, và chiếc chén tan ra thành nước.

My Nuong Truong Chi tren san khau
Mỵ Nương và Trương Chi trên sân khấu

Đoạn trường tân thanh, nỗi đau đớn của Kiều sau khi bán mình chuộc cha, thương nhớ chàng Kim:

Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

(“Khối tình” lấy ở tích trên.)

Ca khúc Khối tình Trương Chi – Phạm Duy

Video âm thanh, Hoàng Oanh, với phần dẫn truyện và ngâm thơ:
https://www.youtube.com/watch?v=0YPioprjPGg

Video âm thanh, Tấn Minh:
https://www.youtube.com/watch?v=CRDxPlIcczU

Ca khúc Trương Chi – Văn Cao

Video âm thanh, Trần Thái Hòa:
https://www.youtube.com/watch?v=Xr1ppusmkuw

Video âm thanh, Thụy Long:
https://www.youtube.com/watch?v=vXq_GEn4ppk

Trương Duyệt (661-730): hoặc Trương Thuyết, người Lạc Dương, năm 689 đỗ đầu khoa Hiền lương Phương chính, được bổ Thái tử Hiệu thư lang, rồi Tả Bổ khuyết, rồi Binh bộ Thị lang, Hoằng văn Quán học sĩ. Đời Duệ Tông (710-712), ông làm Đồng trung Thư môn Hạ bình Chương sự, coi việc soạn quốc sử, rồi thăng Trung thư lệnh. Tác phẩm có Văn tập gồm 30 quyển.

Trong bài Tống Lương Lục: Lương Lục là tên người bạn của Trương Duyệt, ở ẩn vùng Hồ Động Đình.

Trương Hoa: Người đất Phương Thành đời nhà Tấn, học nhiều xem rộng, cái gì cũng biết, có làm ra sách Bác vật chí. Người đời bấy giờ ví Hoa như Tử Sản nước Trịnh đời xưa.

Trương Húc (khoảng 658-747): tên chữ Bá Cao. Ông xuất thân tại Ngô Huyện Giang Tô. Năm Khai Nguyên làm quan đến Thường thục úy, về sau thăng đến Kim Ngô trưởng sử, người đời thường gọi là Trương Trưởng sử. Ông là một nhà thư pháp, chuyên lối chữ thảo, người đời xưng là Thảo Thánh.

Trương Kế (?-779): người Tương Châu, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 12 (754), là một nhà thơ có tiếng thời Trung Đường. Thơ của ông trong Toàn Đường thi có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài Phong Kiều dạ bạc đã giúp ông lưu danh thiên cổ.

Trương Nhược Hư (660?- 720?): người ở Dương Châu. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc, Bao Dung được gọi là “Ngô trung tứ sĩ”. Phong cách thơ ông trong sáng hoa lệ, giàu chất trữ tình, có vị trí quan trọng trong sự chuyển biến thơ ca từ sơ Đường đến thịnh Đường. Thơ ông thất lạc gần hết. Toàn Đường thi chỉ ghi lại được 2 bài thơ của ông là Đại đáp khuê mộng hoànXuân giang hoa nguyệt dạ. Nhưng chỉ một bài Xuân giang hoa nguyệt dạ cũng đủ làm Trương Nhược Hư bất tử.

Trương Phi: một vị tướng Thục thời Tam Quốc. Theo Tam Quốc chí, Trương Phi tự Dực Đức, là người ở Trác Quận, lúc còn trẻ cùng với Quan Vũ theo Lưu Bị khởi sự. Vũ lớn hơn Phi mấy tuổi, Phi nhận làm anh. Lưu Bị theo Tào Tháo phá Lã Bố, lúc xét công lao, Tào Tháo phong Phi làm Trung lang tướng. Lưu Bị bỏ Tào Tháo sang nương nhờ Viên Thiệu, Lưu Biểu. Lúc Biểu chết, Tào Tháo vào được Kinh châu, Lưu Bị thua chạy xuống Giang Nam. Tào Tháo đuổi theo, một ngày một đêm, đuổi kịp ở Đương Dương Tràng Bản. Lưu Bị hay tin binh của Tào Tháo đuổi đến, liền bỏ cả vợ con mà chạy, sai Phi cầm 20 kỵ binh chống cự ở phía sau. Phi chặt cầu giữ bên kia sông, trợn mắt cầm ngang ngọn mâu quát rằng: “Ta là Trương Dực Đức đây, ai dám cùng ta tử chiến!” Quân địch không ai dám tiến đến gần, vì thế Lưu Bị được thoát. Khi Lưu Bị đã yên định được Giang Nam, lấy Phi làm Nghi Đô thái thú, Chinh Lỗ tướng quân, phong làm Tân đình hầu, sau lại chuyển đến ở Nam Quận.

Lưu Bị vào Ích châu, rồi vây đánh Lưu Chương, Phi cùng với Gia Cát Lượng ngược sông tiến lên, chia nhau đánh lấy các quận huyện. Tới Giang Châu, đánh được tướng của Chương là Thái thú Ba Quận Nghiêm Nhan, bắt sống Nhan. Phi bảo Nhan rằng: “Đại quân đã đến, sao không hàng ngay mà dám chống cự?” Nhan đáp rằng: “Bọn ngươi vô cớ, xâm đoạt châu quận của ta, Ích Châu ta chỉ có tướng quân rơi đầu, không có tướng quân xin hàng.” Phi nổi giận, lệnh cho tả hữu lôi đi chém đầu, Nhan thần sắc không đổi, nói rằng: “Chém thì cứ việc chém, cớ sao phải nổi giận?” Phi vội vàng sai cởi trói, dẫn vào đãi như tân khách. Phi nhờ thế tiến được nhanh, cùng với Lưu Bị hội quân ở Thành Đô. Ích Châu đã bình, Phi được lĩnh chức Ba Tây Thái thú.

Tào Tháo phá Trương Lỗ, để Hạ Hầu Uyên-Trương Cáp trấn giữ Hán Xuyên. Cáp đốc xuất ba quân hạ Ba Tây, liền di dời dân ở đó vào đất Hán Trung, tiến binh đến Đãng cừ-Mông đầu-Đãng thạch, cùng với Phi cầm giữ nhau hơn 50 ngày. Phi dẫn hơn vạn quân tinh nhuệ theo đường nhỏ đón đánh quân của Cáp, đường núi nhỏ hẹp, đầu đuôi không thể cứu ứng được nhau, Phi phá được Cáp, Cáp liền bỏ ngựa trèo lên núi, cùng hơn chục quân tướng theo đường hẻm trốn về, rồi dẫn quân chạy tuốt đến Nam Trịnh, đất Ba yên định được. Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, phong Phi làm Hữu tướng quân, ban cho giả tiết.

Năm Chương Vũ nguyên niên, đổi Phi làm Xa kỵ tướng quân, lĩnh Tư mã Thái uý, lại phong thêm tước Tây Hương hầu.

Phi hùng tráng uy mãnh, chẳng kém gì Quan Vũ, mưu thần nước Ngụy là Trình Dục khen Vũ và Phi là vạn người khó địch. Vũ khéo đối xử với sĩ tốt mà kiêu ngạo với đại sỹ phu, Phi yêu kính người quân tử mà không thương xót kẻ tiểu nhân. Lưu Bị thường khuyên bảo Phi rằng: “Khanh dùng hình phạt quá mức, lại hay đánh đập người dưới, xử phạt xong mà vẫn giữ bên mình, ấy là chuốc lấy tai vạ vậy.” Phi vẫn không chịu sửa đổi. Lưu Bị phạt Ngô, lúc ấy Phi thống lĩnh hơn vạn quân lính, từ Lãng Trung kéo về Giang châu. Khi mới khởi quân, bộ hạ dưới trướng là Trương Đạt – Phạm Cương giết Phi, cắt lấy thủ cấp, xuôi theo sông lớn chạy sang xin hàng với Tôn Quyền.

Trương Tịch (766-827): tự Văn Xương, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường, đậu Tiến sĩ dưới triều Vua Đức Tông. Năm 799, ông được Hàn Dũ mến tài nên tiến cử làm “Quốc tử bác sĩ”. Con đường công danh của ông cuối cùng đến chức Quốc tử tư nghiệp. Cuộc đời Trương Tịch được lưu lại ở sách sử Trung Quốc bằng sự nghiệp văn chương với một thi tập gồm 7 quyển, nhưng chỉ có bài Tiết phụ ngâm là nổi tiếng nhất.

Xem thêm mục: Tiết phụ ngâm.

Trương Tuần: Người đất Nam Dương đời Ðường, thông hiểu kinh sách, giỏi binh pháp, đỗ tiến sĩ, làm quan lệnh đất Thanh Hà rồi Chân Nguyên. Giữa năm Thiên Bảo, An Lộc Sơn làm loạn, tướng của An Lộc Sơn là Doãn Tử Cơ tập hợp đầu đảng trên 10 vạn người bao vây đánh Trương Tuần ở Tuy Dương, ông cùng quân lính cố thủ, một ngày đánh ngót 20 trận và nhiều lần đánh bại quân Tử Cơ. Ðược vài tháng lương thực cạn, không có quân cứu viện, Tuần phải giết người thiếp yêu cho quân lính ăn. Ðến khi Tử Cơ đốc quân đánh thành thì quân của ông ốm kiệt sức không chiến đấu được, thành bị vây hãm. Khi bị bắt, ông mắng vào mặt Tử Cơ rằng: “Ta muốn nuốt tươi bọn nghịch tặc chúng mày, chỉ hiềm sức đã kiệt.” Tử Cơ nổi giận lấy dao khoét lấy gần hết răng mồm của ông. Tuần còn chửi vào mặt chúng cho đến khi bị giết chết.

Trương Vĩnh Ký (1837–1898): Danh nhân văn hóa của Việt Nam, gây nhiều tranh cãi về công và tội. Tên khai sinh là Trương Chánh Ký, sau đổi là Trương Vĩnh Ký, tên thánh: Jean Baptiste Pétrus, vì thế thường được gọi là Pestrus Ký. Quê ở Làng Cái Mơn, Xã Vĩnh Thành, Huyện Tân Minh, Vĩnh Long (nay thuộc Huyện Chợ Lách, Bến Tre).

Nguyên Vũ cho rằng những tư liệu về thuở thiếu thời của Petrus Key chứa đầy chi tiết trái ngược nhau.

Cha ông là Trương Chánh Thi một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng, mất năm 1845 hoặc năm 1846 hoặc năm 1840 tùy theo nguồn.

Có nguồn ghi bà mẹ trao Petrus Ký, lúc mới 5 tuổi, cho giáo mục Tám, và rồi sau khi ông này chết, giáo sĩ Pháp có tên Việt là cố Long nuôi. Như thế, từ năm 1842 Petrus Key đã xa mẹ. Nhưng cũng có tác giả ghi Petrus Key chỉ được các cố đạo nuôi từ năm 1846, khi đã 9 tuổi.

Trương Vĩnh Ký học hai năm ở giáo đường Cái Nhum.

Năm 11 tuổi (1848), Trương Vĩnh Ký được gởi đến học tại trường đạo Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa. Lớp học có 25 học sinh 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)…, và học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường. Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký có thể nói và viết các ngôn ngữ của các bạn cùng trường.

Sau ba năm ở trường đạo Pinhalu, Trương Vĩnh Ký đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học.

Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký được gởi vào chủng viện Dulaima ở Đảo Penang, nơi người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm. Đây là một trường chuyên đào tạo tu sĩ Ki tô giáo cho vùng Đông Nam Á thời đó

Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một hòn đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Campuchis.Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký ông được học với nhiều thầy giỏi và tiếp xúc với bạn học ở nhiều nước khác nhau. Ngoài chuyên ngữ Latin và Hy Lạp, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Anh, Ấn Độ, Malaysia, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thái Lan, Ý…

Trong thời gian ở Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ, nhờ trí nhớ tốt, sách vở phong phú ở thư viện, và phương pháp giảng dạy của nhà trường.  Ông đọc rất nhiều sách Anh, Hán, Hy Lạp, Pháp, Tây Ban Nha… Ông tiếp nhận được nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt.

Riêng về ngoại ngữ, hai bài báo của Vieillard (1947) cho rằng Trương Vĩnh Ký biết 26 ngôn ngữ, và nhiều nguồn trích dẫn lại như thế. Nguyên Vũ (2015) đặt ra nghi vấn về việc này, phân tích rồi rồi đi đến kết luận: “Petrus Key có thể biết được 5, 6 thứ tiếng. Sau này, Petrus Ký nghiên cứu thêm chữ Hán và chữ Nôm, và có thể biết (đọc, viết hoặc nói) được 7, 8 thứ tiếng là cùng. Nhưng nếu nói thông thạo, thì chỉ khoảng 3, 4 thứ tiếng (Pháp, Việt, Hán-Việt và chữ Nôm)”. Theo Nguyễn Văn Trung, hồ sơ cá nhân Petrus Key tại soái phủ Sài Gòn ghi vào giữa thập niên 1870, ông biết 7 ngoại ngữ: Anh, Chân Lạp (Miên), La tinh, Malay, Pháp, Tây Ban Nha, và Ý.

Nhà nhiếp ảnh người Anh John Thomson viết quyển “The Straits of Malacca, Indo-China, and China; or ten years’ travels, adventures, and residence abroad” (1875), trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách ‘Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới’, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở Châu Âu, Châu Á…”

Năm 1858 Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, chỉ còn 1 năm nữa là kết thúc khóa học và sinh viên ra trường có đủ điều kiện thụ phong linh mục (nếu họ muốn) thì hay tin người mẹ qua đời nên ông vội vàng về nước để chịu tang mẹ. Trở lại Cái Mơn chịu tang xong, lúc này Pháp đánh chiếm Việt Nam, từ Đà Nẵng, Sài Gòn rồi đến Gia Định tiếp theo là mất 3 tỉnh miền Đông nên việc cấm đạo Công giáo cũng gay gắt hơn. Cuối cùng ông quyết định không trở lại chủng viện nữa.

Ông lên Sài Gòn và năm 1860 được giới thiệu làm thông ngôn cho quân đội Pháp rồi giúp việc cho Toàn quyền Đông Dương Paul Bert và Giám quan cố vấn cho vua Đồng Khánh ở Cơ mật viện.

Năm 1862, Trương Vĩnh Ký theo sứ thần Simo đi trên chiến hạm Le Forbin ra Huế bàn việc nghị hòa. Trong hiệp ước nghị hòa, nhà Nguyễn phải chịu mất 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Điều này khiến nhiều người Việt chỉ trích Pétrus Ký vì ông đã giúp Pháp thương thảo hiệp ước này.

Năm 1863, khi phái đoàn Phan Thanh Giản qua Pháp xin điều đình việc chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký là thành viên của phái bộ hướng dẫn Pháp, do Trung tá Henri Rieunier cầm đầu. Nguyên Vũ (2010) cho rằng ông không phải là thông ngôn của sứ đoàn nhà Nguyễn. Dù sao đi nữa, ông cùng với đoàn được triều kiến Napoléon III. Ông cũng có cơ hội thăm viếng các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Thái Lan, yết kiến Đức Giáo hoàng ở Roma… để nghiên cứu về văn hóa, kinh tế, xã hội… Sau khi về nước năm 1864, ông hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và báo chí.

Ông làm chánh tổng tài (còn Huình Tịnh Của làm chủ bút) tờ Gia Định Báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam (1865) để truyền bá chữ quốc ngữ. Đa số các bài trên Gia Định Báo đều bằng văn xuôi, ngắn gọn, đơn giản, theo cách nói của người miền Nam, và đàng hoàng theo lễ giáo Việt Nam.

Sau khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ, ông đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như Giáo sư Pháp văn Trường Thông ngôn – Collège des Interprètes (1866-1868) rồi làm giám đốc, giám đốc trường Sư phạm kiêm Thư ký Hội đồng Thành phố Chợ Lớn (1872), giáo sư Quốc văn và Hán văn cho người Pháp và Tây Ban Nha ở trường Tham biện Hậu bổ – College des administrateurs stagiaires (1874) rồi làm Chánh đốc học trường ấy…

Năm 1886, ông được Toàn quyền Đông Dương Paul Bert (vốn là giáo sư ở Đại học Bordeaux và Sorbonne, Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, mà ông đã kết giao từ chuyến đi Pháp) cử làm cố vấn cho Vua Đồng Khánh với tư cách Hàn lâm viện Thị giảng Học sĩ, tòng tứ phẩm. Hai tháng sau, ông được thêm chức Tham tá Cơ Mật Viện. Ông tham mưu cho nhà Vua làm một số điều ích quốc lợi dân như đào Kênh Mang Cá ở Huế, đắp đường ở Quảng Nam… Dù được mời mọc, ông không chịu nhập quốc tịch Pháp cũng như không nhận những chức vụ cao trong bộ máy hành chính của Pháp.

Sau cái chết đột ngột của Toàn quyền Paul Bert, ông không còn được trọng dụng nữa. Ông dùng thì giờ còn lại để đọc sách báo, nghiên cứu, viết sách và dạy ở Trường Hậu bổ và Trường Thông ngôn.

Vào cuối thập niên 1880, Trương Vĩnh Ký đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.

Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil), Ciampois (Chàm).

Năm 1888, Trương Vĩnh Ký lập Thông loại khóa trình (Miscellannées) là tạp chí tư nhân đầu tiên ở Việt Nam, cũng được xem là báo văn học và học báo đầu tiên tại Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Tạp chí sưu tập nhiều văn thơ, câu đối, câu hò, câu hát dân gian, tục ngữ nhằm cổ vũ phong tục cổ truyền, phổ biến văn hóa dân tộc và lịch sử Việt Nam, có cả thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Tri Phương, Phan Văn Trị… Tạp chí cho thấy tinh thần yêu nước của Petrus ký với nhiều bài viết về các nhân vật lịch sử có tài chống ngoại xâm của Việt Nam, như Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt, Mạc Đĩnh Chi, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản…, kể cả thơ chống Pháp của Bùi Hữu Nghĩa và hịch chống Pháp của Nguyễn Tri Phương.

Con người có tài như thế đến cuối đời lại sống trong cảnh nghèo nàn, thiếu thốn. Ông mất ngày 01 tháng 9 năm 1898, hưởng thọ 62 tuổi, và được an táng tại Chợ Quán, Sài Gòn. Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông) hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc quận 5, Tp. Hồ Chí Minh..

Những năm cuối đời, ông chuyên tâm dạy học và viết sách. Ông góp phần đào tạo cho đất nước hàng ngàn trí thức trẻ và để lại hơn 120 tác phẩm về nhiều chuyên ngành. Ngoài những sách dạy người Pháp và người Việt học tiếng Việt, dạy người Việt học tiếng Pháp, các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký có thể chia ra làm những thể loại sau:

  1. Nghiên cứu về lịch sử, địa lý, sinh học.
  2. Nghiên cứu các bộ môn trong khoa học xã hội: ngôn ngữ, tín ngưỡng, pháp luật, kinh tế, chính trị,.
  3. Biên soạn các tự điển (Tự điển Pháp-Việt, Việt-Pháp, Hán-Việt).
  4. Dịch sách chữ Hán như: Tứ Thư, Tam Tự Kinh, Minh Tâm bửu giám… Nhưng đến khi qua đời mới chỉ xuất bản được hai cuốn là Đại HọcTrung Dung (1889) của bộ Tứ Thư.
  5. Sưu tầm và phiên âm các tác phẩm cổ viết bằng chữ Nôm như Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Gia huấn ca
  6. Sưu tầm: ngay từ năm 1866 Trương Vĩnh Ký đã cho in ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là cuốn Chuyện đời xưa, sau đó là Chuyện khôi hài
  7. Sáng tác thơ văn, bút ký.

Những công trình này có tác dụng khai sáng cho thế hệ trẻ, mở mang sự hiểu biết về thiên nhiên, con người, xã hội.

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố có nhận xét:

Khi xem qua danh mục những tác phẩm của Pétrus Ký, người ta phải ngạc nhiên bởi số lượng và tính đa dạng của chúng.
(Bulletin de I’Enseignement mutuel du Tonkin, Tập 17 ngày 01-6-1943).

Trương Vĩnh Ký đặc biệt quan tâm đến việc bước đầu hoàn thiện và phổ biến chữ quốc ngữ. Ông thấy rõ giá trị, tác dụng lớn lao của công cụ biểu đạt này, nên mạnh dạn đưa nó thoát khỏi bốn bức tường kín của tu viện và đặt nó giữa lòng cuộc sống, trước hết là trường học (Trường thông ngôn Sài Gòn mà ông là Hiệu trưởng) và báo chí (Gia Định báo, tờ báo đầu tiên ở Việt Nam mà ông là chủ bút).

Trương Vĩnh Ký là hội viên các hội Nhân chủng học, Địa lý Paris, Giáo dục Nhân văn và Khoa học… Năm 1874, ông được phong Giáo sư Ngôn ngữ Á Đông.

Trang Wikipedia_Trương Vĩnh Ký tổng hợp một số phê phán Trương Vĩnh Ký về sự hợp tác với Pháp:

Trần Văn Giàu:

Khi mà kẻ xâm lược và kháng chiến đang chọi nhau dữ dội, trên chiến trường thắng–bại chưa ngã ngũ hẳn, khi ấy mà ai đứng hẳn về phe kẻ địch (của dân tộc Việt Nam) thì nhà chép sử nào, dù có rộng xét mấy cũng không thể lấy bất kỳ số sách vở sáng tác hay phiên dịch nào để biện bạch và giảm nhẹ trách nhiệm tinh thần của một người dân nước, nhất là của một “Kẻ Sĩ” [chỉ Trương Vĩnh Ký].

Trần Huy Liệu:

Về phẩm cách cá nhân của một sỹ phu lúc ấy, không phải chỉ nhìn ở sinh hoạt thông thường mà chủ yếu là phải lấy thái độ đối với dân tộc, đối với giặc cướp nước làm tiêu chuẩn. Là người học rộng, Trương không làm tay sai như kiểu Trần Tử Ca, Trần Bá Lộc… mà đóng vai trò mưu sỹ bày cho giặc [Pháp] những thủ đoạn thâm trầm dùng người bản xứ trị người bản xứ, dùng danh nghĩa Nam triều [nhà Nguyễn] để đánh nghĩa quân. Cái học vấn của Trương càng uyên bác bao nhiêu thì tác hại của Trương càng lớn bấy nhiêu.

Nguyên Vũ (2010) trong một tác phẩm dài phân tích và đánh giá Trương Vĩnh Ký:

Trong dòng lịch sử quốc dân, vì lý do nào đi nữa, Petrus Key và số thông ngôn hay quan lại đương thời – cùng những Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Trần Lục, Vũ Văn Báo, Hoàng Cao Khải, Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Thân, Cao Xuân Dục, v.v… – sẽ được xếp hạng chung là hợp tác với Pháp từ buổi đầu. […]

Trường hợp Petrus Key, công trình sáng tác và trước tác khá  đồ sộ, lại có cả sách bằng Pháp ngữ, nhưng chưa ai thực sự kiểm kê và lượng giá toàn bộ công trình của ông. Cần những nhà ngôn ngữ học chuyên nghiệp – không bị ràng buộc bởi mục tiêu chính trị giai đoạn hay lòng yêu ghét cá nhân, và đủ can đảm gạt bỏ thứ lý luận viển vông về những bản thảo không còn lưu truyền – làm việc trong một thời gian trên các tác phẩm còn lại của Petrus Key, mới đủ căn bản để lượng giá. Petrus Key, tôi nghĩ, chỉ là một thông ngôn giỏi và được tin cậy trong thời ông, hơn một nhà ngôn ngữ học.

Riêng tác phẩm khá dày của Petrus Key về “bài giảng sử” bằng Pháp ngữ, khó thể gọi là một công trình sử học. Nó không có được giá trị của những cuốn thông sử như bộ Ðại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát mà Petrus Key sử dụng để viết từ thời Thượng cổ tới nhà Lê, hay Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Ða số chi tiết đều là tin đồn, ngày tháng hỗn loạn. Khoảng thời gian từ nhà Tây Sơn đến vua Tự Ðức – vì sử dụng truyền khẩu sử của các nhà truyền giáo Pháp và trên quan điểm hợp thức hóa tân trào – đầy rẫy sai lầm kỹ thuật cũng như sai lầm có tư tâm, bất chấp sự thực lịch sử.

Về những tựa sách khác, dù phẩm chất của khối tác phẩm này ra sao đi nữa, chúng trực hay gián tiếp là công cụ của kế hoạch xâm lăng văn hóa của Pháp và các nhà truyền giáo. (Là một công chức của chế độ Bảo hộ Pháp, Petrus Key được trả lương để soạn thảo chúng, hay được bảo trợ bằng cách mua sách để sử dụng trong các lớp học). […]

Nhưng cũng cần nhấn mạnh, muốn đánh giá vai trò lịch sử của Petrus Key, phải đặt Petrus Key vào khoảng không thời mà ông ta đang sống, hơn là chỉ sử dụng những khuôn thành kiến, phê bình cứng ngắc chính trị tính của thế hệ chúng ta như xấu và tốt, “ái quốc” hay “Việt gian.”

Ðánh giá về vai trò văn hóa và giáo dục của Petrus Key, cũng cần thật công tâm, lý luận và sử dụng tài liệu một cách khoa học. Việc chữ quốc ngữ [tức quốc âm, theo chữ cái Latin] hiện nay được chấp nhận, không có nghĩa những người sáng chế ra nó, ở dạng thức rất đơn sơ, phải được tôn xưng để “uống nước nhớ nguồn.” Các giáo sĩ Portugal đã chỉ phát minh ra chữ quốc âm hiện nay cho mục đích truyền giáo của họ. […] Thêm nữa, những tác phẩm quốc ngữ đầu tiên của Petrus Key hay “Hùinh Tịnh” Paulus Của v.v… tự bản chất cũng chẳng khác gì những tác phẩm của nhóm Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh v.v… sau này. Họ ăn lương chính phủ Bảo hộ Pháp để soạn thảo, phổ biến, ấn hành, hoặc hoàn tất chúng với mục đích thương mại (bán cho chính phủ Bảo hộ Pháp). Nên cũng thật dễ hiểu khi Petrus Key và nhiều người đương thời đứng trên quan điểm của người Pháp mà nói về “sự bình định xứ Nam Kỳ,” “những nhà bảo hộ mới,” hay “quốc gia mới” (nước Pháp). Nhưng quả thực có vẻ khó nghe khi Petrus Key tảng lờ cuộc kháng chiến chống Pháp hay gọi những lãnh tụ kháng chiến là “rebelles” [phiến loạn] trong các báo cáo bằng Pháp ngữ.

Nói cho cùng lý, Petrus Key và bao người đồng thời khác chỉ là sản phẩm của chế độ thực dân Âu châu nói chung, và trực hoặc gián tiếp là nạn nhân của chính sách thực dân Ki-tô/vật bản của Pháp. Chính vì thế mà mới có những trăn trở cuối đời Petrus Key về “công và tội,” khi thức ngộ được rằng dẫu có “đưa cả hai tay ra mà nắm lấy người Pháp” thì mình vẫn chỉ là một thứ “người bản xứ được khai hóa” để phục vụ quyền lợi Pháp và Hội truyền giáo. Bài học “người bản xứ được khai hóa,” “văn minh hóa” hay “Pháp hóa” này quốc dân Việt sẽ còn phải suy gẫm suốt thế kỷ XXI, nếu không phải lâu hơn.

Ghi chú: Nguyên Vũ (2010) cho rằng tài liệu do ông phát hiện cho thấy năm 1859, người mà chúng ta sau này biết là Trương Vĩnh Ký tự xưng, được đặt hay tự đặt cho mình tên “Petrus Key,” Cho tới năm 1863, tài liệu Soái phủ Pháp vẫn ghi “Petrus Key,” trong khi phần Hán tự ghi thêm là Trương Vĩnh Ký.

Một trong ba trường trung học nổi tiếng từ thời Pháp mang tên Pétrus Ký, sau năm 1975 mang tên mới là Lê Hồng Phong

Có một số trường khác mang tên ông:

  • Trường trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký ở quê nhà Chợ Lách, Bến Tre
  • Trường tiểu học dân lập Trương Vĩnh Ký ở Gia Lai, do các sư huynh dòng La San được phép mở trường.
  • Trường tư thục trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Đakmil, Đắk Nông.
  • Trường ngoài công lập trung–tiểu học Pétrus Ký ở Thành phố Thủ Dầu Một, Bình Dương.
  • Trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký ở Phường 5, Quận 11, Tp HCM.

Năm 1927, có lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất trên đường Norodom (nay là đường Lê Duẩn). Tượng do nhà yêu nước Trần Chánh Chiếu quyên góp khắp Nam Kỳ lục tỉnh để xây dựng. Sau năm 1975, tượng bị tháo dỡ và chuyển về Bảo tàng Mỹ thuật Tp HCM.

Một số nhận định tích cực về Trương Vĩnh Ký như sau.

Nhà văn Sơn Nam:

Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch… Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa [Pháp] biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam…

Giáo sư Thanh Lãng:

Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn… Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là ‘cách nói tiếng An Nam ròng’ và viết ‘trơn tuột như lời nói’. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.

Nhà nghiên cứu Lê Thanh:

Từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.

Cổng Thông tin Điện tử Bến Tre:

Ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực văn hóa, ngoại trừ 8 tháng hoạt động ở Viện Cơ mật của triều đình Huế và 8 tháng làm phiên dịch trong phái đoàn Việt Nam sang Pháp. Hiển nhiên, Trương Vĩnh Ký đã có những sai lầm về chính trị, mặc dù hoạt động chính trị của ông rất ngắn ngủi so với hoạt động văn hóa. Tuy vậy không vì thế mà ta phủ nhận toàn bộ những cống hiến của ông đối với văn hóa dân tộc. Đáng chú ý nhất là sự đóng góp vào sự phát triển và phổ cập chữ quốc ngữ ở giai đoạn ban đầu, vào lịch sử phát triển báo chí cũng như trong lĩnh vực văn học và ngôn ngữ học…

. . .

Để tưởng nhớ đến ông, nhân dân Bến Tre lập nhà bia nơi quê hương để thờ cúng, làm nơi học tập, nghiên cứu cho nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nhà bia được xây dựng đơn sơ năm 1938 ở Âp Vĩnh Bắc, Xã Vĩnh Thành, Huyện Chợ Lách, Bến Tre (gần rạch Cái Mơn) giữa khu vườn xum xuê cây trái. Nhà bia có hình tứ giác, chóp hình tháp với 16 trụ cột, không tường, nền tráng xi măng, bên trong chỉ có bia bằng đá xanh cao khoảng 2,5m phía trên cùng của bia là cây thánh giá. Mặt trước bia được viết bằng 3 ngôn ngữ: Pháp, Hán và Việt, mặt sau được viết bằng tiếng Pháp.

… Ngoài ra ông được xem là người có công với nghề làm vườn ở Cái Mơn. Các giống cây ăn trái như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, bòn bon đều do ông đem từ Pinang mỗi khi bãi trường về thăm nhà.

* Về quyển sách Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ

Quyển sách Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ do Nguyễn Đình Đầu chủ biên, Nhã Nam và Tri thức xuất bản năm 2016. Sách được Cục Xuất bản cấp giấy phép với đầy đủ các thủ tục giấy tờ và đã qua thời hạn lưu chiểu theo luật định đủ một tháng rưỡi, tức được phép lưu hành. Sách được dự trù ra mắt tại Đường Sách Sài Gòn vào sáng Chủ nhật 8/1/2017. Thế nhưng buổi ra mắt sách này đã bị hủy theo “một chỉ thị miệng” và báo chí được tin nhận cảnh báo không đưa tin về cuốn sách này.

Cuốn sách của Nguyễn Đình Đầu, Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ là một công trình tổng hợp phong phú về con người, cuộc đời, sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký và đặc biệt các các sách, báo nghiên cứu, phê bình Trương Vĩnh Ký kể cả khen và chê, đều được sắp xếp theo một trình tự thời gian để người đọc tiện theo dõi. Đây là một công trình tổng hợp cung cấp một hệ thống tư liệu với nhiều góc nhìn khác nhau, cho tất cả các nhà khoa học trên mọi lĩnh vực muốn nghiên cứu sâu về nhà bác học Trương Vĩnh Ký.

Trích lời giới thiệu của Phan Huy Lê ở đầu quyển sách:

Trong lịch sử Việt Nam, việc bình luận, đánh giá không ít nhân vật lịch sử thường bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử như vậy. Nhưng xu hướng chung vẫn là sự thắng thế của kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc, khách quan và thái độ công minh trước lịch sử. Petrus Ký cũng trải qua nhiều sóng gió của khen–chê, tôn vinh–phê phán, nhưng cuối cùng xu thế khách quan, trung thực vẫn chi phối.

* Phản ứng bác bỏ

Một trong những phản ứng bác bỏ là của Bùi Kha (2017). Theo ông,

Dẫu ai cố tình tô son điểm phấn cho ông Trương Vĩnh Ký thì cũng khó lòng tẩy xóa ba trong số các tội (có chứng cứ trong bài nầy) phục vụ cho thực dân Pháp và làm hại cho Tổ quốc Việt Nam…

Tội thứ nhất: Viết thư tay (tháng 3.1859) kêu gọi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta.

Tội thứ hai: Trong bài Tường trình chuyến Thực dân Pháp sai đi Bắc, (Ất Hợi, 1876)  chính họ Trương đã cố vấn cho Pháp nên lèo lái triều đình bù nhìn vua Đồng Khánh như thế nào, và tại sao nên đánh chiếm Bắc Kỳ sớm.

Tội thứ ba: Chính Trương Vĩnh Ký (ngày 12.1.1882) cho biết, ông soạn và xuất bản “các tác phẩm là nhằm mục đích giúp Pháp biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam”.

[…]

Kết luận: Với những chứng cớ quá rõ ràng qua các văn thư do chính Trương Vĩnh Ký và các viên chức cao cấp thực dân Pháp viết, chúng ta có thể kết luận dứt khoát rằng Trương Vĩnh Ký là một người phản bội tổ quốc. Ông không có một mảy may công lao nào đối với dân tộc, ngược lại, ông hoàn toàn là kẻ có tội. […]

Tóm lại, đã có rất nhiều đánh giá đối nghịch nhau về Trương Vĩnh Ký. Đặc biệt, từ thập niên 1960, tại miền Bắc công khai dùng từ ngữ xúc phạm nặng nề như “Việt gian” hay “tay sai đắc lực cho thực dân Pháp” để lên án ông. Về điểm này, Nguyên Vũ (2010) nhận xét:

[…] tôi hiểu rằng với các sử quan Cộng sản, nghiên cứu sử học thường chỉ nhằm phục vụ mục tiêu chính trị giai đoạn của Ðảng Cộng sản và Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Những kết luận lớn và nhỏ của các sử quan (chưa hẳn đã là sử gia) trong nước, bởi thế, chẳng nên bận tâm. Vì chúng sẽ được thay đổi hay bỏ quên khi cần. Chỉ so sánh những tài liệu sử quan Cộng sản viết về Trung Quốc trong thập niên 1950 và 1960, với những gì họ công bố từ năm 1980 tới 1990, rồi những gì họ đang viết vào đầu thế kỷ XXI (và ngược lại) đủ hiểu thân phận và nỗi buồn của người nghiên cứu còn đôi chút lương thiện trí thức tại quốc nội. Nói cách khác, kết luận của những buổi hội thảo về Petrus Key ra sao đi nữa chẳng đóng góp gì nhiều cho kiến thức sử học.

Tâm sự của Trương Vĩnh Ký thường được ông bày tỏ nhiều lần qua ngạn ngữ “Sic vos non vobis”, mà nhiều người hiểu là là “Ở với họ mà không theo họ”, tương tự như ngạn ngữ của người Tàu: “Thân ở doanh Tào, lòng ở Hán”. Theo Winston Phan Đào Nguyên (2017), Pétrus Ký dùng một nghĩa khác của ngạn ngữ là “Làm điều lợi cho người khác chứ không cho chính mình.” Tác giả trình bày triết lý sống của Pétrus Ký là mỗi người phải làm tròn vai trò hay số phần trong đời để làm cho xã hội của mình tốt đẹp hơn.

Thay lời kết, theo Nguyễn Vy Khanh (2000):

Trương Vĩnh Ký cả cuộc đời làm báo, soạn sách, để lại khoảng hơn trăm tác phẩm lớn nhỏ. Ông làm những việc đó toàn thời gian cả cuộc đời trong khi ông lãnh lương của Pháp khoảng 20 năm. Về chính trị ông đã cô đơn; nhưng ông làm với lòng yêu nước, muốn nước được hùng mạnh, dân tộc được trường tồn. Mặt khác, lúc bấy giờ thực dân Pháp muốn sử dụng chữ quốc ngữ như là công cụ, phương tiện đô hộ; nhưng ông cũng như Huình Tịnh Paulus Của và các vị tiền bối khác lại tận dụng kẻ hở đó để gây dựng một nền văn học hiện đại. Đi xa hơn trong thái độ tìm hiểu tiền nhân đã làm gì trong những hoàn cảnh đặc biệt thì tốt, nhưng nếu phê bình gay gắt họ, thì ai sẽ phê phán những cá nhân và tập thể đã nhận viện trợ hoặc chịu áp lực của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên Xô, Pháp để đè nén nhân dân, gây chiến tranh chống những đế quốc nghịch thù qua anh em mình hoặc để làm những việc gọi là “làm mới” văn học? Và thế nào là yêu nước? Lịch sử sẽ luận xét sự “yêu nước” của tất cả, từ những vị Cần vương, các nhà nho Văn thân tổ chức chống Pháp, chống chữ quốc ngữ, từ những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ… tích cực xông xáo với khả năng và cơ hội; Trần Chánh Chiếu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… chủ trương minh tân và duy tân; đến các nhà cựu học Đông Kinh Nghĩa thục chủ trương dùng chữ quốc ngữ; hoặc Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v.v.!

Nguồn: Bùi Kha (2017), Hồ Tường (2016), Nguyên Vũ (2010), Nguyễn Vy Khanh (2000), Trần Đình Ba (no date), Trần Ngọc Thạch (1999), Wikipedia_Trương Vĩnh Ký, Winston Phan Đào Nguyên (2017).

Trướng hùm: Do chữ “Hổ trướng” (Màn da hổ) chỉ nơi làm việc của tướng soái.

Nam Ðường Thư: Từ Tri Ngọc khi trấn đất Nhuận Châu thường lên chơi núi Mạt Sơn, dọn đất thành bãi bằng, kết da hổ làm màn che rồi cùng các tướng liêu thuộc họp ở dưới, gọi là Hổ trướng.

