Giai thoại văn chương

  1. Trọng Tương vấn Hán
  2. Thiền sư Pháp Thuận
  3. Ỷ Lan Phu nhân
  4. Nguyễn Hiền
  5. Mạc Đĩnh Chi
  6. Hồ Tông Thốc
  7. Lê Hiến Phủ – Hồ Quý Ly
  8. Nguyễn Trãi
  9. Lương Thế Vinh
  10. Vũ Kiệt
  11. Thơ huyền bí của Nguyễn Bỉnh Khiêm
  12. Phạm Trấn – Đỗ Uông
  13. Phùng Khắc Khoan
  14. Đào Duy Từ –
  15. Nguyễn Quốc Trinh
  16. Cống Quỳnh
  17. Lê Quý Đôn
  18. Nguyễn Du
  19. Đề thơ Lầu Hạc vàng
  20. Hồ Xuân Hương
  21. Phạm Thái
  22. Nguyễn Công Trứ
  23. Bà Huyện Thanh Quan
  24. Đỗ Xuân Cát
  25. Thủ khoa Nghĩa
  26. Câu chuyện về Huỳnh Mẫn Đạt và Tôn Thọ Tường
  27. Cao Bá Quát
  28. Tài ứng đối
  29. Nguyễn Quý Tân
  30. Một giai thoại ba người gặp Khuất Nguyên
  31. Đỗ Huy Uyển
  32. Đoàn Tử Quang
  33. Trương Định
  34. Tự Đức
  35. Ông Ích Khiêm
  36. Phan Văn Trị
  37. Nguyễn Khuyến
  38. Nguyễn Văn Lạc
  39. Giai thoại về ả hái sen
  40. Câu chuyện về Trương Vĩnh Ký
  41. Vũ Duy Tuân
  42. Nguyễn Hữu Huân
  43. Phan Văn Ái
  44. Nguyễn Văn Xiển – Tôn Thất Thuyết
  45. Từ Đạm
  46. Lê Trung Đình
  47. Vũ Phạm Hàm
  48. Trần Cao Vân
  49. Phan Bội Châu
  50. Ghi thêm: Hát đối
  51. Tú Xương
  52. Cao Thị Ngọc Anh
  53. Nguyễn Khoa Vi
  54. Phạm Ứng Thuần
  55. Câu chuyện của Tản Đà
  56. Nguyễn Trọng Cẩn
  57. Nguyễn Công Hoan
  58. Câu chuyện về bài thơ Chùa Hương
  59. Câu chuyện về ba cuộc đời gắn kết với hoa sim tím
  60. Xuân Diệu
  61. Câu chuyện về Nguyễn Bính
  62. Vũ Trọng Can
  63. Một bài hát liên quan đến một bài thơ
  64. Câu chuyện về Nguyễn Khải
  65. Câu chuyện về Cao Văn Tuế
  66. Câu chuyện về Hai Bà Trưng và hai nhà thơ
  67. Câu chuyện về Văn Như Cương
  68. Câu chuyện về Tháp Bút
  69. Giai thoại trong văn chương nước ngoài

Dẫn nhập

Nhiều giai thoại văn chương liên quan đến câu đối, nhưng những giai thoại đó được trình bày trong bài về câu đối ở đường dẫn dưới đây:

https://tamdiepblog.wordpress.com/2019/01/29/cau-doi/

Những giai thoại trong bài này phần lớn được lưu truyền qua nhiều đời nhưng không nhất thiết được ghi trong chính sử. Ngay cả nhân vật chính trong giai thoại nhiều khi là hư cấu, hoặc người thật nhưng việc không thật vì do người đời sau gán ghép và thêm thắt. Lại có cùng giai thoại nhưng được gán cho người khác vào thời điểm khác, và không loại trừ tình trạng “cóp” từ nước ngoài rồi gán cho người Việt. Một số chi tiết khác biệt tùy thuộc vào nguồn của giai thoại.

Riêng một số chuyện thật được ghi là “câu chuyện” trong tiểu tựa.

Dù nhân vật trong giai thoại có thể thay đổi, ta vẫn thấy các giai thoại này tạo nên mảng văn học lý thú bổ sung cho tài liệu văn học sử và chính sử khô khan, khắc họa nên những bức tranh đa dạng về điều kiện xã hội-nhân văn và bối cảnh lịch sử qua mỗi thời kỳ, giúp ta hình dung thêm ít sắc màu linh động. Qua các mẩu truyện, ta nhận ra nhân sinh quan trước lịch sử và thời cuộc, tinh thần bất khuất tích cực đối phó hoặc chí ít tỏ lộ sự kiên cường với ngoại bang hùng mạnh, tinh thần đồng chí hướng, nghĩa đồng bào… Cũng không thiếu những tâm tư rất thật của con người: chồng khóc vợ, vợ và con khóc chồng, hoặc nỗi bi ai vì tình duyên đứt đoạn, hoặc tấm trung kiên chống lại những ve vãn thấp kém, hoặc tình yêu thơ văn của những tâm hồn đồng điệu, hoặc đơn giản là phản ứng đối lại quan tham, người vô liêm sỉ… Tất cả đều được thể hiện qua ngôn từ, qua vần thơ làm lay động lòng người. Ta có thể ngậm ngùi cùng tâm tình của người trong cuộc, hoặc thấm thía với ý tình ẩn hiện, hoặc hả hê với cách ứng đối thâm sâu – đủ mọi cung bậc cảm xúc từ chất trần tục đến chất thiền.

Trong khi thưởng thức câu văn và câu đối trong các mẩu truyện, người tổng hợp nhận thấy nguyên tác Hán-Việt nhiều khi chỉ được dịch nghĩa, thế nên đọc không khoái! Bèn mạn phép chỉnh lý chút từ ngữ để câu dịch Nôm cũng có vần điệu như câu Hán-Việt, để trước tự mình thưởng thức, sau giúp độc giả dễ theo dõi. Riêng ý thì không dám sửa vì không giỏi tiếng Hán-Việt, cho nên nếu ý trong nguồn sai thì câu chỉnh lý cũng sai theo. Sau khi chỉnh lý, câu cú và ý nghĩa cô đọng hơn, nên nếu nhìn thoáng qua thì chưa nắm bắt hết cái hay. Người thưởng ngoạn cần suy ngẫm một chút để tự mình khám phá mà đào sâu ý tình. Được như thế, ta đọc bản dịch Nôm có vần có điệu và ý nghĩa sâu lắng sẽ được cảm nhận hay hơn bản dịch nghĩa dông dài, nghĩa tách bạch nhưng khô khan. Chỉnh lý rồi, mạn phép lược bỏ một số câu đối tiếng Hán-Việt nếu câu dịch Nôm được chỉnh dù tương đối, như thế bài này đọc đỡ phức tạp. Kính mong các bậc học giả thông cảm!

Cũng nhằm giúp bài viết dễ đọc trong khi không phải là bài nghiên cứu hàn lâm, người tổng hợp cáo lỗi không thể đưa ra nguồn trích dẫn cho từng chi tiết. Trang web không có tính thương mại này trình bày cảm nhận riêng của người tổng hợp, có tham khảo thông tin từ bốn phương, rồi đưa đi bốn phương. Nếu bạn đọc qua bài này rồi tìm ra đôi điều thi vị nào đó cho cuộc sống, thì cái tội đạo văn của người tổng hợp hẳn sẽ được dung thứ.

Trong các đoạn dưới đây:

  • chữ đậm nghiêng: câu đối chữ Hán-Việt;
  • chữ đậm thẳng: câu đôi chữ Nôm, hoặc dịch chỉnh từ câu đối Hán-Việt nên có thể xem như là câu đối Nôm;
  • chữ thường: câu dịch, không được chỉnh nên không được xem như câu đối, hoặc là thơ.

Trọng Tương vấn Hán

Trích: Vương Hồng Sển (1970).

Tóm tắt

Trọng Tương: Họ Trọng tên Tương; vấn: tra vấn; Hán: triều nhà Hán.

Trọng Tương vấn Hán là tựa của một quyển sách bên Tàu nói về luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời nhà Hán, nước Tàu phân thành Tam quốc.

Không rõ tác giả Trọng Tương vấn Hán là ai, nhưng tác phẩm thể hiện trí tưởng tượng phong phú, lại khéo tài liên kết, xếp đặt thành một câu chuyện luân hồi quả báo, có nhiều biện luận hữu lý. Điều này rất hợp với tín ngưỡng dân gian là thưởng thiện phạt ác, làm người đọc say mê thích thú, tưởng đây là câu chuyện huyền bí có thật.

Tóm tắt nội dung Trọng Tương vấn Hán như sau.

Đời vua Hán Linh Đế, tại quận Ích Châu, có một nho sinh tên là Tư Mã Mạo, tự Trọng Tương. Từ nhỏ Trọng Tương đã tỏ ra là cậu bé thiên tư thông tuệ, 8 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng. Là con nhà nghèo nhưng lại rất hiếu thảo với cha mẹ, có đi lên kinh đô dự khoa thi nhưng bị đánh rớt, khi trở về quê nhà thì chẳng may cha mẹ đã mất. Trọng Tương lấy làm thương xót lắm, cất một cái lều ở kế bên mộ phần của cha mẹ để ở thủ hiếu. Lòng buồn nhớ thương cha mẹ, lại ưu uất vì nỗi học tài thi mạng, nên thường than thân trách phận. Trọng Tương thấy phần nhiều trong triều đình là nịnh thần, toan mưu hại kẻ trung lương, khiến dân chịu nhiều oan ức.

Trong cơn xúc động, Trọng Tương làm ra một bài thơ để giải buồn, rồi than trời trách đất: “Ông Trời ơi là ông Trời, sao ông lại thờ ơ mặc kệ trước thói đời đen bạc? Tôi tự hào rằng bản thân mình cả đời thanh liêm chính trực, chưa từng làm bất kỳ việc gì phải hổ thẹn với lòng, vậy sao cứ phải long đong lận đận như thế? Nếu tôi là Diêm Vương, thì sẽ không để xảy ra nỗi bất bình nào trên thế gian này”.

Không ngờ những lời than trách ấy có Du Thần nghe được, bèn bẩm báo lên Ngọc Đế. Ngọc Đế nghe báo cáo lời lẽ phạm thượng thì đùng đùng nổi giận, tỏ ý quyết phải trừng phạt kẻ hạ trần mắt thịt to gan này. Ngọc Đế nói: “Thật là cuồng vọng! Hắn ta nghĩ làm Diêm Vương là có thể sửa đổi mọi sai lầm trên thế gian sao? Những bản án nơi âm ty chất cao như núi, thập điện Diêm Vương ứng phó còn không xuể, chỉ một mình hắn ta có thể làm được chăng?”

Thái Bạch Kim Tinh thương xót, bèn nói: “Muôn tâu đại đế, chi bằng bắt Tư Mã Mạo xuống âm ty, yêu cầu hắn phải thay Diêm Vương phân xử một vài vụ án oan khiên éo le nhất hiện đang tồn đọng chưa thể giải khai, nội trong 6 giờ phải hoàn tất. Nếu xét xử công minh thì kiếp sau sẽ được hưởng đại phú đại quý, còn bằng như không thì sẽ phải xuống địa ngục mà chịu tội”.

Thế là Trọng Tương ngồi làm chánh tòa thay thế Diêm Vương phân xử các vụ án, kêu lên từng người nghe họ kể lể hoặc phân biện rồi tra vấn. Tất cả các vụ án được giải quyết xong trong 6 giờ.

Sau đó, Trọng Tương cởi bỏ bộ quan phục của Diêm Vương, trở lại là vị tú tài như trước, còn phán quan thì mang quyển sổ ghi chép lời tuyên án của Trọng Tương đến trình Diêm Vương, sau lại được Diêm Vương kính cẩn dâng lên Ngọc Đế.

Ngọc Đế xem qua, cảm khái khen rằng:

“Vụ án lớn gây nhức nhối suốt 300 năm qua, vậy mà chỉ trong 6 giờ đã được một người phàm phán định. Đó quả là bậc kỳ tài hiếm có trong thiên hạ! Tài đức của Tư Mã Mạo làm kinh động trời đất, quỷ thần kính phục, thật đáng được hưởng ngôi vị vương hầu. Ta truyền rằng kiếp sau ông ta đổi tên mà không đổi họ, gọi là Tư Mã Ý, cả đời làm tướng, lên ngôi vương, cuối cùng thôn tính Tam Quốc, lập nên nhà Tấn”.

Trạng cáo bên nguyên và lời khai bên bị

Dưới đây là vài đoạn trích phiên xử từ bản dịch của Võ Tế Mỹ et al. (1906).

Hàn Tín trạng cáo rằng:

Bây giờ mới hỏi Hán Vương
Vua sao nỡ phụ chẳng thương nhân thần?
Phò Lưu, diệt Hạng, bặt Tần
Gẫm xem Tín đã nhiều lần công lao!

Chẳng hay can cớ làm sao?
Cho nên giết Tín lẽ nào nói ngay!

. . .

Dẹp an bờ cõi mở mang
Ước cùng lộc hưởng phước trường ngàn xuân
Nào ngờ Hán Tổ bạc ơn
Chẳng còn thương đến nhơn thần công linh

Chước bày Lữ hậu giả danh
Toan cùng Tiêu tướng luận hình cung trung
Lệnh bày vào Trường An Cung
Thốt lời bội phản ức lòng giết oan

Tru di tam tộc làm ngang
Thảm hình đã thấu đến trời sự oan
Ngỡ trông án đức nhà quan
Dám xin soi xét trong đơn cho tường.

Bành Việt trạng cáo rằng:

Việt liền rón rén thưa lời
Rằng vua điền điệp đi chơi lâu về
Lữ Hậu tánh vốn dâm mê
Nào còn đoái đến thửa bề nhân luân.

Hỏi trong văn võ quần thần
Rằng ai dung mạo hơn phần sắc thinh?
Thái giám rằng ngươi Trần Bình
Song còn phụ giá thánh minh ngoài trào.

Lại hỏi ai khá thứ sau
Bày vào nội yến y trào trung trương
Thưa rằng: Bành Việt Lương vương
Xem dường dung mạo có phương hơn người.

Bèn sai chiếu chỉ đi mời
Tôi bèn vâng mạng đến nơi điện ngoài
Thấy quan Thái giám truyền lời
Rằng vâng sắc chỉ dạy người vào trong.

Tôi vâng thẳng đến đền rồng
Thấy bà Lữ Hậu đứng cùng bệ giai
Sẵn sàng tiệc ngọc an bài
Tay bà Lữ Hậu khuyên mời quỳnh tương.

Vậy bèn lửa dục nhiều đường
Tôi nghĩ là sự phi thường chẳng không
Đạo làm thần tử chi trung
Thảo ngay chẳng giữ, hổ cùng cao xanh.

Lữ Hậu giận chẳng thuận tình
Giết người cắt lưỡi hành hình chỉnh ghê
Ra lòng độc dữ nhiều bề
Chẳng cho mai táng, phân thi tan tành.

Ngỡ trông ơn đức cao minh
Xét soi lòng kẻ trung thần làm tôi
Oan vu khuất đã mấy hồi
Rày nhân mới gặp phước trời kêu vang

Giải nghĩa: Bành Việt bị người tố cáo là mưu phản nên vào triều để minh oan. Có người can gián nên Hán đế tha mạng Bành Việt, chỉ cách chức cho làm thứ dân. Nhưng Lữ hậu lại khuyên Hán Đế giết Bành Việt để trừ hậu hoạn. Hán đế nghe theo. Bây giờ Bành Việt kể tội Lữ Hậu và đòi công đạo.

Anh Bố trạng cáo rằng:

Thưa rằng tôi cũng người ngay
Vốn cùng Hàn Tín nhiều ngày công linh
Những ngờ hưởng phước thái bình
Ơn vua tước trọng đãi mình ấm phong.

Khăng khăng giữ một chữ trung
Cớ chi đến nỗi mắc vòng thân lao?
Vả đà bạn cũ cùng nhau
Đều đi viếng kiểng tới đầu biên giang.

Phút liền thấy sứ tái truyền
Của vua cầm thực ngự tiền ban cho
Chúa tôi tình thiệt nào lo
Tiệc bày ăn uống say no dật dờ.

Tánh linh dạ động bấy giờ
Hỏi rằng vật lạ ai đưa đến chầu?
Sứ rằng song chẳng biết đâu
Tôi bèn khiến đến đuôi đầu hỏi tra.

Bây giờ nó mới nói ra
Thịt ngươi Bành Việt, vua đà mổ phanh
Tôi nghe hình thậm hãi kinh
Tủi thầm thương nghĩa ngươi Bành hữu công.

Có chi oan thác khi không
Ngùi ngùi cảm động, trong lòng xót xa
Công phò nghiệp cả Hán gia
Chẳng làm phản nghịch, nào ra dâm hình!

Giải nghĩa: sứ thần Hán đế đem mắm đến trao cho Anh Bố. Gặp lúc Anh Bố đang bày tiệc thết đãi quần thần, thấy vua ban lọ mắm, vội vàng bái lĩnh và mở ra nếm một miếng. Mắm vừa qua khỏi cổ, Anh Bố bỗng nôn ọe ra, ngã xỉu xuống đất. Sứ giả không dám giấu, thực mình kể lại: quân sĩ được lệnh lóc thịt của Bành Việt để làm mắm phân phát cho chư hầu. Cuối cùng Anh Bố cũng bị giết, nên bây giờ đi kiện.

Đinh Công trạng cáo rằng:

Khi xưa Hớn tổ phải vây
Ba quân thua trận chạy ngay tan tành
Bốn bề toàn những Sở binh
Hán vương khi ấy sa mình gành sâu

Quân tôi thừa thế đuổi sau
Đến nơi bắt được mời hầu dám lên
Hớn vương khi ấy thề nguyền
Dẫu nên nghiệp cả chẳng quên nghĩa nầy

Tôi đà cam chịu chẳng ngay
Luận chưng tội ấy chất đầy non cao
Thấy lời van vái nỡ nào
Vả cũng thương đến anh hào sa cơ

Mở dây chỉ nẻo bây giờ
Khỏi nghèo chẳng chút bợn nhơ đến mình
Sau nên nghiệp cả đế kinh
Ai ngờ Hớn tổ bạc tình chẳng thương!

Hạng Vương trạng cáo rằng:

Trọng Tương xem án mới tường
Hỏi rằng: Hàn Tín vốn đường tôi ngươi
Ra lòng quyết chí về Tây
Phò Lưu diệt Hạng, chẳng hay lẽ nào?

Hạng Vương thưa hết thấp cao
Xưa nhân vật gặp hỗn hào chiến tranh
Liều mình hết sức bình sanh
Dựng thành nghiệp Sở xưng danh trùng trùng.

Tánh ngu chẳng biết anh hùng
Cho nên Tín chẳng ở cùng, trách ai?
Đến khi thua trận đất Cai
Đụt xông mới khỏi ra ngoài Tề vây.

Lạc đường chẳng biết nẻo đi
Phúc liền xảy gặp đá kề bên sông
Hỏi rằng nào nẻo được thông?
Điền phu nó chỉ về Đông thẳng đường.

Chẳng ngờ phải chước Hán vương
Sai người cày đó giả chàng điền phu
Trước sau chẳng thấu căn do
Vậy nên sa xuống hạ ngu khốn mình.

Bốn bề toàn những Hán binh
Tình cờ xảy gặp bạn lành Mã Thông
Những ngờ nghĩa cũ phục dung
Ai ngờ nó lại trở lòng chẳng hay.

Giục đem sáu tướng lại vây
Phải liều tự vận khỏi tay loài phàm
Há rằng phụ nó cho cam
Quân thần nghĩa nặng nỡ làm thù sâu.

Giải niềm oan khuất bấy lâu
Ngỡ trông rõ được mối sầu bấy thu.

Giải nghĩa: Hạng vương bị quân Hán vương bao vây ở Cai Hạ, Hạng vương thoát ra khỏi trận gặp một lão nông bèn hỏi đường. Lão nông giả vờ trỏ tay về con đường cùng, bảo Hạng vương nên chạy ngả ấy. Hạng vương cưỡi ngựa sa xuống hố, gặp lại Mã Thông là người trước kia cùng ông ta khởi binh ở Cối Kê, bây giờ theo Hán vương. Năm tướng Hán đến vây đánh, Hạng vương rút gươm đâm cổ tự vận. Mã Thông cùng năm tướng xách đầu Hạng vương về nạp cho Hán vương. Bây giờ Hạng vương kể lể nỗi oan khuất và xin Diêm Vương làm chủ công đạo.

Phán quyết của chánh tòa Trọng Tương

Xét các lời khai của bên nguyên và bên bị, chánh tòa phán quyết như sau (theo cảm nhận của Vương Hồng Sển và người viết bài này).

Bị cáo Lưu Bang nhận hình phạt: truyền đi đầu thai thời Tam quốc là Hán Linh đế, để Cho ngươi lại được huờn sinh / Đạo Trời hẵng thấy đành rành chẳng tư, nhờ đó Hàn Tín đầu thai là Tào Tháo sẽ có cơ hội chuyên quyền để đòi lại công lý khiến cho kẻ thù cũ chịu nhiều ê chề, rồi cuối cùng con cháu họ Tào sẽ soán ngôi nhà Hán. Bởi Lưu Bang kiếp trước phụ bạc bề tôi, cho nên Hán đế ở kiếp sau sẽ bị bề tôi ức hiếp cho tương báo. Vì vậy, Lưu Bang tức Hán đế ở kiếp sau cũng phải chịu khốn khổ bởi Anh Bố (Tôn Quyền ở kiếp sau) và không được Bành Việt (Lưu Bị ở kiếp sau) giúp đỡ gì hết cho dù là chú cháu.

Bị cáo Lữ hậu nhận hình phạt: truyền đi đầu thai thời Tam quốc là Phục hậu. Xưa Lữ hậu giết Hàn Tín, nay Tào Tháo sẽ bắt Phục hậu thắt cổ mà trừ.

Bị cáo Tiêu Hà là kẻ hèn yếu, không dám can gián Lữ Hậu, lại tòng mưu giết Hàn Tín, nên qua thời Tam quốc nhận hình phạt: truyền đi đầu thai là Dương Tu, vì một tô canh gà làm lanh nói toạc, sẽ bị Tào Tháo (Hàn Tín kiếp trước) bắt tội tiết lộ cơ mưu, sai chém đầu răn loài lẻo mép, mà cũng là người bạn xấu của kiếp trước.

Nguyên cáo Hạng Vũ có tính cương trực, khí tiết anh hùng, một cây đao không ai địch nổi, truyền cho đầu thai là Quan Vũ, chỉ đổi họ mà không đổi tên Vũ, cũng một cây đao không ai địch nổi. Nhưng kiếp trước Sở Bá vương Hạng Vũ vì giết hại Tần vương Tử Anh và tàn sát nhân dân Hàm Dương, nên kiếp sau Quan Vũ sẽ chỉ có tước hầu và còn phải chết thảm. Có điều Hạng Vũ không sát hại Thái công, không làm ô nhục Lữ hậu, cũng không nhân bày tiệc rượu mà ngầm mưu hại người. Có ba đức ấy, nên Quan Vũ sẽ sinh ra làm người nghĩa dũng cương trực, cũng lòng không tà vạy đối với nhị tẩu, sau khi chết sẽ được phong thần, hưởng được hương khói ngàn thu.

Nguyên cáo Hàn Tín tức Sở vương là anh hùng giỏi dùng binh, một thời lập công lớn khi gồm thâu nhiều nước đem về cho Hán Cao Tổ, thế mà không hưởng được lợi lộc gì, lại bị gia hại. Hàn Tín bị các tướng phản bội theo Hán vương mà vây đánh ở Cai Hạ, nên qua thời Tam Quốc, truyền đi đầu thai là Tào Tháo, cũng là anh hùng giỏi dùng binh, một thời cũng tung hoành đánh dẹp các chư hầu, để Toàn gia đều hưởng sang giàu / Oai ra một phút đâu đâu phục tùng, nhận tước Ngụy vương, sau được con truy thăng là Vũ đế, đó là được thêm một nấc so với tước vương ở kiếp trước, con cháu còn xưng đế bù lại án tru di tam tộc kiếp trước.

Nguyên cáo Anh Bố tức Hoài Nam vương lập công lớn giúp Hán vương lên ngôi rồi bị thanh trừng, nay xử cho đầu thai là Tôn Quyền, chia ba thiên hạ với Tào Tháo, xưng đế mà hưởng lộc cả quyền cao. Ngày trước Bành Việt vì lợi quên nghĩa, đợi đến khi Lưu Bang cho bổng lộc mới chịu đem quân đến giúp, đầu thai làm Tôn Quyền vẫn phải nhận sắc phong của nhà Hán mà chịu thần phục.

Nguyên cáo Bành Việt tức Lương vương lập công lớn giúp Hán vương lên ngôi rồi bị thanh trừng, nay xử cho đầu thai là Lưu Bị, chia ba thiên hạ với Tào Tháo, xưng đế mà hưởng lộc cả quyền cao. Chánh tòa ghi nhận lời Bành Việt; Tuy rằng đất Thục hiểm cao / Tài thường để chống Tôn, Tào được sao? nên nay lệnh cho Khoái Văn Thông đầu thai trợ giúp. Ngày trước Bành Việt vì lợi quên nghĩa, đợi đến khi Lưu Bang cho bổng lộc mới chịu đem quân đến giúp, sau đầu thai làm Lưu Bị phải trung kiên đối với nhà Hán của Lưu Bang cho đến cuối đời.

Nguyên cáo Khoái Văn Thông, quân sư của Hàn Tín, uất ức vì biết Hán Lưu Bang là người ăn ở không có hậu nên bày kế cho Hàn Tín tách khỏi Lưu Bang, hòa với Hạng Vũ để giữ thế chia ba thiên hạ, thế mà Hàn Tín không chịu nghe quân sư. Nay lệnh cho Khoái Văn Thông tái kiếp làm Khổng Minh, cũng thích bày mưu tính kế khiến Tào Tháo (kiếp trước là Hàn Tín) chạy dài cho biết tài biết trí của quân sư cũ!

Nguyên cáo Đinh Công là tướng nước Sở, trước thi ân cho Lưu Bang sau bị Lưu Bang giết, nay cho đầu thai là Chu Du, bị Gia Cát Lượng chọc giận mà chết, chỉ cho hưởng thọ 36 tuổi. Bởi kiếp trước ngươi bất trung với minh chủ của ngươi là Hạng Vũ, nên kiếp sau dù ngươi thiết tha lòng trung bản tòa vẫn không cho ngươi làm tròn bổn phận với minh chủ mới là Tôn Quyền, để cho ngươi thấm thía về lòng trung không vẹn toàn. Còn xét qua lời khai của Lưu Bang: Tôi sao dám vị tư nghi / Phải cứ hình luật, răn rày kẻ sau nên chánh tòa không trừng phạt Lưu Bang thêm nữa.

Nguyên cáo Thích Thị và con trai là Lưu Ẩn, trước bị Lữ Hậu vì ghen tuông mà giết chết, nay Đền trong kiếp trước cho người / Phước còn hưởng được bốn mươi năm chầy, cho đầu thai là Cam Phu nhân và thái tử Lưu Thiện, sẽ hưởng nghiệp Hán thời cuối cùng. Không cần trả thù Lữ hậu giờ đầu thai là Phục hậu kẻo ảnh hưởng đến con trai, và cũng vì Lữ hậu sẽ đền tội qua tay Hàn Tín đầu thai là Tào Tháo,

Bị cáo Hạng Bá thân là chú của Hạng Vũ lại nỡ phụ cháu mà theo Lưu Bang, nay ra lệnh phải đầu thai là Văn Xú để chịu tội trong kiếp sau: Quan Vũ (Hạng Vũ kiếp trước) giết chết để đòi lại công lý.

Bị cáo Ung Xỉ là tôi của Hạng Vũ mà phản Hạng theo Lưu, nay ra lệnh phải đầu thai là Nhan Lương để chịu tội trong kiếp sau: chết dưới thanh long đao của Quan Vũ (Hạng Vũ kiếp trước).

Bị cáo Hứa Phụ bị Hàn Tín tố cáo đã bói mình sống thọ 74 tuổi nhưng lại yểu số, chết năm 34 tuổi vì lòng dạ sâu độc của Lữ Hậu. Chánh tòa ghi nhận Hứa Phụ kêu oan rằng: số của Hàn Tín thọ 74 tuổi, nhưng vì Hàn Tín làm 4 việc thất đức nên Trời giảm tuổi thọ 4 kỷ (40 tuổi):

  1. Khi từ Sở vào Hán Trung, Tín nhờ tiều phu chỉ đường lại lấy oán trả ơn, vì sợ lộ bí mật nên giết anh tiều phu, Trời phạt giảm tuổi thọ một kỷ.
  2. Hàn Tín làm Lịch Sinh bị nấu chết oan vì tham công hại bạn, nên Trời giảm đi một kỷ.
  3. Hàn Tín lập trận Cửu Lý San, tuy có công diệt được Hạng Vũ nhưng làm chết lính tráng quá nhiều, Trời phạt giảm tuổi thọ giảm thêm một kỷ nữa.
  4. Lúc ban sơ, Hàn Tín bỏ trốn khỏi Sở, qua cửa ải, Chung Ly Muội giả vờ không hay biết để Hàn Tín trốn thoát, ấy là ơn lớn. Đến khi Muội thất thế, chạy đến nương náu với Hàn Tín thì Tín phụ nghĩa, Muội phải tự sát, Tín cắt đầu đem dâng cho Hán Cao Tổ, nên mất thêm một kỷ nữa.

Tóm lại, 4 việc thất đức làm Hàn Tín giảm 4 kỷ tuổi.

Nay xử: qua thời Tam quốc, Hứa Phụ đầu thai là Bàng Thống tự Phụng Sồ, đệ nhị quân sư của Lưu Bị, 34 tuổi sẽ chết tức tối tại gò Lạc Phụng, đồng một tuổi với Hàn Tín, để đừng sống lâu mà làm lộ thêm cơ trời.

Bị cáo Mã Thông cùng năm tướng phản lại Hạng Vũ theo Lưu Bang mà gia hại rồi xách đầu Hạng Vũ về nộp để lĩnh chức tước, nay ra lệnh phải đầu thai là sáu tướng trấn giữ năm cửa ải của Tào Tháo, đối mặt Quan Vũ (Hạng Vũ kiếp trước) phò nhị tẩu “quá ngũ quan trảm lục tướng”, nhằm Răn loài phản nghịch một đời / Hổ mình cho biết đạo trời chẳng dung.

Nhân chứng Phàn Khoái trung hậu, vũ dũng, ăn thịt tươi, uống rượu nguyên bồ, cho đầu thai là Trương Phi, cũng rượu, cũng mạnh mẽ, cũng nóng tính như lửa không thua gì kiếp trước. Nhưng Phàn Khoái kiếp trước vì nể mặt vợ mà giúp Lữ hậu làm chuyện bạo ngược, nên kiếp sau Trương Phi sẽ phải chịu chết thảm.

Nhân chứng Kỷ Tín có công thế mạng Lưu Bang bằng cách mặc long bào, ngồi xe của Lưu Bang để lừa Hạng Vũ, trung nghĩa hơn người, cho đầu thai là Triệu Vân, cũng một lòng trung nghĩa, sẽ sống thọ hơn các tướng khác của Lưu Bị để bù đắp cho mệnh yểu ở kiếp trước.

Tại sao không có phán quyết về việc Sở Hoài Vương, cũng là Nghĩa đế, bị Hạng vương ra lệnh sát hại?  Đó là ý Trời: Nghĩa đế phải nhường ngôi cho Xích đế, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ. Cho nên chánh tòa không truy cứu vụ sát hại này.

Đúc kết

Tác giả truyện Trọng Tương vấn Hán khéo tài liên kết, xếp đặt cho từng nhân vật bị cáo và nguyên cáo trong thời Hán Sở tranh hùng đầu thai trong thời Tam Quốc thành một đại cuộc luân hồi quả báo. Bị oán kiếp trước thì có cơ hội trả oán kiếp sau, hại người kiếp trước thì kiếp sau bị người hại lại. Truyện nhuốm màu hoang đường nhưng xem ra hợp tình hợp lý, sau 6 canh giờ cả bên nguyên và bên bị đều tâm phục khẩu phục, trong khi trước đó Diêm Vương đã bó tay cứ để các án oan tồn đọng mãi hàng mấy chục năm!

Truyện Trọng Tương vấn Hán tuy là hư cấu nhưng độc giả thấy vô cùng hợp lý, nhận ra sự luân hồi quả báo từ kiếp nầy sang kiếp khác. Truyện có ý khuyến thiện phạt ác, không ai tránh khỏi luật nhân quả là luật công bình thiêng liêng của trời đất, phù hợp với tín ngưỡng của dân gian, nên được truyền tụng nhiều.

Thiền sư Pháp Thuận

Thiền sư Pháp Thuận (914-990) tên thật là Đỗ Pháp Thuận, trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Sư từ nhỏ đã xuất gia, tôn Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sư học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước.

Năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và thái tử bị cận thần Đỗ Thích phản bội ám sát. Thừa cơ nước Việt triều đình lục đục, chính sự rối ren, triều Tống cử binh sang xâm lăng. Trước nguy cơ nước mất nhà tan, thái hậu Dương Vân Nga quyết định mang hoàng bào, ấn kiếm truyền quốc trao cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, giúp ông lên ngôi hoàng đế năm 980 để thống lĩnh binh dân chống giặc giữ nước.

Chiến thắng ngoại xâm xong, vua Lê Đại Hành gặp nhiều khó khăn trong việc nội trị, ngoại giao với lân bang. Rất may đương thời có thiền sư Pháp Thuận hết lòng hướng dẫn phò tá, trù kế hoạch, định sách lược, có công lớn trợ giúp Lê Đại Hành. Ðến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi là Ðỗ Pháp sư, và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư.

Sau khi thoát khỏi ách đô hộ một nghìn năm của phương Bắc, buổi đầu độc lập, nước Nam còn ít người giỏi văn thơ chữ Hán. Phần nhiều chỉ có các nhà sư là nhiều chữ nghĩa nhất và có ảnh hưởng quan trọng trong triều ngoài nội.

Năm 986, Lý Giác sang Việt Nam lần đầu mang theo chế sách phong cho Lê Hoàn chức An Nam Đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Kinh Triệu Quận Hầu; đồng thời bảo lãnh cho hai tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị Lê Hoàn bắt trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 981 về nước. Lần ấy, theo sử sách, ông ta được tiếp đãi nồng hậu.

Năm 987, vua Nhà Tống lại sai Lý Giác sang sứ nước Nam. Khi đến chùa Sách Giang, Vua mời sư Pháp Thuận giả làm người lái đò ra đón.

Lý Giác rất giỏi và thích nói chuyện văn thơ. Ngồi trong đò, ông thấy trên mặt sông có đôi ngỗng trắng đang bơi, liền ngâm hai câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha

Dịch:

Ngỗng kia ngỗng một đôi
Ngửa mặt nhìn chân trời

Sứ vừa đọc xong, người lái đò đọc tiếp ngay:

Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba

Dịch:

Lông trắng phô nước biếc
Chân hồng rẽ sóng xanh.

Có một lời bình như sau:

Lý Giác vô cùng thán phục, vì hai câu thơ của ông lái đò hay hơn hai câu của Lý Giác rất nhiều, tạo lên bài thơ tuyệt cú. Hai câu thơ của Lý Giác chỉ là câu thơ bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường, nhưng với hai câu của ông lái đò, là bức tranh sống động có đủ sắc màu trắng biếc xanh hồng, rất sinh động, trong thơ có họa. Hai câu thơ Lý Giác là viên gạch, còn hai câu thơ ông lái đò là hòn ngọc sáng.

Lý Giác dùng từ “ngưỡng diện” nghĩa là ngửa mặt và “thiên nha” có nghĩa là chân trời, ý muốn chỉ thiên triều nhà Tống. Như vậy, hai câu này nói lên sự ngạo mạn trịch thượng của một sứ thần phương Bắc. Ông ví vua quan nước Đại Việt như là bầy ngỗng đang ngử mặt hướng về thiên triều thần phục.

Có lẽ lời bình trên quá cực đoan. Có thể xét qua khía cạnh khác, nếu ta biết rằng bốn câu thơ đó là của Lạc Tân Vương (khoảng 640-684) làm năm lên 10 tuổi, như dưới đây.

Vịnh Thiên Nga – Lạc Tân Vương

Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba

Phí Minh Tâm dịch:

Thiên nga, thiên nga ơi
Cổ cong hướng lên trời
Trắng phao trên nước biếc
Rẽ sống chân hồng bơi

nga nga

Bài thơ thuần khiết của một cậu bé 10 tuổi thì nên được thưởng ngoạn như thế, không nên kéo vào góc cạnh chính trị gì khác.

Có lẽ đơn giản chỉ là Lý Giác thấy đôi ngỗng thì nhớ đến bài thơ trên, và đọc ra hai câu đầu chứ không có ý ngạo mạn gì. Vừa khéo, Thiền sư Pháp Thuận cũng biết được bài thơ đó nên đọc ra hai câu cuối chứ không có ý đối chọi. Cả hai người đều đọc khác một chút so với nguyên văn nhưng việc này là bình thường: hoặc do tam sao thất bổn, hoặc do người đọc thơ có thể muốn sửa câu chữ theo ý mình. Tựu chung, nên hiểu đây chỉ là cuộc tao ngộ bất ngờ của hai tâm hồn yêu thơ. Và vì bốn câu thơ xuất xứ từ một bài thơ hoàn chỉnh của Lạc Tân Vương nên không thể bình luận về “viên gạch” và “hòn ngọc”. Lại càng không nên tán dương hai câu thơ của Thiền sư Pháp Thuận, vì đó không phải của ông ấy.

Ỷ Lan Phu nhân

Các sách chính sử như Đại Việt sử lượcĐại Việt sử ký toàn thư đều không ghi chép rõ ràng gốc gác của Ỷ Lan Phu nhân (1044? – 1117). Người ta chỉ biết bà họ Lê, người làng Thổ Lỗi, thời Nguyễn thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay là làng Phú Thị thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đã 40 tuổi mà không có con, nên hết sức lo lắng cho việc kế vị sau này. Theo lời khuyên của các quan, vào năm 1063 hoặc 1064, Vua đi cầu tự ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, cũng có nguồn ghi là chùa Siêu Loại, làng Thổ Lỗi.

Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy có một cô thôn nữ xinh đẹp vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có liên quan gì đến mình. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ “kiêu căng” đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng”.

Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mỉm cười mà hát một câu hát như sau:

Người thanh thì tiếng cũng thanh
Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu.

Vua thấy cô gái tuy ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ thì đoan trang dịu dàng, lời nói phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa rành rành. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô.

Về đến kinh đô, vua Thánh Tông cho dựng cung Ỷ Lan với ý nghĩa là gợi nhớ lại câu chuyện gặp gỡ (Ỷ Lan tức là: tựa cây lan), và phong cho cô gái hái dâu làm Ỷ Lan Phu Nhân. Bà là mẹ của vua Lý Nhân Tông (1072-1127), một trong những vị vua lớn của nhà Lý.

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền (1234 hoặc 1235-1256) là người Nam Định ở huyện Thượng Nguyên đời Trần Thái Tông, học hành sáng láng, thiên hạ kêu là thần đồng. Ông đỗ Trạng nguyên khi mới có 12 tuổi, là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Cùng năm đó có Lê Văn Hưu 17 tuổi đỗ Bảng nhãn, sau này là tác giả bộ Đại Việt sử ký (hiện đã thất truyền).

Khi ông đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Hiền được Vua Trần Thái Tông vời vào bệ kiến. Vua hỏi, Hiền trả lời trôi chảy cả văn lẫn ý, vua khen ngợi và hỏi tiếp: “Học thầy nào?”

Nguyễn Hiền trả lời: “Thần không phải là người sinh ra đã biết, nhưng khi có một đôi chữ không biết thì hỏi thầy chùa.”

Vua nói: “Vì còn nhỏ mà Trạng nguyên ăn nói chưa biết lễ, cần cho về nhà học lễ 3 năm mới bổ dụng.”

Vì thế trạng Hiền chưa được ban áo mão.

Giải đánh đố của sứ Tàu

Một lần, sứ Tàu đến nước Nam. Viên sứ này đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh. Được như vậy y mới chịu vào thành. Đó là viên sứ muốn thử tài người Nam ra sao. Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử, nhưng vị nào cũng lè lưỡi, lắc đầu.

Bấy giờ vua chợt nghĩ đến Trạng nguyên trẻ Nguyễn Hiền, bèn cho triệu trạng về kinh.

Viên quan được giao việc đến quê trạng, gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu đang nghịch đất ngoài làng. Trong đó, một thiếu niên mặt mũi khôi ngô chỉ huy nhóm bạn nặn voi từ đất. Kỳ lạ là con voi đó bằng đất mà bốn chân lẫn tai, vòi… có thể ngoe nguẩy được. Hỏi ra mới biết, đám trẻ dùng cua làm mình voi, lấy đỉa làm vòi, bắt bướm gắn làm tai voi, nên con voi có thể ngoe nguẩy.

Sứ giả đồ chừng đó là trạng Hiền, bèn buông một câu thăm dò:

       Tự là chữ, cắt giằng đầu, chữ tử là con, con ai con ấy?

Cậu thiếu niên Hiền nghe được, không ngước mặt lên, thủng thẳng buông một câu:

       Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này?

han_tu-vuChủ ý của viên quan xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ “tự” có hai bộ phận, trên như cái giằng xay, dưới là chữ “tử”. Để nguyên “tự” có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ “tử” nghĩa là con, và tiếp đó thành một câu hỏi có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới.

Trạng Hiền đối lại bằng cách chiết tự chữ Hán kết hợp với một phần Nôm: chữ “vu” là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang ở giữa thành chữ “đinh”, nghĩa là đứa, thành một vế đối rất chỉnh nhưng xấc xược. Nguyễn Hiền phản ứng như thế bởi vì dù sao mình đang là Trạng nguyên của triều đình, đáng lẽ đi đâu cũng phải có võng lọng đưa rước, thế mà một viên quan cấp thấp không tự giới thiệu và tâu bày đàng hoàng, lại còn đánh đố chữ nghĩa!

Sứ biết đó chính là trạng Hiền, bèn xuống ngựa, truyền lại ý chỉ vua vời trạng về kinh.

Nhưng trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng trước vua cho trạng kém lễ buộc về nhà, nhưng lần này vua cho vời trạng lên cũng không giữ đúng lễ.

Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi câu chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được.

Trạng Hiền nghe chỉ mỉm cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ khi viên quan lên ngựa, Hiền mới xui đám trẻ cùng hát:

       Tích tịch tình tang!
       Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
       Bên thì lấy giấy mà bưng
       Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang
       Tích tịch tình tang!

Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết trạng đã chỉ cách giải, vui vẻ trở về kinh.

Bài thơ chữ “điền”

Có lần khác, sứ Tàu qua trao bài thơ như sau để đánh đố người Việt.

       Lưỡng nhật bình đầu nhật
       Tứ sơn điên đảo sơn
       Lưỡng vương tranh nhất quốc
       Tứ khẩu tại trung gian

Bốn câu thơ này nghĩa là:

       Hai mặt trời bằng đầu nhau (cũng có nghĩa là có hai chữ nhật 日)
       Bốn hòn núi nghiêng ngả (tức là có bốn chữ sơn 山)
       Hai vua tranh một nước (tức là có hai chữ vương 王)
       Bốn miệng ngang dọc trong khoảng đó (tức là có bốn chữ khẩu 口).

Dịch thơ:

       Hai nhật bằng đầu để sóng hàng
       Bốn núi điên đảo dọc cùng ngang
       Hai vua ngiêng ngả lo tranh nước
       Bốn miệng liền nhau ghép vững vàng.

Vua và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời Trạng nguyên Nguyễn Hiền (mà vua cho là bé đang ở nhà để rèn luyện thêm) đến để hỏi nghĩa.

Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, Nguyễn Hiền nói với các quan: “Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời Trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa.”

Quan về tâu lại với vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, lúc đó Nguyễn Hiền mới chịu về kinh.

Về đến kinh đô, vua đưa bài thơ của sứ Tàu ra, trạng Hiền liền giải thích như sau:

han_nhat-son

Câu thứ nhất có ý nói là hai chữ “nhật” (日) xếp ngang hàng nhau. Câu thứ hai nghĩa là bốn chữ “sơn” (山) xoay ngược xuôi. Câu thứ ba nói về hai chữ “vương” (王) xếp chồng lên nhau. Câu thứ tư là bốn chữ “khẩu” (口) xếp ngang dọc cạnh nhau. Tóm lại, tất cả bài thơ chỉ nói đến chữ “điền” (田), có nghĩa là ruộng đất.

Giải xong, trạng Hiền viết thư đưa cho sứ Trung Hoa, ông ta phải chịu là nước Nam có nhân tài.

nguyen hienTrạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng rồi qua đời, thọ 21 tuổi. Vua Trần Thái Tông thương tiếc truy phong ông là “Đại vương thành hoàng” và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Hiện nay, tại đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:

Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc
Vạn niên thiên tuế lập tam tài

Dịch:

Mười hai tuổi khai khoa hai nước
Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài

Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính một nhân tài mệnh yểu, vua cho đổi tên huyện Thượng Hiền thành Thượng Nguyên để kiêng tên húy của ông.

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Ðĩnh Chi (1272-1346), người châu Giang Nam, huyện Bình Hà, sau dời về xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1304 đời Trần Anh Tông. Sinh thời Đĩnh Chi là người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng diện mạo lại rất xấu xí. Vì sự xấu xí đó mà suýt chút nữa con đường quan lộ của ông bị hủy hoại. Tuy vậy, nhờ thế mà trên thi đàn văn học Việt Nam có thêm một bài phú vô cùng đặc sắc và hậu thế được biết thêm nhiều giai thoại thú vị về ông.

Bài phú cứu nguy quan lộ

Truyện kể rằng sau khi đỗ Trạng nguyên, Mạc Đĩnh Chi vào yết kiến triều đình, tuy nhiên Hoàng đế Trần Anh Tông thấy dung mạo ông xấu xí, nên không muốn trọng dụng. Để thể hiện phẩm đức và chí hướng của mình, Mạc Đĩnh Chi bèn khảng khái cảm tác bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) mà dâng lên Hoàng thượng.

Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, không loài hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn; vả lại sen này còn được trồng trong giếng ngọc nữa thì lại càng cao quý biết bao. Đĩnh Chi coi mình giống như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi lại ở vào một thời thế tốt đẹp, nếu vua là đấng thánh minh thì những người như ông càng thêm cao quý và được trọng vọng biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành thì mới biết thưởng thức.

Dưới đây là bài phú Ngọc tỉnh liên – Hoa sen trong giếng ngọc, dịch ra văn Nôm:

Đương khi lửa hạ, khách cao trai thư thả, lời dòng nước biếc, vịnh khúc phù dung; đến bến ao trong, ngâm câu nhạc phủ. Bỗng bóng ai, áo trắng mũ vàng, phất phơ điệu cốt xương tiên, hớn hở tinh thần thoát tục.

Khách hỏi: “Từ đâu mà lại?” Thưa rằng: “Từ núi Hoa San.”

Khách kéo ghế mời ngồi vồn vã, này dưa ngon quả quý bày ra. Chuyện gần thôi lại chuyện xa, nói cười lơi lả, tiệc hoa tơi bời.

Chuyện xong, mới thưa với khách rằng:

Khách đây quân tử ái liên chăng là?
Tiện đây sẵn có giống nhà,
vẫn từng gìn giữ nâng niu hoa vàng.

Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy (A)
Cẩu kỷ phòng tăng khó tránh; mẫu đơn đất Lạc nào bì (B)
Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh quân lan sá kể gì (C)
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy!

Khách nói: “Khen thay quý lạ! Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật, xưa từng nghe tiếng, nay được thực trông?”

senb
(Tranh Nguyễn Thị Tâm)

Nghe qua đạo sĩ vui lòng, hoa trong tay áo giữ liền tặng đưa. Khách trông thấy trong lòng hồi hộp, bút ngũ lăng tay thảo nên ca. Ca rằng:

Thủy tinh làm mái cung đình
Lưu ly lạc để nên hình cung môn
Pha lê nát nhỏ làm bùn
Minh châu làm nóc trên cành tưới cây.

Hương thơm bay thấu từng mây
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng
Quế xanh khóc vụng tủi thầm
Tố Nga luống những mười phần giận thân.

Cỏ dao hái chốn Phương tân
Sông Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu
Giữa dòng lơ lửng vì đâu?
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?

Đành nơi lưu lạc quản gì
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân
Một lòng trung chính nghĩa nhân
Lo chi mưa gió, phong trần, tuyết sương!

Chỉn e lạt phấn phai hương
Tháng ngày thắm thoát, mỹ nhân ai hoài.

Nghe xong, đạo sĩ than rằng: “Nói chi ai oán thiết tha! Kìa chẳng xem đóa tử vi nở trên ao phượng, hoa thược dược mọc trước bệ vàng, vốn có địa vị thanh cao, thanh danh hiển hách, ơn trên thánh chúa, mưa móc dồi dào. Vội chi tủi phận hờn duyên, nước non lẩn thẩn toan bề đi đâu?”

Khách nghe nói như tình như cảm, đem lòng riêng kính mộ xiết bao. Khúc trai đình tay tiên đề vịnh, thơ phong đầu giọng ngọc ngâm nga:

Nỗi lòng xin giải gần xa
kính dâng một phú hải hà xét soi.

Chú thích:

(A) Ý so sánh hoa sen thanh cao với các loại cây trần tục. “Đào trần, lý tục” từ câu thơ cổ: Đào lý mẫu sơn tổng thô tục (Hoa đào hoa lý đầu núi đều là thứ thô tục).

(B) Dù những loài thảo vật nổi tiếng vẫn không bì với hoa sen. Cẩu kỷ là tên một cây thuốc; đời Đường, Lưu Vũ Tích vịnh cây cẩu kỷ có câu: “Cây thuốc của chùa nương bên giếng lạnh”. Mẫu đơn đất Lạc: mẫu đơn đất Lạc Dương, Trung Hoa, nổi tiếng đẹp nhất.