Thơ Vương Kiên: Hổ trướng trường khai tự giáo binh (Màn hùm mở mãi để dạy quân lính).

trướng huỳnh: Màn có ánh sáng đom đóm, chỉ phòng sách. Tấn thư: Xa Dận thuở nhỏ rất chăm học, nhà nghèo thường không có dầu thắp, mùa hè phải bắt đom đóm cho vào một cái túi đẩ lấy ánh sáng đọc sách.

Trường An: cũng được gọi là Tây Kinh, kinh đô thời Hán, Đường, nằm ở bờ phía Nam Sông Vị. Thời Hậu Hán, Đổng Trác bức vua từ Lạc Dương dời về Trường An.

Trường Bình: Liêm Pha đóng quân ở Trường Bình, cố thủ không ra đánh. Triệu Vương cho Triệu Quát đến thay. Quát đổi luật lệnh, dùng người dễ dãi, mở cửa thành đánh Tần, trúng kế kỳ binh của Vũ Anh Quân bị đại bại. Hơn 40 vạn quân Triệu đều hàng Tần, bị Vũ Anh Quân lừa giết chết hết. Trận Trường Bình là một trong những trận chiến trong lịch sử Trung Quốc có số thương vong cao nhất.

Trường Cát: tên tự của Lý Hạ, làm văn rất lanh, đặt bút là thành. Một hôm thấy một người cầm cái thẻ chữ viết theo lối chữ triện cổ đến bảo Thượng đế mới làm xong Lầu Bạch ngọc vời thầy lên làm cho bài ký. Không bao lâu thì Hạ chết. Từ đấy, khi nói về văn nhân mất sớm người ta thường dùng chữ Ngọc Lâu phó triệu.

Trường Giang: con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lưu lượng, diện tích lưu vực và ảnh hưởng kinh tế.

Trường Giang phát nguyên từ cao nguyên Tỉnh Thanh Hải (Qinghai), chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới Cao nguyên Tây Tạng (Xicang) vào địa phận Vân Nam (Yunnan), sau đó quặt sang hướng đông-bắc vào Tứ Xuyên (Sichuan), qua Hồ Bắc (Hubei), Giang Tây (Jiangxi), An Huy (Anhui) và Giang Tô (Jiangsu) rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Ðông Hải. Người Trung Quốc gọi chung toàn bộ dòng sông là Trường Giang. Trong các sách cổ, người ta cũng quen gọi là Ðại Giang.

Tùy theo các địa phương chảy qua, con sông này mang nhiều tên khác nữa. Ðoạn thượng nguồn ở Tỉnh Thanh Hải được gọi là Thông Thiên Hà (Tongtian). Ðoạn từ Thanh Hải chảy vào Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa Giang (Jinsha). Ðoạn từ Thị trấn Nghi Tân (Yibin) đến Nghi Xương (Yichang) được gọi là Xuyên Giang. Ðoạn chảy ở gần Giang Lăng (Jiangling) Tỉnh Hồ Bắc (xưa là đất Kinh Châu) còn được gọi là Kinh Giang. Cuối cùng, khi chảy qua đất Dương Châu (Yazhou) Tỉnh Giang Tô nó được gọi là Dương Tử Giang. Ngày xưa các thương gia người Âu, khi vào Trung Quốc, tiếp xúc với thương cảng ở gần cửa sông, làm quen với tên Sông Dương Tử, nên đã gán toàn bộ dòng sông này tên là Yang Tse Kiang.

Trường Giang có nhiều phụ lưu (nhánh sông phụ thuộc đổ vào). Bên trái thì có Nhã Lung Giang, Ðà Giang, Manh Giang, Gia Lăng Giang và Hán Thủy, bên phải thì có Ô Giang, Nguyên Giang, và Cảm Giang.

Ðoạn thượng lưu được giới hạn từ thượng nguồn đến thị trấn Nghi Tân dài 2,918 km, chảy trên Cao nguyên Thanh Hải với độ cao 4000m, rồi đổi hướng đông-bắc chảy đến Nghi Tân, nơi đây bắt đầu gọi là Kim Sa Giang.

Ðoạn trung lưu từ Thị trấn Nghi Tân (chỗ hội lưu của Manh Giang và Kim Sa Giang) thuộc Tứ Xuyên đến Thị trấn Nghi Xương ở tây-nam Hồ Bắc, dài 1,032 km.

Từ Nghi Tân, trở đi con sông nhận thêm phụ lưu Ðà Giang tại Lô Châu và Gia Lăng Giang tại Trùng Khánh.

Từ Thị trấn Phụng Tiết (Fengjie) đến Thị trấn Nghi Xương (Yichang) dài 200 km, sông chảy xuyên qua một vùng núi đá vôi giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Hồ Bắc, tạo nên các hẻm vực sâu tới 500 m. Ðây là vùng Tam Hiệp có phong cảnh rất đẹp, cũng là nơi Trung Quốc xây công trình thủy lợi lớn: Ðập Tam Hiệp.

Ðoạn hạ lưu từ Thị trấn Nghi Xương đến Thị trấn Trấn Giang thuộc Giang Tô dài 1,520 km. Ðoạn này lòng sông chảy trên địa hình bằng phẳng. Từ Nghi Xương đến Vũ Hán (Wuhan) theo đường chim bay chỉ có 286 km, nhưng vì dòng sông có nhiều uốn khúc nên dài tới 712 km. Dòng sông cũng tiếp nhận nhiều phụ lưu, nên có nhiều hồ hình thành. Hai hồ lớn và nổi tiếng nhất là Ðộng Ðình Hồ (Dong Ting) và Phiên Dương Hồ (Po Yang).

Từ Trấn Giang ra đến cửa sông là khu vực châu thổ của Trường Giang, mà người ta thường gọi là Sông Dương Tử. Ra gần tới cửa biển bên trái của dòng sông thì có con sông đào lớn nhất là Ðại Vận Hà, rồi Sông Dương Tử chia làm hai nhánh lớn. Thành phố Thượng Hải nằm ở bờ sông nhánh Nam. Ðại Vận Hà là một con sông đào vĩ dại nối liền hai con sông lớn nhất của Trung Hoa là Dương Tử và Hoàng Hà, sông đào này chảy từ bắc xuống nam. Sông đào này đã có từ thời Xuân Thu (thế kỷ thứ 5 tCN) được tiếp tục tu bổ và đào thêm vào các triều đại sau như nhà Tùy (600), nhà Tống (thế kỷ 10) nhà Nguyên (thế kỷ thứ 12) v…v…

Dọc Trường Giang ngày xưa gần như là biên giới phân tranh của ba nước: Thục (kinh đô là Thành Ðô), Ngụy (kinh đô là Trường An) và Ngô (kinh đô là Giang Tả).

Trường hận ca: có nghĩa “Hận tình muôn thuở”, là tựa bài thơ của Bạch Cư Dị nói về mối tình giữa Đường Huyền Tông và Dương Quý phi.

Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, sau này hay gọi là Đường Minh Hoàng, nhà vua thứ chín đời nhà Đường (618-907), lúc thiếu thời là người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà Vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quý phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý phi), Lý Lâm Phủ,… nên quốc chính ngày càng suy tệ.

Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, là người rất thông minh, được nhà Vua tin mến. Nhất là đối với Quý phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quý phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà Vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận.

Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quân Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, nhà Vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục.

Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau giết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức nhà Vua phải đem thắt cổ con người ngọc thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quý phi là mầm sinh đại loạn. Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà Vua đành giấu mặt, cắt lòng mà “hy sinh người yêu khuynh quốc”.

Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng.

Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót.

Bạch Cư Dị đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi. Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, Bạch Cư Dị để lòng cảm xúc bằng bài Trường hận ca.

Trường hận ca – Bạch Cư Dị (trích đoạn Yã Hạc Trịnh Nguyên dịch thơ):

[…]

Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt
Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào
Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn
Từ đấy nhà Vua nhãng thị trào.

Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt
Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình
Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối
Sủng ái từ đây hầu thánh chúa.

[…]

Sớm tối ca êm hòa múa dịu
Não nùng tơ trúc đắm quân vương
Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy
Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan.

Thành khuyết xôn xao mù khói bụi
Xe rồng rong ruổi hướng tây nam
Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất
Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh.

Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến
Mày ngài trước ngựa phải hy sinh!
Hoa tai bỏ đất, không người nhặt
Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi.

Đứt ruột quân vương đành giấu mặt
Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi
Bụi vàng tản mác đìu hiu gió
Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài.

Chân núi Nga Mi buồn bã vắng
Tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc
Sớm tối nhà Vua trĩu nhớ nhung.

Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm
Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng
Trời xoay đất chuyển quày long ngự
Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ.

Mặt ngọc giờ đâu? trơ tử địa
Mã Ngôi ảm đạm đất bùn nhơ
Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo
Kinh khuyết vời trông tế ngựa về

[…]

Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện
Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền:
“Trên trời nguyện hóa chim liền cánh
Dưới đất làm cây nhánh dính liền”.

Trời đất lâu bền rồi sẽ tận
Hận này muôn thuở vẫn miên miên.

Trường môn phú: tựa bài phú nổi tiếng của Tư Mã Tương Như, người thời Tiền Hán (206 tCN-8), người đa tài, văn hay, đàn giỏi, nổi tiếng nhất về phú.

Nguyên Trần Hoàng hậu vốn được Hán Vũ Đế sủng ái, nhưng sau khi có người đẹp Vệ Tử Phu, bà hay ghen nên bị vua đưa ra Cung Trường Môn. Sống lẻ loi trong thâm cung, nàng lấy làm đau đớn cho thân phận. Nghe nói Tư Mã Tương Như là người giỏi thơ phú nên bà mang trăm lượng vàng nhờ ông viết một bài phú để dâng vua. Tương Như bằng lòng.

Trường Môn phú – Tư Mã Tương Như, Điệp luyến hoa dịch:

Có một nàng giai nhân chừ, bồi hồi đi lại mãi thôi
Hồn vảng vất mà không về chừ, vóc hình khô héo đơn côi
Từng hứa sớm đi mà tối lại chừ, vui yến tiệc mà quên nhau
Lòng đoạn tuyệt mà chẳng đoái hoài chừ, cùng ai hợp ý tâm đầu.

Thiếp nhớ nhung mà âu sầu chừ, vẫn giữ một mối thành tâm
Chờ chiếu cố mà tiếp kiến chừ, được lời ngọc mà chịu vâng
Nghe tiếng hư mà tưởng thực chừ, ở ly cung tại Thành Nam
Bữa đạm bạc mà tự soạn chừ, nhưng người từng chẳng muốn giá lâm.

Chỉ một mình mà trầm tư chừ, trời nổi gió mà ầm ầm
Lên đài lan mà trông xa chừ, chỉ thất vọng mà bần thần
Mây bốn phía mà che khuất chừ, trời âm u mà xa xăm
Nghe sấm dậy mà râm ran chừ, ngỡ tiếng người ra thăm.

[…]

Ngóng trong sân ảm đạm chừ, tựa tiết thu phủ dày sương
Đêm đằng đẵng như năm dài chừ, nhớ bứt rứt mà chẳng thể nguôi lòng
Hết đi rồi đứng đợi sáng chừ, bình minh dần toả bừng bừng
Thần thiếp trộm buồn tủi chừ, đến già chẳng dám quên quân vương.

Xem qua bài phú, nhà Vua cảm động, nghĩ ngợi, xót thương nên đem nàng về phục ngôi hoàng hậu.

Cung Trường Môn do Hán Cao Tổ cho xây, sau còn có tên là Trường Tín hay Trường Lạc. Đời Hán Thành Đế cũng có Ban tiệp dư bị thất sủng vì chị em Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức dèm pha mà cũng bị đưa ra đây.

Nhị độ mai:

Phú Tương Như dễ mấy vàng chuốc nên!

Trường môn phú được xem là một trong những bài phú hay nhất trong văn học Trung Quốc.

Xem thêm mục: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

Trường tương tư: tựa bài thơ ngũ tuyệt của Ý Nương đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý (905-955).

Xem mục: Sông Tương.

Tung hoành gia: một học phái về thuật ngoại giao trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhất hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân thu Chiến Quốc ở Trung Hoa:

  1. Nho gia
  2. Pháp gia
  3. Tung hoành gia
  4. Đạo gia
  5. Binh gia
  6. Tạp gia
  7. Âm dương gia
  8. Mặc gia
  9. Nông gia

Nguyên khi nhà Chu suy vi, các bộ tộc chung quanh thường xâm lấn bờ cõi. Vua U Vương nhà Chu say đắm nàng Bao Tự, bị rợ Tây Nhung đánh bại giết chết. Con là Nghi Cửu lên ngôi tức Chu Bình Vương, sợ quân Tây Nhung đánh phá nữa nên dời đô sang Lạc Ấp (Tỉnh Hà Nam ngày nay) lập thành nhà Đông Chu.

Nhà Đông Chu bấy giờ suy nhược quá. Các chư hầu không phục tùng nữa, tự do, phóng túng, người xưng công, kể xưng bá, tranh giành đất đai, khuynh loát lẫn nhau làm thiên hạ rất nhiễu nhương.

Đời nhà Chu, Trung Quốc có hàng ngàn nước chư hầu. Đến đời Xuân Thu (722-481 tCN), những nước này tranh đánh nhau chỉ còn độ một trăm. Có mấy nước mạnh là Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống. Nhà Chu tuy suy nhưng các chư hầu vẫn chưa nỡ hoặc dám bỏ hẳn. Người nào cũng muốn mượn danh nghĩa tôn phò nhà Chu để hủy diệt đối phương và tự suy tôn làm minh chủ (gọi là Bá).

Có 5 chư hầu nối tiếp nhau làm minh chủ gọi là Ngũ Bá. Đó là những người đứng đầu trong việc đồng minh, ăn thề để đoàn kết nhau và suy tôn nhà Chu. Ngũ bá là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công, Tần Mục Công. Vì tranh giành địa vị, thôn tính đất đai nên tất cả chư hầu lớn nhỏ gây thành những cuộc binh đao dữ dội, chưa từng thấy trong lịch sử Trung Hoa.

Đến đời Chiến Quốc (481-221 tCN) lại có 7 nước mạnh gọi là Thất hùng: Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên. Cuộc chiến tranh càng kéo dài dữ dội. Nay Tần thân với Sở, thì mai đã có thể coi Sở là kẻ thù; Tề ngoài mặt thân với Triệu nhưng vẫn có thể giao thiệp bí mật với Tấn chẳng hạn để diệt Triệu, v.v…

Trong thời đại này, những người có chút học vấn vì xã hội loạn ly, họ không đứng vững được trên đường thực nghiệp theo khoa hoạn của mình, nên phải phiêu lưu tù nước này sang nước khác để tìm áo cơm hay địa vị khanh tướng công hầu. Ngoài những người học rộng trên thấu thiên văn, dưới đạt địa lý còn có những người có tài biện luận, ngôn ngữ giảo hoạt…

“Tung hoành gia” là một học phái trong Cửu lưu gồm những hạng sĩ xuất thân, có tài biện luận đi du thuyết các nước để chiến hay hòa. Người được tôn sùng trong phái này là Tô Tần và Trương Nghi. Tô Tần chủ trương thuyết “Hợp tung”. Trương Nghi chủ trương thuyết “Liên hoành”. Cả hai đem thuyết của mình chu du khắp các nước, thuyết minh với các vua chúa chư hầu. Hai thuyết này mạnh nhất đời Chiến Quốc nên được lấy làm tên cho học phái.

Tô Tần và Trương Nghi đều là học trò của Quỷ Cốc tiên sinh. Tô Tần người ở Lạc Dương đi du thuyết 6 nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở hợp nhau lại chống đánh nước Tần là nước mạnh nhất. Chiều dọc là “Tung”. Đất 6 nước đều ở theo một chiều từ bắc đến nam tại phía đông; đối với Tần ở phía tây, có một mình nên dùng danh từ “Hợp tung” để chỉ sự liên minh các nước. Tô Tần được vua Triệu phong làm Tung ước chưởng và cầm ấn Tướng quốc của 6 nước.

Trương Nghi người nước Ngụy, chủ trương trái lại thuyết của Tô Tần. Sau khi Tô Tần chết, tung ước 6 nước tan rã, Trương Nghi làm tướng nước Tần đi du thuyết 6 nước phò tá Tần. “Hoành” là chiều ngang từ tây sang đông. Đất Tần ở về phía tây. Sáu nước ở về phía đông, không phải liên kết để chống Tần mà để hàng Tần, nên gọi là “Liên hoành”.

tuổi hạc: tuổi thọ, vì tương truyền chim hạc sống lâu đến nghìn năm. Sớ Kinh Thi của Lục ngô (Tam Quốc, Ngô) ghi: “Chim hạc sống lâu nghìn năm”.

tuyền đài: tức âm phủ. Xem cửu tuyền.

Tuyệt anh hội: tiệc rượu “Bứt đứt dải mũ”. Theo Đông Chu liệt quốc, sau khi thắng trận, Sở Trang Vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là “Thái bình yến”. Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự. Khi mặt trời gần lặn, tiệc rượu còn đang vui say, Sở Trang Vương truyền đốt đèn lên, lại cho một nàng hầu yêu tuyệt đẹp là Hứa Cơ đi mời khắp quan triều thần, mỗi người một chén rượu.

Được mỹ nhân chuốc rượu, các quan lấy làm vui vẻ thích thú đều đứng dậy đón lấy rượu uống. Bỗng có một ngọn gió to, bao nhiêu nến thắp ở trên điện tắt phụp cả. Điện tối mò. Bọn nội thị còn đang loay hoay đi châm lửa chưa đến. Trong hàng quan đại phu có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp, nhân lúc tối tăm, đưa tay nắm lấy vạt áo của nàng. Hứa Cơ tay trái giằng vạt áo, tay mặt chụp được dải mũ của người ấy. Dải mũ đứt, người ấy sợ lắm vội buông tay ra.

Hứa Cơ lấy được dải mũ, rón rén đến trước Sở Trang Vương, ghé tâu nhỏ: “Thiếp vâng mệnh đại vương ra mời các quan uống rượu, thế mà có người vô lễ dám nhân lúc tắt đèn, nắm lấy vạt áo thiếp. Nay thiếp đã bứt được cái dải mũ của người ấy, vậy xin đại vương giục thắp nến mà xét xem.”

Nhưng Sở Trang Vương nghĩ: “Cho người ta uống rượu để say đến quên cả lễ phép, lại vì câu chuyện đàn bà làm sỉ nhục người ta, thì lòng nào nỡ thế!” Bèn truyền cho bọn nội thị chớ thắp nến vội, đoạn bảo các triều thần: “Ngày nay ta bày tiệc mong cùng các quan mua vui. Vậy các ngươi nên bứt đứt dải mũ cả đi, rồi cùng ta uống rượu thật say. Nếu ai không bứt đứt dải mũ thì chưa được vui lắm.”

Nghe lệnh dạy, tất cả triều thần đều bứt đứt dải mũ của mình. Bấy giờ Sở Trang Vương mới cho thắp đèn lại. Thành ra không ai biết người nào làm ẩu, níu lấy vạt áo mỹ nhân cả. Nhờ vậy mà suốt buổi tiệc được vui vầy.

Tiệc xong trở về cung, Hứa Cơ tâu với Sở Trang Vương: “Thiếp nghe nói nam nữ phải có sự phân biệt, huống chi là vua tôi. Đại vương sai thiếp mời các quan uống rượu là để tỏ lòng mến, nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà đại vương không trị tội, thì còn ra thể thống gì nữa!”

Sở Trang Vương cười, bảo: “Ta bày tiệc rượu này là muốn các quan đều được cùng vui. Rượu say sinh ra chớt nhã chẳng qua là lẽ thường tình. Nếu ta trị tội một người mà làm cho các quan không được vui thì ta không muốn.”

Hứa Cơ nghe nói, phục là người có lượng.

Thời gian sau, Sở Trang Vương đem quân đánh nước Trịnh, có một viên phó tướng tên Đường Giao xin đem 100 thủ hạ đi mở đường.

Đường Giao cố sức xông pha. Quân nước Trịnh không ai đương nổi. Vì thế, đại binh của Sở Trang Vương tiến thẳng đến địa giới của nước Trịnh một cách mau lẹ. Sở Trang Vương thấy quân tiền bộ đi được nhanh chóng như thế, mới triệu Đường Giao đến, toan trọng thưởng.

Đường Giao thưa: “Tôi chịu ơn đại vương to lắm. Ngày nay gọi chút báo đền, có đâu lại dám lĩnh thưởng.”

Sở Trang Vương ngạc nhiên, hỏi: “Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo là chịu ơn ta?”

Đường Giao thưa: “Trong tiệc rượu có người nắm áo Hứa Cơ và bị đứt dải mũ, tức là tôi đó. Đại vương rộng lượng tha, không giết mà còn tìm cách làm tôi không phải bị nhục, vậy tôi phải cố sức báo đền.”

Sở Trang Vương truyền ghi công ấy để về sau phong thưởng. Nhưng Đường Giao nói với bằng hữu: “Tội ta đáng chết mà đại vương không giết, vậy ta nên cố sức báo đền. Nay đã nói rõ sự thực rồi, chẳng lẽ ta là người có tội mà còn chờ đợi phong thưởng hay sao?”

Ngay đêm hôm ấy, Đường Giao bỏ trốn, không biết đi đâu mất.

Sở Trang Vương nghe nói khen rằng: “Ðường Giao thật là một người giỏi!”

Về sau này, tiệc rượu “Bứt đứt dải mũ” còn được gọi là “Tuyệt anh hội” có ý chỉ tấm lòng đại lượng của bề trên đối với kẻ bề dưới. Và lòng đại lượng ấy bao giờ cũng đem đến một kết quả tốt đẹp.

tuyệt diệu hảo từ: có nghĩa lời hay tuyệt diệu, do Thái Ung hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần khi ông này viết văn bia cho Tào Nga.

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Nghe Lưu Bị sắp thân chinh vào lấy Hán Trung, Tào Tháo thân chinh dẫn quân đi đánh Bị. Ra đến cửa ải Đồng Quan, Tháo ngồi trên ngựa trông mé xa xa thấy có một rặng rừng, cây cối um tùm, mới hỏi tả hữu rằng: “Đây là xứ nào đó?” Tả hữu bẩm: “Đây gọi là Lam Điền. Trong đám rừng này, có nhà Sái Ung ở đó. Hiện nay có con gái Sái Ung tên là Sái Diệm (còn được gọi là Thái Diễm) cùng với chồng là Đổng Kỷ ở nơi ấy.”

Nguyên Tháo vốn quen nhau với Sái Ung. Hôm ấy, đi qua nhà, lại nhớ đến Sái Ung, Tháo mới cho quân mã đi trước, còn Tháo thì dẫn hơn trăm kỵ vào chơi. Bấy giờ Đổng Kỷ đi xa làm quan, chỉ có vợ ở nhà. Sái Diệm nghe tin Tào Tháo đến, vội vàng ra nghênh tiếp vào trong nhà. Diệm lạy xong, đứng hầu bên cạnh.

Tháo nhác trông lên tường, thấy một cuốn văn bia ở treo ở đó, Tháo hỏi văn gì thì Sái Diệm thưa: “Đây là bài văn bịa thuật chuyện nàng Tào Nga. Xưa kia, đời Vua Hoàng Đế, ở làng Thượng Ngu có một người đồng bóng, tên là Tào Vu, thường hay múa may lên đồng. Hôm mồng năm tháng năm, Vu say rượu múa ở trên thuyền, chẳng may ngã xuống sông chết đuối. Con gái người ấy tên là Tào Nga, bấy giờ mới có mười bốn tuổi, đi quanh bờ sông kêu khóc bảy đêm ngày, rồi cũng nhảy xuống sông để tìm cha. Được năm hôm, nàng ấy đội thây cha nổi lên trên mặt nước. Người xứ ấy vớt lên táng ở trên bờ sông. Quan huyện ở đó tên là Độ Thượng tâu việc ấy lên triều đình khen là con gái có hiếu, sai Hàm Đan Thuần làm văn khắc vào bia để ghi việc đó. Thuần bấy giờ mới mười ba tuổi, thảo một mạch bài văn bia, câu nào cũng hay, không ai chữa được một chữ, dựng ở cạnh mả. Tiếng văn hay dồn đậy xa gần. Cha thiếp nghe tin cũng đi xem, đến nơi thì trời tối, mới lấy tay sờ vào từng chữ mà xem. Xem xong, lấy bút viết tám chữ to vào đằng sau bia, người sau nhân thể khắc cả tám chữ ấy.”

Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu.

Tháo hỏi Diễm: “Nàng có biết ý tám chữ ấy là thế nào không?”

Nàng thưa: “Tâu đại vương, tám chữ ấy tuy là cha thiếp để lại, nhưng thiếp thực là không biết ý ra làm sao.”

Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng: “Tôi hiểu ra rồi.”

Tu giải: “Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. Hoàng quyến là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ ti với chữ sắc hợp lại thành chữ tuyệt. Ấu phụ nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là thiếu nữ. Chữ thiếu đứng bên chữ nữ hợp thành chữ diệu. Ngoại tôn là cháu ngoại, tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ nữ chắp với chữ tử thành chữ hảo. Tê cửu là cái cối giã hành tỏi, vật chịu cay (thụ tân). Chữ thụ đặt bên chữ tân thành chữ từ. Tóm lại, đó là ẩn chữ tuyệt diệu hảo từ, nghĩa là “Lời lẽ hay tuyệt diệu.”

Mọi người đều khen Dương Tu có tài nhận thức nhanh.

Xem thêm: Thái Diễm.

tù Sở nón Nam: điển tích về Chung Nghi, là một viên quan của nước Sở bị Tấn bắt làm tù binh. Nơi đất Tấn ông chỉ đội mũ của quê hương (Nam quan), được Vua Tấn quý trọng là người có khí tiết nên tha cho về. Thành ngữ “tù Sở nón Nam” chỉ người giữ được khí tiết dẫu gặp hoàn cảnh khốn cùng.

Tùng Tuyết đạo nhân: tức Triệu Mạnh Phủ, người Tống, có tài viết chữ rất đẹp, có thiếp của ông truyền ở đời.

Tư Không Thự (720-790): tự Văn Minh, người Quảng Bình (nay thuộc Tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), thi nhân đời Đường, là một trong Đại Lịch thập tài tử. Ông có họ hàng gần với Lư Luân (cũng là một trong Đại Lịch thập tài tử).

Hoa Tiên:

Chữ đề thiếp Tuyết cầm theo phả đồng

tục uống máu ăn thề: nghi lễ tuyên thệ bắt đầu vào thời nhà Lý.

Theo sách Việt điện U Linh, đời nhà Lý (1010-1225), Vua Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã (sau này là Vua Lý Thái Tông) dẫn quân đánh Chiêm Thành. Quân đi đến Trường Châu, trời đổ tối, Thái tử dừng quân nghỉ tại đó. Đêm khuya Thái tử nằm mộng thấy một người lạ mặt vận nhung phục, cầm binh khí bước đến gần, cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần Núi Đồng Cổ, nghe tin điện hạ đi bình Chiên nên xin ám trợ.”

Khi Thái tử đánh được Chiêm Thành, trở về đến Núi Đồng Cổ (Thanh Hóa) làm lễ tạ, rồi khấn xin rước về Thăng Long để giúp nước yên dân. Về đến kinh đô, xem khắp trong thành không có chỗ nào vừa ý nên đặt lễ khấn thần. Vị thần Đồng Cổ liền báo mộng xin cho lập đền ở sau chùa Thánh Thọ tại phía hữu kinh thành (bây giờ là làng Đông Xã). Vua y lời thần mộng, lập đền thờ ở đấy.

Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, Thái tử sắp lên kế vị thì đêm ấy, thần Đồng Cổ báo mộng cho nhà vua biết có ba vị hoàng tử: Vũ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương sắp khởi loạn, cần kíp đề phòng.

Sáng hôm sau, quả nhiên ba vị hoàng tử đem quân vây hãm kinh thành để tranh ngôi vua. May có danh tướng Lê Phụng Hiểu giúp nhà Vua dẹp ngay được cuộc khởi loạn. Nhớ ơn thần nhân mách bảo, Vua Lý Thái Tông phong cho thần làm Thiên hạ Minh chủ, lại gia phong chức Đại Vương.

Trong số ba hoàng tử, một người là Vũ Đức Vương bị Lê Phụng Hiểu chém chết tại trận, còn hai người trốn chạy; sau về xin chịu tội. Nhà Vua nghĩ tình cốt nhục tha tội và cho hồi phục chức tước cũ.

Sau đó, vào năm 1028, nhà Vua ban chiếu lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ, bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất trung bất hiếu, thì xin thần minh làm tội”. Đoạn mỗi người từ cửa đông đi vào, qua thần vị, uống tiết sống ăn thề.

Từ đó hàng năm thành lệ. Ai trốn không thề sẽ bị phạt 50 trượng.

Sách Hà Nội địa dư còn chép thêm rằng: đời nhà Trần cũng bắt chước lối thề của nhà Lý. Ngày hôm đó, nhà Vua ngự tại điện Đại Minh, các quan phải đem cả giai nhân tới đền mà thề rằng: “Làm tôi phải hết lòng trung, làm quan phải thanh bạch; ai trái lời thề, thần minh giết chết”.

Đến triều Hậu Lê cũng vẫn theo lệ này, nhưng chọn ngày “mậu” tháng giêng mỗi năm làm lễ tuyên thệ ở bến sông. Còn tại đền Đồng Cổ thì nhà Vua sai quan đến tế lễ.

Nước ta có tục uống máu ăn thề là vậy.

Tư Mã Thiên(145-87 tCN): sử gia đời Hán Vũ Đế nhưng tiếng tăm lưu truyền ngàn đời sau, tác giả của bộ Sử ký. Xem mục: Sử ký.

Tư Mã Phượng cầu: khúc đàn Phượng cầu hoàng do Tư Mã Tương Như đời Hán soạn. Xem mục: Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

Tư Mã Quang (1019–1086): nhà sử học, thừa tướng thời nhà Tống, tác giả bộ sử vĩ đại Tư trị thông giám. Xem mục: Tư trị thông giám.

Tư Mã Tương Như & Trác Văn Quân: hai người tạo nên một chuyện tình đẹp, đi vào truyền thuyết và văn học–nghệ thuật như những nhân vật tài nghệ tiêu biểu. Tư Mã Tương Như (179–117 tCN), là một thi nhân văn sĩ đa tài, văn hay, đàn giỏi đời Vua Cảnh Ðế (163-149 tCN) nhà Tây Hán. Ông người ở Thành Đô, Thục Quận (nay là Tứ Xuyên). Ông có bổn danh Khuyển Tử, sau do thăm mộ của Lận Tương Như mà đổi tên thành Tương Như. Còn Trác Văn Quân là con gái của Trác Vương Tôn, là viên ngoại trong huyện. Cô là một phụ nữ có tư sắc diễm lệ lạ thường, biết chơi đàn cầm và biết làm thơ, nổi tiếng có tài ứng đối. Năm 16 tuổi, Văn Quân được gả đi lấy chồng (không rõ tên họ), nhưng năm sau thì chồng chết, nàng được đưa về nhà bố mẹ.

Tư Mã Tương Như mua được một chức quan nhỏ trong triều Hán Cảnh Đế. Vốn con người phóng lãng hào hoa rất mực, nhưng Cảnh Đế lại không thích thi phú, làm quan trong triều ít lâu Tương Như chán nên cáo bệnh qua chơi nước Lương, được Lương Hiếu Vương Lưu Vũ (em trai cùng mẹ với Cảnh Đế) thu dụng trong triều đình nước Lương, do Lương Vương có nhiều từ phú tác gia nên Tư Mã Tương Như rất thích. Sau khi Lương Hiếu Vương qua đời, Tư Mã Tương Như trở về Thành Đô của nước Thục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp với bằng hữu. Do gia cảnh bần hàn, không đủ sức duy trì nếp sống thường nhật, nên ông phải ở cùng Huyện lệnh Lâm Cùng là Vương Cát ở đất Lâm Ngang.

Một hôm, Trác Vương Tôn cùng nhà họ Trịnh nghe được nhà huyện lệnh có khách quý, bèn bàn nhau mở tiệc và mời Tư Mã Tương Như đến nhà Trác Vương Tôn dự yến tiệc. Tương Như vẫn muốn từ chối, nhưng Vương Cát đích thân mời, nên Tương Như miễn cưỡng đến nhà họ Trác. Vào dự yến, Tương Như cùng Vương Cát và họ Trác, họ Trình trò truyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu Tương Như cho thưởng thức một bài.

Không tiện từ chối, thế là Tương Như đàn khúc Phụng cầu hoàng. Việc này tuy vô tình, nhưng lại hữu ý. Vốn dĩ Tương Như nghe nhà họ Trác có cô con gái còn trẻ mà đã sớm thành góa phụ, trong lòng bèn có hứng thú. Lại nghe Văn Quân thích nghe đàn, Tương Như sắp xếp thật tự nhiên nhất để mình có thể bày tài nghệ ra.mà tỏ tình với nàng. Nên chàng vừa đàn vừa hát Khúc Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái). Khúc hát có đoạn:

Chim phượng, chim phượng về cố hương
Ngao du bốn biển tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ luống lỡ làng
Hôm nay bước đến chốn thênh thang
Có cô gái đẹp ở đài trang
Nhà gần người xa não tâm tràng
Ước gì giao kết đôi uyên ương
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.

(Bản dịch của Trúc Khê)

Tiếng đàn thánh thót, giọng hát thâm trầm, ý tứ đầy tình cảm, do con người hào hoa phong nhã trình bày. Văn Quân đứng nép bên trong, vừa nhìn đã đem lòng si mê, biết người gợi ý đến mình nên lòng sinh bồi hồi cảm xúc.

Sau khi yến tiệc tàn, Tương Như ngầm hẹn tỳ nữ của Văn Quân, chuyển đạt tình ý của mình. Rồi một đêm, Văn Quân vì cảm tiếng đàn mà bỏ nhà trốn theo Tương Như để theo tiếng gọi của tình yêu. Tương Như đưa nàng về nhà mình.

Thời đó đây là tội lỗi rất nặng của phụ nữ cho dù là một góa phụ. Trác Vương Tôn biết chuyện, cực kỳ giận dữ, quyết từ con gái. Ông còn cảm thấy bị sỉ nhục, đóng cửa không ra khỏi nhà.

Nhà quá nghèo, gió lộng bốn bề. Tương Như đem chiếc áo cừu túc sương đi cầm cho người ở chợ, để mua rượu về cùng Văn Quân đối ẩm. Văn Quân ôm đầu, khóc nói: “Ta xưa này giàu có, nay chàng đến nỗi phải đi cầm áo mua rượu, buồn biết chừng nào!”

Sau khi đến Thành Đô, đôi vợ chồng sống cảnh bần hàn không chịu được, bèn đến Lâm Cùng mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn. Văn Quân giữ việc nhóm lò nấu rượu, còn Tương Như thì mặc quần cộc làm lụng rửa vò hủ ở chợ.

Trong họ Trác có tới mấy người đến khuyên bảo Trác Vương Tôn: “Ông có một con trai hai con gái, trong nhà không thiếu tiền tài. Hiện giờ, Văn Quân đã thành thê tử của Tư Mã Trường Khanh. Tuy rằng bần cùng, nhưng hắn đúng thật là một nhân tài, hoàn toàn có thể dựa vào. Huống hồ hắn lại là khách quý của Huyện lệnh, vì cái gì mà ông cố tình làm cho bọn họ chịu ủy khuất như vậy?”

Trác Vương Tôn ngẫm nghĩ, sau mới ra tay giúp đỡ, đem cho Văn Quân 100 gia nô, tiền 100 vạn lượng, y theo của hồi môn xuất giá của Trác gia mà chuẩn bị cho nàng vật dụng tư trang. Sau đó, Văn Quân cùng Tương Như trở lại Thành Đô, mua đồng ruộng phòng ốc, trở nên giàu có.

Sau Hán Vũ đế đọc bài Tử hư phú của Tương Như, khen tài, mới vời vào triều, ban chức quan Lang. Vì muốn thông sứ các dân tộc miền tây-nam, nhà Vua phong chàng chức Trung Lang tướng, cầm cờ tiết mao đi sứ để chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Tương Như vào đến đất Thục, quan lại từ dưới đến Thái thú đều ra tận ngoài thành tiếp rước, quan huyện lệnh thì vác cung nỏ đi tiền khu; người người đón tiếp long trọng. Trác Vương Tôn bấy giờ không còn dám khinh thường chàng rể nữa.

Tư Mã Tương Như làm bài Trường Môn phú nói lên nỗi lòng Hoàng hậu Trần A Kiều, khiến cho Hán Vũ Đế hồi tâm mà đưa bà trở lại hoàng cung. Nhờ bài phú này, Tương Như trở thành người trong mộng của bao nhiêu tiểu thư mệnh phụ chốn kinh thành. Chàng quên mất Trác Văn Quân tài hoa đa tình đang mỏi mắt chờ chàng ở chốn Thành Đô.

Rồi một hôm, Trác Văn Quân đang ngồi tựa cửa, chợt có người dâng đến một phong thư của chàng, mở bức lụa trắng tinh mà lòng những xốn xang. Nào ngờ trên mảnh lụa chỉ vỏn vẹn vài chữ “Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười trăm ngàn vạn”. Thưa thớt như bước chân người trở về, lạt lẽo như lòng kẻ phụ phàng. Người đưa thư còn bảo chàng dặn lấy hồi âm ngay.

Tâm cuồng ý loạn, vừa hận vừa đau nàng cầm bút đề luôn một mạch.

Sau khi một biệt, lòng gởi hai nơi, chỉ hẹn rằng ba bốn tháng, nào ngờ lại năm sáu năm, bảy dây trống trải đàn cầm, tám hàng thư không thể gởi, chín mối bội hoàn dang dở, mười dặm trường đình mỏi mắt ngóng trông, trăm tương tư, ngàn dằn vặt, muôn chung nào nỡ oán chàng. Vạn lời ngàn tiếng nói sao đang, trăm cô liêu tựa mười hiên vắng, mùng chín tháng chín lên cao trông lẻ nhạn, tháng tám trung thu tròn trăng chẳng thấy người, tháng bảy nửa vầng hương cầm đuốc hỏi ông trời, tháng sáu phục hiên ai ai lay quạt lạnh lòng ai, tháng năm lửa lựu lập lòe sầm sập mưa dầm hoa tả tơi, tháng tỳ bà lạnh vắng người toan soi gương tâm ý loạn, chợt hối hả tháng ba hoa đào theo nước trôi, tháng hai gió gảy tiếng rã rời. Ôi! chàng, chàng ơi, nguyện cho được sau một kiếp, chàng hóa gái để em làm trai.

Bức thư trả lời là một bài thơ với đầy đủ những cung bậc cảm xúc của người vợ xa chồng, vừa nhớ thương, tủi hờn, oán trách lại muốn gánh vác thay chồng. Không những Trác Văn Quân đối đáp theo bức thư của phu quân mà nàng còn mượn 12 tháng trong năm để nói nên nỗi lòng khắc khoải chờ đợi mỏi mòn. Vừa là lời thương cảm cho sứ mệnh của chồng vừa là tâm nguyện được một lần chồng hiểu cho hoàn cảnh của mình.

Trác Văn Quân còn làm bài thơ dưới đây diễn tả nỗi lòng mình, có cả lời lẽ oán trách, nhắc lại chuyện cũ, những ký ức tươi đẹp hai người đã có với nhau.

Bạch đầu ngâm – Trác Văn Quân
Khúc ngâm đầu bạc – Điệp luyến hoa dịch thơ:

Trắng như tuyết trên núi
Sáng tựa trăng giữa mây
Nghe lòng chàng hai ý
Thiếp đành đoạn tình này
Hôm nay chén sum họp
Đầu sông tiễn sớm mai
Lững thững theo dòng nước
Nước mãi chảy đông tây.

Buồn đau lại buồn đau
Vợ chồng chẳng nên than
Mong người lòng chỉ một
Bạc đầu chẳng xa nhau
Chiếc cần sao lay động
Đuôi cá sao cong cong
Nam nhi trọng ý khí
Sao tiền bạc thay lòng?

Thành ngữ Nguyện đắc nhất tâm nhân / Bạch đầu bất tương li (Mong người lòng chỉ một / Bạc đầu chẳng xa nhau) nổi tiếng về tấm chân tình trong văn thi là vốn từ bài thơ này của nàng.

Kết quả là Tư Mã Tương Như lên xe ngựa nhằm hướng Thành Đô mà trở về.

Về sau, Tư Mã Tương Như trở thành quan viên Thị tòng cho Hoàng đế. Áo gấm về làng, chàng cùng Trác Văn Quân đến Lâm Cùng bái lạy cha vợ Trác Vương Tôn.

Nhưng Tương Như làm quan ít lâu lại chán, cáo bệnh lui về quê.

Tương truyền, Văn Quân có một con gái, được Hoàng hậu ban tên Nguyên Xuân.

Theo Hán thư, Tư Mã Tương Như có 29 bài phú, còn tồn lại Tử hư phú, Thượng lâm phú, Đại nhân phú, đặc biệt là Trường môn phú, được xem là một trong những bài phú hay nhất trong văn học Trung Quốc. Xem thêm mục: Trường môn phú.

Phượng cầu hoàng – cổ cầm:
https://www.youtube.com/watch?v=ukKhwEyoUBA

Tà áo Văn Quân của Phạm Duy Nhượng, Mai Hương trình bày:
https://www.youtube.com/watch?v=DHeabvvtzH4

Tư Mã chàng ơi, dừng đàn bên Văn Quân!
Nâng phím hào hoa, kề làn môi giai nhân
Dựng nhà bên suối, cung đàn ấp má đào

Mộng chưa tàn khúc, Phượng cầu lưu luyến nhau
Phượng ôi! đàn vắng
Tìm chim hoàng nơi nao?

Bích Câu kỳ ngộ:

Cầu hoàng tay lựa nên vần
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.

Đoạn trường tân thanh:

Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng?

Hoa với rượu – Nguyễn Bính:

Như truyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn cam trắng xóa hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng!

Nguồn: Wikipedia_Trác Văn Quân, Wikipedia_Tư Mã Tương Như.

Tư Mạo: Tôn Tư Mạo đời Ðường. Xem thuốc điểm mắt rồng.

Tôn Tư Mạo người đất Hoa Nguyên, thông Bách gia chư tử, sành học thuyết Lão trang, ẩn ở núi Thái Bạch. Tùy Vân Ðế có chiếu mời ông ra làm Quốc Tử Bác sĩ. Ông không nhận. Vào năm Hiển Khánh, vua lại xuống chiếu mời ông giữ chức Gián Nghị Ðại Phu, ông cũng cáo từ trở về núi. Ông sành môn thuật số và làm thuốc. Có sách Ngân hải tinh viThiên kim yếu phương truyền ở đời.

Tư trị thông giám: bộ sử của Tư Mã Quang. Theo Tạp chí Xưa và Nay (2006), ý kiến phổ quát cho rằng muốn hiểu lịch sử Trung Quốc, có hai bộ sử không thể không đọc:

  • Sử ký của Tư Mã Thiên, tác phẩm lịch sử vĩ đại của Trung Quốc cổ đại, là bộ truyện ký đầu tiên thể thông sử;
  • Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, cũng là một tác phẩm lịch sử nổi tiếng, là bộ biên niên thể thông sử đầu tiên hoàn thiện nhất của Trung Quốc cổ đại, từng được coi là sách giáo khoa bắt buộc cho vua, tôi, kẻ sĩ.

Tác giả Tư trị thông giám là Tư Mã Quang (1019–1086) nhà sử học, thừa tướng thời nhà Tống. Ông chính là hậu duệ của em trai Tư Mã Ý là Tư Mã Phu, người có tiếng tăm dưới trướng Tào Tháo. Năm 20 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, sau đó ra làm quan. Cha ông là Tư Mã Trì từng làm các chức quan huyện lên đến cấp thượng thư., là nhà chính trị và cũng là nhà sử học nổi tiếng thời Bắc Tống.

Cuối đời Tống Nhân Tông, Tư Mã Quang lập chí viết một bộ thông sử, lấy việc tổng kết sự hưng–vong, được–mất của các thời đại để cho những người cai trị lấy làm gương. Thời đó, ông thấy không có một bộ thông sử hoàn chỉnh dễ đọc nào, khiến cho người đọc cảm thấy khó nắm bắt các kiến thức. Mặt khác, ông mong muốn vua Tống tu chỉnh, rút ra những bài học xương máu từ sự thịnh suy của các triều đại trước để giữ vững cơ nghiệp nhà Tống.

Khi soạn bộ sử này, Tư Mã Quang làm việc hết ngày này sang ngày khác, tổng cộng là 19 năm. Đến năm 1084, toàn bộ cuốn sách được hoàn thành với sự trợ giúp của ba trợ thủ là Lưu Ban, Lưu Thứ, Phạm Tổ Ngu. Cuối năm đó, dù trời mùa đông đầy tuyết, ông vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh dâng lên Tống Thần Tông. Lúc đó, ông đã 65 tuổi, hai mắt mờ, răng chỉ còn mấy chiếc, sức nhớ suy giảm, hẳn như đã hiến dâng toàn bộ tâm huyết cho cuốn sách.

Hai năm sau, ông từ trần.

Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử sử học Trung Quốc, thành công được đánh giá ngang với bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.

Tư trị thông giám không chỉ đề cập các sự kiện lịch sử mà còn có những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Tư Mã Quang có tổng cộng gần 4 vạn đầu sách tham khảo để viết Tư trị thông giám. Tựa đề thông giám ở đây có thể được hiểu được hiểu là đề cập tới một tác phẩm có tính chất tham khảo và hướng dẫn. Ông viết Tư trị thông giám nhằm đích củng cố sự thống trị của nhà Tống nên nội dung và hình thức công trình sử học này mang màu sắc chính trị rõ nét.

Tư trị thông giám là một tác phẩm khổng lồ. Nội dung sách bắt đầu từ thời Đông Chu (năm thứ 23 đời Uy Liệt Vương nhà Chu, tức 403 tCN) đến đời Ngũ Đại (năm Hiển Đức thứ 6), Thế Tôn Hậu Chủ, tức 956 Công nguyên), bao quát lịch sử 1.362 năm, xuyên suốt 16 triều đại chính thống. Bộ sách này tổng hợp lượng tài liệu cực lớn: chỉ riêng chính sử, trong thời đại Tư Mã Quang dùng tới hơn 1900 quyển, hơn 28 triệu chữ. Ngoài ra còn sử dụng khoảng 300 loại tạp sử, truyện, văn, gia phả v.v… đến nay có loại còn chưa làm rõ được. Riêng toàn bộ Tư trị thông giám gồm hơn 3 triệu chữ. Đó là tinh hoa được chắt lọc qua công tác biên tập khổng lồ.

Kết cấu của cuốn Tư trị thông giám tương đối chặt chẽ. Sách ghi chép sự việc thuận theo thời gian ngày, năm, tháng, lời văn mạch lạc rõ ràng. Những sử liệu không rõ ngày thì ghi vào cuối tháng đó; những sử liệu không rõ tháng thì ghi vào cuối năm đó. Những sự kiện trọng đại liên quan đến trước, sau nhiều năm thì dùng phương pháp thuật lại hoặc trình bày bổ sung để giới thiệu đầu đuôi câu chuyện nhằm làm rõ toàn cục.

Mục đích chủ yếu của Tư Mã Quang khi viết cuốn sách này là muốn những nhà cai trị lấy lịch sử đời trước làm răn, khảo sát cải tiến chính trị đương thời để đạt đến thiên hạ thái bình. Toàn bộ sách lấy sự yên–loạn, thịnh–suy của các đời làm đầu mối, đồng thời với việc ghi chép lịch sử, phân tích đạo đức, tư cách thiện–ác của nhà vua và bề tôi, sự được–mất về những việc lớn của đất nước với chính sách, tổng kết nguyên nhân và bài học về sự thay đổi của các triều đại. Cũng có thể là vì duyên cớ đó, mà chính trị và quân sự trở thành trọng điểm của Tư trị thông giám.

Tư Mã Quang là một học giả nghiêm túc. Trong quá trình biên tập Tư trị thông giám, ông khảo đính sử liệu một cách cẩn thận, lấy hoặc bỏ điều gì đều có lý do đầy đủ. Lập luận lịch sử của ông thường nhấn mạnh “Đạo của thánh nhân”, tôn vua trọng lễ… Nhưng điều này hình thành phong cách của Tư trị thông giám là nghiêm túc, giản dị, chính thống. Tuy vậy lời văn của ông lại đẹp và sinh động.

Tư trị thông giám chắc chắn là cuốn sách được nhiều bậc đế vương, khanh tướng nhiều đời ở Trung Quốc tìm đọc. Những nhà lãnh đạo nổi tiếng của Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản sau này cũng không ngoại lệ. Có vài ví dụ:

Tháng 8 năm 1945, Mao Trạch Đông từ Diên An đến Trùng Khánh để tham dự cuộc hội đàm Quốc–Cộng, và ở lại đây 43 ngày. Trong một buổi sáng sớm, Mao Trạch Đông vừa cầm một cuốn sách vừa đi dạo trong vườn, tình cờ gặp Tưởng Giới Thạch cũng vừa cầm một cuốn sách vừa đi dạo ở đó. Khi gặp nhau, hai người đều giấu cuốn sách ra sau lưng. Khi Tưởng Giới Thạch đề nghị: hãy cho nhau biết là xem cuốn sách gì, thì hóa ra cả hai người đều cầm Tư trị thông giám trong tay.

Riêng với Mao Trạch Đông, Tư trị thông giám là cuốn sách gối đầu giường: ông đọc nát bộ sách này, nhiều trang phải dùng băng dính dán lại. Có những thời gian ông mê mải đọc hàng mấy giờ liền. Theo lời ông nói với thư ký cơ yếu thì ông đã đọc Tư trị thông giám tới 17 lần và lần nào cũng thấy hiệu quả.

Theo lời Đặng Dung, con gái Đặng Tiểu Bình thì “ông đặc biệt thích Tư trị thông giám; trong nhà có hai bộ, không biết là ông đã đọc bao nhiêu lần, nhưng có thể nói là đọc thuộc”.

Trên thực tế, ý nghĩa của việc viết Tư trị thông giám vượt xa ý muốn của tác giả: sách không chỉ giúp tầng lớp cai trị có cơ sở tham khảo về “Tư trị”, mà còn là sách tham khảo cho cả xã hội. Hồ Tam Tỉnh – người viết lời chú – rất thấm thía ý nghĩa sâu xa của bộ sách này, nói: Thông giám không chỉ viết về trị loạn, mà còn có lễ nhạc, lịch số, thiên văn, địa lý, v v. Vương Minh Thịnh triều nhà Thanh cũng nói: “Đây là sách trên đời không thể thiếu và học giả không thể không đọc”.

Ở Việt Nam, bộ sách Tư trị thông giám được Bùi Thông và Phạm Thành Long chuyển ngữ, và được phát hành từ năm 2017 bởi Nhà Xuất bản Văn học và nhà sách Tri Thức Trẻ.

tương cà gia bản: tương là loại nước chấm làm bằng đậu nành, cà là thức ăn nông dân thường làm muối, dưa vì dễ làm. Người nông dân coi món cà chấm tương đơn giản, ít tốn kém làm cơ bản trong các bữa ăn.

Thành ngữ trên có ý nói cuộc sống thanh đạm, không cao lương mỹ vị nhưng bền chắc.

Tương linh cổ sắt: có nghĩa Thần Sông Tương gẩy đàn sắt. Giai thoại kể rằng: một đêm, Tiền Khởi ngụ tại quán khách, nghe có tiếng ngâm hai câu thơ:

Khúc chung nhân bất kiến
Giang thượng sổ phong thanh

Cao Tự Thanh dịch thơ:

Khúc tàn, người chẳng thấy
Bóng núi, đậm trên dòng

(Đó là hai câu kết trong bài thơ Lâm giang tiên của Tần Quán.)

Mấy lần mở cửa ra xem, Tiền Khởi không trông thấy ai cả.

Hôm đi thi, làm bài thơ có đầu đề là Tương linh cổ sắt, ông không làm nổi câu kết, liền đem ngay hai câu trên đặt vào. Quan chủ khảo Lý Vĩ rất tán thưởng, cho là có thần giúp, bèn lấy ông đậu cao.

Tướng Hủ: Người đời Hán, tự là Nguyên Khanh, tính ngay thẳng liêm khiết, khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Tướng Hủ không chịu khuất phục, bỏ về nhà trồng hàng trúc và 3 dãy Cúc trước sân để tỏ chí mình.

tứ đại danh lâu: chỉ bốn tòa lầu (lâu hay các) nổi tiếng ở Trung Quốc:

1/ Lầu Hạc Vàng ở Vũ Hán
2/ Lầu Nhạc Dương ở Nhạc Dương
3/ Gác Đằng Vương ở Nam Xương
4/ Gác Bồng Lai ở Bồng Lai

Xem các mục liên quan đến những tòa lầu kể trên.

tứ đại danh tác (bốn tác phẩm lớn) hoặc tứ đại kỳ thư (bốn quyển sách xuất sắc): bốn tác phẩm văn học cổ điển hay nhất của Trung Quốc, xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện:

1/ Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung (khoảng 1330 – 1400)
2/ Thủy hử của Thi Nại Am (1296? – 1370?)
3/ Tây du ký của Ngô Thừa Ân (1500/1506 – 1581)
4/ Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần (1715/1724 – 1763/1764)

Xem các mục liên quan đến những tác phẩm kể trên.

tứ đại mỹ nhân: Theo Wikipedia_Tứ đại Mỹ nhân Trung Hoa, tứ đại mỹ nhân là cụm từ chỉ bốn phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sắc đẹp của họ được ca ngợi qua 4 cụm từ nổi tiếng để tả mỹ nhân là trầm ngư, lạc nhạn, tu hoa, bế nguyệt, tức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Bốn người gồm có:

1/ Vương Chiêu Quân “chim sa”
2/ Tây Thi “cá lặn”
3/ Dương Quý phi “hoa nhường”
4/ Điêu Thuyền “nguyệt thẹn”.

Thật ra, sắc đẹp không phải là tiêu chí vượt trội để xếp hạng bốn mỹ nhân trên. Lấy ví dụ: Dương quý phi có phần đẫy đà, không phù hợp với quan niệm về nét đẹp của phụ nữ thời xưa. Còn Điêu Thuyền là nhân vật hư cấu không được miêu tả là có sắc đẹp tuyệt trần. Tiêu chí quan trọng hơn đế xếp hạng bốn mỹ nhân trên là ảnh hưởng làm thay đổi lịch sử.

Tu dai my nhan_nho
Tứ đại mỹ nhân: Vương Chiêu Quân, Tây Thi, Dương Quý phi, Điêu Thuyền

Thời điểm sinh ra khái niệm này không thống nhất, ngay cả sự đề cập xưa nhất cũng không liệt kê đúng với 4 nhân vật mà hiện nay chấp nhận. Các tài liệu lịch sử về họ cũng bị ảnh hưởng nhiều do một số truyền thuyết và lời đồn dân gian. Họ nổi tiếng và được gọi là tứ đại mỹ nhân đều do những lưu truyền phổ biến thời nhà Minh và nhà Thanh đúc kết lại. Cả bốn người đều có kết thúc không may hoặc bí ẩn, số phận họ đúng như các câu trong dân gian phụng nhân bạc mạng (phục vụ và cống hiến nhưng kết cục khổ) và hồng nhan bạc mệnh (có sắc đẹp thì số xấu).

Xem thêm các mục của nhân vật liên quan.

tứ đại tài nữ: chỉ bốn phụ nữ xuất chúng là Thái Diễm, Lý Thanh Chiếu, Trác Văn Quân, Ban Chiêu. Xem các mục liên quan: Thái Diễm, Lý Thanh Chiếu, Trác Văn Quân, Ban Chiêu.

tứ khoa: 4 khoa là: đức hạnh, ngôn ngữ, chánh sự và văn học. Xem Hiếu hạnh đầu tứ khoa.

Tứ khố toàn thư: bộ sách bách khoa lớn nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, được Hoàng đế Càn Long nhà Thanh giao cho 361 học giả biên soạn trong khoảng thời gian 1773-1782. Được gọi là “Tứ khố” vì sách được chia thành bốn thể loại chính: Kinh, Sử, Tử, Tập. Tứ khố toàn thư tập hợp trên 10.000 bản thảo từ các bộ sưu tập của những triều đại phong kiến Trung Quốc thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, lịch sử, triết học và văn học nghệ thuật. Tổng cộng bộ sách này có 2,3 triệu trang sách và khoảng 800 triệu chữ.

Tứ khố toàn thư được chia làm ba loại: sao chép, khắc in và tồn mục. “Tồn mục” là những sách mà Hoàng đế Càn Long cho là xúc phạm đến triều đình Mãn Thanh, bất lợi cho sự thống trị của triều đình, chỉ được giữ lại tựa sách trong Tứ khố toàn thư.

Tứ khố toàn thư được chép làm 7 bản chính, chia ra cất giữ ở bảy nơi như Văn Uyên Các trong Tử Cấm Thành, Văn Nguyên Các thuộc vườn Viên Minh, Văn Sóc Các thuộc Cố Cung Phụng Thiên, Văn Tông Các thuộc chùa Kim Sơn ở Trấn Giang v.v…

Ngày nay, chỉ có bản được lưu trữ tại Văn Tân Các ở Sơn trang nghỉ mát của vua Càn Long còn nguyên vẹn. Bản này nay được lưu giữ tại Đài Bắc Cố Cung Bác Vật Viện (Viện Bảo Tàng Cố Cung Đài Bắc), Đài Loan.

tứ thư ngũ kinh: những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo mà các môn đồ đạo Nho ngày xưa phải học, cũng là những sách giáo khoa mà sĩ tử phải rèn luyện để tham dự các kỳ thi do triều đình tổ chức.

* Tứ thư (bốn sách) gồm có Đại học, Trung dung, Luận NgữMạnh Tử.

1/ Đại học là sách của bậc “đại học” cốt dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm hai phần:

a/ Phần đầu gọi là Kinh, chép lời đức Khổng Tử, có 1 chương.
b/ Phần cuối gọi là Truyện, lời giảng giải của Tăng Tử là môn đệ của Khổng Tử có 10 chương.

Mục đích bậc đại học hay tôn chỉ của người quân tử, được tóm tắt ở câu đầu sách, có nghĩa là: “Cái đạo của người theo bậc đại học là làm sáng cái đức của mình, làm mới người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện”. Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.

Mục đích đã vậy, phương pháp phải thế nào? Con người phải sửa mình trước (tu thân), rồi chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (trị quốc) và bình an toàn dân (bình thiên hạ). Phương pháp này phải tuần tự tiến hành là tự mình đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhất là việc sửa mình. Vì vậy trong Đại Học có ý: Từ vua đến thường dân, ai ai cũng đều lấy việc sửa mình làm gốc.

Vậy muốn sửa mình phải thực hành cách nào? Trước hết phải thấu lẽ mọi sự vật (cách vật), rồi phải (biết tận tường (trí tri), phải thành thực (thành ý), và lòng phải ngay thẳng (chánh tâm). Thực hành bốn điều này thì sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được thiên hạ, mà làm tròn được cái đạo của người quân tử.

2/ Trung Dung là sách gồm những lời tâm pháp của đức Khổng Tử do học trò ngài truyền lại, rồi sau thầy Tử Tư là cháu của ngài chép thành sách, gồm có 33 chương.

Thầy Tử Tư dẫn những lời nói của Khổng Phu Tử đã giảng về đạo trung dung, có cho rằng: Trung hòa là tính tình tự nhiên của trời đất mà trung dung là đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch về bên nào; dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Muốn theo đạo này cốt phải có cái đạo đức: trí, nhân và dũng. Trí để biết rõ các sự lý, nhân để hiểu điều lành mà làm, dũng là có cái khí cường kiện mà thực hành theo điều lành đến cùng.

Đạo người là phải cố gắng để đạt đến bậc chí thánh. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Nếu ai làm được như thế thì ngu thành sáng, yếu thành mạnh, tức là dần lên đến bậc chí thánh. Trong thiên hạ chỉ có bậc chí thánh mới hiểu rõ cái tính của Trời. Biết rõ cái tính của Trời thì biết được cái tính của người. Biết rõ cái tính của người thì biết được cái tính của vạn vật. Biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy.

Sách Trung Dung nói về đạo của thánh hiền vốn căn bản của Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến cho con người phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một mình.

Tóm lại, Trung Dung thuộc về loại sách triết lý rất cao.

3/ Luận Ngữ là quyển sách chép những lời nói của đức Khổng Tử khuyên dạy học trò, hoặc những câu chuyện của ngài nói với những người đương thời về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chính trị, học thuật) do các môn đệ của ngài sưu tập lại.

Sách gồm có 20 thiên, mỗi thiên lấy 2 chữ đầu đặt tên, không có liên quan gì với nhau.

Sách Luận Ngữ có thể cho là quyển sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử, như phác họa một mẫu mực hoạt động cho người đời sau noi theo.

Sách này cho ta biết được nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử. Còn cho ta nhận thấy phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt) của đức Khổng Tử biểu lộ qua những chuyện ngài nói với học trò. Sách này chẳng những cho ta thấy được cảm tình phong phú và lòng ái mỹ mà còn là khoa sư phạm của Khổng Tử. Trong những lời khuyên dạy chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ, cảnh ngộ của mỗi người. Có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của từng người.

4/ Mạnh Tử là tên bộ sách do Mạnh Tử viết. Sách gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn một vấn đề.

Sách này cho ta nhận thức được tư tưởng của Mạnh Tử về các vấn đề:

Về luân lý, ông xướng lên thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ý ông, thiên tính con người vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sỡ dĩ thành ác là vì làm trái thiên tánh, ví như ngăn nước cho nó chảy lên chỗ cao.

Tính người vốn thiện nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh, vì vật dục làm sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện, giữ lấy bản tính. Những điều cốt yếu trong việc giáo dục là: dưỡng tính (giữ lấy thiện tính), tồn tâm (giữ lấy lòng thành), trì chí (giữ chí hướng cho vững). Và, ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân. Bậc này phải có bốn điều là: nhân, nghĩa, lễ và trí.

Về chính trị, ông cho rằng bậc làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và chiến tranh. Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế. Ông cho rằng người có hằng sản rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì mới sinh ra có lòng tốt muốn làm điều thiện, và có phương tiện để thực hiện điều thiện ấy. Vậy bổn phận kẻ bề trên là phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú, rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ cho các vua chúa những phương lược để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt.

Mạnh Tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một văn gia đại tài. Văn của ông rất hùng hồn và khúc chiết. Ông biện luận điều gì cũng rạch ròi, sắc cạnh. Ông hay nói thí dụ. Muốn cho ai hiểu điều gì, muốn bắt ai chịu phục lẽ gì, ông thường dẫn những thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét. Ông lại thường dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái hàm ý của ông.

Tóm lại, tứ thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo. Ai muốn hiểu rõ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu bộ sách này.

* Ngũ kinh: Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính.

1/ Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai “học Kinh Thi chưa?”, người con trả lời “chưa”. Khổng Tử nói “Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao” (sách Luận ngữ).

2/ Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.

3/ Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời” (sách Luận Ngữ).

4/ Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,… Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.

5/ Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: “Thiên hạ biết đến ta bởi Kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở Kinh Xuân Thu này”. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.

tứ tri: 4 người biết, ý nói làm việc gì dù ám muội đến mấy cũng có người biết, làm điều bất lương mà biết tự thẹn với lương tâm.

Hậu Hán thư: Dương Chấn học rộng, tinh thông kinh truyện. Khi ông làm thái thú đất Ðông Lai, nhân qua Huyện Xương Ốp, quan huyện này là Vương Mật đang đêm bọc 10 cân vàng mật dâng Dương Chấn. Ông không nhận, Mật nó: “Xin quan lớn nhận cho, đang đêm không có ai hay biết đâu.” Chấn nói: “Thiên tri, thần tri, ngô tri, tử tri, hà vị vô tri?” (Có trời biết, thần biết, ta biết, ngươi biết, sao lại bảo không ai biết?).

Thiên Nam ngữ lục:

Tôi lòng nào có tứ tri
Sống vì nết dại, khổ vì nết ngay.

Từ Dụ (1810-1902), tên thật là Phạm Thị Hằng, thường được biết đến với tôn hiệu là Từ Dụ Hoàng Thái hậu. Cuộc đời bà trải qua 10 đời vua nhà Nguyễn, từ Vua Gia Long (trị vì 1802-1819) đến Vua Thành Thái (trị vì 1889-1907).

Cha của bà là Phạm Đăng Hưng, được phong làm Thái bảo, Cần Chính điện Đại học sĩ, tước Đức Quốc công. Dòng họ gốc gác ở Thị xã Gò Công thuộc Tiền Giang ngày nay.

Thuở nhỏ bà nổi tiếng hiếu hạnh, thông minh, hiền thục, nết na và rất xinh đẹp. Năm 14 tuổi, bà được tuyển làm thiếp cho Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, người sau này lên làm Vua Thiệu Trị. Sau khi sinh hai người con gái, năm 1829 (18 tuổi) bà sinh người con thứ ba là trai, đặt tên là Nguyễn Phúc Thì, sau đổi tên thành Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, tức Vua Tự Đức Hoàng đế sau này.

Từ Dụ là một người đôn hậu, hiền hòa, được mọi người yêu quý, kính trọng. Bà tại vị như một bà hoàng đức cao trọng vọng, được quần thần kính nể.

Năm 1883, Tự Đức qua đời, để di chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái Hoàng Thái hậu. (Thái hoàng thái hậu là tước vị pháp định dành cho bà nội của hoàng đế đang tại vị.)

Qua đời ở tuổi 92, bà Từ Dụ được xem là bà hoàng sống thọ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam sử lược:

Đức Từ Dụ thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì ngài [Vua Tự Đức] biên ngay vào một quyển giấy gọi là “Từ Huấn Lục”.

Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực, gặp phải khi nước lụt. Còn hai ngày nữa thì có kị đức Hiến Tổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nửa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo lên, mà nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngài lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị”.

Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự…

Trịnh Vân Thanh, trong Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, cho biết:

Nhân lễ ngũ tuần, vua Tự Đức cùng đình thần dâng sớ khẩn thỉnh tấn tôn mỹ hiệu, bà dụ rằng:

“Ta đã được thiên hạ phụng sự, thì nên lo những việc thiên hạ đương lo. Năm nay chưa đặng mùa, nhân dân đều chưa được vui sướng, chính lúc Hoàng đế phải chăm lo, lòng ta nào nỡ thản nhiên.

“Vả lại tánh ta vốn kiệm ước, chẳng chuộng phù hoa, không ngờ ngày nay hưởng được tôn vinh, ta thường e sợ, tu tỉnh chẳng rồi, huống chi còn gia thêm cho hư danh để ta còn nặng cái lỗi thất đức hay sao? Vậy thì sớ thỉnh ấy nên bãi đi, chỉ nguyện chư công và quần thần lo giúp chính trị, giáo dục thế nào cho ta được thấy thạnh trị thái bình, thì không chi vui bằng”.

Lo lắng đến cuộc sống nhân dân, bà thường hỏi vua Tự Đức về việc đắt thất và dạy bảo những điều thiết thực về chính trị. Năm 1874, khi hay tin Pháp xâm chiếm toàn cõi Nam Kỳ và buộc triều đình Huế ký hòa ước nhượng địa, bà bỏ cả ăn uống, mặt ủ mày chau theo vận nước khuynh nguy…

Ghi chú: Sử sách đều ghi tên Từ Dụ, theo nghĩa chữ Hán là “nhân từ” và “độ lượng”, nhưng từ lâu không hiểu do một sự lầm lẫn nào đó, người ta viết chữ “Dụ” thành “Dũ” và trở thành thói quen không thay đổi… Ngay cả từ trước kia cho đến bây giờ, Sài Gòn đặt tên bảo sanh viện (bệnh viện phụ sản) lớn nhất miền Nam là Từ Dũ, trong khi người miền Nam thường có ý tôn trọng triều Nguyễn nhưng vẫn bị nhầm lẫn về tên đối với một nhân vật lịch sử quan trọng như thế.

Từ Phi: Người đất Trường Thành đời Ðường, tên Huệ, lên 8 tuổi đã giỏi việc văn thơ. Vua Thái Tông nghe tiếng triệu vào kinh cho giữ chức Tài Nhân, bà có làm trăm bài thơ Liên Châu.

Từ Phúc: người nói với vua Tần Thủy Hoàng ở ngoài biển có ba hòn đảo là Bồng Lai, Phương Trượng và Dinh Châu. Tiên ở đấy. Vua cho Phúc đem mấy nghìn người nam nữ trẻ tuổi đi đón tiên về. Từ Phúc cùng họ đi không về nữa. Truyền thuyết Nhật Bản nói Từ Phúc đến Nhật rồi ở hẳn đấy.

Từ Thức: Theo Truyền kỳ mạn lục, trong niên hiệu Quang Thái (1388-1398) đời nhà Trần có Từ Thức là quan huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Bên cạnh huyện có một ngôi chùa trồng một cây hoa mẫu đơn. Mỗi khi nở hoa thì người người các nơi đổ đến, xe ngựa dập dìu làm nên hội thưởng hoa.

Trong khi mọi người nhìn ngắm hoa đẹp thì có một thiếu nữ tuổi độ mười lăm, mười sáu, dung nhan diễm lệ, bước đến đưa tay vuốt lấy hoa. Nhưng chẳng may khi vịn lấy một cành thì cành giòn bị gẫy. Người giữ hoa giữ lại, bắt đền. Nàng không có tiền đền, mãi đến tối vẫn không có người thân quen đến nhận. Từ Thức thấy vậy động lòng thương xót, bèn cởi áo bạch cẩm cừu đưa cho nàng chuộc tội để được tha về.

Một thời gian sau, vì không muốn ràng buộc bởi lợi danh, Từ Thức bỏ ấn từ quan về ở Huyện Tống Sơn. Rồi ngày ngày, Từ với một bầu rượu, túi thơ, chu du khắp chốn danh lam thắng cảnh. Một hôm nhìn thấy cửa biển Thần Phù có đám mây ngũ sắc kết lại hình như hoa sen, Từ vội chèo thuyền đến thấy một hòn núi rất đẹp, Từ sinh cảm khái, nhân đề một bài thơ (dịch nôm):

Đầu cành thấp thoáng bóng kim ô
Hoa động vui mừng đón khách vô
Cạnh suối nào là người hái thuốc?
Quanh nguồn chỉ có gã bơi đò

Xênh xang ghế mát đàn ba khúc
Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò
Ướm hỏi Vũ Lăng chàng đánh cá
Làng Đào đâu đó cách chừng mô?

Từ đề xong nhưng bỡ ngỡ chưa biết đường nào đi tiếp, thoạt thấy vách đá tách mở ra một chỗ tròn độ một thước. Từ chui vào chưa được vài bước thì vách đá khép kín lại. Đi được vài dặm, thấy sườn đá đứng cao như vách tường. Lần leo lên, mỗi bước lại thấy càng rộng. Đến chót núi thì có ánh mặt trời chiếu sáng, nhìn quanh bốn phía thấy một dãy lầu đài thiên nhiên cực kỳ xinh tốt như tranh vẽ.

Từ đang lấy làm ngạc nhiên, bỗng thấy có thanh y đồng nữ đến bảo: “Phu nhân tôi xin mời tướng công vào.”

Từ vâng lời. Thẳng vào thì thấy một tiên nga đương ngồi trên giường chạm thất bảo, bên cạnh có đặt một chiếc tháp nhỏ bằng đàn hương. Tiên nga mời Từ ngồi, đoạn ung dung bảo: “Đây là hang động thứ sáu trong số 36 động ở Phù Lai. Thiếp đây là Ngụy phu nhân địa tiên Nam Nhạc, nghe nhà ngươi có cao nghĩa hay cứu trợ người khốn đốn, nên mới phiền bước đến đây.”

Đoạn, phu nhân gọi A Nương đến.

Từ liếc nhìn, nhận ra là cô gái làm gãy hoa ngày trước. Phu nhân chỉ A Nương mà bảo Từ: “Đó là con ta, tên Giáng Hương, khi trước nhờ người cứu việc làm gãy hoa, ơn ấy không quên, nên ta muốn kết làm giai ngẫu để trả.”

Lẽ cố nhiên, Từ rất vui lòng.

Ngay trong đêm ấy, phu nhân truyền thắp đèn mỡ phụng, trải chiếu vũ rồng, làm lễ giao bôi.

Thấm thoát đã được một năm.

Nhưng cảnh tiên không khuây khỏa được lòng trần. Từ bỗng động lòng nhớ cố hương nên ngỏ ý với Giáng Hương. Biết không giữ được, nàng đành thưa với mẹ. Phu nhân biết Từ còn nặng lòng trần tục nên bằng lòng cho chàng một chiếc cẩm vân xa để đi về. Riêng Giáng Hương thì giao cho chàng một phong thư, dặn về đến nhà hãy mở ra xem.

Đến nhà, cảnh cũ không còn như xưa, vật đổi sao dời, thành quách, nhân dân hoàn toàn khác trước; duy cảnh núi sông là còn như thuở độ nào. Từ đem tên họ mình mà hỏi thăm người già cả, thì có người nói: “Thuở tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 60 năm.”

Từ bấy giờ mới hậm hục bùi ngùi, muốn lên xe mây để về lối cũ, nhưng xe đã hóa ra con chim loan bay mất rồi. Từ mở thư của Giáng Hương xem thì thấy (dịch Nôm):

Kết bạn loan ở trong mây, duyên trước đã dứt
Tìm núi tiên ở trên biển, hội sau khôn cầu.

Ý nói: duyên trước kết đôi loan phụng cùng nhau nay đã đoạn tuyệt rồi; ngày sau muốn tìm lại núi tiên cũng không được.

Về sau, Từ Thức mặc áo khinh cừu, đội nón lá, vào Núi Hoàng ở Huyện Nông Cống (Thanh Hóa) rồi đi mất.

Lê Quý Đôn, đời Hậu Lê, có bài thơ vịnh (dịch Nôm):

Câu chuyện thần tiên rất khó lường
Bích Đào động nọ đã hoang lương
Áo bông gió bụi: thân Từ Thức
Mày liễu xuân tàn: sắc Giáng Hương

Trống đá ngày qua nghe tiếng động
Nhủ diêm sương nhuộm mất mùi thường
Thiên thai mộng tưởng cho thêm khổ
Ai biết thiên thai cũng hí trường!

Bích Câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên gặp mỹ nhân:

Nhân duyên ví chẳng tự trời
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.

Từ lang tức là Từ Thức.

Tử Củ: Công tử Củ là con vua Hy Công nước Tề. Hy Công chết, anh Công tử Củ là Chư Nhi lên kế ngôi tức Tề Vương Công, chính sự rối nát bị Công tôn Vô Tri giết cướp ngôi. Bấy giờ Công tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là Công tử Tiểu Bạch chạy sang nước Cử. Vô Tri về sau bị Ung Lẫm giết để mưu việc đón Công tử Củ về nước Lỗ về nối ngôi, nhưng Công tử Tiểu Bạch được Bảo Thúc Nha hết lòng giúp sức nên đã về nước Tề trước và được lập làm vua tức Tề Hoàn Công. Tề Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Công tử Củ rồi lấy vợ Công tử Củ làm vợ mình.

Ðông Chu Liệt quốc: Tề Hoàn Công sai Thấp Bằng vào cầu hôn với vua nhà Chu, đến năm sau vua nhà Chu sai Lỗ Trang Công làm chủ hôn, đem Vương Cỏ gã cho Tề Hoàn Công. Nhân có việc chủ hôn ấy, Tề và Lỗ lại giao hiếu với nhau.

Tử Hạ: Người nước Vệ thời Xuân Thu, họ Bốc tên Thương, là học trò giỏi về Văn học của Khổng Tử. Ông chuyên về Kinh Thi. Những người học tập, nghiên cứu Kinh Thi các đời sau đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của ông. Sau khi Khổng Tử qua đời, ông mở trường dạy học ở Tây Hà. ngụy Văn Hầu tôn đãi ông vào bậc thầy.

Tử Khiên: Mẫn Tử Khiên, tên chữ là Tôn, người thời Xuân Thu, học trò Khổng Tử. Mẹ mất sớm, cha ông lấy vợ kế sinh được 2 con. Mẹ kế đối xử với ông rất cay nghiệt nhưng ông vẫn giữ tròn bề hiếu thảo. Mùa rét, mẹ kế cho ông mặc không đủ ấm. Một hôm, ông đẩy xe cho cha, trời rất cóng, tay rời càng xe. Cha ông biết người mẹ kế đối xử không tốt với con mình, định đuổi mẹ kế đi. Ông khóc và cố kêu van với cha xin đừng đuổi mẹ kế đi, vì có mẹ kế thì chỉ mình ông rét cóng thôi, nếu đuổi mẹ kế đi thì cả 3 anh em ông đều bị đói khổ cả. Cha nghe lời ông. Người mẹ kế biết chuyện, về sau đối xử với ông rất tốt.

Tử Lăng: tên tự của Nghiêm Quang đời Hán, là người rất tiết tháo, không tham chức vị, ở ẩn tại đất Phú Xuân.