(C) Đào lệnh: Đào Tiềm đời Tấn, làm thơ có câu “Hái hoa cúc dưới giậu phía đông. Linh quân: tên chữ của Khuất Nguyên, viết Ly tao có câu: “Ta tưới hoa lan chín uyển, lại trồng hoa huệ trăm mẫu”.

Bài phú của Mạc Đĩnh Chi vừa được đọc xong, Vua Trần Anh Tông vỗ đùi, hết lời khen ngợi, sau đó lập tức phong cho Mạc Đĩnh Chi danh vị “Thái học sinh dũng thủ”, lại sung cho ông thêm chức: “Nội thư gia”, sau này thăng ông đến chức Tả bộc xạ (Thượng thư). Đến thời vua Trần Minh Tông, Mạc Đĩnh Chi càng được triều đình tin dùng và hậu đãi.

Mạc Đĩnh Chi là một văn thần xuất sắc; và hơn thế nữa, là một nhà ngoại giao tài ba qua các ứng đối mau lẹ, biện luận vững vàng, giữ gìn uy tín, thể diện và lợi ích quốc gia. Mạc Đĩnh Chi làm cho vua quan nhà Nguyên khâm phục; đặc biệt là được vua thứ 7 triều Nguyên là Nguyên Vũ Tông (1281-1311) phong cho tước vị “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (Trạng Nguyên của hai nước).

Ứng đối với Thừa tướng nhà Nguyên

Một hôm, nhân việc quan rảnh rỗi, Mạc Đĩnh Chi vào thăm phủ Thừa tướng nhà Nguyên. Trong phủ trang hoàng lộng lẫy, có treo một bức trướng rất lớn trên tường, trướng thêu một con chim sẻ đậu trên cành trúc, trông như chim thật. Ông lại gần xem, tưởng chim thật, đưa tay định chụp bắt lấy.

Thừa tướng và các quan quân nhà Nguyên cười to:
– Sứ thần An Nam thấy lạ lắm phải không?”

Mạc Đĩnh Chi vội thẳng tay kéo soạt, xé rách bức trướng ra thành nhiều mảnh.

Một viên quan hốt hoảng kêu lên:
– Sao ngài lại xé bức trướng quý này?

Mạc Đĩnh Chi nghiêm nét mặt lại, bảo:
– Trúc là quân tử, chim sẻ là tiểu nhân, nay Thừa tướng lấy trúc với sẻ thêu vào trướng, như vậy là tiểu nhân ở trên quân tử. Tôi sợ đạo tiểu nhân lớn hơn, đạo quân tử mòn đi, nên vì thánh triều trừ bỏ nó đi, chứ thứ ấy quí giá nỗi gì!

Thừa tướng ức quá, song không có cớ gì để quở trách hoặc bắt đền được.

Tối hôm ấy, Thừa tướng mời Mạc Đĩnh Chi đến uống trà và ngâm vịnh. Ông cho bày tiệc trà ở giữa sân để tiếp khách và hóng mát. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, cả chủ lẫn khách say mê gửi gắm lời thơ vào cảnh tĩnh mịch. Khách lúc nào trong lòng cũng thanh thản, thoải mái thả tâm hồn vào cảnh thiên nhiên. Chủ đôi lúc nhớ đến bức trướng rách, trong lòng còn ấm ức.

Đêm đã khuya, khi tiệc sắp tàn, ông muốn trả miếng lại chuyện ban chiều nên cầm một chiếc chén, lý sự với Mạc Đĩnh Chi rằng:
– Cây kỷ là gỗ, cái chén không phải là gỗ, tại sao lại lấy gỗ làm chén?

Mạc Đĩnh Chi thấy câu hỏi thật phi lý, ông bèn cười mà hỏi lại rằng:
– Thưa ngài Thừa tướng! Ngài hãy giải thích: Phật không phải là người, thầy tăng là người, vậy cái gì đã khiến cho thầy tăng thờ Phật?

Văn tế bà hậu phi

Trong thời kỳ Mạc Đĩnh Chi còn ở Bắc triều, một bà hậu phi của vua Nguyên mất. Thân sĩ triều Nguyên tâu với vua cử ông vào đọc văn tế. Khi vào quỳ trước linh vị, nghe tiếng xướng xong, mở tờ chúc văn ra đọc, chỉ thấy bốn chữ nhất ( 一) . Biết họ chực thử mình, nhưng ông vẫn trịnh trọng đọc (dịch Nôm):

Trời xanh một đám mây
Lò hồng một điểm tuyết
Thượng uyển một cành hoa
Cung quảng một vầng nguyệt.
Ôi! Mây tản, tuyết tiêu, hoa tàn, trăng khuyết!

Ông đọc xong, cả vua tôi nhà Nguyên đều phục ông là bậc thiên tài.

Chơi chữ

Một lần khác, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ viết bốn câu thơ tứ tuyệt sau và thách Mạc Đĩnh Chi giải (dịch Nôm):

Một mặt đôi mày
Một béo một gầy
Một năm một tháng
Ba lần một ngày.

Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Đĩnh Chi chỉ đưa mắt qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát 八 . Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét đậm một nét nhạt; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám đồng âm với chữ bát 缽 đựng đồ ăn, do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.

Thế là cả mấy lần chơi chữ, đố chữ đều bị  Mạc Đĩnh Chi đối đáp trôi chảy cả, người Nguyên lấy làm phục ông lắm. Họ thường có ý ví ông với Án Tử đời Xuân Thu, tuy tướng mạo chẳng bằng ai, nhưng tài trí thì chẳng ai bằng.

Thi với sứ thần Triều Tiên

Lại một lần khác, Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần một số nước ra mắt vua Nguyên. Nhân có nước nào đó dâng chiếc quạt, vua Nguyên bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ vịnh chiếc quạt.

mac dinh chi & quat

Giữa lúc Mạc Đĩnh Chi còn tìm tứ thơ, thì sứ Triều Tiên đã viết liến thoắng.

Ông nhìn theo quản bút đọc thấy sứ Triều Tiên viết hai câu chữ Hán về số phận của chiếc quạt (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý) như sau:

Nắng nôi oi ả, ngươi tựa Y Doãn, Chu Công
Rét buốt lạnh lùng, ngươi như Bá Di, Thúc Tề

Y Doãn, Chu Công: những người được vua trọng dụng.
Bá Di, Thúc Tề: những người bị ruồng bỏ.

Mạc Đĩnh Chi nhanh trí phát triển hai câu trên thành một bài văn xuất sắc, miêu tả số phận của chiếc quạt (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho
Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo.
Ôi, được dùng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó, chỉ ta cùng ngươi như thế chăng?

Xét về ý tứ, bài vịnh của Mạc Đĩnh Chi có ý tương tự bài vịnh của sứ Cao Ly nhưng hay hơn ở việc trích dẫn một câu trong sách Luận ngữ, có nghĩa: “Ai dùng ta thì ta làm, ai không dùng ta thì ta để đó. Điều ấy chỉ người với ta mới có được thôi”.

Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay, nên vua Nguyên xem xong cứ gật gù khen mãi.

Vua Nguyên cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi, và phong “Lưỡng quốc trạng nguyên” (trạng nguyên hai nước), chữ do chính tay hoàng đế Nhà Nguyên viết trên chiếc quạt.

Thật may là sứ thần Cao Ly không khiếu nại sứ thần Việt đã “cóp” ý tưởng!

Ứng đối với Vua Nguyên

Khi Mạc Đĩnh Chi chuẩn bị về nước, bên Nguyên vẫn chưa tha. Vua Nguyên muốn đưa Mạc Đĩnh Chi vào tròng, hỏi:
– Có một chiếc thuyền trong đó chỉ có vua, thầy học và cha mình, ra đến giữa sông chẳng may bị sóng lớn đánh đắm. Khi ấy, ngươi ở trên bờ nhảy xuống bơi ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi. Thế thì ngươi cứu ai?

Với câu hỏi hóc búa này, vua Nguyên cho rằng nhất định Mạc Đĩnh Chi sẽ mắc phải tội lớn. Vì rằng nếu Mạc Đĩnh Chi nói chỉ cứu vua, ắt mắc tội bất hiếu với cha, bất nghĩa với thầy học. Nếu nói chỉ cứu thầy, thì mắc tội bất trung với vua, bất hiếu với cha. Nếu chỉ cứu cha thì lại mắc tội bất trung, bất nghĩa. Nếu không nói gì tức là không cứu ai, tội ấy càng nặng.

Quần thần nhà Nguyên đắc ý đưa mắt nhìn nhau, thầm thì bàn tán, cho rằng phen này họ Mạc nhất định mắc tội, chứ chẳng chơi.

Nhưng Mạc Đĩnh Chi không hề tỏ ra lúng túng, trả lời:
– Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm tất phải vội vã nhẩy xuống bơi ra cứu, hễ gặp ai trước thì cứu người ấy, bất kể người ấy là vua, thầy hay cha mình.

Ý nói nếu chọn lựa người để cứu rồi bơi ra xa, rất có thể tất cả cùng chết. Cả triều đình nhà Nguyên thán phục trước câu trả lời ấy.

Ghi thêm: Nguyễn Thanh Điệp (2017) trích sách Kể chuyện sứ thần Việt Nam, cho biết người đặt câu hỏi trên là vua nhà Minh, và người trả lời là Nguyễn Duy Thì, tên thật là Nguyễn Duy Thời, người huyện Mê Linh, Hà Nội.

Hồ Tông Thốc

Hồ Tông Thốc (? – ?), người làng Thổ Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), đỗ Trạng nguyên năm 1372 (đời Trần Nghệ Tông), giữ chức Hàn lâm viện Học sĩ. Ông có lần đi sứ Trung Hoa và có mấy giai thoại liên quan đến lần đi sứ đó.

Đọc thơ tại miếu thờ Hạng Vũ

Tương truyền, một hôm thuyền của sứ bộ nước Việt đi trên Ô Giang, đến chỗ có miếu thờ Hạng Võ dựng ở trên bờ. Dân địa phương đồn miếu đó rất thiêng, hễ người đi thuyền bè qua lại ngang đây mà không ghé vào đốt tiền vàng mã thì thuyền sẽ bị đắm; nhiều người y lời làm như vậy quả nhiên sóng gió lập tức ngừng lại ngay.

Tuy biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông Thốc vẫn không cho thuyền ghé vào để đốt vàng. Quả nhiên, ngay lúc đó sóng gió bỗng nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền tròng trành chỉ chực đắm. Hồ Tông Thốc chẳng hề nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm bài thơ như sau (dịch Nôm):

Vua chẳng vua, mà tôi chẳng tôi
Bên sông miếu mạo để thờ ai?
Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ
Tiền giấy nay sao lại vật nài?

Ngôn từ thật thâm thúy chua cay, ý nói Hạng Vũ lúc bị truy đuổi gắt thì thế cùng lực kiệt, xung quanh không còn mấy người, không còn có vị thế làm vua và cũng chẳng làm tướng cho ai, rồi gặp người đình trưởng khuyên nên sang Giang Ðông đất vuông nghìn dặm, có thể làm chỗ phục hưng, nhưng Hạng Vũ từ chối, thế mà bây giờ lại muốn nhận từng khoản tiền nhỏ!

Hồ Tông Thốc đọc xong, tự nhiên gió lặng sóng im, và người ta nói miếu từ đó mất thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng thắp hương nữa.

Ghi thêm: có nguồn cho rằng bài thơ trên là của Mạc Đĩnh Chi viết trước cổng miếu.

Chữa thơ Vương Bột

Dang Vuong cac
Gác Đằng vương

Vương Bột (650-675) là nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường. Năm ngoài 20 tuổi, nhân dịp dự tiệc mừng tết Trùng dương (mùng chín tháng chín) ở Đằng vương các (Gác Đằng vương), ông làm bài thơ tên Đằng vương các và bài tựa  tên Đằng vương các tự rất nổi tiếng. Sau đó trên đường sang Giao Chỉ thăm thân phụ, ông bị đắm thuyền và chết đuối trên dòng Chương Giang.

Tục truyền, vì Vương Bột chết trẻ nên rất thiêng, từ đó ở khúc sông này, cứ vào khoảng đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng ngâm hai câu thơ tả cảnh đặc sắc trong bài Đằng vương các tự:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.

Nghĩa:

Ráng chiều rơi xuống với cái cò đơn chiếc cùng bay
Làn nước sông thu cùng bầu trời kéo dài một sắc.

Trong dịp đi sứ Trung quốc, một buổi chiều tà,  Hồ Tông Thốc nhân chèo thuyền dạo chơi trên khúc Chương Giang nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên.

Hồ Tông Thốc nghe xong, bèn ra đứng ở mũi thuyền nói to lên rằng:

Hà tất dữ, cộng nhị tự?

Nghĩa:

Cần gì phải dùng hai chữ dữ (với), cộng (cùng)?

Mọi người hỏi tại sao ông bảo như vậy thì Hồ Tông Thốc giải thích:
–  Hai câu tuy hay, nhưng thừa hai chữ dữcộng, vì đã nói tề phi (cùng bay) thì mặc nhiên là có ý dữ (với) trong đó rồi; đã nói nhất sắc (một màu) thì mặc nhiên là có ý cộng trong đó rồi.

Sau đó ông sửa lại hai câu như sau:

Lạc hà cô vụ tề phi
Thu thủy trường thiên nhất sắc.

Mọi người nghe nói, đều phục ông bắt bẻ có lý, và hai câu của ông tuy về âm hưởng không bằng hai câu của Vương Bột, nhưng về mặt văn tự thì quả có gọn và hàm súc hơn.

Rồi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn thi nhân họ Vương nữa.

Ghi chú: Có nguồn kể: Nhân lễ Nguyên Tiêu, tiến sĩ họ Hồ nghe được kỳ thoại miếu thần, nên vào miếu thờ Vương Bột để cầu an cho trăm họ. Hồ Tông Thốc thắp hương khấn Vương Bột rằng: “Cái tên như vận vào ngươi nên chết vẫn chẳng… yên thân”, rồi đưa ra ý kiến như trên. Nguồn khác nữa lại cho rằng thoại này của Mạc Đĩnh Chi. Thế thì đây đúng là giai thoại.

Bàn thêm: Người tổng hợp bài này kiểm tra bản dịch thơ xem có thừa chữ nào theo ý của Hồ Tông Thốc không. Hai phiên bản được tìm thấy, với chữ thừa được gạch dưới nhưng thật ra nghe không thừa:

Ráng chiều cò lẻ cùng bay
Nước thu trời rộng là đây một màu.

Cái cò bay với ráng sa
Sông thu cùng với trời xa một màu.

Lê Hiến Phủ – Hồ Quý Ly

Lê Hiến Giản (1341-1390?) và Lê Hiến Tứ (1341-1390?) là hai anh em sinh đôi. Về quê hương của hai ông, có nhiều tư liệu ghi chép khác nhau. Theo thần tích ở Nam Định, hai ông quê ở trang Thượng Lao, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Nam Thanh, huyện Nam Trực), tỉnh Nam Định. Có lẽ chi tiết này đúng hơn các nguồn khác vì được biết đền Thượng Lao và Xối Thượng ngày nay là nơi ở cũ của hai anh em cùng gia đình thuở sinh thời.

Mùa xuân năm 1374, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông về phủ Thiên Trường mở khoa thi Đình. Khi đi thi, để tránh phạm huý tên Thượng hoàng (Trần Phủ), Lê Hiến Phủ phải đổi tên thành Lê Hiến Giản. Trong khoa thi đó, Lê Hiến Giản đỗ Bảng nhãn và Lê Hiến Tứ đỗ Tam giáp Tiến sĩ. Tại đền Thượng Lao ở huyện Nam Trực ngày nay còn đôi câu đối ca ngợi:

Nhất môn khoa hoạn song đăng bảng
Vạn cổ cương thường biệt lập căn

Dịch:

Một nhà khoa bảng hai người đỗ
Muôn thuở cương thường một nếp riêng

Lê Hiến Giản làm quan tới chức Ngự sử (Ngự sử có nhiệm vụ can ngăn vua, giám sát và hạch tội các quan trong triều) cấp Trung Đại phu, còn Lê Hiến Tứ được ban chức Trấn nam Tướng quân cấp Hạ đại phu.

Mặc dù làm quan to trong triều đình nhưng hai ông vẫn nhớ quê hương, nên xin nhà vua cho về xây dựng hành cung tại trang Thượng Lao, giúp dân tiền của khơi sông đào ngòi “dẫn thủy nhập điền”, đắp đường chia ruộng thành ô, khuyên dân ăn ở cho tiện cấy trồng và mở mang đồng ruộng. Các ông cho đào một con ngòi dẫn nước quanh làng, thông với sông Đào, sông Hồng để tưới tiêu cho cánh đồng xã Nam Thanh ngày nay.

Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ suy thoái; Hồ Quý Ly (1336-1407?) đang chuyên quyền. Hồ Quý Ly thường ngày đến làm việc ở nhà chính sự đường, vẫn ngồi trên một chiếc ghế đen.

Lê Hiến Phủ thấy vậy liền trách: “Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa, ngai vàng ông cũng ngồi à?”

Quý Ly giật mình nhưng vẫn đe lại: “Ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi!”

Hiến Phủ không hề sợ, cứng cỏi trả lời: “Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!”

Ðoạn ngâm mấy câu thơ:

Ngã tâm phỉ tịch
Bất khả quyển dã
Ngã lâm phỉ thạch
Bất khả chuyển dã

Dịch, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Lòng chẳng phải chiếu
Không cuốn tròn được
Lòng chẳng phải đá
Không chuyển vần được.

Quý Ly nghe nói giận lắm, nhưng vẫn lẳng lặng không nói gì cả.

Ít  lâu sau, Hiến Giản cùng với các đại thần do Thượng tướng Trần Khát Chân đứng đầu cùng với Thái bảo Trần Nguyên Hãn, tìm cách trừ Quý Ly, mong cứu vãn cơ nghiệp nhà Trần, song việc không thành. Phần lớn những người dự mưu và thân thích bị giết, Lê Hiến Giản cũng bị sát hại. Theo dã sử, vụ hành hình xảy ra vào ngày 12 tháng 12 năm Kỷ Mão (thần tích thì ghi là năm Canh Ngọ 1390).

Trước khi hành hình, ông vẫn ung dung đọc bài thơ cảm khái, có câu rằng:

Thốn nhẫn trừ tàn thiên địa bạch
Thất tâm báo quốc quỷ thần tri

Dịch:

Thanh kiếm trừ gian trời đất biết
Tấm lòng đền nước quỷ thần hay

Còn Tiến sĩ Lê Hiến Tứ sau này cũng bị Hồ Quý Ly hại. Ngày Lê Hiến Tứ mất cũng là ngày 12/12.

Trong lịch sử không có ai như hai ông đạt bốn chữ “ đồng” là: đồng sinh (cùng sinh một ngày); đồng khoa (cùng đỗ một khoa); đồng liêu (cùng làm quan một triều); đồng tử (cùng chết một ngày).

Đương thời có câu đối viếng hai anh em Lê Hiến Giản như sau:

Phù chính đan tâm nguyên bất tử
Tận trung hùng khí lẫm như sinh

Dịch:

Phù chính nghĩa lòng son không mất
Tận lòng trung khí mạnh vẫn còn.

Lăng Lê Hiến Giản được xây dựng từ đời vua Thành Thái năm thứ nhất (1889). Tương truyền khi hai ông mất, bốn người hầu gái vì quá thương tiếc nên tự gieo mình xuống con ngòi tuẫn tiết, nhân dân đặt tên con ngòi là “Mỹ nữ hàn khê” (Ngòi mỹ nữ).

Tại nghi môn đền Thượng Lao ở huyện Nam Trực có đôi câu đối viết về sự kiện này:

Trinh tầm bất dẫn Đào giang thủy
Thắng tích do truyền Mỹ nữ khê

Dịch:

Lòng trinh cùng nước sông Đào chảy mãi
Thắng tích truyền ngòi Mỹ nữ còn nêu

Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380-1442) quê ở xã Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), con của ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm Thành Nguyên thứ nhất (1400), ông đỗ thái học sinh và làm quan với nhà Hồ. Khi nhà Hồ mất, ông bị giặc Minh giam lỏng ở Ðông Quan (Hà Nội). Sau ông trốn vào Lam Sơn, giúp Lê Lợi khởi nghĩa và kháng chiến trong suốt 10 năm trời.

Trúc Nam Sơn – Nước Đông Hải

Bài Bình Ngô đại cáo nổi tiếng của Nguyễn Trãi có hai câu:

Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác      

Dịch (Ngô Tất Tố):

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Hai câu này thường được đưa vào đề tài cho học sinh bình giảng với ý cho rằng Nguyễn Trãi là tác giả.

Thật ra, theo Hoàng Trọng Thược (1969), hai câu này nằm trong bài hịch của Lý Mật (582-619) kể tội Tùy Dạng Đế (569-618). Lý Mật là thủ lĩnh đạo quân Ngõa Cương, và bài hịch của ông gây ảnh hưởng lớn thời bấy giờ, qua đó các nơi đều tới tấp vùng lên hưởng ứng chống lại nhà Tùy. Hai câu như sau:

Quyết Đông Hải chi ba lưu ác bất tận
Khánh Nam Sơn chi trúc thú tội vô cùng

Dịch:

Khơi hết sóng Đông Hải vẫn chưa hết ác
Viết hết trúc Nam Sơn vẫn chưa hết tội

Chú thích: Đông Hải tức Biển Đông không phải là Biển Đông ngoài khơi Việt Nam, mà là tên người Hoa gọi Biển Trung Hoa vốn nằm ở phía đông Trung Quốc.

Theo Tố Hoài (2017), cụ lương y Nguyễn Sĩ Tấn (1904-1982) viết Lời kêu gọi phụ lão cả nước, có câu (bản dịch năm 1949):

Ôi, chặt tre núi Nam Sơn, khơi nước bể Đông Hải cũng không chép hết tội và rửa hết lỗi của bọn thực dân, phản động vậy.

Và cũng ghi nguồn:

Trong bài hịch của Lý Mật kể tội Tùy Dạng đế (569-617): Chặt hết trúc Nam Sơn cũng không thể nào ghi hết tội ác; Dù dốc cạn Biển Đông cũng không thể rửa hết tội… Nam Sơn nằm giữa tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây, Trung Quốc.

Như thế, cần nhận rõ Nguyễn Trãi không phải là tác giả của ý tưởng về trúc Nam Sơn và nước Đông Hải. Đúng hơn, “Trúc Nam Sơn – Nước (hoặc Sóng) Đông Hải” vô hình trung là thành ngữ ngụ ý nói tội ác chất chồng. Thiết nghĩ thầy cô giáo dạy văn và ra đề cần nêu điểm này để tránh kích động tinh thần ái quốc cực đoan của học sinh mà bỏ quên tính chính xác của văn học và lịch sử.

Thơ đùa ả bán chiếu

nguyen trai
Nguyễn Trãi

Tương truyền một hôm Nguyễn Trãi dạo chơi bên Hồ Tây, trời đã sẩm tối, ông gặp một người con gái đi bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, ông liền đọc bỡn bốn câu thơ quốc âm:

Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ chừng bao tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?

Cô gái bán chiếu ấy tên là Nguyễn Thị Lộ, vốn xuất thân là con nhà gia thế, sau vì cửa nhà sa sút phải đi bán chiếu, nên văn chương chữ nghĩa không phải xoàng, lại giỏi thơ Nôm, bèn đọc một bài tứ tuyệt đáp lại:

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!

Nguyễn Trãi thấy Thị Lộ có nhan sắc lại thao văn từ, nên lấy nàng làm thiếp.

Chẳng bao lâu, nàng được phong làm Lễ nghi nữ học sĩ trong triều và được Lê Thái Tông (1434-1442) rất quý mến. Rồi chính vì thế mà sau đó, gây nên tấn thảm kịch Vườn Lệ chi rất thương tâm cho gia đình và họ hàng Nguyễn Trãi.

Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh (1441-1496) còn được gọi là Trạng Lường vì giỏi đo lường, là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, rất giỏi tính toán. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495.

Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi.

Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả.

Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách.

Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: “Nước Nam quả có lắm người tài!”

Lương Thế Vinh đáp lại rằng người nghĩ ra cách cân voi thật sự là Tào Xung, con của Tào Tháo. Điều này càng khiến cho sứ giả hổ thẹn vì chưa thuộc sử nước nhà.

Mối tình đầu

Tương truyền từ khi còn nhỏ, Lương Thế Vinh đã thích ngồi nghe cha mình thổi sáo, kéo nhị, rồi xin học theo cho bằng được. Với những buổi biểu diễn chèo, quanh vùng mỗi khi có tiếng trống chèo nổi lên là y như rằng Lương Thế Vinh có mặt, xem một cách say mê, thích thú. Từ một buổi diễn chèo, mối tình đầu nảy nở trong trái tim con người mang trong mình chất lãng tử, mê ca hát với cuộc sống phóng khoáng nơi thôn dã.

Lần ấy nghe tiếng trống chèo giục giã, Lương Thế Vinh thấy rộn ràng trong người, liền cùng bạn bè rủ nhau đi xem khi biết có một đoàn chèo đến diễn ở làng Si (nay thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Vụ Bản, Nam Định). Khi dân chúng trong vùng đã tập trung đông nghịt, buổi diễn sắp bắt đầu thì bỗng nhiên người kéo nhị không may bị cảm đột ngột, chưa có ai thay thế, tiếng xì xào bàn tán lao xao: Không có tiếng nhị thì làm sao mà diễn chèo được?

hat cheoThế rồi, như số phận bày đặt, đúng lúc ấy Lương Thế Vinh đến, biết chuyện liền lách qua đám đông, xin tình nguyện chơi đàn nhị thay cho nhạc công bị cảm. Không ít người xem hát hôm đó nhìn chàng trai với vẻ không tin tưởng, nhưng cũng có người biết tài của Lương Thế Vinh liền lên tiếng ủng hộ. Người trùm trưởng của phường chèo không rõ sự tình ra sao nhưng rồi không còn cách nào khác, đành mời vào kéo đàn nhị giúp.

Buổi diễn bắt đầu, người xem nhanh chóng bị chinh phục bởi tiếng đàn nhị thành thạo và điêu luyện, đây đó có tiếng khen tấm tắc vang lên. Trên chiếu chèo, tiếng nhị dường như cũng khiến các diễn viên thể hiện hay hơn, đặc biệt là cô đào nhất diễn càng xuất sắc với giọng ca mượt mà, đằm thắm.

Từ bất ngờ cho đến cảm phục, cô đào hát mà cũng là gửi gắm tình cảm cá nhân của mình:

Biển tình mênh mông, biển tình dâu bể
Sẽ nâng niu ai vững lái chống chèo?

Và rồi cô hát điệu chức cẩm hồi văn, đôi mắt hướng ánh nhìn thắm thiết xao xuyến lạ lùng về chàng nhạc công đang say sưa kéo nhị:

Thiếp xin chàng đèn sách văn chương
Dầu hao thiếp rót, bấc non thiếp ngắt, ngọn đèn tàn thiếp khâu…

Sau khi buổi diễn kết thúc, cô đào chủ động đến ngỏ lời cảm ơn Lương Thế Vinh. Tuy mới gặp mà dường như đã biết nhau từ lâu, hai người trò chuyện vui vẻ, quyến luyến. Bởi vậy mà ông có được một lần trong đời trò chuyện kề cận bên nàng.

Biết Lương Thế Vinh sắp đi thi, dẫu rất có cảm tình với chàng nhưng cô đào không dám thổ lộ vì mình là phận gái, ai lại làm chuyện “cọc tìm trâu”, cũng vì tình cảm sợ ảnh hưởng đến bước đường công danh của chàng. Hơn nữa quan niệm Nho giáo khắt khe, những kẻ như mình là phận “xướng ca vô loài” hèn kém, sao sánh được mà đòi với cao tới người tài đó mà tương lai chắc chắn sẽ hiển đạt khi gặp hội rồng mây.

Còn Lương Thế Vinh cũng mê mệt tiếng hát và nét duyên đằm thắm của cô đào, chàng đắm đuối nhìn như muốn ngỏ lời hẹn hò, nhưng cô đào chỉ động viên chuyện học hành, thi cử, không cho biết tên tuổi lẫn quê quán của mình.

Hôm sau phường chèo đi diễn ở nơi khác. Lương Thế Vinh muốn đi tìm cô đào mà ông luôn nhớ nhưng không cách gì tìm được.

Thời gian thấm thoát trôi qua, Lương Thế Vinh đỗ Giải nguyên trong kỳ thi Hương, rồi vượt qua kỳ thi Hội, vào thi Đình đoạt học vị Trạng nguyên. Khi về vinh quy bái tổ, ông lấy con gái thầy học của mình khi cha mẹ hối thúc mau chóng yên bề gia thất, muốn tiểu đăng khoa cùng với đại đăng khoa, “song hỉ lâm môn”.

Truyền rằng để đón mừng quan Trạng, các quan lại và chức dịch địa phương cùng dân làng mở hội để khao vọng, có mời gánh chèo đến hát góp vui. Đinh mệnh thật trớ trêu, trong gánh chèo đó có cô đào năm xưa! Biết chuyện chàng trai kéo nhị ngày trước nay đã đỗ Trạng nguyên, lại vừa có vợ, cô đào thấy buồn tê tái, đêm đó cô đem tất cả tâm sự của mình gửi vào lời ca, cô hát hay đến mức rất nhiều người xúc động đến rơi nước mắt. Cũng trong đêm đó, tủi cho số phận hẩm hiu, cô đào để lại một bài thơ tuyệt mệnh rồi tự tử!

Hay tin dữ, Trạng nguyên Lương Thế Vinh vô cùng đau đớn xót thương, tự làm bài văn tế thống thiết bi ai. Sau đó ông cho lập miếu thờ cô đào tại giáp Nhất của làng Cao Hương, dân làng gọi đó là miếu Ả đào và thôn có ngôi miếu thì gọi là Đào thôn hoặc xóm Đầu.

Sau khi Lương Thế Vinh qua đời, nhớ công đức của ông, dân làng lập đền thờ tôn ông làm phúc thần. Thế là Cao Hương trước có miếu Ả đào, nay có thêm đền thờ quan Trạng. Số phận không cho hai con người tài hoa đến được với nhau, nhưng hẳn ở nơi suối vàng, chốn u linh huyền ảo họ sẽ ở bên nhau.

Khước từ lương duyên

Ngoài mối tình buồn với cô đào nương, Lương Thế Vinh còn có một mối tình nữa, nhưng quan hệ giữa hai người vẫn không thể kết thành đôi bởi chính ông chủ động khước từ chuyện lương duyên này.

Tương truyền sau khi đỗ thi Hương, Lương Thế Vinh về kinh đô Thăng Long ôn luyện thêm kinh sách, chờ ngày vào thi Hội. Nhiều cử nhân Nho học cũng tập trung rất đông. Trong số những nho sinh, văn sĩ mới quen biết, có một người nhà ở Hàng Đào rất khâm phục danh tiếng của chàng thanh niên từng được mệnh danh là thần đồng làng Hương, anh tài đất Sơn Nam, nên một mực mời về nhà mình.

Nhà người bạn mới này khá giả, anh ta có một người em gái tên là Thị Liệu nhan sắc xinh đẹp, được học hành chu đáo, biết làm thơ vẽ tranh nên có ý muốn gán ghép cho bạn. Qua đôi lần đi lại, gia đình cô gái rất ưng ý nhắm làm con rể, Thị Liệu tỏ ý yêu thương thuận lòng, còn Lương Thế Vinh cũng có cảm tình với người đẹp.

leuchong2Trước khi vào thi Hội, Lương Thế Vinh đến từ biệt Thị Liệu để về quê lấy thêm tiền, gạo và cũng để thưa chuyện với cha mẹ tính chuyện mai mối đám này.

Khi chia tay, cô gái không nói lời khích lệ mà đưa cho chàng một bài thơ không đề, viết bằng chữ Hán, dịch Nôm như sau:

Tay cầm búa sắc vượt rừng sâu
Một gã tiều phu chẳng đợi lâu
Lưng giắt ngang đao thong thả bước
Cửa vuông, trong cửa đón yêu nhau.

Đọc xong bài thơ, Lương Thế Vinh rất buồn, chàng hiểu ngay ý nghĩ của cô gái. Nàng kiêu kỳ, hóa ra tình cảm có động cơ khác, chỉ say mê mình vì danh vọng, cô muốn nếu thi đỗ thì mới có chuyện tình duyên, chứ không thì đừng nghĩ đến nữa… Tình yêu toan tính đó thật khó mà bền lâu được.

Suy nghĩ chốc lát, Lương Thế Vinh viết một bài thơ tứ tuyệt họa lại gửi nàng, dịch Nôm như sau:

Cần chi vất vả tới rừng sâu
Thử hỏi ngày xuân được bấy lâu?
Giữa hội chẳng cần đao dẫu quý
Kinh kỳ nào thiếu kẻ yêu nhau.

Qua bài thơ của mình, Lương Thế Vinh nêu rõ quan điểm: hôn nhân và tình yêu phải từ tình cảm chân thành, nếu yêu vì danh vì lợi thì không thể có hạnh phúc.

Thế là từ đó, Lương Thế Vinh không bao giờ qua lại nhà cô gái đó nữa và rồi quên hẳn mối duyên tình này để lo cho chuyện thi cử, chuyện quan trường và gia đình.

Vũ Kiệt

Vũ Kiệt (1452 – ?), người xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Yên thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Trạng nguyên năm 1472.

Sau khi làm quan một thời gian, vì buồn chán Vũ Kiệt treo ấn từ quan, về quê xuất gia tu hành tại chùa Kênh (nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Ý định xuất gia đầu Phật, xa lánh việc thị phi ở chốn quan trường cùng những ganh đua danh lợi của người đời tưởng chừng đã đạt được, thế nhưng, thực tế trong tâm trí của Vũ Kiệt vẫn không dứt hẳn được những trăn trở, mong muốn cống hiến cho dân, cho nước của mình.

Ở làng Mèn (nay là làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) có một cô gái xinh đẹp, giỏi giang, biết được tâm sự ấy nên tìm cách tiếp cận nhà sư Vũ Kiệt. Một hôm nhân lúc vắng vẻ, cô gái đọc vế đối thăm dò:

Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại

Biết ý cô gái khuyên mình đừng xa lánh cuộc đời, nhưng Vũ Kiệt từ chối, tỏ vẻ không còn tha thiết với cuộc đời trần tục:

Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già.

monkMặc dù bị khước từ, cô gái vẫn không chịu bỏ cuộc. Vào một ngày rằm, cô mang lễ lên chùa cúng Phật, nhìn nhà sư rồi đọc mấy vần thơ:

Tội gì ở chốn dưa rau
Về nhà trên trướng dưới lầu thảnh thơi
Đêm nằm có thiếp sánh đôi
Chồng loan, vợ phượng hơn đời Hán gia

Tu hành chi đến cõi già
Đường sang Tây Trúc biết là có không?

Đời có câu “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”. Trước tình cảm của cô gái làng Mèn, trái tim của Vũ Kiệt rung động. Sau đó ông từ giã đường tu, tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước và làm lễ hỏi cưới cô gái kia, sống đời hạnh phúc bên người vợ yêu của mình:

Nghe lời nàng nói vừa lòng
Trời xuân thắt chặt chữ đồng cả hai
Đẹp đôi gái sắc, trai tài
Gương soi in bóng, phấn trời điểm trang

Xuân hè khéo nở một hàng
Gái trai đầy đủ rộn ràng đình vi.

Sau khi hoàn tục, Vũ Kiệt làm quan trải nhiều chức vụ, dần dần được thăng tới chức Hàn lâm viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư.

Thơ huyền bí của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tức Trạng Trình người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng), được gán với nhiều lời tiên tri huyền bí (sấm Trạng Trình) linh nghiệm. Một đôi câu thơ của ông cũng mang tính huyền bí tương tự.

Tương truyền lúc sắp mất, Trạng Trình giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Tống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình, nhưng tuyệt đối không ai được mở xem, trừ quan Tổng đốc. Cái ống tre ấy truyền đến người cháu 7 đời cụ, mới rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả.

Khi quan mở ống, thấy một cuộn giấy, ngài rút ra xem thấy có hai câu thơ (dịch Nôm):

Tao cứu mày khỏi ách xà rơi
Mày cứu tao cháu bảy đời khó

Đang lúc bận việc, quan Tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược gọi quan bằng mày thì cả giận, sẵn cầm chiếc quạt định đánh người cháu của Trạng Trình. Nhưng vừa bước ra khỏi sập, chiếc xà nhà từ ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ngài vừa mới bước ra, nên không sao. Quan Tổng đốc lúc đó mới giật mình, hiểu rõ Cụ Trạng đã cứu cho mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử.

Quan ân cần xin lỗi người cháu Cụ, mời về tư thất thết đãi cơm rượu, rồi đưa một số tiền ra giúp, để cứu vãn cho gia đình con cháu Cụ khi đó đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.

Phạm Trấn – Đỗ Uông

Chuyện kể rằng Phạm Trấn và Đỗ Uông là bạn đồng môn, sức học một chín một mười, hoặc Uông cho là mình hơn một chút.

Phạm Trấn (1523 – ?), người xã Lâm Kiều, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Lam Cầu, xã Phạm Trấn, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), đỗ thủ khoa tức Trạng nguyên năm 1556.

Đỗ Uông, người làng Đoàn Lâm (nay thuộc xã Thanh Tùng, Thanh Miện), đỗ hạng nhì tức Bãng nhãn cùng năm 1556 với Phạm Trấn.

Trấn, sức học vốn kém Uông nhưng lại đỗ trên, nên hí hửng lắm, bảo: “Giờ ta mới đè được thằng Uông đây!”

Uông nghe nói tức lắm.

vinh quy bai to AĐến ngày vinh quy, triều đình thết đãi linh đình rồi cấp cho mỗi người một con ngựa, cùng quan quân tùy tùng trống giong cờ mở dẫn hai quan tân khoa cùng về vinh quy bái tổ. Trên đường về, Đỗ Uông cho ngựa của mình đi ngang ngựa Phạm Trấn, tỏ ý không phục, thay vì theo phép phải nhường cho thủ khoa đi trước.

Ðến làng Hoạch Trạch, dân chúng kéo nhau ra xem và xin thơ để đề vào chiếc cầu ở đầu làng. Ðó là chiếc cầu ngói hơn mười gian. Bảng, Trạng liền thách nhau qua bảy gian phải vịnh xong bài thơ; ai xong trước đi trước, không được tranh nhau.

Lần ấy Trấn thắng, ai cũng chịu tài, chỉ Uông không phục, cho là thơ đã làm sẵn từ bao giờ.

Rồi, lại dóng ngựa đi ngang hàng. Ðến làng Minh Luận, có người mới làm xong nhà, ra đón đường xin một bài thơ mừng nhà mới. Trấn đọc luôn:

Năm năm thêm phú quý
Ngày ngày hưởng vinh hoa
Xưa có câu như thế
Nay mừng mới làm nhà.

Lần này, Uông đã có vẻ hơi chịu tài nhanh nhẹn của Trấn.

Ðến cầu làng Ðoàn Lâm, tục gọi là Cầu Cốc, trong cầu có cô bán hàng là cô Loan xinh đẹp; hai người lại thách nhau làm bài thơ Nôm lấy đề là Cô Loan bán hàng cầu Cốc. Hạn mỗi câu phải có hai giống chim, qua cầu phải xong, ai xong trước đi trước, nhất thiết không được tranh nhau nữa.

Trấn ngồi trên lưng  ngựa, đọc ngay rằng:

Quai vạc đôi bên cánh phượng phong
Dở giang bán chác lựa đồ công
Xanh le mở khép nem hồng mới
Bạc ác phô phang rượu vịt nồng.

Bảng bấy giờ mới thực sự chịu phục Trạng là nhanh trí và nhường cho Trạng đi trước, không tranh giành gì nữa.

Về sau khi đã làm quan trong triều, có lần hai người ngồi uống rượu với nhau, cùng làm thơ bình về các loại rượu hoàng, rượu hỏa.

Đỗ Uông đọc:

       Hữu hoàng dụng hoàng, vô hoàng dụng hỏa
       Sử dụng hàm nghi, vô thi bất khả

Dịch:

Có hoàng dùng hoàng, không hoàng dùng hỏa
Thứ gì cũng xong, thơ thì phải có

Phạm Trấn đọc thành đôi câu đối:

       Hữu hoàng tắc ẩm, hỏa tửu tắc nguyệt
       Hữu vi thử ngôn, thiên địa nhật nguyệt

Dịch:

Có hoàng thì uống, rượu hỏa thì lại thôi
Nếu trái lời ấy, trời đất nhật nguyệt soi

Qua đó thấy ý hướng của hai người khác nhau, thơ thể hiện tính cách của con người: Đỗ Uông tính dễ thay đổi, dùng rượu nào cũng được; còn Phạm Trấn chỉ dùng một loại rượu, tỏ ý kiên định, nếu trái lời thì xin trời đất nhật nguyệt soi xét.

Quả nhiên, sau khi nhà Lê giành triều nghiệp từ nhà Mạc, trong lúc nhiễu nhương Đỗ Uông chấp thuận ra làm quan với nhà Lê.

Còn Phạm Trấn vẫn một lòng với nhà Mạc, sau đó ông cáo quan về ở ẩn, tuân theo nghĩa trung thần bất sự nhị quân (tôi trung không thờ hai vua).

Phùng Khắc Khoan

Phùng Khắc Khoan (1528-1613) quê ở làng Phùng Xá, tục gọi làng Bùng, huyện Thạch Thất (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân) năm Quang Hưng 3 (1580) đời Lê Thế Tông, nhưng nhân dân vẫn quen gọi ông là Trạng Bùng theo lối tôn xưng của dân gian.

Tuy Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn ông đến 38 tuổi, nhưng tương truyền, hai ông là anh em cùng mẹ khác cha.

Trạng Bùng là người thông minh, có tài ứng đối nhanh nhạy, sắc bén, đã để lại khá nhiều giai thoại thú vị, nhất là trong khi đi sứ nhà Minh.

Làm thơ nhanh trong một vụ kiện

Bấy giờ Phùng Khắc Khoan khoảng 22 tuổi, nhà Mạc tuy đã nắm quyền bính trong tay, nhưng ông vẫn một lòng thần phục nhà Lê. Nghe tin con cháu nhà Lê trốn sang Lào, ông lặn lội theo tìm tới tận vùng Sầm Nưa. Dọc đường hết lương, ông phải đóng vai một thầy tướng số và địa lý để kiếm ăn.

Một lần đến vùng nọ, ông mở lớp định gọi trẻ đến học, nhưng trong làng đã có một ông đồ dạy ở đây từ lâu. Nhiều bận, ông lắng nghe ông đồ láng giềng giảng sách thì thấy ông ta giảng nghĩa lung tung, sai sót rất nhiều. Thế mà người ta cứ cho con đến học rất đông, mới là lạ.

thay giao CPhùng Khắc Khoan bèn mua mật về nấu thành kẹo hình con chim con thú, hễ đứa nào đến học, ông đều thưởng kẹo. Ông lại dán ở chỗ học một bài thơ châm biếm có nghĩa:

Đô đô bình trượng ngã
Học trò đến chật nhà
Úc úc hồ văn tai
Học trò chẳng thấy ai.

Mấy câu thơ chế giễu rất sâu cay. Chữ Hán có một số chữ mà mặt chữ nhìn qua tương tự nhau, người học không đến nơi đến chốn thường đọc lầm. Bởi thế tục ngữ mới có câu “Chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ đánh chữ quá”.

Sách Luận ngữ có câu: 郁郁乎文哉 Úc úc hồ văn tai, nghĩa là văn vẻ rực rỡ thay.

Năm chữ trên hơi giống mấy chữ: 都都平丈我 Đô đô bình trượng ngã, vốn không có nghĩa gì cả.

han_uc uc

Phùng Khắc Khoan có dụng ý chế giễu rằng: Thầy dốt đọc sách sai mặt chữ thì học trò đến học rất nhiều; còn ông đọc đúng thì chẳng thấy đứa học trò nào đến.

Bọn học trò nhỏ được thưởng kẹo lại được học với ông thầy giảng hay nên dần dần bỏ thầy đồ cũ, kéo đến học với thầy mới Phùng Khắc Khoan.

Thầy đồ cũ tức lắm, làm đơn kiện lên quan huyện. Quan cho đòi cả hai người đến, bắt làm thơ để thử tài. Quan chỉ vào cái vỏ trai to dùng làm nghiên mực, bảo hai thầy đồ làm thơ vịnh. Đầu đề bài thơ là: Con Trai (chữ Hán là Bạng), và cho làm thơ Nôm hay thơ Hán tùy ý.

Phùng Khắc Khoan viết ngay một bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán, và tương truyền, dân gian có bài dịch ra thơ lục bát như sau:

Trên sông nổi một vật gì
Không ốc không hến ắt thì là trai
Hạt châu ngậm áo giáp ngoài
Miệng phun sóng dữ nào ai sánh bì

Quản gì mưa gió thị uy
Hướng đông lòng vẫn kiên trì hôm mai
Bốn phương nổi tiếng anh tài
Cò kia cô thế chỉ hoài đứng trông.

Còn thầy đồ già nghĩ mãi mới viết được bốn câu thơ chữ Nôm như sau:

Hùm hụp vừa bằng bàn tay doạng
Hỏi nó cái chi? Ấy cái bạng
Vỏ làm nghiên chép sử chép kinh
Ruột nấu cháo bổ tâm bổ tạng.

Phùng Khắc Khoan nghĩ bụng thế nào mình cũng thắng cuộc. Nào ngờ quan huyện xem xong hai bài thơ, lại nhìn Phùng Khắc Khoan mà phán:
– Cụ đồ học đã bạc đầu mới có thể làm thầy, còn anh đang trẻ giành sao được địa vị của bậc già cả được!

Rồi quan xử cho bọn học trò nhỏ về học với cụ đồ.

Nghe xử xong, Phùng Khắc Khoan im lặng lần bậc thềm bước xuống sân.

Quan huyện ngăn ông lại, nói:

– Xin ông hãy vào thư phòng, tôi có câu chuyện muốn nói.

Rồi quan huyện bảo cụ đồ về, mời Phùng Khắc Khoan vào trong. Rượu được vài chén, quan huyện nhìn Khắc Khoan nói nhỏ:

– Tiên sinh có biết loài sư tử không? Nó vồ được cả con hùm con beo, nhưng khi vồ con thỏ mà cũng dốc sức thì nó dại. Tiên sinh có hoài bão lớn lao thì nên nghĩ đến việc lớn hơn, há cần giành giật bọn trẻ con với ông già tầm thường như vậy làm gì!

Rượu tàn, quan huyện biếu ông mười lạng bạc và nói:

– Tôi mạo muội lấy chút tiền này thay lễ tết của học trò, mong giúp tiên sinh chút ít.

Phùng Khắc Khoan rưng rưng cảm động. Ông biết trên đời còn nhiều tài giỏi và có tình. Ông tỉnh ngộ và sắp xếp hành trang, tìm đường vào Thanh Hóa giúp nhà Lê.

Người quan huyện về sau cũng có công lớn trong buổi đầu dựng lại cơ nghiệp nhà Lê.

Phùng Khắc Khoan và Liễu Hạnh công chúa

Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung Hoa về đến Lạng Sơn, ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân một ngôi chùa, vừa đàn vừa hát. Ông bèn lên tiếng ghẹo:

Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử.

Nghĩa:

Ba cây che sân, cô gái đẹp ngồi đó.

Câu chơi chữ lắt léo: Tam mộc 三木 là ba chữ mộc, mà ba chữ mộc ghép lại thành chữ sâm  森 . Chữ hảo 好 là do chữ nữ 女 và chữ tử 子 ghép thành.

Han_tam moc

Người con gái nghe vậy, đối ngay:

Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.

Nghĩa:

Núi non mở đường, sứ giả quan đi đến.

Câu này chơi chữ ở chỗ: Trùng sơn là hai chữ sơn 山, hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất  出. Chữ sứ 使 là do chữ lại 吏 và chữ nhân 亻ghép thành.

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc vì sự đối đáp thông minh, mau lẹ của cô gái. Ông bèn nói tiếp:

Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ tâm phàm.

Nghĩa:

Sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng tiên nữ giáng trần?

Câu lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên  仙. Chữ bàng 㥬 có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

han_son nhan

Cô gái không cần nghĩ ngợi, đáp ngay:

Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng.

Nghĩa:

Nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng.

Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 . Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳 .

Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã lẩn mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ:

Mão khẩu công chúa

kế bên đó, treo tấm biển cũng có bốn chữ:

Băng mã dĩ tẩu.

Những người đi cùng đoàn chẳng ai hiểu nghĩa hai câu đó như thế nào, hỏi Phùng Khắc Khoan.

Ông từ tốn đáp:

Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh  杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh Công chúa.

Còn bộ băng đi với chữ mã 馬 , chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起 . Có lẽ Liễu Hạnh Công chúa dặn họ Phùng ta phải khởi công sửa lại ngôi chùa này.

Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang. Trước chùa ông treo tấm hoành phi có bảy chữ:

Tùng lâm tịch mịch phất nhân gia.

Mấy chữ này có nghĩa: Rừng thông vắng vẻ, không phải nhà người thường. Nhưng xem kỹ, câu này cũng chơi chữ tinh vi: chữ phất 弗 đi với chữ nhân 亻là chữ phật 佛. Phất nhân gia, tức Phật gia, nghĩa là nhà Phật vậy. Có lẽ ông muốn ghi lại một kỷ niệm đẹp đẽ trong lúc gặp gỡ lần đầu với Liễu Hạnh công chúa.

Ghi chú: Liễu Hạnh công chúa là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, hoặc ở nhiều nơi thuộc Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, ba lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật.

Bà còn được cho là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.

Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572-1634) sinh tại tỉnh Thanh Hóa, là nhà quân sự, nhà thơ và nhà văn hóa, danh thần thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông rất thông minh nhưng không đươc dự thi vì cha ông làm nghề ca hát, bị khinh rẻ vì “xướng ca vô loài”. Ông giận chúa Trịnh đối xử bất công cho nên ông bỏ vào Nam dưới sự cai trị của chúa Nguyễn. Ông chỉ làm quan với Chúa Nguyễn có tám năm, nhưng trong tám năm đó, ông xây dựng cho họ Nguyễn một cơ sở xã hội vững chắc và một quân đội hùng mạnh. Vì vậy ông được coi là đệ nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.