Hậu Hán thư: ông người đất Dư Ðiêu Quận Cối Kê đời Ðông Hán, nổi danh từ nhỏ, cùng học và cùng chơi với Quang Vũ, khi Quang Vũ lên ngôi vua, Nghiêm Quang đổi tên họ giấu mình ở ẩn. Quang Vũ nhớ ông là người hiền mới cho người đi tìm khắp nơi, tả hình dáng và dung mạo của ông để tìm. Sau nhờ có người nước Tề dâng thư báo có người bận áo lông dê câu cá ở đoán chắc là Nghiêm Quang. Quang Vũ liền cho xe đến đón. Ông 3 lần từ chối, lần thứ tư Quang Vũ lại cho sứ đón, ông mới chịu về kinh đô Lạc Dương yết kiến Quang Vũ. Quang Vũ được tin Nghiêm Quang ở quán xá bèn lên xe đến ngay gặp Nghiêm Quang và mời cùng vào cung để đàm luận tình bạn cũ. Hai người thân thiết nằm cùng giường nói chuyện. Quang Vũ cố mời Nghiêm Quang giữ chức Gián Nghị đại phu. Nghiêm Quang không chịu nhận lời bèn từ tạ trở về cày ruộng ở núi Phú Xuân (Nay thuộc Phú Dương, đất Hàng Châu, Tỉnh Chiết Giang). Người đời sau gọi nơi Nghiêm Lăng câu là “Nghiêm Lăng lại”, vết tích này còn ở Huyện Ðồng Lư bên bờ Sông Chiết Giang, dưới chân núi Nghiêm Sơn, chỗ ông ngồi câu có từng lớp đá gọi là “Ðiếu đàn”(Hậu Hán thư, quyển 103).

tử quy: một số nguồn ghi đây là con chim cuốc. Thật ra đây là chim đỗ quyên 杜鹃, là tên chung của một số loài chim thuộc chi Cuculus, Họ Cuculidae (Họ Cu cu). Thí dụ: tiểu đỗ quyên 小杜鹃 tức cu cu nhỏ (tên khoa học: Cuculus poliocephalus); đại đỗ quyên 大杜鹃 tức cu cu thông thường (Cuculus canorus).

Tử quy – Bạch Vân Thủ Đoan thiền sư (dịch Nôm):

Tử quy ra rả bảo quay về
Ít kẻ trên đời lại chịu nghe
Nước biếc non xuân đầy trước mắt
Tìm đâu mới bỏ được lòng mê?

Tác giả mượn tiếng chim tử quy để nói việc tìm đạo. Tiếng chim tử quy nghe thảm thiết khiến lữ khách nghĩ đến việc quay về, nên chim này còn có tên là “tư quy” (nghĩ đến trở về) hoặc “thôi quy” (thúc giục trở về). Với tâm thể của một thiền sư, tác giả nghe tiếng cuốc kêu không khỏi cảm thán người tu học chậm ngộ đạọ. Sư cho rằng ngộ đạo không khó, nhưng nhiều người chấp mê mà không ngộ ra. Cũng như mọi người đều biết tiếng chim tử quy kêu gọi người ta sớm quay trở về, nhưng không một ai nghe tử quy kêu mà chịu quay về. Nhà thơ cho rằng Phật tính chân như giống như non xuân nước biếc đầy trước mắt, có thể nhìn thấy, chỉ cần minh tâm kiến tánh thì chỗ nào cũng có thể ngộ ra, không phải tìm đâu xa. Điều quan trọng là hành giả cần có ngộ tính, bản thân thể giải và tinh tấn tu hành.

Phan Trần:

Hoàng anh hót nhớ, tử quy kêu sầu.

Lê Ngọc Hân:

Tiếng tử quy thảm giục lòng thương.

Xem thêm mục: đỗ quyên (tên chim)

Tử Văn đốt đền: Truyền kỳ mạn lục: Ngô Tử Văn, tên Soạn, người Huyện Yên Dũng đất Lạng Giang vốn tính khẳng khái nóng nảy. Trong làng có một tòa đền thờ bộ tướng của Mộc Thạnh tử trận gần đấy, làm yêu quái trong dân gian. Tử Văn tức giận liền tắm gội chay sạch, khấn vái rồi đốt đền. Sau đó, chàng bị chúng kiện đến Diêm Phủ. Nhờ Diêm Vương tra xét kỹ lưỡng, mến phục chàng là người ngay thẳng nên cho được làm phán sự đền Tản Viên.

Tử vi: chỗ ở của vua.

Tây dịch tỉnh tức sự:

Thiên môn liễu sẵc liên Thanh Tỏa
Tam điện hoa hương nhập Tử vi

Trần Trọng San dịch:

Liễu xanh ngàn cửa liền Thanh Tỏa
Hoa ngát ba cung đến Tử Vi.

tựa cửa, tựa cổng: do chữ ỷ môn, ỷ tư. Nhạc Nghị là tướng nước Yên thời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72 thành. Tề chỉ còn 2 thành là Cử Châu và Tức Mặc. Tề Mân Vương thua chạy ra Cử Châu, có quan đại phu là Vương Tôn Giả hộ giá. Vương Tôn Giả mới 12 tuổi, chỉ còn mẹ già, Mân Vương thương cho làm quan. Tôn Giả theo phò Mân Vương đến nước Vệ thì cả hai lạc nhau. Giả chẳng biết Mân Vương ở đâu, bèn lẻn về nhà. Bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề ở đâu. Giả nói: “Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, rồi không biết vua đi ngả nào.”

Bà mẹ giận, nói: “Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong; mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong. Vua mong bề tôi có khác gì mẹ mong con. Mày làm tôi vua Tề, vua ban đêm chạy trốn, mày không biết vua đi đâu, sao lại bỏ về?”

Giả thẹn quá, lại từ biệt mẹ già đi tìm vua Tề, nghe vua ở Cử Châu, đến ngay để tìm. Nhưng khi đến đó mới biết vua Tề bị Tướng quốc Tề là Trác Xỉ mưu phản, tư thông với Nhạc Nghị giết chết vua Tề. Giả bèn trần tay áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ: “Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung. Nếu ai bằng lòng giết kẻ có tội ấy thì theo ta cùng trần tay áo bên tả.”

Người trong chợ cùng bảo nhau: “Người ấy ít tuổi mà có lòng trung nghĩa, chúng ta ai là người hiếu nghĩa, tưởng đều nên theo”. Chỉ trong một chốc có đến hơn bốn trăm người cùng trần tay áo bên tả.

Trác Xỉ, trước vốn tướng nước Sở. Khi Tề bại trận có sai sứ sang cầu viện vua Sở tiếp cứu, hứa cắt dâng cả đất Hoài Bắc cho Sở để đền ơn. Vua Sở sai đại tướng Trác Xỉ mang 20 vạn quân lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận đất, nhưng lại mưu mẹo dặn Xỉ cứ liệu chừng mà thi hành, hễ có lợi cho Sở thì làm ngay. Xỉ được Tề Mân Vương lập làm tướng quốc. Quyền hành đều về tay Xỉ.

Xỉ thấy quân Yên thế mạnh, sợ cứu Tề vô công, bèn mật sai sứ tư thông với Nhạc Nghị, định giết Mân Vương rồi cùng Yên chia đất Tề, và yêu cầu Yên để cho mình làm vua. Tướng Yên là Nhạc Nghị ưng chịu.

Trác Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Lý, mời Mân Vương đến duyệt binh, đoạn bắt Mân Vương rút gân treo lên nóc nhà. Sau ba ngày, Mân Vương mới tắt hơi. Xỉ liền về Cử Châu, muốn tìm thế tử vua Tề mà giết nốt nhưng tìm không được. Xỉ liền làm biểu tâu với vua Yên kể công mình, nhờ Nhạc Nghị chuyển đệ cho.

Giữa lúc ở Cử Châu, Trác Xỉ vào cung vua Tề uống rượu say sưa, truyền mỹ nữ tấu nhạc làm vui. Quân Sở đông nhưng đều đóng ở ngoài thành, chỉ có vài trăm quân dàn hầu ở cửa cung. Vương Tôn Giả đem 400 người xông vào cướp khí giới của quân lính, tiến vào cung bắt được Trác Xỉ. Xỉ bị xả thây, bằm nát thành nước thịt. Quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn, một nửa đầu hàng nước Yên.

Vương Tôn Giả truyền đóng chặt cửa thành, cố giữ.

Từ lời nói của bà mẹ Vương Tôn Giả về việc: “tựa cửa mà mong”, về sau trong văn học người ta thường dùng chữ “tựa cửa”, “tựa cổng” để chỉ việc cha mẹ trông con.

Chinh phụ ngâm, đoạn nói về tình gia thất của khách chinh phu, có câu:

Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.

Đoạn trường tân thanh, lúc Kiều ở lầu Ngưng Bích của Tú Bà, nhớ cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Riêng có chữ “hôm mai” đi theo chữ “tựa cửa” là vì trong chữ sách, mẹ của Vương Tôn Giả có nói đến việc con đi buổi mai và buổi chiều.

Tỳ Bà đình: Ðình Ty Bà, ngôi đình được xây dựng để kỷ niệm Bạch Cư Dị ở đầu bến Tầm Dương, bến sông phía Tây Huyện Cửa Giang, Tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, nơi Bạch Cư Dị gặp cô gái đánh đàn Tì bà và viết bài thơ Tỳ bà hành nổi tiếng.

Tỳ bà hành: đây là một trong những kiệt tác thơ cổ của Trung Quốc.

Nhà thơ Bạch Cư Dị (772–846) đang làm quan ở kinh đô, bị giáng chức về làm Tư Mã Quận Cửu Giang (tức Quận Giang Châu). Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe văng vẳng tiếng đàn từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó. Tiếng đàn thánh thót, lúc biến hóa lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt luyến tiếc. Ông ghé thuyền, và gặp một kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Cô gái vốn là một tay đánh đàn tỳ bà nổi tiếng ở kinh đô Tràng An lưu lạc về đây.

Bạch Cư Dị cảm thấy mình đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng. Cô đào gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng xao động người nghe. Người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng nhan đa truân và bộc bạch thổ lộ tâm tình riêng tư của mình cho ông nghe. Cảnh và tình hòa hợp. Âm đàn và tâm trạng chan hòa cảm xúc, cảnh ngộ. Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hòa mình với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ. Chợt có mối đồng cảm, đồng tình giữa người thơ long đong trên bước đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lãng của người ca nữ đáng thương.

Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị tài hoa sáng tác một mạch bài Tỳ bà hành đầy những hình ảnh tâm trạng thực và sinh động, rồi ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân tình tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lãng đãng che phủ khoan thuyền. Trời không lất phất những hạt mưa.. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong lòng ai?

Ở đây, trong một lần tiễn bạn ở bến Sông Tầm Dương, nhà thơ gặp một cô gái giang hồ trên sông, Nghe đàn tỳ bà, lại nghe cô gái kể lể về cảnh ngộ rủi ro, nhà thơ cảm khái làm bài Tỳ Bà hành nổi tiếng được truyền tụng đến ngày nay và được Phan Huy Ích dịch ra tiếng Việt, mở đầu bằng hai câu:

Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị
Phan Huy Thực (A) dịch thơ

Ty ba hanhBến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

Say những luống ngại khi hầu rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.

Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh
Dời thuyền theo hỏi thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.

Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn vài tiếng dạo qua
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.

[…]

Há chẳng có ca rừng địch nội
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.

Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca
Tần ngần dường cảm lời ta
Rén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.

Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

(A) Một số tài liệu (trong đó có Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm) ghi người dịch là Phan Huy Vịnh (tức con của Phan Huy Thực) là không đúng.

Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Bản dịch của Phan Huy Thực (được nhiều nguồn ghi sai là Phan Huy Vịnh) được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc nhất. Bản dịch theo thể song thất lục bát, thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ. Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, làm cho bản dịch có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch. Từ lâu bản dịch Tỳ bà hành đã được phổ cập rộng rãi và được coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam.

Theo Ngô Văn Phú:

Riêng bản dịch Tỳ bà hành sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích. Năm 1986, UNESCO tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia thuộc Liên hợp quốc. Nghệ sĩ Quách thị Hồ thể hiện bài bản dịch Tỳ bà hành bằng thể hát nói, và được tặng giải thưởng cao. Đó cũng là sự phát triển, kết hợp tài tình giữa lời thơ và âm nhạc.

Lời tựa của tác giả Bạch Cư Dị:

Năm Nguyên Hòa thứ 10, ta về giữ chức Tư mã ở Quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến Sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn Tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiếng đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng: “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ bà hành.

Bài Tỳ bà hành có tình tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu, để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời. Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía… Ông đã nói “sự việc dẫn dắt ở ngoài, tình lý rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh”. Đó là những lời bộc bạch chân tình, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đãi trong một xã hội phong kiến đầy dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đã gióng lên tiếng chuông cảnh cáo một chế độ phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, tình cảm, hạnh phúc, và quyền sống của người phụ nữ. Nhà thơ đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên Sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống.

Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đã nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca:

Cái cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa.

(Nguyễn Khắc Phi dịch).

Bài thơ Tỳ bà hành tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thúy bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố: tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa.

tỷ dực: chắp cánh. Xem chắp cánh, liền cành.

Cung oán ngâm khúc:

Tranh tỷ dực nhìn ra chim nọ
Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia.

U, Lệ: U Vương và Lệ Vương, hai người làm nhiều điều bạo ngược, vô đạo.

U Vương say đắm Bao Tự, tìm đủ mọi cách để chiều nàng. Bao Tự thích nghe tiếng xé lụa, U Vương bèn truyền cho quân giữ kho mỗi ngày đem trăm tấm lụa, sai bọn cung nữ khoẻ mạnh đứng xé cho Bao Tự nghe. Bao Tự không hay cười. U Vương tìm mọi cách cho nàng cười mà không được.

Có kẻ nịnh thần tâu: “Quắc Công tiên vương ngày xưa có lập ra hơn 20 cái tòa đặt ở Ly Sơn, lại có chế mấy chục cái trống lớn phòng khi có giặc thì đánh trống hay đốt lửa để các nước chư hầu biết mà đến cứu. Lâu nay thiên hạ thái bình, không đốt bao giờ cả. Nếu nhà vua muốn cho Vương hậu cười thì xin nhà vua cùng Vương hậu ra chơi Ly Sơn (Nay thuộc Thiểm Tây) đốt lửa lên để chư hầu kéo quân đến, rồi đến mà không có giặc thì tất nhiên Vương hậu trông thấy phải bật cười.” U Vương cho là phải bèn cùng Bao Tự ra chơi Ly Sơn rồi cùng đốt lửa. Các nước Chu hầu thấy lửa tưởng là có biến bèn bôn ba đem quân kéo về Ly Sơn. Bao Tự đứng trên lầu trông thấy các nước chư hầu kéo đến mà chẳng có gì cả, thích chí vỗ tay cười ầm lên, U Vương thỏa thích khen: “Một tiếng cười của ái khanh đủ trăm vẻ đẹp.”

Bao Tu

Về sau, khi kinh đô có biến thật sự, đốt lửa, chư hầu sợ bị lừa nên không ai đến cứu cả. U Vương bị giết chết ở chân núi Ly Sơn. (Thông chí, Liệt nữ truyện, Ðông Chu liệt quốc).

Cung trung bảo huấn: “Lý sơn cười một phát, Bao Tự kia lầm hết chư hầu. Vị Thủy tắm đôi phen, Dương phi nọ độc hòa thiên hạ.”

U Châu: cố đô của nước Yên thời Chiến Quốc, sau bị Tần Thủy Hoàng thôn tính. Ngày nay là thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc.

Ung Sỉ: trước theo Hán Cao Tổ được sai giữ đất Phong. Khi Phong bị Ngụy chiếm, Sỉ hàng Ngụy, Hán Cao Tổ không có đường về phải dời sang đất Bái.

uyên liệt: các quan đứng xếp hàng như dãy chim uyên.

Tây dịch tỉnh tức sự:

Bình minh đoan hốt bồi uyên liệt
Bạc mộ thùy tiên tín mã quy

Trần Trọng San dịch:

Bình minh cầm hốt theo uyên đứng
Sẩm tối buông roi mặc ngựa về

vách quế: Các cung cho cung nữ ở thời xưa thường dùng gỗ quế để ốp tường (nhằm tạo không khí ấm áp) nên gọi là vách quế.

Cung oán ngâm khúc:

Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mãnh vũ y lạnh ngắt như đồng.

vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề: “Vành ngoài” là bề ngoài, cách đối đãi bề ngoài với khách. “Bảy chữ” là bảy việc ghi bằng bảy chữ để dễ nhớ. Bảy việc này là bảy việc làm ở ngoài để khách say mê.

Theo BS Hồ Đắc Di:

  1. Khấp: khóc, dùng nước mắt để làm động lòng thương cảm của khách làng chơi. Phải khóc lóc như thật để chứng tỏ mình thành tâm, thiệt ý. Tú bà đã dạy Kiều dùng nước gừng sống tẩm vào khăn tay để lau nước mắt thì nước mắt sẽ không khô mà còn tuôn ra như suối.
  2. Tiễn: cắt tóc, rủ khách cùng mình mỗi người cùng cắt một mớ tóc, kết thành một sợi rồi chia cho nhau buộc vào hai cánh tay, làm lễ “kết tóc” biểu tỏ thủy chung bền chặt, khách sẽ tưởng là mình chân thành mà không nỡ bỏ.
  3. Thích: đâm, chích. Lấy cây trâm chích vào cổ tay hay trên bắp đùi mấy chữ “Thân phu mỗ nhân” (người chồng thân yêu tên là mỗ), khách thấy vậy càng thêm yêu quý, tin tưởng.
  4. Thiêu: đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt của chàng và nàng. Sau khi thề thốt, cả hai áp người vào nhau cùng đốt các huyệt trên bụng, trên cánh tay, cổ tay. Phải là người cao tay ấn mới sử dụng thủ pháp này.
  5. Giá: hẹn hò với khách, cưới hỏi làm vợ chồng. Sau khi điều tra biết khách là kẻ giàu có thì thủ thỉ, rủ rê, bàn chuyện cưới nhau. Tất nhiên khách muốn cưới thì phải bỏ ra một số tiền lớn để chuộc mình ra.
  6. Tẩu: có nghĩa là chạy trốn. Đây là kế “đà đao”. Nếu thấy dan díu đã lâu, khách hết tiền, muốn chuộc không có tiền mà muốn chơi cũng không còn tiền đâu chơi tiếp thì chỉ còn cách tống khứ khách đi cho rãnh. Lúc ấy phải giả vờ rủ khách đi trốn, hẹn giờ hẹn chỗ nhưng không đến, đánh tiếng cho lính đi bắt kẻ bỏ trốn, thế tất khách phải sợ mà… trốn thật.
  7. Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ, trước mắt cho chàng thấy. Nếu biết y có thê thiếp rối, không thể lấy mình được thì càng làm già đến độ rủ y “cả hai cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!”. Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, y cũng không tiếc.

“Tám nghề” là tám cách ân ái với khách:

  1. Tiếp người bé nhỏ thì dùng cách kích cô thôi hoa (đánh trống giục hoa).
  2. Tiếp người to mập thì dùng cách kim liên song tỏa (sen vàng khóa chặt hai vế).
  3. Tiếp người nóng tính thì dùng cách đại xiển kỳ cô (mở tung cờ trống).
  4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách mạn đả khinh khao (chậm đánh khẽ rung).
  5. Tiếp người mới vỡ lòng thì dùng cách khẩn thuyên tam trật (ôm chặt ba chân).
  6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách tả trì hữu trì (tay mặt ôm, tay trái giữ).
  7. Tiếp người si tình thì dùng cách tỏa tâm truy hồn (khóa lấy tâm, theo dõi thần hồn).
  8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách nhiếp thần nhiệm tỏa (thu hết tinh thần làm ra vẻ dún dẩy).

Đoạn trường tân thanh:

Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.

Vạn bệnh hồi xuân: Sách thuốc của Cung Ðình Hiền đời Minh.

Vạn Lý Trường Thành: Tên có nghĩa “Thành dài chục nghìn lý”, gọi tắt là Trường Thành, gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn kí-lô-mét từ dọc biên giới Trung Quốc khi xưa. Nhà Chu bắt đầu xây dựng từ thế kỷ 5 tCN, sau đó Tần Thủy Hoàng ra lệnh nối lại và xây thêm trong giai đoạn 220–200 tCN. Nhà Minh xây thêm 8.850 km trong thế kỷ 16, và một ít đoạn còn được bảo tồn khá tốt cho du khách tham quan. Một nghiên cứu khảo cổ được công bố năm 2012 kết luận Vạn Lý Trường Thành có chiều dài tổng cộng 21.196 km. Một số lớn chiều dài thành cũ đã sụp đổ vì được xây bằng đất, mắt thường không thể trông thấy, nên con số này chỉ là để tuyên truyền chứ không có giá trị thực tế.

Van Ly Truong Thanh (Andydorn)

Mục đích việc xây Vạn Lý Trường Thành được cho là nhằm bảo vệ Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, Đột Quyết và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện nay thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Các mục đích khác bao gồm kiểm soát biên giới, thu thuế trên hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy định hoặc khuyến khích thương mại, kiểm soát xuất nhập cảnh. Hơn nữa, đặc điểm phòng thủ của Vạn Lý Trường Thành được tăng cường bằng việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng quân, báo hiệu có giặc bằng khói hoặc lửa. Bức tường thành còn là một tuyến giao thông vận tải.

Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ (“đất Trung Quốc gốc”) và Mãn Châu đến Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.

Có ý kiến cho rằng về quân sự, đây là một thành lũy xây dựng tốn kém nhất, ngu xuẩn nhất, vô ích nhất. Sự vô dụng đó bộc lộ ngay từ thế kỷ 13, khi Thành Cát Tư Hãn xua quân xóa nhà Kim, chiếm Yên Kinh. Nhà Minh, triều đại Hán tộc cuối cùng, xây thêm 8.850 km không cứu nổi Chu Do Kiểm phải thắt cổ tự tử và tộc Mãn Châu – mà người Hán gọi là “man di” – tràn xuống Trung nguyên, lập ra nhà Thanh.

Lời đồn đại cho rằng có thể thấy Vạn Lý Trường Thành từ Mặt Trăng là không đúng; độ cao tối đa để thấy được công trình này là 290 km.

Vạn Lý Trường Thành làm nền cho câu chuyện của nàng Mạnh Khương. Xem mục: Mạnh Khương Nữ.

Chinh phụ ngâm:

Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

vạn thặng: muôn cỗ xe, là số lượng chỉ ngôi thiên từ mới có.

văn phòng tứ bảo: bốn thứ đồ dùng văn phòng của vua: bút, nghiên, giấy, mực.

Văn Thiên Tường (1236-1283): thừa tướng trung nghĩa và cũng là thi sĩ nổi tiếng cuối đời Nam Tống. Sau khi dựng nên triều Nguyên năm 1271, đến năm 1273 Nguyên cử đại binh đánh Tống, chưa đầy hai năm đã áp sát kinh đô Lâm An. Quân Mông Cổ đi đến đâu là giết chóc và đốt phá đến đó, Nam Tống đang đứng trước mối uy hiếp nghiêm trọng. Văn Thiên Tường là một anh hùng dân tộc chống xâm lược xuất hiện trong tình thế này.

Tháng 1 năm 1275, toàn tuyến phòng thủ của quân Tống bên bờ Trường Giang bị quân Nguyên phá vỡ, triều đình buộc phải hạ chiếu cho các địa phương tổ chức binh mã cần vương. Văn Thiên Tường lập tức quyên tiền làm quân phí, chiêu mộ các hào kiệt địa phương tổ chức thành một đạo nghĩa quân gồm hơn 10 nghìn người tiến về Lâm An. Triều đình ra lệnh cho ông dẫn quân đi cứu viện Thường Châu. Nhưng vì thế lực quân Nguyên quá lớn mạnh, tuy nghĩa quân Giang Tây chiến đấu anh dũng, nhưng cuối cùng vẫn không sao chống đỡ nổi quân Nguyên.

Năm 1277, trước sức ép tấn công toàn diện của quân Nguyên, Văn Thiên Tường trên đường rút lui bị tướng Nguyên là Trương Hoằng Phạm chặn đánh, rồi bị bắt làm tù binh. Sau khi uống thuốc độc tự sát không thành, Văn Thiên Tường bị Trương Hoằng Phạm bức viết thư dụ Trương Thế Kiệt (người kiên trì kháng chiến chống Nguyên) đầu hàng. Văn Thiên Tường nói: “Tôi đã không thể bảo vệ được cha mẹ, thì chẳng lẽ lại đi dạy người ta phản bội lại cha mẹ mình ư?”

Trương Hoằng Phạm vẫn một mực bức ép ông phải viết thư.

Văn Thiên Tường bèn chép hai câu cuối trong bài thơ mà ông đã viết trước đây đưa cho hắn:

Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
.

Bài thơ như sau:

Quá Linh Đinh dương – Văn Thiên Tường
Qua biển Linh Đinh – mailang dịch

Đèn sách gian lao mộng ước thành
Bốn năm thác loạn cuộc giao tranh
Bông tan theo gió tình non nước
Bèo dạt trong mưa cảm phận mình
Trên sóng Linh Đinh chừng lạc lõng
Đầu ghềnh Hoàng Khủng nhắc mà kinh
Đời người tự thuở ai không chết
Cốt giữ lòng son rọi sử xanh.

Triều Nam Tống bị diệt vong, Nguyên Thế Tổ lệnh cho Trương Hoằng Phạm áp giải Văn Thiên Tường về Đại Đô giam lỏng.Vua Nguyên trước tiên cử Lưu Mộng Viêm nguyên là tả thừa tướng Nam Tống nay đã quy hàng nhà Nguyên, đến dụ Văn Thiên Tường đầu hàng, nhưng bị Văn Thiên Tường mắng cho một trận thậm tệ rồi quát đuổi đi. Nguyên Thế Tổ tức giận bèn quyết định tự mình xét hỏi Văn Thiên Tường, nhưng cũng bị ông từ chối.

Từ đó, Văn Thiên Tường bị ngồi tù đến 3 năm. Ông nhận được thư của con gái, qua đó được biết vợ và hai con gái đều làm nô lệ trong cung, trong thư cũng ám thị ông chỉ có đầu hàng thì gia đình mới mong có ngày đoàn tụ. Văn Thiên Tường lòng đau như cắt, ông không muốn vì vợ con mà mất hết khí tiết, mới viết thư cho em gái nói rằng; “Nhận được thư của Liễu Nữ, lòng đau như cắt, đời ngươi ai chẳng có tình ruột thịt máu mủ, nhưng nay đã đến nước này chỉ cầu một chết mà thôi, không còn cách nào khác”.

Nguyên Thế Tổ thấy uy hiếp vẫn không thể khuất phục được Văn Thiên Tường, bèn quyết định triệu kiến để khuyên Văn Thiên Tường. Nhưng Văn Thiên Tường vẫn một mực không chịu quỳ gối trước mặt vua.

Nguyên Thế Tổ không bức ép, chỉ nói rằng: “Ngươi ở đây đã lâu ngày rồi, nếu chịu quy thuận trung thành với trẫm, thì trẫm có thể ban cho người một chức nào đó”.

Văn Thiên Tường bác lại rằng: “Tôi là tể tướng của Đại Tống, nay nhà nước bị diệt vong thì tôi chỉ mong được chóng chết mà thôi, chứ không mong được sống lâu làm gì”.

Nguyên Thế Tổ lại hỏi rằng : “Vậy ông muốn thế nào?”. Văn Thiên Tường đáp: “Chỉ mong được chóng chết là đủ rồi”. Nguyên Thế Tổ chẳng còn cách nào khác, đành ra lệnh hành quyết Văn Thiên Tường.

Ngày hôm sau, Văn Thiên Tường bị đưa ra pháp trường. Trước khi hành hình, viên giám quan hỏi ông rằng: “Tể tướng còn điều gì muốn nói không? Nếu hối hận còn có cơ hội khỏi chết.” Văn Thiên Tường quát lên rằng: “Chết thì chết, còn gì phải nói!”

Văn Thiên Tường mất vào lúc 47 tuổi.

Trong thời gian ngồi tù, Văn Thiên viết được khá nhiều bài thơ, trong đó bài Chính khí ca tán dương khí chính đại của các trung thần nghĩa sĩ là tác phẩm bất hủ.

Van Thien Tuong
Tượng Văn Thiên Tường

Xem thêm mục: chính khí.

Ghi chú: Nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt (trị vì 1260-1294) cũng là người có tham vọng xâm lăng cả Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java nhưng không thành. Quân Nguyên tấn công Đại Việt ba lần đều thất bại, vào các năm 1258, 1285 (sau khi nhà Tống bị Nguyên diệt) và 1288 (lần này với Trận Bạch Đằng nổi tiếng).

Ỷ Thiên Đồ Long ký – Kim Dung

Quận chúa Triệu Mẫn của Mông Cổ dẫn thuộc hạ đến khuyến dụ Trương Tam Phong, chưởng môn phái Võ Đang, quy thuận.

Triệu Mẫn nói: “Vãn sinh có một lời khuyên bảo, không hiểu Trương chân nhân có muốn nghe không?”

Trương Tam Phong đáp: “Xin nói ra.”

Triệu Mẫn nói: “Dưới khắp gầm trời này, không chỗ nào không phải là đất của hoàng đế. Tất cả mọi thứ trên bờ cõi của nhà Vua, không gì không phải là phận bầy tôi. Hoàng đế Mông Cổ chúng ta uy trùm bốn bể, nếu như Trương chân nhân tòng thuận thì hoàng thượng lập tức tấn phong, cả phái Võ Đang đều được vinh sủng, cả bọn Tống đại hiệp ai nấy đều an toàn, không còn gì phải nói nữa.”

Trương Tam Phong ngẩng đầu nhìn xà nhà, lạnh lùng đáp: “Minh giáo tuy làm nhiều điều bất nghĩa, càn rỡ không đâu vào đâu, nhưng xưa nay vẫn chống lại người Mông Cổ, không biết qui thuận triều đình từ bao giờ? Lão đạo thật là quê mùa kém hiểu biết quá!

Triệu Mẫn đáp: “Bỏ chỗ tối vào chỗ sáng, xưa nay kẻ am hiểu thời vụ mới là trang tuấn kiệt. Phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí thần tăng đổ xuống, ai ai cũng quy thuận, tận trung với triều đình. Bản giáo chẳng qua nhìn thấy được đại thế nên đi theo các bậc hiền hào, chứ có gì đâu?

Trương Tam Phong hai mắt sáng quắc, nhìn thẳng vào Triệu Mẫn nói: “Người Nguyên tàn bạo, tàn hại bách tính, khiến cho hôm nay thiên hạ quần hùng đều nổi lên, chính là lúc đuổi quân Hồ Lỗ, lấy lại giang sơn. Chúng ta phàm đã là con cháu Hoàng Đế ai ai mà chẳng có chí đuổi quân Thát Đát, đó mới chính là đại thế phải theo. Lão đạo tuy là người xuất gia không lý chuyện đời, nhưng cũng biết được đâu là đại nghĩa. Không Văn, Không Trí là bậc đương thế thần tăng, lẽ nào khuất phục trước thế lực? Sao cô nương lại nói năng lăng nhăng, lộn xộn như thế?”

Đằng sau Triệu Mẫn vọt ra một đại hán, lớn tiếng quát lên: “Lão đạo đần độn kia, nói năng không biết nặng nhẹ gì cả. Phái Võ Đang chỉ trong chớp mắt là bị tiêu diệt rồi, lão không sợ chết, không lẽ hơn trăm đạo nhân đệ tử trên núi này, đứa nào cũng không sợ chết?”

Kẻ đó nói năng trung khí sung túc, thân thể cao to, bắp tay gân guốc, hình tướng thật là uy võ.

Trương Tam Phong liền cất tiếng ngâm:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
.

Đây là hai câu thơ của Văn Thiên Tường. Khi Văn Thiên Tường khẳng khái chết vì nghĩa thì Trương Tam Phong tuổi còn nhỏ, rất kính ngưỡng vị thừa tướng anh hùng này. Về sau ông hay than thở khi đó võ công chưa thành, nếu không thể nào cũng xả thân cứu ông ta thoát nạn, nay đến lúc vào cảnh sinh tử quan đầu, tự nhiên ngâm ra hai câu thơ trên.

Ông ngừng lại một chút nói tiếp: “Xem ra Văn thừa tướng cũng còn có chỗ chấp nê, chỉ cần giữ mình một tấm lòng.”

Văn Vũ: Văn Vương và Vũ Vương, hai vua sáng nghiệp nhà Chu.

Thời Vua Trụ nhà Ân, Văn Vương làm Tây Bá Vương dựng nước ở chân núi Kỳ Sơn (Nay thuộc Thiểm Tây), ra sức tích điều thiện, làm điều nhân, thi hành chính đạo. Sau có người gièm nên ông bị Vua Trụ cầm tù ở Dữu Ký. Có kẻ bầy tôi là Tán Nghi Sinh dâng con gái đẹp cho Vua Trụ, Văn Vương mới được phóng thích trở về nước cũ.

Chu Vũ Vương là con Chu Văn Vương, tên Phát. Cuối đời nhà ân, kế vị cha giữ chức Tây Bá Vương. Vua Trụ vô đạo, Vũ Vương thống lĩnh quân chư hầu đông chinh đánh bại Vua Trụ ở Mục Dã, phế nhà ân, dựng nghiệp nhà Chu, đóng đô ở đất Cảo, ở ngôi được 19 năm.

Văn Vương và Vũ Vương được nhà Nho xem là những ông vua hiền.

Văn Vương: Chu Văn Vương, xem Văn Vũ.

vắng như Chùa Bà Đanh: có hai cách giải thích.

Theo Trịnh Mạnh (2003), Chùa Bà Đanh còn được gọi là Chùa Châu Lâm, được dựng lên từ thời Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở ven Hồ Tây Hà Nội. Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp lấy khu này để xây trường Trung học Bảo hộ (nay là trường Chu Văn An) thì Chùa Châu Lâm được dời đi nơi khác (ở cuối làng Thụy Khuê). Từ khi dời chỗ, số người đến lễ bái vắng hẳn đi.

Theo Wikipedia_Chùa Bà Đanh, Chùa Bà Đanh nằm ở Xã Ngọc Sơn, Huyện Kim Bảng, Hà Nam. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 khu vực Chùa Bà Đanh nằm tách ra xa khu dân cư. Tại đây cây cối um tùm nên vắng người qua lại. Mỗi khi dân làng có việc phải lên chùa vào buổi tối lại phải đốt đuốc và gõ chiêng gõ trống để xua đuổi thú dữ. Chính vì vậy dân gian truyền tụng câu: “Vắng như Chùa Bà Đanh”.

Đức Văn có ý tương tự:

Có nhiều cách lý giải về sự ra đời của câu nói “vắng như Chùa Bà Đanh”, nhưng theo ý kiến của nhiều người, là do Chùa Bà Đanh nằm ở vị trí u tịch, xa dân cư, ba mặt là sông, rừng rậm chắn, lối đi độc đạo, lại có nhiều thú dữ nên không ai dám vào. Cách duy nhất an toàn là chèo thuyền qua Sông Đáy, nhưng vì bất tiện nên người hành hương thưa thớt.

Chua Ba Danh
Chùa Bà Đanh nằm cạnh Sông Đáy

Ca dao Hà Nội có câu :

Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.

vân hòa: tên một thứ đàn cổ.

vân lộ: xem thanh vân.

Nguyễn Công Trứ:

Ðường mây rộng thênh thang cử lộ
Nợ tang bồng tay trắng vỗ tay reo

Vân Mộng: một hồ lớn ở Tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, xưa là 2 đầm Vân và Mộng. Ðầm Vân ở Giang Bắc, đầm Mộng ở Giang Nam, sau cả hai được bồi đắp thành một vùng đất màu mỡ, dân cư đông đúc, cảnh vật rất đẹp nên gọi chung là Vân Mộng.

vầng ô: Mặt trời. Xem kim ô.

vẫy mặt trời lùi lại: Xưa Lỗ Thương Công đánh nhau với nước Hàn, đang đánh hăng thì trời tối, ông bèn vung kích vẫy lui mặt trời, mặt trời phải quay lui lại 3 xá (xá: đơn vị chiều dài cổ, 1 xá = 30 dặm).

Câu trên lấy nghĩa từ chữ huy qua.

Sách Hoài Nam tử nói rằng Lỗ dương Công con Tư Mã Tử Kỳ, cháu Sở Bình Vương thời Chiến Quốc.

Văn tế Ðặng Nguyên Cẩn và Ðặng Thúc Hứa – Phan Bội Châu:

Mưa gió thâu đêm gà gáy, lời can trường gắn bó chuyện đồng cầu
Ðòng Lỗ đương toan kéo mặt trời tà, hăng hái nam bôn bắc tẩu.

vè lô tô: đây là một mảng văn học dân gian độc đáo. Vè lô tô nhằm tạo tâm trạng hồi hộp, phấn khích lẫn vui tươi, thậm chí hài hước do ngôn từ bài vè mang đến, tạo cuộc chơi nhiều hứng thú. Thử tưởng tượng người tổ chức đưa ra ngay mỗi con số mà không nói năng gì để mở đầu thì cuộc chơi sẽ trở thành quá nhàm chán!

Dưới đây là một ví dụ về bài vè lô tô.

Vè lô tô Một Lúa (2013)

(1) Chúng tôi bốn đứa/ Bạn xóm quê mùa/ Nước chát đồng chua/ Nắng mưa dầu dãi/ Chữ ít không ngại/ Kính chúc bà con/ Năm tháng vuông tròn/ Muôn điều tươi tốt/ Là con số một

(2) Hôm nay đông đủ/ Quý bác quý cô/ Tôi kêu lô tô/ Cờ ra con mấy/ Con mấy cờ ra/ Cháu con đi xa/ Tết đến quay về/ Sắm sửa bộn bề/ Nhà nhà hạnh phúc/ Trong ngoài sung túc/ Chưng dọn nghiêm trang/ Cầu dừa đủ sang/ Cầu dừa đủ xoài/ Cờ ra con hai

(3) Mai đào tươi thắm/ Vạn thọ rực vàng/ Vui đón xuân sang/ Người người hạnh phúc/ Chân chành kính chúc/ Cô bác gần xa/ Cờ ra số ba

(4) Chúc mừng cô chú/ Trúc mả thanh mai/ Xứng lứa vừa đôi/ Đẹp quá đi thôi/ Xóm làng hâm mộ/ Ngọc tàng ẩn lộ/ Sáng chói rạng ngời/ Tiếng tốt để đời/ Nơi nơi chốn chốn/ Cờ ra số bốn

(5) Nói mà không thấy/ Thì chẳng ai tin/ Thuốc uống không linh/ Coi chừng thuốc dõm/ Thầy bà lõm bõm/ Tiền mất thiệt thân/ Bà con tương lân/ Giúp nhau khốn khó/ Đừng tin không rõ/ Tránh chỗ lang băm/ Là con số năm

(6) Gió xuân phe phẩy/ Cành lá đong đưa/ Sớm nắng chiều mưa/ Bán buôn tần tảo/ Vợ hiền chồng thảo/ Xứng đáng cả đời/ Nhiều vốn ít lời/ Giữ tròn nhân đạo/ Là con số sáu

(7) Ở ăn phải đạo/ Giữ vẹn phận người/ Đừng luận hèn sang/ Đừng bàn tuổi tác/ Tinh thần thể xác/ Trong sạch thẳng ngay/ Là con số bảy

(8) Nghĩa mẹ công cha/ Phía nào cũng nặng/ Tợ bể tợ non/ Con giữ lòng son/ Sớm thăm tối viếng/ Nắng mưa xoay chuyển/ Vẫn giữ một lòng/ Theo thẳng tránh cong/ Đơn sai chẳng dám/ Cờ ra số tám

(9) Tiền nào của nấy/ Xứng của xứng người/ Chú Cuội chây lười/ Đêm về trằn trọc/ Lén chọc chị Hằng/ Chị không lăng nhăng/ Núp sau nhánh ổi/ không làm chuyện lỗi/ Giữ đạo trung trinh/ Cờ ra số chín

(10) Gìn dáng giữ da/ Quý cô quý bà/ Công dung ngôn hạnh/ Người đẹp đừng chảnh/ Không đẹp chớ lo/ Tiếng tốt thơm tho/ Nằm trong tâm khảm/ Sắc tài chỉ tạm/ Quý ở đạo người/ Là con số mười

Xem thêm: Giải Trí Việt 24h (2020); Nam Air (2013).

vẻ phù dung: Vẻ đẹp như hoa phù dung.

Trong bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị tả sắc đẹp Dương Quý phi có viết: “Phù dung như diện liễu như my” (Hoa phù dung như khuôn mặt đẹp của nàng và lá liễu như nét lông mày).

Cung oán:

Vẻ phù dung một đóa khoe tươi.

Vi Thừa Khánh: không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết ông sống vào khoảng Vũ hậu (684-705) và Trung Tôn (684-685, 705), quê Tỉnh Hà Nam. Đỗ tiến sĩ, giữ chức Phụng Các Thị Lang. Khi Trương Dịch Chi bị giết, ông bi biếm ra Lĩnh Nam, sau trở về Kinh và được phong tước Phù Dương Huyện Tử. Văn thơ gồm có 16 quyển.

Vi Trang (836(?) hay 860(?)-910): tự là Đoan Kỷ, người đất Đỗ Lăng, Quận Kinh Triệu, Tỉnh Thiểm Tây. Năm 894 (đời Đường Chiêu Tông), thi đậu tiến sĩ. Làm chức Hiệu thư lang, rồi đổi ra làm Phán quan tại Tây Xuyên. Sau được Tây Xuyên Tiết độ sứ Vương Kiến dùng làm Chưởng thư ký. Khi Vương Kiến xưng Đế, lập ra nhà Tiền Thục (thời Ngũ đại thập quốc), Vi Trang được phong làm tể tướng. Tại Thành Đô, ông làm nhà trên nền cũ thảo đường của Đỗ Phủ ở Hoàn Hoa khê. Ông đi sứ sang Thục rồi mất ở đó.

Ông sinh hoạt rất giản dị, khâm hoài khoát đạt. Tác phẩm của ông có Hoán hoa tập, Hoán hoa từ. Trong tập Luận từ tạp trước, Chu Tế có nói: “Từ của Đoan Kỷ thanh diễm tuyệt vời”.

Vi Trang là tác giả bài Tần phụ ngâm nổi tiếng, gồm 1666 chữ, tả cành chiến loạn trong lúc Hoàng Sào xâm nhập Trường An. Trên thi đàn đời Đường, Vi Trang có địa vị trọng yếu.

Vi Trung: Trương Hoa đời Tấn đón mời ẩn sĩ là Vi Trung, Trungthác bệnh không ra, người ta hỏi cớ, Trung nói: Ta còn đương lo sóng rớt ở cái vực sâu kia nó tràn đến ta, há lại xắn áo mà lội nữa ư?”

Vi Ứng Vật (737-792) người thời Trung Đường (cuối thế kỷ thứ 7 đến cuối thế kỷ thứ 8), người Kinh Triệu, lúc đầu làm Tam Vệ lang cho Đường Huyền Tông (712-755), về sau chịu khó đọc sách, đến đời Đức Tông (780-804) làm quan thứ sử Tô Châu có nhiều thiện chính. Ông tính cao khiết, thích đốt hương ngồi một mình. Ông cùng Lưu Trường Khanh được người ta gọi là hai “thi nhân đại tự nhiên”. Thi tập của ông gồm 10 quyển.

viên môn: cửa dựng bằng càng xe (viên: càng xe). Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn cõi ngoài, dừng lại ở đâu thì quây các cỗ xe làm giậu, dựng càng xe làm cửa ra vào gọi là viên môn.

Lời sớ sách Chu Lễ nói: Vua dừng lại nghỉ nơi hiểm trở, phòng bị những việc bất thường nên lấy cỗ xe làm giậu, dựng ngược xe làm cửa, tức là dựng ngược hai càng xe, mỗi bên một cái giáp lại với nhau, gọi là viên môn.

viên ngoại: một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ. Về sau, viên ngoại dần dần trở thành một hư hàm, như dưới đây.

Đoạn trường tân thanh:

Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung

Viên Tính: tên một học trò nghèo, chết đói ở dọc đường.

Viết Châu biên sách Hán: Ngòi viết của Chu Bột chép sử nhà Hán, ý nói được người bề tôi như Chu Bột cứu nguy cho nhà Hán.

Hán thư: Cao Tổ mất, Lã Hậu dùng thuốc độc giết Triệu Vương, mưu toan đưa người họ Lã vào nắm những chức vụ quan trọng trong triều Hán. Hiếu Huệ mất, Lã Hậu cho anh em mình là Lỗ Thái, Lã Sâm, Lã Lộc làm tướng nắm giữ các đạo quân phía Nam và phía Bắc, cho những người họ Lã nắm giữ các chức vụ trong cung, uy quyền họ Lã bắt đầu từ đó, các công khanh ai cũng không chắc số mệnh mình sẽ sống.

Họ Lã nắm hết binh quyền mưu việc phế họ Lưu tự lập làm vua. Chu Bột và Trần Bình đem quân giết họ Lã, lập Vua Văn Ðế giữ nghiệp nhà Hán (Cao Hậu ký).

Việt điện u linh tập (Truyện cõi u linh nước Việt): một tập hợp truyền thuyết về các vị thần linh người Việt vào thời xa xưa. Theo Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí (Văn tịch chí) của Phan Huy Chú, Lý Tế Xuyên (? –?) là tác giả của Việt điện u linh tập, xuất bản vào khoảng năm 1329. Lý Tế Xuyên làm quan dưới triều Trần Hiến Tông (trị vì 1329-134), trông coi việc tế tự ngoài những việc khác.

Việt điện u linh tập kể về công tích 27 vị thần được thờ trong các đền miếu thời Lý–Trần. Sau, có nhiều người ở đời Hậu Lê ra công tục biên, thành ra sách có 41 truyện.

Trong quá trình biên soạn, tác giả có sử dụng và viết lại một số truyện vốn đã được ghi chép trong các sách Báo cực truyện (Tập truyện về lẽ báo ứng), Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, Giao Chỉ ký, Giao Châu ký… Ngoài ra ông còn sử dụng những tài liệu dân gian, những bản thần tích.

Về sau, nhiều nho sĩ ở các đời còn tiếp tục bổ sung; hoặc sửa chữa, thêm bớt cho Việt điện u linh tập.

Tập sách được chia ra 3 phần, với ví dụ về những nhân vật nổi tiếng sau

  • Phần Đế vương: Sĩ Nhiếp, Phùng Hưng, Lý Nam Đế, Hai Bà Trưng, Mỵ Ê.
  • Phần Phụ thần: Lý Thường Kiệt, Tô Lịch, Lê Phụng Hiểu
  • Phần Hạo khí Anh linh: Thần Phù Đổng, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, Nam Hải Long Vương Quân

vía mai: xem hồn mai.

Vĩnh Tế: tên con kênh ở Kiên Giang gắn liền với tên tuổi của Thoại Ngọc Hầu. Xem mục: Thoại Ngọc Hầu.

Vị hà: Sông Vị từ Cam Túc chảy qua Thiểm Tây rồi nhập vào Hoàng Hà.

Vị kiều: hoặc Hàm Dương kiều, cầu bắt qua Vị hà, gần Tràng An, trong đất ngày nay thuộc Tỉnh Thiểm Tây. Ðỗ Phủ ở bài Bình xa hành tả cảnh quân binh xuất chinh bụi bay mờ cầu Hàm Dương. Lý Bạch còn có câu:

Tuấn mã tự phong phiêu
minh tiên xuất Vị kiều

(Ngựa hay bay như gió,
roi vun vút bên cầu Vị)

Ðặng Trần Côn viết về cặp vợ chồng ở Hồ Nam bên Sông Tương, khi tả cảnh tòng chinh cũng viết: Minh tiên xuất Vị kiều là có ý trưng lại thơ Lý Bạch. (Câu này được dịch Nôm là “Thét roi cầu Vị”).

Võ Lăng Nguyên: nằm ở phía tây-bắc Tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, bao gồm công viên rừng quốc gia Trang Gia giới, thung lũng Tố Khê và núi Thiên Tử. Tên gọi Võ Lăng Nguyên có nguồn gốc từ bài thơ Đào nguyên hành của Vương Duy, trong đó có chữ “Võ Lăng Nguyên”. Từ đó “Võ Lăng Nguyên” được dùng để chỉ vùng đất này. Năm 1992, Võ Lăng Nguyên được UNESCO ghi nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

Võ Trường Toản (1709–1792): một nhà giáo Việt Nam nổi tiếng học rộng, có tài thao lược và đức hạnh ở Gia Định vào thế kỷ 18.

Tiểu sử của ông được Phan Thanh Giản tóm tắt trong một bài văn bia bằng chữ Hán soạn năm Đinh Mão (1867), tóm tắt như sau:

Sở học của tiên sinh đạt tới bậc dày dặn, đầy đủ, chất thật có thuật nghiệp thâm uyên thông đạt. Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ở ẩn mở trường dạy học, thường học trò đến mấy trăm. Ông Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Thứ đến là các ông Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh. Bậc danh sĩ là ông Chiêu, ông Trúc đều ẩn dật. Ngoài ra không kể hết được… Các ông ấy đều gặp hồi phong vận, thời trung hưng triều Gia Long đức bậc tôi hiền, có người hoặc sát thân để làm nên điều nhân, hoặc quên mình để trọng tiết nghĩa, thảy đều nên công nghiệp lớn… Tiên sinh không hứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài, mà còn truyền thuật, giảng luận, trau dồi về sau…

Sau khi ông qua đời, Vua Gia Long có đôi liễn tưởng niệm:

Sinh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử
Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong.

Dịch nghĩa:

Lúc sống, dạy dỗ được người, không con mà như có
Khi mất, tiếng tăm còn để, thân tan danh vẫn còn.

Có một số trường trung học mang tên Võ Trường Toản, và Trường Đại học Võ Trường Toản tọa lạc ở Tỉnh Hậu Giang.

Vọng Phu: tên núi có đá trông giống hình người đàn bà đứng (trông chồng). Theo một chuyện cổ phổ biến ở nước ta, các tỉnh Thanh Hóa, Lạng Sơn, Bình Ðịnh đều có núi Vọng Phu.

Chuyện cổ kể rằng: Xưa kia, một hôm, hai anh em ruột đang cùng ăn mía rồi đâm ra cãi cọ đuổi đánh nhau, người anh nổi giận lấy con dao đang cầm róc mía ở tay ném em. Con dao trúng vào đầu, máu chảy lênh láng. Người anh hoảng sợ bỏ trốn biệt tích. Người em gái được cứu sống rồi lớn lên buồn vì nỗi mất anh cũng bỏ làng đi làm ăn nơi khác. Hơn 20 năm sau, hai anh em tình cờ gặp lại nhau mà vẫn không nhận ra. Tạo hóa trớ trêu, họ lại yêu nhau và kết nghĩa vợ chồng. Họ sinh được một con. Một hôm, cùng cuốc đất trồng mía, nhễ nhại mồ hôi, ngồi nghĩ, chồng lau trán cho vợ và nhận ra trên trán vợ sát mái tóc có một vết sẹo dài, hỏi căn do, chị vợ bùi ngùi kể lại đầu đuôi câu chuyện buồn thảm từ thời thơ ấu. Anh chồng nghe xong, bàng hoàng nhận ra sự thật, anh hối hận, đau khổ vô cùng về nỗi bất hạnh của mình bèn quyết định bỏ vợ con trốn đi không một lời nhắn lại… Người vợ ở nhà ngày ngày ngóng trông chồng mà không biết duyên cớ tại sao chồng bỏ đi biệt tích. Nàng ẳm con lên núi đứng trông chồng, cuối cùng mõi mòn hóa thành đá.

Vọng phu san: Nghiêm Quân Phu lấy vợ là Bàng Bì Thị 10 năm không có con, chàng bèn rẫy và bỏ. Bì Thị làm bài thơ để từ giã rằng: “Ðương thời tâm sự dĩ tương quan, Vũ tán vân thu nhất sướng gian, Tiên thị cô phàm tòng thử khứ, bất kham trùng thượng vọng phu san”. Chàng cảm động, vợ chồng lại ở với nhau như cũ.

Võ Tắc Thiên (624-705): thường được gọi Võ Hậu hoặc Thiên Hậu, trước là một phi tần của Đường Thái Tông Lý Thế Dân (627-649), sau trở thành Hoàng hậu của Đường Cao Tông Lý Trị. cùng với tôn hiệu Thiên hậu của bà và tôn hiệu Thiên hoàng của Cao Tông, hai người đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian và cùng được gọi là Nhị Thánh.

Lý Thế Dân có lần hạ chỉ truyền kén chọn gái xinh. Có quan thứ sử đất Kinh Châu kén được một nàng tên Võ Mỵ Nương nên trang quốc sắc, đáng giá khuynh thành. Nghĩ rằng: “Nếu để tên Mỵ Nương, sau vào cung thì khó xưng làm nương nương”, bèn cải tên nàng lại là Võ Minh Không rồi đem dâng lên cho nhà Vua.

Thái Tông trông thấy cả đẹp, phong nàng làm Tài nhân, nên gọi là Võ Tài nhân.

Võ Tài nhân vốn là một tuyệt thế giai nhân, lại hay chữ nhưng rất đa dâm. Vua Thái Tông bấy giờ đã già, không đủ sức bù đắp lại được lòng xuân phơi phới trong con người nàng. Nhân Thái Tông phải bịnh, nằm tại cung của Võ Tài nhân, Thái tử là Lý Trị vào thăm. Thấy Võ Tài nhân thật là một trang quốc sắt thì bắt động lòng nên thỉnh thoảng liếc mắt đưa tình.

Lạ gì gái đẹp thường tình, Thái tử người đang trẻ tuổi, thật xứng đôi vừa lứa, đồng sức, đồng tài nên Tài nhân cũng đưa mắt tống tình đáp lại. Thái tử Lý Trị hớn hở, lòng nở đầy hoa nhưng không có dịp tỏ nỗi lòng, liền giả đi tiểu tiện.

Võ Tài nhân liền lấy bồn vàng đựng nước, quỳ xuống dâng lên cho Thái tử rửa tay. Nhân dịp Lý Trị liền rảy nước trên mặt Tài nhân, cất tiếng ngâm nhỏ hai câu:

Mơ tưởng Vu Sơn biết mấy lần
Dương đài cách trở khó toan gần

Tài nhân hiểu ý Thái tử nên mỉm cười ngâm tiếp:

Tuy chưa vầy cuộc phong vân hội
Song đã được nhờ võ lộ ân,

Lý Trị mừng rỡ nghĩ: “Nàng này quả thật tài sắc gồm đủ, rất đẹp lòng ta.”

Đoạn, bạo dạn đưa tay đỡ Tài nhân dậy rồi cùng dắt nhau đến chỗ vắng vẻ tư tình. Nàng bỗng rơi lệ, nói: “Từ ngày thiếp chầu hoàng thượng vẫn được yêu vì, nay may mắn được điện hạ tỏ lòng thương hương mến ngọc, nhưng biết về sau, khi điện hạ lên ngôi rồi có còn đoái tưởng đến tấm thân bồ liễu này chăng?”

Lý Trị nói: “Ngày sau ta lên ngôi sẽ phong nàng làm chánh hậu.”

Võ Tài nhân mừng rỡ nói: “ Xin điện hạ hãy cho thiếp một vật để làm tin.”

Lý Trị liền cởi chiếc nhẫn có chạm chín con rồng trao cho Tài nhân.

Lúc bấy giờ có quan Tư thiên giám xem thiên văn, tiên đoán nhà Đường sau bị nữ chúa họ Võ chuyên quyền nên yêu cầu nhà Vua phải trừ trước để dứt hậu hoạn. Nhà Vua không tin, nhưng chiều ý quan Tư thiên giám nên cho Võ Tài nhân ra ở Chùa Hưng Long mà tu hành, suốt đời không được cải giá.

Lý Trị thương nhớ Tài nhân, lén cho người đến chùa dặn nàng đừng xuống tóc, chờ ngày triệu vào cung.

Chẳng bao lâu Vua Thái Tông phát bệnh thăng hà, Lý Trị lên ngôi xưng hiệu Cao Tông, chẳng bao lâu truyền đem xe giá lên chùa rước Võ Tài nhân về, phong làm Chiêu nghi, cải tên là Võ Tắc Thiên. Rồi nàng được phong làm hoàng hậu.

Cao Tông ở ngôi được 34 năm, vì té bị trọng thương mà chết. Võ Tắc Thiên dùng mưu lập kế phế con. Cuối cùng lên ngôi hoàng đế, xưng hiệu Tắc Thiên hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đại Chu.

Làm vua tất phải có hoàng hậu, Võ Tắc Thiên liền lập hai người đàn ông là Trương Xương, tôn làm chánh hậu, Trương Diệc Chi làm thứ hậu. Đây là hai người chồng trẻ đẹp lực lưỡng của nhà vua. Lại truyền chỉ kén chọn con trai xinh đẹp làm cung nga, còn cung phi mỹ nữ trước kia nay trở thành vô dụng nên đều được cho về xứ sở.

Sau khi Đường Cao Tông qua đời, bà trải qua các đời Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu (690-705), là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Trong 15 năm cai trị, Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, hoàn thành cuộc chinh phục bán đảo Triều Tiên. Nội địa khuyến khích phát triển Phật giáo, tập trung phát triển kinh thế-xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn nữ ti ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần nhà Đường không phục. Cuối đời, bà sủng ái anh em nam sủng họ Trương, dâm dục cung trung, khiến nhiều quần thần bất bình.

Năm 705, Tể tướng Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thiện nhượng và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà trở thành Thái thượng hoàng ở biệt cung. Qua đời ở tuổi 82, bà trở thành một trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất, vượt hơn 80 tuổi, chỉ dưới Lương Vũ Đế (86 tuổi) và Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế (89 tuổi).

Theo di nguyện trước lúc băng hà, di hài của bà được hợp táng vào Càn lăng cùng với Đường Cao Tông. Bia mộ của bà không có chữ gì cả (Vô tự bia), với ý nghĩa là để đời sau phán xét.

bia mo Vo Tac Thien
Bia mộ Võ Tắc Thiên

Sau khi Võ Tắc Thiên qua đời, các sử gia thời Thịnh Đường, Trung Đường và Đường mạt đều không chỉ trích nặng nề những việc làm của Võ Tắc Thiên, bởi vì những vị vua nhà Đường sau này đều là con cháu trực hệ của bà.

Chỉ khi đến thời nhà Tống, các sử gia mới bắt đầu có lời chỉ trích, một phần cũng do tư tưởng tôn Nho giáo ăn sâu vào trong lòng xã hội phong kiến, mà Nho giáo thì không bao giờ chấp nhận để một người phụ nữ “vượt quá giới hạn” mà bước lên đỉnh cao quyền lực. Võ Tắc Thiên là hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử. Những vị đại hoàng hậu nổi tiếng từ cổ chí kim ở Trung Hoa, có thể kể đến Tần Tuyên Thái hậu, Hán Lã hoàng hậu, Tây Tấn Giả Nam Phong, Tiêu Xước triều Liêu, và kể cả Từ Hy thái hậu nhà Thanh đều chỉ có thể đứng sau bức rèm nghe bàn chính sự, không một ai dám chính thức xưng đế như bà.

Đương thời, tông thất nhà Đường và một số các đại thần oán hận Võ hậu. Dưới đây là hịch văn do văn sĩ đương thời là Lạc Tân Vương khi tham gia cuộc khởi nghĩa của Từ Kính Nghiệp viết ra để kể tội ác của Võ Thái hậu.

Ả họ Võ giả mệnh lâm triều, tánh tình không ôn thuận, xuất thân hàn tiện. Xưa thời Thái Tông làm cung nữ hầu hạ, lo việc dâng thay quần áo. Đến lúc trưởng thành, mang tiếng làm nhơ bẩn nội tẩm. Về sau, che giấu việc hầu Thái Tông, lại được vào hầu tiên đế, đẩy chúa thượng đến chỗ loạn luân. Rồi rắn độc mang lòng, sói beo thành tinh, lại sinh ra ghen tuông, nhân có chút nhan sắc, không chịu nhường ai, rồi dèm pha, nịnh hót, làm mê hoặc lòng chúa. Lên ngôi hoàng hậu, đưa đường tiên đế vào thói hươu nai. Tính tình sài lang, gian ác, tàn hại trung lương, giết chị phản anh, giết vua hại mẹ. Con yêu của vua, đem bắt giam ở cung sâu. Bè đảng của giặc, giao cho quyền bính lớn. Thần người đều ghét, trời đất không dung. Muốn đổi ngôi vua, giao cho họ mình quyền cao chức trọng. Hỡi ơi, Hoắc Tử Mạnh không dấy, Chu thị hầu không còn. Én mổ cháu vua, biết vận Hán sắp hết. Dãi rồng vương hậu, hay nhà Hạ mau tàn.

Nhưng hãy nhìn sang thái độ của bà khi đọc bài hịch văn trên. Thái hậu cần hịch lên đọc, rồi nói với cận thần: “Ai là người viết bài hịch này?”

Đáp: “Kẻ đó là Lạc Tân Vương.”

Thái hậu hỏi: “Người này trước kia từng làm chức Thị ngự sử, nhưng sau lại phải biếm?” Lại nhìn các đại thần hồi lâu, rồi phán: “Người có tài văn chương thế này, mà để họa phải lưu lạc không được dùng, đó là lỗi của Tể tướng trước kia vậy.”

Trong triều có nhiều người ủng hộ Võ Tắc Thiên, vì phục bà là người quyết đoán, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lý.

Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà Võ Chu có được một hệ thống bình đẳng giới tốt hơn so với nhà Đường giai đoạn tiếp sau nó.

Nhiều người đời sau xem Võ Tắc Thiên là điển hình của sự độc ác, khi mà vì quyền lực, bà sẵn sàng hạ thủ người thân, thậm chí ngay cả với con ruột mình. Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn, trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, tàn nhẫn ngay cả với người thân và cai trị bằng cách điều khiển từ phía sau hậu trường.

Sử gia Tư Mã Quang đánh giá về bà trong Tư trị thông giám:

Mặc dù Thái hậu dùng nhiều tên hiệu mỹ miều để phô trương, nhưng nếu bà nhìn thấy một đại thần nào đó không đủ năng lực, ngay lập tức bãi chức hoặc thậm chí là giết chết. Bà còn thưởng phạt phân minh, lãnh đạo triều chính và dùng các phán đoán riêng của mình để quyết định công việc. Thái hậu có óc quan sát và phán đoán tốt, vì vậy những nhân tài đương thời cũng đều có cơ hội được dùng.

Vu Hựu: xem lá thắm.

Vu Sơn, Vu Giáp: xem mây mưa.

Vua Nghiêu: xem Đế Nghiêu.

Vua Thuấn: xem Đế Thuấn.

Vũ Hán: thành phố nằm trên chỗ tụ hội của Sông Trường Giang và một con sông nên thơ khác tên là Sông Hán (Hán Thủy). Ngày xưa chưa hề có tên Vũ Hán vì thật ra Vũ Hán là do ba thị trấn hợp lại, đó là Vũ Xương, Hán Dương và Hán Khẩu. Ngày trước chúng là ba thị trấn riêng biệt, cách nhau bởi dòng Trường Giang rộng mênh mông. Ngày nay chiếc cầu Trường Giang tại Vũ Hán nối chúng lại với nhau biến thành một thị trấn phồn vinh, đồng thời khai tử tên Vũ Xương. Đó là một vùng xanh tươi, nhiều sông hồ, gồm Nhạc Dương, Động Đình Hồ, Lư sơn, Hán Thủy, Tầm Dương. Vùng ngã ba Hán Thủy – Trường Giang là một không gian rộng lớn và ngoan mục. Mặt nước rộng bao la với rừng nhà chọc trời trên bờ, những công viên, các công trình công cộng… tạo cho Vũ Hán dáng vẻ một đô thị ven biển.

Từ trên bờ thuộc địa phận Hán Dương có thể nhận rõ lằn ranh giữa nước phù sa đỏ của Trường Giang và dòng nước trong xanh chảy ra từ Hán Thủy. Nơi đây rộng như một cửa biển, tàu thuyền ngược xuôi tấp nập. Những con tàu lớn từ đại dương vượt trên 1.000km tới đây, thỉnh thoảng gióng lên những hồi còi vang vọng, như mừng rỡ, chào đón cuộc hội kiến mong đợi với Hoàng Hạc Lâu cổ kính. Bốn trăm năm sau có một nhà thơ tên Thôi Hiệu đến đây. Ông lên lầu ngắm cảnh Hán Dương bên kia sông, cảnh trời chiều trên Trường Giang và sáng tác bài thơ Hoàng Hạc Lâu bất hủ trên vách lầu Hoàng Hạc.

Mỗi khi mùa xuân đến, hàng vạn lượt khách từ mọi nơi đổ đến tham quan rừng hoa Anh đào cổ thụ tuyệt đẹp, nơi đây là nơi duy nhất và cũng là đẹp nhất nước Trung Hoa có cây hoa anh đào đẹp đến như vậy.

Vũ Hầu: tức Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, có nhiều công lao, được phong tước Vũ Vương Hầu gọi tắt là Vũ Hầu và có khi gọi là Gia Cát Vũ Hầu.

Vũ Môn: Thượng lưu dòng Hoàng Hà (giữa các huyện Hà Tân, Sơn Tây và Hán Thành, Thiểm Tây). Ở đây có mõm đá như hình cái cửa. Tương truyền thời thượng cổ Vua Hạ Vũ trị thủy đã đục phá mõm đá này cho rộng ra nên gọi là Vũ Môn (cửa Vua Hạ Vũ).

Theo Tam tần kýThủy Kinh chú thì Vũ Môn có sóng dữ, hàng năm vào tiết tháng 3 cá chép khắp nơi kéo về vượt qua Vũ Môn, con nào nhảy qua được thì hóa rồng. Nhân đó, cửa vũ dùng chỉ chốn trường thi và thi đỗ gọi là vượt qua cửa vũ.

Theo Ðại Nam nhất thống chí thì ở nước ta cũng có Vũ môn ở dãy núi Khai Trường Huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Ðây là dòng suối có 3 bậc. tương truyền hàng năm đến tháng 4 mưa to, có nước nguồn thì cá chép ngược dòng chảy qua Vũ môn để hóa rồng.

Thơ Vi Trang (Tiền thục):

Tâm như Nhạc sắc lưu Tần địa
Mộng trục hà thanh xuất Vũ môn

Dịch:

Lòng như sắc núi Nhạc đất Tần
Mộng đuổi theo Sông Hà ra cửa Vũ.

Lưu nữ tướng:

Vũ môn mong vượt sóng đào
Hay tìm Trịnh Tử thay vào Thiên Thai.

Lục Vân Tiên:

Công danh ai chẳng ước mơ
Ba tầng cửa Vũ một giờ nhảy qua.

Vũ trung tùy bút: Theo Wikipedia_Vũ trung tùy bút, tựa có nghĩa “Tùy bút trong mưa”, là tập truyện do Phạm Đình Hổ (1768-1839) viết bằng chữ Hán khoảng thời Lê mạt – Nguyễn sơ, ghi lại nhiều sự việc xảy ra vào cuối đời Lê và đời Tây Sơn.

Tuy Phạm Đình Hổ gọi tác phẩm là tùy bút, nhưng nó không phải được viết theo lối tùy bút bây giờ, mà với nghĩa nôm na là “muốn viết cái gì thì viết, không cần hệ thống, kết cấu và mạch lạc”. Trong 90 truyện (kể cả bài Tự thuật) không được tác giả sắp xếp theo thể loại; theo Dương Quảng Hàm có thể phân ra làm bảy loại sau:

  • Tiểu truyện các bậc danh nhân: Phạm Ngũ Lão, Lý Đạo Tái, Truyện Vua Lê Lợi, Đoàn Thượng…
  • Ghi chép các cuộc du lãm, thắng cảnh: Cảnh chùa Sơn Tây, Đền Đế Thích…
  • Ghi chép các việc xảy ra ở cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, Cuộc bình văn trong nhà Giám…
  • Khảo cứu về duyên cách, địa lý: thay đổi địa danh, Xứ Hải Dương, Xứ Đường An, Tên làng Châu Khê…
  • Khảo về phong tục: hoa thảo, cách uống chè, nón đội, mẹo lừa, trộm cắp, thần trẻ con, tệ tục, thần hổ…
  • Khảo về học thuật: học thuật, lối chữ viết, bàn về âm nhạc, các thể văn,…
  • Khảo về lễ nghi: lễ tế giao, lễ nhà miếu, lễ sách phong…
  • Khảo cứu về điển lệ: khoa cử, phép thi, quan chức…

Vương, Tạ: Vương Thản Chi và Tạ An, hai họ này có tiếng nhất đời Tống, vì thế con trai nhà quý phái đều muốn lấy con gái họ Vương, họ Tạ.

Vương Bao tụng: Vương Bao người đất Thục đời Hán, tự Tử Uyên, ông có dâng vua bài tụng nói về thánh chúa được hiền thần. Bài tụng có câu: Hà tất phải cúi xuống, ngẫng lên, duỗi co như Bành Tổ, thổi, hà xì, hít ra vô như Kiều Tùng.

Vương Bá: Người đời Ðường, lúc chưa làm nên thường đến ăn xin ở cửa chùa Huệ Chiêu. Bọn đồ lê (sư ni) ở đấy rất ghét thói ăn chực của Bá, tìm cách làm nhục. Bá bực mình bỏ đi, về sau đỗ làm đến chức Thứ Sử.

Vương Bàng: Loại Tụ: Vương Bàng là con Kinh Công Vương An Thạch, một lần Kinh Công ở Kim Lăng thấy một kẻ lại cũ của mình đã chết từ lâu hiện đến bèn hỏi có biết Vương Bàng ở đây không. Kẻ lại dẫn ông đến một chỗ thấy Bàng đương bị ngục tối, cùm kẹp, máu vấy ra đầy đất.

Vương Bột: tự Tử An, người Giáng Châu, Long Môn (ngày nay là Hòa Tân, Sơn Tây). Sáu tuổi đã biết làm văn, mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần. Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Nhà thơ đứng đầu nhóm “Sơ Đường tứ kiệt” (bốn người kiệt xuất thời đầu nhà Đường, khoảng 618-713): Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương.

Vương Bột bắt đầu nổi danh nhờ bài phú Đằng Vương Các.

Nguyên con trai Đường Cao Tổ Lý Uyên là Lý Nguyên Anh được phong là Đằng Vương. Năm 652 khi được điều đến Hồng Châu để nhậm chức thứ sử, Lý Nguyên Anh cho xây cất một tòa lầu có gác trên cửa Sông Chương (Chương Giang) hoặc Sông Tầm Dương, được gọi là Đằng Vương Các.

Gac Dang Vuong
Đằng Vương Các

Khoảng 20 năm sau, Đô đốc Hồng Châu khi đó là Bá Tự cho trùng tu Đằng Vương Các. Sau khi hoàn tất, ông mở đại yến ở đây, mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự.

Lúc bấy giờ, Vương Bột tuổi vừa 15, 16 đang đi thuyền sang thăm cha làm quan ở đất Giao Chỉ.. Hay tin về đại yến, nhưng vì đường xá xa xôi, chàng e không đến kịp, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương Các vừa kịp lúc vào tiệc.

Muốn khoe tài chàng rể là Ngô Tử Chương, Bá Tự bảo anh ta làm trước một bài tự, rồi; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc, nhưng không ai dám nhận. Duy có Vương Bột không từ chối.

Thấy Vương Bột, Đô đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút, nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.

Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc

(Ráng chiều và nhạn lẽ cùng bay
Nước biếc với trời dài một sắc)

thì ông vô cùng khâm phục.

Bài phú Đằng Vương Các tự (Bài tự về Gác Đằng Vương) của Vương Bột đặc sắc hơn tất cả. Bài viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

Đằng Vương Các tự – Vương Bột
Bài tự về Gác Đằng Vương – mai lăng dịch thơ:

Trước Nam Xương sau Hồng Đô phủ
Đối Ngũ Hồ hội tụ ba sông
Nam Kinh chắn, Âu Việt thông
Sao chia Dực Chẩn, đất vòng Hành Lư.

Đây cảnh sắc đẹp như thiên bảo
Ánh rồng bay sao Đẩu sao Ngâu
Địa linh nhân kiệt từ lâu
Nhà trên Tử Trĩ, giường đâu Trần Phồn.

Đất Hùng Châu sương dồn móc dội
Trang tuấn tài dong ruổi như sao
Đài mương Di Hạ liền giao
Yêu kiều khách chủ trải vào đông nam.

[…]

Cuối bài tự, có 8 câu tuyệt diệu (Hải Đà dịch thơ):

Bến sông cao ngất gác Đằng Vương
Đai ngọc chuông kêu múa hát ngừng
Cột vẽ mây Nam vờn sáng sớm
Mưa Tây rèm cuốn thấy chiều buông

Ngày vẫn trên đầm in bóng mây
Sao dời vật đổi mấy thu đây
Con vua trong gác nơi nào ở?
Ngoài cửa Trường Giang nước chảy dài

Vương Bột có nhiều tác phẩm nổi tiếng đương thời nhưng đều bị thất bản.

Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.

Tương truyền rằng hai câu thơ:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc
.

Ráng chiều và nhạn lẽ cùng bay
Nước biếc với trời dài một sắc.

tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn Vương Bột còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.

Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.

Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo: “Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là “Tứ kiệt Sơ Đường” mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?”

Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo: “Hai câu thơ thừa chữ dữ và chữ cộng. Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

Lạc hà cô vụ tề phi
Thu thủy tràng thiên nhất sắc
.

Ráng chiều nhạn lẽ cùng bay
Nước biếc trời dài một sắc.

Vương Bột nhận ra, quả mình còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.

Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữa. Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ.

Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Đằng Vương các làm cho Vương nổi tiếng tài danh, nên cổ thi có câu: Thời tới thì gió đưa đến gác Đằng Vương” để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Những từ ngữ: “duyên Đằng”, “gió đưa Đằng các” đều có ý nghĩa như thế.

Đoạn trường tân thanh:

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

Vương Chiêu Quân: một trong “Tứ đại Mỹ nhân” chỉ bốn phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sắc đẹp của họ được ca ngợi qua 4 cụm từ nổi tiếng để tả mỹ nhân là trầm ngư, lạc nhạn, tu hoa, bế nguyệt, tức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Bốn người gồm có:

1/ Vương Chiêu Quân “chim sa”
2/ Tây Thi “cá lặn”
3/ Dương Quý phi “hoa nhường”
4/ Điêu Thuyền “nguyệt thẹn”.

Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích “Hồ Cầm”. Cũng từ đó về sau, đề tài Chiêu Quân trong hội họa không hề thiếu đi hình ảnh cây đàn tỳ bà, tựa hồ tỳ bà cũng trở thành một biểu tượng gắn liền với hình ảnh Chiêu Quân..

Tên thật là Vương Tường (51–15 tCN), cũng gọi Minh phi hoặc Minh Quân, người gốc Tỉ Quy, Nam Quận, nay là Huyện Hưng Sơn, Tỉnh Hồ Bắc, con một gia đình thường dân, làm cung nhân của Hán Nguyên Đế rồi trở thành vợ của Thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn Tà.

Theo Hán thư và Wikipedia_Vương Chiêu Quân, Chiêu Quân là con gái nhà lương thiện, có nhan sắc, năm 38 tCN bị tuyển vào làm cung nữ thời Hán Nguyên Đế (48-53 tCN). Lúc bấy giờ vua Hán có đến ba ngàn mỹ nữ cung phi nên không thể nào biết mặt cả thảy được. Vua truyền thị vệ Mao Diên Thọ bảo họa sĩ vẽ hình tất cả những cung phi để vua ngắm mà vời người nào ưng ý.

Mao Diên Thọ ăn hối lộ của cung nhân, hễ ai đút tiền thì vẽ truyền thần mặt xinh tươi, đẹp đẽ để dâng lên nhà vua. Cung nhân nhờ đó mà hưởng được chút ơn mưa móc của quân vương, nếu sinh con được nhờ con thì càng vinh hiển. Chiêu Quân đẹp hơn các cung phi khác nên không chịu đút lót tiền, lại còn xỉ vả nặng lời Diên Thọ. Do đó, khi họa hình Chiêu Quân, hắn chấm dưới mắt ảnh nàng một nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên nhà Vua, hắn lại xàm tấu cho rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng vì có nốt ruồi mà sách tướng gọi là “thương phu trích lệ”, đó là nốt ruồi sát phu. Nhà Vua nghe lời nên không đoái hoài đến nàng.

Năm 33 tCN, Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà đến kinh đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán, và tỏ ý muốn cưới một công chúa. Hoàng đế thuận theo, cho chọn một cung nhân, phong làm công chúa để gả kết thân với Thiền vu, thiếu nữ ấy chính là Chiêu Quân. Khi Chiêu Quân đến đại điện làm lễ, Nguyên Đế sửng sốt trước vẻ đẹp của nàng nhưng không thể thu hồi vương lệnh. Nàng xuất giá đi Hung Nô trong sự luyến tiếc vô hạn của Hán Nguyên Đế.

Khi trở thành vợ của Hô Hàn Tà, Chiêu Quân sinh được một con trai.