Thân phụ của Đào Duy Từ là Đào Tá Hán. Khi còn là học trò nghèo, gặp lúc Lê Mạc đánh nhau, Tá Hán đầu quân theo giúp vua Lê. Nhân lúc Trịnh Kiểm thống lĩnh quan quân vừa chiếm được Thanh Nghệ làm căn cứ vững chắc cho nhà Lê, Tá Hán cao hứng làm bài ca kể công họ Trịnh, bắt đầu bằng hai câu sau:

Trang quốc sĩ ai bằng Trịnh Kiểm
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu.

Viên Xuất đội đem bài ca ấy tố cáo Tá Hán đem tên húy của quận công đại tướng ra hò hát. Tá Hán lo sợ vô cùng. Quan Trung quân nhận được giấy tố cáo, đòi Tá Hán vào hầu, thấy diện mạo khôi ngô, lại còn ít tuổi, nghĩ thương tình mới cho sửa lại hai câu đầu:

Trang quốc sĩ ai bằng họ Trịnh
Tỏ thần uy bình định  hai châu.

Dù vậy, Tá Hán vẫn bị phạt 20 roi và đuổi không cho làm lính. Không có kế sinh nhai, Tá Hán phải đi theo một gánh hát, sau mấy năm trở thành nghệ nhân hát chèo nổi tiếng.

Duy Từ gặp Nguyễn Hoàng

Đào Duy Từ rất thông minh, học giỏi, lại có tài thao lược, nhưng khi nạp đơn đi thi với nhà Lê thì bị phát giác là con nhà hát xướng nên bị đuổi khỏi trường thi, đau buồn thành bệnh nặng, nằm mê mệt ở nhà trọ, không về làng được.

Đoan quận công Nguyễn Hoàng bấy giờ đang trấn thủ Thuận Hóa, được vua Lê Thế Tông triệu về Đông Đô bàn việc nước. Nhân dịp, Nguyễn Hoàng đến thăm quan Thái phó Nguyễn Hữu Liêu. Ông này kể trường hợp của Duy Từ và lấy bài vở của Duy Từ ra cho Nguyễn Hoàng xem (Nguyễn Hữu Liêu là chủ khảo kỳ thi đó). Đọc bài của Duy Từ, Nguyễn Hoàng biết đây là nhân tài kinh bang tế thế. Nguyễn Hoàng vốn có chí hùng cứ một phương, liền đến tận nhà trọ giúp đỡ tiền bạc cho Duy Từ uống thuốc và có ý định mời vào Nam giúp mình.

Một hôm Duy Từ vừa khỏi bệnh, Nguyễn Hoàng đến chơi, nhân thấy trên vách có treo bức tranh “Tam cố thảo lư” – là tích ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi ba lần đến nhà tranh của Gia Cát Lượng –  Nguyễn Hoàng và Duy Từ vịnh một bài thơ liên ngâm để bày tỏ chí hướng của mỗi người.

tam co thao lu
Tam cố thảo lư

Nguyễn Hoàng đọc:

Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công

Duy Từ tiếp thơ:

Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng

Nguyễn Hoàng tiếp:

Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở (A)
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông (B)

Duy Từ kết:

Ví chăng không có lời Nguyên Trực (C)
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long. (D)

(A) Ba xứ sở chỉ thời Tam quốc và cũng có ý nói tam đầu chế: vua Lê, chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
(B) Một dòng sông chỉ Sông Gianh phân chia Trịnh-Nguyễn.
(C) Nguyên Trực tức Từ Thứ, vì theo mẹ mà phải về Tào tuy lòng còn ở Hán, khi từ giã Lưu Bị để lại lời tiến cử.
(D) Ngọa Long (rồng nằm) tức Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, được Nguyên Trực tiến cử, nên ba anh em Lưu đến tìm như thể hiện trong bức tranh nêu trên.

Nguyễn Hoàng và Duy Từ rất hiểu ý nhau. Nhưng Nguyễn Hoàng không dám đón Duy Từ ngay vì sợ lộ cơ mưu. Ông nói với Duy Từ: “ Lão phu về trước, xin đắp sẵn đàn bái tướng chờ đợi tiên sinh. Năm nay lão phu hơn 70 tuổi, nếu có thất lộc cũng xin di ngôn cho con cháu phải đón tiên sinh về dạy bảo”.

Thế nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và Duy Từ phải đi ở chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu (như kể dưới đây), để chờ thời đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội.

Kẻ chăn trâu kỳ dị

Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ. Tuy đã đứng tuổi, nhưng Duy Từ tỏ ra rất cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ  vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.

Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn uống trà hút thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương,  vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải…

Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:
– Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho?

Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:
– Nho cũng có hạng nho quân tử, hạng nho tiểu nhân. Chăn trâu cũng có kẻ chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu tôi tớ, cao thấp không giống nhau, hiền ngu không là một! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng đuổi?

Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lý như vậy, liền vặn hỏi:
– Vậy nhà người bảo ai là nho quân tử, ai là nho tiểu nhân hả?

Đào Duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:

– Nho quân tử thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lý, giữa hiểu việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn; ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn nho tiểu nhân thì chỉ là bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt, may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !

muc dongĐám khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa chăn trâu mà lýlẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:
– Còn chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu tôi tớ thì nghĩa làm sao, nhà ngươi thử nói nghe luôn thể.

Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:

– Chăn trâu anh hùng thì như Ninh Thích(A) phục hưng nước Tề, Điền Đan(B) thu lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do(C) cho trâu uống nước ở khe mà biết được hưng vong trị loạn, Bách Lý Hề(D) chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy. Đó là những bậc chăn trâu anh hùng. Còn những bọn chỉ biết cam phận tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng chịu điều oan. Đấy là hạng chăn trâu tiểu nhân cả!

Mọi người nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lý sâu sắc, càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời Duy Từ cùng vào nhà ngồi.

Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.

Gã phú hộ Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao

Các vị Nho học nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !

Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:

– Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết, để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ? Quả lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm! Có tội lắm!

Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng.

Chú thích:

(A) Ninh Thích: Tướng quốc nước Tề là Quản Trọng gặp một người chăn trâu, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách ngồi trên lưng trâu, gõ sừng ca hát. Quản Trọng thử thách trình độ học thức. Ninh Thích ứng đáp rất rành mạch. Quản Trọng tiến cử Ninh Thích cho Tề Hoàn công. Ninh Thích được phong Đại phu, cùng với Quản Trọng coi việc quốc chánh.

(B) Ðiền Ðan: Người thời Chiến Quốc, có tài sử dụng trâu vào chiến trận. Có lần Ðiền Ðan cho cắm dao nhọn vào đầu trâu rồi buộc giẻ tẩm dầu vào đuôi trâu mà đốt, đàn trâu bị đốt nóng điên cuồng xông vào trận địa giặc.

(C) Hứa Do: Ẩn sĩ danh tiếng sống vào thời Đường Nghiêu. Vua Nghiêu nghe tiếng người giỏi bèn đến tìm, cố thuyết phục để nhường ngôi cho. Hứa Do từ chối, rồi ra bờ suối rửa tai coi như mình chưa từng nghe thấy gì cả. Bấy giờ, Sào Phủ cũng là ẩn sĩ trứ danh đang dắt trâu xuống uống nước. Sào Phủ nghe chuyện của Hứa Do liền dắt trâu đi chỗ khác vì không muốn cho trâu uống phải thứ nước đã hoen ố.

(D) Bách Lý Hề: Người nước Ngu, rất nghèo khổ, không người tiến cử nên không thể thi thố tài năng, đành phải tới ở chăn dê, bò cho một nhà để chờ cơ hội, nhưng rồi bị nước Sở bắt. Có người biết Bách Lý Hề là nhân tài, tiến cử ông với Tần Mục Công. Ông này dùng 5 tấm da dê để xin chuộc Bách Lý Hề, mà không dùng hậu lễ vì e nước Sở biết Bách Lý Hề là nhân tài mà giữ lại. Tần phong Bách Lý Hề làm Hữu tướng (tương đương thừa tướng thứ nhất), lúc ông này đã 70 tuổi.

Chùm thơ ba bài

Một chùm thơ này gồm ba bài đã có trong dân gian từ lâu; nhiều người tưởng rằng đó là ca dao thuần túy nên không biết ai là tác giả, nhưng có nguồn gắn với Đào Duy Từ.

Truyện kể rằng năm Đinh Mão (1627), chúa Trịnh ở Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương (chúa Nguyễn Phúc Nguyên) và đòi Sãi Vương phải cho con ra Bắc chầu, đồng thời phải giao cống nộp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hội họp triều thần hỏi mưu kế. Đào Duy Từ khuyên Chúa Sãi bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.

Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, Đào Duy Từ bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử Lại Văn Khuông làm sứ giả mang ra Thăng Long (Hà Nội ngày nay), nói là muốn tạ ơn vua Lê và chúa Trịnh.

Nhờ có chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Văn Khuông ứng đối rất trôi chảy. Chúa Trịnh hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn sứ giả đi thăm kinh thành, để chờ Chúa dạy bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang của Đào Duy Từ trao cho từ trước. Đọc xong, Khuông cùng cả phái đoàn lẻn trốn về Nam.

Thấy phái đoàn sứ giả đột ngột trốn về, chúa Trịnh sinh nghi, bèn cho người đập vỡ mâm lễ, lại thấy tờ sắc phong khi trước, và một tờ giấy viết bốn câu thơ chữ Hán sau:

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.

Triều thần không ai hiểu ý nghĩa bài thơ, cuối cùng Trịnh Tráng phải cho mời một nhà nho thông thái uyên bác tới giải nghĩa. Đọc xong, nhà nho giải thích như sau.

Mâu nhi vô dịch: chữ Mâu 矛 không có nét phẩy ở bên nách là chữ Dư 予
Mịch phi kiến tích: chữ Mịch 覔 bỏ chữ Kiến 見 thì còn lại là chữ Bất 不
Ái lạc tâm trường: chữ Ái rơi mất chữ Tâm 心 ở trong ruột thì thành chữ Thụ 受
Lực lai tương địch: chữ Lực 力 đứng ngang với chữ Lai 來 là chữ Sắc 勑

han_mau-du

Vậy, gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: “Dư bất thụ sắc,” nghĩa là “Ta không nhận sắc mệnh.” Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình nên làm ra 4 câu thơ đó. Người soạn ra bài thơ phải là bậc hào kiệt của phương nam.

Nghe xong, Trịnh Tráng vội thét lính đuổi bắt Lại Văn Khuông, nhưng lúc đó Khuông cùng cả phái đoàn đã cao bay xa chạy rồi.

Trịnh Tráng muốn ra quân đánh chúa Nguyễn nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc giã nổi lên, đành phải hoãn lại.

Trịnh Tráng cho người dò la biết được việc Sãi Vương không nhận sắc phong đều do một tay Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa Trịnh tính cách làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn (Đàng Trong) về với triều đình vua Lê và chúa Trịnh (Đàng Ngoài). Ông sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng với bốn câu thơ:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!

Lời thơ nói đến chuyện anh (chúa Trịnh) và em (Đào Duy Từ) thuở nhỏ, trèo cây hái hoa bưởi, bước xuống vườn cà hái nụ hoa tầm xuân. Bây giờ tiếc cho người con gái đã có chồng giống như Đào Duy Từ đã theo Chúa Nguyễn. là lời nhắn nghĩa tình, nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếu trở về sẽ được triều đình trọng dụng, còn nếu không thì ngầm ý đe dọa.

Người ta đồn rằng Đào Duy Từ đã xây mộ cho cha mẹ tại Bình Định để tránh bị Đàng Ngoài khống chế theo cách làm của Gia Cát Lượng đón mẹ Khương Duy vào Hán Trung thuở xưa. Vì thế Đào Duy Từ không sợ hãi chúa Trịnh trả thù. Ông trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra!

Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hy vọng, bèn cho người đem lễ vật nhiều hơn, và mang theo lá thư của chúa Trịnh vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.

Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:

Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!

Dụ dỗ, mua chuộc mãi mà không được, Trịnh Tráng tức lắm; từ chỗ mến phục chuyển sang căm ghét Duy Từ. Chúa tôi  họ Trịnh đặt ra những bài hát như sau để đả kích ông:

Có ai về tới Đàng Trong
Nhắn nhe bố đỏ(A) liệu trông đường về
Mải tham lợi, bỏ quê quán tổ
Đất nước người dù có cũng không …

(A) Bố đỏ: có ý ám chỉ rằng Duy Từ họ Đào.

Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước cho đến lúc qua đời.

Đánh giá Đào Duy Từ, trên báo Tiếng Dân, số 3-1930, Huỳnh Thúc Kháng viết:

Bể dâu thay đổi mấy triều cương
Lũy cũ xanh xanh một giải trường
Rêu đá lờ mờ kinh Hổ trướng
Gió lau leo lắt phú Long Cương

Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng?
Con cháu còn đây, giống vẫn cường
Công đức miệng người ghi tạc mãi
Ngàn thu mấy kẻ biết trông gương!

Nguyễn Quốc Trinh

Nguyễn Quốc Trinh (1624-1674), người xã Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Có tài liệu ghi ông tên là Nguyễn Quốc Khôi (toàn bộ quyển XIX trong Đại Việt Sử ký toàn thư khi viết về ông đều dùng tên gọi này).

Đối với thầy

Thuở nhỏ, gia cảnh ông nghèo túng, nhưng Quốc Trinh vẫn quyết chí ăn học, tìm đến một thầy đồ làng bên để học. Hằng tháng, bà chị gái tằn tiện, mang tiền gạo đến chu cấp cho em.

Một hôm chị đến thăm, chẳng thấy cậu Trinh học hành gì cả, mà đang chơi diều giấy ở ngoài đồng. Chị lôi cậu em vào trình với thầy học.

Thầy nhìn cậu, nghiêm nghị: “Tội anh đáng đòn. Nhân tiện có chị anh sang đây, ta muốn để gia đình biết được sức học của anh. Nay thầy ra một vế đối, nếu đối được thì tha, đối không được ta sẽ đuổi về luôn.”

Nói rồi thầy đọc:

Mê chơi chẳng học, quên lời chị

Nguyễn Quốc Trinh không cần nghĩ ngợi, đối ngay:

Thi đỗ cao khoa, nức tiếng thầy

Câu đối đó làm cả thầy, cả chị đều vui vẻ. Sau này Nguyễn Quốc Trinh thực hiện đúng lời đối của mình: ông đỗ trạng nguyên năm 1659.

Trả lời vua nhà Thanh

Trong chuyến đi sứ năm 1667, ông được vua Thanh gọi vào điện thử tài. Tại đây, ông gặp cả sứ thần Cao Ly.

Vua Thanh đưa ra hai cái thẻ tre rồi bảo hai sứ thần viết tên 100 danh thần của Trung Quốc, ai viết xong trước sẽ được phong làm “lưỡng quốc danh thần”, còn không sẽ bị cho là kẻ ngu dốt.

Trước đề bài của vua Thanh, sứ thần Cao Ly cặm cụi viết liên tục. Nguyễn Quốc Trinh vẫn “bình chân như vại”, không viết chữ nào. Mọi người rất ngạc nhiên.

Trước những ánh mắt băn khoăn, lời thúc giục, Nguyễn Quốc Trinh tươi cười và trả lời: “Có gì đâu, tôi viết loáng cái là xong ngay”. Đám quan lại cười khẩy, cho rằng sứ thần nước Nam bí nên mới nói cứng vậy thôi.

Khi gần đến giờ nộp thẻ, sứ thần Cao Ly chuẩn bị viết xong, Nguyễn Quốc Trinh mới cần bút viết đúng 2 dòng lên thẻ tre rồi buông bút mỉm cười.

Thẻ tre có dòng chữ:

Khổng Môn thất thập nhị hiền
Vân Đài nhị thập bát tướng.

Dịch:

Cửa Khổng có bảy mươi hai hiền nhân
Vân Đài ghi hai mươi tám tướng giỏi.

Ý hai câu thơ trên đều dẫn theo tích của Trung Quốc. Vào thời Xuân Thu, Khổng Tử có 72 học trò nổi tiếng giỏi. Còn Vân Đài là đài cao được xây vào thời vua Hán Vũ Đế, trên đó có khắc ghi 28 danh tướng dũng lược của triều Hán. Như vậy, qua hai câu thơ là đủ 100 người tài giỏi của Trung Quốc.

Trước tài năng của Nguyễn Quốc Trinh, vua Thanh không tiếc lời khen ngợi và phong ông làm “lưỡng quốc danh thần”.

Trả lời Chúa Trịnh

Nhà Lê vào thế kỷ 17 trở đi chỉ là hư vị, mọi việc đều do họ Trịnh chấp chính. Nhưng nhiều chúa Trịnh vẫn còn nuôi ý định cướp ngôi Lê. Chúa Trịnh Tạc, muốn thử xem lòng người có phục không, sai quân lính đắp một cái đài ở Thăng Long, đặt tên là đài Thu Thiên. Đài đã được dựng cột đào móng, hình thành nên cái khung của vẻ quy mô bề thế.

Chúa đến tận nơi xem xét, dẫn cả Nguyễn Quốc Trinh đi theo. Nhìn quang cảnh đầy triển vọng nguy nga, chúa hỏi: “Thế nào, ý ông ra sao?”

Nguyễn Quốc Trinh trả lời: “Khải chúa thượng, xây đắp thế nào chẳng được, nhưng lòng thiên hạ không vui đâu.”

Chúa tái mặt, hỏi lại: “Thiên hạ trăm nghìn người, một mình ông làm sao biết được trăm nghìn bụng?”

Nguyễn Quốc Trinh ung dung đáp: “Thiên hạ là tôi đây, lòng tôi không vui thì biết lòng thiên hạ.”

Chúa nín lặng, không nói gì, lên kiệu về cung. Tối hôm ấy, một cơn bão nổi lên, sét đánh gãy mấy cây cột dài. Trịnh Tạc đành bỏ, không cho dựng nữa.

Cống Quỳnh – Trạng Quỳnh

Cống Quỳnh có tên thật là Nguyễn Quỳnh (1677-1748), là một danh sĩ thời vua Lê Hiển Tông, từng thi đỗ Hương cống (sau này được gọi là Cử nhân) nên còn được gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng văn chương, nhưng tính hay khinh mạn và ưa nhạo báng quan trường, nên đi thi trượt mấy lần. Đáng lẽ đỗ Hương cống thì Quỳnh có thể làm quan, nhưng gặp lúc chúa Trịnh chuyên quyền, ông không màng công danh, thường đi đây đó, lấy thơ văn chòng ghẹo người đời.

Cống Quỳnh hay Trạng Quỳnh?

Trạng Quỳnh trong các giai thoại dân gian có phải là Cống Quỳnh trong đời thật hay không? Sách Nam Thiên lịch đại tư lược sử nhận xét về nhân vật thật: “Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước…” Đúng là những tố chất mà dân gian gán cho Trạng Quỳnh!

Hoàng Tuấn Phổ (2014) tổng hợp tư liệu cho thấy có tới hơn 90% mẩu truyện về Trạng Quỳnh là hư cấu, và Cống Quỳnh trong gia phả khác hẳn, nếu không nói là hoàn toàn đối lập với Trạng Quỳnh trong truyện kể dân gian. Có vài chi tiết cho ta thấy các truyện kể về Trạng Quỳnh phần lớn không thể là truyện của Cống Quỳnh.

  • Đoàn Thị Điểm mới sinh khi Cống Quỳnh 28 tuổi và đang làm giáo thụ huyện Thạch Thất. Thế mà có cả một “thiên tình sử” về cậu học trò Quỳnh tinh nghịch, dối trá với cô Điểm.
  • Cống Quỳnh chỉ làm quan tới chức cao nhất là tri phủ, nên không có cơ may để mon men tới công việc đi sứ hoặc đón tiếp sứ Tàu. Hơn nữa công việc bang giao mang tính quốc thể, đâu phải là trò đùa, thế mà Quỳnh hết “Vũ quá Bắc Hải” lại “thi vẽ rồng”, thậm chí cầm quạt gõ lên đầu sứ giả nhà Thanh.
  • Trạng Quỳnh đả kích vua Lê chúa Trịnh khá cay độc nhưng đó là truyện cười dân gian, nên nội dung là những câu chuyện hoang đường. Trong thực tế, Cống Quỳnh chỉ là quan chức thấp, đâu có thể đối xử với chúa Trịnh như là chỗ bạn bè bằng vai phải lứa, muốn bông phèng thế nào cũng được.
  • Người ta kể chuyện “Trạng chết chúa cũng băng hà” y như thật, hiển nhiên cũng là chuyện bịa. Vì những năm trước, trong và sau khi Cống Quỳnh mất, chẳng có ông vua, ông chúa nào “băng hà”.
  • Người ta cũng kể nhiều về chuyện Trạng Quỳnh đi thi, phá bĩnh trong trường thi, đả kích từ quan chí vua. Nhưng theo gia phả của họ Nguyễn: Nguyễn Quỳnh lúc nhỏ cố chí học hành, lớn lên lặn lội hết khoa này đến khoa khác, cuối cùng đỗ hạng nhì kỳ thi Sĩ vọng thì lấy làm sung sướng lắm. Nguyễn Quỳnh như vậy cố nhiên đối lập với Trạng Quỳnh. Và chỉ có Trạng Quỳnh, nhân vật hư cấu theo đặc trưng sáng tác truyện cười dân gian mới có thể có những hành vi “coi trời bằng vung” như vậy. Bởi luật thi cử thời xưa rất nghiêm, thí sinh phạm quy có khi bị xử đến tội tử hình, huống hồ lại cả gan viết lách lăng nhăng, nói năng bậy bạ!
  • Một số mẩu chuyện thời niên thiếu của Trạng Quỳnh như: “Chữ Thái”, “Đầu to bằng cái bồ”, “Dê đực chửa”… thể hiện trí thông minh, tính nghịch ngợm của nhân vật từ khi còn nhỏ tuổi, đáng lẽ gia phả họ Nguyễn Bột Thượng có thể chép, nhưng chẳng thấy ghi lại một mẩu cỏn con nào. Trong khi đó, ở Thái Bình, người ta coi chuyện “Đố chữ Thái” là của cậu bé Lê Quý Đôn, ở Nghệ Tĩnh người ta kể chuyện “Đầu người to bằng cái bồ”do ông Nguyễn Công Trứ bày trò, và chuyện “Dê đực chửa” thì dân gian lại gán cho vài ba nhân vật khác nhau. Tất nhiên không thể nói ai vay mượn của ai, khi chuyện đã trở thành một kiểu giai thoại chẳng của riêng ai, có thể gán ghép cho bất cứ ai, miễn là có sự tương đối phù hợp.

Tóm lại, truyện dân gian thì cứ xem là dân gian và ta không nên quá sắc mắc phân định ai là ai. Vì thế, trong những giai thoại dưới đây, nên hiểu nhân vật Trạng Quỳnh là hư cấu và Cống Quỳnh có phần thật, khi không rõ thì chỉ gọi tắt một tên Quỳnh.

Làm thơ thay tiền ăn

Thời còn trẻ, Quỳnh không để ý đến việc học hành, lại xếp bút nghiên lên đường ngao du sơn thủy. Đặc biệt là nơi nào Quỳnh ghé chơi qua, đều lưu lại những giai thoại ngộ nghĩnh. Ngày ấy, trên đường phiêu du, Quỳnh ghé lại một quán nước.

Thấy khách có vẻ hào hoa, cô chủ quán nhan sắc mặn mà nhanh nhẩu mời mọc:

– Rước ông vào xơi bánh ạ… Quán này bánh trái đủ thứ, ông cứ tự tiện…

Quỳnh cảm ơn rối rít, ung dung ngồi xuống, thanh toán hết đĩa này đến đĩa khác. Nào là bánh rán, bánh dày, nào là khoai ngứa, khoai lang. Ăn hết bánh, Quỳnh lại chiếu cố đến buồng chuối thanh tiêu rồi mấy chiếc nem treo lủng lẳng. Quỳnh ăn xong, rung đùi, hút thuốc, rồi đứng dậy cảm tạ và đủng đỉnh ra đi.

Cô chủ giận quá, chạy theo níu áo đòi tiền.

Quỳnh giả vờ ngạc nhiên:

– Chết chửa, tôi lại tưởng cô chủ có lòng tốt, lâu ngày “rước” tao nhân mặc khách ít dĩa bánh, nào có thấm tháp gì!

Cũng may, cô chủ vốn thích thơ văn, gượng làm vui:

– Ông tự nhận là tao nhân mặc khách, thực hay giả đấy? Nếu thực, ông phải làm một bài thơ kể hết thức ăn trong quán, tám câu vần trắc. Làm không xong, tôi la làng đấy…

Quỳnh cười hì hì:

– Được mà, cô chủ yên trí…

Thế là Quỳnh hạ bút làm một bài thơ dán ngay lên vách. Thơ như sau:

Bán hàng nay cô đà mấy tuổi?
Nước non còn nóng hay là nguội?
Lủng lẳng trên treo dăm nắm nem
Lơ thơ dưới móc một buồng chuối

Bánh rán bánh dầy có thoa dầu
Khoai ngứa khoai lang đều chấm muối
Ăn uống xong rồi chưa trả tiền
Thương nhau cho chịu một vài buổi.

Cô chủ quán khá thông minh, xem thơ biết khách trêu chọc tuy tiếu lâm (hỏi đến nước non!) nhưng không thô tục, riêng tài thơ thì rõ ràng sáng chói, thơ vần trắc khó viết nhưng ngôn từ vẫn suôn sẻ. Cô nàng đành ưng thuận… mất tiền.

Đi thi Hương

Một năm, có khoa thi Hương. Sắp tới ngày thi, có người bạn đến chơi, khuyên ông nên kiềm thúc tính nết khoa này, văn chương phải viết theo khuôn phép, thì mới hòng đỗ.

Ấy vì khoa trước, ông làm văn đã đắc thế lắm, nhưng bị đánh hỏng vì khi bài viết xong, còn thừa một khoảng giấy lớn, ông cao hứng vẽ hình con voi rồi đề mấy câu thơ :

Văn chương phú lục đã xong rồi
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi!
Tớ có điều này xin bảo thật: (A)
Đứa nào cười tớ, nó ăn bòi!

(A) Câu theo nguồn khác là: Vẽ xuống vẽ lên nhằng nhịt đấy.

Bởi vậy nên kỳ này, nghe bạn khuyên can, Quỳnh lấy làm phải và hứa nhất nhất vâng lời.

Vào trường, ông giữ gìn rất cẩn thận, quả nhiên khoa ấy đỗ Hương cống. Tuy vậy mà trong quyển của ông vẫn còn có những câu trào lộng, truyền tụng  mãi đến ngày nay.

Đầu bài chiếu là: Nghĩ Hán dĩ công chúa, giá Thiền vu chiếu (Làm bài chiếu về việc vua Hán gả công chúa cho chúa Hung Nô). Đó là câu chuyện về một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa: nàng Vương Chiêu Quân.

Bài Quỳnh làm có câu:

Vũ kinh bách chiến, dĩ khai đồ
Văn vô nhất thi, nhi thối lỗ

Dịch (Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Về võ, kinh thay trăm trận mở cơ nghiệp
Về văn, không thể một chữ đuổi quân thù.

Ý nói cho dù chiến tranh liên miên, cuối cùng vẫn phải nhờ đến công chúa gả để giảng hòa.

Đến bài biểu, ông cố nhét cho được hai câu:

Quân tắc cổ, thần tắc cổ, đái hàm quan Ngu Thuấn chi công
Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lại Đường Nghiêu chi trị

Dịch:

Vua theo cổ, thần theo cổ, đội ơn công đức vua Thuấn
Người trên hòa, người dưới hòa, được nhờ đời thịnh vua Nghiêu.

Khi yết bảng tên ông được đỗ rồi, quan trường hội nhau để kiểm điểm lại, thấy những chữ “khai đồ”, “thối lỗ”, “tắc cổ”, “ung tai”, “đái (vào) hàm quan”, “ỷ (lên) đầu lại”, mới biết là ông nhạo báng, dùng những chữ Hán có âm Việt ngữ tục tằn, cốt cho ở Hán văn thì nghĩa đứng đắn, mà đọc ra âm Việt thì lại toàn tiếng thô bỉ, đọc trại một chút lại càng nhơ bẩn hơn! Nhưng đã trót cho đỗ rồi, không thể đánh hỏng được nữa!

Bao phen lận đận, lần này mới được đắc chí, ông cưỡi ngựa về làng, lòng mừng khấp khởi, ngâm mấy câu thơ:

Mười năm đèn sách nhọc công nhòm
Đỗ suốt ba trường tiếng nổi om
Nhờ chút ơn vua về bái tổ
Nhảy lên cật ngựa chạy lom xom!

Ông vẫn không hết trào phúng: không nói đọc sách mà chỉ nhòm sách, không nhảy lên lưng ngựa mà nhảy lên cật ngựa, lại còn chạy lom xom chẳng ra thể thống của người thi đỗ gì cả!

Đi thi Hội

Rồi sau đó ông đi thi Hội, mong giật bằng tiến sĩ. Vào thi, bài viết đã trôi chảy lấy làm vừa ý, chỉ còn đoạn kết ông chưa biết làm cách nào cho thật trác lạc, khác hẳn lối kết thúc tầm thường của sĩ tử.

Đang nghĩ ngợi phân vân bỗng thấy một vị giám khảo đi ngang qua, ông liền hỏi:
– Bẩm quan lớn, đoạn kết bài này ngài dạy làm thế nào là phải?

Vị giám khảo trừng mắt:
– Không biết làm thế nào thì bỏ trống!

Đến lúc hội lại chấm bài, ban giám khảo đọc thấy một bài ý tứ hàm súc, ngôn từ hoa mỹ, đáng cho ưu, chỉ hiềm nỗi đoạn kết lại lạc lõng vào hai câu nôm:

Ô hô, da trâu tang mít, tự ký thành bưng bít chi công
Y hi, đám giỗ nhà chay, thượng ký đô thì thùng chi hiệu.

Chẳng ai hiểu ra sao. Bèn hợp phách lại xem tác giả là ai mà kỳ quái vậy. Té ra là Quỳnh. Vị chủ khảo cho gọi ông cống vào hỏi duyên do.

Quỳnh lễ phép thưa:
– Bẩm, đó là tôi theo lời dạy của quan giám khảo. Quan bảo đoạn kết không biết làm thế nào thì cứ bỏ trống, nên tôi viết hai câu về cái trống!

Mà là trống thật. Trống có mặt bằng da trâu, tang bằng gỗ mít, tốn công bưng bít mặt trống mới thành, để khi đám giỗ đám chay nện thì thùng ra hiệu!

Thơ cúng thành hoàng

Tục truyền trong thời gian Quỳnh đã thi đỗ Hương cống và tiếng tăm lừng lẫy khắp xa gần, có một lần vợ cưng của Quỳnh bị ốm nặng, nhưng không chịu thuốc thang, lại tin tưởng thầy bói. Xem quẻ xong, thầy bói quả quyết bị động thành hoàng, sắm sửa lễ vật cúng vái là khỏi. Quỳnh vốn chẳng tin gì thần thánh nhưng vợ cứ khóc lóc ỉ ôi, nên Quỳnh đành phải mang hai quả trứng gà luộc ra đình làng khấn với thành hoàng xin chữa cho vợ mình, và hứa rằng hễ vợ mình khỏi bệnh thì sẽ trả lễ thật hậu.

Quỳnh đem hai trứng ra đặt lên bệ thờ thành hoàng và chắp tay trịnh trọng đọc to một bài thơ như sau:

Này hỡi thành hoàng
Chú là kẻ cả trong làng
Tớ là người sang trong nước
Đôi bên chức tước chẳng kém gì nhau.

Bởi vợ tớ đau phải ra khấn vái
Phiên chợ thì trái không mua được gì
Có con gà di nó vừa nhảy ổ
Đem ra mà mổ thì cũng thương tình.

Chú có anh linh xơi hai trứng vậy!…

Rồi Quỳnh để lại hai quả trứng gà và đủng đỉnh ra về.

Đề tượng bà Banh

Ở vùng Sơn Nam hạ có một ngôi chùa thật quái dị. Chùa không thờ Phật, trên bệ chỉ có pho tượng đá gọi là tượng bà Banh. Tương truyền bà Banh là tà thần rất linh thiêng, ai đi ngang qua chùa mà không ngả nón sẽ bị ốm đau tức khắc. Muốn khỏi bệnh phải đem xôi, gà, rượu, thịt đến lễ tạ.

Vốn thường công kích những nơi bành trướng tà đạo, nghe được chuyện ấy, Trạng Quỳnh đến chùa, lấy bút mực viết ngay trên bụng pho tượng bài thơ:

Khen ai đẽo đá tạc nên mày
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây
Trên cổ đếm đeo trăm chuỗi hạt
Phô trang chi hỡi, lũ quân này!

“Đẻo đá”, “khéo đứng”, “đếm đeo” là những từ thường gặp trong thơ Hồ Xuân Hương.

Đề thơ xong, Trạng Quỳnh mắng nhiếc một hồi mới bỏ đi

Ghi thêm: bài thơ trên có ngôn từ tương tự như bài Tượng Bà Banh trong Hồng Đức quốc âm thi tập thời Lê Thánh Tông, cũng có câu Khéo đứng ru mà đứng mãi đây. Không lẽ một nhà khoa cử và quan lại như Nguyễn Quỳnh lại đạo thơ văn một cách vô liêm sĩ đến thế? Chỉ có dân gian mới dám làm như vậy mà không bị chỉ đích danh về tội “đạo văn”!

Văn tế hai bố

Nhạc phụ của Quỳnh người dong dỏng cao, làm tổng trấn Bắc Ninh, còn thân phụ là người thấp, làm tri phủ Kiến Xương. Hai người tình cờ cùng tạ thế một năm, nhạc phụ mất cuối tháng chín , thân phụ mất đầu tháng mười. Khi đưa hai linh cữu đưa về quê, Quỳnh thu xếp cho hai đám cùng đưa một ngày, và bày bàn thờ chung nhà, để tế chung vào một tuần… cho đỡ tốn kém.

Ông làm bài văn tế, xem qua đủ thấy tác giả là người ngang tàng và ngỗ ngược, có một nhân sinh quan phóng khoáng đến quá mức, ngay bậc cha mẹ cũng còn đem ra mà chế giễu không từ.

Văn tế hai bố

Ông trấn Bắc Ninh. Ông tri phủ Kiến
Ông thấp lùn chùn. Ông cao nghễu nghện
Tưởng ông sống tám mươi, ông sống chín mươi cho đến một trăm
Nào ngờ ông chết tháng chín, ông chết tháng mười, cùng về một chuyến.

Than ôi!
Hạc tếch lên ngàn. Rùa bò xuống biển!
Lẽ đâu một đám hai ma. Song le nhất cử lưỡng tiện!
May hai nhà cùng có bát ăn: Chả có phen này thì biến!

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (1726-1784) người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình, con ông Trung hiếu công Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), Thượng thư bộ Hình đời Lê Dụ Tông. Cả cha mẹ ông đều được phong hầu. Từ thuở nhỏ, ông đã thông minh lanh lợi, nổi tiếng thần đồng. Ông đỗ đầu (Giải nguyên) kỳ thi Hương lúc 17 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội lúc 26 tuổi, rồi vào thi Đình đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu. Ông được xem như là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách về kinh truyện, thơ văn, sử ký địa lý.

Lê Quý Đôn thông minh tột đỉnh mà cũng kiêu ngạo. Có mấy giai thoại văn chương liên quan đến hai cá tính đó của ông.

Thơ tự răn mình

Tương truyền Lê Quý Đôn lúc nhỏ tuy rất thông minh nhưng tính khí rất ngỗ ngược, vì thế làm cha mẹ ông nhiều phen bực dọc.

Hồi tám chín tuổi, một hôm Lê Quý Đôn cởi truồng đi tắm. Tình cờ giữa đường gặp quan Thượng hỏi thăm vào nhà cha mình, cậu bé liền đứng dạng hai chân ra và bảo quan thượng rằng: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông đi!”

Quan Thượng tha thứ cho sự nghịch ngợm của con nít nên bỏ đi. Cậu cười ầm lên và bảo với các bạn:
– Ông ấy làm quan to mà không biết chữ các bạn ơi!

han_dai-thaiQuan Thượng bực mình quay lại nói:
– Trẻ con đừng hỗn láo! Mày mới học lỏm được chữ “đại” (大) mà đã dám đi trêu chọc người rồi.

Cậu càng cười to hơn:
– Thế thì ông không biết chữ thật! Có cái chấm ở dưới nữa thì là chữ “thái” (太) chứ sao lại chữ “đại”!

Hóa ra quan Thượng mắc lỡm: chữ “thái” 太 trông giống người nam đứng dạng hai chân, khác với chữ “đại” vì có thêm phần tòng teng phía dưới!

Cuối cùng, vị quan lớn tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê Quý Đôn vào nhà để mắng và dọa đánh đòn.

Quan Thượng thấy Lê Quý Đôn thông minh nên xin tha cho cậu bé với điều kiện phải ứng khẩu một bài thơ tạ tội. Cậu xin quan Thượng ra đầu đề.

Quan Thượng nói:
– Phụ thân cậu đã bảo cậu “rắn đầu rắn cổ”, cậu cứ lấy đó làm đề bài.

Đôn ngẫm nghĩ một chốc rồi đọc bài thơ Đường luật (một số vài từ khác biệt tùy nguồn):

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm, rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng cam chịu vọt năm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

Đề bài là do quan Thượng đặt ra, ý nói cậu bé cứng đầu, lười học. Vậy mà Lê Quý Đôn đã tài tình sử dụng từ “rắn” để ghép vào trong nội dung các câu thơ của mình: rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn trâu (cũng được gọi là rắn hổ trâu), rắn hổ mang. Lại ví mình như Khổng Tử và Mạnh Tử, từ nay xin siêng học: nước Lỗ là quê hương Khổng Tử còn Trâu thành là quê hương Mạnh Tử.

Bài thơ vừa ra giọng tự trách mình, vừa có ý nêu tên một số rắn, vậy mà đọc vẫn không thấy gượng gạo chút nào.

Ông thượng thấy Đôn mới tí tuổi mà đã tài như thế, bao nhiêu tức bực đều tiêu tan hết, tấm tắc khen mãi không thôi.

Ghi chú: có nguồn cho biết người khách là Tiến sĩ Vũ Công Trấn, đỗ tiến sĩ cùng năm với cha của Đôn. Một nguồn khác nhận xét Lê Quý Đôn nói về Khổng-Mạnh giống như có ý nói: “Từ nay cụ tổ của bố xin siêng học”, quá xấc xược, nên cho rằng đây là bài thơ đời sau làm, được truyền tụng trong dân gian rồi gán cho Lê Quý Đôn. Ý này quá khắt khe, nếu ta xét rằng Lê Quý Đôn không phải tự ví mình như Khổng-Mạnh, mà chỉ có ý nói sẽ nêu gương Khổng-Mạnh.

Lê Quý Đôn và nhà sư

Sau bài học trên, Lê Quý Đôn lại nhận được một lần nữa nơi một nhà sư trụ trì ở chùa làng và chú tiểu.

Nhân việc ma chay trên kia, Lê Quý Đôn phải lui tới trên chùa làng để làm lễ cầu siêu. Một hôm Đôn vừa bước vào phương trượng thì nhà sư reo mừng:

–  A, quan bảng nhãn tới đây rồi. May quá, bần tăng đang có điều muốn nhờ quan lớn chỉ giáo. Số là chú tiểu của bản tự mới gặp một người ra câu đố mà chú không giải được, bần tăng cũng chịu nốt, bây giờ phải nhờ đến quan bảng mới xong: “nghi nhất tự lai vấn” mà! Câu đố như thế này, xin quan chỉ cho:

Hạ bất khả hạ
Thượng bất khả thượng
Chỉ nghi tại hạ
Bất khả tại thượng.

Nghĩa là:

Dưới không thể dưới
Trên không thể trên
Đúng nên ở dưới
Không thể ở trên.

Lê Quý Đôn ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa giải đáp được thì chú tiểu ở ngoài chạy vào:
–  Bẩm quan bảng, ngài đã nghĩ ra chưa?

–  Chưa chú ạ! Khó quá!

–  Thế mà cháu vừa tìm ra rồi đấy!
–  Thế thì chịu chú, nào chú giảng thử coi.

–  Thưa đó là chữ “nhất”. Hạ bất khả hạ tức là trong chữ “hạ” 下 thì chữ “nhất” ở trên chứ không thể ở dưới; thượng bất khả thượng tức là trong chữ “thượng” 上 thì chữ “nhất” ở dưới chứ không thể ở trên; Chỉ nghi tại hạ tức là trong chữ “chỉ” 止 và chữ “nghi” 宜 thì chữ “nhất” nằm dưới; Bất khả tại thượng tức là trong chữ “bất” 不 và chữ “khả” 可 thì chữ “nhất” nằm trên. Dễ quá, quan bảng nhỉ!

Lê Quý Đôn biết mình bị lỡm vì cái bảng “Nghi nhất tự lai vấn” trong đó họ lấy ngay chữ “nhất” mà nhạo mình, nhưng không có cách gì đối phó lại được, đành nói vài câu chữa thẹn rồi cáo lui.

Từ đó, tấm bảng kia không còn treo ở cửa nữa.

Ghi chú: Một nguồn khác kể giai thoại tương tự như sau.

Khoa thi Ất Mùi (1475), năm thứ 6 đời Lê Thánh Tông, trong số các sĩ tử có quyển thi xuất sắc, bài văn nổi bật nhất kỳ thi Đình thuộc về ba người là Vũ Tuấn Chiêu, hai người còn lại là Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt. Vua Lê Thánh Tông thấy ba người tài năng như nhau, khó xếp hạng người trên kẻ dưới trong bảng Tam Khôi nên ra thêm một câu đố để thử sức.

Vua bảo ba người đoán xem là chữ gì, rồi đọc:

Thượng bất thượng
Hạ bất hạ
Chỉ nghi tại hạ
Bất khả tại thượng

Trong khi Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt đang chau mày suy nghĩ thì Vũ Tuấn Chiêu đoán ra đó là chữ “nhất”. Vua Lê Thánh Tông thấy ông thông minh, nhanh nhẹn liền chấm đỗ đầu thi Đình, ban cho học vị Trạng nguyên.

Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765-1820) có sinh quán ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con thứ bảy Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, thường được gọi là Chiêu Bảy.

Câu thơ bỏ lửng

Buổi thiếu thời ở Thăng Long, đi học một thầy đồ bên Gia Lâm, ở tả ngạn Nhị Hà, ngày ngày qua sông để sang trường, Nguyễn thường đi đò của cô Đỗ Thị Nhật, một thiếu nữ duyên dáng.

Tính Nguyễn ít nói nhưng đa cảm. Một hôm đến bến hơi trễ, phải chờ lâu, muốn trách cô lái vài lời, lại sợ thấy mặt thì rụt rè không dám, nên viết mấy câu vào mảnh giấy nhờ bạn đưa dùm:

Ai ơi, chèo chống tôi sang
Kẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại, lại qua
Giúp cho nhau nữa để mà …

Nguyễn cố ý không viết trọn câu, để thử lòng cô Nhật. Cô này trước còn khước từ không đáp, sau rồi cũng nể lòng viết hai chữ “quen nhau” điền vào.

Từ đó cô lái đò tỏ vẻ ân cần, còn Nguyễn thì vẫn e lệ. Một buổi, cô nói:
– Bây giờ thay chữ “quen” bằng chữ “thương” nghe đường được đấy, cậu khóa nhỉ?

Nguyễn sung sướng làm mấy câu nữa:

Quen nhau nay đã nên thương
Cùng nhau se mối tơ vương chữ tình
Người xinh xinh, cảnh xinh xinh
Trên trời dưới nước, giữa mình với ta !

Mối tình đang mặn nồng, thì gia đình Nguyễn hay biết, nghiêm trách Nguyễn và gửi anh đi theo học một thầy đồ khác ở Thái Bình.

Mười năm sau Nguyễn có dịp trở lại Thăng Long, ra nơi bến cũ thì cô lái đã đi lấy chồng. Nguyễn ngao ngán ngâm:

Yêu nhau, những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mười
Vì đâu xa cách đôi nơi
Bến nay còn đó, nào người năm xưa?

Chiêu Bảy và cô Cúc

Tương truyền, lúc còn trai trẻ Nguyễn Du rất thích hát phường vải. Bấy giờ có làng Trường Lưu cũng thuộc huyện Nghi Xuân, là một trong những làng nổi tiếng về hát phường vải, về nghề dệt vải và về gái đẹp. Làng Tiên Điền thì có nghề làm nón, con trai phường nón thường kéo nhau sang hát phường vải ở Trường Lưu. Họ đi hát vì mê hát, nhưng một phần cũng vì mê các cô gái đẹp. Trong các chuyến đi ấy, Chiêu Bảy chẳng bao giờ vắng mặt.

Hat vi BCó một đêm hát nọ, Chiêu Bảy tình cờ được gặp một cô gái tên là Cúc, người đẹp, giọng hay, có tài bẻ chuyện, nhưng chỉ phải một nỗi đã sắp quá thì mà vẫn chưa chồng.

Chiêu Bảy biết thóp như vậy, liền bẻ ngay một câu như sau để ghẹo chơi:

Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao Cúc lại muộn mằn về thu?

Chiêu Bảy vờ nói chuyện hoa, nhưng kỳ thực là muốn hỏi châm chọc: Các cô gái khác đều đã đi lấy chồng sớm, sao riêng cô Cúc lại để quá lứa nhỡ thì như vậy?

Nhưng cô Cúc nào phải tay vừa, thoáng nghe qua cô đã hiểu ngay ý tứ của đối phương, bèn hát đáp lại rằng:

Vì chưng tham chút nhụy vàng
Cho nên Cúc phải muộn màng về thu.

Hoa cúc vốn là loài hoa nở về thu; cúc nở về thu mới là đang độ mãn khai, thế là đúng kỳ chứ không phải là muộn.

Câu hỏi khôn mà câu trả lời thật cũng khéo lắm. Chiêu Bảy đành phải lảng sang chuyện khác, không dám hỏi về việc ấy nữa.

Đề thơ Lầu Hạc vàng

Lầu Hạc vàng tức Hoàng Hạc Lâu do Tôn Quyền thời Tam Quốc xây dựng ở phía tây nam thành Vũ Xương, Vũ Hán, từ năm 223. Về sau đời Đường có giai thoại Phí Vân Vi cỡi hạc về đây nghỉ nên lầu có tên là Hoàng Hạc Lâu và trở thành một thánh tích của đạo Lão.

Lầu Hạc vàng nổi tiếng với bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (khoảng 704-754), được xem là một trong những bài thơ hay nhất của thi ca Trung Quốc, lại càng nổi tiếng hơn khi Lý Bạch (701-762) viết: “Trước mắt có cảnh không tả được, vì thơ Thôi Hiệu ở trong đầu”.

Phan Huy Ích (1751–1822) trong chuyến đi sứ miêu tả Lầu Hạc Vàng như sau:

Lầu ở thành Vũ Xương, nhìn xuống dòng sông Hán. Truyền thuyết Phí Văn Phi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng chơi ở đó. Nay tầng thứ nhất có tượng thờ Phí, tầng thứ hai có tượng thờ bên cạnh đó có tượng thờ Lư Sinh, phía sau có đình Táo Tiên, rễ táo vẫn giống như rễ trầm hương. Cách bờ là bến lớn sông Hán, người tụ tập đông đúc, hàng hóa chất đầy.. Núi Qui, gác Tình Xuyên, bãi Anh Vũ thật là những cảnh đẹp trong trời đất. Người ta vẽ nhiều cuốn tranh lầu Hoàng Hạc để bán cho khách.

Lã Tiên tức Lã Đồng Tân hiệu là Thuần Dương, người đời Đường, khi gặp loạn Hoàng Sào đem gia quyến đến núi Chung Nam ở và tu tiên đắc đạo ở đó.

Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu (Ngô Tất Tố dịch thơ)

hoang hac lauNgười xưa (A) cưỡi hạc đã lên mây
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.

Vàng gieo bên Hán (B), ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh (C), lớp cỏ dày
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!

Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh dịch thơ)

Người xưa (A) cưỡi hạc khuất từ lâu
Chốn cũ còn trơ Hoàng Hạc Lâu
Một biệt hạc vàng không trở lại
Ngàn năm mây trắng lững lơ lầu.

Rực soi bến Hán (B) cây vàng nắng
Thơm ngát châu Anh (C) cỏ biếc mầu
Chiều xuống quê hương đâu đó nhỉ?
Đầu sông khói sóng dục khơi sầu.

(A) Theo sách Tề hài chí, Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu.

(B) Một địa điểm bên sông Dương Tử, tỉnh Hồ Bắc.

(C) Khu bãi bến khúc sông thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.

Dưới đây là bản Nôm dịch thơ của Nguyễn Du và của Phan Thanh Giản.

Nguyễn Du đến lầu Hoàng Hạc trong lần đi sứ năm 1813. Nguyễn Du cũng đã từng đến nơi này năm 1790 trong thời thanh niên đi giang hồ nên lần sau tỏ ý nói trước mắt cỏ cây vẫn như ngày xưa.

Hoàng Hạc Lâu – Nguyễn Du (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh dịch Nôm)

Thần tiên đã đến tự bao giờ?
Còn lại dấu tiên trên bến mơ
Giấc mộng Lư Sinh (A) kim cổ vọng
Vần thơ Thôi Hiệu hạc lầu trơ.

Ngoài hiên khói sóng bay mờ mịt
Trước mắt cỏ cây vẫn thuở xưa
Nỗi niềm có biết cùng ai tỏ
Trăng thanh gió mát cũng thờ ơ

(A) Theo sách Thẩm trung ký đời Đường, Lư Sinh thi trượt, trên đường về ghé qua quán trọ ở Hàm Đan, thấy chủ quán đang nấu một nồi kê, gặp một đạo sĩ cho mượn chiếc gối để ngủ. Trên gối ấy, Lư Sinh mơ thấy mình thi đỗ, làm quan đến tể tướng, hưởng giàu sang trên mười năm rồi cuộc đời suy sụp. Khi tỉnh dậy, thấy nồi kê của chủ quán nấu vẫn chưa chín. Sau này, câu chuyện được gọi là “giấc mộng hoàng lương” hoặc “giấc mộng kê vàng”, mang tư tưởng hư vô của đạo gia và triết lý vô thường của đạo Phật: những vinh hoa phú quý trong đời đều vô nghĩa.