Chỉ sau 2 năm lấy Chiêu Quân, năm 31 tCN, Hô Hàn Tà chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế buộc bà phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô mà trở thành phi tần của Thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề, con trai lớn của Hô Hàn Tà. Ngay khi Hồ Hàn Tà còn sống, Phục Chu Luy Nhược Đế đã say mê Chiêu Quân. Do vậy, khi vua cha mất thì y cưới ngay Chiêu Quân. Trong cuộc hôn nhân mới này kéo dài 11 năm, Chiêu Quân có hai người con gái. Năm 20 tCN, Phục Chu Luy Nhược Đề qua đời.

Anh em trai của Vương Chiêu Quân được triều đình nhà Hán phong hầu và từng phụng mệnh đi sứ Hung Nô nên có dịp được gặp Chiêu Quân.

Không rõ Chiêu Quân chết vào năm nào và phần mộ ở đâu, tuy có nguồn ghi Vương Chiêu Quân qua đời năm 15 tCN và được an táng tại Thanh Trủng.

Câu chuyện về Chiêu Quân bị gả cho Hung Nô được gọi là Chiêu Quân xuất tái hay Chiêu Quân cống Hồ, trở thành một câu chuyện nổi tiếng trong thi ca Trung Quốc. Tương truyền, khi Chiêu Quân đi trên một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền gảy đàn, tấu lên khúc biệt ly bi tráng, liền đàn Xuất tái khúc. Nhạn (ngỗng trời) bay về phương nam nghe thấy tiếng đàn, nhìn thấy thiếu nữ mỹ lệ trên xe ngựa, quên cả vỗ cánh và rơi xuống đất. Từ đó, sắc đẹp của Chiêu Quân được gọi là “lạc nhạn”, tức “chim nhạn sa”.

Vương Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như người đẹp mang đến nền hòa bình kéo dài khoảng 100 năm giữa Trung Quốc và Hung Nô.

Chiêu Quân chẳng những có sắc mà còn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm (dịch thơ):

Cánh én cô đơn đượm tủi sầu
Ngang trời gió cuốn bạt về đây
Quan san ngàn dặm vương thương nhớ
Hồ Hán từ đây cách biệt nhau!

Và:

Mây trắng trời trong gió ngạt ngào
Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao
Đêm đêm thổn thức, đêm đêm mộng
Có phải trời xanh cợt má đào?

Và, khi mùa thu đến, nhìn mây thu, trời thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đạm lá vàng rơi lả tả, một bài thơ của nàng còn truyền tụng do tình cảm sâu đậm của một kỳ nữ vì nước mà ly hương.

Vuong Chieu Quan

Chiêu Quân oán – Vương Tường
Nỗi oán của Chiêu Quân – Thái Bạch dịch thơ:

Cành thu hiu hắt lá thu vàng
Trên đỉnh non cao, đó rõ ràng
Có một chim kìa hay đáo để
Ở ăn tự lúc mới ra ràng

Ra ràng đã đủ cánh lông bay
Thấy rõ hình dung quý giá thay
Trên nóc lầu cao đá đổ xuống
Chín từng mây thẳm đã tung bay

Tung bay, nhưng khốn biết sao rầy
Sự thế than ôi, nỗi nước này!
Nỗi nọ dường kia khôn tả xiết;
Gan sầu ruột héo, ngỏ ai hay!

[…]

Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?
Lấp đặng cho ai những bất bằng
Những nhớ những thương tầy núi biển
Tình thu chan chứa hận sầu vương!

Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và ca tụng đức tính hy sinh cao khiết của Chiêu Quân. Có khúc cổ nhạc phủ được phổ biến ở Trung Hoa xưa gọi là khúc Chiêu Quân oán, Chiêu Quân cống Hồ.

Đoạn trường tân thanh, đoạn diễn tả khúc Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ:

Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia

(Quá quan: đi qua quan ảỉ giữa trung nguyên và đất Hung Nô)

Lục Vân Tiên:

Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên.

Việt Nam có tuồng cải lương mang tên Chiêu Quân cống Hồ.

Vương Duy (699-759): người Huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, Sơn Tây). Ông là một nhà thơ, một họa sĩ và một nhà viết thư pháp nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là Thi Phật. Cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh) là ba người nổi tiếng về tài thơ ca thời Đường. Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm. Do đó, Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Ngày nay còn giữ được khoảng 400 bài thơ của ông. Ông cũng là người tinh thông về Phật học và theo trường phái Thiền tông.

vương đạo: đạo của tam vương, giống như Hạ Vũ, Thành Thang, Vũ Vương. Xem thêm: bá đạo.

Vương Hàn (687-735): tự là Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay là Huyện Thái Nguyên, Sơn Tây). Thưở nhỏ, tính hào phóng, thích uống rượu. Ông thi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Vì kiêu căng nên nhiều người ghét, bị đổi ra làm Trưởng sử Nhữ Châu, sau đổi làm Biệt giá Tiên Châu, rồi bị biếm làm Tư mã Đạo Châu và mất tại đây.

vương hiệu: danh xưng của bậc vua chúa dựa theo các vị vương đi trước. Xem mục: tôn hiệu.

Vương Hy Chi: Theo Tịnh Tâm (2018b), Vương Hy Chi sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc, cha ông là Vương Khoáng, bác ông là Vương Đạo, Vương Bân đều làm quan cao trong triều đình và giỏi thư pháp. Chính vì thừa hưởng tài năng của gia đình mà sau này thư pháp của ông là sự kết hợp tinh tế và điêu luyện tinh hoa của những môn phái khác nhau mà thành một thể hệ thư pháp độc lập, hoàn hảo cho thư pháp Trung Hoa cổ xưa. Từ nhỏ, Vương Hy Chi không giỏi biện thuyết, không tỏ ra có biệt tài gì, chỉ say mê thư pháp. Năm lên 7 tuổi ông đã theo Vệ phu nhân học chữ. Gia đình Vệ phu nhân vốn có truyền thống thư pháp: cha là đại thần Vệ Quán nhà Tây Tấn cùng anh trai bà là Vệ Hằng đều là những nhà thư pháp có tiếng đương thời.

Năm 11 tuổi, ông bắt đầu tìm tòi về nghệ thuật thư pháp, vô tình có lần ông thấy dưới gối cha có cuốn sách nói về nghệ thuật thư pháp của đời trước, Hy Chi bắt đầu chú ý. Nhân lúc cha ra khỏi phòng, Hy Chi thường vào lấy sách đọc trộm.

Thấy con ham học hỏi và bộc lộ đam mê, cha mẹ ông quyết định dạy con, trong một thời gian ngắn ông tiến bộ vượt bậc. Sau đó ông được cho theo học người chú là Vương Tốc, cũng là một nhà thư pháp giỏi.

Để có sự tinh xảo trong thư pháp, Vương Hy Chi không ngừng khổ luyện. Ông mải luyện tập tới mức quên ăn, quên ngủ. Để luyện thư pháp, mỗi lần tới một vùng đất, ông ra sức tìm tòi bia khắc các đời, tích lũy rất nhiều tư liệu thư pháp. Trong nhà, trong sân, ngoài cửa, ông đều cho đặt bàn, bày bút, giấy, mực, nghiên, để mỗi khi nghĩ tới một kết cấu đẹp của chữ sẽ lập tức viết ngay lên giấy.

Có nhiều câu chuyện về sau kể về quá trình khổ luyện của Hy Chi. Nhưng không thể phủ nhận rằng, nếu như tài năng là thiên bẩm, thì khổ luyện chính là quá trình giũa ngọc thêm sáng. Và việc khổ luyện ấy đã để lại cho đời những kiệt tác làm nên tên tuổi mà lịch sử còn mãi ghi danh.

Đây là cách viết của Hy Chi đặc biệt sáng tạo, mang nét riêng. Ông khắc phục sự rời rạc, đứt đoạn giữa các chữ, khiến cho chúng trong nét đậm có nét mờ, nét gập; hòa tình cảm vào nét bút, nâng nghệ thuật viết thư pháp lên một tầm cao mới và được lưu truyền rộng rãi thời Đông Tấn. Vì vậy mà ông được người đương thời mệnh danh là Thư thánh.

Do sự sáng tạo có tính kế thừa trong thư pháp, ông biến phong cách thư pháp cổ xưa của thời Ngụy Hán thành nét bút phóng khoáng, nhưng kết cấu chặt chẽ, phong cách nhã nhặn tự nhiên, thế bút khỏe khoắn, tuyệt đẹp.

Ông là một người chẳng coi trọng danh lợi, mặc dù năm 326, Vương Hy Chi bắt đầu làm quan, trải qua các chức vụ cho đến Hữu quân Tướng quân, Nội sử Cối Kê. Do không nhiều chí tiến thủ để thăng tiến, ông từng được tiến cử làm chức Thị trung – một chức vụ gần Hoàng đế – nhưng Vương Hy Chi từ chối. Vì không thích ganh đua trên quan trường, sau khi làm Thứ sử Giang Châu 1 năm, ông xin từ chức để chuyên tâm nghiên cứu thư pháp.

Chính tâm thái cốt cách của con người ông, trong bút pháp ông không hề có sự ràng buộc mà rất tự tại thanh tao. Chính vì thế mà thần thái trong thư pháp của Vương Hy Chi được đánh giá là thiên biến vạn hóa, lồng ý tưởng vào chữ. Ông cho rằng: Bút lực phải sắc như dao, nhanh nhẹn biến hóa, hoặc trầm ổn tĩnh lặng. Điều này hoàn toàn dựa vào tâm tính của người cầm bút.

Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Lan Đình tập tự, được coi là một khuôn mẫu cho các nhà thư pháp đời sau học theo, được nhà vua Đường Thái Tông vinh danh là “thập toàn thập mỹ”.

Theo Tấn thư, Năm 337 đời nhà Tấn (dị bản: năm 353), họ Vương cùng các hiền nhân danh sĩ đương thời hội ở Lan Ðình, đất Cối Kê, Tỉnh Chiết Giang làm lễ Phất hệ (lễ rửa tội trừ yêu tà) để cùng vui chơi. Người đến dự đủ cả hạng già trẻ. Thuở xưa, khi vào cuối xuân khí trời chuyển ấm, người ta thường ra nơi bờ sông, suối làm lễ tẩy uế, tắm rửa – theo tín ngưỡng thì để trừ đi tà khí của mùa đông lạnh khi khí trời ấm lên. Dần dà ý nghĩa trừ tà mất đi, buổi lễ trở thành một dịp họp mặt của các văn nhân thi sĩ.

Vuong Hy Chi
Vương Hy Chi tới Lan Đình

Hôm ấy, Vương Hy Chi cùng với 41 thi khách tham gia trò chơi thả chén đặt thơ. Trong trò chơi này mọi người sẽ theo thứ tự già trẻ ngồi dọc bên bờ suối, những chén rượu được thả trôi xuống từ đầu dòng nước, lần lượt các thi nhân được mời hạ bút sáng tác một bài thơ trước khi cái chén trôi qua trước vị trí của mình. Nếu không xong thì sẽ bị phạt rượu. Chỉ có 26 người được cuộc trong trò chơi này. Và 26 bài thơ đó được tập thành trong một tập thơ gọi là Lan Đình thi tập. Thi tập này được Vương Hy Chi viết lời tựa Lan Ðình tập tự nổi tiếng bằng một bút pháp tinh xảo của riêng ông.

Từ đó trở về sau những người luyện thư pháp thường lấy Lan Ðình tập tự làm mẫu để mô phỏng lối viết của ông và để viết những tấm thiếp tặng cho nhau mà người đời sau thường gọi thủ bút của ông là “thiếp Lan Đình”.

Nguyên bản thủ bút của Vương Hy Chi giờ đây không còn nữa. Tương truyền Đường Thái Tông vì quá mê thư pháp của Vương Hy Chi nên ra lệnh chôn những bức họa thư đó cùng với mình. Vì thế, bản chính đã thất lạc từ sau đời nhà Đường (618-907). Đời nay còn lại chỉ là các bản phỏng theo của các thư gia nổi tiếng.

Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ “Lan Đình”; đó tức là lối chữ phỏng theo chữ viết của Vương Hy Chi trong Lan đình tập tự.

Vì Vương Hy Chi thường làm chức Nội sử ở Lâm Xuyên nên người ta thường nói những người viết chữ tốt là bút Lâm Xuyên.

Đoạn trường tân thanh, đoạn nói về Kiều bị Hoạn Thư cho ra tu ở Quán Âm các để chép kinh, Hoạn Thư khen chữ viết của Kiều, có câu:

Khen rằng: Bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan Đình nào thua!

Ý nói chữ viết tốt ngang với chữ của Vương Hy Chi.

Quốc âm thi tập:

Này này phong cảnh hòa tri kỷ
Lọ thốt Lan Đình lại thẩm sơ

Xem thêm: đông sàng.

Vương Hộ: xem Sân Hòe.

Vương Kiến (751-835): tự là Trọng Sơ, sinh giữa thế kỷ thứ 8, người Khoản Châu, Dĩnh Xuyên (nay là Hứa Xương, Hà Nam, Trung Quốc), đỗ Tiến sĩ niên hiệu Đại Lịch (766-779) thứ 10, từng làm quan Tư Mã Thiểm Châu. Ông trước tác Nhạc phủ cung từ rất được người ta khen ngợi, nổi tiếng ngang với Trương Tịch. Tác phẩm: Vương Tư Mã tập.

Vương Lăng: tên người đất Bái, Cao Tổ khi còn hàn vi coi Lăng như anh. Lăng người mộc mạc, chuộng khí phách, ưa nói thẳng, khi Cao Tổ dấy binh ở đất Bái, vào đến Hàm Dương, Lăng cũng tự mình họp bè đảng mấy ngàn người ở Hàm Dương không chịu theo Bái Công. Ðến khi Hán Vương quay về đánh Hạng Tịch, Lăng mới đem quân theo Hán. Hạng Vũ bắt mẹ Lăng giữ ở trong quân doanh. Sứ giả của Lăng đến, Hạng Vũ sai dắt mẹ Lăng ngồi quay mặt về hướng đông, ý muốn để vời Lăng. Khi mẹ Lăng tiễn riêng sứ giả, bà khóc mà nói: “Xin vì mụ già này mà nói với Lăng hãy chăm chỉ phò tá Hán Vương là bậc trưởng giả, chớ vì già này mà có hai lòng. Tôi xin lấy cái chết để tiễn sứ giả.” Nói đoạn bà đâm cổ tự tử.

Lăng theo Hán Vương, bình định được thiên hạ, sau giữ chức Tả Thừa tướng.

Vương Mãnh: xem người mò rận.

Vương Phạm Chí: thi nhân thời Sơ Đường, được biết đến như người làm thơ ngũ ngôn bát cú theo thể bạch thoại (thể văn đối đáp, dùng để kể truyện). Ông bẩm sinh thông minh, tài giỏi, có thiên khiếu thi ca. Lúc lên năm tuổi, tự đặt câu hỏi: “ Ta từ đâu sinh ra”, ngẫu nhiên ứng khẩu làm bài Ngã tích vị sinh thời. Trong cảnh đời khốn khó, ông đã hỏi Trời sinh ra ông làm chi, để ông phải chịu đói cơm rách áo.

Vương Phạm Chí là thiền sư. Không biết rõ năm sinh, người ta ước đoán ông viên tịch năm Công Nguyên 670. Tên của ông được gọi là Phạm Thiên.

Vương Phạm Chí ấu thời đói rét khốn cùng, tự nhiên hiểu ra thân phận đau khổ của kiếp người, đã thốt lời ai oán kêu than: Sao Trời lại dùng quyền năng sinh ra ông, xin trả ông về lúc ông chưa sinh ra đời. Câu chất vấn có một không hai của ông: Sinh ngã tự hà vi? dùng để hỏi Trời đã toan tính, nghĩ ngợi điều gì, khi sinh ra ông.

Thời Mạt Đường, Phạm Sư viết bộ Vân khê hữu nghị, ghi lại 18 bài thơ của Vương Phạm Chí, gồm có: 15 bài ngũ ngôn, 03 bài thất ngôn, giới thiệu ông là kỳ nhân tài hoa hiếm có.

Vương Xán: tên tự là Trọng Tuyên, người thời Tam quốc, chạy loạn Đổng Trác, nương náu tại nhà Lưu Biển chốn Kinh Châu. Xán thường lên lầu làm bài phú để tỏ nỗi nhớ nhà.

Vương Xương Linh (khoảng 698-756): tự là Thiếu Bá, người đất Giang Ninh (Tỉnh Giang Tô), năm 727 (đời Ðường Huyền Tông), thi đậu Tiến sĩ, được bổ làm chức Hiệu thư lang. Sau vì sơ suất về hành vi, bị biếm ra làm chức úy tại Long Tiêu, ở phía Tây sông Tương. Khi trở về quê nhà, gặp lúc loạn lạc, bị Thứ sử Lư Khâu Hiển giết chết vì tư thù. Vương Xương Linh được người đương thời xưng là Thi thiên tử.

Vương Xương Linh sở trường về thơ thất ngôn tuyệt cú, nội dung chủ yếu là tả sinh hoạt nơi biên tái và cung oán, khuê tình, phong cách thanh tân dịu dàng trong sáng. Nay còn một quyển thơ.

Tây cung thu oán – Vương Xương Linh
Nỗi oán mùa thu ở Tây cung – Phụng Hà dịch thơ:

Người đẹp điểm trang, sen kém hồng
Gió qua thủy điện, ngọc hương nồng
Hận nỗi trăng thu còn che quạt
Quân vương chưa gọi, mãi ngóng trông.

Vỹ Sinh ôm cây: xem ấp cây.

xa thư: xa: xe cộ; thư: chữ viết. Chỉ sự thống nhất thiên hạ về một mối, một triều đại.

Sách Trung Dung ghi: Nay thiên hạ đi xe cùng một cỡ bánh, sách viết cùng một lối chữ, đi đường cùng theo một thứ tự”.

Lời chú nói: Quỹ là cỡ bánh xe, luân là thứ tự trước sau phải trái, văn là lối chữ viết. Ba cái giống nhau đó là nói sự thống nhất thiên hạ.

Tứ thời khúc vịnh:

Khắp xa gần ơn nhờ đức đội
Ðều thu về một mối xa thư.

xe dê: từ chữ dương xa. Ngày xưa, nhà vua nào cũng vậy, ngoài hoàng hậu, thứ phi còn có hàng ngàn cung nữ, chọn lấy người đẹp trong toàn quốc để vào cung hầu hạ, làm vui cho nhà vua. Đời nhà Tần (221-209 tCN), Tần Thủy Hoàng (246-209 tCN) có trên 3000 cung nữ. Ở Việt Nam, đời nhà Lý (1010-1225), vua Lý Thái Tông (1028-1054) quy định số hậu và phi 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ 1000 người. Đó là con số ít nhất so với các triều vua, nhất là các vua Tàu. Kể ra là một sự… tiến bộ.

Cung của nhà vua chia làm từng phòng đặc biệt. Mỗi nàng cung phi ở riêng một phòng. Đêm đến, nhà vua muốn vui vầy với một cung phi nào thì vào cung đó. Vì nhiều cung phi quá, và nàng nào cũng sắc nước hương trời, rốt cuộc nhà vua trông ai cũng như ai rồi… đêm nay, mình không biết là phải ngự ở cung nào.

Sách Tấn thư chép: Hán Vũ Đế có nhiều cung nhân, mỗi đêm muốn đến với cung nhân nào thì nhà Vua ngồi trên một chiếc xe nhỏ khảm châu ngọc có con dê kéo, để tùy ý dê đi đến cung điện nào thì nhà Vua vào đấy. Con dê trở thành một hướng đạo quan trọng.

Rồi cứ chiều đến, hoàng hôn vừa buông mình rủ xuống nhà Vua ngồi trên chiếc xe dê để dê lững thững kéo đi. Các cung phi muốn được hưởng ơn mưa móc của quân vương, nhưng không biết tìm thế nào cho dê kéo xe ngừng lại trước cung mình. Sau, có vài nàng có sáng kiến, biết dê thích ăn lá dâu nên tìm lá dâu rắc trước cung để nhử dê dừng xe lại. Dần dần trước cung nào cũng thấy dẫy đầy lá dâu.

Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, đoạn nói về nàng cung nữ oán trách nhà vua ghẻ lạnh đối với mình, có câu:

Phải duyên hương lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Ý nói duyên nợ với vua từ bao kiếp trước, chứ đâu như các cung phi khác, muốn được hầu vua thì tất phải rắc lá dâu cho xe dê vào rồi mới được gần vua.

xiếu mẫu: xem mục phiếu mẫu.

xích thằng: từ điển tích xích thằng hệ túc (dây đỏ buộc chân).

Ca dao:

Một là duyên, hai thời là nợ
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.

Xem mục: Nguyệt Lão.

xoang phượng: Tiếng sáo gọi chim phuợng. Liệt Tiên truyện: Tiêu Sử có tài thổi sáo, mỗi lần chàng cất tiếng sáo thì chim phượng hoàng bay đến nhảy múa truớc sân.

xuân đường: Nhà Xuân, chỉ người cha. Sách Trang Tử: Ðời thượng cổ có giống cây Ðại Xuân, lấy 8000 năm làm mùa xuân, 8000 năm làm mùa thu. Người sau nhân đó gọi cha là Xuân Ðường là có ý mong cha được tuổi thọ.

Đoạn trường tân thanh:

Xuân đường kíp gọi Sinh về hộ tang.

xuân huyên: cây xuân và cỏ huyên, hai loài thực vật sống lâu; nghĩa bóng chỉ cha mẹ.

Bích Câu kỳ ngộ:

Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương

Câu này có ý nói cha mẹ đã mất.

Đoạn trường tân thanh:

Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng
Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài

Xuân huyên lo sợ biết bao
Hóa ra, khi đến thế nào mà hay!

Xuân giang hoa nguyệt dạ: bài thơ trữ tình nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nhà nghiên cứu văn học đời Thanh, Vương Khải Vận, khen bài thơ này là “chỉ một thiên tuyệt diệu, đủ xứng đáng là đại gia” (cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia). Nhà thơ hiện đại Văn Nhất Đa thì ca ngợi rằng bài thơ này là “Thơ trong thơ, đỉnh núi trên các đỉnh núi”. Theo lời Lưu Kế Tài thì đối với người Nhật Bản hiện đại, hai bài thơ Đường được hâm mộ nhất là Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư và Trường hận ca của Bạch Cư Dị.

Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của người du tử đối với người khuê phụ. Tựa đề Xuân giang hoa nguyệt dạ có nghĩa là “Đêm hoa trăng trên sông xuân” nhưng cũng là tên một khúc hát thời Trần Hậu Chủ, do đó tựa đề cũng có thể không cần dịch nghĩa. Bài thơ là một bức tuyệt tác tổng hợp cảnh vật, tình cảm, triết lý vào trong một đêm xuân có trăng sáng, trên con sông, bên cạnh một rừng hoa. Câu chuyện đi từ cảnh xa cho đến gần, cảnh vĩ đại cho dến cảnh đơn thuần (con trăng), cảnh chuyển qua tình, từ triết lý nhân sinh đi tới nội tâm của con người rồi của chính mình, một lúc nào đó cảnh và người hòa hợp với nhau, không còn phân biệt đâu là Trang đâu là bướm.

Tản Đà dịch thơ:

Sông xuân sáng nước liền ngang bể
Vầng trăng trong mặt bể lên cao
Ánh trăng theo sóng đẹp sao!
Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?

Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát
Trăng soi hoa như tán trập trùng
Sương bay chẳng biết trong không
Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.

Trời in nước một ly không bụi
Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời
Thấy trăng thoạt mới là ai?
Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?

Người sinh mãi, kiếp nào cho biết
Nhìn trăng sông năm hệt không sai
Trăng sông chẳng biết soi ai
Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.

Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi
Rặng phong xanh một dải sông sầu
Đêm nay ai đó, ai đâu?
Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.

Trăng thờ thẫn nơi người xa ngóng
Chốn đài gương tựa bóng thương ai
Trong rèm cuốn chẳng đi thôi
Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.

Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy
Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng
Hồng bay, ánh sáng không màng
Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.

Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa
Ai xa nhà xuân nửa còn chi!
Nước sông trôi mãi xuân đi
Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.

Vầng trăng lặn êm chìm khói bể
Đường bao xa non kệ sông Tương
Về trăng mấy kẻ thừa lương
Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.

Xuân Thu Chiến Quốc: giai đoạn nhà Đông Chu trong cổ sử Trung Quốc, gồm có hai thời kỳ tiếp nối nhau: Xuân Thu (721–481 tCN) và Chiến Quốc (481–221 tCN), tức chấm dứt khi Tần Thùy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Lưu ý: các học giả chưa đồng thuận về các mốc phân chia hai thời kỳ này.

Tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc bao gồm thời kỳ này, khá trung thực với lịch sử.

Theo Wikipedia_Xuân Thu, và Simon (2019), Tên Xuân Thu bắt nguồn từ Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một bộ sử thường được coi là của Khổng Tử. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm 721 tCN đến năm 481 tCN), gồm 240 năm. Ở thời Xuân Thu, quyền lực được tương đối tập trung hơn. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc.

Trong thời này, trung tâm quyền lực nằm trong tay vua nhà Chu dưới hình thức phong kiến phân quyền. Vua nhà Chu nhận đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc (thường có tước công) tại các nước chư hầu thường có công lao lớn đối với vua nhà Chu. Vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát chư hầu. Thay vào đó, sự trung thành chung của các chư hầu tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua nhà Chu cũng giảm sút.

ban do_Xuan Thu
Bản đồ giữa thời Xuân Thu

Trước thời Xuân Thu những nước chư hầu rất nhiều, đến thời này chỉ còn độ một trăm rồi giảm dần. Có mấy nước mạnh là Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống. Nhà Chu tuy suy nhưng các chư hầu vẫn chưa nỡ hoặc chưa dám bỏ hẳn. Người nào cũng muốn mượn danh nghĩa tôn phò nhà Chu để hủy diệt đối phương và tự suy tôn làm minh chủ (gọi là Bá). Ngược lại nếu tỏ lộ ý định diệt nhà Chu thì sẽ bị các chư hầu khác chinh phạt lấy danh nghĩa phò Chu. Vì thế mà các chư hầu cứ kèn cựa nhau.

Có 5 chư hầu nối tiếp nhau làm minh chủ, gọi là Ngũ Bá. Đó là những người đứng đầu trong việc đồng minh, ăn thề để đoàn kết nhau, thường lấy danh nghĩa thay mặt nhà Chu mà bức bách những nước yếu. Ngũ Bá là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công, Tần Mục Công. Xem thêm: Ngũ Bá.

Từ đó, có đường lối cai trị được gọi là bá đạo, tức đạo làm bá chủ chư hầu, được giảng giải bởi Thương Ưởng (khoảng 390-338 tCN),

Vì tranh giành địa vị, thôn tính đất đai nên tất cả chư hầu lớn nhỏ gây thành những cuộc binh đao dữ dội, chưa từng thấy trong lịch sử Trung Quốc.

Một số nhân vật nổi bậc khác trong thời Xuân Thu là như sau:

  • Án Anh
  • Bá Nha và Tử Kỳ
  • Bách Lý Hề
  • Bàng Quyên và Tôn Tẫn
  • Khổng Tử, Nhan Uyên tức Nhan Hồi, Tử Lộ
  • Khuất Nguyên
  • Quản Di Ngô và Bảo Thúc Nha
  • Ngô Vương Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn, với các điển tích “nằm gai nếm mật”, “điểu tận cung tàng
  • Tây Thi và Phạm Lãi
  • Tôn Vũ

Một số sự kiện nổi bậc trong thời Xuân Thu là như sau:

  • Bắt đầu đào con sông vĩ đại mang tên Ðại Vận Hà.

Theo Wikipedia_Chiến Quốc, tên gọi Chiến Quốc xuất phát từ cuốn Chiến Quốc sách được biên soạn đầu thời nhà Hán.

ban do_Chien Quoc
Bản đồ đầu thời Chiến Quốc

Trái với giai đoạn Xuân Thu, trong giai đoạn Chiến Quốc vua nhà Chu chỉ là bù nhìn. Các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Cuối cùng, tới thế kỷ 3 tCN bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo, được gọi là Chiến Quốc thất hùng, gồm có Hàn, Ngụy, Sở, Tần, Tề, Triệu, và Yên. Chiến tranh càng kéo dài dữ dội. Nay Tần thân với Sở, thì mai có thể coi Sở là kẻ thù; Tề ngoài mặt thân với Triệu nhưng vẫn có thể giao thiệp bí mật với Tấn chẳng hạn để diệt Triệu, v.v…

ban do_Chien quoc that hung

Một dấu hiệu khác của sự tăng cường quyền lực là sự thay đổi danh hiệu: trước kia các chư hầu vẫn xếp mình vào bậc công hay hầu, là vị thế chư hầu của vua nhà Chu; nhưng trong giai đoạn này họ lần lượt tự xưng vương, có nghĩa là họ muốn ngang hàng với vua nhà Chu.

Simon (2019) phân tích những khác biệt giữa hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc.

* Khác biệt thứ nhất: Nguyên nhân dẫn tới các cuộc chiến

Giả dụ cho dễ hiểu.Một cường quốc thời Xuân Thu bảo các chư hầu lân cận: “Mấy ông phải nghe lệnh ta, ta sẽ giúp mấy ông đánh bại các nước lớn xung quanh. Còn không, ta sẽ đưa quân tiêu diệt rồi mới gây chiến với nước khác”.

Mặt khác, một cường quốc trong thời Chiến Quốc bảo các chư hầu lân cận: “Ta cần thêm thành và thêm dân, ta muốn các ngươi dâng cho ta và cút đi”.

Nói một cách ngắn gọn, trong thời Xuân Thu các nước đánh nhau vì vinh quang, uy quyền, sức mạnh. Trong thời Chiến Quốc, các nước đánh nhau vì đất đai.

* Khác biệt thứ hai: Số quốc gia chư hầu

Đầu thời Xuân Thu, có trên 100 nước chư hầu của nhà Đông Chu. Nhưng thực tế chỉ có một ít nước lớn được đề cập nhiều trong sử sách. Nhóm chư hầu loại 1 giai đoạn này gồm Tề, Tấn, Sở, Ngô, Việt và Tần, còn loại 2 gồm Tống, Trịnh, Lỗ, Yên, Đàm, Trần, Trâu, Vệ, Trung Sơn, Sái, Cừ, Từ.

Thời Chiến Quốc, đa số nước nhỏ biến mất. Chỉ còn 7 nước lớn trong 50 năm cuối giai đoạn Chiến Quốc. Đó là: Tần, Yên, Hàn, Triệu, Sở, Ngụy, Tề. Nước Vệ còn tồn tại như một chư hầu của Ngụy và Tần.

* Khác biệt thứ ba: Vị thế các vua triều đại Đông Chu

Các vua Đông Chu có quyền lực bị hạn chế nhiều so với tổ tiên họ thời Tây Chu. Giai đoạn Xuân Thu, vua Đông Chu không thể kiểm soát phần lớn lãnh thổ nữa. Ít nhất 90% đất nước thuộc về chư hầu. Tuy nhiên, những người đứng đầu chư hầu vẫn nói rằng họ thần phục Vua Chu. Mặc dù họ không nghe lệnh, họ vẫn coi Vua Chu là vua trên danh nghĩa. Họ vẫn tự xưng theo tước vị Công, Hầu hoặc Bá. Chỉ một số ít người dám xưng vương.

Đến thời Chiến Quốc, trái lại, những người đứng đầu chư hầu xưng vương. Hệ quả là uy quyền Vua Chu ngày càng suy yếu. Mặc dù Vua Chu vẫn tồn tại trong giai đoạn Chiến Quốc, họ các nước chư hầu phớt lờ. Thậm chí họ còn bị xem thấp kém hơn con rối bị giật dây.

* Khác biệt thứ tư: Chiến lược của các nước chư hầu

Có rất nhiều trận chiến nổi tiếng trong cả hai thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Tuy nhiên, chiến lược lại thay đổi theo thời đại. Ở giai đoạn Xuân Thu, chiến tranh theo quy ước được tuân thủ. Ví dụ, theo cấp bậc quý tộc (Công, Hầu, Bá…), mỗi nước chư hầu chỉ duy trì lượng binh lính và xe ngựa nhất định trong thời bình. Ngoài ra, trong trận chiến hai bên đối đầu trực diện với những điều kiện cân bằng.

Sang giai đoạn Chiến Quốc, nhiều điều đã thay đổi. Để quét sạch đối phương, các nước lớn thường duy trì và đào tạo một đội quân hùng hậu. Chiến lược quân sự phát triển trên chiến trường. Một số chiến lược gia nổi tiếng như Tôn Tử, Ngô Khởi, Tôn Tẫn sinh ra trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong quan hệ giữa các nước, thủ đoạn và chiêu trò được áp dụng rộng rãi. Một số mưu sĩ nổi tiếng như Tô Tần hay Trương Nghi thường đi du thuyết các nước khác nhằm lôi kéo đồng minh về phía họ. Không thể tìm thấy quy ước nào trong quan hệ giữa các nước thời Chiến Quốc nữa.

Simon (2019) chỉ ra các giai đoạn chính yếu trong thời Xuân Thu Chiến Quốc như sau.

  1. Vua Chu mất quyền lực và sự trỗi dậy của nước Trịnh. Vị thế nhà Chu bị đánh mất bởi cuộc tấn công của nước Thân và các man tộc. Chu Bình Vương phải rời đô về Lạc Ấp, mở đầu nhà Đông Chu. Các chư hầu không còn bị nhà Chu điều khiển nữa. Nước Trịnh trở thành chư hầu đầu tiên công khai gây chiến với nhà Chu. Vua Chu bị trúng tên của quân Trịnh.
  2. Nước Tề trở thành “bá chủ” đầu tiên. Dưới thời Tề Hoàn Công, nước Tề có sức mạnh vượt trội. Nhiều tiểu quốc quy phục Tề.
  3. Căng thẳng giữa Tấn và Sở. Nước Tề suy tàn và mất vị thế. Nước Tấn trở thành “bá chủ” mới và Tấn Văn Công có uy thế với nhiều tiểu quốc. Ở phía nam, nước Sở cũng mạnh lên. Để khuếch trương thanh thế, Sở và đồng minh bắt đầu gây chiến với Tấn và chư hầu.
  4. Nước Ngô tham chiến. Khi Sở còn mạnh, nước Ngô luôn bị lấn lướt. Nhưng cuối cùng, nước Ngô cũng tìm được một vị vua tài năng đưa quốc gia phía đông nam này trở thành cường quốc. Nhờ sự hỗ trợ của Ngũ Tử Tư, từng bỏ trốn sang Ngô khi bị Vua Sở đàn áp, nước Ngô thắng lớn trước Sở. Sau đó, nước Sở mất vị thế và bắt đầu thoái trào. Cùng thời gian, nước Tần và Tống cũng tương đối mạnh mẽ. Tuy nhiên, họ không thể sánh được với Tấn, Sở và Ngô.
  5. Căng thẳng giữa Ngô và Việt. Nước Ngô chiếm nước Sở và trở thành “bá chủ” phương nam, nhưng không lâu sau đó, một quốc gia khác ở đông-nam là nước Việt cũng trở nên hùng mạnh. Căng thẳng xảy ra giữa hai nước phía đông-nam bắt đầu. Cuối cùng, nước Việt dưới thời Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật giành chiến thắng và phá hủy nước Ngô. Đây cũng là thời gian kết thúc giai đoạn Xuân Thu và mở đầu giai đoạn Chiến Quốc.
  6. Kết thúc giai đoạn Xuân Thu. Nhóm chư hầu loại 2 và các tiểu quốc khác không được nhớ tới quá nhiều. Chỉ một nước: nước Lỗ, láng giềng với Tề. Đó là quê hương của triết gia vĩ đại Khổng Phu Tử. Thời Đông Chu không chỉ được biết đến bởi chiến tranh hay chiến lược, mà còn là thời Bách Gia Chư Tử. Khổng Tử và Khổng giáo chỉ là một trong các phái, nhưng lại ảnh hưởng tới nhiều phái khác trong lịch sử. Một số phái quan trọng bao gồm Đạo giáo, Mặc gia, Pháp gia, Âm Dương gia, đạo Thần Nông, Danh gia, Chiết trung, Hỗn hợp, Ngoại giao. Nước Lỗ còn được nhắc tới về một tác phẩm: Kinh Xuân Thu, biên bản lịch sử được ghi chép bởi chính quyền nước Lỗ. Cái tên giai đoạn Xuân Thu ra đời từ cuốn sách này. Biên bản kết thúc vào năm 479 tCN, cũng là lúc bắt đầu thời Chiến Quốc.
  7. Nước Tấn tan rã và nước Tề đổi ngôi. Đầu thời Chiến Quốc, bá chủ Tấn tan rã bởi cuộc nội chiến và tách thành 3 nước: Hàn, Triệu và Ngụy. Không lâu sau đó, đảo chính ở nước Tề xảy ra. Dòng tộc sáng lập nước Tề mang họ Khương bị thay thế bởi gia tộc họ Điền. Những biến cố ở hai nước lớn Tề và Tấn đã bắt đầu thời Chiến Quốc.
  8. Tất cả đều xưng vương. Lãnh đạo các chư hầu (kể cả Nghĩa Cừ, một nước man tộc) đều xưng vương. Điều này đồng nghĩa với uy quyền Vua Chu không còn tồn tại dù chỉ trên danh nghĩa.
  9. Cải cách xã hội và vũ trang khắp nơi. Sau khi xưng vương, các lãnh đạo chư hầu bắt đầu gây chiến xung quanh để mở rộng đất đai và dân số. Nhiều nước tiến hành cải cách xã hội và vũ trang. Nước Ngụy là nước đầu tiên cải cách. Tiếp đến là Sở, Triệu, Tề và Tần cũng cải cách. Cải cách xã hội của Thương Ưởng nước Tần và cải cách vũ trang của Triệu Vũ Linh Vương là hai cuộc cải cách thành công nhất. Kết quả là nửa sau thời Chiến Quốc, Tần với Triệu là hai nước mạnh nhất.
  10. Một mình chống sáu. Nửa sau thời Chiến Quốc, chỉ còn 7 nước chưa hầu. Tần trở thành mạnh nhất sau cải cách xã hội. Tần cũng đánh bại các nước tây-nam là Thục và Ba, mở rộng đất nông nghiệp tới lòng chảo Tứ Xuyên. Sau đó, họ bắt đầu đánh 6 nước còn lại. Để ngăn Tần, mưu sĩ Tô Tần đã du thuyết 6 nước để kết đồng minh. Nước Tần khó lòng mở rộng về phía Đông nữa.
  11. Đồng minh tan rã. Nước Tần gặp khó khăn. Ngay sau đó, mưu sĩ Trương Nghi bắt đầu tới Sở để đánh lừa bằng những lời hứa hão, thuyết phục Sở tin theo và đánh Tề. Sở mắc mưu và gây chiến với Tề. Cùng lúc đó, Tề, Ngụy, Hàn, và Triệu cũng chia tách vì những mâu thuẫn trong nước. Liên minh 6 nước thất bại.
  12. Tần tung ra chiến lược quyết định. Để dễ dàng hành động, Tần kết đồng minh với nước xa và tấn công nước gần. Hàn, Ngụy và Triệu suy yếu mạnh. Với nguồn tài nguyên khổng lồ từ các nước mới bị chiếm, Tần ngày càng mạnh. Không ai đủ sức ngăn cản Tần nữa.
  13. Tần thống nhất đất nước. Từ 230 tới 221 tCN, Tần đánh bại và thôn tính cả 6 nước, thống nhất toàn đất nước. Trung Quốc bước vào triều đại nhà Tần.

Có giai thoại đối đáp giữa Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm về hai thời Chiến Quốc và Xuân Thu. Xem mục: Ngô Thì Nhậm.

Xuy Vưu: chư hầu của Hoàng Đế, chế ra đao nỏ đi quấy rối thiên hạ, bị Hoàng Đế đánh thua ở Trác Lộc, hóa ra đám mù; Vua Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam giết Xuy Vưu.

xưa nay chinh chiến mấy ai về: thành ngữ từ câu cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi trong bài thơ nổi tiếng của Vương Hàn (687-735):

Lương Châu từ kỳ 1 – Vương Hàn

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Bài từ Lương Châu kỳ 1 – Trần Quan Trân dịch thơ:

Bồ đào rượu ngát chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
Say khướt sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.

(Lương Châu nay thuộc Tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu từ là một điệu hát cổ của nói về chuyện trận mạc ở vùng biên ải.)

Màu tím hoa sim – Hữu Loan

Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại.

Tiếu ngạo giang hồ – Kim Dung

Tổ Thiên Thu nói tiếp: “Đến như rượu bồ đào thì dĩ nhiên phải dùng chén hổ quang. Cổ nhân có câu thơ “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi…” Chén dạ quang là vật trân quí hiếm trên đời. Rượu bồ đào đã có mầu hồng mà bọn nam nhi chúng ta uống vào thì không đủ hào khí. Chén dạ quang phát ra ánh sáng mới là tuyệt diệu! Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang lập tức mầu rượu đỏ như huyết. Uống rượu cũng như uống huyết…

Y Doãn: Người đời Thương, giữ chức A Hành. Khi chưa làm quan, ông từng cày ruộng ở đất Sằn (Sằn dã).

Y Doãn tên Chí, cày ruộng ở đất Hữu Sằn. Vua Thành Thang nhà Thương 3 lần cho người đưa hậu lễ đến mời, Y Doãn mới ra giúp. Ông có công to giúp Vua Thành Thang đánh Kiệt diệt nhà Hạ, dựng nghiệp nhà Thương nên được tôn giữ chức A Hành. Ông luôn tự xem mình có trách nhiệm gánh vác việc thiên hạ. Khi Vua Thang mất, cháu đích tôn là Thái Giáp lên nối ngôi. Y Doãn làm ra những lời khuyên, răn vua nên tu sửa, theo pháp chế Vua Thang. Nhưng Thái Giáp sau 3 năm làm vua vẫn tỏ ra bạo ngược vô đạo. Y Doãn bèn bắt đày ra đất Ðồng Cung rồi tự mình nhiếp chính. Thái Giáp ở Ðồng cung 3 năm hối lỗi, lo điều thiện. Y Doãn bèn rước về làm vua.

Luận Ngữ: Thang hữu thiên hạ tuyển ư ch Y Doãn, bất nhân giã viễn. (Thành Thang được thiên hạ, chọn trong dân chúng mà cử Y Doãn, bọn người xấu phải lánh xa.)

Y học nhập môn: Sách thuốc của Lý Duyên đời Minh soạn.

Yên Đan: Thái tử Đan của nước Yên. Xem: Dịch Thủy tống biệt.

yêu đào: từ chữ đào yêu trong Kinh Thi. Thơ Đào yêu gồm ba chương (Lê Văn Hòe dịch):

I
Mơn mởn đào non
Rực rỡ nở hoa
Cô ấy lấy chồng
Êm ấm cửa nhà.

II
Mơn mởn đào non
Lúc lỉu quả sai
Cô ấy lấy chồng
Êm ấm nhà ai.

III
Mơn mởn đào non
Lá xanh rườm rà
Cô ấy lấy chồng
Thuận với người nhà.

Đoạn trường tân thanh, đoạn thuật cảnh Thúy Kiều sang thư phòng Kim Trọng, khi chàng này sắp sửa không còn giữ vẻ đứng đắn, Kiều mới khuyên ý trung nhân:

Vẻ chi một đóa yêu đào!
Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bực bố kinh
Đạo tùng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Yêu đào tức là cây đào non mơn mởn, được ví với con gái dậy thì đến tuổi lấy chồng.

Yến Chu: Bữa yến tiệc vua nhà Chu bày ra để thưởng cho công thần.

yến oanh: chim yến và chim oanh, hai loại chim thường bay từng đàn và kêu ríu rít ồn ào. Nghĩa bóng: đông đúc, nhộn nhịp.

Đoạn trường tân thanh:

Gần xa nô nức yến oanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. (46)

Nổi danh tài sắc một thì
Xôn xao ngoài của, hiếm gì yến oanh. (64)

Bích Câu kỳ ngộ:

Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương.

Ý Giáng Kiều nói không thích tụ tập đông đúc bên ngoài.

Ỷ Lan (1044–1117): là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của Hoàng đế Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam. Các sách như Đại Việt sử lượcĐại Việt sử ký toàn thư đều không ghi chép rõ ràng xuất thân của bà. Chỉ biết bà họ Lê, người hương Thổ Lỗi.

Theo truyền thuyết, Ỷ Lan sinh tại hương Thổ Lỗi (nay thuộc khu vực Làng Sủi, Xã Phú Thị, Huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội). Cha bà họ Lê, làm chức quan nhỏ ở Kinh thành Thăng Long, còn mẹ bà làm ruộng tại hương Thổ Lỗi. Đến năm Ỷ Lan 12 tuổi thì mẹ ốm mất, cha lấy mẹ kế họ Đồng, nhưng ít lâu sau ông cũng qua đời. Kể từ đó, bà sống với người mẹ kế, hai người rất hòa thuận.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư:

Tục truyền rằng vua [Lý Thánh Tông] cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, mới đi chơi khắp chùa quán. Xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ đứng tựa trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu phong làm Ỷ Lan Phu nhân.

Nguồn khác cho rằng đó là vào mùa xuân năm 1063, khi vua đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), qua hương Thổ Lỗi (Làng Sủi, làng này nằm ngay cạnh con đường thiên lý để đi vào chùa Dâu), Ngài vén rèm nhìn ra, thấy từ xa có người con gái tựa vào cây lan và cất tiếng hát trong trẻo. Sau đó thì đưa người con gái ấy vào cung.

Tên hiệu Ỷ Lan nghĩa là tựa vào gốc lan, Thánh Tông ban hiệu này để lấy làm kỷ niệm của việc gặp gỡ giữa hai người.

Năm 1066, Ỷ Lan Phu nhân sinh ra Hoàng tử Lý Càn Đức. Ngày hôm sau, lập con làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, và phong mẹ làm Thần phi.

Năm 1068 bà sinh ra Minh Nhân vương. Thánh Tông phong bà làm Nguyên phi, đứng đầu các phi tần trong cung.

Địa vị bây giờ của Ỷ Lan chỉ sau Dương Hoàng hậu.

Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh dẫn quân đi đánh Chiêm Thành. Trước khi đi nhà Vua trao quyền điều khiển chính sự ở triều đình cho Nguyên phi, giúp sức có Lý Đạo Thành, là Thái sư đầu triều đương thời.

Ra trận, Thánh Tông đánh mãi không được, bèn lui binh. Khi đem quân về đến Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên) thì nghe tin Nguyên phi làm rất tốt việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp, trong cõi vững vàng. Thánh Tông nói: “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao!” Bèn quay lại đánh nữa, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và 5 vạn người.

Tình tiết này cho thấy bà Ỷ Lan, lúc chưa đến 30 tuổi, đã chứng tỏ tài năng chính trị sắc sảo.

Năm sau (1070), Chế Củ xin đem đất ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (tức vùng Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Giang sơn Đại Việt bước đầu mở rộng xuống phía Nam.

Năm 1072, Thánh Tông Hoàng đế lâm bệnh nặng rồi băng hà, thọ 50 tuổi, trị vì được 18 năm. Hoàng thái tử Lý Càn Đức kế nghiệp, sử gọi là Lý Nhân Tông. Tân quân kế nghiệp khi mới 7 tuổi, nên tôn đích mẫu là Dương Hoàng hậu làm Thượng Dương Hoàng thái hậu và để cho Thái hậu cùng dự việc triều chính, có Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc.

Ỷ Lan Nguyên phi được tôn làm Hoàng thái phi, không có quyền xen vào việc triều chính. Nhưng rồi, dưới lợi thế là mẹ đẻ của Hoàng đế, cùng sự liên kết với Thái úy Lý Thường Kiệt, bà khiến Nhân Tông ra chiếu chỉ phế truất Thượng Dương Thái hậu. Sau đó, Ỷ Lan ra lệnh giam Dương Thái hậu cùng 72 cung nhân khác vào lãnh cung. Đến khi phát tang chôn cất Thánh Tông Hoàng đế, Thái hậu cùng các cung nhân bị buộc phải chôn theo.

Đại Việt sử ký toàn thư chép sơ lược việc này như sau:

Quý Sửu [1073]… giam Hoàng Thái hậu họ Dương,… (bởi) Linh Nhân [Ỷ Lan] có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: “Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?” Vua bèn sai đem giam Dương Thái hậu và 72 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông… còn Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu đã bị vua điều ra trấn thủ tại Nghệ An”. Từ đó, vai trò của Lý Thường Kiệt ngày càng lên.

Lý Nhân Tông sau này suốt đời không có con. Trong dân gian có lời đồn đây là quả báo do Thái hậu Ỷ Lan thảm sát Thượng Dương Hoàng Thái hậu và tỳ nữ để đoạt quyền nhiếp chính.

Sau khi sát hại Thượng Dương Hoàng Thái hậu, Ỷ Lan được tôn làm Hoàng Thái hậu nhiếp chính. Lý Đạo Thành vốn là người phụ chính Thượng Dương Hoàng Thái hậu, Ỷ Lan cho là không nên dùng và biếm ông ra trấn thủ Nghệ An. Rồi Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương, còn nhà Tống chuẩn bị động binh. Có lẽ vì vậy, năm 1074, Lý Đạo Thành được mời quay về, phục chức, giữ chức Thái phó, để Lý Thường Kiệt rảnh tay chuẩn bị quân đội.

Năm 1075, Thái úy Lý Thường Kiệt mang quân sang đánh Khâm châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), phá tan kho lương thực và khí giới của Nhà Tống ở Ung Châu,. Nhà Tống chấn động, tuy nhiên vẫn không từ bỏ ý định xâm lược Đại Việt.

Năm 1076, Quách Quỳ, một viên tướng dày dạn trận mạc cùng Triệu Tiết đem đại binh Tống sang xâm lược Đại Việt. Mặc dù quân Tống rất mạnh song không thể vượt qua được phòng tuyến Sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt. Ông cử Lý Kế Nguyên đánh bại quân thủy của quân Tống sang kết hợp với quân bộ của Quách Quỳ. Quách Quỳ thiếu lương thực, chỉ mong đánh lớn một trận cho bõ. Nhưng Lý Thường Kiệt án binh bất động không ra, vì ông đợi cho quân Quách Quỳ hết lương, dịch bệnh đeo bám.

Năm 1077, thủy quân Đại Việt tràn lên bờ, đánh chiếm Núi Nham Biền rồi đổ bộ xuống quân Tống. Một cuộc giao tranh ác liệt diễn ra, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang chống đỡ. Hai bên tiêu hao nặng. Nhưng Quách Quỳ, Triệu Tiết không hề biết rằng đó chỉ là nghi binh. Đêm ấy, lợi dụng quân Triệu Tiết mệt mỏi và không đề phòng, Lý Thường Kiệt vượt Sông Như Nguyệt, đánh một trận khủng khiếp trong đêm, tiêu diệt 5 vạn quân viễn chinh của Tống.

Quách Quỳ từ 10 vạn còn lại hơn 3 vạn thoi thóp như cá nằm trên thớt. Sau đó, khi nhận được thư giảng hòa của Thái úy, Nhà Tống mừng như bắt được vàng và nhanh chóng rút quân.

Ỷ Lan có một vấn đề lấn cấn với Thái sư Lê Văn Thịnh, gây tranh cãi giữa các sử gia. Về sự kiện này Đinh Công Vĩ (2005) phân tích như sau.

Vào năm 1085, triều đình Lý đưa Lê Văn Thịnh lên chức Thái sư, đứng đầu triều đình. Đó là một hình thức hữu hiệu để thừa nhận công lao tài đức của bậc thầy vua với văn hóa, giáo dục và ngoại giao đất nước. Nhưng hoạn trường đầy bão táp. Ở ngôi tể phụ 12 năm, chưa thi thố tài kinh bang tế thế được bao nhiêu, ông bỗng nhiên bị cách chức đi đầy vào năm 1096. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Bấy giờ vua ngự ra hồ Dâm Đàm, đi chiếc thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có hổ… Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết chết, đầy lên trại đầu sông Thao…”

Thế là vụ án mờ ám, khó hiểu nhất trong lịch sử Việt Nam, vụ án theo lôgíc thông thường mà suy luận khó có thể xảy ra – vẫn cứ xảy ra. Bởi vì, người bề tôi hết lòng cúc cung tận tụy với vua, đã đem lại thêm đất đai, đem lại trí tuệ cho vua thì bị vua cho là mưu giết mình… Lạ lùng thay, âm mưu thí nghịch tầy đình ấy lại được tiến hành bằng thuật hóa hổ, điều mà theo phân tích khoa học thật khó tin. Sau đó là một cuộc đền đáp bằng luật nước của những người từng cộng tác thân thiết với nhau: Vua ra lệnh đầy người bề tôi thân cận của mình, hay là học trò bắt ông thầy đầy ân huệ với mình đi đày biệt xứ. Rõ ràng, chỉ cần nhìn vào cái bề ngoài ấy thôi, ta cũng đủ nghi ngờ tính chất quang minh của vụ án. Thế mà mỉa mai thay, ngót chín trăm năm này, nhiều người – kể cả các nhà sử học có uy tín – vẫn liên tục nhắc lại câu chuyện hóa hổ hại vua của Lê Văn Thịnh với niềm tin là thực. Họ không kể gì tới cái bề ngoài dễ hiểu, dễ thấy đó.

Phân tích kỹ vụ án ta có thể thấy rõ Lê Văn Thịnh đã bị quy oan. Có thể khẳng định chắc như thế vì mấy lý do cụ thể:

1/ Hồ Tây – hiện trường diễn ra vụ án, vốn có sẵn những điều kiện thuận lợi để dàn dựng kịch bản nhằm hại Lê Văn Thịnh. Đó là cái nền để người ta thêm thắt nhiều chi tiết ly kỳ cốt lừa bịp dư luận, cố làm cho mọi người tin là thật. Hồ Tây thường bị sương mù bao phủ, một cảnh tượng dữ dội của thiên nhiên, rất dễ làm cho các vua Lý phải hoảng hốt, tâm thần bất định mà nhìn người hóa hổ.

2/ Bản thân đời Lý vốn có những truyền thuyết đại đồng tiểu dị, gần gũi với truyền thuyết Lê Văn Thịnh cũng diễn ra ở Tây Hồ. Như chuyện: Một lần, có vị vua mà có người bảo vua đời Lý, ngự thuyền chơi Tây Hồ, xem quăng lưới bắt cá. Trời đang yên lặng, bỗng gió nổi và mây mù phủ kín. Lúc đó, thuyền vua đã ra đến giữa hồ, thì một người con gái đẹp hiện lên. Vua mê mẩn tâm thần, định đón người đó về cung, thì có vị đạo sĩ giỏi chài lưới tâu rằng: “Xin nhà vua chớ lầm, nó là con yêu tinh dưới hồ, đã từng làm hại nhiều người”. Vua không tin là thực. Nhưng vị đạo sĩ kia lo cho số phận nhà vua, bèn dùng phép quăng lưới tơ xuống hồ, vây lấy người con gái, biến lưới tơ thành lưới sắt và con yêu tinh hiện hình là con rắn khổng lồ. Đuôi rắn rất dài, có thể cuốn thành 9 vòng trên cổ người nào mà nó định hại. Vua thoát nạn và từ đó dân hồ Tây cũng thoát nan, họ lập đền thánh Võng Thị để thờ người đã có công trừ yêu tinh. Đây chính là một khuôn, một mẫu trong truyền thuyết người hóa vật hại vua đời Lý và người quăng lưới diệt yêu cứu vua, dù có một vài chi tiết khác biệt.

3/ Riêng về bản thân Lê Văn Thịnh: Trong dân gian còn truyền tụng rằng thuở nhỏ ở Lê Văn Thịnh hay xuất hiện tinh tướng hổ. Ông đi đứng bệ vệ, dáng dấp như hổ, ngồi vững vàng như hổ, đến mức: Thuở còn đèn sách, dùi mài kinh sử, ông học tới khuya, mẹ thương con mệt đã vào thư phòng, giục con đi ngủ, thấy con ngồi chồm chỗm trên giường học như ông hổ, sợ quá ngất đi. Chúng ta thấy mẹ là người gần gũi con nhất, còn nhìn lầm là hổ, huống hồ vua Lý trong sương mờ mịt nhìn Lê Văn Thịnh là người thành ra hổ thì có gì lạ! Sách Việt điện U linh ghi lại chuyện Lê Văn Thịnh nuôi được tên hầu người Đại Lý biết phép thả hơi mù và biến thành hổ báo và được tên này dạy cho phép ấy. Sự thực lịch sử là Lý Thánh Tông bắt được Nùng Tôn Phúc và Nùng Trí Thông – là cha và anh Nùng Trí Cao, đem giết cả hai đi, chứ không có chuyện có một người là Lê Văn Doanh cho ăn uống và ân xá để sau đó trả ơn dạy phép. Còn về việc học thuật lạ hóa hổ: Lê Văn Thịnh là bậc đại nho uyên bác nên ngoài văn chương kinh sử, ông có thể nghiên cứu thêm các sách phương thuật (Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú gọi loại sách này là Phương kỹ), bao gồm cả những sách về bói toán, phong thủy và các thuật lạ khác. Ông lại từng đi sứ Trung Quốc, ở phía Nam nước này nên có dịp tiếp xúc những dân tộc từng được truyền là có nhiều thuật lạ. Đó là nguyên cớ để người đời đồn đại về cái học khác thường của ông. Cũng do đó, với một người từng gắn với truyền thuyết hổ như Lê Văn Thịnh thì cái học ấy hẳn phải là học cách hóa hổ, dù ông có học hay không, khó xác định.

Tóm lại, ở một người có dáng dấp hổ, lại mang tiếng (không rõ rệt) là học được thuật lạ ấy, gắn với những thần tích không minh xác về mặt lịch sử, đặt trong thời Lý với những sự kiện truyền thuyết về hổ tương ứng, về cái mẫu câu chuyện có nhiều nét đại đồng tiểu dị với vụ án dựng lên sau này của ông, thì nếu đặt Lê Văn Thịnh trong môi trường Hồ Tây, nơi sẵn có nhiều tình tiết vô tình nhưng lại rất phù hợp với vụ án, hẳn sẽ là cơ sở thuận lợi cho những ai muốn hại ông dàn dựng vu khống.

4/ Về nội tình triều Lý lúc đó đang tồn tại mâu thuẫn không thể dung hòa giữa phái Phật giáo (có giới tu hành đông đảo) và phái Nho học tân tiến (có thực tài nhưng còn ít ỏi) do Lê Văn Thịnh cầm đầu. Mâu thuẫn đó được biểu hiện đầy kịch tính giữa sự xác lập các ảnh hưởng của ý thức hệ Nho giáo với những Nho sĩ đang nắm quyền lực với ý thức hệ Phật giáo bảo thủ tồn tại lâu đời.

Vua Nhân Tông và Thái hậu Ỷ Lan là những người cực kỳ sùng Phật giáo. Trong thời gian Lê Văn Thịnh làm Thái sư, vua và thái hậu xây dựng rất nhiều chùa tháp tốn kém. Mùa xuân năm 1088, Vua Nhân Tông lại phong nhà sư Khô Đầu làm quốc sư, cho tiết việt để cùng Tể tướng đứng trên điện xét đoán công việc. Với một nhà nho chấp chính nắm quyền Thái sư (tức Tể tướng) như Lê Văn Thịnh, hẳn riêng ông không thể tán thành sự thao túng của Phật giáo, nhất là khó chấp nhận việc đưa người của Phật giáo vào triều đình để chia sẻ quyền lực với mình. Do đó, đã xảy ra mâu thuẫn giữa phái Nho giáo bắt đầu vươn lên nắm quyền, đứng đầu là Lê Văn Thịnh, và phái Phật giáo vốn là một thế lực cũ, từ lâu đã rất mạnh ở triều đình. Như vậy, cái chết của Lê Văn Thịnh là tất yếu.

5/ Lê Văn Thịnh cũng như Lý Thường Kiệt đều có chủ trương đòi lại đến cùng những vùng đất bị Tống chiếm ở biên giới. Thậm chí ông còn cho rằng nếu cần có thể dùng sức mạnh để phục hồi và mở rộng biên cương. Điều đó không thể không làm phật lòng những kẻ chủ trương hòa hoãn để an thân, giữ yên quyền lợi ở triều đình. Vua và Thái hậu cũng vậy. Lúc đầu cả hai mẹ con đều tán thành việc tấn công lên phương Bắc, bảo vệ có hiệu quả biên cương Tổ quốc. Nhưng sau này, cả hai có lúc nản lòng. Theo Hoàng Xuân Hãn: Khi giặc Tống đánh đến sông Cầu, trong cơn nguy kịch, khi lăng tẩm kinh thành nhà Lý bị uy hiếp, Thái hậu và vua (là đàn bà con trẻ) quen sống êm ấm chắc cũng có lúc nản lòng và oán Lý Thườg Kiệt, viên đại tướng quen với trăm trận, đề ra chiến lược quyết chiến quyết thắng với Tống. Hơn nữa, vua dần lớn lên, cần nắm trọn quyền nhưng có Lý Thường Kiệt đang nắm đại quyền ở bên cạnh can gián. Cho nên, nhà vua đã đưa Thường Kiệt ra trấn Thanh Hoa 19 năm trời (từ năm 1082 đến năm 1101). Trong tình thế ấy làm sao Văn Thịnh, người cùng xu hướng, chủ trương với ông, lại có tài xuất chúng và là thầy dạy vua, có thể yên được. Do đó, dù Văn Thịnh có công, rất thân với mẹ con vua, vẫn không cứu được bản thân ông. Dường như tất cả mọi mâu thuẫn, mọi mũi dùi của triều đình đã tập trung vào ông, quyết đẩy ông khỏi ngôi tể tướng. Và như trên đã nói: điều kiện xã hội, điều kiện gia đình, bản thân, điều kiện ở Tây Hồ, nơi ông hay đến với vua, nơi có bao nhiêu truyền thuyết, đồn đại sẵn… như đã giăng bẫy, chuẩn bị một cuộc đi đày xa khổ ải của Thái sư Lê Văn Thịnh.

Chính Hoàng Xuân Hãn cảnh tỉnh chúng ta phải xem lại vụ án Lê Văn Thịnh. ông viết: “Về tháng 11 trận mù thình lình tới trên hồ, đó là sự thường. Nhưng với tâm hồn hay bị xúc cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước thì hoảng hốt. Có lẽ Văn Thịnh cũng vì thấy trời tối mà vội vã sai chèo thuyền gấp tới để hộ vệ vua về. Ngồi trên thuyền bị trùng trình không vững, Văn Thịnh phải khom mình, tay chống vào thuyền cho vững, dáng trông như con hổ. Mặt khác, Văn Thịnh có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho ông muốn hại vua”. Đó là cơ hội cho phe đối lập được dịp vu khống, quyết hãm hại ông.

Dù nhìn ở góc độ nào, thì về lý và tình, Lê Văn Thịnh đều bị quy oan.

Còn Taylor (2013) cho rằng sự nổi trội của Lê Văn Thịnh trong triều làm giảm ảnh hưởng của các thành viên hoàng tộc Lý. Ông viết:

Khi chưa có thêm thông tin, phỏng đoán khả dĩ nhất là các thành viên cao cấp của hoàng tộc đã hành động để củng cố lợi ích trước một kẻ thường dân mới lên.

Sử sách không ghi rõ thời gian Ỷ Lan thôi nhiếp chính và trao lại quyền hành cho Nhân Tông, có lẽ trên dưới 10 năm. Sau đó, Ỷ Lan vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong triều đình, ví dụ như vào năm 1103, Hoàng thái hậu cho phát tiền ở kho nội phủ để chuộc con gái do nhà nghèo bị bán ở đợ, đem họ mà gả cho những người đàn ông góa vợ. Bà còn đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi.

Vốn là người sùng đạo Phật và là “người tu tại gia”, về già, Hoàng thái hậu Ỷ Lan càng để tâm làm việc thiện, xây chùa và nghiên cứu về đạo Phật. Tính đến năm 1115, bà đã cho xây cất 150 chùa, đền, trong đó có chùa Đại Dương Sùng Phú Tự ở quê hương (Phú Thị, Gia Lâm).

Năm 1117, Hoàng Thái hậu qua đời, thọ 73 tuổi. Bà được an táng ở Thọ Lăng, thuộc Phủ Thiên Đức (nay là Huyện Tiên Sơn, thuộc Bắc Ninh).

Bên cạnh công lao ổn định và phát triển đất nước, bà Ỷ Lan còn có hai việc nổi bật đã được sử cũ biên chép, đó là việc “chuộc người” (năm 1103) và việc “lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi” (năm 1117) như kể trên. Việc thứ nhất được sử thần Ngô Sĩ Liên khen là: “Thái hậu đổi đời cho họ, cũng là việc làm chân chính vậy”. Còn việc thứ hai khiến nhiều người dân càng kính trọng và biết ơn bà, bởi “con trâu là đầu cơ nghiệp”.

Tuy nhiên, trong trang sử đời bà không khỏi có một vết đen, đó là việc giết chết Thái hậu Thượng Dương và 72 thị nữ. Tục truyền rằng bà rất hối hận về việc này nên cho xây nhiều chùa Phật để sám hối, rửa oan.

Tượng Ỷ Lan trong khu Đền thờ Bà, Xã Dương Xá, Huyện Gia Lâm, Hà Nội

Nhận định của người đời sau về Ỷ Lan nói chung là tích cực. Bà được thờ ở ít nhất ba đền chùa, và tên Ỷ Lan được đặt cho đường phố ở Đà Nẵng, Đồng Hới, Hà Nội, Long Xuyên, Sài Gòn…

Điển cố từ Đoạn trường tân thanh

Theo Phạm Tuấn Vũ & Nguyễn Thị Hương Lài (2017), Đoạn trường tân thanh là một trong những kho tàng, xuất xứ của nhiều điển cố được sử dụng trong văn học Việt Nam. Điển cố là một phương tiện tu từ đặc biệt của văn học trung đại. Điển là những từ ngữ về chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc.

Về bản chất, điển là những từ hay nhóm từ có hình thức ngắn gọn, gắn liền với một nhân vật, địa danh, câu chuyện, tư tưởng, bài thơ nổi tiếng trong lịch sử, văn hóa, văn học, được dẫn dụng lại trong tác phẩm văn học (và cả những lĩnh vực khác như âm nhạc, ngôn ngữ đời sống…) nhằm diễn đạt cho một ý nghĩa khái quát nào đó. Cơ chế hình thành của điển là rút gọn câu chuyện, tư tưởng, ý thơ thành một ngữ liệu có hình thức tối giản. Một ngữ liệu thỏa mãn những điều trên có khả năng trở thành điển cố.

Trong văn học thế giới, một tác phẩm trở thành xuất xứ của điển cố là điều rất phổ biến. Trong văn học Trung Quốc, Kinh thi, Sở từ, Đường thi, các bộ kinh sử tử tập là xuất xứ của phần lớn điển cố.

Trong văn học phương Tây, phần nhiều điển có xuất xứ từ Kinh thánh, thần thoại Hy Lạp.

Trong văn học Việt Nam, hiện tượng này cũng không phải là quá hiếm. Một số bài ca dao, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyền thuyết, tác phẩm văn học viết, trong đó có Đoạn trường tân thanh, chính là nguồn gốc của hầu hết điển cố nội sinh trong văn học nước ta. Nhiều nhân vật, tích truyện, câu thơ trong tác phẩm của Nguyễn Du đã trở nên hết sức quen thuộc, không chỉ trong văn học mà cả trong đời sống, được sử dụng với tư cách là những điển cố, tức là những ngữ liệu mang ý nghĩa khái quát hơn so với ý nghĩa ban đầu trong tác phẩm. Đoạn trường tân thanh là nguồn gốc của hàng trăm điển bởi đây là một tác phẩm tự sự bằng thơ có dung lượng khá lớn (3254 câu thơ lục bát). Hơn nữa, điển xuất xứ từ Đoạn trường tân thanh còn khá đa dạng. Điều này phần nào được thể hiện trong ba kiểu điển chính dưới đây.

Các dạng điển có nguồn gốc Đoạn trường tân thanh gồm có như sau.

Điển nhân danh

Điển nhân danh là một bộ phận quan trọng, chiếm số lượng lớn trong kho tàng điển cố. Loại điển này có hình thức ngắn gọn một từ hoặc một cụm từ, là tên gọi (tên tự, tên hiệu, tên gọi lên chức danh, cách xưng hô,…) của một nhân vật trong lịch sử, truyền thuyết, văn học.

Trong Đoạn trường tân thanh có nhiều điển nhân danh, hầu hết đều có nguồn gốc Hán, chẳng hạn: nàng Oanh, ả Lý, Tống Ngọc, Trường Khanh…

Cơ chế hình thành của kiểu điển cố này như sau: Từ một nhân vật chính (có tài năng, phẩm chất đặc biệt hoặc gắn với một sự kiện nổi tiếng nào đó) trong lịch sử, văn hóa, văn học, người ta rút gọn chỉ còn tên (thậm chí gọn hơn chỉ còn họ, bỏ qua các phương diện còn lại của nhân vật) và đưa vào sáng tác để khái quát cho một ý nghĩa nào đó.

Chẳng hạn, điển nàng Oanh, ả Lý để chỉ cho những người con hiếu thảo. Khi tiếp xúc “mã tên gọi” này, theo nguyên tắc giải mã của điển cố, người đọc phải truy ngược về các đặc điểm con người (phẩm chất, tài năng, tính cách), sự nghiệp, câu chuyện nổi tiếng liên quan đến nhân vật để hiểu ý nghĩa của “mã tên gọi” ấy, tức điển nhân danh được nhà văn dẫn dụng.

Theo cơ chế này, tên gọi của nhiều nhân vật nổi tiếng trong Đoạn trường tân thanh như Thúy Kiều, Kim Trọng, Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải được các tác giả đời sau đưa vào sáng tác của mình với tư cách là những điển cố nhân danh. Dạng điển nhân danh có nguồn gốc TK trong văn học Việt Nam có số lượng khá lớn, xuất hiện cả trong văn học dân gian và văn học viết.

Ảnh hưởng của Đoạn trường tân thanh đối với văn học dân gian khá đa dạng. Một trong những biểu hiện của sự ảnh hưởng đó là nhiều điều cố nhân danh được tác giả dân gian lấy từ nguồn gốc Đoạn trường tân thanh.

Ca dao:

Sen xa hồ, sen khô, hồ cạn
Liễu xa đào, liễu ngã, đào nghiêng
Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi.

Trong văn học viết, nhiều tác giả của văn học trung đại, văn học hiện đại mượn lại tên nhân vật trong TK với tư cách là những điển cố. Chẳng hạn,

Trách nhân tình – Nguyễn Công Trứ:

Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều

Cảm tác – Nguyễn Bính:

Bá Nha thuở trước còn Chung Tử
Kim Trọng đời nay hết Thúy Kiều.

Bên cạnh điển Thúy Kiều, Kim Trọng thường xuyên xuất hiện, các điển nhân danh khác có nguồn gốc TK cũng được các tác giả dẫn lại, như:

Ca dao:

Chỗ anh thương ít, sao anh xích ra nhiều?
Anh hổng coi Từ Hải thương nàng Kiều mấy năm
Anh mà bắt chước Thúc Sinh
Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư.

Trong các tác phẩm này, với những “mã tên gọi” trên, nếu một người chưa từng đọc Đoạn trường tân thanh thì chắc hẳn rất khó để hiểu.

Đó là từ tên gọi lần tìm về nhân vật trong Đoạn trường tân thanh với các đặc điểm ngoại hình, tài năng, tính cách, cuộc đời… để hiểu ý nghĩa của những tên gọi trên, trên cơ sở đó hiểu được ý nghĩa của tác phẩm. Chẳng hạn, với điển Thúc Sinh, người đọc phải lần tìm về đặc điểm của nhân vật này (không chung tình) để từ đó tìm ra ý nghĩa khái quát chỉ người đàn ông trăng hoa; với điển Hoạn Thư, ý nghĩa khái quát là người đàn bà ghen tuông…

Điển tích truyện

Điển tích truyện cũng là một dạng phổ biến của điển cố. Kiểu điển này có nội dung gắn liền với một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử, truyền thuyết, văn hóa. Cơ chế hình thành của kiểu điển này là rút gọn câu chuyện nổi tiếng thành một từ, cụm từ hoặc câu ngắn gọn nhằm khái quát cho một ý nghĩa nào đó.

Cơ chế giải mã của dạng điển này là từ những “mã tích truyện” có hình thức ngắn gọn, người đọc phải truy ngược về câu chuyện dài hàm chứa bên trong đó để tìm ra ý nghĩa khái quát của điển.

Không chỉ vay mượn từ kho tàng điển cố gốc Hán, Đoạn trường tân thanh còn là nơi phát sinh nhiều điển cố tích truyện được dẫn lại trong văn học Việt Nam. Đó là những câu chuyện nổi tiếng trong tác phẩm này được các tác giả đời sau đưa vào sáng tác với tư cách là những điển cố. Chẳng hạn:

Ca dao:

Vừa ra vừa gặp người xinh
Cũng bằng Kim Trọng tiết thanh minh gặp Kiều.

Kiều bán mình – Nguyễn Khuyến:

Thằng bán tơ kia dở giói ra
Làm cho bận đến cụ viên già.

Thúy Kiều lúc ra tu chùa Hoạn Thư – Tản Đà:

Nọ những chuông vàng cùng khánh bạc
Này thôi má phấn với lầu xanh
Liêu Dương mất đứt chàng Kim Trọng
Vô Tích lòi đâu cậu Thúc Sinh.

Điển thơ ca

So với kiểu điển nhân danh, tích truyện, điển thơ ca có nguồn gốc Đoạn trường tân thanh chiếm số lượng lớn hơn cả. Cơ chế hình thành của kiểu điển này là mượn lại ý thơ, lời thơ ở hình thức rút gọn hoặc cải biên.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, có nhiều điển thơ ca mượn từ Kinh thi (như điển quả mai trong câu Quả mai ba bảy đương vừa, điển cù mộc trong câu Một cây cù mộc một sân quế hòe), thơ Trung Hoa cổ, thơ Đường…

Trong văn học dân gian (chủ yếu là ca dao) có nhiều câu dẫn điển thơ ca mượn từ Đoạn trường tân thanh, chẳng hạn:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng.

và:

Ra tay mở khóa động đào
Thực tiên thì được bước vào chơi tiên…

Trong văn học viết, ngay từ thời Nguyễn Du đã có nhiều nhà thơ sử dụng điển cố thơ ca có nguồn gốc Đoạn trường tân thanh. Có thể kể ra:

Duyên gặp gỡ – Nguyễn Công Trứ:

Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Châu Trần còn có châu Trần nào hơn

Phong bài 07 – Tản Đà:

Ngày xuân con én con oanh
Ve ngâm vượn hót để dành đêm thu.

(Mượn từ câu “Ngày xuân con én đưa thoi trong” Đoạn trường tân thanh)

Cần khẳng định tính dân tộc của điển cố có xuất xứ Đoạn trường tân thanh. Mặc dù các nhân vật, tích truyện trong tác phẩm này đều có xuất xứ từ Kim Vân Kiều truyện của Trung Hoa nhưng nếu không có kiệt tác của Nguyễn Du, có lẽ không mấy người Việt biết đến chúng.

Hơn nữa, những điển cố này đều do người Việt sáng tạo trong quá trình tiếp nhận Đoạn trường tân thanh, bộ phận lớn trong chúng là điển thơ ca lại có xuất xứ từ những câu thơ lục bát Đoạn trường tân thanh mang tính dân tộc đậm đà. Điển cố có nguồn gốc Đoạn trường tân thanh chính là một đóng góp của Đoạn trường tân thanh đối với kho tàng điển cố trong văn học Việt Nam.

Đó là những đóng góp to lớn của Đoạn trường tân thanh đối với văn học trung đại Việt Nam trên phương diện lịch sử sử dụng điển cố. Ngày nay, không chỉ trong văn chương, những điển nhân danh như Thúc Sinh, Hoạn Thư, Sở Khanh, những điển thơ ca như “trong cõi người ta”, “nghề chơi cũng lắm công phu”, “còn trời còn nước còn non”, hoặc thành ngữ như “chết đứng Từ Hải”… đã trở nên quen thuộc trong đời sống ngôn ngữ, báo chí.

Nguồn tham khảo

Anon. (2014). Giải ảo lịch sử về Huyền Trân công chúa. http://tiasang.com.vn/-van-hoa/giai-ao-lich-su-ve-huyen-tran-cong-chua-7957

Anon. (2015). Nghĩa của tiếng Việt 10: Chim nhạn – Hãy trả lại tên cho ngỗng. http://soi.today/?p=178195

An Chi (2019). Lắt léo chữ nghĩa: Mây nhàn đã trở thành mây ngàn. https://thanhnien.vn/van-hoa/lat-leo-chu-nghia-may-nhan-da-tro-thanh-may-ngan-1059086.html

Bảo Khánh (2015). Truy nguyên điển tích độc lạ: Nhũn như con chi chi. https://kienthuc.net.vn/giai-ma/truy-nguyen-dien-tich-doc-la-nhun-nhu-con-chi-chi-553375.html

Bửu Kế (1968). Tầm nguyên từ điển. Nhà Xuất bản Khai Trí, Sài Gòn.