Phan Thanh Giản là Chánh sứ đi Trung Hoa năm 1834, năm Minh Mệnh thứ 14.

Lên Lầu Hoàng Hạc – Phan Thanh Giản (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh dịch Nôm)

Hạc vàng xưa khuất đã bao năm
Từ góc trời Nam người đến thăm
Anh Vũ trước bờ xanh cỏ mượt
Tình Xuyên gác lững trắng mây râm.

Nửa mành trời lặn trôi Giang Hán
Một dãi sông dài xuyên cổ kim
Khói sóng mênh mông lòng cảm xúc
Nhặt chút lòng thu giấc mộng trần.

Phan Thanh Giản chơi chữ thật thú vị: dùng hai chữ Hán “thu tâm” (lòng thu) viết chung lại thành chữ “sầu” để nhắc đến chữ sầu trong thơ Thôi Hiệu.

han_thu tam sau

Năm 1884 đời Quang Tự thứ 10, Lầu Hạc vàng bị phá hủy.

Năm 1981, Lầu Hoàng Hạc được xây dựng lại nguy nga hơn, 5 tầng thay vì 3 tầng, cách vị trí cũ một kí-lô-mét. Hiện giờ nơi đây vẫn là vị trí thu hút du khách, nhưng có lẽ tính chất văn học sử không còn thi vị như ngày xưa.

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương (1772-1822) là thi sĩ có di tác hoàn toàn là thơ, được Xuân Diệu tôn là Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình.

Ho Xuan Huong (Phung Dzi Thuan)
Tranh Thi sĩ Hồ Xuân Hương của họa sĩ Phùng Dzi Thuần

Đọc thơ để… chữa thẹn

Tục truyền, hồi Xuân Hương còn đi học, một hôm gặp phải trời mưa đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy đều cười ầm lên.

Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Rồi cô cắp nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò thấy nàng ứng khẩu tài như thế thì cảm phục, không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.

Đối phó với hạng phất phơ

Hồ Xuân Hương vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó, những khách yêu chuộng văn chương mà đến thì cũng có; song hạng khách “phất phơ” vì tò mò mà đến, hoặc vì sĩ diện hão mà đến cũng không hiếm…

Bấy giờ có một công tử con quan, ăn mặc rất bảnh bao nhưng học hành quá kém, đã năm lần bảy lượt đến định làm quen với Xuân Hương. Biết anh ta chỉ là một người tầm thường, nhiều lần Xuân Hương thoái thác không chịu tiếp.

Một hôm, thấy anh ta dẫn xác đến, Xuân Hương bực quá chạy vào nhà trong rồi cho cô gái ở ra mời trầu; cơi trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:

Mảnh tình ví xẻ làm đôi được
Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra

Ý Xuân Hương muốn nói mình đã có người yêu, không thể nào chấp nhận anh công tử được nữa, nhưng đồng thời cũng thách thức anh ta trả lời thơ mình ra sao.

Anh công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối nổi, bỏ cả trầu không dám ăn, về luôn.

Đối đáp với Chiêu Hổ

Về xướng, họa, đối, đáp… thì Xuân Hương là một nữ tài nhân vô tiền khoáng hậu. Nhưng bà có đối thủ đầy duyên nợ: Chiêu Hổ (lý lịch chưa được xác minh).

Một số xướng họa giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ được ghi dưới đây.

Có lần Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ. Ông này hứa cho vay năm quan mà chỉ đưa có ba. Bà mắng đùa ông là Cuội và có bài thơ sau đây:

Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhớ hái cho xin nắm lá đa

Huyền thoại nói: Trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc. Cuội còn là một nhân vật trong truyện cổ dân gian có đặc tính đã trở thành thành ngữ “Nói dối như Cuội”. Ở đây nhắc chuyện lên chơi cung trăng và Chiêu Hổ sẽ cho Hồ Xuân Hương nắm lá đa, có ý nói Chiêu Hổ chẳng khác gì Cuội “nói cuội”.

Chiêu Hổ hóm hỉnh họa lại:

Rằng gián thì năm, quý có ba
Bởi người thục nữ tính không ra
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa

Tiền gián ăn 36 đồng kẽm. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương với Chiêu Hổ không rõ ràng: Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quý, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gián. Cũng có thể cách trả lời chỉ là chữa khéo cho Chiêu Hổ.

Trong một giai thoại khác, có lẽ Chiêu Hổ trở nên suồng sã nên Xuân Hương mắng:

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay

Chiêu Hồ:

Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng (A) không ai mó
Sao có hùm con bỗng (B) tróc tay?

(A) Ví bẵng tức ví bằng, đọc theo âm trắc của thơ.
(B) Bỗng tức là bồng, đọc theo âm trắc của thơ, mới đúng âm luật.

Trong một giai thoại khác,

Xuân Hương:

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè (C)
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè.

(C) Gùn ghè: gạ gẫm.

Chiêu Hồ:

Hỡi hỡi cô bay tố hão (D) nhe
Hão nhe không được, gậy ông ghè
Ông ghè không được, ông ghè mãi
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.

(D) Tố hão: tố cáo hão huyền.

Có nhận xét rằng:

Cuộc xướng họa giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ thực là không tiền khoáng hậu trong lịch sử văn chương Việt. Sức khoẻ và tình yêu sự sống, văn tài và cá tính, lối nói toạc móng heo, không úp mở bóng gió nhiều, không dùng biểu tượng hai mặt, ít tử vận (vần chết không họa được) mà chỉ có lộng chữ (bỡn chữ). Chỉ có ba bài thơ mà đi thẳng vào dân chúng và từ lâu nảy sinh nhiều giai thoại. Cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ thơ Nôm, và cũng thật tri âm, tri kỷ, không có một chút gì ngăn cách giữa đôi bạn thanh niên nam nữ.

Thêm nữa:

Trong các cuộc đối đáp giữa Hồ Xuân Hương và mọi người thì Hồ Xuân Hương là vỏ quýt dày và chỉ mình Chiêu Hổ là móng tay nhọn. Người đời mong có một cuộc se duyên giữa Hồ Xuân Hương và ông vì Hồ Xuân Hương đã thua cuộc trong thi đấu thơ văn. Nhưng mong ước chỉ là mong ước và duyên kia không thành! Không có ghi chép gì cho thấy mỗi quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ diễn tiến như thế nào, nhưng người ta cho rằng giữa hai người chỉ dừng ở mức tình bạn.

Theo Trần Nhuận Minh (2016):

Chiêu Hổ không phải là Phạm Đình Hổ (1768-1839). Phạm Đình Hổ được Vua Minh Mạng đặc cách phong làm Tế Tửu Quốc Tử giám Thăng Long, tức Hiệu trưởng trường. Chức này chứng tỏ người đức cao vọng trọng, chữ không thể Trong Vũ trung tùy bút, là tác phẩm duy nhất Phạm Đình Hổ nói về mình, cho thấy ông là một người “trầm lặng, mực thước, khắc khổ, nhạt nhẽo”, đặc biệt, ông “rất ghét thanh sắc, nghề cờ bạc và những chuyện rủ rê chơi đùa”. Hễ thấy ai nói đến điều đó thì ông “bịt tai lại, không nghe” – lời Phạm Đình Hổ. Thế thì không thể có chuyện Hiệu trưởng của Quốc Tử giám là tác giả của các bài thơ trên, lại “ghẹo nguyệt giữa ban ngày”, lại trơ tráo “ông ghè không được, ông ghè mãi” và bỗ bã nói “cho cả cành đa lẫn củ đa”. Hơn nữa, Bộ luật Gia Long của thời Nguyễn ghi: “Phàm quan văn võ ở đêm với con hát, hay đem con hát vào tiệc rượu, phạt 60 trượng”, nghĩa là giải ra công đường, lột mũ áo, đánh cho 60 gậy rồi đuổi về vườn. Vì vậy Phạm Đình Hổ không thể là tác giả của những câu thơ trên.

Và Hồ Xuân Hương, một nhà thơ “đúng phép mà văn hoa”, bao giờ cũng biết “dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa” (tựa thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký – khắc in năm 1814), không thể là tác giả của những bài thơ trên.

Do đó, Xuân Hương và Chiêu Hổ trong ba bài thơ trên chỉ là tác giả hư cấu của văn học dân gian.

Phạm Thái

Phạm Thái (1777-1813) người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc; nay là phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Họ Phạm có tài làm thơ nôm và nổi tiếng về thơ tình yêu.

Khi Tây Sơn dấy lên, cha là Thạch Trung hầu, vốn đã làm quan với nhà Lê, có dự vào công cuộc cần vương, nhưng bị thất bại. Phạm Thái sau trưởng thành, quyết nối chí, thường kết bạn với những bậc nghĩa sĩ để mưu đồ khôi phục nhà Lê.

Phạm tài kiêm văn võ, thích uống rượu ngâm thơ, vì là con bậc đại thần nên được gọi là cậu Chiêu, lại hay say sưa túy lúy, mới có sước hiệu là Chiêu Lỳ. Chiêu Lỳ có bài thơ tự trào:

Có ai muốn biết tuổi tên gì
Vừa chẵn hai mươi, gọi chú Lỳ
Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo
Một vài câu kệ tụng a-ê!

Tranh vờn sơn thủy màu lem luốc
Bầu giốc kiền khôn giọng bét be
Miễn được ngày nào ngang dọc đã
Sống thì nuôi lấy, chết chôn đi!

“Một vài câu kệ tụng a-ê”, là bởi bị truy nã gắt gao, Phạm Thái phải cạo đầu, vào tu ở chùa Tiên Sơn (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) để khỏi lộ tung tích.

Phạm gặp em gái của bạn cùng chí hướng Trương Đăng Thụ là Trương Quỳnh Như, một trang tài sắc kiêm toàn. Đôi bên dần dà thân nhau vì mối duyên văn tự, cùng nhau xướng họa rất là tương đắc.

Cha Quỳnh Như là Kiến Xuyên hầu Trương Đăng Quý rất mến Phạm, hai người thường đàm đạo về thời thế và văn thơ.

Một hôm, nhân hai người ngồi uống ruợu, hầu trông vào bức tranh tố nữ, bảo Phạm thử uống mười chén rồi vịnh một bài thơ. Phạm vâng mệnh, cất bút thảo luôn một thiên Đường luật theo cách thuận nghịch độc (đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược là thơ nôm diễn ý bài thơ chữ Hán). Thơ như sau:

Bài đọc xuôi:

Thanh xuân tỏa liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh lãng độ liên phi phất lục
Đạm hi tán cúc thái sơ hoàng.

Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bạn
Oanh ca nhất vĩnh các tiêu hương.

Bài đọc ngược:

Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh (A)
Bợn mối sầu khêu gượng khúc tranh (B)
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.

Vàng thưa thớt cúc tan hơi đạm
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm (C)
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh. (D)

(A) Nhặt ca oanh: Tiếng chim oanh hót luôn luôn
(B) Sầu khêu: Nỗi buồn khêu gợi tấm lòng. Gượng khúc tranh: Gượng đánh khúc đàn tranh
(C) Dừng trục gấm: Dừng việc dệt gấm
(D) Khóa xuân xanh: Nhốt người con gái trẻ

Hầu xem xong thích lắm, khen là trong sáng tuyệt vời.

Mến tài văn thơ, lại cũng biết chí cần vương và hoạt động bí mật của Phạm, nên hầu mời Phạm ở lại ngay nhà, cho trút lốt nhà sư mà khoác áo nho sinh, để dạy mấy đứa cháu. Ông cụ tình cờ một đọc thấy thơ văn trữ tình của Phạm, có ý muốn gả Quỳnh Như cho, mới lựa lời khuyên Phạm về tìm họ hàng mai mối để xử sự cho phải lễ. Nhưng mẹ Quỳnh Như lại không ưng cho con lấy một “nhà sư phá giới”, vả lại tham phú quý, nhất định gả con cho một công tử nhà giàu nhưng học dốt.

Quỳnh Như bị ép uổng, quẫn trí quyên sinh.

Khi ở quê trở lại nhà họ Trương, Phạm hay tin dữ, liền ra mộ Quỳnh Như, thắp hương khóc lóc rồi đọc bài điếu văn, bắt đầu bằng câu:

Nương tử ơi!
Chướng căn ấy bởi vì đâu?
Oan thác ấy bởi vì đâu?
Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!

Từ đó Phạm sinh chán đời. Vì mải chuyện tình mà mấy năm rồi bỏ lửng cả việc cần vương. Vả lại thời vận nhà Lê đã hết, nhà Tây Sơn, rồi đến nhà Nguyễn kế tiếp nổi lên, việc cần vương không còn mấy ai nghĩ tới nữa. Phạm chỉ còn biết uống rượu ngâm thơ cho qua ngày tháng.

Ông ngậm ngùi mãi về mối tình duyên lỡ dở:

Đưa lời cho tới cung mây
Sầu này xin cởi cho đây với cùng
Dây tơ hồng trách ai se mối
Đến nửa chừng bỗng nới dần ra
Căm vì một ả trăng già
Trêu ngươi chỉ mãi chẳng tha, thế này…

Những lúc say sưa, ông lại lên giọng cao ngạo, ngâm một bài yết hậu:

Sống ở nhân gian đánh chén nhè
Chết về âm phủ cặp kè kè
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
Be!

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, nổi tiếng là vị quan thanh liêm, tài trí hơn người nhưng có lối sống ngang tàng, ngạo nghễ. Ông người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; theo một số tài liệu, ông sinh ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ thi đậu Giải nguyên lúc ngoài 30 tuổi rồi được bổ làm quan trải ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông là người văn võ song toàn, làm tới chức Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư, nhưng cũng vài lần bị giáng phạt, hạ tới ba bốn cấp.

Say rượu đánh long thần

Có lần Trứ uống rượu say về, đường sáng trăng, thấy có miếu long thần bên cạnh liền ghé vào xem. Sẵn đồ cúng với rượu thờ vẫn còn trên bệ thờ, Trứ mang ra chén cả. Ngất ngưởng say rồi, Trứ còn lôi cả tượng long thần xuống mời uống rượu. Thấy pho tượng cứ ngồi yên không nhúc nhích, ông tức mình vật ngửa tượng ra đổ rượu vào mồm, đánh cho mấy bạt tai rồi mới đi về.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, không biết là ông hối hận hay nghĩ thế nào mà làm bài thơ rồi đem ra dán ở miếu để tạ long thần:

Hôm qua trời tối tới chơi đây
Đánh phải long thần mấy cẳng tay
Khi tỉnh thời nào ai có dám
Say!

Bấy giờ ông từ mới vỡ lẽ, nhưng thấy anh học trò có lời thơ sắc sảo, hài hước, thì bật cười, chỉ răn đe qua loa chứ không đem ra bắt vạ.

Châu chấu đá ông voi

Đền Châu Chấu thờ một nữ thần vốn có tiếng linh thiêng. Tương truyền người qua đường thường phải vào thắp hương khấn lễ, nếu không sẽ bị vật ngã trên đường. Nguyễn Công Trứ đi công cán qua và một ngày đang mưa, quân lính khiêng cáng muốn dừng lại vào thắp hương. Ông vặn hỏi biết đầu đuôi câu chuyện. Nguyễn Công Trứ vốn không tin các chuyện mê tín hoang đường, cấm quân lính không cho vào và ra lệnh cứ tiếp tục đi. Bộ hạ run lập cập nhưng không dám cãi lệnh. Trời mưa, đường trơn, phu cáng run, thế nào mà trượt suýt ngã làm Nguyễn Công Trứ hú hồn. Hoàn hồn rồi ông bực mình lắm, vén màn đọc:

Mụ thần như rứa, rứa thì thôi,
Tí nữa ông đây thịch cái rồi
Nếu có khôn thiêng đành phận dưới
Lẽ nào châu chấu đá… ông voi!

Nghe nói bài thơ này truyền ra ngoài, trẻ con kháo nhau đọc, rồi người ta sinh chờn với nữ thần.

Nợ ca trù

Thuở thiếu thời, lúc còn là học trò nghèo, Nguyễn Công Trứ rất thích nghe hát ả đào. Gần miền có một ả đào tên Hiệu Thư nhan sắc xinh đẹp lại nổi tiếng hát hay, nhưng tính nết kiêu kỳ. Không phải vương tôn công tử, chưa ai thưởng thức được giọng hát lời ca của cô ta. Ông muốn gần mà không thể gần được, bèn nghĩ ra một kế là đến xin theo Hiệu Thư làm kép. Đàn đáy ông rất hay, mỗi khi Hiệu Thư đi hát đình đám, ông thường cùng một tiểu đồng quảy gánh mang đàn theo sau.

a dao a

Một hôm có đám ở huyện bên mời Hiệu Thư sang hát, ông cố ý để quên dây đàn ở nhà. Đi được vài dặm đến chỗ đồng không quãng vắng, ông giả vờ luống cuống. Hiệu Thư gạn gỏi, ông nói: “Vội vàng bỏ quên dây đàn ở nhà, bây giờ biết làm thế nào?”

Hiệu Thư phàn nàn rồi sai tiểu đồng chạy trở về lấy. Lúc ấy đồng không mông quạnh, chỉ có hai người, ông liền ôm lấy cô làm càn. Cô nàng lúc đó mới biết anh này thật ra chỉ vờ vịt để kiếm cơ hội “tâm sự”, có lý nào nhạc công lại quên được dây đàn? Nhưng chỉ biết đỏ mặt… “ứ hự” mà thôi (dù chẳng phải lấy nhịp để ca gì cả). Sau lần đó, ông bỏ đi không trở lại nữa.

Hơn mười năm sau, Nguyễn Công Trứ làm Tổng đốc Hải Dương. Nhân dịp sinh nhật, ông mở tiệc ăn mừng, cho tìm ả đào danh ca các nơi về hát. Tình cờ Hiệu Thư lại ở trong đám ca nhi ấy.

Ngồi vào chiếu hát, nàng liếc nhìn thấy ông quan trang nghiêm đang cầm roi chầu ngồi trên sập kia chính là anh kép đàn năm xưa đã đường đột với mình ở chỗ đồng không quãng vắng, liền bắt đầu bài hát nói bằng hai câu mưỡu rằng, mà thoạt nghe có vẻ không đâu vào đâu:

Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự… anh hùng nhớ chăng?

Mọi người tuy không ai hiểu rõ nghĩa thế nào, nhưng không ai hỏi, vả chăng lời ca nói chung thường không rõ nghĩa. Chỉ có Nguyễn Công Trứ là động lòng, sau dịp hát mời cô đào ở lại hỏi chuyện mới nhận được người quen cũ, cảm động mà hậu đãi cố nhân. Hóa ra “ứ hự” là từ lấy nhịp thường gặp trong ca trù, nhưng trong dịp này cũng có ý tiếu lâm nhắc đến chuyện ngày xưa.

Rồi ông đọc luôn một bài thơ rằng:

Liếc trông giá đáng mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Trăng xế nhưng mà cung chưa khuyết
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi.

Chia đời duyên nọ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi.

Ông hỏi ra mới biết nàng vẫn còn chờ đợi, không chịu lấy ai, liền cưới nàng làm tiểu thiếp. Ông có nhiều vợ, mà đối với vợ nào cũng tỏ ra nặng tình. Tuy nhiên, Hiệu Thư vẫn là người được ông yêu thương thắm thiết hơn cả.

Sau đó ít lâu, ông phụng chỉ đem quân dẹp giặc ở vùng Tuyên Quang, Cao Bằng, xông pha nơi lâm sơn chướng khí. Những khi việc quân nhàn hạ, chạnh thương ai phòng không chiếc bóng, vò võ năm canh, ông làm bài thơ Tương tư theo lối “thủ vĩ ngâm” như sau rồi cho người mang về:

Tương tư khôn biết cái làm sao?
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào!
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao.

Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai, tưởng miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư khôn biết cái làm sao?

Hiệu Thư cũng là người đa sầu đa cảm, đọc bài thơ lời lẽ thấm thía như vậy thì không đành lòng ở nhà được. Một hôm, ông cùng các tướng đang chỉ huy tập trận ngoài bãi, chợt thấy Hiệu Thư tìm đến. Nghĩ thương nàng đi đường xa xôi vất vả, ông ngâm hai câu thơ:

Đành nhẽ bút nghiên mà kiếm mã
Thương ôi kim chỉ cũng phong trần.

Vịnh cây vông

Hà Tông Quyền người xã Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, đỗ Tiến sĩ năm 1822, làm quan đến Lại Bộ tham tri.

Ông có ác cảm với Nguyễn Công Trứ, vì họ Nguyễn lập được nhiều công to lại có tính ngang ngạnh, nên tìm mọi cách dèm pha, gây cho Nguyễn nhiều bước thăng trầm.

Một hôm Hà bày một tiệc rượu mừng con thi đỗ, có mời cả Nguyễn. Trước sân nhà Hà có cây vông to lớn, nhân đó Hà ra đề “Vịnh cây vông” để mọi người ngâm nga.

Nguyễn Công Trứ vốn không thích ngâm vịnh với bọn họ, nhưng thấy mấy bài thơ rặt một giọng tán dương, nịnh hót vị đại thần chủ nhân kia thì ông tỏ vẻ ngứa ngáy khó chịu, bèn vịnh một bài thơ như sau:

Biền, nam, khởi, tử (A) chẳng vun trồng
Cao lớn làm chi những thứ vông
Tuổi tác càng già, già xốp xáp
Ruột gan không có, có gai chông (B)

Ra tài lương đống không nên mặt
Dựa chốn phiên ly (C) chút đỡ lòng
Đã biết nòi nào thời giống ấy
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

(A) Tên bốn loại gỗ tốt.
(B) Cây vông càng già trong ruột càng xốp rỗng và ngoài vỏ càng lắm gai.
(C)  Rào giậu

Đại ý bài thơ nói rằng: sao không trồng thứ cây gỗ tốt như bìền, nam, khởi, tử mà lại đi trồng cây vông làm gì! Vông là thứ cây xốp, làm rường cột (lương đống) không được, thân chỉ có gai, chỉ tạm làm bờ rào (phiên ly) được thôi. Giống cây ấy ra nhiều hoa thì kể cũng lạ. Ý hai câu kết ám chỉ con trai viên đại thần, nòi nào giống ấy, vô dụng như cây vông, mà cũng thi đỗ thật nực cười.

Hà thấy mình là rường cột của triều đình mà bị mỉa “Ruột gan chẳng có, có gai chông” và “rường soi cột trổ không nên mặt” nên giận lắm.

Quân tử ghét

Một hôm trong một  bữa tiệc, Hà Tông Quyền nói:

Quân từ ố kỳ văn chi quý ngài

Nguyên trong sách Trung Dung câu này là “Quân từ ố kỳ văn chi trứ”, có nghĩa người quân tử ghét lòe loẹt bên ngoài. Hà dùng chữ “quý ngài” để thay cho chữ “Trứ” là tên của Nguyễn. Câu cũng có nghĩa xiên xỏ Nguyễn là không được người mến.

Nguyễn Công Trứ đối lại:

Thánh nhân bất đắc dĩ dụng cụ lớn

Nguyên câu vế đối là “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền”, có nghĩa bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến quyền lực. Tài tình ở chỗ Nguyễn dùng chữ “cụ lớn” để thay cho chữ “Quyền” là tên của Hà. Câu trả đũa thâm thúy hơn vì có ý nói Hà được dùng không phải do thực tài.

Bia miệng thế gian

nguyen cong tru
Nguyễn Công Trứ

Trước khi rời kinh đô Huế để nghỉ hưu, Nguyễn Công Trứ sắm một cỗ xe, dùng một con bò cái cổ đeo nhạc để kéo. Ông đi cỗ xe ấy để từ giã bạn bè. Khi đến nhà Hà Tông Quyền (1798-1839), là một đại thần mà Nguyễn Công Trứ không ưa ở chỗ miệng lưỡi khéo léo nịnh hót lấy lòng nhà vua mà gièm pha ông, nên ông lấy một cái mo cau, chép một bài thơ rồi buộc vào phía trong đuôi bò.

Thiên hạ xúm lại xem thơ rồi cười khúc khích, khiến cho họ Hà cũng muốn đến coi. Nguyễn Công Trứ gạt đi và úp sấp tấm mo lại.

Nhưng Hà muốn coi cho được, sấn lại lật ngửa tấm mo lên đọc:

Bia miệng thế gian

Xuống ngựa lên xe nọ tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn tấm mo bưng miệng thế gian

Đọc xong, Hà đỏ gay mặt, vì hiểu rằng Nguyễn Công Trứ chơi khăm mình, ví miệng thế gian hay dèm pha như miệng của họ Hà, nằm phía trong đuôi con bò cái.

Trước kia, Nguyễn Công Trứ cũng đã từng chơi xỏ Hà Tông Quyền (sau phải đổi tên là Hà Quyền do kiêng tên húy của Vua Thiệu Trị).

Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) có tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Bà là vợ ông Lưu Nguyên Ổn (Lưu Nghi) làm Tri huyện Thanh Quan, nên người ta gọi bà là bà Huyện Thanh quan. Bà được mời vào cung giữ chức Cung trung Giáo tập để dạy các công chúa và hậu phi. Bà để lại những bài thơ hay như: Qua đèo Ngang, Thăng Long Thành hoài cổ, Cảnh chiều hôm…, nhưng người ta không quên những giai thoại rất là thơ của bà.

Ba Huyen Thanh QuanTương truyền, lúc ông Huyện Thanh Quan đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đệ đơn lên trình bày rằng chồng cô đã ruồng bỏ cô, nên cô xin được ly dị, lấy chồng khác. Vì thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan thay chồng phê đơn cho phép ly hôn bằng mấy câu thơ:

Phê cho con Nguyễn Thị Ðào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: “Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Một trường hợp khác, một ông Hương cống xin mổ trâu giỗ cha vào thời có lệnh cấm giết trâu. Bà thản nhiên phê mà nghĩa lời phê, ai nghĩ sao thì nghĩ:

Người ta thì chẳng được đâu
Ừ, thì ông Cống làm trâu thì làm

Câu này vừa có nghĩa cho phép ông Cống được giết trâu mà cũng có nghĩa thâm là: “Ừ, ông muốn làm thân con trâu thì cứ làm thân con trâu”.

Chú thích: Có tài liệu ghi Bà Huyện Thanh Quan xử án thay chồng, nhưng có lẽ lúc ông đi vắng, để tránh tồn đọng án bà chỉ xem xét các đơn thưa rồi ghi lời phê để chờ chồng ra phán quyết cho nhanh thì đúng hơn.

Đỗ Xuân Cát

Đỗ Xuân Cát (1806-1864) người làng Cát Xuyên, nay thuộc xã Hoàng Cát, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, đỗ cử nhân, nhưng nhất quyết không ra làm quan, mà ở nhà mở trường dạy học. Vua Tự Đức biết tiếng cho vời ông vào triều để ban mũ, áo, chức tước, nhưng ông Đỗ một mực từ chối. Vì thế người đương thời đã mệnh danh cho ông là “Đỗ trưng quân”, nghĩa là được vua vời làm quan, song không nhận.

Có lần Đỗ Xuân Cát bình bài thơ Tiết phụ ngâm (Khúc ngâm người vợ trinh tiết) của nhà thơ Trương Tịch, thời nhà Đường bên Trung Hoa. Xuất xứ của bài thơ nói về một tác giả họ Trương bị viên tướng rất quyền thế ở đất Vận, tên là Lý Sư Cổ, gọi đến giúp việc. Trương Tịch muốn từ chối, nhưng e ngại thế lực họ Lý, bèn mượn lời người thiếu phụ có chồng muốn giữ tiết hạnh, nên từ chối việc tỏ tình cũng như quà cáp của chàng trai ve vãn, để nói lên lòng mình.

Tiết phụ ngâm – Trương Tịch (Trần Trọng Kim dịch thơ)

Chàng hay thiếp có chồng rồi
Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành
Cảm lòng quyến luyến không đành
Thiếp đeo vào áo lót mình màu sen

Vườn kia nhà thiếp kề bên
Lang quân chấp kích trong đền Minh quang
Biết chàng bụng sáng như gương
Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng sai

Gạt châu, trả ngọc chàng thôi
Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son

Bài thơ trên vốn được các học giả bao đời đánh giá là một tuyệt tác, chưa hề một ai chê bai. Thế mà Đỗ Xuân Cát dám phê phán là nội dung bài thơ chưa đáp ứng được chủ đề. Ông Đỗ phát hiện rằng người phụ nữ đã có chồng trong bài thơ không thật là một người vợ “trung trinh”, vì đã nhận ngọc quý lại buộc vào áo lót lụa hồng, chứng tỏ cô ta đã yêu thích hạt ngọc vậy… Đến khi trả lại ngọc, thì gạt nước mắt mà đưa, thế là còn vấn vương vậy! Nàng còn thầm trách sao không gặp nhau từ hồi chưa chồng, thế là còn nuối tiếc vậy!

Rồi ông Đỗ đặt bút nhận xét: ”Lẽ nào một người vợ thói nhà nền nếp, lại đến nỗi vấn vương, yêu thích, tiếc nuối, ân hận đối với một gã con trai lẳng lơ, buông lời ong bướm?”

Song Đỗ Xuân Cát còn thể hiện rõ tính thực tế và tư duy năng động của mình ở chỗ biết đặt tác phẩm vào hoàn cảnh cụ thể của tác giả, để phê phán. Ông viết tiếp: “Có lẽ bấy giờ viên tướng ở đất Vận cường bạo, nên nhà thơ Trương Tịch không dám nói thẳng thừng, việc làm phải giữ gìn, lời nói phải tỏ ra khiêm tốn, may ra mới được yên ổn, nên lời thơ quanh co như thế?”

Thủ khoa Nghĩa

Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) sinh tại làng Long Tuyền, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ). Ông đỗ Giải nguyên (thủ khoa) kỳ thi Hương ở Gia Định, vì thế ông được gọi là Thủ khoa Nghĩa. Ông là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng.

Sửa thơ Tàu

Người Tàu từ xưa có một bài thơ nói về Tứ Hỉ vốn phát xuất từ quan niệm cho rằng trong đời người, có bốn điều tốt lành mà ai cũng đáng vui mừng. Người Việt gọi là bốn cái sướng và thường tấm tắc khen bài thơ đó hay – như sau (dịch Nôm):

Nắng lâu gặp mưa rào
Xa quê gặp bạn cũ
Đêm động phòng hoa chúc
Thi đỗ, tên bảng vàng

Nhưng theo ý Bùi Hữu Nghĩa thì bốn cái khoái này là chuyện quá bình thường. Phải thêm vào đầu mỗi câu hai chữ nữa, thì bốn cái khoái đó mới thật là sướng khoái! Cụ thêm vào như sau:

Mười năm nắng lâu gặp mưa rào
Ngàn dặm xa quê gặp bạn cũ
Hòa thượng đêm động phòng hoa chúc
Trò dốt thi đỗ, tên bảng vàng

Đúng là bốn chuyện quá sướng:

  • Mười năm khổ gần chết vì khô hạn, mưa xuống mới thật là sướng khoái!
  • Đi ngàn dặm gặp bạn cũ là quá khoái, có thể hỏi chuyện quê nhà, nhờ vã, mượn tiền…
  • Đã tu lâu năm đến cấp hòa thượng mà được động phòng thì sướng làm sao!
  • Học dốt mà thi đậu, thế mới thật là sướng nhất trong đời học trò!

Ngược lại, cụ Thủ khoa Nghĩa cho rằng với bốn cái khoái đó nếu thêm vào hai chữ khác, thì trở thành bốn cái đại khổ. Cụ thêm vào như sau:

Ruộng muối nắng lâu gặp mưa rào
Trốn nợ xa quê gặp bạn cũ
Thái giám đêm động phòng hoa chúc
Kẻ thù thi đỗ, tên bảng vàng

Đúng là bốn cái khổ trần ai trên đời:

  • Ruộng muối nắng lâu tức gần đến lúc thu hoạch, thế mà lại gặp mưa, bao nhiêu vốn liếng công lao khó nhọc đi đong!
  • Xa quê tưởng đâu trốn nợ được, ai dè gặp lại cái thằng bạn cũ mắc dịch thì khổ rồi!
  • Làm thái giám thì còn non nước gì, thế mà phải vào động phòng thì cay đắng oái oăm quá!
  • Đã mệt mỏi với kẻ thù bình thường rồi, bây giờ hắn lại thi đỗ làm quan to thì đúng là khổ nạn!

Sửa thơ Đỗ Mục

Một bài thơ thất ngôn của Đỗ Mục nói về tiết Thanh Minh như sau:

Thanh Minh

Thanh Minh thời tiết vũ phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng giao chỉ Hạnh Hoa thôn

tho_thanh minh do mucDịch (Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Trời Thanh Minh mưa bay lất phất
Người trên đường lạnh đến nát lòng
Mới thử hỏi nơi nào bán rượu
Trẻ chăn trâu chỉ Hạnh Hoa thôn

Thế mà Bùi Hữu Nghĩa cho rằng bài thơ này quá dư thừa chữ nghĩa. Cụ đề nghị gọt dũa bài thơ, cắt bỏ 2 chữ ở mỗi câu, thành ra bài thơ ngũ ngôn như sau:

Thời tiết vũ phân phân
Hành nhân dục đoạn hồn
Tửu gia hà xứ thị
Giao chỉ Hạnh Hoa thôn

Dịch:

Trời mưa bay lất phất
Người lạnh đến nát lòng
Hỏi nơi nào bán rượu
Trẻ chỉ Hạnh Hoa thôn

Lý do cho việc cắt chữ là như sau, từ câu trên xuống câu dưới:

  1. Tựa bài thơ là Thanh Minh rồi, cần gì phải lặp lại đó là thời tiết Thanh Minh! Nên cắt bỏ hai chữ “Thanh Minh”.
  2. Người không đi trên đường thì chẳng lẽ xuống ruộng mà đi! Nên cắt bỏ hai chữ “trên đường”.
  3. Muốn hỏi thì cứ hỏi ngay, cần gì phải mào đầu vòng vo! Nên cắt bỏ hai chữ “Mới thử”.
  4. Đi trên đường quê khi mưa lất phất mà gặp trẻ thì đó là trẻ chăn trâu thôi, phải tự hiểu lấy! Nên cắt bỏ hai chữ “chăn trâu”.

Hóa ra bài thơ vẫn giữ nguyên nghĩa, nhưng Bùi Hữu Nghĩa cho rằng câu cú súc tích, chặt chẽ hơn, loại bỏ chữ dư thừa.

Huỳnh Mẫn Đạt và Tôn Thọ Tường

Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) quê quán ở làng Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định. Ông đỗ Cử nhân năm Tân Mão (1831, Minh Mạng 12). Ra làm quan triều Tự Đức giữ chức Tuần phủ Hà Tiên. Khi Pháp chiếm Nam kỳ, cáo quan về ở ẩn ở Hà Tiên.

Ông hay qua Bình Thủy (Cần Thơ) đàm luận văn chương với Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, rất là thích ý.

bon ken
Ảnh chụp đầu thập niên 1920: Bồn Kèn, là vòng xoay giữa đại lộ Charner (Nguyễn Huệ bây giờ) và đại lộ Bonnard (Lê Lợi bây giờ). Giữa vòng xoay là một bệ vòng, nơi chiều Thứ Bảy, có đoàn chơi kèn nhạc giao hưởng hay quân nhạc cho dân chúng giải trí. Vì thế, người Việt gọi ngã tư này là Bồn Kèn. Hậu cảnh phía trái hình là Tòa Thị chính.

Có lần ông lên chơi Sài Gòn, đang thơ thẩn nơi Bồn Kèn trước Tòa Thị chính, chợt thấy Tôn Thọ Tường (1825-1877), dừng xe bên đường, đi đến. Ông muốn tránh, đứng núp vào gốc cây; song Tôn cứ bước lại chào. Ông không làm sao được, đành đứng ra đáp lễ bằng một bài thơ:

Cừu mã năm ba bạn cặp kè
Duyên đâu giải cấu khéo đè ne!
Đã cam bít mặt cùng trời đất
Đâu dám nghiêng mình với ngựa xe.

Hớn hở, trẻ dong đường dặm liễu
Thẫn thờ, già náu cột cây hòe
Núp nom cũng hổ, chào thêm hổ
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe

Số là khi Pháp đến, Huỳnh cáo quan, Tôn bấy giờ mới ra làm quan. Trước đấy hai bên kết bạn. Nay gặp lại đây, thì Tôn đã may được cơ hội tốt. Một đằng hớn hở với ngựa xe, còn một đằng thẫn thờ núp bên gốc cây, bít mặt cùng trời đất.

Tôn nghe xong, nét mặt sượng sùng, bụng nghĩ: “Trong cơn hoạn nạn gặp nhau giữa đường mà cũng ngâm nga, đúng thật là phong thái nhà nho!” Nhưng như thế cũng phải: làm thơ thì dễ nói hơn là đối đáp thường vì thơ nhiều ý mà ít lời, huống chi hai bên tình ý cùng nghẹn ngào cả.

Bèn đọc lại mấy vần biện minh cho mình.

Tình cờ gặp gỡ bạn tiền liêu (A)
Thi phú ngâm nga hứng gió chiều
Thế cục đổi dời càng lắm lắm
Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều.

Nước non dường ấy, tình dường ấy
Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu
Hăng hái nhạc Tây hơi thổi mạnh
Nghe qua, ngùi nhớ giọng tiêu thiều (B)

(A) Tiền liêu: bạn làm quan lớp trước.
(B) Tiêu thiều: nhạc đời vua Thuấn.

Ý nói thế cuộc đổi thay, đi xe ngựa thế này có sung sướng gì đâu; cũng vì nhạc Tây thổi mạnh, thế Tây đang lớn, đành phải theo chiều, nhưng lòng riêng vẫn nhớ nhạc cũ.

Tôn ngâm dứt, Huỳnh thấy lập luận bằng hai chữ “đổi dời” thì không chịu, lại đọc tiếp luôn, cốt cho Tôn biết: giấy rách sao không giữ lề, giỏ kia dẫu nát vẫn phải còn lại được khung tre!

Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe
Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve
Chớ nói đổi dời, sao cốt cách?
Xưa nay giỏ nát vẫn còn tre.

Từ đó Huỳnh trở về Hà Tiên, tiêu dao nơi non xanh nước biếc, không còn màng gì tới việc đời nữa.

Năm 1966, GS. Trịnh Vân Thanh nêu lên nhận xét:

Với một tâm trạng đau khổ, luôn bị dằn dặt của Tôn Thọ Tường, chúng ta thấy ông không phải là người đánh mất cả lương tri. Việc vận động với người Pháp để xin ân xá cho Bùi Hữu Nghĩa, nhẫn nhục nhận lấy những lời thóa mạ, nguyền rủa của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu… mà không tìm cách trả thù hay ám hại, chứng tỏ Tường vẫn còn biết trọng nho phong, sĩ khí…

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát (1809-1855) là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ngay từ thuở nhỏ, Cao Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Ông là văn tài xuất chúng của Việt Nam vào thế kỷ 19, được các nhà văn học sử về sau đánh giá cao.

Tuy vậy, ông không được may mắn trong thi cử. Năm 1831, ông thi Hương đỗ Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, ông bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt.

Có nhiều giai thoại được gán cho Cao Bá Quát nhưng một số có thể là hư cấu.

Đả kích lý trưởng ăn bớt

Một lần, ở làng của Cao Bá Quát có viên lý trưởng khét tiếng là hay tham nhũng, ăn bớt của dân. Dân làng chê trách nhưng không ai dám chỉ trích công khai.

Nhân có việc làng cho đắp đôi voi thờ dựng trước cửa đình, cậu Quát cùng chúng bạn ra chơi, lấy bút viết luôn vào lưng voi bài thơ:

Khen ai rõ khéo đắp đôi voi
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Chỉ có cái kia sao chẳng đắp?
Hay là thầy Lý bớt đi rồi!

Bài thơ thật thâm thúy, “cái kia” mà lý trưởng vẫn không bỏ qua, như bây giờ người ta nói quan tham ăn chẳng chừa thứ gì!

Chuyển hóa chữ

Đến lần đi thi Hội, qua đất Nghệ An thấy lớp học của một ông Nghè gần đường, Cao Bá Quát dừng lại nghe giảng. Gặp lúc học trò đang bình bài phú “Ma chử thành châm” (Mài chày sắt thành kim), có câu: “Đem giã gạo được, bỗng chốc lại đem khâu áo, mài mà không gãy, chậm lại hóa nhanh, biết lâu càng chịu khó thì mới thành”.

Ông Nghè cứ khen mãi câu văn hay. Cao Bá Quát không đồng ý, khạc nhổ, bịt mũi bỏ ra.

Học trò nhìn thấy, xin ông Nghè túm cổ đánh cho một trận. Nhưng ông Nghè gạt đi, sai mời Cao Bá Quát quay lại và hỏi:
– Câu văn lời hay ý đẹp như thế, cớ sao thầy chê?

Ông Quát thưa:
– Cái công mài chày thành kim đâu phải một lát là được, nên dùng hai chữ “bỗng chốc” thật là phi lý.

Ông Nghè công nhận đúng và nhờ Quát chữa lại giùm. Cao Bá Quát bèn đổi chữ “bỗng chốc” thành chữ “chuyển hóa”. Ông Nghè phục lắm, cố giữ ông Quát lại cùng rượu chè, đàm luận.

Văn khóc vợ

Khi vợ họ Cao mất, ông làm bài văn khóc vợ như sau (dịch Nôm):

Than ôi!
Gái không may mới làm vợ kẻ tài tử
Trai không may mới làm chồng khách hồng nhan.

Mình nay hai mươi mốt, một sớm thình lình thiên cổ
Ta nay hai mươi bốn, bốn bể trôi nổi chín châu.
Hỡi ôi! Hông nhan bạc phận, tài tử vô duyên, chỉ có mình với ta như vậy sao!

Bổ sung thơ Tự Đức

Tự Ðức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ ra câu thơ nào hay, ông thường đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.

Một hôm sau buổi chầu, Tự Ðức nói với các quan: “Ðêm qua Trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!”

Rồi đọc luôn:

Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
.

Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ Hán vừa Nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị, tưởng là thuần Nôm nhưng cũng là chữ Hán.

Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng: “Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.”

Tự Ðức đang hí hửng về hai câu thơ thuần Hán nhưng cũng có âm Nôm rất độc đáo của mình, không dè bị Quát giội một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông đã nghĩ ra. Tuy nhiên, ông vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.

Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường…

Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương huếch hoác lai
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.

Xuân nhật bất văn sương lộp bộp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

Dịch:

Ngựa báu từ tây huếch hoác lại
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về
Trong vườn oanh hót giọng khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.

Ngày xuân chẳng nghe sương lộp bộp
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài
Tứ thơ khù khờ nhiều người biết
Khệnh khạng còn mang hỏi tú tài.

Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Ðức thì biết chính là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và thán phục. Dựa theo cách dùng chữ của nhà Vua, Cao Bá Quát thêm các cụm từ “huếch hoác”, “huyênh hoang”, “lộp bộp”, “bài nhài”, “khù khờ”, “khệnh khạng” – tưởng là thuần Nôm nhưng cũng là chữ Hán. Vua cảm thấy khó chịu ở hai câu cuối, vì quần thần có thể nghĩ Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ.

Nhưng ngoài mặt nhà Vua vẫn phải khen hay – vì đúng là thơ của Bá Quát hay thật. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát, và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.

Chửi quan bằng thơ

Hồi Cao Bá Quát còn đang làm chức hành tẩu trong Huế, một hôm ở chỗ làm việc của ông bỗng xảy ra một đám đánh nhau. Nghe đâu đó lại chính là hai vị quan khá to ở triều đình. Nguyên nhân thế nào thì Quát không rõ, nhưng chỉ thấy hai ông lúc đầu thì cãi nhau, sau đến chửi nhau rồi thì đi đến chỗ đấm đá không còn ra thể thống gì nữa.

Ðến khi phân xử phải trái, Tự Ðức biết Quát là người đã thấy tận mắt cái cảnh đó, liền bắt Quát ra làm nhân chứng. Quát vốn không ưa gì bọn này, muốn nhân dịp xỏ xiên chơi, mới lựa lấy một câu chửi đã được nghe để viết vào tờ khai như sau (dịch Nôm):

viet tau

Trước Quát không biết
Sau Quát chẳng hay
Nửa chừng Quát đến
Quát thấy thế này:

Bàn trên chửi “chó”!
Bàn dưới cũng “chó”!
Trên dưới đều “chó”
Rồi choảng nhau luôn

Thần can chẳng bõ
Thần thấy thế nguy
Thần hoảng thần chuồn!

Quát dâng tờ khai lên cho Tự Ðức, rồi đứng tủm tỉm, hể hả lắm, vì không dễ mấy khi được chửi từ trên xuống dưới một bữa sướng miệng như thế. Còn Tự Ðức khi đọc đến câu “Trên dưới đều chó” thì biết thừa là Quát có ý xấc xược, nhưng khốn nỗi đó chỉ là lời khai đúng sự thật mà thôi.

Trách bạn bằng thơ

Khoảng năm 1850, triều đình nhà Nguyễn đã cử Cao Bá Quát giữ chức Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Nghe tin có người bạn cũ làm tri huyện, ông không ngại đường xa, tìm tới thăm. Nhưng mỗi lần ông đến, viên quan này đều sai lính ra trả lời: “Quan đang ngơi”. Thực tình viên quan này vẫn thức, nhưng không muốn tiếp người bạn nghèo đang bị triều đình ghét bỏ.

Mấy lần đến chơi thấy bạn đều lánh mặt từ chối, Cao Bá Quát bèn lấy giấy viết 4 câu thơ nhờ lính đưa vào cho viên tri huyện:

Một buổi hầu, rồi một buổi ngơi
Đâu còn nhớ chữ “viễn phương lai”
Mới sang chừng ấy, ngơi chừng ấy
Sang nữa thì ngơi biết mấy đời!

Viễn phương lai”: có bạn từ phương xa tới thì đáng lẽ phải mừng.

Lời lẽ bài thơ rất nhẹ nhàng, nhưng thâm thúy đối với viên tri huyện: tư cách làm quan, cung cách đối xử với bạn bè thật là đáng trách!

Chê bai Mặc Vân Thi xã

Hai nhà thơ nổi tiếng đương thời là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, con vua Minh Mạng, lập ra Mặc Vân Thi xã để cùng các nhà thơ đương thời trong hoàng tộc và các danh sĩ xướng họa.

Tương truyền biết Quát hay chữ, Tuy Lý Vương thân đến mời Quát tham gia Thi xã và đưa tập văn thơ của Thi xã cho ông xem. Ông mở đọc qua loa, lấy tay bịt mũi rồi cầm bút đề lên ngoài bìa hai câu:

Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An.

Thuyền Nghệ An chở nước mắm nên nặng mùi; ý nói thơ văn của các hội viên Mặc Vân Thi xã là thối! Chê bai như thế là thậm tệ. Vì Tuy Lý Vương biết bản tính ngang tàng của ông nên không lấy làm giận.

Chú thích: Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2018) cho rằng nhiều người chép Cao Bá Quát là bạn tri kỷ của Tùng Thiện Vương, đã từng đề tựa cho tập thơ của ông ấy, và không ai nhận lời đề tựa để chê bai sách mình đề. Hoặc đã chê bai người ta rồi thì người ta không muốn nhờ đề tựa. Vừa chê thơ Thi xã bốc mùi vừa đề tựa khen thơ của bạn thân là Minh chủ Mặc Vân Thi xã thì quá mâu thuẫn. Vì thế, câu chuyện trên hẳn là ngụy tạo. Mặt khác, có thể nào vì tính ngạo mạn nên Quát cứ chê bai trước, dần dà đánh giá lại rồi trở nên thân thiết với Tùng Thiện Vương?

Tài ứng đối

Ứng đối của thầy đồ

Một anh thầy đồ xứ Nghệ đi hát ví ở đình, đến trước sân chẳng may trượt chân ngã cái oạch. Phía bên kia mấy o thấy thì không bỏ lỡ cơ hội chế giễu, một cô lên tiếng:

Tới đây đàn hát vui xuân
Cúi đầu lạy tạ trước sân làm gì?

Rồi cả bọn cười ầm. Anh thầy đồ tuy thẹn nhưng vẫn nghĩ ngay được cách đáp lại, bèn đọc:

Đất đâu có đất lạ lùng
Bấm thì chẳng chịu, nằm cùng thì cho.

Câu ứng đối đúng với ngữ cảnh khi muốn bấm ngón chân vào đất để đứng nhưng vẫn nằm. Mọi người nghe phì cười làm mấy cô xấu hổ lại bị so sánh với bùn đất, còn anh chàng đảo ngược được tình thế rồi mới ung dung sửa lại khăn áo.

hatdoiGhi chú: có nguồn cho rằng thầy đồ là Đinh Nhật Thận (1815-1866), đỗ tiến sĩ năm 1939, có nguồn khác cho rằng đó là Cống Quỳnh.

Ứng đối của gái Hà Bắc

Nhân ngày đẹp trời, có một chàng công tử ở Hà Nội đi về chơi ở Hà Bắc. Chàng ta đi lang thang ngắm cảnh đẹp, trời cao xanh trong, khí trời mát mẻ, gió hiu hiu thổi nhẹ, xa xa dưới cánh đồng có vài cô thôn nữ đang gặt lúa. Chàng ta phởn chí nghĩ rằng: “Mình lại trêu chọc mấy em kia đi!”

Thế là chàng ta lại gần mấy cô thôn nữ và đọc:

Nhà em tội lỗi vì đâu
Sao em cứ chổng phao câu lên trời?

hat doi CMấy cô thôn nữ rũ ra cười, một cô tinh nghịch đứng thẳng lên và đáp lại:

Bây giờ nông vụ chí kỳ
Em mà không chổng lấy gì anh xơi?

Chàng trai nọ đỏ mặt tía tai, lòng thầm nghĩ: “Đừng dây vào gái Hà Bắc nữa”.

Nguyễn Quý Tân

Nguyễn Quý Tân (1814-1858), người làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, thời vua Gia Long. Thuở nhỏ, ông nổi tiếng khắp nơi là một người học giỏi. Ngay từ lúc còn đi học, ông đã tỏ vẻ khinh ghét bọn quan lại tham nhũng, hách dịch.

Chửi xỏ quan

Một hôm, nhằm ngày rằm Trung thu ở tỉnh Hải Dương, vợ con quan đầu tỉnh ra ngoài phố chơi. Lính tráng dẹp đường, hò hét om sòm, roi quất vào đầu người dân. Cậu học trò Tân có mặt ở đó, thấy thế tức lắm, cứ đứng ỳ ở giữa đường không tránh, nên bị lính bắt giải đến trước mặt quan.

Trò Tân khai mình là học trò, mải đứng xem một cái đèn kéo quân nên không biết có bà quan đến.

Ông quan liền nói rằng nếu nhận là học trò thì làm bài thơ vịnh “Đèn kéo quân”, nếu hay thì được thưởng mà nếu không hay thì bị đánh đòn.

Trò Tân suy nghĩ chốc lát rồi hạ bút viết:

Một lũ ăn mày một lũ quan
Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn
Đến khi dầu hết đèn thôi cháy
Chẳng thấy ăn mày chẳng thấy quan.

Quan đọc xong biết trò Tân chửi xỏ vì đánh đồng quan với ăn mày, bầm gan tím mặt, nhưng không chê bài thơ vào đâu được, nên buộc lòng phải thả Tân.

Viết giúp đơn kiện

Năm 31 tuổi, Nguyễn Quý Tân đỗ Tiến sĩ, từ đó nhiều người gọi ông là “Nghè Tân”. Được triều đình bổ chức Tri phủ, nhưng vì tính tình phóng khoáng, không chịu nổi những ràng buộc của công danh thế sự, nên vài tháng sau khi nhận chức, ông đệ đơn xin từ chức với ý định đi ngao du sơn thủy, lấy túi thơ bầu rượu làm vui.

Vua Thiệu Trị biết ông là người thanh liêm có tài nên đặc cách phong ông làm Thanh tra các quan lại ở Bắc kỳ. Ông lĩnh nhiệm vụ, thường hóa trang lúc làm người học trò nghèo, lúc giả làm lái buôn, lúc giả làm thợ, cùng với những người lính tùy tùng cũng hóa trang như ông, đi khắp nơi để điều tra tham quan ô lại.

Một hôm ông Nghè Tân cùng lính tùy tùng giả làm phường lái buôn đi qua phố phủ Bình Giang. Ông thấy một người đàn bà đang nhớn nhác tìm kiếm một việc gì, vừa khóc lóc vừa kể lể đáng thương. Ông hỏi lý do tại sao thì người đàn bà mếu máo trả lời:

– Tôi là đàn bà góa chồng. Nhà có con trâu, chẳng may nó chết. Hôm qua tôi nhờ thầy lý trưởng làm đơn và đóng triện thị thực để hôm nay lên trình quan phủ xin chôn cất, thầy lý đòi 2 quan tiền. Sáng nay tôi đi từ nhà đến phủ, qua mấy cánh đồng, vừa tới nơi, rờ tới tờ đơn cuốn để trong bọc thì không thấy, chỉ còn có 6 quan tiền để lễ quan Phủ và nha lại. Nay tôi trở về làng thì xa quá mất cả ngày, mà nhờ người viết đơn hộ thì không có tiền để trả công người ta.

Ông Nghè Tân nghe vậy lấy làm bất bình. Chôn một con trâu chết mà phải tốn kém tiền bạc và mất thì giờ cho người dân. Lý dịch, quan nha đều ức hiếp dân lành lấy tiền của, nên ông nhất định làm cho mất cái thói hiếp đáp đó. Ông hỏi quán nước ở cổng phủ thì biết quan Phủ mới từ trong kinh ra nhậm chức, ra lệnh bắt dân vào hầu bất cứ việc gì đều phải nộp 2 quan tiền trình diện. Đơn khai trâu chết phải nộp 5 quan, bò chết nộp 3 quan, ngoài ra bọn nha lại, lính lệ ăn thêm một vài quan nữa.

Ông Nghè Tân mở tráp lấy giấy bút rồi vào quán nước viết dùm cho người đàn bà lá đơn như sau:

Tôi là phận gái nữ nhi
Có con trâu chết phải đi trình người
Vội vàng váy trụt đơn rơi
Tôi mượn một người làm cái đơn ni

Quan Tri ới hỡi quan Tri
Xin Ngài chấp nhận đơn ni làm bằng
Nếu quan còn hỏi mần răng
Thời quan cắn cỏ lạy thằng làm đơn.

Rồi ông đưa cho người đàn bà mang đơn vào nộp. Bà ta vào trong công đường, mượn cái mâm gỗ để lá đơn kèm với 5 quan tiền, đệ đơn lên bàn rồi quỳ lạy. Phủ quan ngồi nơi xa, sai lính lệ ra nhận đơn và tiền mang vào. Quan Phủ đọc lá đơn, thấy lời nói hỗn xược thì giận tím mặt, nhưng ông thấy nét chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa, ông nghĩ tên viết đơn này phải là tên sừng sỏ, ông muốn biết tên nào đã viết đơn cho mụ đàn bà.

Ông thét lên:
– Mụ kia ! tên nào làm đơn cho mi ? Mi phải khai thực, không thì ta nọc cổ đánh đòn và nhốt giam mi lại.

Người đàn bà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, lập cập khai:

–  Bẩm quan lớn. Con nhờ thầy lý làm dùm cái đơn tối hôm qua để sáng nay con mang lên trình quan lớn. Chẳng may đi đường rớt lá đơn lúc nào không hay, con đang tìm kiếm quanh quẩn thì có một ông lái ở quán nước cổng phủ thương tình làm hộ lá đơn này. Lạy quan lớn, trăm lạy, xin quan lớn tha tội cho.

Quan Phủ nghe nói vậy liền sai mấy tên lính lệ ra quán nuớc ngoài cổng phủ bắt tên lái buôn viết bậy vào, nhưng bọn lính lệ ra đến quán nước chỉ thấy có một ông quan đeo bài ngà, cùng với mấy tên lính theo hầu, vì lúc bấy giờ ông Nghè Tân và mấy người lính đã trút bỏ bộ quần áo lái buôn mà mặc áo quan và áo lính vào rồi.

Lính lệ lật đật chạy về trình quan Phủ. Ông này biết là có sự chẳng lành, một phần cũng đoán là ông Nghè Tân đi thanh tra, nên một mặt hối thúc quét dọn công đường, một mặt cùng bọn lính lệ mở toang cổng phủ, ông cùng với bọn nha lại ra hàng nước để đón rước. Khi thấy ông Nghè Tân, viên Tri phủ liếc mắt nhìn bài ngà thấy rõ ràng mấy chữ “Bắc kỳ thanh tra đại thần, Tiến sĩ Nguyễn Quý Tân” thì ông không còn ngờ vực gì nữa, vội phủ phục xuống lạy chào quan Thanh tra và khúm núm sợ hãi mời vào phủ đường.

Ông Nghè Tân vào công đường, bắt Phủ quan trình các giấy tờ sổ sách, công văn, án từ để ông xem xét. Phủ quan và lũ nha lại sợ hãi nem nép đứng hầu chẳng dám hé răng, con ruồi đậu mép cũng không dám đuổi. Dân phố phủ ùn ùn kéo đến trước công đường để xem.

Ông Nghè Tân im lặng tra xét sổ sách tới trưa thì quan Phủ khẽ bảo lính lệ vào trong nhà bảo bà Phủ làm cơm để đãi quan Thanh tra.

Một mâm cỗ thịnh soạn, đủ các món sơn hào hải vị và chai rượu quý được bưng ra công đường, ông Phủ gãi đầu gãi tai mời quan Thanh tra nghỉ tay để dùng bữa.

Nghè Tân nhìn mâm cơm thịnh soạn liền trỏ tay vào quan Phủ mà nói:

– Lòng nào mà ta ngồi ăn sao được! Đã là cha mẹ dân thì phải thương dân như thương con, phải chăm nom cho dân, chớ sao lại bòn rút của dân để ăn uống xa xỉ như thế này? Thôi thầy Phủ cho cất những thức ăn thịnh soạn này đi, ta không ăn uống gì đâu.

Phủ quan sợ hãi tái mặt, vội quỳ xuống xin quan Thanh tra khoan hồng, hứa từ nay sẽ bỏ những luật lệ đó. Ông Nghè Tân liền bắt phủ quan thông sức ngay về tất cả các làng báo cho lý dịch và toàn dân biết từ nay trở đi trâu bò chết không phải trình quan phủ xin phép chôn cất mà chỉ cần trình lý dịch trong làng là đủ, khi có việc lên phủ thì không phải nộp tiền trình 2 quan nữa.

Ra lệnh xong, ông Nghè Tân cùng những người lính tùy tùng ra khỏi phủ, xuống đò đi sang địa hạt khác.

Ngủ ở công đường

Một lần khác qua tỉnh lỵ Hải Dương, nghe nói có quan Tổng Đốc mới từ miền Trung đổi tới nhậm chức. Ông Nghè Tân muốn vào trong dinh điều tra về cách ăn ở và cư xử của quan đầu tỉnh mới ra sao. Ông hóa trang làm một người phó phụ đi theo người thợ đóng cối vào trong tư thất để đóng cối xay cho bà lớn. Làm từ sáng tới trưa mà không thấy bà lớn gọi cho ăn uống gì cả, ngó nhìn thấy người nhà quan Tổng đốc đã ăn uống xong xuôi, ông Nghè Tân tức lắm, bảo ông phó cối nghỉ tay ra phố ăn uống rồi trở lại làm. Còn ông thì vào công đường, lên sập gụ để giữa công đường, là nơi quan Tổng đốc ngồi làm việc hay ngồi xử án, nằm khểnh ngủ một giấc ngáy khò khò. Lúc bấy giờ đã tan buổi hầu sáng, quan Tổng đốc vào tư thất nghỉ ngơi, lính hầu cũng xuống trại, công đường bỏ vắng.

Tới buổi hầu chiều, lính vào dọn dẹp công đường trước khi quan tới, thấy anh phó phụ chân tay dính đất bùn bẩn thỉu đang nằm ngủ trên sập gụ, ngáy khò khò. Lính vội vàng la lên gọi anh dậy, nhưng anh phó phụ chẳng coi vào đâu mà còn ngáy to hơn nữa. Quan Tổng đốc thấy ồn ào chạy tới, thét lính lấy roi ra đánh. Anh phó phụ giả vờ tỉnh ngủ, ngồi dậy, nhìn thấy quan Tổng đốc giả vờ sợ hãi khúm núm.

Quan Tổng Đốc hỏi:
–  Tên kia, mi ở đâu tới mà sao dám vào chốn công đường nằm ngủ?

Ông Nghè Tân đáp là học trò nghèo, vì không có cơm ăn nên đi phụ ông thợ đóng cối để kiếm cơm, mà làm từ sáng đến trưa không được bà lớn cho ăn uống gì, đi qua chỗ này thấy mát nên nằm ngủ thiếp đi chứ không biết đây là công đường.

Quan Tổng Đốc thấy nói là học trò nghèo thì thương hại, bảo nếu quả thực là học trò thì hãy làm một bài thơ, lấy bức tranh “Nhất ô bách tước” treo ở tường vẽ một con quạ và trăm con chim sẻ làm đầu bài.

Ông Nghè Tân nói: “Đói quá không thể nghĩ thơ được, xin cho ăn cơm và uống rượu thì mới làm thơ được”.

Quan Tổng đốc kêu lính dọn cơm rượu cho ông ăn. Khi no say, ông đòi bút mực, giấy tốt, rồi dầm ngọn bút vào nghiên mực, viết một mạch bài thơ tứ tuyệt sau đây, chữ viết như rồng bay phụng múa:

Nhất chích, nhất chích hựu nhất chích
Tam tứ, ngũ lục, thất bát chích
Hà ô chi thiểu tước chi đa
Thực tận nhân gian thiên vạn thạch.

Dịch:

Một con, một con, lại một con
Ba bốn, năm sáu, bẩy tám con
Sao quạ ít mà sẻ nhiều thế?
Ăn nghìn vạn tạ của dân gian!

Viết xong, Nghè Tâng quẳng bút xuống và đưa bài thơ cho viên Tổng Đốc coi, nói:
– Quan lớn đếm coi có đủ số chim không.

Ông Tổng đốc chịu là bài thơ hay, tuy rằng câu kết xỏ xiên nói móc quan lớn ăn hại của nhân dân, nhìn thấy nét bút tuyệt đẹp càng thêm phục. Nhưng quan không làm sao đếm đủ số chim được, bèn hỏi:
– Làm sao đủ 101 con chim được?

Ông Nghè Tân đáp:
– 1 cộng với 1 cộng với 1 là 3. Cộng với 3 lần 4 là 15. Cộng với 5 lần 6 là 45. Cộng với 7 lần 8, chẳng đủ 101 con là gì?

Quan Tổng đốc phục là tài, hỏi rằng:
– Anh có tài lắm, sao không chịu khó học tập để đi thi, may ra tên bảng đề danh, sao lại đi lang thang như vậy? Anh học tập ở trường nào và đã thi cử gì chưa?

Ông Nghè Tân đáp : Dạ, bẩm có đi thi ạ.
Ông Tổng Đốc : Không đỗ hả?

Ông Nghè Tân : Dạ, có đỗ ạ.
Ông Tổng Đốc: Đỗ nhất, nhị, tam trường hả?

Ông Nghè Tân: Dạ, không phải.
Ông Tổng Đốc: Thế thì Tú tài, Cử nhân hả? – Ông vừa hỏi vừa trừng mắt tỏ vẻ ngạc nhiên.

Ông Nghè Tân đáp: Dạ, không phải, mà đỗ Tiến sĩ.

Ông Tổng Đốc nghi ngờ, hỏi danh tính.

Ông Nghè Tân rút trong ngực ra chiếc bài ngà “Bắc Kỳ Thanh Tra đại thần, Tiến sĩ Nguyễn Quý Tân” đeo vào cổ.

Ông Tổng Đốc giật mình, vội vàng đứng dậy vái chào, mời ông Nghè ngồi lên trên sập rồi xin lỗi.

Các lính tráng, quan lại hầu cận quan Tổng đốc bấy giờ đã đông đủ tới công đường để làm việc, ngạc nhiên thấy cảnh tượng buồn cười, một anh phó cối, chân tay dính đất bùn, quần áo rách rưới bẩn thỉu, ngồi chễm chệ trên sập, còn quan Tổng đốc thì kính cẩn nghiêm trang đứng hầu bên cạnh.

Ông Nghè Tân sau khi khiển trách mấy câu về việc lợi dụng chức vụ mướn người làm mà không đối đãi tử tế, dặn dò quan Tổng đốc phải nghiêm cấm các quan lại dưới quyền trong tỉnh nhũng nhiễu dân, rồi ông ra khỏi dinh Tổng đốc cùng bọn lính tùy tùng đã chờ sẵn ở ngoài, lên ngựa qua thị trấn khác.

Chỉ có ông phó cối thực thụ ngạc nhiên, được quan Tổng Đốc đãi bữa cơm rượu thịnh soạn và trả món tiền công hậu hĩ.

Một giai thoại ba người gặp Khuất Nguyên

Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội khi quân, có thể bị xử trảm. Thế nhưng có giai thoại về kẻ dám nói láo với vua, chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng. Thật ra, có đến ba giai thoại với tình tiết giống nhau.

Đinh Nhật Thận

Đinh Nhật Thận (1815-1860), người làng Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, thi đỗ Đình nguyên năm 1838 rồi được bổ làm quan. Ít lâu sau, vì chán cảnh hoạn trường nên ông cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.

Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có liên can đến vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.

Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân lúc vua và các quan đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” (Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.

Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán: “Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không?”

Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy thì mang tội bất trung, còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội lỗi…

Nhưng chỉ giây lát sau ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền.

Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi: “Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi, còn trở lên đây?”

Khuat NguyenÔng đáp:

“Thần định ở luôn nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ:

Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?

Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.”

Nghĩa 2 câu thơ, Diệp Minh Tâm chỉnh lý:

Ta thấy vua hắc ám, chịu hàm oan
Ngươi gặp đấng minh quân, sao chết đuối?

Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt. Cách trả lời khiến cho nhà vua phải chấp nhận, nếu không thì nhà vua không phải là minh quân!

Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai, trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời mấy ai không nói láo, nhưng đã mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!

Lưu Dung

Giai thoại tương tự cũng được cho là liên quan đến Lưu Dung (1719-1805), tể tướng của Vua Càn Long ở Trung Hoa. Sau khi nhảy xuống nước theo lệnh truyền của Vua Càn Long, Lưu Dung trở lên bờ thưa rằng:

“Muôn tâu bệ hạ! Quả đúng là thần đã nhảy xuống sông Mịch La để chịu chết. Song khi vừa chạm đáy sông thì thần gặp ngay Khuất Nguyên, quan đại phu nước Sở. Khuất Nguyên sau khi nghe thần kể rõ nguồn cơn bèn khuyên thần rằng: ‘Sở đại vương là một hôn quân tàn bạo nên ta mới phải tìm đến cái chết để giữ tròn khí tiết. Còn ông được hầu hạ vua Càn Long, một bậc minh quân như thế thì sao lại phải tự tử? Ông làm thế chẳng phải mang tiếng xấu cho vua Càn Long lắm sao!’ Thần thấy Khuất Nguyên nói quá đúng, bèn không dám chết nữa, nên trở lại đây để tiếp tục hầu hạ hoàng thượng”.

Lương Thế Vinh

Chưa hết, giai thoại này cũng được cho là đã xảy ra với Lương Thế Vinh (1441-1496), khi vua Lê Thánh Tông giả vờ say rượu đẩy Vinh rơi tòm xuống sông, rồi cứ cho tiếp tục chèo thuyền đi.

Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống nước, liền lặn một hơi đi thật xa, rồi đến một chỗ vắng lên bờ ngồi núp vào một bụi rậm chẳng ai trông thấy. Lê Thánh Tông chờ mãi không thấy Vinh trồi đầu lên, bấy giờ mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm vớt, nhưng tìm mãi chẳng thấy đâu. Vua hết sức ân hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, chỉ muốn khóc, thì tự nhiên thấy Vinh từ dưới nước ngóc đầu lên lắc đầu cười ngất.

Khi lên thuyền rồi, Vinh vẫn còn cười. Thánh Tông ngạc nhiên hỏi mãi, cuối cùng Vinh mới tâu:

“Thần ở dưới nước lâu là vì gặp phải một việc kỳ lạ và thú vị. Thần gặp cụ Khuất Nguyên, cụ hỏi thần xuống làm gì. Thần thưa dối là thần chán đời muốn chết. Nghe qua, cụ Khuất Nguyên tròn xoe mắt, mắng thần: ‘Mày là thằng điên! Tao gặp Sở Hoài Vương và Khoảng Tương Vương hôn quân vô đạo, mới dám bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông Mịch La. Chứ mày đã gặp được bậc thánh quân minh đế, sao còn định vớ vẩn cái gì?’ Thế rồi cụ đá thần một cái, thần mới về đây!”

Lê Thánh Tông nghe xong biết là Lương Thế Vinh nịnh khéo mình, nhưng rất hài lòng, thưởng cho Vinh rất nhiều vàng lụa.

Đỗ Huy Uyển

Đỗ Huy Uyển (1815-1882), sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là con trai cả của Cử nhân Đỗ Huy Cảnh và là cha của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu.

Khi ông ở nhà dạy học, thường tự phụ là hay chữ bậc nhất; văn chương của ai cũng không coi ra gì. Những làng ở quanh miền La Ngạn, phàm có công việc hiếu hỉ, đều đến xin chữ của ông – mua chữ thì đúng hơn – nhưng vẫn có ác cảm với ông.

Mắc lỡm anh phó lý

Một hôm, làng Thức Vụ mở hội đánh vật. Hương chức ủy phó lý đến xin bốn chữ đại tự để treo trước sân vật . Ông nói: muốn có bốn chữ phải đưa 4 nén bạc. Một cách chặt chém đẹp bởi vì ông là người hay chữ duy nhất trong vùng nên tha hồ hét giá!

Phó lý xin vâng, khất đến sớm hôm sau đem bạc đến lấy chữ. Rồi y về trình làng, lấy bạc đem về nhà cất cho kỹ.

Phó lý vốn biết ông đã lòa, việc văn chương cứ đến tối thường bàn với con trai là Hoàng giáp Liêu, nên vào khoảng chập choạng, anh ta lẻn vào sau nhà ông để nghe trộm.

Quả nhiên đến tối, Liêu ở ngoài về, ông gọi bảo:
– Làng Thức Vụ xin thầy bốn chữ để treo trên đám đánh vật, thầy định cho: “Anh hùng trần lực” hay “Trần lực tựu liệt”, anh tính chữ nào hơn ?

Chú thích: “Anh hùng trần lực” trong Hán sử có nghĩa các anh hùng phải hết sức giúp Hán Cao tổ; “Trần lực tựu liệt” trong Luận ngữ có nghĩa phải đưa hết sức mình ra làm việc xứng với vị thế của mình. Hai câu có nghĩa bóng là cởi trần, giống như trong môn đô vật.

Liêu thưa:
– Hai chữ cùng hay cả, nhưng chữ “Trần lực tựu liệt” hơn vì là ở chính văn, còn chữ “Anh hùng trần lực” thì ở lời bàn.

Anh phó lý nghe được, lẳng lặng ra về.

Sáng hôm sau mặt trời đã lên cao, vẫn không thấy phó lý đến, mà nghe bên đình làng Thức Vụ đã thúc trống đánh vật. Đỗ Huy Uyển bèn sai người sang xem. Khi nghe thưa lại rằng bốn chữ “Trần lực tựu liệt” đã treo rồi, ông mới ngả ngữa, biết mình mắc lỡm anh phó lý, mà đành phải chịu.

Thêm mắc lỡm

Bởi Đỗ Huy Uyển đã đề phòng sau vụ việc trên, mánh của phó lý không ai tái diễn được. Nhưng người hét giá vẫn bị thêm vố đau qua cách khác.

Một làng gần đó lập đền thờ bà chúa Mây, cần có bức hoành treo trên điện. Thầy lý đến xin chữ, thỏa thuận với Đỗ Huy Uyển mỗi chữ một nén bạc.

Hoàng giáp Liên ngồi đó, nhân tiện bàn với con:
– Thầy nghĩ chỉ có: “Dữ thiên vô gián” là hay tuyệt: trời với mây mà lại!

Chú thích: “Dữ thiên vô gián” có nghĩa không cách biệt với trời

Lý trưởng vội đứng lên, chắp tay thưa:
– Bẩm cụ, bốn chữ này đã có người cho rồi đấy ạ. Họ đã cho nào “Dữ thiên vô gián”, nào “Dương dương tại thượng”, nào “Trạc trạc quyết linh” … Để xin cụ nghĩ ra bốn chữ khác, mai con đến lấy.

Thầy lý từ về, rồi cũng như phó lý bữa trước, mai không trở lại, mốt cũng chẳng thấy đâu. Đến khi đền khánh thành, Đỗ Huy Uyển cho người sang xem, thì ra bức hoành đề đúng bốn chữ của mình: “Dữ thiên vô gián”.

Ông chưng hửng, chép miệng:
– Hừ, quân láo thế thì thôi!

Thì ra thầy lý đã lập thế sẵn, hễ ông nghe được chữ nào thì nói luôn ngay rằng chữ ấy người khác đã cho rồi, để khỏi… trả tiền!

Đoàn Tử Quang

Khoa thi Hương trường Nghệ An năm 1900 có một thí sinh râu tóc bạc phơ, dáng ngoài giống bậc lão niên, dự thi. Hỏi ra mới biết người đó tên là Đoàn Tử Quang (1818-1928), người làng Phụng Đạt, xã Phụng Công, huyện Hương Sơn.

Từ nhỏ Đoàn Tử Quang đã được mẹ dạy bảo, khuyến khích học hành, theo đuổi khoa cử để lập công danh thi thố với đời. Ông Đoàn sáng dạ học giỏi nhưng thi mãi chỉ đỗ hai khóa tú tài: một khóa ở tuổi 49 và khóa thứ hai ở tuổi 66.

Vợ cả của Đoàn Tử Quang là Nguyễn Thị San chẳng may mất trước khoa thi có mấy tháng. Hai con ông Đoàn cũng là sĩ tử, đều đã lọt qua các kỳ khảo hạch, nhưng phải để tang mẹ không được dự thi. Bà mẹ ông Đoàn lúc này đã 98 tuổi, vẫn áy náy trong lòng là con cháu mình học hành đến nơi đến chốn, mà chưa ai đỗ đạt cho rạng mặt cha ông. Nay vì tang gia, chịu bỏ lỡ một kỳ thi Hương thì thật đáng tiếc. Con cái phải để tang mẹ đã đành, còn chồng thì lễ giáo vẫn cho phép dự thi kia mà. Sợ con mình buồn phiền, không còn lòng dạ nào để làm bài, bà bèn lựa lời khuyên nhủ ông Đoàn cố gắng bớt sầu não, xếp việc riêng tư, thử đua tranh cùng thiên hạ phen nữa, may ra đỗ đạt mới thỏa lòng mong mỏi của bà bấy lâu, mà gia tông cũng được phần rạng rỡ. Họ hàng, làng xóm cũng xúm vào ủng hộ ý kiến của bà. Đoàn Tử Quang vâng lời mẹ, thay hai con, quảy lều chõng đi thi.

Quan trường thấy chuyện ông Đoàn ở tuổi đại thọ mà vẫn nuôi chí học hành thi cử, đều cho là chuyện lạ hiếm thấy và tỏ lòng bái phục, song ai cũng ái ngại phân vân. Người thì cho rằng ông Đoàn đã già yếu, nên ưu tiên xếp vào danh sách thứ nhất, gần nơi quan trường ở để dễ bề theo dõi, phòng khi ốm đau mới kịp thời giải quyết; kẻ thì nghi ngại ông trí óc đã già nua, lú lẫn, khó lòng làm nổi bài thi.

Quan Chánh chủ khảo vừa cầm tay ông cùng đi, ngỏ lời động viên khen ngợi, vừa dò la xem sức lực, khả năng của ông ra sao bèn hỏi:
– Mắt cụ có mờ không?

Ông Đoàn thành thực trả lời:
– Dạ, hơi mờ ạ!

–  Chân cụ có mỏi không?

Ông Đoàn tự tin đáp, giọng sang sảng:
–  Dạ, còn có thể đi bộ, chạy, quỳ, đứng lễ bái được ạ!

Vì chứng kiến chuyện lạ thi cử nói trên nên Chánh chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh đã viết bài kí: Nghệ trường giai sự (Việc đáng nói ở trường thi Nghệ An), trong đó mô tả tỉ mỉ quá trình thi cử của lão thí sinh Đoàn Tử Quang, đại ý như sau:

Vào thi, ông Đoàn cũng mang ống quyển, hạ lều, trải chiếu và ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh ở vị trí của mình, theo đúng quy định một cách nhanh nhẹn không thua kém gì các thí sinh trẻ tuổi. Làm xong bài kì thứ nhất thì trời đã xế chiều, ông nộp quyển, rồi tự tay kéo xe, chở lều chõng ra về, chẳng thấy có gia nhân trợ giúp. Có người cho rằng ông Đoàn khó qua nổi vòng thi đầu tiên, vì ở cái tuổi đại thọ như ông sẽ rất dễ quên, hoặc nhầm lẫn không viết tránh các tên húy theo quy định cũng nên. Nhưng khi dò hỏi thì thấy ông còn minh mẫn lắm.

leuchong3

Đến kỳ phúc hạch, còn lại 35 người, trong đó có tên ông Đoàn. Song lần này quan trường lại nghi rằng ông lão khó lòng mà địch nổi các thí sinh trẻ tuổi. Văn sách, thơ phú chắc lão không còn nhớ được tỏ tường, chữ viết tay run, e rằng khó tránh nghiêng ngả, nét đậm nhạt không đúng kiểu. Thế nhưng, một lần nữa thí sinh 82 tuổi này làm các quan trường rất đỗi ngạc nhiên là khi khớp phách họ thấy bài của ông làm khá hay, được chấm điểm loại ưu về kinh nghĩa, thơ phú và loại thứ về văn sách. Đặc biệt chữ viết của ông không hề run tay, đậm nhạt, mất nét như người ta tưởng, ngược lại còn đẹp và rõ ràng hơn nhiều thí sinh khác.

Qua bốn kỳ thi, Đoàn Tử Quang chỉ kém người đỗ thủ khoa là Phan Bội Châu. Lẽ ra, ông Đoàn được xếp á nguyên (đỗ thứ hai). Song khi xét trong quyển, nơi cộng các chỗ tẩy xóa, theo quy chế, thí sinh phải viết 3 chữ: “Cộng quyển nội”, rồi mới được kê ra từng lỗi, thì ông Đoàn lại không viết.

Đáng lý là phạm trường quy sẽ bị đánh hỏng, nhưng quan Chánh chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh cảm phục chí học hành của ông Đoàn hiếm thấy xưa nay trong khoa cử, nên thảo tờ tấu lên trên xin cho ông đỗ, nhưng chỉ xếp thứ 29 trong số 30 người trúng tuyển của khoa thi này.

Ngày xướng danh, khi nghe tiếng loa gọi đến tên mình, ông Đoàn trả lời một tiếng to, rồi đi vào bái lạy, nhận mũ áo vua ban, nhanh nhẹn, hoạt bát chẳng kém gì các đồng khoa chỉ vào bậc tuổi cháu, chắt mình (như Dương Hữu Thanh, người Hưng Nguyên, mới 18 tuổi, Trần Đình Tuấn, người Nam Đàn, 20 tuổi…).

Các quan đầu tỉnh, chánh phó chủ khảo dự buổi xướng danh, thấy ông Đoàn đi tới, râu tóc bạc phơ, dáng vẻ thanh thoát như là thần tiên giáng thế, đều đứng cả dậy cầm tay nức nở khen ngợi. Suốt ba kì phải bái, lạy, để tạ ơn vua, nhận mũ áo vua ban và được dự tiệc yến, ông Đoàn đều tỏ ra tráng kiện, không có vẻ gì là khó khăn, mệt nhọc do phải đứng lên, quỳ xuống khá nhiều lần.

Trong bữa tiệc, khi nghe các quan hỏi han về gia thế, ngợi ca ý chí học hành, ông Đoàn trả lời: “Sở dĩ tôi có được ngày hôm nay là nhờ công dạy dỗ, khuyên bảo của mẹ già tôi cả!”

Sau khi dự tiệc xong, theo lệ mỗi tân khoa cử nhân được lấy một phần đem về nhà, để bà con thân thích cùng hưởng lộc vua ban. Ông Đoàn cũng gói phần cho mình. Những người cùng dự lấy thức ăn bỏ thêm vào phần của ông và nói:
– Cụ thì phải đem về nhiều nhiều để đủ chia cho lũ cháu, chắt!

Ông Đoàn cảm ơn, rồi trả lời:
–  Lộc vua, tôi sẽ xin dâng lên mẹ tôi, để hai năm nữa Người tròn trăm tuổi!

Thủ khoa Phan Bội Châu sáng tác ngay bài thơ thể hát nói tặng ông Đoàn như sau:

Đoàn Tử Quang xuân thu bát thập nhị (A)
Đương hoàng triều Canh Tý chi niên (B)
Trên cửu trùng có chiếu cầu hiền
Già lọm cọm đề tên ứng thí

Từ trường nhất rồi sang trường nhị
Qua trường tam văn lý đủ ưu bình
Chờ đến ngày treo bảng xướng danh
Thứ hai chín rành rành trong hương giải

Quan bảng tịnh vô bằng bối tại (C)
Hồi gia duy hữu tử tôn nghinh (D)
Trước sân lai rót chén rượu quỳnh (E)
Già lửng chửng áng mây xanh liền dưới gót

Phong thổ tốt mà phúc nhà cũng tốt
Trong khoa trường âu có một không hai
Làm trai đã đáng thân trai
Giữ trung hiếu vẹn hòa hơn là hạnh thậm

Việc thi cử học hành ai dễ cấm
Quyết làm sao cho “mã thượng cẩm y hồi(F)
Kẻo đến khi tóc bạc da mồi!

(Phan Bội Châu Toàn tập, Tập I)

(A) 82 tuổi.
(B) Năm 1900.
(C) Xem bảng yết chẳng thấy ai cùng lứa.
(D) Trở về nhà chỉ cháu con ra chào.
(E) Ý nói rót rượu mừng thọ mẹ.
(F) Áo bào lên ngựa về (vinh quy bái tổ).

vinh quy bai to c

Khi ông Đoàn đỗ đạt trở về nhà vinh quy bái tổ, Tổng đốc Nghệ An bấy giờ là Đào Tấn cảm tác một bài thơ chữ Hán, dịch Nôm như sau:

Giỏi thật Hương Sơn Đoàn tú tài!
Xuân xanh nay đã tám mươi hai
Trường văn múa bút râu như mác
Quế đỏ cành thơm ẵm chặt tay

Quế đỏ cành thơm ẵm chặt tay
Báo tin chống gậy trở về ngay
Mẹ già tuổi đã chín mươi tám
Nhìn mặt con mình rạng rỡ thay!

Đỗ cử nhân, Đoàn Tử Quang được bổ dụng làm chức Huấn đạo (phụ trách việc giáo dục một huyện) huyện Hương Sơn (1901), rồi đổi sang huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ. Đây cũng là một sự việc khác thường. Theo lệ, các quan thời đó thường đến tuổi 65 đã nghỉ hưu, nhưng riêng trường hợp ông Đoàn tuy ở tuổi 83 là vẫn được triều đình đặc cách bổ dụng để tỏ lòng ưu ái với con người đã say mê học tập suốt đời, tuy thi cử lận đận mà không hề nản chí và cũng là giúp ông thực hiện được hoài bão đem những điều đã học để thi thố với đời…

Năm 85 tuổi, ông Đoàn xin nghỉ hưu để về nhà phụng dưỡng mẹ trên trăm tuổi. Năm ông thượng thọ 106 tuổi còn được triều đình thăng chức Hàn lâm viện thị độc (chức quan văn ở cấp bộ).

Ông mất năm 1928, thọ đúng 11 thập niên. Sinh từ đời Gia Long thứ 16, mất vào đời Bảo Đại thứ 4, ông Đoàn có lẽ là một trí thức độc nhất đã sống qua 13 đời vua của triều Nguyễn.

Chú thích: theo sách Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, cũng trong cùng khoa thi năm 1900, tại trường Hương Hà Nội–Nam Định, thí sinh Vũ Đình Thự, người xã Bình Cách, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình, đỗ Cử nhân khi đã 84 tuổi. Như vậy, so ra cụ Đoàn Tử Quang vẫn còn kém cụ Vũ Đình Thự 2 tuổi khi thi đỗ.

Trương Định

Trương Định (1820-1864) hay Trương Công Định là võ quan nhà Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864.

Văn tế Trương Định

Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn tế Trương Định nhắc tới sự nghiệp của thủ lĩnh nghĩa quân này như sau.

truong dinhLối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên
Lúc cuộc tan, về huyện Tân-Hòa, đắp lũy đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng-hòa những tưởng rằng xong
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần-tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên-tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền
Theo bụng dân phải chịu tướng-quân-phù, gánh-vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ-phu lắm kẻ vui theo
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật-lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham-biện, thương-biện, giúp các cơ bàn-bạc nhung-công
Võ thì dùng tổng-binh, đốc-binh, coi các đạo sửa-sang khí-giái.

Vua Tự Đức

Vua Tự Đức (1829-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì, là vị Hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, từ năm 1847 đến 1883.

Vua Tự Đức và Nguyễn Đăng Hành

Vua Tự Đức là con thứ của Vua Thiệu Trị, nhưng được lên ngôi theo lời trăng trối lúc lâm chung của Thiệu Trị nói với các đại thần, rằng con trưởng Hồng Bảo không thể nối nghiệp lớn, còn Hồng Nhậm đáng nối ngôi vua.

Dù vậy, Hồng Bảo không tin đây là ý của vua cha mà là do đại thần bày mưu, nên quyết chí giành lại ngai vàng. Sau hai lần mưu sự (1851 và 1854) không thành, Hồng Bảo bị Tự Đức giam cầm và chết thảm trong ngục.

Nhân việc dẹp được âm mưu lật đổ của Hồng Bảo, vua Tự Đức mở tiệc ăn mừng. Trong khi đang đãi yến các quan, nhà vua ăn uống thế nào lại để răng cắn phải lưỡi. Vua bèn lấy sự việc đó làm đầu đề bảo các quan làm thơ để mua vui. Các quan đều làm thơ dâng lên vua, nhưng chỉ có bài của Nguyễn Đăng Hành (? – 1862) là hay hơn cả. Bài thơ như sau (dịch Nôm):

Tớ sinh, ngươi chửa ra đời
Ngươi sinh sau tớ, tớ thời làm anh
Hôm nay ăn uống ngon lành
Mối tình cốt nhục, sao đành hại nhau?

Rõ ràng đây là bài thơ nói về việc răng cắn phải lưỡi. Lưỡi có trước khi mọc răng, vậy thì lưỡi là anh và răng là em. Thế mà khi được miếng ăn ngon, đáng lẽ  cùng nhau hưởng thụ, răng lại nỡ lòng cắn lưỡi để tranh ăn lấy một mình.

Nhưng bài thơ lại ngụ ý chê trách nhà vua nỡ giết anh là Hồng Bảo để độc hưởng phú quý.

Tự Đức xem xong, biết là Hành ám chỉ việc riêng của mình, tức giận lắm, nhưng vẫn phải phục là tài. Rồi để thỏa nỗi tức giận của mình, nhà vua sai đem tác giả ra cửa Ngọ Môn nọc đánh ba chục roi về tội châm biếm phạm thượng. Nhưng sau đó, để tỏ ra rằng mình cũng biết quí trọng văn tài, nhà vua lại thưởng tiền và lụa cho tác giả.

Ghi thêm: Có nguồn cho rằng tác giả bài thơ là Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867). Bài thơ dịch Nôm là như sau:

Thuở bác sinh ra, chú chửa sinh
Từ sinh ra chú, bác làm anh
Ngọt bùi chẳng để cùng san sẻ
Cốt nhục đang tâm nghiến đứt tình.

Vua Tự Đức khen hay, nhưng nghĩ một lúc, phán rằng: “Văn chương của khanh thật lưu loát, Trẫm thưởng mỗi câu một lượng vàng, song ý thơ sâu sắc và bí ẩn, Trẫm phạt mỗi chữ một roi.”

Câu chuyện Tự Đức tuyên án bằng thơ

Vua Tự Đức có tiếng là mạnh tay chống tham nhũng. Năm Kỷ Dậu (1849), ông ra chỉ dụ:

Trẫm nghe rằng quan sung sướng thì dân càng khốn khổ. Trên được lợi ích thì dưới chịu thiệt thòi. Cũng bởi những kẻ lộng phép mà làm càn, như xử án thẩm hình dụng tâm thay đổi để sách nhiễu hối lộ, hoặc giả ý đốc sưu thuế rồi nhúng tay vào việc bớt xén, hoặc bắt dân đóng góp, bóc lột nặng nề làm riêng cho mình, đem biếu đãi nịnh nọt để dọn đường tiến thân, xưa nay những mối tệ nạn đó không sao kể xiết.

Vốn là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn, sinh thời vua Tự Đức hay vận dụng thi ca vào các bản chiếu, biểu chính sự, ngay cả khi tuyên án kẻ phạm tội.

Có lần, vị quan thanh liêm, chính trực là Vũ Dinh cho lính theo dõi bắt được người coi kho lấy trộm tiền, giấu vào túi áo rồi trốn ra quán uống rượu. Dù số tiền không nhiều, khi chuyện đến tai Tự Đức, nhà Vua làm bài thơ kết án kẻ tham nhũng:

Nhất nhật nhất tiền
Thiên nhật thiên tiền
Thằng cứ mộc đoạn
Thủy trích thạch xuyên
Tội bất dung tru
Ly ưng xử trảm.

Dịch:

Một ngày một đồng
Nghìn ngày nghìn đồng
Dây cưa gỗ đứt
Nước chảy đá mòn
Tội bất dung tha
Lệnh truyền xử chém.

Tháng 12/1854, thương nhân Trung Quốc tố giác nhiều quan lại triều đình ăn đút lót của thuyền buôn ngoại quốc. Biết tin, vua Tự Đức lập tức phái quan Quản viện đô sát cầm đầu đoàn thanh tra triều đình đến Quảng Nam điều tra làm rõ. Kết quả, những tố giác là có thật.

Án được trình lên, chiếu theo Hoàng Việt luật lệ, 17 người bị xử tội giảo giam hậu (bắt thắt cổ chết nhưng còn tạm giam đợi lệnh), 25 người bị tội lưu đày, 12 người bị tội làm lao dịch, 8 người bị phạt đánh gậy và cách chức.

Trong vụ án này, nhiều quan lớn bị kết tội, như: Tham tri bộ Hộ Phan Tĩnh, nguyên Bố chánh Đào Trí Phú, nguyên đốc học Phan Bật chia nhau 60 lạng bạc bị tội lưu đày. Tri phủ Điện Bàn là Nguyễn Bá Đôn ăn hối lộ 12 lạng bạc, án sát Đặng Kham nhận đút lót 82 lạng bạc. Sau khi bị bắt giam, Đặng Kham lâm bệnh chết trong tù. Theo các tài liệu lịch sử lưu lại, đây là vụ án xử tội nhận hối lộ lớn nhất ở nước Việt thời kỳ phong kiến.

Năm 1868, Điển ty vệ Trung bảo nhất Nguyễn Du bị xử chém ngay sau khi được xác định sách nhiễu, nhận hối lộ 17 khoản, tang vật là 184 quan tiền.

Nhằm răn đe các quan, năm 1881, vua Tự Đức ra chỉ dụ yêu cầu xử nặng với án nhũng nhiễu hay với “viên dịch sâu mọt, chấm mút không chỉ một lần”.

Vua Tự Đức và Lê Ngô Cát

Lê Ngô Cát (1827- 1875), người huyện Chương Đức tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đỗ cử nhân năm 1848, là một nhà nho giỏi thơ nôm ở thời đó.

Tương truyền hồi Lê Ngô Cát đang làm Bố chánh Cao Bằng thì được vua Tự Đức triệu về kinh để sửa lại bộ Đại Nam Quốc sử Diễn ca mà ông hiệu đính của tác giả khuyết danh khi còn làm việc ở Quốc sử quán. Trong bộ sử này, Cát viết mấy câu về bà Triệu như sau:

Vú dài ba thước vắt lưng
Cưỡi voi gióng trống bên rừng trẩy ra
Cũng toan gánh vác sơn hà
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.

Khi dâng sách lên, vua Tự Đức đọc đến đoạn đó thích lắm, chữa hai chữ “Cũng toan” thành “Ghé vai” và nói đùa rằng: “Thế đàn ông nước Nam đâu cả?”

Rồi vua ban thưởng cho Cát một tấm lụa với hai đồng tiền vàng.

Nghe tin, các thân hữu đến mừng, đòi Lê Ngô Cát phải có rượu khao. Khi rượu đã ngà ngà say, các bạn hứng chí đòi chủ nhân phải có thơ tức sự việc được vua ban vàng lụa. Lê Ngô Cát bèn ngất ngưỡng đọc hai câu lục bát như sau:

Vua khen thằng Cát có tài
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.

Ít lâu sau bỗng Lê Ngô Cát nhận được lệnh lại phải đi bố chánh Cao Bằng, ông rất sửng sốt và lo ngại. Mãi về sau mới vỡ lẽ, thì ra hai câu thơ của ông đã đến tai Tự Đức, nhà vua cho ông có ý xỏ vua keo kiệt (một tấm lụa rẻ tiền để làm khố), vì thế lại đày ông lên “nước non Cao Bằng” cho bõ ghét.

Ông Ích Khiêm

Ông Ích Khiêm (1829-1884) sinh tại làng Phong Lệ, tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Thuở nhỏ, ông vừa chăn trâu cắt cỏ, vừa theo học với người chú là Ông Văn Trị. Ông thông minh, chăm học nhưng cũng rất nghịch ngợm. Ông đỗ cử nhân lúc mới 15 tuổi. Vua Thiệu Trị cho mời vào điện cho thử lại bằng bài thơ lấy đầu đề là “Thiếu niên đăng cao khoa” (Tuổi trẻ đỗ cao). Bài làm của ông được vua ban khen.

Lúc trẻ, một hôm Ông ngồi trong quán, quan Huyện sở tại đi ngang: có lính cầm lọng che, 2 lọng trước, 2 lọng sau, quan ngồi trên võng do lính khiêng.

Ai nấy đều ra đường quỳ mọp để cung kính quan huyện, trừ Ông Ích Khiêm. Ông lấy một chiếc giày của ai bỏ đó, cố ý xỏ hai chân vào.

Quan huyện cho lính gọi ra, hỏi làm nghề chi.

“Dạ bẩm: học trò.”

“Học trò thì ta ra một vế, mi đối không được, ta cho lính căng nọc ra mà đánh đòn:

Cắc cớ thay, hai cẳng xỏ một giày

Ông đối lại:

Sung sướng mấy, một đầu che bốn lọng

Câu đối rất chỉnh, nhưng lấy đầu của quan Huyện mà đối với hai cẳng của mình thì quá lắm!

Cuối đời Tự Đức, việc giao thiệp giữa Việt Nam và Pháp đang khó khăn, vua lại cử ông ra bắc mưu đồ việc chống Pháp. Ra Bắc, vừa gặp lúc nhà Thanh cho Phùng Tử Tài, Từ Duyên Húc, và quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc sang đóng rải rác ở các tỉnh thượng du. Quân Tàu ỷ thế áp bức dân Việt rất tàn ác, việc cung ứng lương thực cho họ rất phiền phí, dân chúng ca oán. Ông cho việc mượn binh Tàu sang đánh Pháp là thất sách, nên có làm bài thơ.

Áo chúa cơm vua đã bấy lâu
Đến khi có giặc phải thuê Tàu
Từng phen võng giá mau chân nhảy
Đến bước chông gai thấy mặt đâu?

Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu
Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu!

Cạo đầu là theo lệnh nhà Mãn Thanh, ý nói sẽ bị Tàu đô hộ.

Ông Ích Khiêm ở Bắc cho đến khi hòa ước Việt Pháp đã ký xong lại về kinh cung chức. Bấy giờ vua Tự Đức đã mất, triều chính rối loạn, vua kế vị còn nhỏ, Tường và Thuyết chuyên quyền, văn thần võ tướng chỉ là một lũ cầu an không ai lo đến việc nước. Ông bực dọc bèn đặt ra một tiệc mời khắp mặt đại thần tới dự. Các món ăn đều làm bằng thịt chó.

Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn được thịt chó, ngập ngừng hỏi món ăn khác, thì ông trả lời: “Bẩm, bữa cơm hôm nay toàn chó cả thôi.”

Cơm xong, các quan gọi nước, mãi không thấy người nhà đưa lên – vì ông đã dặn trước đừng đưa – ai nấy đều khô cổ vì rượu. Một lúc sau, người nhà lên ông mắng ầm: “Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại, còn thì không biết việc nước là gì cả.”

Các quan đều tím mặt.

Trong tình hình rối loạn, bốn tháng thay ba vua (Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc), quyền hành trong triều đều do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm giữ. Lại thêm quân Pháp chia cắt đất nước: bờ Bắc của sông Hương thuộc triều đình Huế, bờ Nam thuộc Pháp.

lang mo ong ich khiem
Lăng mộ Ông Ích Khiêm

Vì tính khí khẳng khái không luồn lụy quan trên, lại làm Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phật ý, nên Ông Ích Khiêm bị bắt bỏ ngục. Khi ở trong ngục ông có ngâm hai câu: Trước tình cảnh đất nước đó, Ông Ích Khiêm cảm thán (dịch Nôm):

Một sông, hai nước, khó phân giải
Bốn tháng, ba vua, điềm chẳng lành

Một sông tức là Sông Hương, hai nước tức là hai miền đất nước nằm dưới hai chế độ khác nhau: bên kia tòa khâm người Pháp đóng, bên này thành thuộc về Nam triều. Câu đầu mang tên của Tôn Thất Thuyết, câu sau mang tên của Nguyễn Văn Tường.

Cha của Ông mất sớm. Lúc Ông đang cầm quân dẹp loạn, mẹ mất. Không thể bỏ quân sĩ mà về chịu tang mẹ, Ông làm câu đối:

Mạc hiềm trần thế Khiêm vô mẫu
Ưng tiếu tuyền đài phụ hữu thê

Dịch:

Trần thế đừng hiềm Khiêm mất mẹ
 Tuyền đài có vợ, hãy mừng cha.

Ý ông nói cha chết đã xuống suối vàng trước, giờ mẹ cũng xuống theo… Vợ chồng sum hợp, mừng cho cha. Người có thể bảo ông vô tình với cái chế của mẹ, nhưng người khác có thể nhận ra chất vô vi của Trang Tử.

Phan Văn Trị

phan van triPhan Văn Trị (1830-1910) sinh tại làng Hạnh Thông, tỉnh Gia Định. Hai mươi tuổi ông đỗ cử nhân nên thường được gọi là Cử Trị. Nhưng ông không chịu làm quan vì tính khí ngang tàng, không thích bó buộc thân mình, mặc dù gia đình thanh bạch. Ông lấy việc dạy học và bốc thuốc để sinh sống. Khi quân Pháp gây hấn ở Gia Định (1862) ông tránh xuống Vĩnh Long, kết bạn với Nguyễn Đình Chiểu và Huỳnh Mẫn Đạt.

Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ đau đớn trước sự bất lực của triều đình:

Vĩnh Long thất thủ

Tò tè kèn thổi, tiếng năm ba
Nghe lọt vào tai ruột xót xa
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói
Vắng hoe thành Phụng ủ rầu hoa.

Tan nhà, căm nỗi câu ly hận
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười, hết nói nỗi quan ta!

Sông Rồng: Sông Long Hồ, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long; thành Phụng: tức thành Gia Định xưa.

Ứng đối với Tổng đốc Lộc

Tổng đốc Trần Bá Lộc (1839-1899), một cộng sự đắc lực của Pháp, nghe danh ông, nên khi qua Vĩnh Long cho lính đòi ông đến, ý muốn trừng trị thái độ ương ngạnh. Lộc bắt ứng khẩu làm một bài thơ. Ông xin cho đầu bài.

Lộc vốn thô lỗ, buông lời tục tĩu: “Cục cứt!”

Ông đứng ngâm bốn câu:

Đương cơn lộn xộn ló đầu ra
Người thấy, ai mà chẳng sợ va!
Cậy thế, khom lưng ngồi dưới đít
Biết đâu sắp bị chó liền tha!

Thơ tả đúng đầu đề, nhưng so sánh cục phân với Trần Bá Lộc, mỗi câu đều chĩa vào nhân vật này mà mắng mỏ. Mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền vay mượn của viên tổng đốc mới! Lộc nghe xong xấu hổ, đuổi Cử Trị về.

Câu chuyện bút chiến với Tôn Thọ Tường

Cuộc xướng họa làm cho Phan Văn Trị nổi tiếng nhất thời ấy, là cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường (1825-1877). Cử Trị cùng các bạn Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt… đứng về phe bất hợp tác với Pháp, còn Tôn ở phe hợp tác.

Năm 1862, Pháp lấy 3 tỉnh miền Đông. Họ muốn lấy lòng dân nên kêu gọi sự hợp tác của giới sĩ phu. Tôn Thọ Tường hưởng ứng, được Pháp trọng dụng, cho làm Tri phủ Tân Bình (tương đương với chức đô trưởng Sài Gòn), dần dần lên đến chức đốc phủ sứ (chức quan của người Việt đứng đầu bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở một vùng lớn). Tôn cho mình là thức thời vụ, mong lôi cuốn bằng hữu vào một đường với mình, nhưng các bạn quay mặt đi, ai cũng mỉa mai Tôn là kẻ bán nước cầu vinh.

Tôn bị cô lập, lại bị mạt sát nặng nề, làm 10 bài thơ nhan đề là Giang sơn ba tỉnh, nhằm bào chữa cho mình và thanh minh với dư luận. Mười bài này phổ biến ra, Cử Trị làm mười bài họa lại. Cuộc xướng họa cho thấy rõ lập trường của hai phái hợp tác và bất hợp tác.

Đây là cuộc bút chiến lớn lao, có giá trị lịch sử và văn chương đáng kể, thể hiện rõ nét hai xu hướng chống Pháp và thân Pháp. Trong 10 cặp bài xướng họa đầu tiên, 3 cặp bài xướng họa được chọn ra dưới đây.

Bài 1 (Tôn Thọ Tường)

Giang san ba tỉnh hãy còn đây
Trời đất xui chi đến nỗi này!
Chớp nhoáng thẳng bong dây thép gió
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.

Xăn văn thầm tính thương đôi chỗ
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày
Miệng cọp, hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!

Nghĩa: Tôn khoa trương lực lượng Pháp: dây thép, tàu thủy, cuộc kháng chiến của nhân dân chỉ là một trò trẻ con dại dột, giống như chọc vào miệng cọp hàm rồng.

Bài họa 1 (Phan Văn Trị)

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã nên ta mới thế này
Bến Nghé(A) quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng(B) dầu mặc bụi tro bay.

Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay.

(A) Chỉ việc Pháp đánh chiếm thành Gia Định.
(B) Chỉ việc Pháp đánh chiếm thành Mỹ Tho; cồn Rồng tức Đảo Rồng hoặc Cù lao Tân Long ở Mỹ Tho.

Nghĩa: Cử Trị tả sự tàn bạo của kẻ xâm lăng: “Lửa thiêu Bến Nghé, tro bay Cồn Rồng”. Nhưng mặc dầu vậy, ta vẫn cứ kiên chí nuôi muông bủa lưới, có ngày giết thỏ săn nai, người đừng mượn hơi hùm mà rung cây cho khỉ sợ.

Bài 3 (Tôn Thọ Tường)

Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành
Nghĩ sự đời thêm hổ việc mình
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh.

Hai bên vai gánh ba giềng nặng
Trăm tạ chuông treo một sợi mành
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu
Thân còn chẳng kể, kể chi danh!

Nghĩa: Cũng vì tan tành nên không làm ngơ được: nền lễ giáo đã mất, ta vẫn phải lo cứu vãn, nhưng việc thật khó khăn; quả chuông trăm tạ đem treo bằng sợi chỉ. Thôi thì bảo ta là trâu ngựa ta cũng chịu, ta ra cộng tác thế này còn nghĩ gì đến thân danh nữa; cốt cứu được dân ta mà thôi.

Bài họa 3 (Phan Văn Trị)

Tai ngơ sao được lúc tan tành
Luống biết trách người chẳng trách mình
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh!

Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành
Thân có, ắt danh tua phải có
Khuyên người ái trọng cái thân danh!

Nghĩa: Muốn trách người phải trách mình trước. Đã cộng tác thì đừng nói đến đạo nghĩa, trâm anh làm gì. Người đã vụng tính để thuyền nhỏ lọt vào khe sâu, thì danh dự như treo chuông bằng sợi chỉ, không thể bào chữa được.

Bài 10 (Tôn Thọ Tường)

Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay
Lỗi đạo sao cho đáng mắt thầy
Đất quét đã đành bia lỗ miệng
Chén tràn e nỗi trở bàn tay.

Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp
Mặt trắng xem trời cánh khó bay
Chí muốn ngày nào cho được toại
Giang san ba tỉnh hãy còn đây.

Nghĩa: Ai chẳng biết đạo thảo ngay, đi với kẻ thắng đã đành là xấu, nhưng để nước tràn ra ngoài chén thì cứu vãn sao kịp; đem lời thực bảo cho mà không nghe thì các ông khó có cánh bay đâu được. Chí muốn của các ông bao giờ thành được? Mà đất có mất đâu: giang san hãy còn đây.

Bài họa 10 (Phan Văn Trị)

Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.

Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.

Nghĩa: đạo thảo ngay phải giữ, sao ông lại lo dùm cho người ta? Chúng ta gặp bước không may thì ngậm miệng chờ thời cuộc xoay vần. Dân tộc lầm than nhiều ít hãy nán lòng đợi, ta sẽ có lúc đem toàn lực tranh cao thấp. Cỏ bị gió thì ngã xuống, nhưng sự hơn thua đã biết chắc là về ai!

Sau cuộc bút chiến hào hứng nói trên, họ Tôn không còn dám tâng bốc lực lượng Pháp là hùng mạnh và coi nhân dân như trẻ nít nữa. Ông phân trần: vì hoàn cảnh mà mình phải quyền biến chứ lúc nào cũng có lòng cứu nước cứu dân. Ông ngụ tình hoàn cảnh của mình trong bài thơ sau:

Tôn phu nhân quy Thục (Tôn Thọ Tường)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán, trau tria mảnh má hồng.

Son phấn thà cam rây gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông!
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.

Nghĩa: Tâm sự của Tôn phu nhân khi rời nước Ngô của mình đi theo chồng Lưu Bị ở đất Thục: lúc nào cũng nhớ nhà, như mình theo Tây vẫn không quên nước: bịn rịn chòm mây bạc. Tường cũng như Toob phu nhân thà chịu đau khổ, nhưng không thẹn với non sông vì hoàn cảnh phải làm như thế. Tuy mất lòng anh (phái bất hợp tác) song được bụng chồng (quốc gia) vì có thể đỡ đần cho dân đỡ khổ.

Bài thơ này truyền ra, Cử Trị họa lại trả lời:

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Một ngả trời chiều biệt cõi Đông
Khói tỏa trời Ngô chen thức bạc
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.

Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một cánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!

Nghĩa: Tôn theo Tây ăn mặc sang trọng, phó mặc cảnh khói lửa lầm than, tìm đến nơi phú quý (đượm màu hồng), quên rằng cương thường không thể nào bỏ được: trai ngay thờ chúa cũng như gái tiết hạnh phải thờ chồng.

Sau đó Tôn lại làm một bài ngụ ý nữa, tự ví mình như Từ Thứ bất đắc dĩ phải theo Tào Tháo, nhưng không theo thật lòng nên phải ngậm miệng, không giúp Tào một mưu chước nào:

Từ Thứ quy Tào (Tôn Thọ Tường)

Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi
Muối xát lòng ai, nãy mặn mòi
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả
Về Tào chi sá một cây còi!

Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén
Bịn rịn trông vua biếng giở roi
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!

Nghĩa: Không dám sánh mình như vua Thuấn ngày xưa đi cày có con voi cảm lòng hiếu thảo của vua mà ra giẫm nát đất để cày giúp, song nước nhà còn nhiều người xứng đáng (cột cả) thì một người xoàng như mình (cây còi) có theo Tây vẫn chẳng đi đến đâu. Từ Thứ vì mẹ già nên phải về với Tào Tháo, thề trọn đời không bày một mưu kế gì cho Tháo. Mình tuy theo Tây, nhưng vẫn nhớ nước nhớ vua. Thôi thì chẳng được đua khôn với các ông đành chịu tiếng dại với Tây, nhưng từ nay xin đứng ra ngoài vòng quốc sự.

Bài họa (Phan Văn Trị)

Quá bị trên đầu nhát búa voi
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi!
Xăng văng ruỗi Ngụy mây ùn đám
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.

Đất Hứa(A) nhớ thân sa giọt tủi
Thành Tương(B) mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?

(A) Đất Hứa: Hứa Xương của Tào Tháo, ý nói Pháp.
(B) Thành Tương: Tương Dương của nhà Hán, ý nói phe bất hợp tác.

Nghĩa: như Từ Thứ bịn rịn về đất Hứa Xương giống như họ Tôn theo Pháp nhưng với thái độ xăng xái hơn. Tuy thỉnh thoảng nhớ nước mà sa lệ, nhưng lúc ra đi sao mà tay roi đét ngựa lẹ đến thế! Ông hứa sẽ ngậm miệng giống như Từ Thứ mà không tham mưu gì cho Pháp, nhưng lời ông liệu đáng tin đến mực nào?

Sau đó, Tôn lại bộc lộ tâm sự mình trong một bài thơ vịnh Thúy Kiều, cho là mình vẫn không quên tổ quốc, phải ra làm việc với Pháp chỉ vì lòng muốn nâng đỡ cho dân khỏi điêu linh và kết luận rằng mọi việc tại trời xui nên cuộc biến mà mình phải khổ lòng.

Vịnh Thúy Kiều (Tôn Thọ Tường)

Mười mấy năm trời nhục rửa xong
Sông Tiền Đường đục hóa ra trong
Mảnh duyên bình lãng còn nong nả
Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.

Chữ hiếu ít nhiều: trời đất biết
Gánh tình nặng nhẹ: chị em chung
Soi gương kim cổ thương mà trách
Chẳng trách chi Kiều, trách hóa công.

Bài họa (Phan Văn Trị)

Tài sắc chi mi, hỡi Thúy Kiều!
Cũng thương mà trách một đôi điều:
Ví dù Viên ngoại oan vu lắm
Sao chẳng Đề Oanh sớ sách kêu?

Cái nghĩa chàng Kim tình đáng mấy
Lượng vàng họ Mã đáng bao nhiêu!
Liêu Dương ngàn dặm xa chi đó
Nỡ để Lâm Tri bướm dập dìu!

Nghĩa: Cử Trị muốn mắng Tôn nên mượn cớ mắng Thúy Kiều, sao không noi gương Đề Oanh ngày xưa dâng thơ lên Hán đế xin cứu cha. Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất Tề; nhà không có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út. Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh, Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, vẫn không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lòng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.

Chú thích: Thật ra Thúy Kiều đã biết đến câu chuyện của Đề Oanh nhưng lại cho rằng thấy thẹn nên không làm theo cách đó:

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?

Cuộc bút chiến đến đây chấm dứt, vì từ đây, Tôn ngậm miệng, mặc cho sự thế xoay vần, miễn sao mình được lên xe xuống ngựa.

Ghi thêm: Thái Bạch (1957) nhận xét:

Tôn mặc dầu là một người theo Pháp, bị anh em khinh ghét, hết người này công kích đến người kia đả phá, nhưng trước sau đối xử lại rất tốt… Bị anh em chê bai chừng nào thì Tôn lại tự mình cố gắng thanh minh và bào chữa, chớ không dựa vào oai hùm để đối lại… Cũng như đối với đồng bào, mặc dù là theo Pháp nhưng Tôn không có hành động dã man như bọn Huỳnh Công Tấn, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Đỗ Hữu Phương, vân vân.

Hơn nữa, Phan Văn Trị đã từng nghe theo Pháp mà dụ hàng Trương Định, rồi lần khác dụ hàng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cùng hai người con Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm. Tất cả đều không thành công, và không thấy sử chép gì về việc Phan Văn Trị bức hại những nhân vật đó.

Điếu Huỳnh Công Tấn

Trong sách Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển kể Huỳnh Công Tấn người tỉnh Gò Công, ban đầu chống Pháp dưới quyền chủ tướng Trương Định, sau về hàng Pháp, dâng lễ ra mắt bằng cách bắn gãy xương sống Trương Định. Pháp cho làm Lãnh binh.

Khi Huỳnh Công Tấn lâm chung, Tôn Thọ Tường điếu (dịch Nôm):

Giàu sang ấy thoáng qua, lừng lẫy hùng tâm khinh một ném
Tiếng tăm đành chẳng mục, chê khen công luận phú ngàn năm.

Nguyễn Khuyến

nguyen khuyenNguyễn Khuyến (1835-1909) có tên thật là Nguyễn Thắng, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năm 1864, ông đỗ đầu Cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt khoa thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ “thắng” có chữ lực nhỏ, chữ “khuyến” có chữ lực lớn hơn, hàm ý được mạnh mẽ hơn).

Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Cả ba lần đều đỗ thủ khoa  nên người đời thường gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan đến chức Tổng đốc rồi cáo quan về nhà, không chịu hợp tác với Pháp, thường làm thơ có tính ưu thời mẫn thế và đả kích một số nhân vật lúc bấy giờ.

Các giai thoại văn chương cho thấy Tam Nguyên Yên Đổ có cách dùng chữ thật tài tình, nhiều chữ có nghĩa đen và nghĩa bóng hoặc nghĩa chính và nghĩa phụ, mà cần suy ngẫm kỹ mới hiểu ra. Cũng không thiếu cách nói lái hoặc trái khoáy, như sẽ thấy dưới đây.

Cua chơi trăng

Tương truyền khi còn ít tuổi, mắt Nguyễn Khuyến đã kèm nhèm, vậy mà ngấp nghé cô con gái của ông Cử ở làng bên. Cô này bèn đem chuyện mách cha, ông Cử bèn cho mời ông đến, buộc làm một bài thơ, lấy đầu đề là: Cua chơi trăng, lấy chữ trăng làm vần

Thấy cái đầu đề có vẻ dè bỉu, ông tuy bực mình, song vẫn ngâm ngay tám câu:

Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.

Cung quế chờn vờn hương mới bén
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng
Một mai cá nước cua vui phận
Trăng muốn tìm cua dễ được chăng?

Ông Cử thấy lời thơ hoạt bát và ý thơ khẳng khái, sinh lòng mến phục, nên đổi thái độ, tiếp đãi ân cần. Khi Nguyễn từ về, ông tiễn mãi ra cổng làng. Đến đây, thấy chùa làng có cây thông mọc bên một tháp cao, ông Cử tay trỏ miệng nói: “Giờ xin thầy vịnh cái cảnh này đã rồi hãy về.”

Yên Đổ đọc ngay (dịch Nôm của Nhân Phủ):

Thông, tháp hai cây đứng cạnh nhau.
Tháp dài, thông ngắn ngắm không đều.
Miệng đời chỉ nói thông sao thấp.
Thông mọc rồi cao, tháp thấm đâu.

Ông Cử khen ngợi không ngớt, sai học trò vác năm quan tiền theo Yên Đổ đến tận nhà, giao xong mới được về.

Không rõ về sau, cua có được chơi trăng không, nhưng cua đã được dịp trổ tài nói ngang.

Khóc Vũ Hữu Lợi

Vũ Hữu Lợi (1846-1887) người làng Giao Cù, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, đỗ Tiến sĩ đời Tự Đức nhưng không chịu ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Năm 1885, ông đứng đầu văn thân Nam Định mưu việc Cần vương chống Pháp, nhưng rồi bị bắt. Tổng đốc tỉnh này là Vũ văn Báo lên án xử tử, đưa ông ra chém ở gần bến Vị Hoàng.

Yên Đổ làm bài thơ tứ tuyệt vịnh con thiêu thân, dụng ý khóc Vũ Hữu Lợi.

Tiện nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn
Đầu minh nhi tử, tử nhi an
Cô đăng sát nhĩ ưng lân nhĩ
Đãi đáo thành hôi, lệ thủy càn.

Bản dịch của Nhân phủ:

Chiếc thân nhỏ nhắn lẹ như tên
Tìm sáng liều mình, thác đã yên
Ngọn sáp hại người, nhưng vẫn xót:
Xác chưa tàn hết, lệ còn hoen…

Ứng khẩu về người ăn mày

Nguyễn Khuyến là bạn thiết với Vân Đình, hai ông lại thường hay thi tài văn chương với nhau. Có lần hai ông đang cùng đi chơi trên đường cái quan, chợt thấy đằng trước có người ăn mày để bị trên bờ cỏ để lẩn vào sau bụi cây. Vân Đình đố Yên Đổ tìm được điển tích nào thích hợp với sự kiện ấy.

Yên Đổ đọc:

Phương thốn loạn hĩ, sả Bị chi Tháo.

Nghĩa đại khái là:

Bụng bị rối loạn, bỏ bị mà tháo.

Truyện Tam Quốc: Từ Thứ được thư của mẹ, trong bụng rối loạn, bỏ Lưu Bị đi sang với Tào Tháo.

Từ “bị” đây có nghĩa đen là cái bị của người ăn mày, còn “tháo” từ tên riêng hóa thành một động thái có tính cách khẩn cấp… bất khả kháng.

Phỗng sành

Tương truyền trong thời gian Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn, Hoàng Cao Khải, kinh lược sứ (hàm Chánh lục phẩm) Bắc kỳ, cho mời Yên Đổ đến làm gia sư để có thể giám sát chặt chẽ hơn. Nhà thơ từ chối không được, sau cùng phải nhận một cách miễn cưỡng, không mấy khi có nét mặt vui vẻ.

Hàng ngày sau buổi dạy học, ông hay lững thững đi dạo một mình trong khu vườn vắng của nhà chủ. Tại đó, có cây, có đá, có đủ hoa cỏ bốn mùa, nhất là có ông phỗng sành đứng dưới gốc si, hai mắt đăm đăm dòm xuống bể nước như chứa chất một tâm sự, khiến cho Nguyễn Khuyến rất thích.

ong phongMột lần ông đang tần ngần đứng ngắm phỗng sành, bất chợt Khải đi tới bắt gặp. Ông ta dừng lại, trò chuyện khoe khoang một hồi về vườn tược, rồi hỏi yêu cầu Nguyễn Khuyến vịnh thơ.

Nguyễn Khuyến trỏ ông phỗng sành: “Tôi vịnh thơ ông phỗng sành nhé?”

Khải đồng ý.

Nguyễn Khuyến vuốt râu rồi đọc:

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng!
Tháng ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước vơi đầy có biết không?

Khải nhìn nhận là thơ hay, nhưng biết Nguyễn Khuyến có ý nói xỏ mình. Ít lâu sau ông chiều ý Nguyễn Khuyến để ông về quê và cho con là Nguyễn Hoan đến dạy thay.

Chày đứng

Đền ở làng bên cạnh làng Yên Đổ bị cháy. Sau khi dựng lại đền, làng ấy cho người sang xin chữ cụ Tam Nguyên về thờ. Nguyễn Khuyến nghĩ rồi sổ vào giấy một nét duy nhất, giống như chữ nhất nhưng thẳng đứng, rồi đưa cho người cầm về. Các ông đồ trong làng ngẫm mãi không ra đó là chữ gì, nhưng chữ cụ Tam Nguyên cho, không dám bỏ. Bàn đi bàn lại mãi, các bậc phụ lão lại phải phái người sang xin cụ Tam Nguyên giải nghĩa.

Anh này sang gặp Nguyễn Khuyến, gãi đầu thưa:

–  Bẩm cụ, hôm trước cụ cho chữ làng con mang về thờ. Khổ nỗi làng con tối dạ, không ai hiểu ý nghĩa của chữ ấy ra làm sao, vậy làng lại phải sai con sang mong cụ giảng nghĩa cho chúng con được tỏ.

Nguyễn Khuyến gật gù:
–  Chữ ấy à? Là cái chày ấy mà!

Anh kia ngạc nhiên nhìn cụ Tam Nguyên:
–  Cái chày?

Nguyễn Khuyến lại gật gù:
–  Ừ, cái chày đứng đấy! Là… đừng cháy ấy mà.

Nói rồi Nguyễn Khuyến cười lớn, đứng đậy đi vào trong lấy ra một tờ giấy viết sẵn, bảo: “Thôi mang chữ này về thờ, tôi đã viết sẵn rồi, bỏ chữ cũ đi.”

Nhận xét: Hẳn ý Nguyễn Khuyến là nếu làng bên có ý cầu tiến, thích học hỏi để nhờ ông giảng thì mới được chữ nghĩa chỉn chu!

Sắc không, không sắc

Có một người kể rằng cuối năm 1946, khi đi qua làng Văn Tràng, tỉnh Nam Định, thấy trên cổng chùa đề bốn chữ:

Sắc không, không sắc

Bốn chữ tuy ý nghĩa uyên áo song là chữ cửa miệng của nhà Phật, không có gì đặc biệt. Đặc biệt có chăng là bên giòng lạc khoản đề tên Tam Nguyên Yên Đổ.

Tại sao cụ Tam Nguyên lại đề cho bốn chữ thông thường quá như thế? Có người làng giảng cho thì người ta mới hiểu ngọn nguồn. Nguyên làng này chuyên về nghề mài dao đánh kéo, trong lúc chế tạo người ta thường hay hỏi và trả lời: “Sắc chưa?” và “Chưa sắc”.

Bốn chữ “Sắc không, không sắc” dùng chỗ khác thì không có gì đặc biệt nhưng đề cho ngôi chùa của một làng mài dao, thì lại ngụ một nụ cười hóm hỉnh!

Nụ cười này, giá để ý thì cũng có thể nhận ra được phần nào.

Là vì nếu đặt câu hỏi: sao không dùng như lời nói thường “Sắc sắc không không” hoặc “Không không sắc sắc” mà lại đặt chéo là “Sắc không không sắc”? Nếu hỏi thế, ắt đã phải ngợ một dụng ý gì của tác giả.

Ngợ thế thôi, chứ cũng chẳng ai ngợ được rằng cụ Tam Nguyên đã dùng chữ “sắc” theo cái nghĩa bất ngờ là sắc bén!

Thơ bồ tiên

Một viên quan to có con trai được bổ Tri huyện Thanh Liêm, gần huyện của Yên Đổ. Anh này do nhờ vào quyền thế của bố, lại khéo  chạy chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy. Khi nhậm chức, bề ngoài anh ta tỏ vẻ một viên quan thanh liêm, hiền hậu, nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền  kín đáo, khôn hơn nữa là một tên mật thám cho Pháp để đàn áp nhân dân. Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ, nhằm mượn dịp lừa bịp nhân dân về uy đức của mình.

Một lần, anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là  Bồ tiên thi (thơ roi cỏ bồ), lấy chữ “bồ” làm vần. Đề thi có ý nói về ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ dùng roi bằng cỏ bồ, vì roi cỏ bồ mềm mại, đánh không đau.

Câu chuyện đồn đến tai Yên Đổ, ông thấy chướng tai gai mắt, bèn gửi tới cho hắn một bài thơ như sau:

Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò
Bồ tiên mà lại lấy vần bồ
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng Ngô (A)

Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp (B)
Tiên là ý chú muốn nhiều xu (C)
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc (D)
Không khéo mà roi nó phết cho. (E)

(A) Người Việt gọi người Tàu là Ngô, ý nói văn chương gốc Việt của quan không hay.

(B) Bồ bật cạp cũng như bồ sứt cạp, là một thành ngữ chỉ cái bồ đựng đầy quà nên cạp bật ra. Đây ý nói dân chửi cho đầy bồ.

(C) Chữ “tiên” là roi, đồng âm với chữ tiên là xu. Tác giả dụng ý chơi chữ để chửi tri huyện tham tiền.

(D) Theo một điển xưa, một viên quan muốn làm ra vẻ thanh liêm, hễ dân biếu vàng trước công đường thì không lấy nhưng biếu tiền bạc ở nhà riêng thì vẫn lấy như thường.

(E) Câu kết nhắc đến “roi” là nhằm gói ghém cái đầu đề đã ra.

Văn tế Francis Garnier

Năm 1873, sau khi tướng Pháp Francis Garnier bị quân Cờ Đen giết, các quan ta ở Hà Nội theo lệnh triều đình nghị hòa, nên phải tổ chức một buổi lễ truy điệu, nhằm gây một không khí thân thiện. Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc cử Yên Đổ làm một bài văn tế.

Cụ viết mấy câu sau:

Cái mắt ông xanh, cái da ông đỏ
Cái tóc ông quăn, cái mũi ông lõ
Đít ông cưỡi lừa, miệng ông huýt chó
Ông đeo súng lục liên, ông đi giầy có mỏ
Ông ở bên Tây, ông sang bảo hộ
Ông dẹp Cờ Đen, để yên con đỏ.

Nào ngờ:

Nó bắt được ông, nó chặt mất sỏ
Cái đầu ông kia, cái mình ông đó
Khốn khổ thân ông, đù mẹ cha nó.

Tôi:

Vâng lệnh quan trên cúng ông một cỗ
Này chuối một buồng này rượu một hũ
Này xôi một mâm này trứng một rổ
Ông có linh thiêng mời ông xơi hộ
Ăn uống no say nằm cho yên chỗ
Ới ông Ngạc Nhi ơi! Nói càng thêm khổ.

Sở dĩ lời văn mỉa mai đến sỗ sàng, rất mực trào lộng, mà không ai hót với Tây, là vì bấy giờ Tây vẫn còn ra sức mua chuộc lòng dân, mà Yên Đổ lại là bậc đại khoa có uy tín trong quần chúng, không ai dám động đến. Vả chăng những lối trào lộng như “đít” đối với “miệng”, “nằm cho yên chỗ”, “nó chặt mất sỏ”, người Pháp đâu có hiểu lắt léo như dân Việt dù có người dịch ra tiếng Pháp.

Tuy vậy mặc lòng, các quan không cho đọc bài văn tế này, vốn chỉ được phổ biến bằng khẩu truyền. Vì lý do này mà ngôn từ trong các nguồn khác biệt nhau nhiều. Thiết tưởng nên ghi ra đây một phiên bản khác để bạn thưởng thức thêm.

Nhớ ông xưa:
Tóc ông quăn, mũi ông lõ
Ông ở bên Tây ngang tàng
Ông sang bên Nam bảo hộ.

Quan ông to, ông có lon vàng đeo tay
Công ông cao, ông có mề đay đeo cổ
Mắt ông chiếu kính thiên lý, đít ông cưỡi lừa
Vai ông đeo súng lục liên, miệng ông huýt chó.

Tháng … ngày hai … ông ở huyện Thụy Anh
Tháng … ngày mồng … ông sang Thiên Bình phủ
Ông định giết thằng Đen, để yên con đỏ.

Nào ngờ:

Nó chém đầu ông đi, nó bêu mình ông đó
Khốn nạn thân ông, đù mẹ cha nó.

Nay tôi:

Vâng mệnh các quan tế ông một cổ
Xôi một mâm, rượu một hũ
Chuối một buồng, trứng một ổ
Ông ăn cho no, ông uống cho đủ
Hồn ông lên Thiên đàng, phách ông vào địa hộ

Ông ơi là ông, nói càng thêm hổ!

Đòi xem câu đối

Cụ Tam nguyên dạy học nhà Hoàng Cao Khải, đến rằm tháng chạp giải quán về quê ăn tết. Ông Khải hẹn với cụ rằng, ngày 20 ông có việc về Hà Nam, đến 23 thì đến nhà cụ. Yên Đổ biết chừng là thế, định đến ngày hẹn năm nay làm lễ tiễn ông Táo lên trời trọng thể, bèn dựng cây đèn bóng rất cao, quét tước bếp núc sạch sẽ, đặt đầu rau mới cẩn thận, thì quả nhiên đến ngày hẹn ông Khải về.

Nghe tin báo, cụ cho con trai là ông bảng Tiễu ra đầu làng đón tiếp. Vào đến sân thấy cây đèn bóng cao đã dựng có câu viết dán cột đèn (dịch Nôm):

Chót vót cờ mao, Tết đến chống trời phò nhật nguyệt.

Câu này nghĩa đen nói về cây nêu cao có treo đèn, nhưng nghĩa bóng là tỏ chí khí của nhà thơ. Vế đối lơ lửng này cốt để nhử họ Hoàng vào tròng.

Quả nhiên khi Hoàng Cao Khải tới, đọc vế đối ở cây nêu thì tấm tắc khen hay, nhưng thấy chỉ có một vế thì hỏi tại sao như thế. Ông bảng nói, còn một vế thầy tôi dán trong bếp chỗ thờ ông Táo. Ông Cao Khải sửng sốt hỏi ngay bếp đâu cho ông xem. Vì nóng xem vế dưới, ông bảng dẫn khách vào bếp. Ở đó, cạnh mấy cỗ đầu rau mới nặn, viên kinh lược sứ Bắc Kỳ đọc thấy vế đối lại như sau (dịch Nôm):

Mênh mang khối đất, gặp thời quét sạch sẽ làm vua.

Câu này nghĩa đen chỉ là nói mấy ông đầu rau (ông táo) nặn bằng đất. Nhưng ý tứ sâu xa là bảo họ Hoàng chỉ là đồ nặn bằng đất thịt, nhờ gặp thời mà lên đó thôi, trỏ vào việc Hoàng Cao Khải làm Kinh lược sứ Bắc Kỳ.

Hoàng Cao Khải vì muốn xem vế đối mà phải chui vào bếp, ông ta đã bực. Lúc ngẫm vế đối có ý xỏ xiên như thế thì càng cay hơn; nhưng đành cười nhạt cho qua chuyện vì biết mình dại, đã trót năn nỉ đòi xem chứ nào Nguyễn Khuyến có muốn cho xem đâu!

Trời có nói gì đâu

Một hôm, Hoàng Cao Khải tổ chức đại tiệc, mừng con trai du học bên Pháp, đỗ tú tài Tây vừa về. Bữa tiệc quy tụ rất đông các nhân sĩ có tiếng tăm, kể cả Chu Mạnh Trinh. Tam nguyên Yên Đổ được mời ngồi ở vị trí cao nhất vì tuổi cao và khoa giáp cũng cao, lại là gia sư của chủ nhà. Lúc vào tiệc bày ra mọi câu chuyện, lần lần đến văn chương.

Hoàng Cao Khải cất giọng thưa với Yên Đổ:
– Anh em chúng tôi có một đề tài định làm thơ quốc âm nhưng chưa xong, hôm nay đông đủ ở đây, xin cụ cho một bài để làm hình thức. Đầu đề là: Thiên hà ngôn tai [Trời có nói gì đâu].

Trong Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Ta thật không muốn thuyết giảng.” Tử Cống nghe vậy hỏi: “Thầy mà không giảng, chúng con biết lấy gì mà học theo?” Khổng Tử đáp lại: “Trời có nói gì đâu! Bốn mùa vận hành, muôn vật sinh sôi. Trời có nói gì đâu!”

Hoàng Cao Khải có ý ngầm khoe vận hội tước lộc của ông ta là do tự ý trời, dù “trời chẳng nói”. Có thêm ngụ ý là cứ để sự việc tự diễn tiến, đến trời còn không nói thì người càng không nên nói lôi thôi.

Yên Đổ ứng khẩu đọc ngay bài thơ quốc âm, không sai đầu đề mà lại ngụ ý thóa mạ những kẻ theo đời chìm nổi. Bài thơ như sau:

Chót vót trên này có một tao
Mày xem tao có nói đâu nào
Da tao xanh ngắt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào!

Câu thứ nhất tả trời cao. Câu thứ hai tả trời không nói. Câu thứ ba tả màu sắc trời. Câu thứ tư dùng điển Nữ Oa đội đá vá trời. Ngụ ý thóa mạ văn chương lâm thời lại còn ngụ ý đối chọi, ý thử thách ngầm.

Cử tọa phá lên cười khen hay. Nhưng chỉ sau mấy phút phấn khích, người ta bỗng giật mình vì thấy mặt Khải đằng đằng sắc giận, bởi ngẫm ra bài thơ mượn lời để nhạo báng, mỉa mai. Ông trời pha đen trắng đâu còn nơi là nương tựa cho con người nữa! Ông ta lại còn mày tao chi tớ với người ra đề thơ!

Trao đổi với Chu Mạnh Trinh

Tương truyền Tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan đứng ra tổ chức cuộc thi thơ vịnh Kiều ở Tao đàn Hưng Yên vào năm 1904. Lê Hoan mời Yên Đổ vào ban chấm thi. Thí sinh có thể làm thơ quốc âm hay chữ Hán.

Khi ấy, khách văn chương ở các tỉnh gởi bài về rất nhiều; riêng Chu Mạnh Trinh gửi 20 bài quốc âm đến dự thi. Nguyễn Khuyến chấm thơ Chu Mạnh Trinh  cho là khá; nhưng đọc đến hai câu trong bài Vịnh Sở Khanh:

Làng nho người cũng coi ra vẻ
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay!

Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, phê ngay vào bên cạnh rằng:

Rằng hay thì thực là hay
Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa.

Chẳng mấy chốc chuyện ấy lọt ra ngoài rồi lan khắp trong làng nho, ai nghe cũng lấy đó làm một giai thoại để giễu họ Chu.

Chu Mạnh Trinh từ đấy giận Nguyễn Khuyến. Khi làm Án sát Hưng Yên, nhân ngày Tết, Chu cho người mang đến biếu Nguyễn Khuyễn một chậu hoa trà với dụng ý khá thâm: Nguyễn Khuyến lúc ấy đã bị lòa cả hai mắt mà họ Chu lại tặng hoa chỉ có sắc, không có hương, như thế là có ý xỏ lá.

Hiểu thâm ý của Chu, Nguyễn Khuyến bèn làm bài thơ mỉa như sau gửi lại cho Chu Mạnh Trinh:

Tết đến người cho một chậu trà
Đương say còn biết cóc đâu hoa!
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ
Áo tía đai vàng, bác đó a?

Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá (A)
Gió to luống sợ lúc rơi già! (B)
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi
Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà! (C)

(A) Xỏ lá: Nguyên thủy có nghĩa là nguy hại; do câu thơ chữ Hán  “tầm thường vì vũ kinh xuyên diệp” (những hạt mưa nhỏ dần dà có thể xuyên thủng lá), dần dà có nghĩa sai lệnh giống như xiên xỏ.

(B) Rơi già: rơi rụng quả, gãy mầm; do câu thơ chữ Hán “tiêu sắt thời phong khủng lạc già” (gió mùa khô mạnh làm cho quả rụng, mầm rơi).

(C) Khà: tiếng cười. Mắt lòa không thấy sắc hoa nên muốn thưởng thức hương hoa, nhưng ngửi cũng chẳng có hương nên đành phải cười khà.

Chu Mạnh Trinh đọc xong thơ vừa thẹn vừa ân hận: xỏ lá người nên bị mắng là “phường xỏ lá” (cho dù từ đồng âm) thì đúng thôi..

Nhắn nhủ ban tu thư

Năm 1907, chính phủ bảo hộ đặt ban tu thư, chọn các ông khoa bảng họp lại biên khảo sách giáo khoa mới, chủ ý sửa đổi phép học và phép thi cũ.

Yên Đổ tặng một bài thơ:

Nhắn nhủ tu thư hỡi các ngài
Đã tu, tu kỹ, chớ tu lười
Góp chung ba bốn năm mồm lại
Rồi để trăm nghìn vạn mắt coi.

Bút gác núi Nùng thêm vẻ rạng
Mực mài sông Nhị ngát hương trôi
Bê ba sẵn sách đem ra đọc
Để biết khoa danh biết mấy đời!

Nguyễn Văn Lạc

Nguyễn Văn Lạc (1842-1915) người làng Mỹ Chánh, tỉnh Mỹ Tho. Thông minh, hiếu học, vì nhà nghèo nên ông thi vào ngạch học sinh để được cấp lương học tại trường tỉnh. Do đó, học sinh Lạc sau này được gọi là Học Lạc. Ông học rất tiến nhưng thi mãi không đỗ. Gặp lúc tình thế nhiễu nhương, triều đình phải nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp năm 1862, rồi tân triều khởi xướng lên phong trào “vứt bút lông đi, giắt bút chì”, Học Lạc không chịu theo, bỏ làng Mỹ Chánh, về làng Thuộc Nhiêu (cũng ở Mỹ Tho), cất ba căn nhà lá dạy học và hốt thuốc.

Học Lạc một hôm đi thăm bệnh nhân về trễ, ông ghé vào một quán cơm bên đường nghỉ chân. Chủ quán biết ông là người hay chữ nên khẩn khoản xin ông viết cho đôi liễn treo ở quán:

Mạc vị quán trung vô Phiếu mẫu
Chỉ hiềm lộ thượng thiểu vương tôn.

Dịch (Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Trong quán chớ rằng không phiếu mẫu
Trên đường chỉn ngại ít vương tôn

Ý nói quán này vốn sẵn lòng làm như bà phiếu mẫu khi xưa đem cơm cho Hàn Tín, nhưng e rằng khách bây giờ ít ai tài giỏi như Hàn Tín để mà cho cơm không lấy tiền.

Hai câu này rất được tán thưởng; nhiều nhà hàng cơm ở Mỹ Tho nhờ người viết ra để dán hai bên cửa, cũng có ý nói không cho ăn chịu!

Trong khuynh hướng thi văn, nhiều nhà nghiên cứu văn học xếp Học Lạc vào các nhà thơ có khuynh hướng trào phúng và châm biếm như Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến… Ý châm biếm và phê phán người đương thời trong thơ của Học Lạc thể hiện rõ nhất trong những bài thơ vịnh con tôm, vịnh con trâu… Nội dung tưởng là vịnh chơi cho vui, nhưng thật ra khá thâm thúy.

Con tôm

Chẳng phải vương công, chẳng phải hầu
Học đòi đái kiếm lại mang râu
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

Con trâu

Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Gẫm lại mà coi thật lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.

Mắc mưu đốt đít (A) tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông (B) nhớn nhác sầu
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn khẩy biết nghe đâu.

(A) Điền Đan, tướng nước Tề thời Chiến Quốc cho tập trung cả ngàn con trâu lấy vải nhuộm màu sắc lòe loẹt, may thành áo mặc cho chúng, rồi dùng gươm đao buộc vào sừng, lấy cỏ lau khô tẩm dầu bó vào đuôi. Đến đêm khuya cho quân châm lửa đốt đuôi trâu. Đàn trâu rống lên đâm đầu xông thẳng vào trại quân Yên. Đang ngái ngủ, quân Yên thất kinh hồn vía chạy tán loạn nên thua trận.

(B) Theo lễ xưa, mỗi khi làm chuông xong, người ta giết trâu lấy máu bôi vào chuông, nhất là chỗ bị rạn.

Giai thoại về ả hái sen

Câu chuyện này có nhiều phiên bản khác nhau đôi chút về tình tiết, và bài thơ trong chuyện cũng khác nhau một ít, nhưng điều này không đáng kể.

Ngày xưa, khá xưa… Quan phủ Vĩnh Tường mời một thầy đồ còn trẻ về dạy học cho đám học trò trong phủ.

Quan phủ có cô con gái trẻ nổi tiếng là ứng đáp trôi chảy, xuất khẩu thành thơ và sắc nước hương trời, vừa xinh xinh vừa đáo để.

Một buổi chiều, hết giờ dạy học, thầy đồ tản bộ ra trước ao sen, cũng là lúc cô tiểu thư con quan đang đứng dưới ao hái hoa sen. Có lẽ lúc ấy mãi say sưa thế nào mà cô chủ đứng yên quá, cho nên mặt nước ao phản chiếu lấp ló hình ảnh thầm kín… Ngày ấy phụ nữ mặc váy rộng mà lại không mặc nội y để che lấy “vùng vịnh”, nên mới có hình ảnh lung linh trên bóng nước… Vừa lung linh vừa thấp thoáng, thế mới làm khổ thầy đồ!

Anh đồ trẻ trông thấy, tức cảnh sinh tình, liền cất tiếng ngâm nga hai câu thơ sau đây:

Phong tiền lạn mạn hoa sinh sắc
Thủy diện vi mang bạng thổ thần

Dịch:

Gió bụi tản mạn, hoa khoe màu
Trên mặt nước, con trai thè lưỡi ra

Có người dịch thơ như sau:

Gió đùa lởn vởn hoa đua sắc
Nước dọi lăn tăn bóng thổ thần

Sau đó, cô tiểu thư từ ao sen bước lên, đi qua chỗ thầy đồ dạy học thì thấy tờ giấy ghi hai câu thơ kia. Người bàng quan không hiểu rõ ý tứ thầm kín của hai câu thơ, nhưng cô tiểu thư biết thừa thầy đồ châm chọc mình! Phải làm sao đây? Chẳng lẽ mắng mỏ thầy đồ thì không có đủ luận cứ, lại càng mất mặt thêm!

Vài hôm sau, nàng trao cho anh đồ trẻ bài thơ theo thể hát nói như sau:

A hai sen Thầy đồ nọ vốn người tài bộ
Quảy cầm thư giáo thụ phủ Vĩnh Tường
Trước nha môn thiết lập học đường
Dạy dăm chữ chi hồ dả dã

Một buổi nọ, thầy đồ nhàn hạ
Đồ bước ra xem ả hái hoa
Ả hớ hênh, ả để đồ ra
Đồ trông thấy đồ ngâm nga tức khắc:

Phong tiền lạn mạn hoa sinh sắc
Thủy diện vi mang bạng thổ thần

Đồ ngâm rồi đồ đứng tần ngần
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
Suốt năm canh đồ nằm khôn nhắp
Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia

Đồ đâu gặp gỡ làm chi!

Bài thơ sử dụng ngôn từ quá thâm thúy: thầy đồ xen lẫn với “đồ” của tiểu thư! Riêng câu kết nói đến cái đồ thứ ba, có tác dụng như một câu chửi mắng!

Từ ngày sau người ta không còn thấy bóng dáng anh đồ trẻ trong phủ nữa. Anh ta quá xấu hổ, lại không thể đối đáp gì được, chỉ có nước chuồn êm thấm!

Câu chuyện về Trương Vĩnh Ký

petrus ky
Trương Vĩnh Ký

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), còn được gọi là Petrus Ký, gây nhiều tranh cãi vì có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, đồng thời thân Pháp trong thời kỳ Việt Nam thuộc Pháp.

Pho tượng của Trương Vĩnh Ký chịu nhiều long đong giống như nhân vật thực nhận những ý kiến trái chiều.

Vào năm 1927, có một pho tượng toàn thân bằng đồng của Petrus Ký được đúc tại Pháp và dựng lên ở vườn hoa trước Dinh Norodom (sau này mang tên Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhất). Năm 1945, dân chúng xuống đường biểu tình giật đổ các tượng người Pháp, nhưng lại không đụng tới tượng Trương Vĩnh Ký mặc dù tượng này ở ngay chỗ tập trung biểu tình. Sau này, ông Trần Văn Giàu, một trong những người lãnh đạo thời đó, nhận đã ra lệnh cho người biểu tình không được giật tượng Petrus Ký xuống vào năm 1945.  Không biết đúng sai thế nào, bởi vì ông Giàu được biết từng đả kích Petrus Ký nặng nề.

Bức tượng này được để nguyên chỗ cũ qua những biến cố năm 1945 và sau khi Pháp rút đi. Nhưng cho đến năm 1975 thì được di chuyển. Theo một nguồn thì bức tượng toàn thân này được đưa về Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố (Nhà chú Hỏa, 97 Phó Đức Chính).

Trước 1975, Trường Trung học Petrus Ký có một tượng bán thân của ông được đặt ở giữa sân trường. Sau 1975, tượng bán thân được mang vào đặt bên trong phòng Giám học (Giám hiệu). Một cựu học sinh Petrus Ký cho biết chính anh đã thấy tượng trong phòng đó vào năm 1992, lần đầu tiên anh trở về thăm Saigon. Về sau nầy (không rõ năm nào), trường Petrus Ký (đổi là Lê Hồng Phong) lập một nhà truyền thống tại trường và tượng bán thân được di dời vào đó.

Trong số những ý kiến đả kích Trương Vĩnh Ký, có bài thơ dưới đây.

Bài thơ của Cử Tạ (1958)

Người Việt được Tây đúc tượng đồng
Chúa ơi, vinh dự nhất là ông
Áo dài khăn đống, Annam đặc
Kim khánh mề đay Bảo hộ phong

Mưa nắng chẳng sờn gan sắt đá
Búa rìu sá kể miệng non sông
Tay cầm quyển Đít-son-ne Pháp
Pháp rút đi rồi hỏi tiếc không?

Winston Phan Đào Nguyên có phân tích cho rằng phần lớn bài thơ… ca ngợi Petrus Ký một cách… khá đúng!

Khởi đầu, ở hai câu đề (câu số 1 và 2), Người Việt được Tây đúc tượng đồng / Chúa ơi, vinh dự nhất là ông”, thì Petrus Ký đúng là người Việt hiếm hoi (hay duy nhất?) đã được Pháp đúc tượng đồng.  Và đó là một vinh dự, vì người Pháp thời đó có coi phần lớn người Việt ra gì đâu! Vậy mà họ phải kêu gọi Petrus Ký vào dân Pháp, rồi lại đúc tượng ông, rồi lại đem tên ông đặt cho một ngôi trường lớn mới xây tại Sài Gòn.  Đó là một vinh dự, không thể nói khác hơn! Rồi khi tác giả dùng chữ “Chúa ơi” với vẻ nhạo báng, thì lại cũng diễn tả không sai sự thật, rằng ông Petrus Ký là người theo đạo Thiên Chúa!

Kế đến, ở hai câu thực (số 3 và 4), Áo dài khăn đống, Annam đặc / Kim khánh mề đay Bảo hộ phong, thì quả là không sai vào đâu! Vì Petrus Ký suốt đời mặc áo dài khăn đóng và nhất quyết làm người Việt, dù chính phủ bảo hộ Pháp có tặng đủ thứ huân chương cao quý nhất của họ cho ông.  Chẳng những vậy, ông còn cổ động việc nói và viết “tiếng Annam ròng”, để khỏi phải lệ thuộc Tây Tàu, và kêu gọi giữ gìn đạo đức Việt. Với một tư tưởng như vậy, ông bị không ít người Pháp nghi kỵ và ghen ghét.  Nhưng, những điều đó không cản được việc chính phủ Pháp nhìn nhận những công trình văn hóa của ông, và tặng những “mề đay” đó cho ông.

Tiếp theo, ở hai câu luận (số 5 và 6), Mưa nắng chẳng sờn gan sắt đá / Búa rìu sá kể miệng non sông, mà tác giả dùng để nói lên tính khí của ông Petrus Ký, thì lại càng đúng nữa!  Đó là vì ông quyết tâm trên con đường khai sáng dân trí người Việt, quyết tâm từ bỏ lối học từ chương cũ, để học hỏi những điều mới lạ thực dụng từ người Pháp – trong khi vẫn giữ vững đạo đức người Việt.  Và ông tự nhận vai trò mà ông biết là rất khó khăn đó, nên ông nào có sá gì búa rìu dư luận. Do đó, nói là ông có “gan sắt đá” quả không sai!

Sau cùng, phải ở hai câu kết (7 và 8), Tay cầm quyển Đít-son-ne Pháp / Pháp rút đi rồi hỏi tiếc không?, ta mới thấy ra ý định chế giễu của tác giả Cử Tạ – với cách chơi chữ, dùng “dictionnaire” phiên âm ra tiếng Việt thành “Đít-son-ne”.  Tác giả Cử Tạ đổi chữ c thành t, và viết hoa chữ “Đít’, để hàm ý rằng ông Petrus Ký “bợ đít” người Pháp. Sau đó, tác giả Cử Tạ cho rằng phải chi ông Petrus Ký còn sống thì chắc ông sẽ tiếc cho việc Pháp rút đi lắm. Nhưng, một lần nữa, dù với sự cố gắng chế giễu Petrus Ký của Cử Tạ, sự thật thì ông Petrus Ký quả đã có làm đủ thứ tự điển để dạy học trò.  Nên việc Cử Tạ diễn tả rằng pho tượng ông thời đó cầm cuốn Dictionnaire Pháp, cũng lại… đúng luôn!

Nhân sự kiện một pho tượng đồng của Trương Vĩnh Ký được dựng lên tại San Jose, California, có một bài thơ họa lại bài thơ trên như sau:

Bài thơ họa của Winston Phan Đào Nguyên (2019)

Tài cao lại có đúc tượng đồng
Người Việt nào ai chẳng mến ông
Bỏ chữ Hán xưa, dùng quốc ngữ
Tìm hồn Việt cũ, giữ gia phong

Tượng kia nay đứng trong trời đất
Danh nọ còn vang với núi sông
Trẻ nít chẳng phân điều phải trái
Đái vô chân tượng, hỏi: “hay không?”

“Đái vô chân tượng”: Học giả Vương Hồng Sển sau khi đọc qua những lời đả kích, viết: “… lấy làm tội nghiệp cho nhà học giả tiền bối miền Nam, chết được dựng tượng đồng, mà nay có trẻ nhỏ dám đến đái dưới gốc chân tượng”.

Vũ Duy Tuân

Vũ Duy Tuân (1840-1915) người làng Lạc Tràng, tỉnh Hà Nam, đỗ Cử nhân  năm 1867, làm quan dưới triều vua Tự Đức đến chức Ngự sử. (Chức quan Ngự sử được trao cho người có uy tín để vụ can ngăn vua, giám sát và hạch tội các quan trong triều.)

Tương truyền, khi vào thi hội, các sĩ tử họp lại thử đoán xem đầu bài sẽ ra về vấn đề gì. Vũ Tuân nói:
– Theo ngu ý, năm nay quân Pháp, ngoài sự khiêu khích còn xây thành lũy ở khắp nơi và đặt binh trại rải rác gần kinh thành, có ý nhòm ngó. Tôi chắc kỳ văn sách khoa này thế nào đức Kim thượng cũng hỏi về kế sách đánh hay hòa.

Cử tọa vỗ tay tán đồng, rồi bàn nhau nếu đầu bài đúng như thế sẽ nhất tề luận theo thế công, nhất quyết xin chủ trương đánh, để tỏ lòng bất khuất của sĩ phu.

Khi vào trường thi, quả như lời họ Vũ đoán, kỳ văn sách ra đề: Quân xâm lăng hiện nay càng ngày càng thêm gây hấn, lập đồn lũy khắp dân gian, vậy nên đánh hay nên hòa?

Sĩ tử thấy đầu đề đều khâm phục Vũ và cùng làm bài xin triều đình khởi thế công.

Trong quyển văn của Vũ có câu (dịch Nôm): “Triều đình có sẵn trăm vạn quân tinh nhuệ, thấy việc nghĩa không làm thì không phải là dũng”.

Vua Tự Đức phê vào bên câu này (dịch Nôm): “Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh, nếu đánh mà thua, thì rồi đặt Trẫm ở nơi nào?”

Vua không muốn nói ra sự thực: triều đình đâu có trăm vạn tinh binh, mà cứ muốn đánh!

Văn trường không trúng ý khảo quan, nên họ Vũ chỉ đỗ phó bảng.

Trong bọn có cử nhân họ Dương, bội ước với anh em: khi họp bàn thì vâng vâng, dạ dạ: xin đánh; đến khi vào thi thì viết trái lại: xin hòa. Trúng ý quan trường, nên được đỗ tiến sĩ.

Dẫu sao, Vũ vẫn là người thắng về sĩ khí, danh dự còn hơn đỗ tiến sĩ nhiều. Hết thảy sĩ tử Trung, Nam, Bắc hợp lại khen ngợi ông nhiệt liệt, rồi cùng nghĩ đôi câu đối mừng (dịch Nôm, Diệp Minh Tâm chỉnh lý):

Triều đình hỏi kế, đáp mọi lẽ
Giáp đệ phó bảng, thua chữ hòa

Sĩ tử còn công phẫn tiến sĩ họ Dương, bàn nhau khi nào anh này vinh quy, sẽ họp lại đón đường đánh cho một trận.

Họ Dương mau được người báo cho biết trước nên sau khi lĩnh mũ áo, cờ biển, phải cuốn ngay lại bỏ vào bồ, rồi đêm khuya trốn đi không kèn không trống.

Khi Vũ làm quan Ngự sử, biểu lộ tính quả cảm, cương trực, các quan triều thần đều kính phục nể vì.

Bấy giờ vua Tự Đức còn thân mẫu là bà Từ Dụ Thái hậu. Nhà vua rất có hiếu, thường quanh quẩn bên màn, sớm hôm hầu hạ, nên việc triều chính có phần trễ nãi. Bên ngoài, quân Pháp thế mạnh như vũ bão, chỉ lăm le thôn tính, tình thế nước nhà như chỉ mành treo chuông. Có nhiều việc quan trọng khẩn cấp, họ Vũ xin vào chầu mà mấy lần không được, sau vì trách nhiệm của Ngự sử mà dâng sớ trình bày, trong sớ có câu: “… yến tước xử đường, mẫu tử tương hộ, hú hú nhiên kỳ tương lạc, tự dĩ vi an) Ý nói: nhà cháy đến nơi, thế mà mẹ con chim én, chim sẻ ở đầu hồi vẫn cùng mớm nhau, ra chiều vui vẻ, tự cho là yên ổn lắm.

Vua xem sớ giận quá, phê vào kế bên bốn chữ Tiến sĩ bất đệ (Tiến sĩ thi hỏng). Có ý mỉa họ Vũ: tiến sĩ không đỗ thì làm nên trò trống gì được mà chỉ trích!

Khi từ giã triều đình, ông cho khắc bốn chữ Tiến sĩ bất đệ vào biển sơn son thiếp vàng (chữ vua ban mà!), treo trên chỗ ngồi, để tỏ ý vẫn lấy làm hãnh diện là thi hỏng còn hơn là kẻ lấy tiến sĩ thực.

Mãi tới khi tuổi già, về lập trường dạy học ở nhà một người bạn họ Lê tại làng Kim Lũ, huyện Thanh Liêm cùng tỉnh, ông vẫn để bốn chữ ấy phía trên chỗ ngồi. Để thường ngày chiêm ngưỡng và ngẫm nghĩ về sự đắn đo của nhà vua, mà thời cục đã giành lấy phần trả lời cay đắng cho vua, chua chát cho ông, lại khốn khổ cho cả dân tộc.

Thủ khoa Huân

Nguyễn Hữu Huân (1841-1875) sinh Định Tường, làng Tịnh Hà: năm 20 tuổi đỗ thủ khoa nên được gọi là Thủ khoa Huân, nhưng ông không màng đến công danh.

Năm 1861, ông đứng ra tổ chức nghĩa quân để chống Pháp. Năm 1863, ông bị Pháp bắt và bị đày đi đảo Réunion. Khi đi đày, ông làm bài thơ cảm khái:

Muôn việc cho hay số bởi trời
Chiếc thân hồ hải biết đâu nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.

Chén rượu Tân đình nào luận tiệc
Vần thơ cố quốc, chẳng ra lời
Cương thường bởi biết mang nên nặng
Hễ đứng làm trai trả nợ đời.

Năm 1874, triều đình nhường sáu tỉnh miền Nam cho Pháp. Pháp tha cho ông về, nhưng giao cho Tổng đốc Đỗ Hữu Phương quản thúc.

Phương vốn là bạn cũ của ông, tổ chức một bữa tiệc mừng ông, luôn tiện mời các quan người Việt trong chính quyền mới đến dự.

Nhân có người yêu cầu ông thủ khoa làm bài thơ, ông mới thủng thẳng ngâm bài thơ như sau:

Nghĩ thẹn râu mày với nước non
Nhìn nay tùng cúc, bạn xưa còn
Miếu đường cách trở bề tôi chúa
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.

Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi
Cuốn đất nhiều tay, dám hỏi đon.

Nghe thơ cử tọa cảm động, nhưng không khỏi sượng sùng vì hai câu: “áo Hán thay vẻ lạ” và “rượu Hồ đắm mùi ngon”.

Trong thời gian bị quản thúc, ông chỉ ngâm thơ uống rượu, và tỏ ý băn khoăn về việc gia đình, cốt để cho Phương yên trí ông đã chán nản mọi việc. Quả nhiên Phương tưởng thật, xin Pháp trả tự do cho ông. Bấy giờ Pháp đã nắm vững được tình hình rồi, nên cũng ưng thuận thả ông ra. Được tha, ông lại ngầm tổ chức nghĩa quân chống Pháp.

Năm 1875, ông bị quân Pháp vây bắt. Lần này, Pháp lại dụ hàng nữa, song ông khăng khăng một mực, nên bị đem hành hình tại chợ Phú Kiết, tỉnh Định Tường.

Ông để lại bài thơ như sau:

Hãn mã nan kham vị quốc cừu
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.

Vô bố nghĩa kinh Hồ lỗ phách
Bất hàng cam đoạn Tướng quân đầu
Đương niên Tho Thủy (A) ba lưu huyết
Long đảo (B) thu phong khởi mộ sầu.

Bản dịch của Phan bội Châu:

Ruỗi dong vó ngựa trả thù chung
Binh bại cho nên mạng phải cùng
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ
Hơn thua xá kể với anh hùng.

Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ
Quyết thác không hàng, rạng núi sông
Tho Thủy (A) ngày rày pha máu đỏ
Đảo Rồng (B) hiu hắt ngọn thu phong.

(A) Tho Thủy tức Sông Mỹ Tho, phân lưu của sông Tiền, chảy suốt theo chiều dọc của tỉnh Mỹ Tho.
(B) Đảo Rồng tức Cù lao Tân Long, còn được gọi là Cồn Rồng hay Cồn Long, ở Mỹ Tho.

thu khoa huan_lang mo
Lăng mộ Thủ khoa Huân

Thêm đôi câu đối của Thủ khoa Huân:

Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân

Dịch:

Có chí khó bày, không uổng trăm năm lời nghị chúng
Tuy công chưa lập, cũng đành một thác báo ơn vua

Phan Bội Châu có bài Điếu giải nguyên Nguyễn Hữu Huân như sau:

Buồn thay, thế nước như treo tóc
Chết vậy! Thân trai chẳng cúi đầu
Mười dặm sông Tho ầm sóng hận
Trăng suông, thuyền quạnh xiết bao sầu!

Phan Văn Ái

Phan Văn Ái (1850-1898) quê ở làng Đồng Tỉnh, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Phó bảng năm 1880, tính tình phóng khoáng, hay thơ, làm biên tập trong tờ Đồng văn nhật báo.

Lúc Phan Văn Ái còn đi học, một hôm đang ngồi đàm luận thơ phú với các bạn, thì người ta cho biết mới có lệnh nhắc lại dụ cấm “quần không đáy” của Vua Minh Mạng.

Số là thời Minh Mạng đã có lệnh bắt phụ nữ miền Bắc đang quen mặc váy phải mặc quần. Nhiều buổi chợ thường có quan quân canh gác, ai mặc quần thì được cho vào chợ, ai mặc váy thì phải đuổi về. Vì thế nhân dân phản ứng, mới có câu ca dao:

Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang!

Bữa ấy các bạn học được tin lại cấm mặc váy thì đều cười, bảo Phan Văn Ái thử phú đắc câu ca dao trên xem sao. Ái vui miệng đọc ngay hai câu thơ rằng:

Vắng thiếp bõ phen cho cháo ế
Thương chàng chịu tiếng nấu canh suông.

Nhà thơ dùng toàn chữ và điển trong ca dao, tục ngữ. Câu thơ thứ nhất là lấy ở câu ca dao nói về việc bán hàng ngày mưa:

Ngán thay buổi chợ ngày mưa
Cho cháo tôi ế, cho dưa tôi nồng

Câu thơ thứ hai lấy ở câu tục ngữ: Nấu canh suông, ở truồng mà nấu.

Cả hai câu có nghĩa là: Nếu buổi chợ vắng thiếp (vì mặc váy nên không được vào) thì hàng ở chợ sẽ bị ế. Nhưng nếu mượn quần của chàng để đi chợ, thì chàng lại phải ở truồng (hai vợ chồng nghèo).Thật là mỉa mai sâu sắc. Các bạn học vốn đã phục tài “phú đắc” của Ái, nghe hai câu thơ lại càng thêm phần kính nể.

Tản mạn: có bài thơ thể loại bút tre về đề tài tương tự: cấm mặc quần bò khi đi làm, trong mục kế tiếp.

Nguyễn Văn Xiển – Tôn Thất Thuyết

Nguyễn Văn Xiển (1860? – ?), người làng Hoàng Bột, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) cùng quê với Cống Quỳnh. Ông thông minh hoạt bát, học giỏi, nhưng thi mãi không đỗ, thường có những hành động, cử chỉ ngạo ngược. Người đời cho ông là “Ngộ chữ” (điên vì nhiều chữ quá) và gọi ông là Xiển Ngộ. Cái tên này phổ biến khắp vùng Thanh Hóa. Nhưng hành động ngỗ ngược của ông thành ra những giai thoại nhiều người biết.

Một lần, Xiển Ngộ đến Thanh Hóa đi thi, lại hỏng lần nữa. Ông buồn rầu, cùng các bạn hỏng thi ngồi than phiền, chực mượn rượu tiêu sầu, nhưng sờ túi, các thầy đồ đều hết tiền cả.

Một bạn đố Xiển dám vào xin tiền Tôn Thất Thuyết, lúc ấy đang làm Tổng đốc Thanh Hóa, có tiếng là hách dịch lắm. Xiển nhận làm ngay, nhưng bắt anh em phải cuộc.

Sáng sớm hôm sau, Tôn Thất Thuyết ra công đường thấy một người quỳ ở sân. Thuyết quát lính hỏi tên kia muốn kêu gì.

Xiển đứng dậy trình ngay: “Con muốn chết, đến đây để nhờ lưỡi gươm của cụ lớn hóa kiếp cho.”

Tôn Thất Thuyết quát: “Tên này thật là điên cuồng ngu ngộ! Vì sao mày lại muốn chết?”

Xiển đáp: “Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, sống thêm hỗ bút hỗ nghiên, nên muốn chết cho rảnh.”

Thuyết thấy Xiển có vẻ thư sinh nho nhã, nói năng lại hoạt bát, liền bảo: “Nếu là học trò giỏi mà thi hỏng thì đáng thương. Còn như học trò lười, dốt, thì chết đi là phải. Bây giờ ta ra đề cho ngươi vịnh thử bài thơ xem ngươi là học trò hạng nào.

Rồi Thuyết lấy ngay đầu đề là “điên cuồng ngu ngộ”.

Xiển ứng khẩu đọc luôn bốn câu thơ như sau:

Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên
Tăng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh thần.

Nghĩa là:

Cao Tổ điên đảo người hào kiệt
Vũ Ðế giác ngộ chuyện thần tiên
Tăng Ðiểm ngông cuồng với trời đất
Nhan Tử ngu ngơ mà thánh hiền.

Xiển có ý ngông, tự so sánh mình với bốn nhân vật đều là bậc vua chúa thánh hiền tài giỏi trong sử sách:

  • Hán Cao Tổ có tài thuyết phục làm cho những người tài giỏi phải theo mình;
  • Hán Vũ Ðế thích tìm hiểu chuyện thần tiên để rút kinh nghiệm xử thế;
  • Tăng Ðiểm (Tăng Tử) là học trò giỏi bậc nhất của Khổng Tử, nói về chí hướng của mình là không thích làm quan làm giàu mà thích sống thanh cao;
  • Nhan Tử (Nhan Hồi) học trò giỏi nhất của Khổng Tử, bề ngoài có vẻ như người ngu đần nhưng thật ra là bậc thánh hiền.

Nghe bài thơ, Tôn Thất Thuyết biết Xiển là người tài giỏi, học rộng, trí nhanh; trong chớp mắt biến bốn chữ chê thành bốn chữ khen, để tỏ chí khí của mình. Thuyết bèn thưởng cho Xiển 30 quan tiền, và an ủi, khuyên lơn Xiển nên cố gắng học nữa.

Thế là Xiển được cuộc. Các bạn phải khao một bữa chén linh đình.

Từ Đạm

Từ Đạm (1862- 1936) sinh tại xã Khê Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội), đỗ tiến sĩ năm 1895.

Khi làm quan, Từ Đạm khét tiếng hám lợi, kém tài mà lại sính thơ phú. Bởi thế, ông ta thường bị dân làng văn xỏ xiên chữ nghĩa lắm phen thâm thúy, làm cho thiên hạ hể hả cười.  Một số mẩu chuyện vẫn được sách báo in rải rác. Tác giả Phanxipăng tổng hợp các giai thoại về nhân vật Từ Đạm như trình bày dưới đây.

Có thơ Kiều cải biên về nhân vật đó:

Đội trên đạp dưới suốt đời
Họ Từ tên Đạm vốn người… Khề Hôi
Văn chương quen thói bóp nhồi
Quan trường hùng hục thủng đồi vỡ non.

Khề Hôi là gì, sẽ giải thích sau.

Từ Đạm đỗ kỳ thi Hương ở Nam Định, chánh chủ khảo là Cao Xuân Dục (1842-1923). Nhân dịp này, Tú Xương (1870-1907) viết mấy vần chua chát:

Này này Hương thí đỗ khoa nao?
Nhân hậu thay lòng quan thượng Cao
Người ta thi chữ, ông thi phúc
Dù dở, dù hay, ông cứ vào.

Sau đó, Từ Đạm đỗ luôn tiến sĩ. Thấy thế, Tú Xương càng ngao ngán:

Tiến sĩ khoa này đỗ mấy người?
Xem chừng hay chữ có ông thôi
Nghe văn mà gớm cho ông mãi
Cờ biển vua ban cũng lạ đời!

Sau khi đỗ đại khoa, Từ Đạm được bổ làm đốc học Nam Định, ngay quê hương của… Tú Xương. Lẽ dĩ nhiên, nhà thơ ven sông Vị tiếp tục làm thơ chế nhạo:

Ông làm đốc học cỡ bao lâu?
Cờ bạc rong chơi rặt một màu
Học trò chúng nó tội gì thế?
Để đến cho ông vớ được đầu!

Kế tiếp, Từ Đạm được chuyển làm án sát rồi tuần phủ Ninh Bình, tương truyền khét tiếng tham nhũng. Đã thế, ông ta còn thích xướng thơ, thi đối.

Là danh sơn của đất Ninh Bình, ngọn núi Dục Thúy nằm bên bờ sông Vân và sông Đáy. Từ thời Lý trở về trước, núi này mang tên Non Nước. Vách núi đá từng được khắc thơ của các ông vua kiêm thi sĩ như Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Tương Dực cùng nhiều danh nhân khác. Trên núi có giống cúc dại nở hoa vàng nhỏ, mùi hăng hắc, được xem là vị thuốc quý do Trương Hán Siêu (? – 1354) phát hiện từ thời Trần và đặt tên “sơn kim cúc”.

nui non nuoc ninh binh
Núi Non Nước/Dục Thúy ở Ninh Bình (Ảnh: Phanxipăng)

Từ Đạm có tên tự là Cúc Nhân, cho rằng đấy hẳn là điềm lành. Hằng năm, cứ đến tiết trùng dương (mùng 9 tháng 9 âm lịch), ông ta rình rang tổ chức lễ hội “thưởng sơn thưởng cúc đề thơ”. Y ra cho nho sĩ hàng tỉnh một câu đối với giải treo rất “sộp”. Vế xuất như sau:

Mùa thu tháng chín lên chơi núi

Một vế xuất quá xoàng, vì chả ý vị gì, lại trùng lặp, lẩm cẩm: đã mùa thu lại thêm tháng chín nữa! Vậy nhưng sĩ phu vẫn đua nhau gửi vế đối, chẳng phải vì muốn rinh giải thưởng mà cốt để châm chích y chơi.

Một vế xỉa xói đời tư của Từ Đạm:

Đầu vú cô Ba có sữa non

Một vế khác:

Giờ tý canh ba xuống nhảy đầm

Tác giả cố ý lặp lại ngữ nghĩa y hệt vế xuất, rút từ câu hát dân dã ấm ớ:

Nửa đêm, giờ tý, canh ba
Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi.

Thêm nữa, “xuống nhảy đầm” đối với “lên chơi núi” còn mang nghĩa lao tỏm vào… ao hồ. Tuy nhiên, vế đối đầy ẩn ý là:

Đầu trống canh năm gọi thủng đồi

Quan tuần phủ thoạt đầu không hiểu, sau giật nẩy mình vì vế đối quá… nặng mùi! Hóa ra thủng đồi nói lái thành đổi thùng. Bấy giờ ở các thành phố và thị xã cứ vào khoảng gần sáng là ty vệ sinh cho công nhân đến từng nhà gọi cửa đổi thùng phân. Lấy cái ý đó mà đối lại cái sở thích của quan Tuần phủ họ Từ thì kể thật mỉa mai!

Lại có lần, nhân dịp khánh thọ ngũ tuần bậc quốc mẫu (tức Khôn Nghi Hoàng Thái hậu Dương Thị Thục, mẹ của vua Khải Định), Từ Đạm dọn tiệc mừng và phát động cuộc thi đối.

Vế xuất do ông ta đưa ra bộc lộ thói xu nịnh và không kém phần… quê kệch:

Tiệc thọ năm mươi mừng mẹ nước

Bấy giờ trùng lúc Pháp vừa thắng Đức, công sứ Ninh Bình hạ lệnh mỗi xã phải thu của dân đủ 30 đồng bạc Đông Dương để mua cờ tam tài treo mừng “mẫu quốc Lang Sa”. Do đó, có kẻ nặc danh lén nộp vế đối:

Lá cờ ba chục chết cha dân!

Và câu được cho là của Tản Đà:

Túi tham nghìn vạn chết cha dân

Một văn nhân nhắm vào thói Từ Đạm hay dâng lẫn xơi “của đút”, bèn gửi vế đối:

Bạc thuồn trăm một chết cha dân!

Giai đoạn làm án sát Ninh Bình, Từ Đạm từng bắt giam một anh học trò vì nghi có liên quan quốc sự. Trong ngục, bị can suốt ngày đêm sang sảng ngâm Kiều. Lính canh mắng mãi không được.

Chuyện tới tai, Từ gọi anh học trò lên, vặn:

–  Ngươi giỏi Kiều lắm hử? Thế thì hãy làm ngay một bài thơ vịnh Kiều. Nếu hay, ta sẽ thưởng. Nếu dở, ngươi chịu nhừ đòn.

Ngẫm nghĩ giây lát, anh học trò đọc:

Khóa cửa buồng xuân luống đợi chờ
Mà em mất nết tự bao giờ!
Chàng Kim mê gái, công đeo đẳng
Viên ngoại chiều con, chết ngẩn ngơ.

Nợ trước hẹn hò con đĩ Đạm
Duyên sau gặp gỡ bố cu Từ
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sướng
Còn oán làm chi đứa bán tơ!

Cặp luận của bài thơ thất ngôn bát cú thật hiểm: “con đĩ Đạm” chỉ Đạm Tiên, “bố cu Từ” chỉ Từ Hải, song kỳ thực là lôi cả họ lẫn tên Từ Đạm ra mà xách mé! Quan án sát biết tỏng anh học trò chơi xỏ, nhưng bới cái chỗ độc địa kia để hạch tội ắt chẳng hay ho gì, đành khen thơ hay và ngậm bồ hòn mà thưởng!

Năm Giáp Tý 1924, lên núi Dục Thúy “thưởng cúc, đề thơ”, Từ Đạm khua khoắng bài tứ tuyệt Hán tự:

Phong nguyệt nhĩ câu thích
Đồ thân thùy khổng ai
Sở lạc tại sơn thủy
Tọa cửu thôi phúc giai.

Thơ bị người đời chê dở, nhưng Từ Đạm đắc ý. Bắt chước các bậc danh sĩ thuở xưa, ông ta gọi thợ lên núi để khắc bốn dòng kia vào vách đá!

Dưới đây là bản Nôm của Đinh Giáng trong sách Thơ bia núi Thúy (2003) nương theo bài trên:

Trăng gió vui cùng hắn
Lầm than, bận kệ ai
Vui chơi non với nước
Có phúc được ngồi dai.

Năm sau, 1925, Từ Đạm – bấy giờ đã thăng chức tuần phủ Ninh Bình – lại lên núi Dục Thúy, dẫn theo thợ đá. Nhớ tích Từ Đạo Hạnh lưu vết chân ở di tích chùa Thầy (tại huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Tp Hà Nội), Từ Đạm cho thợ khắc lõm dấu hai bàn chân của mình vào đá núi.

Chuyện loan khắp trong Nam ngoài Bắc. Một vị nhân sĩ từ xa quyết tìm tới tận chỗ, xem thử tin đồn đúng hay sai. Khi tận mắt chứng kiến hiện trường, ông hết sức bất bình, bèn đề thơ bên cạnh dấu chân lưu xú vạn niên. Thơ rằng:

Năm ngoái ông lên đục bốn vần
Năm nay ông lại đục hai chân
Khen cho đá cũng bền gan thật
Chịu mãi cho ông đục mấy lần!

Trong một dị bản, hai chữ cuối là “bốn lần” khiến nhiều người hoang mang nếu không nghĩ ra cách nói lái!

Tác giả bài thơ châm biếm chua cay trên là ai? Có ít nhất 4 giải đáp khác nhau.

  • Chu Thiên trên tạp chí Văn Học số 9 (Hà Nội, 1962) và Hoàng Trọng Thược (1969) cho rằng tác giả là Phạm Ứng Thuần, một nhân sĩ cùng thời và cùng quê với Tú Xương.
  • Trong hồi ký Nhớ và ghi (NXB Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1976), Nguyễn Công Hoan bảo bài thơ ấy do Tản Đà cảm tác và đã đăng An Nam tạp chí, song chẳng chua số mấy, phát hành lúc nào.
  • Soạn sách Ông thần ngông (NXB Văn Học, Hà Nội, 1990), Nguyễn Khắc Xương – trưởng nam của Tản Đà – cam đoan bài thơ được phụ thân mình viết, sau nhuận sắc để in trên An Nam tạp chí số ra mắt vào năm 1926.
  • Lãng Nhân (1970) thì khẳng định bài thơ của Hiếu Nam ở Nam Định, và tác giả “không viết lên núi, cũng không đăng vào báo, chỉ đọc cho bạn hữu nghe, rồi thành truyền tụng, do đó mỗi người nhớ lại khác nhau một vài chữ”.

Xưa nay, hầu hết giai thoại đều qua truyền miệng, nên tam sao thất bản là điều tất yếu. Giai thoại về Từ Đạm cũng vậy. Vấn đề gây thắc mắc là: trong thực tế lịch sử, có hay không một viên quan như thế?

  • Lãng Nhân (1970) không ghi rõ họ tên Từ Đạm. Độc giả chỉ có thể suy đoán sau khi đọc bài thơ nhắc tới con đĩ Đạm và bố cu Từ mà thôi.
  • Tập Chương Dân thi thoại do Phan Khôi hoàn tất năm 1936 (NXB Đà Nẵng, 1996) dành mẩu chuyện rất ngắn đề cập nhân vật đang xét, nhưng viết tắt danh tính: T. Đ.
  • Các ấn phẩm khác, chẳng hạn Hoàng Trọng Thược (1969). Giai thoại văn học Việt Nam do Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch soạn thảo năm 1965 (NXB Văn Học, Hà Nội, 1988) hoặc Nhớ và ghi của Nguyễn Công Hoan (NXB Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1976), và Ông thần ngông của Nguyễn Khắc Xương (NXB Văn Học, Hà Nội, 1990) đều đề đích danh: Từ Đạm.

Các sự kiện mơ hồ, thậm chí mâu thuẫn nhau, do đó, thiên hạ rất phân vân và không ít người đinh ninh Từ Đạm là nhân vật hư cấu.

Có chi tiết cụ thể: sách Lược truyện các tác gia Việt Nam do Trần Văn Giáp chủ biên (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971) ghi:

Từ Đạm, hiệu Cúc Nhân, người làng Khê Hồi, huyện Thường Tín, nay thuộc tỉnh Hà Tây. Năm 1895, Từ Đạm đậu tiến sĩ, sau làm quan đến tổng đốc. Khi làm quan, có lần đi phái bộ sang Pháp.

Làng Khê Hồi, trong thơ vịnh Kiêu nêu trên, nói lái thành Khề Hôi.

Văn Thánh / Văn Miếu ở Huế có bia ghi Từ Đạm đỗ hạng đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất với chú dẫn: Thành Thái lục niên Giáp Ngọ khoa cử nhân, Niên canh Nhâm Tuất, tam thập tứ tuế, Hà Nội tỉnh, Thường Tín phủ, Thượng Phúc huyện, Hà Hồi tổng, Khê Hồi xã.

Nghĩa: Đỗ cử nhân khoa thi Hương năm Giáp Ngọ 1894, Thành Thái năm thứ sáu, sinh năm Nhâm Tuất 1862, đỗ tiến sĩ lúc 34 tuổi (tính tuổi ta), người xã Khê Hồi, tổng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội.

Tham khảo công trình Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn do Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế thực hiện (NXB Thuận Hóa, Huế, 2000), có thể thu thập thêm dăm chi tiết liên quan đến nhân vật Từ Đạm: ban đầu được bổ làm tri phủ Ninh Bình, thăng dần lên tổng đốc, từng sung đi sứ sang Pháp, thụ hàm đến Hiệp tá Đại học sĩ, mất năm Bính Tý 1936, thọ 74 tuổi.

Nhưng hồi ấy, quan tuần phủ đứng đầu một tỉnh, chứ quan tri phủ chỉ cai quản một phủ thôi. Ninh Bình thuở nọ đâu phải là đơn vị cấp phủ, mà là cấp tỉnh. Vậy có lẽ sơ khởi, Từ Đạm nhậm chức tri phủ Xuân Trường (vốn là phủ Thiên Trường trước năm Quý Sửu 1853) thuộc tỉnh Nam Định.

Bởi thế, Tú Xương mới giễu:

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên?
Nhờ trời hạt ấy vẫn bình yên
Chữ “y”, chữ “chiểu”, không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ “tiền”.

Từ Đạm từng được cử tham gia phái bộ Đại Nam sang Pháp một lần. Nguyễn Thiện Kế (1849-1937), em ruột của chí sĩ Nguyễn Thiện Thuật và là anh rể của thi sĩ Tản Đà, dựng chân dung Từ Đạm bằng thơ, có đôi câu đối:

Tây một lần sang, chơi sướng chửa?
Nam hai đợt lại, túi đầy phè!

Nam đây là tỉnh Nam Định.

Các tập sách Kinh đô cũ Hoa Lư của Nguyễn Thế Giang (NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1982), Ninh Bình một vùng sơn thủy hữu tình của Lã Đăng Bật (NXB Trẻ, 2007) cùng một số tài liệu khác thừa nhận vết khắc đôi bàn chân họ Từ vẫn còn hằn dấu ở hòn Dục Thúy. Và Phanxipăng vãn cảnh Dục Thúy cho biết đã tận mắt quan sát và chụp ảnh vết chân hiện hữu cạnh lô cốt trên đỉnh núi.

vet chan tu dam
Phanxipăng trỏ dấu tích “lưu xú vạn niên”: vết chân Từ Đạm. (Ảnh Trần Nam Xuyên)

Một kẻ học hàm học vị đầy mình, từng được triều đình cử ra nước ngoài làm công tác ngoại giao, từng đảm trách cương vị Tổng đốc Hải An (Hải Dương & Quảng Yên), tại sao có những hành vi quái gở như thế? Phanxipăng cho rằng, công tâm xét lịch sử kim cổ Đông Tây, luôn thấy bất cứ thời nào và bất cứ quốc gia nào, lãnh đạo các cấp các ngành vẫn tồn tại những tay cùng “tuýp” họ Từ, mà điều cực kỳ hệ trọng là che đậy tinh vi hay phơi bày lộ liễu!

Đã đăng các tạp chí:
Kiến Thức Ngày Nay 474 (10-10-2003)
Thế Giới Mới 941 (4-7-2011) & 942 (11-7-2011)

Lê Trung Đình

Lê Trung Đình (1863/1857? – 1885), người làng Phú Nhơn, huyện Bình Sơn (nay là phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi), tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1884, ông đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan mà tổ chức khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp ở Quảng Ngãi trong phong trào Cần Vương.

Tương truyền, hồi Lê Trung Đình còn đi học, cô con gái thầy dạy học (Án Cung) vì mê tài ông mà thường đến lân la trò chuyện với ông. Một hôm, ông Án bắt gặp, nghĩ con gái mình đã thất tiết, nên cho nọc ông ra định đánh đòn. Ông ứng khẩu đọc ngay bốn câu thơ:

Khoan khoan con nói để thầy nghe
Trót đã yêu thơ ý rụt rè
Hai cánh hường môn còn khép chặt
Ngọn cờ xích xí chẳng lo le

Nghe thơ, ông Án bật cười, hết giận và làm lành với ông.

Năm 1881, ông vác lều chõng vào trường thi Bình Định, quyết tâm giật ngôi thủ khoa, nào ngờ khi treo bảng, ông chỉ đậu cử nhân thứ nhì. Ông giận lắm vì cho rằng người đậu thủ khoa kém tài mình nhiều. Sẵn quạt cầm tay, ông đánh anh Thủ khoa mấy cán quạt lên đầu.

Ông chánh chủ khảo liền bắt nọc ông ra, đánh mấy roi xuống mông.

Khi đứng dậy, ông đọc hai câu thơ:

Đầu Thủ khoa dăm ba dấu quạt
Đít Cử Đình sáu bảy lần roi.

Mọi người đều cười và phục tài châm biếm của Lê Trung Đình. Mang đít của mình để đối với đầu anh thủ khoa kia thì dù bị ít roi vẫn vui!

Vũ Phạm Hàm

Vũ Phạm Hàm (1864-1906) là Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn, lúc ông 29 tuổi. Trong lịch sử Việt Nam chỉ có vài Tam nguyên là Đệ nhất giáp, gồm có Phạm Đôn Lễ, Vũ Dương, Lê Quý Đôn (triều Lê) và ông. Tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng chữ Hán, song cũng có nhiều tập văn thơ phú viết bằng chữ Nôm.

Thời ấy ở Hà Nam có một ông công sứ Pháp tuổi còn trẻ mà đã giỏi tiếng Việt, còn đọc được cả bia chữ Hán, thơ văn chữ Hán. Vài năm một lần các quan chức Pháp sang cai trị ở Việt Nam đều phải dự một lần khảo hạch tiếng Việt, ai qua được thì được đặc cách lên lương sớm. Biện pháp này khuyến khích quan Pháp chịu khó học để dễ giao tiếp với dân Việt. Nhiều ông đâm thua thiệt nhưng lắm ông mừng vì lương có cơ lên vùn vụt.

Như viên công sứ Hà Nam chẳng hạn. Nhưng giỏi quá dễ kiêu. Một hôm ông ta thở dài bảo: “Không biết năm nay tìm ai để khảo giám tôi đây!”

Vừa hay cụ Vũ Phạm Hàm từ bên Hải Dương thuyên chuyển về đất Hà Nam làm đốc học (chức vụ tương đương giám đốc sở giáo dục bây giờ thêm nhiệm vụ dạy học trò địa phương). Chuyện ấy đến tai ông cụ. Cuối năm ông cụ được mời đứng ra làm người hỏi thi tiếng Việt cho quan công sứ.

Gặp nhau, cụ Hàm chỉ nói: “Quan lớn là người nổi tiếng, khắp Bắc kỳ này ai chả biết học lực tiếng Việt của quan lớn! Bây giờ tôi không đòi quan lớn phải dùng đến bút mực làm gì, chúng ta chỉ cần nói chuyện. Tôi sẽ hỏi quan lớn một câu ngắn, quan lớn cũng trả lời bằng một câu ngắn, thế là đủ, mà tôi cấm quan lớn không được hỏi lại. Hỏi lại là quan lớn trượt. Quan lớn bằng lòng không?”

Quan lớn nghe thế thì bằng lòng quá, nghĩ ông già này xem ra rất biết điều.

Cụ Hàm dõng dạc hỏi: “Quan lớn cho biết trong tiếng Việt, em gái mẹ gọi là gì?”

Ông công sứ trả lời lập tức: “Gọi là dì.”

Nhưng vì là người giỏi tiếng Việt cho nên chỉ vừa thoáng thấy cụ Hàm cười là ông ta chợt vỡ lẽ, mình trượt mất rồi!, ông già này bẫy mình mất rồi! Ông ta bắt bẻ rằng mình đã hỏi lại: “Gọi là gì?”

Về tới dinh, nhìn thấy bà đầm thì ông hoảng thật sự: với bà ấy thì lại đó là chuyện rất đáng buồn; buồn về tiếng tăm lẫn bổng lộc!

Bà công sứ vội tìm đến nhà riêng cụ đốc học.

Đợi bà kể lể xong, cụ Hàm chậm rãi bảo: “Để ông nhà hỏng thì tôi cũng lấy làm tiếc như bà, có một người Pháp yêu tiếng Việt như ông nhà, sao tôi lại không quý! Giờ tôi ra cho bà một điều kiện nho nhỏ, bà làm được thì xem như ông nhà đỗ. Tôi về đây nghe dân tình xì xào là mỗi lần bà ra chợ, qua dãy hàng bún mắm tôm bà đều bịt mũi nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu, có phải vậy không? Vậy bà làm sao thì làm.”

Bà công sứ ra ngay chợ, vui vẻ sà vào hàng bún mắm tôm, chuyện trò rôm rả thân tình. Rồi bà yêu cầu ông chồng mời bằng được cụ đốc học tới thăm nhà mình một buổi.

Cụ Hàm nhận lời.

Vợ chồng công sứ hôm ấy mời cụ ở lại cùng họ dùng bữa trưa, chỉ có bún lá và mắm tôm. Suốt bữa bà đầm lấy làm sung sướng với món đặc sản đó.

Năm ấy tai qua nạn khỏi, quan công sứ vẫn đỗ, vẫn lên lương như thường. Chẳng qua cũng chỉ là một sự nhắc nhở nhẹ nhàng vậy thôi.

Khi ở Hải Dương, viên công sứ Pháp vốn thích chơi hoành phi, câu đối, biết cụ Hàm là bậc danh nho mới xin một bức làm kỷ niệm.

Cụ Hàm cho hắn bốn chữ “Ôn kỳ như ngọc”.

Đó là chữ theo Kinh Thi, bài Tiểu nhung (Tần phong 3): “ngôn niệm quân tử ôn kỳ như ngọc”, ý nói: mến người quân tử ôn hòa như ngọc quý. Chủ tâm ông Thám cốt lấy điển khen người rợ phương Tây để tặng công sứ người Pháp. Ý thật thâm thúy, ám chỉ Pháp chẳng qua giống như rợ Tây Nhung khi xưa bên Tàu. Công sứ Pháp tất nhiên là chẳng hiểu gì, trịnh trọng treo bức hoành giữa nhà khách.

Trần Cao Vân

Trần Cao Vân có tên thật là Trần Công Thọ (1866-1916), là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung kỳ, do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng. Ông sinh tại làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông lãnh đạo khởi nghĩa cùng vua Duy Tân và Thái Phiên năm 1916 và có thời gian hoạt động tại Phú Yên.

Cuộc khởi nghĩa ấn định vào giờ ngọ, ngày 8-6-1916. Hiệu lệnh được ban bố bằng bài thơ sau đây (Hiệu lệnh cách mạng mà làm thành thơ theo phong độ nhà Nho.)

Hỏa xa Huế Hàn

trancaovan
Trần Cao Vân

Một mối xa thơ đã biết chưa?
Nam Bắc hai ngả gặp nhau vừa
Đường rầy đã sẵn thang mây bước
Ống khói càng cao ngọn gió đưa.

Sấm dậy tứ bề trăm máy chuyển
Phút thâu muôn dặm nửa giờ trưa
Trời sai ra dọn xong từ đấy
Một mối xa thơ đã biết chưa?

Cuộc khởi nghĩa thất bại do bị lộ kế hoạch khởi nghĩa. Trần Cao Vân bị chém cùng với Thái Phiên và một số người khác.

Tương truyền, trước khi bị giết, Trần cao Vân khẩu chiếm bài thơ sau đây:

Đứa nào muốn chết, chết như chơi
Chết vị non sông, chết vị trời
Chết thảo, bao nài xương thịt nát
Chết ngay, há ngại cổ đầu rơi!

Chết trung, tiếng để ngoài muôn dặm
Chết nghĩa, danh lưu đến vạn đời
Chết được như vầy là hả lắm
Ta không sợ chết hỡi ai ơi!

Phan Bội Châu

Phan Bội Châu (1867-1940) có tên thật là Phan Văn San, bút hiệu là Sào Nam nên nhiều người gọi ông là Phan Sào Nam. Ông sinh tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đỗ đầu xứ tỉnh Nghệ, thi hương mấy khoa đều hỏng, mãi đến năm 34 tuổi (1900) mới đỗ giải nguyên; liền sau đó, ông quay sang hoạt động chính trị.  Ông là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông thành lập phong trào Duy Tân hội và khởi xướng phong trào Đông Du.

Nam Đàn tứ hổ

phan boi chauMột lần “tứ hổ” tham gia hát ví, có cô gái trong phường vải hát lên một câu rằng:

Nam Đàn tứ hổ là ai?
Nói cho em biết để mai em chào.

Câu hỏi quá dễ, nhưng trả lời được ngay là chuyện không đơn giản. Hơn nữa, làm sao mà trong hai câu lục bát kể được tên cả bốn người? Ấy vậy mà Phan Bội Châu ứng đối được bằng một giọng xuề xòa, thân mật:

Nam Đàn tứ hổ là đây
San, Sang, Lương, Quý một bầy bốn anh.

Thế là nhờ tài mẫn tiệp của chàng Phan mà nhóm “Nam Đàn tứ hổ” khỏi bị bẽ mặt với các cô phường vải hôm ấy.

Hát đối đáp

Bùi Thiết tổng hợp ít thông tin về hát đối đáp dân ca ví, giặm Nghệ–Tĩnh mà Phan Sào Nam tham gia như sau.

Thời trai trẻ, Phan Tiên sinh rất mê hát ví, giặm, hát phường vải. Trong các cuộc hát, nhờ học rộng biết nhiều và trí thông minh sắc sảo hiếm có, chàng thanh niên tuấn tú họ Phan làm cho những người trong cuộc khâm phục, ngưỡng mộ từ những ngỡ ngàng nọ đến những ngạc nhiên kia! Các cuộc hát ví thường được chia làm hai phe: nam và nữ, đầu tiên là hát chào, tiếp sau là hát đối đáp thử tài nhau, cuối cùng là hát từ biệt, thường được gọi là hát giã bạn.

Quan trọng nhất là hát đối đáp. Một phe ra câu hát đối, còn gọi là hát đố, để phe kia đáp lại. Muốn có câu hát đố hay và khó phải hiểu biết nhiều và thông minh, song câu đáp mới tài hơn vì người ra câu đó có đủ thời gian hơn, suy nghĩ trước; còn người đáp thường phải trả lời ngay tức thì. Nhiều câu hát đối đáp tài tình không những được tán thưởng ngay tại nơi hát mà còn được truyền tụng vang xa, lưu truyền mãi trong  dân gian. Thường thì phe nữ ra câu hát đố để phe nam đáp lại. Không ít trường hợp câu đố khó quá, phe đáp lâm vào thế bí không đáp lại được, đành lặng lẽ rút lui, hoặc thành thật nhận thua rồi chào khéo để ra về. Và từ đó không bao giờ trở lại cuộc chơi! Với Phan Sào Nam thì chưa bao giờ có chuyện như vậy!

hat doi B

Có một cuộc hát diễn ra ở vùng Thanh Chương, nơi giáp giới với Nam Đàn, quê của Phan Tiên sinh. Bạn hát đến nhà rủ Phan đi cùng,  phòng lúc bí có người tháo gỡ, nhưng đang bận việc nhà nên Phan bảo các bạn đi trước rồi mình sẽ đến sau. Khi Phan đến nơi cũng là lúc các bạn đang gặp bí, định lặng lẽ chuồn.

Thấy Phan đến, các bạn  mừng quýnh lên, vây lại kể đầu đuôi câu đố mà chưa biết đáp ra làm sao! Câu hát đố:

Nghe chàng kinh sử đại tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai hỡi chàng?

Sử Trung Hoa ghi Mạnh Tử mồ côi cha nhưng không ghi tên người cha đó. Nghe xong, Phan biết câu này chắc chắn không phải do các cô gái phường vải nghĩ ra; hẳn là do một nhà nho nào đó ở Thanh Chương mách nước để con trai Nam Đàn thua cuộc mà không còn dám đến ve vãn con gái Thanh Chương nữa…

Nghĩ ngay được ra câu đối, Phan “gà” cho các bạn trẻ:

Thầy Mạnh cụ Mạnh sinh ra
Trả lời câu đố tổ cha thằng bày!

hat doi GMột lần khác, chuyện cũng đang xảy ra tương tự, anh Phan đến chậm, các bạn hát đang bí bởi câu hát đố:

Vua Nghiêu có chín con trai?
Đan Chu là một còn những ai tám người?

Vua Nghiêu là một bậc đại hiền, sinh 9 con trai, song sử Trung Hoa chỉ ghi tên một người con trai ngỗ ngược nhất là Đan Chu mà thôi! Làm sao trả lời được câu hỏi này?

Chờ lâu, không thấy phe nam có câu trả lời, phe nữ lại hát tiếp:

Phường ơi thắp đuốc cho nhờ
Kẻo mà tối chỉ mối rờ không ra!

Các cô gái dệt vải tập hợp lại thành phường hội, vừa dệt vải vừa hát cho vui vào ban đêm, còn ban này làm những công việc khác, kể cả làm nông và buôn bán. Thời đó chưa có điện, dùng đèn dầu thì tốn kém, nên phải dùng đuốc bằng tre nứa khô, một bó đuốc có thể soi sáng cả nhà, soi rõ từng khung cửi. Câu hát “thắp đuốc cho nhờ” là để thấy chỉ mà dệt; song thực tình là trêu chọc mấy chàng trai đang trong cơn rối trí, còn khổ hơn rối chỉ, lại bảo các anh rờ không ra!

May thay anh Phan đến kịp và có ngay câu đáp:

Các em là phận nữ nhi
Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi những tám người?

Thế là Phan chuyển bại thành thắng, chẳng những gỡ được thế bí mà còn quay lại phản công, làm cho cô nào cô nấy thẹn chín người. Và rồi lại đến lượt chính các cô đâm ra lúng túng, không tìm được câu trả lời.

Theo lời kể của Đặng Thái Mai thì con gái Thanh Chương thường thay nam giới cày ruộng; gặt chiêm xong là họ tranh thủ cày ải. Để tránh bóng nắng hè gay gắt, thường phải đi cày từ rất sờm (khoảng 3 giờ sáng), chưa kịp ăn sáng, phải mang ngô rang ra ruộng. Giữa buổi cày, họ chụm nhau lại bên bờ ruộng vừa ăn ngô vừa chuyện trò vui vẻ.

Một buổi sáng nọ, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi chân trời, Phan Sào Nam có dịp đi qua, một cô gái nhận diện được chàng trai mà mình hâm mộ trong các cuộc hát đối, liền đưa ra câu hát đố:

Đưa chàng một hột ngô rang
Trồng nơi mô mọc được, thiếp theo chàng về ngay!

Ra được một câu đố hiểm hóc tưởng làm cho chàng trai rảo bước nhanh chuồn thẳng; nào ngờ cô gái nhận được câu đáp còn sâu hiểm hơn và tinh nghịch hơn:

Nơi mô trời nắng không khô
Trời mưa không ướt, trồng vô mọc liền.

Trong hầu hết những cuộc thi tài đối đáp, đấu trí văn chương, bậc đại tài đất Nghệ luôn ở vào thế thượng phong; song một lần nọ, thật là bất ngờ. Đó là vào một buổi chiều tà, gió Lào thổi cồn cột, trên một chuyến đò dọc từ Sa Nam (thị trấn huyện Nam Đàn) ngược Lường (tức là bến sông Đô Lương, thị trấn huyện Đô Lương), cô lái đò ngồi ở cuối thuyền chèo ngược gió, bị một luồng gió mạnh thổi tốc váy. Đò đông người, ai cũng trông thấy và cười ầm lên.

Riêng cụ Phan bỗng nhớ đến câu thơ trong Truyện Kiều của Tố Như, tả cảnh Kiều đang tắm, bèn đọc to cho cả thuyền nghe:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

Nào ngờ! Cô lái đò cũng thuộc Kiều, và để chữa thẹn cho mình, cô hát:

Mười lăm năm em mới một lần
Hé gương cho khách hồng trần thử soi!

Thật là thông minh! Cô lái đò lẫy một lúc những hai câu Kiều, nguyên văn:

Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng quần thử soi.

Cô gái thay ít chữ nhưng ngữ cảnh đổi khác hoàn toàn: hé “chỗ ấy” cho thiên hạ soi, mà chỉ soi thử chứ không cho soi thật đâu nhé! Hóa ra mọi người vừa được soi vào cái  “gương” mà cô gái mới chỉ hé một lần trong ròng rã 15 năm ấy!

Người đời ghi nhận rằng, trong trường đời cách mạng, Phan Tiên sinh không ít lần thua cuộc, nhưng trong các cuộc chơi đây chỉ là lần duy nhất, ông chịu thua cuộc cô lái đò ngược bến sông Lường.

Ghi thêm: Hát đối

Đối đáp giao duyên nam nữ trong môi trường lao động hay khi vui chơi hội hè có phần lớn là lời đối thoại của người nam và người nữ, gồm có hai vế đi song hành với nhau. Hình thức thông thường nhất là câu lục bát thách của giới này và câu lục bát đáp của giới kia. Có khi đó là lời trao đổi chuyện trò của hai bên nam nữ; có khi đó là câu hỏi của bên này và câu đáp của bên kia; cũng có khi bên này ra câu đố cho bên kia trả lời…

Đa phần những câu đối đáp này có nội dung dí dỏm, hài hước. Hỏi thì hỏi cắt cớ, bắt bí, trả lời đôi khi cũng bằng một câu hỏi ngược lại theo kiểu ăn miếng trả miếng. Không hiếm những câu đối thể hiện thái độ chua ngoa, đanh đá của cô gái và những câu đáp đầy hậm hực của chàng trai. Cũng không thiếu những câu có nội dung thách đố thật khó; đáp lại là những câu đố ngược lại trả lời bừa đi cho qua chuyện.

Nhìn chung, dù ở hình thức đối thoại như thế nào đi nữa thì nội dung của những câu đối đáp này khá ý nhị, dễ thương, khiến người nghe có thể mỉm cười nhẹ nhàng hay cười to sảng khoái, có khi còn khoái chí cười muốn lộn gan lộn ruột. Cũng có vài câu dùng hình ảnh tính dục để thể hiện nội dung lời đối đáp nhưng không quá tục, dùng hình ảnh tục nhưng vẫn thanh do sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, có khả năng gây cười hiệu quả khi thể hiện được thái độ đáo để.

Nữ thách và nam đáp

Câu đố thường là của cô gái nêu ra để thách đố chàng trai và bao giờ cũng kèm theo một điều kiện là nếu chàng trai trả lời được thì cô sẽ trao cho một phần thưởng gì đó. Có thể là 5 quan tiền, có thể là cho nắm tay, hoặc táo tợn là được cô cho nằm kề một đêm, hoặc ràng buộc luôn là xin theo về làm vợ (thường khi hứa là hứa thế thôi, cho vui!).

Nữ hỏi để thử lòng và thử tài ứng đối:

Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời
Chị dâu đi cầu té giếng anh nắm chỗ nào kéo lên?

Nam đáp khôn khéo chứ không chịu sập bẫy:

Nam theo nam, nữ theo nữ
Anh đứng làm người quân tử đâu dám lại gần chị dâu
Anh lấy thang lần xuống bắt cầu cho chị lên

hat doi FNữ hỏi cắc cớ:

Tiếng anh chữ nghĩa đã già
Em đố anh phụ mẫu cất nhà, cây cột đực nằm đâu?

Nam đáp cắc cớ theo:

Em hỏi anh đây phải trả lời
Cây cột đực nằm trên cây cột cái
Điệu hát huê tình ai hỏi trái như em!

Nam hỏi và nữ đáp

Đôi khi câu hỏi cũng là lời căn vặn, trách móc của chàng trai với đối tượng mà mình yêu thương. Trách người ta không hiểu được lòng mình, trách người ta phụ bạc… Như chàng trai trong câu hỏi dưới đây, thay vì trách người mình yêu sao đi lấy chồng bỏ mình cô độc lại giả vờ quan tâm đến người mẹ già của cô:

Thuyền tình trở lái về đông
Em đi theo chồng bỏ mẹ cho ai?

Có lẽ đã quá hiểu những ẩn ý sâu xa trong câu hỏi nên cô gái trả lời hết sức tế nhị và khôn khéo khiến chàng trai có muốn trách thêm vẫn không trách được:

Mẹ già đã có em trai
Em là phận gái đâu dám sai chữ tòng

hat doi HCũng cùng một mục đích trách hờn như thế, chàng trai dưới đây buông lời gặng hỏi khi cô kia chê trai cùng làng:

Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư?

Cô gái cũng thẳng thắn giải thích cho chàng trai cùng làng hiểu được lý do:

Ngụ cư có thóc cho vay
Có lụa bán đầy, em lấy ngụ cư

Có chàng trai đưa ra hoàn cảnh trớ trêu để thử lòng người con gái:

Chồng em với em là tình
Anh đây là nghĩa hỏi mình thương ai?

Chẳng ai có cái kiểu trả lời nước đôi khôn như cô gái:

Một mình em đứng giữa cả hai
Bên tình bên nghĩa em thương hết chớ bỏ ai, bớ mình!

Đối đáp ăn miếng trả miếng

Nhẹ nhàng nhất là câu châm chọc dễ thương của cô gái dành cho chàng trai mà cô biết là đang có nhiều tình ý với mình:

Áo vắt vai đi đâu hăm hở?
Em có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu!

Chàng trai không phải tay vừa, chắc hẳn ban đầu xấu hổ một chút nhưng ngay sau đó lấy lại bình tĩnh, dành lại thế chủ động, trêu chọc lại đối tượng:

Áo vắt vai anh đi thăm ruộng
Anh cũng có vợ rồi, chẳng chuộng bậu đâu!

Còn như chàng trai dưới đây, tự nhiên cắt cớ hỏi cô gái mà mình thầm thương trộm nhớ một câu nghe như là lời trách móc:

Tóc em dài sao em không bới
Để chi dài bối rối dạ anh?

Để rồi chàng được nghe một câu trả lời hoặc là phũ phàng hoặc là châm chọc tùy tình cảnh của cô:

Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Anh ngó làm gì cho bối rối dạ anh!

Có chàng trai bịa chuyện về việc trao yếm, chứ trai gái ngày xưa đâu có làm việc này, mà dù có làm đâu có khơi khơi nói cho làng xóm biết:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi trả yếm cho anh

Nào ngờ bị cô gái trả lời lại cũng theo cách bịa chuyện:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi?

hat doi DCó chàng ra vẻ thắm thiết:

Sông sâu cá lội biệt tăm
Chín tháng vẫn đợi, mười năm vẫn chờ

Nàng ta biết tỏng, đâu có sa vào bẫy:

Sông sâu cá lội vô bờ
Lấy ai anh cứ lấy, chứ chờ cái nỗi chi?

Có anh còn bịa chuyện như là thật:

Thương em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh đưa

Cô gái biết cách “chỉnh” lại liền:

Anh ơi đừng nói thiếu thừa
Em khóc thì có, anh đưa hồi nào?

Người ta đang làm gì thì mặc người ta, anh chàng dưới đây vô duyên vô cớ hạ thấp vị thế của cô gái:

Em về cất gánh cứt trâu
Lại đây đậu vốn buôn trầu với anh.

Cô gái lấy cùng chủ để mà trả đũa:

Buôn trầu lỗ lắm anh ơi!
Để em lượm cứt lần hồi nuôi anh.

Có cô giở giọng chanh chua để xem anh trả lời ra sao:

Nước lên xăm xắp chân đăng
Kêu anh cũng dở mà kêu thằng khó kêu

Anh chàng vận dụng chữ nghĩa độc đáo, cố ý phát âm chứ “thằn” giống như chữ “thằng” của cô gái:

Em ơi đừng thấy anh nhỏ mà khinh
Chứ con thằn lằn kia bao lớn nó bu cột đình sát đeo?

Có lúc cô gái lên giọng sang chảnh:

Anh về bán ruộng cây đa
Bán cặp trâu già chẳng đặng cưới em

Anh chàng cho biết cô nàng không đến cao giá như thế:

Anh về bán cái nồi rang
Bán đôi đũa bếp cưới nàng còn dư

Tóm lại, chủ yếu của việc hát đối nằm ở chỗ: vui là chính. Nội dung thường khi giả mà thật, hoặc thật mà giả, chủ yếu để trêu nhau, bắt bí nhau… Cái khó là trong khi gỡ bí hoặc trả đũa phải hát có vần có điệu, cho người nghe thích thú. Ngôn từ đôi khi nghe ra sỗ sàng, nhưng trong khung cảnh hát đối đó chỉ là để vui đùa với nhau, mang đến cho người nghe nụ cười mỉm ý nhị hoặc tràng cười sảng khoái mà không ai câu nệ với ai.

Tú Xương

Tu Xuong
Tú Xương

Trần Tế Xương có tên thật là Trần Duy Uyên (1870-1907) sinh ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông lận đận đường khoa cử, thi 8 khoa đều hỏng, chỉ đậu vớt bằng tú tài năm 1894, nên được gọi là Tú Xương. Thời đó, người đỗ tú tài được xếp vào loại học hành dở dang, không được dự khoa thi Hội và cũng thiếu chuẩn để được bổ làm quan. Ông xoay qua kiếm sống bằng nghề dạy học.

Tú Xương sống ngắn ngủi nhưng để lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ, qua đó người đời hiểu thêm một giai đoạn bi thương của đất nước, của dân tộc và thân phận bức bối, bế tắc của tầng lớp Nho sĩ, trí thức mất nước lỡ thời lúc bấy giờ. Thể xác Trần Tế Xương qua trăm năm đã thành cát bụi nhưng sự nghiệp văn chương của ông thì không, như hai câu thơ Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương:

Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn!

Đối thơ với khách

Khi bé Uyên mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi thấy chủ nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho cậu bé một câu đối:

Đình tiền ngũ sắc hoa
(Trước sân hoa năm sắc)

Uyên chỉ vào lồng chim khướu treo hiên nhà, đối lại:

Lung trung bách thanh điểu
(Trong lồng chim trăm tiếng)

Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài: “Đời thằng bé rồi lại khổ, như chim nhốt trong lồng!”

Tú Xương với thời cuộc

Và thực tế cuộc sống nơi trần thế 37 năm ngắn ngủi của ông nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại: Trước lúc ông ra đời 3 năm, 6 tỉnh Nam kỳ đã mất vào tay Pháp. Khi Tế Xương lên 3, Bắc kỳ (trong đó có Nam Định) bị tấn công lần thứ nhất; lên 12 tuổi chứng kiến Bắc kỳ và Nam Định bị Pháp tấn công lần thứ hai và mất nốt. Năm 14 tuổi Triều đình Huế ký thỏa ước dâng nước Việt cho giặc (1884), thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam.

Năm 1897 Pháp đặt nền móng cai trị, du nhập và thiết lập chủ nghĩa tư bản-thực dân ở một nước phong kiến đề cao đạo đức Nho giáo, làm đảo lộn trật tự xã hội, đời sống tinh thần của Nhân dân. Ông thể hiện tâm trạng chua chát, đắng cay thân phận sĩ tử lúc bấy giờ:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Đọc thơ của Tú Xương người ta cảm nhận nỗi u hoài trước thời cuộc và vận mệnh đất nước.

Cảm nhận nỗi đau mất nước, nhìn xã hội đảo điên, văn hóa truyền thống suy tàn nhưng ông không biết cách nào và làm gì để thay đổi thời cuộc. Ông chỉ đành thổ lộ tâm tình của mình qua những vần thơ.

Ví dụ như khi Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt rồi tuyên án chung thân, với bài Nhớ bạn phương trời Trần Tế Xương thể hiện tình cảm sâu sắc đối với nhà cách mạng này:

Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa, xa lắm nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!

Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
Khi riêng, riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.

Vịnh Kiều

Có lúc, để thực hiện chủ trương bịp bợm của Toàn quyền Albert Sarrault, Tổng đốc Nam Định Trần Tấn Bình tổ chức một lễ kỷ niệm Nguyễn Du. Tú Xương đi ngang qua trông thấy ngôi mộ giả của tác giả Truyện Kiều do Bình sai đắp lên, liền ứng khẩu đọc:

Hỡi Cụ Tiên Điền có biết cho
Hôm nay có kẻ khóc trên mồ
Khóc đây nào phải rằng thương Cụ
Thương bạc quan thầy lắm món to

Thơ lọt đến tai Tổng đốc thành Nam, khiến ông này căm tức vô cùng, nhưng không thể làm gì được.

Một hôm, Tú Xương đi chơi khuya quá giờ giới nghiêm, bị viên Tổng đốc bắt giam. Tú Xương bèn làm bốn câu thơ nữa:

Ơi hỡi! Nàng Kiều hỡi có hay!
Vì nàng tớ phải chịu tai bay
Nàng còn bán được ba trăm lạng
Tớ bán cho ai khố rách này!

Nợ em hàng thịt

Lúc rãnh rỗi Tú Xương thường cùng bằng hữu tụ tập xướng họa thi ca bên tách trà, chung rượu làm vui. Gia cảnh ông thanh bạch, túng thiếu vì vợ yếu con đông (5 con). Thu nhập của gia đình chỉ trông vào gánh hàng rong tảo tần của người vợ hiền. Mặc dù vậy, Tú Xương rất hiếu khách, luôn luôn chân tình, hết lòng với bằng hữu.

Một hôm có hai bạn thơ lặn lội từ xa đến chơi. Tú Xương mừng lắm, phấn khởi chào đón và giục bà Tú làm cơm đãi khách quý.

Bà vợ rỉ tai:
– Nhà còn gạo, rau dưa và có chai rượu tăm ngâm chuối hột, chỉ ngặt nỗi đồ mặn chưa có.

Ông liền pha trà và xin lỗi hai vị khách ngồi chờ rồi chạy ra chợ. Đến hàng thịt heo, ông chọn mua hơn cân xương sườn rẻ quạt và 2 chân giò. Cô hàng thịt cân gói xương, giò xong lặng lẽ chờ ông trả tiền.

Lục các túi trong người, giật mình thấy không còn hào nào, nhưng Tú Xương nhanh trí ứng biến:
– Thôi chết, nhà có khách vội quá, quên mang theo tiền. Tôi là Tú Xương, xin khất nợ cô, mai tôi đem tiền đến trả đủ có được không?

Cô hàng thịt dù ít học, nhưng đã nghe danh và từng đọc thơ Tú Xương nên tỏ ra nhã nhặn, thông cảm ngay:

– Cũng được, mai bác nhớ đem tiền ra cho em.

Nói xong cô mỉm cười trêu nhà thơ nghèo:
– Giờ em xin bác mấy chữ biên nhận để làm tin.

Giấy viết được đem ra, Tú Xương gật gù vài giây rồi cầm viết hí hoáy đề 4 câu như sau:

tài đi chợ quên tiền
Xương sườn, giò lợn, bạn hiền chờ ăn
Nợ đời nặng gánh phong trần
Em đâu nỡ để tần ngần khách thơ.

Quả tài tình, trong thơ không nói gì về khất nợ, nhưng 4 chữ đầu câu cố ý viết to và đậm hơn chữ thường, đọc theo hàng dọc sẽ thành: Tú Xương nợ em.

Cô hàng thịt đọc qua rất hài lòng và thán phục tài thơ phú của Tú Xương. Do vậy, cô xin giữ lại bài thơ, tặng thêm cho ông 1 quả tim và 2 trái cật lợn nữa, và nói:
– Em đổi lấy thịt cho bác. Xem như khỏi nợ nần gì nhau nhé!

Nhờ đó, Ông Tú non côi, sông Vị có món ngon, rộng đường thiết đãi bạn thơ.

Cao Thị Ngọc Anh

Bà Cao Ngọc Anh (1877-1970) người làng Thịnh Mỹ phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi, bà xuất giá lấy ông Nguyễn Duy Nhiếp làm kế thất, tức là về làm dâu quan Phụ chính Đại thần Nguyễn Trọng Hợp triều Thành Thái. Không may chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi ba con.

Bà góa chồng trong cảnh nửa chừng xuân, tài sắc vẹn toàn, nên nhiều nhà thơ trong giới quan trường không khỏi có ý lân la, thường dùng văn thơ buông lời trêu cợt. Bà tuyệt nhiên không trả lời ai cả.

Một hôm, nhân nhà có giỗ, bà cho mời tất cả các vị ấy đến uống rượu. Sau đó bà mời đến cầu Hàm Rồng ngắm cảnh.

cau ham rong
“Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om”

Đến nơi, bà nói:
–  Đứng trước danh sơn thắng cảnh này, dám xin các vị thi nhân mỗi vị cho một bài làm kỷ niệm.

Một ông đáp:
–  Xin vâng, chúng tôi đâu dám chối từ, vậy xin bà cho bài xướng trước, chúng tôi mỗi người sẽ họa lại sau.

Bà đọc rằng:

Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om
Rải rác nhà tranh ở mấy chòm
Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm?
Thương cầu vì nước đứng lom khom.

Sóng như chào khách chờn vờn nhảy
Nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm
Cửa động rêu phong mờ nét chữ
Ai người mến cảnh chút trông nom.

Ý tứ bài thơ rất tế nhị. Câu “Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm?” và “Sóng như chào khách chờn vờn nhảy” có ý trỏ vào các vị thường gửi thơ văn đến trêu ghẹo bà. Câu “Thương cầu vì nước đứng lom khom” và “Cửa động rêu phong mờ nét chữ”, bày tỏ tâm sự mình, cảm thương số phận và quyết giữ tấm lòng thờ chồng.

Nhất là cái vần “om” lắc léo, khiến cho các thi sĩ tần ngần nghĩ không ra vần để họa lại. Họ cũng không còn dám trêu ghẹo trước thái độ đoan trang ấy, nên đứng chơi một lúc rồi xin lỗi chủ nhân, lẻ tẻ kéo nhau về. Từ đó không ai dám múa bút trêu bà nữa.

Nguyễn Khoa Vy

Nguyễn Khoa Vy (1881-1968) quê quán ở làng An Cựu, sinh ở xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia khởi nghĩa ở Huế và sáng tác nhiều thơ ca động viên, cổ động đồng bào tích cực hưởng ứng phong trào Việt Minh chống Pháp đuổi Nhật.

Ông có một bài thơ nói lái phản ánh chuyện quan hệ mờ ám giữa sư và vãi như sau, cũng được dùng làm vế đối ra:

Cầu đạo cần chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.

Bài thơ đối lại của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Dân chài sao cứ mộng dài chân
Ân thiên sóng gió được yên thân
Làng vua bão nổi lùa quan quỷ
Thần tiên ban phúc gái thiền tân.

Mộ của Nguyễn Khoa Vy có hai câu thơ:

Chẳng có danh thơm mà để lại
Làm chi xác thối phải chôn đi.

Phạm Ứng Thuần

Phạm Ứng Thuần (1885-?) tục hay gọi là Cả Thuần, tự Hiếu Khanh, sinh tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông học thông tuệ, tính lại ngay thẳng không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, chỉ ưa sống đời thanh bạch, không cầu xin gì, không phiền lụy ai. Ông sở trường về thi ca quốc văn, nhất là về thể loại phúng thích, nhưng vì loại này thường đụng chạm đến người đương thời nên ít khi được ghi trên giấy để tránh vạ khẩu nghiệp, nên chỉ có ít bài có dính dáng đến những nhân vật tiếng tăm hay tai tiếng là được truyền tụng và lưu truyền trong nhân gian đến ngày nay.

Ở Nam Định có một cô me Tây gá nghĩa cùng viên Công sứ Pháp, nhân có giúp công vào việc chẩn tế nạn lụt năm Bính Ngọ ( 1906 ), nên được công sứ tư thưởng kim tiền. Khi Công sứ về Pháp, cô ở lại trong cảnh cô liêu, vốn có tính đồng bóng, nên lập điện ở chùa Phù Long để sớm khuya hầu thánh cho giải sầu.

Hiếu Khanh diễu bằng một bài Đường luật (nhiều người lầm là của Tú Xương, nhưng Tú Xương tạ thế trước việc lập điện mấy năm):

Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi, tôi cũng méc xì ông
Âu đành chùa đó, âu thành Phật
Cũng chẳng con chi cũng chẳng chồng.

Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ
Nào ngờ chữ sắc hóa ra không
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ
Trót nợ trần hoàn gỡ chửa xong.

Mề đay (médaille): huy chương; méc xì (tiếng Pháp: merci): cám ơn.

Khi thấy chính quyền mở ra lớp dạy quốc ngữ, và thêm vào chương trình thi hương môn học quốc văn, Tú Xương có thơ đả kích:

Nghe nói khoa sau sắp đổi thi
Những thầy đồ cổ đỗ mau đi
Nếu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi giắt bút chì.

Câu chuyện về Tản Đà

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939, sinh ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê ông ở gần núi Tản sông Đà, nên ông lấy hiệu là Tản Đà. Ông thông minh, học chữ Hán giỏi, nhưng thi mấy khoa không đỗ, sinh ra chán nản. Sau ông bỏ nghề thi cử, chuyên làm thơ, làm báo. Thơ ca của ông khá gần gũi với thơ ca dân gian, có một nghệ thuật đặc biệt điêu luyện, được nhiều người ưa thích.

Ngông trong cảnh khổ

Qua bài thơ Hầu Trời, Tản Đà vừa tỏ khí độ ngông cuồng vừa kể cảnh khổ của mình. Bài thơ kể hai cung nữ mời ông lên đọc thơ cho Trời nghe:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Và nhà thơ kể tiếp:

Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết”.

– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

Trời rằng: “Không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”.

– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo!”

. . .

Lên bà khó lắm

tan da
Tản Đà

Khoảng năm 1907-1908, Nguyễn Khắc Hiếu và anh là ông Phó bảng Nguyễn Tài Tích ngụ ở phố Hàng Nón Hà Nội. Ông vào học trường Quy Thức, phố Gia Ngư.

Cứ chiều chiều tan học về nhà, cậu ấm Hiếu bao giờ cũng phải “mua đường” đi vòng qua phố Hàng Bồ, là nơi có một cô gái tuyệt đẹp ngồi bán hàng. Đó là cô con gái của ông Đỗ Thận. Nhờ anh rễ là Nguyễn Thiện Kế dạm hỏi, biết nhà gái chỉ đòi chàng rễ cái “ấn tri huyện”, từ đó cậu quyết tâm lao đầu vào lối học cử nghiệp.

Nhưng khóa đầu tiên, thi năm 1909 bị hỏng, khóa tiếp theo thi năm 1912 cũng hỏng. Khóa này, ở trường thi xảy ra một sự việc thảm thương. Một người học trò cũng đã hỏng thi mấy khoa trước rồi, đến khoa này thì đổ bệnh, nhưng anh vẫn cố vác lều chỏng vào thi. Bị mưa bão suốt ngày, anh ta lên cơn sốt nặng rồi qua đời ngay trong chiếc lều ngập lụt của mình.

Xem bảng không có tên, cậu ấm Hiếu cùng với một số anh em thi hỏng vào quán trước cổng trường thi, uống rượu giải buồn. Mọi người không khỏi nghĩ đến cái chết thương tâm của anh học trò nọ rồi lại nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình.

Một người trong bọn biết ấm Hiếu có tài làm thơ, nên đứng lên nói:
–  Bác ấm rất tài thơ, thử tức cảnh cho anh em nghe một bài cho đỡ buồn.

Ấm Hiếu không đợi để nói đến hai lần, liền ngâm:

Văn hay chẳng đỗ thì đừng
Gió mưa khỏi chết nửa mừng nửa thương
Cái nghiệp bút nghiên cay đắng đủ trăm đường
Bảng vàng mũ bạc anh nhường mặc ai
Muốn lên bà khó lắm em ôi!

Mọi người nghe xong đều phá lên cười. Bài thơ đã cắt đi một phần cái gánh nặng chung của những người hỏng thi.

Nhưng sau đó ít lâu, khi cậu ấm Hiếu đi ngang qua phố Hàng Bồ, thì vừa vặn gặp “ý trung nhân” họ Đỗ vừa khóc… vừa bước chân lên xe kéo về nhà chồng, một người vừa mới đoạt được cái “ấn tri huyện” nhờ thi đỗ khoa ấy.

Câu chuyện về rau sắng chùa Hương

Tương truyền Tản Đà rất thích ăn rau sắng, nhất là loại rau sắng chùa Hương. Nhiều lần ông ca tụng thứ rau này trong thơ ca của mình.

Khoảng năm 1922, ông ở trong một hoàn cảnh rất túng bấn, đến dịp hội chùa Hương 18 tháng 3 ông không đi được. Ngồi nhà nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, ông có bài ca tự tình:

Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.

Chú thích: Dưa khú là dưa muối lâu bị thâm lại và có mùi, ăn dở hoặc không ăn được; cà thâm là cà lâu ngày bị sẫm màu, ăn không ngon.

Tản Đà in bài thơ nọ trong tập 1 Truyện thế gian vào đầu năm sau, Quý Hợi 1923. Sách phát hành được thời gian ngắn thì tác giả nhận bưu kiện từ Phủ Lý, không đề tên người gửi, bên trong toàn rau sắng tươi mơn mởn cùng mảnh giấy con đề 4 câu thơ:

Kính dâng rau sắng chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa
Không đi thời gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.

Ký tên: Đỗ Tang Nữ bái tặng.

Nhà thơ vừa cảm động, vừa lấy làm lạ không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi ngay người cho quà là “người tình nhân không quen biết”. Ông không biết gửi lời cảm tạ về đâu, nên đành làm một bài thơ như sau:

Rau sang (Melientha sauvis)
Rau sắng

Mấy nhời cảm tạ tri âm
Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình
Đường xa rau vẫn còn xanh
Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào.

Yêu nhau xa cách càng yêu
Dẫu rằng suông nhạt mà nhiều chứa chan
Nước non khuất nẻo ngư nhàn
Tạ lòng xin mượn “Thế gian” đưa tình.

Tản Đà công bố câu chuyện cùng đôi bài thơ vừa nêu trong tập 2 Truyện thế gian ấn hành tháng 11-1923. Đến năm 1932, chùm 3 bài thơ được Tản Đà in lại trong tập 3 Khối tình con.

Đỗ Tang Nữ – mang nghĩa cô gái họ Đỗ hái dâu – là ai? Là Đỗ Thị Khê, còn gọi Song Khê (1901-1993), em ruột của Đỗ Thị Đàm tức nữ sĩ Tương Phố (1900-1973). Thuở bấy giờ, Đỗ Tang Nữ làm y tá nơi nhà thương Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam. Sự thật được khẳng định bởi Tương Phố qua tập Mưa gió sông Tương (NXB Bốn Phương, Sài Gòn, 1961), và bởi Nguyễn Khắc Xương – trưởng nam của Tản Đà – qua tập Ông thần ngông (NXB Văn Học, Hà Nội, 1990).

Người tình không quen biết

Một lần, Tản Đà đáp xe lửa đi Hải Dương thăm bạn. Nhà thơ ngồi đối diện với một người phụ nữ khá xinh tươi và lanh lợi. Tàu chạy chậm chạp, nhà thơ mở cặp lấy quyển Khối tình con của mình mới in ra đọc cho bớt buồn ngủ. Người thiếu phụ trông thấy, khẩn khoản hỏi mua lại quyển sách. Thi sĩ không bán mà đưa tặng ngay quyển sách cho người yêu thơ. Người phụ nữ cảm ơn mãi mà vẫn không biết mình đang nói chuyện với chính tác giả quyển thơ.

Ít lâu sau, ông bạn Hải Dương mời nhà thơ đến phố Đông Kiều nghe hát nói. Lúc cô đầu ra tiếp, nhà thơ nhìn mặt thấy ngờ ngợ quen quen nhưng chưa tiện hỏi. Còn nàng thì đoan trang cất tiếng hát:

Khách hà nhân giả? (A)
Cớ làm sao suồng sã dám đưa thơ
Chốn tiên cung ai kén rể bao giờ?
Chi những sự vẩn vơ mà giấy má….

(A) Nghĩa: Khách là ai thế? Bốn câu này trong bài Trời mắng trong tập thơ Khối tình con.

a dao B

Nhà thơ giật mình, tự hỏi cô này là ai mà hát bài ca trù của mình, ngay lúc giáo đầu. Sau bài hát, nhà thơ lại gần hỏi chuyện, nhìn rõ thì ra cô là người đã được tặng quyển Khối tình con trên xe lửa. Nhà thơ vui mừng và thích thú, vì thơ mình có người đọc. Vui mừng và thích thú hơn nữa là giai nhân trước mặt lại chính là cô đầu Hiếu mà nhà thơ đã mơ tưởng bấy lâu.

Ông liền đọc luôn bài ca Người tình không quen biết mà ông đã gửi bâng quơ cho cô, khi nghe nói ở Hải Dương có một đào nương nổi tiếng tên là Hiếu, trùng tên với chính mình. Bài ca như sau:

E thì nhời, nhắn thăm ai ngẫn ngự, e thì nhời
Chung tên biết tiếng, nhưng người chưa quen
Ngọn Đông trào nhờ dì Gió đưa duyên
Bờ xa bến lạ cho thuyền tới nơi.

Hỏi giai nhân tài tử mấy người
Tính chi chữ “Hiếu” trên trời có hai?
Gặp nhau khi cũng bật cười.

Đọc xong, hai người cùng bật cười nhưng là cái cười cảm động đến chảy nước mắt. Sau đó hai người tri kỷ tình tự cả đêm.

Thơ khóc nhầm

Mai Lâm là một nhà giáo hay thơ. Ông làm giáo học trường Sacre-Coeur ở Cao Bằng, thường đọc thơ Tản Đà và yêu thích cả thơ lẫn người. Ông vẫn ao ước có dịp được giáp mặt nhà thơ, nhưng vì đường sá xa xôi nên chưa có dịp. Năm 1934, bỗng An Nam tạp chí đình bản và Mai Lâm nghe đồn chủ báo (Tản Đà) đã chết. Ông hết sức thương tiếc và ân hận trong đời không còn gặp được nhà thơ nữa. Ông làm bài thơ “Viếng thi sĩ Tản Đà” gồm 4 đoạn, mỗi đoạn có 2 câu đầu giống nhau, đoạn đầu như sau:

Ôi thôi, hỡi bác Tản Đà!
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời
Xa trông mây nước ngậm ngùi
Tấm lòng thương nhớ mấy lời viếng thăm.

Nhớ ai vấn vít tơ tằm
Nước non ai kẻ đồng tâm hẹn hò
Thơ đầy túi, rượu lưng hồ
Dẫu cho kiết cũng danh nho nước nhà.

Bài thơ được gửi đăng trên tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy mà lúc bấy giờ Tản Đà đang cộng tác tại đó.

Đọc được bài thơ của Mai Lâm khóc mình, Tản Đà thích thú lắm vì chẳng mấy khi được ở trong cảnh ngộ có kẻ tưởng mình đã chết mà chân thành khóc mình. Thế ra ông còn may mắn hơn cả Nguyễn-Du, người tự hỏi không biết ba trăm năm sau có ai biết đến mình hay không! Tản Đà làm ngay bài thơ Cười bác Mai Lâm đáp lại gồm có 3 đoạn, mỗi đoạn có 2 câu đầu giống nhau, đoạn đầu như sau:

Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau!
Cõi đời đã lánh xa đâu
Mà cho ai nhớ, ai sầu, hỡi ai!

Tóc tơ vương vấn còn dài
Con tằm còn trả nợ đời chưa xong
Lửa hương còn chất bên lòng
Nho tàn còn vẫn trong vòng trăm năm.

Hai bài thơ này được phổ biến lần lượt trên Tiểu thuyết thứ bảy số 32 và số 33, làm nên một giai thoại văn chương chan chứa tình người mà thật ngộ nghĩnh, ai đọc cũng thấy thoải mái, hào hứng đến… nực cười.

Ra đời như thế trên xe điện

Tản Đà là bậc kỳ tài về dịch thơ. Tản Đà kể chuyện ông dịch bài đề từ Liêu trai chí dị như sau.

Ông dịch bài này trên xe điện. Hôm ấy là ngày in đến những trang cuối cùng của cuốn Liêu trai. Bài thơ này phải đưa ngay. Thế mà lúc bước chân lên xe điện để tới nhà in vẫn chưa được một chữ nào cả. Gặp một người nhà quê, ông còn ngồi nghe chuyện phiếm. Thế rồi đột nhiên thi tứ nảy đến. Ông ngồi nhẩm dịch mà chỉ có một quãng từ chợ Hôm đến Bờ Hồ thì xong. Đến nhà in chỉ còn việc chép ra.

Bài đề từ của cuốn Liêu trai đã ra đời như thế trên xe điện:

Nói láo mà chơi! Nghe láo chơi!
Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi
Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc
Thơ thẩn nghe mưa đọc mấy lời!

Tản Đà và báo Phong Hóa

Đầu năm 1932, khắp nước có cuộc bút chiến giữa thơ cũ và thơ mới. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều tham gia cuộc bút chiến này.

Về phía thơ cũ có những tờ báo như An Nam tạp chí, Văn học tạp chí, Công luận, Tiếng dân, Văn học tuần san… Những chiến sĩ nòng cốt của phong trào thơ cũ là Vân Bằng, Dương Tự Quán, Thường Sơn, Động Đình, Tùng Lâm, Tản Đà, Thái Phỉ, Đẫu Tiếp…

Về phía bênh vực thơ mới có các báo Phong Hóa, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Ngày Nay… Những chiến sĩ nòng cốt của phong trào thơ mới là Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh, Phan Khôi, Việt Sinh…

Đầu tiên, Tản Đà gửi cho Phong Hóa bài thơ sau:

Nhắn bảo Phong Hóa

Mấy lời nhắn bảo anh Phong Hóa
Báo đến như anh thật láo quá
Từ tháng đến năm không ngớt mồm
Sang năm Quý Dậu(A) phải kiếm khóa.

Ông Nỉnh ông Ninh có liệu mà
Tái tứ tái tam đừng trách nhá
Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau
Nhờ gió thổi đi mong cảm hóa.

(A) Quý Dậu: 1933

Phong Hóa trả lời với bài thơ sau:

Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hóa
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa

Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu
Luỡi ngắn thì nên co lại nhá
Phong Hóa mà không hóa nổi anh
Tuý nhân quả thật là nan hóa!

Sự thực thì Phong Hóa không có ý mạt sát Tản Đà, mà họ nhấn vào chủ trương chung, tìm mục tiêu để tấn công vào thành trì thơ cũ, vì lúc bấy giờ, trên thi đàn Tản Đà được coi như tiêu biểu cho khuynh hướng thơ cũ.

Cuộc bút chiến kéo dài đến năm 1936 thì dịu dần. Từ năm 1938, Tản Đà được coi như thánh sống của làng thơ. Phong Hóa và vài tờ báo khác chia nhau viết về Tản Đà, ca tụng thơ Tản Đà.

Tản Đà lúc cuối đời

Ngoài sáng tác văn thơ, Tản Đà còn tỏ ra đặc sắc trong việc dịch thơ Đường ra thơ Nôm thể lục bát và song thất lục bát. Lấy ví dụ như bài thơ nổi tiếng dưới đây, mà qua ngòi bút tài tình của Tản Đà bản dịch Nôm cũng trở nên nổi tiếng:

Khuê oán – Vương Xương Linh

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu

khue oan

Nỗi oán của người phòng khuê – Tản Đà

Trẻ trung nàng biết đâu sầu
Buồng xuân trang điểm lên lầu ngắm gương
Nhác trông vẻ liễu bên đường
Phong hầu nghĩ dại, xui chàng kiếm chi!

Thực ra, dịch thơ Đường đối với Tản Đà lúc còn sống không chỉ là công việc nghệ thuật hay học thuật. Đây chủ yếu là kế sinh nhai của nhà thơ vào giai đoạn hai năm cùng cực cuối đời. Đó là thời kỳ ông mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc, không có khách. Mở lớp quốc văn hàm thụ và lớp Hán văn diễn giảng, cũng không có học trò. Rốt cùng đến thiếu tiền thuê nhà, chủ nhà đuổi và giữ lấy đồ đạc…

Với vài câu thơ, thi sĩ Trần Huyền Trân phác họa cái gia cảnh bần bách ấy:


Hồn thơ về ẩn bụi hồng
Quyển vàng, tóc bạc nằm chung một lều
Có đàn con trẻ nheo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai

Chừng lâu rượu chẳng về chai
Nhện giăng giá bút một vài đường tơ
Nghiên son lớp lớp bụi mờ
Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi.

….

(Trích bài thơ Khi đã về chiều, làm sau lần vào thăm Tản Đà)

Đó hẳn là những tờ cổ thi mà Tản Đà đem thi tài ra dịch để kiếm sống. Đằng sau các câu chữ công phu, tài hoa, thú vị để lại cho hậu thế, còn có bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, còn có niềm cay đắng của người thi sĩ lúc cuối đời cùng quẫn.

Nguyễn Trọng Cẩn

Nguyễn Trọng Cẩn (1900-1947) hiệu là Hoài Nam, có trí nhớ hơn người, văn viết lưu loát, tự nhiên, là chủ bút tạp chí Thần kinh (Huế, 1927) và đã xuất bản tập thơ Tiếng cuốc canh khuya (Huế, 1937).

Năm 1932, Pháp cho vua Bảo Đại được trực tiếp tham chính và thay nội các mới. Năm 1933, vì muốn dùng người thông thạo học vấn phương Tây, Bảo Đại cách chức một lúc năm thượng thư trong nội các: Nguyễn Hữu Bài (Bộ Lại), Tôn Thất Đàm (Bộ Hình), Phạm Liệu (Bộ Binh), Võ Liêm (Bộ Lễ) và Vương Tứ Đại (Bộ Công).

Tin này đưa ra làm xôn xao dư luận dân chúng ở kinh đô Huế. Pháp muốn xoa dịu, nên bày ra một cuộc thi thơ theo hướng tâng bốc và biết ơn năm cụ thượng cũ để năm cụ vui vẻ lui về vườn.

Không dự cuộc thi, nhưng Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại bằng bài thơ Đường luật, có chơi chữ đồng âm ở chỗ tên năm vị quan các bộ bị bãi chức ở từng câu tương ứng:

Năm cụ khi không rớt cái ình
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh
Bài không đeo nữa xin dâng lại (A)
Đàn chẳng ai nghe khéo dở hình. (B)

Liệu thế không xong binh chẳng được (C)
Liêm đành chịu đói lễ đừng rinh (D)
Công danh như thế là hư hỉ (E)
Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh.

(A) Năm cụ đã bị đuổi về thì cái bài vàng đeo ở ngực cũng phải đem trả lại cho triều đình. Câu có tên Bài, là Thượng thư Bộ Lại.

(B) Các cụ đã về rồi thì nay có đàn bản gì người ta cũng không thèm nghe nữa. Câu có tên Đàn, là Thượng thư Bộ Hình.

(C) Cái thế của các cụ là phải về, không ai binh vực được. Có tên Liệu, là Thượng thư Bộ Binh.

(D) Rinh: bê, thu nhận. Ý nói về vườn thì phải sống thanh liêm, không còn dịp ăn hối lộ như trước, đừng nhận lễ của ai nữa. Có tên Liêm, là Thượng thư Bộ Lễ.

(E) Hai câu chót ám có tên Đại, là Thượng thư Bộ Công.

Bài thơ được truyền đi rất nhanh, làm cho cuộc thi thơ lừa bịp kia thất bại: nghe xong bài thơ, không còn ai nghĩ đến làm thơ ca tụng năm cụ nữa!

Câu chuyện về bài thơ Chùa Hương

Nguyen Nhuoc Phap
Nguyễn Nhược Pháp

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là nhà thơ trữ tình, con trai của nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Do năm 1914, thực dân Pháp suy yếu, bị quân Đức đánh bại nhiều trận thê thảm, nên ông Vĩnh theo đó mà đặt tên cho con trai.

Theo Bích Huyền, thi phẩm Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp ra đời trong hoàn cảnh kỳ thú. Hội Chùa Hương năm 1934, ông cùng nhà văn Nguyễn Vỹ (1912-1971) và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai văn nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng rằm vừa bước lên những bậc đá vừa niệm phật “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Vẻ đẹp thánh thiện mang nét chân quê của cô gái hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ trân trân nhìn, quên cả hai bạn gái cùng đi. Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi: “Tại sao trông thấy chúng tôi cô lại không niệm phật nữa?”

Cô gái bối rối, thẹn thùng như muốn khóc. Hai người bạn gái gọi hai chàng thi sĩ để đi tiếp nhưng họ đã bị hớp hồn, tai đâu còn nghe thấy. Giận dỗi, họ bỏ đi. Lúc bừng tỉnh, hai văn nhân không thấy các cô đâu, vội len thốc len tháo, lách qua những dòng người đang trẩy hội nhưng tìm đâu cho thấy. Mệt và ngán ngẩm, hai thi sĩ quay lại tìm cô gái chân quê thì cả hai mẹ con cũng đã lẫn vào dòng người.

Đêm đó, Nguyễn Nhược Pháp không sao chợp mắt được. Hình ảnh cô gái chân quê đi chùa Hương khiến ông xúc động viết lên những vần thơ có sắc màu tươi vui, hình ảnh ngộ nghĩnh, cả hồn người lẫn vẻ đẹp của ngày xưa hiện lên trên từng câu, từng chữ, trích đoạn như sau:

Chùa Hương

. . .

Thầy me ra đi đò
Thuyền mấp mênh bên bờ
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.

Chua Huong AMơ xa lại nghĩ gần
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước
Em thấy một văn nhân.

Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường
Lưng cao dài, trán rộng
Hỏi ai nhìn không thương?

Chàng ngồi bên me em
Me hỏi chuyện làm quen:
“Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, giời ôi, chen!”

Chàng thưa: “Vâng thuyền đông!”
Rồi ngắm trời mênh mông
Xa xa mờ núi biếc
Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ
Ngâm nga chàng đọc thơ
Thầy khen: “Hay! Hay quá!”
Em nghe rồi ngẩn ngơ.

. . .

Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu.

. . .

Chen vào thật lắm công
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo:
“Mai mới vào chùa trong.”

Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
“Mai ta vào chùa trong!”

. . .

Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều… Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy
Nhìn em đến nực cười!

Đường mây đá cheo veo
Hoa đỏ, tím, vàng leo
Vì thương me quá mệt
Săn sóc chàng đi theo.

Me bảo: “Đường còn lâu
Cứ vừa đi ta cầu
Quán Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi mau!”

Em ư? Em không cầu
Đường vẫn thấy đi mau
Chàng cũng cho như thế
(Ra ta hợp tâm đầu.)

. . .

Chua Huong BMe vui mừng hả hê:
“Tặc! Con đường mà ghê!”
Thầy kêu: “Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.”

Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy
Thoảng ngày vui qua rồi!

Làn gió thổi hây hây
Em nghe tà áo bay
Em tìm hơi chàng thở
Chàng ôi, chàng có hay?

Đường đây kia lên trời
Ta bước tựa vai cười
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!

Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng.

Bài thơ chấm dứt như thế nhưng tác giả Nguyễn Nhược Pháp lại dí dỏm, chú thích thêm câu “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện.”

Do Thi Binh
Đỗ Thị Bính

Theo Trân Trân (2013), “Em” trong bài thơ Chùa Hương chính là người trong mộng của Nguyễn Nhược Pháp, người con gái chiếm trọn trái tim ông trong những năm cuối cuộc đời. Bà là một trong bốn mỹ nữ đẹp nổi tiếng thành huyền thoại của Hà Thành, Đỗ Thị Bính. Bà Đỗ Thị Bính là kiều nữ của cụ Đỗ Lợi, nhà tư sản thầu khoán lớn nhất Hà Thành khi đó. Là tiểu thư khuê các giàu có, lại đẹp nức tiếng, nhưng bà Bính lại được người xung quanh thương mến, yêu quý bởi bà rất đỗi bình dị, hiền hậu, sống chan hòa với mọi người, không phân biệt giai cấp

Người già còn kể lại, bà Bính khi ấy da trắng nõn nà, vóc người thanh tú cao sang, lại thêm những bộ đồ đen óng, càng khiến bà trông thêm đẹp đẽ, cao quý vô cùng. Mỗi lần bà ra ngoài, những vương tôn công tử cứ ngoái nhìn và chạy theo mải miết.

Hồi ấy, trước hiên nhà bà Bính, có hoa phong lan, những cụm hồng thơm ngát mà bà Bính thường ra ngoài ngắm hoa, đọc sách. Khi ấy, Nguyễn Nhược Pháp đang làm việc tại tòa báo L’Annam nouveau, ngày nào cũng tìm mọi cớ đi ngang đi lại để ngắm nhìn nàng, rồi tương tư, rồi về say mê, mơ mộng và tặng nàng bao vần thơ thấm đẫm mối chân tình:

Ta lặng nhìn hơi lâu
Nhưng thì giờ đi mau…

Nàng chợt nghiêng thân ngà
Thoáng bóng người xa xa…

Ta mơ chưa lại hồn
Nàng lẹ gót lầu son
Vừa toan nhìn nét phượng
Giấy thẹn bay thu tròn…

Và bài thơ Chùa Hương nổi tiếng ra đời trong những ngày tháng mê đắm bóng hình giai nhân áo đen, duyên dáng, tươi thắm trong câu chuyện tình êm ái và có hậu như giấc mơ của nhà thơ. Nhưng cuộc đời không có như mơ. Chàng thi sĩ trẻ bạc mệnh sau cơn bạo bệnh, bỏ lại bao ước vọng của tuổi thanh xuân, và ước mộng đẹp của một mối tình dang dở. Nàng giai nhân áo đen cũng đau buồn, nhỏ lệ vì thương nhớ chàng.

Câu chuyện về ba cuộc đời gắn kết với hoa sim tím

Một ngày sau năm 1975, một ông già tóc râm đang thả bộ trên đường phố Sài Gòn bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ một người đàn ông cụt chân với cái đàn guitar cũ kỹ hát xin tiền: “Những đồi hoa sim, ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt…” Lời ca nghe sao quen quá! Ông lão mới mon men đến hỏi. Thì ra là bài hát Những đồi hoa sim, và đó lần đầu tiên ông được nghe. Ông yêu cầu người hành khất hát lại một lần nữa.

Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc”, rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ… Ông lão già tóc râm đó là Hữu Loan.

Nhà thơ Hữu Loan có tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan (1916-2010), quê làng Vân Hoàn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Hữu Loan làm không nhiều thơ; cả đời thơ của ông gom lại chỉ in một tập mỏng. Nhưng khi nói về thơ Hữu Loan thì người ta nghĩ ngay đến bài Màu tím hoa sim.

Hữu Loan tự học và là thí sinh tự do, năm 1938 đậu Tú tài Pháp bán phần, rồi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Ông được bà vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Ở Thanh Hóa, bà có một cửa hàng bán vải và sách báo, ông thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Ngày đầu tiên, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào ông. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí ông, theo ông suốt cả cuộc đời.

Thế là ông dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh. Đặc biệt em chăm sóc ông hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ ông ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, hoặc những buổi trưa hè, nhằm lúc ông ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng ông treo ở góc nhà mang ra giếng giặt. Trong suốt thời gian ở trong gia đình ông Kỳ, ông coi cô như em gái của mình, “yêu nàng như tình yêu em gái”.

Có lần Hữu Loan đưa cô Ninh đi chơi. Cô leo đồi nhanh như một con sóc, ông đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, cô hỏi: “Thầy có thích ăn sim không?” Ông nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Cô đi xuống sườn đồi, còn ông vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ. Khi ông tỉnh dậy, cô đã ngồi bên ông với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng. “Thầy ăn đi.” Ông cầm quả sim từ tay cô đưa lên miệng, trầm trồ: “Ngọt quá!” Ông sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với ông chẳng lạ lẫm gì, nhưng ông thấy chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, hai người ăn hết quả này đến quả khác. Ông nhìn cô, cô cười. Hai hàm răng cô đỏ tím, đôi môi cô cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Ông cười phá lên, cô cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, Hữu Loan lên đường theo kháng chiến, gia nhập Đại đoàn 304. Trong những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng ông vẫn được tin tức từ quê. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…

Chín năm sau, ông trở về Nông Cống tìm cô. Giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Cô gần 17 tuổi, đang là một cô gái xinh đẹp…

Một tuần sau đó, hai người kết hôn. Ông bàn việc may áo cưới thì cô gạt đi, “ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới”, bảo rằng: “Yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Ông cao ráo, học giỏi, làm thơ hay, lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới rất đơn sơ, điểm nổi bật của ngày cưới chỉ là chiếc bình hoa. Chiếc bình mà ba tháng sau ông về khóc vợ, “chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh”. (Chiếc bình hoa đặc biệt ấy ông Hữu Loan vẫn giữ đến tận sau này, đặt trên bàn thờ cô Ninh.)

Hai tuần phép của ông trôi qua thật nhanh, ông phải tức tốc lên đường hành quân, trở về Đại đoàn 304 làm chủ bút tờ Chiến sĩ.

Ba tháng sau, ông nhận được tin dữ: vợ ông qua đời! Số ngày cô sống bên chồng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ông phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ.

Ba người anh nàng cũng bất ngờ: “Một chiều rừng mưa ba người anh từ chiến trường đông-bắc được tin em gái mất trước khi em lấy chồng.” Theo Thiên Minh (2011), Phạm Hồng Cư (tên khai sinh là Lê Đỗ Nguyên), người anh thứ hai, xác nhận bài thơ hoàn toàn chân thực; đó là tiếng lòng Hữu Loan khóc vợ. Phạm Hồng Cư kể:

Thời đó đơn vị chúng tôi vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng nên rất bận rộn, không có điều kiện về thăm gia đình. Hơn nữa, việc liên hệ giữa chúng tôi ở chiến trường đông-bắc và Thanh Hóa rất khó khăn, thư từ thất lạc trong thời chiến là chuyện thường tình, vì thế khi Hữu Loan cưới em gái tôi vào năm 1948 nhưng mãi đến tận năm 1949, tôi mới biết tin.

Khi ấy, trong một hội nghị của Bộ Quốc phòng về công tác chính trị, tôi gặp một người bạn cũ của gia đình là Võ Trí Sơn, cũng là bạn của Hữu Loan. Gặp nhau, Võ Trí Sơn hàn huyên kể chuyện, bỗng dừng lại và nói: “Em Ninh mất rồi!”

Tôi bàng hoàng hỏi: “Mất như thế nào?” thì Võ Trí Sơn bảo: “Em Ninh đã lấy Hữu Loan”, và kể giống như câu chuyện trong bài thơ Màu tím hoa sim.  Hữu Loan mất, tôi cũng không về đưa tang được… Nhưng tôi nghĩ rằng Hữu Loan sẽ sống mãi với bài thơ…”

Sau khi tin dữ ập đến Hữu Loan, dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng ông được bung ra, ông viết nên bài thơ.

Việc sáng tác Màu tím hoa sim có nhiều giai thoại. Có người bảo ông vừa khóc vừa làm thơ bên mộ vợ, rồi chép vào quạt nan; người lại bảo làm ở đơn vị rồi khắc lên báng súng. Theo Xuân Đài (2017), Hữu Loan kể: Thơ dài thế, làm sao viết vào quạt nan hoặc khắc lên báng súng cho đủ! Đẹp biết bao sự tưởng tượng lãng mạn của nhân dân!

Huu Loan B

Câu: “Màu tím hoa sim, tím chiều hoang biền biệt” là do ông nhớ cô ấy rất thích màu tím, mặc áo màu tím Huế, mỗi ngày lên đồi hái hoa sim tím để chưng trong nhà, chưng trên bàn viết của ông, và ngẫu nhiên là hai người từng dẫn nhau đi dọc bờ sông nơi cô chết đuối cũng mọc đầy những hoa sim tím.

Ca khúc Những đồi hoa sim của Dzũng Chinh, ra đời vào đầu thập niên 1960, là bản phổ nhạc sớm nhất được ghi nhận của bài thơ này, tuy Phạm Duy đã phổ nhạc rất sớm thành Áo anh sứt chỉ đường tà và phổ biến trong phạm vi hạn chế khi về thành. Người tổng hợp bài này mê nhạc Phạm Duy nói chung nhưng vẫn muốn bày tỏ ý kiến: bài thơ rất buồn, rất đau đớn, nhưng phổ thành ca khúc với những đoạn như là hùng ca thì e có hơi quá, không thể hiện đúng tâm tư đau khổ của Hữu Loan.

Ca khúc Những đồi hoa sim được nhiều ca sĩ thể hiện, trong đó “Con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung được yêu thích nhất. Ca từ không theo đúng nguyên ngữ bài thơ, nhưng bám sát theo nội dung. Trên một bài phát biểu trong Kiến thức ngày nay, Hữu Loan cho rằng ông thích nhất bản phổ nhạc này.

Phải công nhận Dzũng Chinh viết ca từ xuất sắc, như đoạn mở đầu:

Những đồi hoa sim, ôi những đồi hoa sim
tím chiều hoang biền biệt

Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
khi còn tóc búi vai

Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến
ai hẹn được ngày về
rồi một chiều mây bay

Từ nơi chiến trường đông-bắc đó
lần ghé về thăm xóm
hoàng hôn tắt sau đồi

Những chiều hành quân, ôi những chiều hành quân
tím chiều hoang biền biệt

Một chiều rừng mưa được tin em gái mất
chiếc thuyền như vỡ đôi

Phút cuối không nghe được em nói
không nhìn được một lần
dù một lần đơn sơ

Để không chết người trai khói lửa
mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì

Người tổng hợp bài này – và hẳn một số người khác cũng thế – từng thắc mắc: “chiếc thuyền như vỡ đôi” là như thế nào? Trong