Cảnh Linh (2014). Những chuyện tình trên Sông Tiêu Tương. https://suckhoedoisong.vn/nhung-chuyen-tinh-tren-song-tieu-tuong-n84746.html

Challenge Me (2019). Kỳ án ai phá nàng Tô Thị? https://www.youtube.com/watch?v=domVLGNb52I

Cổ vật tinh hoa (2016). Bộ đồ trà Mai-Hạc. https://www.youtube.com/watch?v=fS4uF-qSs1I&list=PLh4trvZExvP3fS5V5EhG1tp7hqGHzEOTm&index=27

Diệp Minh Tâm (2019a). Câu đối – https://tamdiepblog.wordpress.com/2019/01/29/cau-doi/

Diệp Minh Tâm (2019b). Những hư cấu trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa”. https://tamdiepblog.wordpress.com/2019/07/26/nhung-hu-cau-trong-tieu-thuyet-tam-quoc-dien-nghia/

Diệp Minh Tâm (2020a). Chim trong văn học–nghệ thuật Việt Nam – Bài 1 trong 2https://tamdiepblog.wordpress.com/2020/01/17/chim-trong-van-hoc-nghe-thuat-viet-nam-bai-1-trong-2/

Diệp Minh Tâm (2020b). Chim trong văn học–nghệ thuật Việt Nam – Bài 2 trong 2https://tamdiepblog.wordpress.com/2020/01/17/chim-trong-van-hoc-nghe-thuat-viet-nam-bai-2-trong-2/

Diệp Minh Tâm (2020c). Đào Duy Từ và Lũy Thầyhttps://tamdiepblog.wordpress.com/2020/04/20/dao-duy-tu-va-luy-thay/

Diệp Minh Tâm (2020d). Thành Đồ Bàn: Lịch sử và con ngườihttps://tamdiepblog.wordpress.com/2020/05/21/thanh-do-ban-lich-su-va-con-nguoi/

Duy Cường & Dự Minh (2016). Phát hiện gây sốc về loài hoa ưu đàm ‘3000 năm mới nở‘. https://baophapluat.vn/dan-sinh/phat-hien-gay-soc-ve-loai-hoa-uu-dam-3000-nam-moi-no-284232.html

Dương Quảng Hàm (1968). Việt Nam Văn học sử yếu. Trung tâm Học liệu, Saigon.

Đặng Đình Nguyên (2008). Danh sĩ Đặng Trần Thường và nỗi oan thế sự. http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Danh-si-Dang-Tran-Thuong-va-noi-oan-the-su-310556/

Đặng Đức Thư (2012). Đừng nhầm lẫn giai thoại với lịch sử. http://vietsuky.blogspot.com/2012/03/ung-nham-lan-giai-thoai-voi-lich-su.html

Đặng Xuân Vĩnh (2011). Ngô Thời Nhiệm và Đặng Trần Thường: sự hiểu lầm cần làm rõ. http://hodangvietnam.com/site/NewDetails/361

Đặng Xuân Vĩnh (2014). Đặng Trần Thường: Một con người hai nỗi oan. http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Dang-Tran-Thuong-Mot-con-nguoi-hai-noi-oan-316106/

Đào Tam Tỉnh (2020). Đĩa sứ vẽ Mai Hạc có bút tích của Nguyễn Du qua phát hiện của H. Le Breton. http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/dia-su-co-mai-hac-co-but-tich-cua-nguyen-du-qua-phat-hien-cua-h-le-breton

Đào Duy Anh (2009). Từ điển Truyện Kiều. Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.

Đinh Công Vĩ (2005). Bên lề chính sử. Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.

Đinh Gia Khánh et al. (1977). Điển cố văn học. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Đông Kha (2019). Hoàn cảnh sáng tác của “Ai về Sông Tương” (Thông Đạt) – Sông Tương là con sông nào? https://nhacxua.vn/hoan-canh-sang-tac-cua-ai-ve-song-tuong-thong-dat-song-tuong-la-con-song-nao/

Đức Văn (2017). Chùa Bà Đanh – Ngôi chùa mệnh danh “đệ nhất vắng khách”. https://dantri.com.vn/doi-song/chua-ba-danh-ngoi-chua-menh-danh-de-nhat-vang-khach-2017111007051498.htm

Gabe (2017). “Nhũn như con chi chi” – Con chi chi là gì, có thật hay không? https://soha.vn/nhun-nhu-con-chi-chi-con-chi-chi-la-gi-co-that-hay-khong-20170404153111508.htm

Giải Trí Việt 24h (2020). Nghệ sĩ Thanh Hằng kêu lô tô hay xuất sắc khiến Lộ Lộ phấn khích | Lô tô Sài Gòn Tân Thời. https://www.youtube.com/watch?v=xyZEvx0806w

H.H.V. (2008). Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động. https://thanhnien.vn/van-hoa/thien-su-le-manh-that-va-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong-317965.html

Hải Đà – Vương Ngọc Long (no date). Chùm thơ Vô Đề của Lý Thương Ẩn. http://www.vuonghaida.com/VAN/ChumThoVoDe.htm

Hạnh Chi (2011). Ngồi giữa gió xuân. https://thuvienhoasen.org/a8956/ngoi-giua-gio-xuan-hanh-chi

Hạnh Lê (no date). Tết Đoan ngọ – Nét đẹp văn hóa Việt. https://magazine.vov.vn/20190607/tetdoanngo/index.html

Hồ Đắc Duy (2010). Ðiều bí ẩn trong bài Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ cách đây hơn 2000 năm. https://www.daovien.net/t1282-topic

Hồ Sĩ Hùy (2013). “Nhà bác học Phan Huy Chú và tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí”. Thông tin Khoa học–Công nghệ Nghệ An số 8.

Hồ Tường (2016). Nhà bác học thế giới Trương Vĩnh Ký học ngoại ngữ siêu phàm. https://tuoitre.vn/nha-bac-hoc-the-gioi-truong-vinh-ky-hoc-ngoai-ngu-sieu-pham-1030399.htm

Khánh Ngân (no date). Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam. http://khamphahue.com.vn/kham-pha/di-tich-di-san/tid/Moc-ban-trieu-Nguyen-Di-san-tu-lieu-the-gioi-dau-tien-cua-Viet-Nam/newsid/B3A1EA65-4EFA-453A-86D7-613CF3E60B34/cid/C61F7CDA-79A1-45ED-A7BD-A7C800B56814

Kiên Định (2019). Chiếc bánh trung thu giúp Chu Nguyên Chương đoạt được thiên hạ ra sao? https://www.dkn.tv/van-hoa/chiec-banh-trung-thu-giup-chu-nguyen-chuong-doat-duoc-thien-ha-ra-sao.html

Kim Định (2017). Cơ cấu Việt-Nho. Nhà Xuất bản Hội Nhà văn.

Lê Mạnh Chiến (2013). “Cớ sao đổi tên chim én thành chim nhạn?” Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (107). http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/viewFile/14391/12918)

Lê Thái Dũng (2012). “Giai thoại tuyển phi tần lạ thường của vua Tự Đức”. http://tintuc.hues.vn/giai-thoai-tuyen-phi-tan-la-thuong-cua-vua-tu-duc/

Lê Trung Hoa (2005). Câu “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu” là của ai? https://www.sggp.org.vn/cau-quan-su-than-tu-than-bat-tu-bat-trung-phu-su-tu-vong-tu-bat-vong-bat-hieu-la-cua-ai-129853.html

Lê Văn Hòe (1953). Truyện Kiều chú giải. Quốc học Thư xã.

Lê Văn Thưa (2016). Khám phá cây “Rối như mớ bòng bong”. http://trangthegioitunhien.blogspot.com/2016/05/kham-pha-cay-roi-nhu-mo-bong-bong.html

Mart Kim (2016). Người đàn bà hóa đá (Nàng Tô Thị – Lạng Sơn quay bằng Xiaomi Mi Drone). https://www.youtube.com/watch?v=bvoQWS6rtqo

MaxReading (no date). Điển Tích Truyện Kiều – Chàng Tiêu. https://www.maxreading.com/sach-hay/giai-thoai-van-hoc/dien-tich-truyen-kieu-chang-tieu-31969.html

Một Lúa (2013). Nhớ Lô Tô. https://tongphuochiep-vinhlong.com/2013/01/nho-lo-to/

Nam Air (2013). Kêu lô tô rất hay – Lo to. https://www.youtube.com/watch?v=5_gTEZ1uirY

Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên et al. (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.

Nguyên Vũ (2010). Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Việt Nam Văn Hiến. Bản on-line: http://www.vietnamvanhien.org/gopphannghiencuvetruongvinhky.html

Nguyên Vũ (2015). Thực hư “huyền thoại” biết 26 ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký? http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4933-thuc-hu-huyen-thoai-biet-26-ngoai-ngu-cua-truong-vinh-ky.aspx

Nguyễn Công Lý (2013). “Trở lại vụ án Lệ Chi Viên”, Kiến thức Ngày nay, số đặc biệt (800) ngày 01-11. https://nghiencuulichsu.com/2013/01/24/tro-lai-vu-an-le-chi-vien/

Nguyễn Duy Chính (2014). Thanh binh nhập quan. https://nghiencuulichsu.com/2014/09/04/thanh-binh-nhap-quan/

Nguyễn Đức Dương (2014). Người xưa muốn nhắn nhủ gì cùng con cháu qua câu tục ngữ: “Gái thương chồng đương đông buổi chợ; trai thương vợ nắng quái chiều hôm”? http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p37/c51/n13942/Nguoi-xua-muon-nhan-nhu-gi-cung-con-chau-qua-cau-tuc-ngu-Gai-thuong-chong-duong-dong-buoi-cho-trai-thuong-vo-nang-quai-chieu-hom.html

Nguyễn Hiến Lê (1983). Sử Trung Quốc. Nhà Xuất bản Văn Nghệ.

Nguyễn Hiến Lê (1997). Đại cương văn học sử Trung Quốc (trọn bộ). Nhà Xuất bản Trẻ.

Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi (1997). Hàn Phi Tử. Nhà Xuất bản Văn hóa.

Nguyễn Minh Khiêm (2012). Những phân vân khi dạy bài “Chiếu Dời đô. https://thinhdailoc.blogspot.com/2012/12/270-nhung-phan-van-khi-day-bai-chieu.html

Nguyễn Phúc (2016). Theo dấu xưa, chuyện cũ: Chuyện ly kỳ tại truông nhà Hồ. https://thanhnien.vn/van-hoa/theo-dau-xua-chuyen-cu-chuyen-ly-ky-tai-truong-nha-ho-727234.html

Nguyễn Quang Duy (2018). Trương Vĩnh Ký – Nhà giáo dục yêu nước của VN. https://www.bbc.com/vietnamese/forum-46455314

Nguyễn Thanh Điệp (2018). Kẻ chăn trâu kiệt xuất nhất triều Nguyễn và bài học cho hậu thế. https://news.zing.vn/ke-chan-trau-kiet-xuat-nhat-trieu-nguyen-va-bai-hoc-cho-hau-the-post837779.html

Nguyễn Thị Ngọc Hân (2010). Công bố bản Dạ cổ Hoài lang chuẩn của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu. http://www.baclieu.gov.vn/tintuc/Lists/Posts/Post.aspx?List=558fedbd%2D4a78%2D4004%2D952b%2D6c411a9df866&ID=1281

Nguyễn Trung Hiếu (2016). Truông Nhà Hồ, phá Tam Giang! https://laodong.vn/archived/truong-nha-ho-pha-tam-giang-668235.ldo

Nguyễn Văn Chiến (2017). Về Hoành phi, Câu đối treo tại Đền Thượng Cổ Loa. https://ngotoc.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/ve-hoanh-phi-cau-doi-treo-tai-den-thuong-co-loa-366.html

Nguyễn Văn Ngọc (2003). Truyện cổ nước Nam. Nhà Xuất bản Văn học.

Nguyễn Vy Khanh (2000). Về Trương Vĩnh Ký và một số vấn đề văn bản, lối nhìnhttps://sites.google.com/site/nguyenvykhanhca/tuyen-tap/ve-truong-vinh-ky-va-mot-so-van-de-van-ban-loi-nhin

Như Quỳnh (2017). Đền Bà Vũ trong đời sống tâm linh của người Hà Nam. http://langvietonline.vn/Lang-Pho/145635/Den-Ba-Vu-trong-doi-song-tam-linh-cua-nguoi-Ha-Nam.html

Phan Anh Dũng (2017). Phản biện về thành ngữ “lang bạt kỳ hồ”. http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/11732-phan-bien-ve-thanh-ngu-lang-bat-ky-ho

Phan Huy Chú (1821). Lịch triều hiến chương loại chí; Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực (dịch). Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn, 1973.

Phan Thế Roanh (1954). Điển cố – Truyện và thơ thường dùng làm văn liệu. Nhà Xuất bản Nam Sơn, Hà Nội.

Phạm Hoài Nhân (2017). Rối như mớ bòng bong. http://phnhan.vncgarden.com/2017/06/roi-nhu-mo-bong-bong.html

Phạm Thị Huệ (2015). Vài nét về Mộc bản triều Nguyễn và bản khắc cổ nhất về chiếu dời đô của Lý Công Uẩn năm 1010. http://luutruvn.com/index.php/2015/10/23/vai-net-ve-moc-ban-trieu-nguyen-va-ban-khac-co-nhat-ve-chieu-doi-do-cua-ly-cong-uan-nam-1010/

Phạm Tuấn Vũ & Nguyễn Thị Hương Lài (2017). Điển cố có nguồn gốc Truyện Kiều trong văn học Việt Nam. https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/dien-co-co-nguon-goc-truyen-kieu-trong-van-hoc-viet-nam-3908826-b.html

Phạm Xuân Hy (2013). Tô Huệ và “Chức cẩm hồi văn thi”. http://chimvie3.free.fr/55/pxh155_ToHue/pxh155_ToHue.htm

Quốc sử quán Triều Nguyễn (no date). Đại Nam nhất thống chí; Bản đời Tự Đức. Phạm Trọng Điềm phiên dịch và Đào Duy Anh hiệu đính, Viện Sử học, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2006.

Quốc sử quán Triều Nguyễn (1881). Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục. Viện Sử học dịch 1957-1960. Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1998.

Sài Môn Thi đàn (2015). Chức cẩm hồi văn – Bài văn được dệt quanh bức gấm. http://www.saimonthidan.com/index.php?c=article&p=6065

Simon, G.Y. (2019). History of China: What is the difference between these two periods of Eastern Zhou Dynasty (Spring & Autumn Period and Warring States Period)? https://www.quora.com/History-of-China-What-is-the-difference-between-these-two-periods-of-Eastern-Zhou-Dynasty-Spring-Autumn-Period-and-Warring-States-Period/answer/Gavin-Y-Simon

Taylor, K.W. (2013). A history of the Vietnamese. Cambridge University Press.

Tạp chí Xưa và Nay (2006). Về cuốn Tư Trị Thông Giám. https://xuanay.vn/ve-cuon-tu-tri-thong-giam/

Thanh Phong (2018a). 10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại – Kỳ I: Cao sơn lưu thủy. https://trithucvn.net/van-hoa/10-nhac-khuc-noi-tieng-trung-hoa-co-dai-ky-cao-son-luu-thuy.html

Thanh Phong (2018b). 10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại – Kỳ III: Bình sa lạc nhạn. https://trithucvn.net/van-hoa/10-nhac-khuc-noi-tieng-trung-hoa-co-dai-ky-iii-binh-sa-lac-nhan.html

Thi Trân – Thiên Lý (2012). Tranh cãi về loài hoa ‘3.000 năm mới nở’ ở Phú Yên. http://www.chuabuuminh.vn/thoi-su/doc-bao-dum-ban/5AD64A_tranh_cai_ve_loai_hoa_3000_nam_moi_no_o_phu_yen.aspx

Thi Viện. Bạch đầu ngâm 白頭吟 • Khúc ngâm đầu bạc. Thơ » Trung Quốc » Hán » Trác Văn Quân. https://www.thivien.net/Tr%C3%A1c-V%C4%83n-Qu%C3%A2n/B%E1%BA%A1ch-%C4%91%E1%BA%A7u-ng%C3%A2m/poem-vBlbyIvSq9KPD9Smt4LhVA

Thi Viện. Chiêu Quân oán 昭君怨 • Nỗi oán của Chiêu Quân. Thơ » Trung Quốc » Hán » Vương Tường. https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-T%C6%B0%E1%BB%9Dng/Chi%C3%AAu-Qu%C3%A2n-o%C3%A1n/poem-FfX4aagPwuVC1fL0-DcNew

Thi Viện. Chức Nữ, Ngưu Lang. Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính. https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-B%C3%ADnh/Ch%E1%BB%A9c-N%E1%BB%AF-Ng%C6%B0u-Lang/poem-clxY5GFWegDsEw0Y8VPiNQ

Thi Viện. Đằng Vương các tự 滕王閣序 • Bài tự về Gác Đằng Vương. Thơ » Trung Quốc » Sơ Đường » Vương Bột. https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-B%E1%BB%99t/%C4%90%E1%BA%B1ng-V%C6%B0%C6%A1ng-c%C3%A1c-t%E1%BB%B1/poem-FT3LNnXR5KVN9HD70_hBOw

Thi Viện. Độc Tiểu Thanh ký 讀小青記 • Đọc chuyện nàng Tiểu Thanh. Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Thanh Hiên thi tập » Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804). https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Du/%C4%90%E1%BB%99c-Ti%E1%BB%83u-Thanh-k%C3%BD/poem-BtKd6zfpocHUK3K04X_bBQ

Thi Viện. Há Giang Lăng – Tảo phát Bạch Đế thành 下江陵-早發白帝城 • Tới Giang Lăng – Sáng rời thành Bạch Đế. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Lý Bạch. https://www.thivien.net/L%C3%BD-B%E1%BA%A1ch/H%C3%A1-Giang-L%C4%83ng-T%E1%BA%A3o-ph%C3%A1t-B%E1%BA%A1ch-%C4%90%E1%BA%BF-th%C3%A0nh/poem-BV5Qt58ZUK6yTC9_FIEtmA

Thi Viện. Hàn vương tôn phú – Thơ » Việt Nam » Tây Sơn » Đặng Trần Thường. https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BA%B7ng-Tr%E1%BA%A7n-Th%C6%B0%E1%BB%9Dng/H%C3%A0n-v%C6%B0%C6%A1ng-t%C3%B4n-ph%C3%BA/poem-tfuxZjGMKhsIdU85vp9S0g

Thi Viện. Lạc thần phú 洛神賦 • Bài phú về nữ thần sông Lạc. Thơ » Trung Quốc » Tam Quốc » Tào Thực. https://www.thivien.net/T%C3%A0o-Th%E1%BB%B1c/L%E1%BA%A1c-th%E1%BA%A7n-ph%C3%BA/poem-ylYQnboi4bp_70hzYu0a0Q

Thi Viện. Ly tao 離騷 • Nỗi sầu ly biệt. Thơ » Trung Quốc » Chu » Khuất Nguyên. https://www.thivien.net/Khu%E1%BA%A5t-Nguy%C3%AAn/Ly-tao/poem-lRoe60dlSbBq5oc1ZRJWhQ

Thi Viện. Ngọc thụ hậu đình hoa 玉樹後庭花 • Hoa trong sân. Thơ » Trung Quốc » Nam Bắc triều » Trần Thúc Bảo. https://www.thivien.net/Tr%E1%BA%A7n-Th%C3%BAc-B%E1%BA%A3o/Ng%E1%BB%8Dc-th%E1%BB%A5-h%E1%BA%ADu-%C4%91%C3%ACnh-hoa/poem-og0yg1YWgltsRxS7PoXrcQ

Thi Viện. Như mộng lệnh kỳ 1 如夢令其一 • Như mộng lệnh kỳ 1. Thơ » Trung Quốc » Nam Tống, Kim » Lý Thanh Chiếu » Sấu ngọc từ » Chính tập. https://www.thivien.net/L%C3%BD-Thanh-Chi%E1%BA%BFu/Nh%C6%B0-m%E1%BB%99ng-l%E1%BB%87nh-k%E1%BB%B3-1/poem-_2_KNqIhiUMk8s_AJgW7Nw

Thi Viện. Như mộng lệnh kỳ 2 如夢令其二 • Như mộng lệnh kỳ 2. Thơ » Trung Quốc » Nam Tống, Kim » Lý Thanh Chiếu » Sấu ngọc từ » Chính tập. https://www.thivien.net/L%C3%BD-Thanh-Chi%E1%BA%BFu/Nh%C6%B0-m%E1%BB%99ng-l%E1%BB%87nh-k%E1%BB%B3-2/poem-IGETeQBwf_c0CasyF8dTBQ

Thi Viện. Quân minh thần lương 君明臣良 • Vua sáng tôi hiền. Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Lê Thánh Tông » Thơ chữ Hán » Quỳnh uyển cửu ca thi tập. https://www.thivien.net/L%C3%AA-Th%C3%A1nh-T%C3%B4ng/Qu%C3%A2n-minh-th%E1%BA%A7n-l%C6%B0%C6%A1ng/poem-4LZLPygbzJT_4XFSxX-FAQ

Thi Viện. Tây cung thu oán 西宮秋怨 • Nỗi oán mùa thu ở Tây cung. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Vương Xương Linh. https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-X%C6%B0%C6%A1ng-Linh/T%C3%A2y-cung-thu-o%C3%A1n/poem-jTWzqkX3d0qHR77DzGCdqQ

Thi Viện. Tây cung xuân oán 西宮春怨 • Nỗi oán mùa xuân ở Tây cung. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Vương Xương Linh. https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-X%C6%B0%C6%A1ng-Linh/T%C3%A2y-cung-xu%C3%A2n-o%C3%A1n/poem-Ek1Rx_rJttR1UaNqiTHwDA

Thi Viện. Thanh bình điệu kỳ 1 清平調其一 • Khúc hát thanh bình kỳ 1. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Lý Bạch. https://www.thivien.net/L%C3%BD-B%E1%BA%A1ch/Thanh-b%C3%ACnh-%C4%91i%E1%BB%87u-k%E1%BB%B3-1/poem-XjaOXRT7NSnPjyRhhrtiSQ

Thi Viện. Thu hứng kỳ 1 秋興其一 • Cảm xúc mùa thu kỳ 1. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770). https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BB%97-Ph%E1%BB%A7/Thu-h%E1%BB%A9ng-k%E1%BB%B3-1/poem-d-FDjEupVCgpsc1eaacNvg

Thi Viện. Trường hận ca 長恨歌 • Trường hận ca. Thơ » Trung Quốc » Minh » Vương Kiều Loan. https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-Ki%E1%BB%81u-Loan/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-h%E1%BA%ADn-ca/poem-vpkhTYu5I0Ga1J2slJa8Pw

Thi Viện. Trường hận ca 長恨歌 • Trường hận ca. Thơ » Trung Quốc » Trung Đường » Bạch Cư Dị. https://www.thivien.net/B%E1%BA%A1ch-C%C6%B0-D%E1%BB%8B/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-h%E1%BA%ADn-ca/poem-NNj51-ebZyApj8ndjN6_VQ

Thi Viện. Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân 宣州謝眺樓餞別校書叔雲 • Trên lầu Tạ Diễu ở Tuyên Châu tiễn đưa chú Vân làm hiệu thư lang. Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Lý Bạch. https://www.thivien.net/L%C3%BD-B%E1%BA%A1ch/Tuy%C3%AAn-Ch%C3%A2u-T%E1%BA%A1-Di%E1%BB%85u-l%C3%A2u-ti%E1%BB%85n-bi%E1%BB%87t-hi%E1%BB%87u-th%C6%B0-th%C3%BAc-V%C3%A2n/poem-03Ril1g6U9fK37IjTxDE9w

Thi Viện. Viên Viên khúc 圓圓曲 • Khúc ca về nàng Viên Viên. Thơ » Trung Quốc » Minh » Ngô Vĩ Nghiệp. https://www.thivien.net/Ng%C3%B4-V%C4%A9-Nghi%E1%BB%87p/Vi%C3%AAn-Vi%C3%AAn-kh%C3%BAc/poem-33CduH4NfT9ibV757snSEw

Thi Viện. Xuân dạ biệt hữu nhân 春夜別友人 • Ngày xuân tiễn bạn. Thơ » Trung Quốc » Sơ Đường » Trần Tử Ngang. https://www.thivien.net/Tr%E1%BA%A7n-T%E1%BB%AD-Ngang/Xu%C3%A2n-d%E1%BA%A1-bi%E1%BB%87t-h%E1%BB%AFu-nh%C3%A2n/poem-TY7VApu0dRqk_rhjjRw6zw

Thi Viện. Xuân giang hoa nguyệt dạ 春江花月夜 • Đêm trăng hoa trên sông xuân. Thơ » Trung Quốc » Sơ Đường » Trương Nhược Hư. https://www.thivien.net/Tr%C6%B0%C6%A1ng-Nh%C6%B0%E1%BB%A3c-H%C6%B0/Xu%C3%A2n-giang-hoa-nguy%E1%BB%87t-d%E1%BA%A1/poem-Ig1Xj0OA8zR8Kmy66SA-FQ

Thích Viên Thành (2014). Chín chữ cù lao. http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoa/vu-lan/15499-chin-chu-cu-lao.html

thoaingochau.org (2013). Thoại Ngọc Hầu: thân thế và sự nghiệp (1761-1829). http://thoaingochau.org/gioi-thieu/thoai-ngoc-hau-than-the-va-su-nghiep-1761-1829/

Tiêu Hà Minh (2008). Đi tìm điển tích thành ngữ. Nhà xuất bản Thông Tấn.

Tịnh Tâm (2018). Cảm âm nhạc khúc: Phượng cầu hoàng, cảm phục tiếng đàn cầu hôn của Tư Mã Tương Như. https://www.dkn.tv/nghe-thuat/cam-am-nhac-khuc-phuong-cau-hoang-cam-phuc-tieng-dan-cau-hon-cua-tu-ma-tuong-nhu.html

Tôn Thất Thọ (2017a). Có hay không “Cột đồng Mã Viện”? https://nghiencuulichsu.com/2017/05/05/co-hay-khong-cot-dong-ma-vien/

Tôn Thất Thọ (2017b). Đâu là ý nghĩa câu ca dao “Tiếc thay cây quế giữa rừng…” https://nghiencuulichsu.com/2017/05/29/dau-la-y-nghia-cau-ca-dao-tiec-thay-cay-que-giua-rung/

Tổ Tư vấn giacngo.online (no date). Không nên gọi “hoa” lạ là hoa ưu đàm. https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=17C052

Trần Đình Ba (no date). Tiểu sử Trương Vĩnh Ký. https://truongvinhky.edu.vn/gioi-thieu/tieu-su-truong-vinh-ky.l

Trần Hưng (2020). Tô Hiến Thành: Vị quan đại thần thanh liêm cương trực. https://trithucvn.net/van-hoa/to-hien-thanh-khong-luy-tien-tai-tien-cu-nguoi-hien-khong-vi-on-rieng.html

Trần Ngọc Thạch (1999). Petrus Trương Vĩnh Ký – nhà bác học đa năng, nhà ái quốc khả kính. http://www.petrusky.de/index.php/35-pk-startseite/pk-ongpetrustvk/56-truong-vinh-ky-nha-bac-h-c-da-nang-nha-ai-qu-c-kh-kinh

Trần Trọng Kim (1971). Việt Nam sử lược. Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo dục. Sài Gòn.

Trần Tuấn (2010). Lí giải niên đại mộc bản Chiếu Dời đô của Lý Thái Tổ. https://www.tin247.com/li_giai_nien_dai_moc_ban_chieu_doi_do_cua_ly_thai_to-8-21642744.html

Trần Yên Thảo & Lâm Hoàng Lân (2015). Con đương tơ lụa. https://nghiencuulichsu.com/2015/08/13/con-duong-to-lua/

Trí Bửu (2010). Phân tích bài “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư. https://www.thivien.net/M%C3%A3n-Gi%C3%A1c-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/C%C3%A1o-t%E1%BA%ADt-th%E1%BB%8B-ch%C3%BAng/poem-6bWbNmO7lol7pdNguEXQvQ

Trịnh Mạnh (2003). Tiếng Việt lý thú. Nhà Xuất bản Giáo dục.

Trịnh Sinh (2017). Những điều ít biết về Lũy Thầy. http://www.bienphong.com.vn/nhung-dieu-it-biet-ve-luy-thay/

Trương Đăng Quế et al. (sơ tập 1889; nhị tập 1895). Đại Nam thực lục, Quốc sử quán triều Nguyễn; Đào Duy Anh et al. (hiệu đính bản dịch). Viện Sử học và Nhà Xuất bản Giáo dục, 2007.

Trương Đình Bảo Long (2019). Huyền thoại bộ chén trà Mai Hạc thơ Nôm. https://saigondautu.com.vn/thu-dam-me/huyen-thoai-bo-chen-tra-mai-hac-tho-nom-72228.html

Trương Quang Nam (2008). Những dấu tích cuối cùng của Lũy Thầy “kêu cứu”! https://thanhnien.vn/van-hoa/nhung-dau-tich-cuoi-cung-cua-luy-thay-keu-cuu-315813.html

Tư Mã Thiên (91 tCN). Sử ký. Bản dịch: Trần Quang Đức (2014), Nhà xuất bản Văn Học; Nguyễn Hiến Lê (2018), Nhà xuất bản Hồng Đức; Nhữ Thành tức Phan Ngọc (2008), Nhà xuất bản Văn học.

Tường Linh (2012). Sự thực vụ oan tình của danh tướng Trần Khắc Chung. https://www.nguoiduatin.vn/su-thuc-vu-oan-tinh-cua-danh-tuong-tran-khac-chung-a62331.html

Văn Như Tước (2019). Đào Duy Từ – Một nhân tài đặc biệt của quê hương Thanh Hóa. https://lsvn.vn/dao-duy-tu-mot-nhan-tai-dac-biet-cua-que-huong-thanh-hoa.html

Vân Nhi (2011). Sông Tiêu Tương thực sự tồn tại thế nào? http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/7854/song-tieu-tuong-thuc-su-ton-tai-the-nao.html

Vieillard, P. (1947), “Un grand patriote : Pétrus Ky (I)”, France-Asie, II(11): 78-87.

Vieillard, P. (1947), “Un grand patriote : Pétrus Ky (I)”, France-Asie, II(12): 215-221.

Võ Hương An (2014). Mối thù của nhà Tây Sơn và vua Gia Long: chuyện đời vay trả. https://nghiencuulichsu.com/2014/10/02/ban-ve-tay-son-nguyen-anh-chuyen-doi-vay-tra/

Vũ Đức Sao Biển (2015). Kim Dung giữa đời tôi toàn tập. Nhà Xuất bản Trẻ.

Vương Hồng Sển (1970). “Thú xem truyện Tàu”, Hiếu cổ đặc san số 2.

Vương Hồng Sển (1994). Về tác giả bài “Non nước ngàn năm ra đi”, Tạp chí Cửa Việt số 2, tháng 7. http://www.tapchicuaviet.com.vn/index.asp?main=ndd&Browser=mobile&TL=VHTD&ID=9369

Vương Trí Nhàn (2018). Nguyễn Hiến Lê – người cải chính nhiều sự hiểu nhầm về lịch sử Trung Quốc. https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguyen-hien-le-cai-chinh-nhieu-su-hieu-nham-ve-lich-su-trung-quoc.html

Wikipedia_An Nam chí lược. https://vi.wikipedia.org/wiki/An_Nam_ch%C3%AD_l%C6%B0%E1%BB%A3c

Wikipedia_Ân Hạo. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82n_H%E1%BA%A1o

Wikipedia_Âu Dương Tu. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82u_D%C6%B0%C6%A1ng_Tu

Wikipedia_Bản khắc mộc Chiếu dời đô. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3n_kh%E1%BA%AFc_m%E1%BB%99c_Chi%E1%BA%BFu_d%E1%BB%9Di_%C4%91%C3%B4#:~:text=B%E1%BA%A3n%20kh%E1%BA%AFc%20m%E1%BB%99c%20Chi%E1%BA%BFu%20d%E1%BB%9Di%20%C4%91%C3%B4%20ghi%20l%E1%BA%A1i%20nguy%C3%AAn%20b%E1%BA%A3n,%C4%90%C3%A0%20L%E1%BA%A1t%2C%20L%C3%A2m%20%C4%90%E1%BB%93ng).

Wikipedia_Bao Công. https://vi.wikipedia.org/wiki/Bao_C%C3%B4ng

Wikipedia_Bát trân. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1t_tr%C3%A2n

Wikipedia_Bích Câu kỳ ngộ. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ADch_C%C3%A2u_k%E1%BB%B3_ng%E1%BB%99

Wikipedia_Biển Thước. https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n_Th%C6%B0%E1%BB%9Bc

Wikipedia_Chế Bồng Nga. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%BF_B%E1%BB%93ng_Nga

Wikipedia_Chiến Quốc. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c

Wikipedia_Chiếu dời đô. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFu_d%E1%BB%9Di_%C4%91%C3%B4

Wikipedia_Chùa Bà Đanh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_B%C3%A0_%C4%90anh

Wikipedia_Chùa Thầy. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Th%E1%BA%A7y

Wikipedia_Danh sách Trạng nguyên Việt Nam. https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_Tr%E1%BA%A1ng_nguy%C3%AAn_Vi%E1%BB%87t_Nam

Wikipedia_Dương gia tướng. https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_gia_t%C6%B0%E1%BB%9Bng

Wikipedia_Dương Quý phi. https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Qu%C3%BD_Phi

Wikipedia_Đế quốc Mông Cổ. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_M%C3%B4ng_C%E1%BB%95

Wikipedia_Điền Đan. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81n_%C4%90an

Wikipedia_Đông Chu liệt quốc. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Chu_li%E1%BB%87t_qu%E1%BB%91c

Theo Wikipedia_Lịch triều hiến chương loại chí. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_tri%E1%BB%81u_hi%E1%BA%BFn_ch%C6%B0%C6%A1ng_lo%E1%BA%A1i_ch%C3%AD

Wikipedia_Hán Cao Tổ. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1n_Cao_T%E1%BB%95

Wikipedia_Hán thư. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1n_th%C6%B0

Wikipedia_Hang đá Long Môn. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hang_%C4%91%C3%A1_Long_M%C3%B4n

Wikipedia_Hậu Nghệ. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu_Ngh%E1%BB%87

Wikipedia_Hoa ưu đàm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_%C6%AFu_%C4%90%C3%A0m

Wikipedia_Hội nghị Bình Than. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_ngh%E1%BB%8B_B%C3%ACnh_Than

Wikipedia_Hồng Phất Nữ. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93ng_Ph%E1%BA%A5t_N%E1%BB%AF

Wikipedia_Huyền Trân Công chúa. https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n

Wikipedia_Kênh Vĩnh Tế. https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%AAnh_V%C4%A9nh_T%E1%BA%BF

Wikipedia_Khổng Tử. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95ng_T%E1%BB%AD

Wikipedia_Lão Tử. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3o_T%E1%BB%AD

Wikipedia_Loạn An Sử. https://vi.wikipedia.org/wiki/Lo%E1%BA%A1n_An_S%E1%BB%AD

Wikipedia_Luật Hồi tỵ. https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_H%E1%BB%93i_t%E1%BB%B5

Wikipedia_Lục triều. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A5c_tri%E1%BB%81u

Wikipedia_Mã Viện. https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3_Vi%E1%BB%87n

Wikipedia_Mộc bản triều Nguyễn. https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99c_b%E1%BA%A3n_tri%E1%BB%81u_Nguy%E1%BB%85n

Wikipedia_Nàng Tô Thị. https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%A0ng_T%C3%B4_Th%E1%BB%8B

Wikipedia_Ngô Thế Vinh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Th%E1%BA%BF_Vinh

Wikipedia_Ngô Thì Nhậm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Th%C3%AC_Nh%E1%BA%ADm

Wikipedia_Ngũ Bá. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_B%C3%A1

Wikipedia_Ngưu Lang Chức Nữ.

Wikipedia_Nhà Hạ. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_H%E1%BA%A1

Wikipedia_Nhà Hán. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_H%C3%A1n

Wikipedia_Nhà Thanh.

Wikipedia_Nhạc Phi. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c_Phi

Wikipedia_Nhị thập tứ sử.

Wikipedia_Quan Âm Thị Kính. https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_%C3%82m_Th%E1%BB%8B_K%C3%ADnh_(truy%E1%BB%87n_th%C6%A1)

Wikipedia_Sông Bạch Đằng. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1t_tr%C3%A2n

Wikipedia_Tần Thủy Hoàng. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7n_Th%E1%BB%A7y_Ho%C3%A0ng

Wikipedia_Tào Thực. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0o_Th%E1%BB%B1c

Wikipedia_Thái Diễm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i_Di%E1%BB%85m

Wikipedia_Thoại Ngọc Hầu. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tho%E1%BA%A1i_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u

Wikipedia_Thủy hử. https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7y_h%E1%BB%AD

Wikipedia_Tiền dưỡng liêm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_d%C6%B0%E1%BB%A1ng_li%C3%AAm

Wikipedia_Tô Hiến Thành. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4_Hi%E1%BA%BFn_Th%C3%A0nh

Wikipedia_Trác Văn Quân. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A1c_V%C4%83n_Qu%C3%A2n

Wikipedia_Trần Viên Viên. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Vi%C3%AAn_Vi%C3%AAn

Wikipedia_Trận Xích Bích. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_X%C3%ADch_B%C3%ADch

Wikipedia_Trịnh–Nguyễn phân tranh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_%E2%80%93_Nguy%E1%BB%85n_ph%C3%A2n_tranh

Wikipedia_Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9_%C4%91%E1%BA%A1i_m%E1%BB%B9_nh%C3%A2n_Trung_Hoa

Wikipedia_Tư Mã Tương Như. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0_M%C3%A3_T%C6%B0%C6%A1ng_Nh%C6%B0

Wikipedia_Vụ án Lệ Chi viên. https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_L%E1%BB%87_Chi_vi%C3%AAn

Wikipedia_Vũ trung tùy bút. https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_trung_t%C3%B9y_b%C3%BAt

Wikipedia_Vương Chiêu Quân. https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng_Chi%C3%AAu_Qu%C3%A2n

Wikipedia_Xuân Thu. https://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n_Thu

Wikipedia_Yến Anh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%E1%BA%BFn_Anh

Winston Phan Đào Nguyên (2017). Minh oan cho Petrus Trương Vĩnh Ký về câu “ở với họ mà không theo họ”. https://nghiencuulichsu.com/2017/04/13/minh-hoa-cho-petrus-truong-vinh-ky-ve-cau-o-voi-ho-ma-khong-theo-ho/

 * * *

Ghi chú: Bài này vẫn còn mở, sẽ được cập nhật khi có thêm thông tin.

Cập nhật tháng 9/2020.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *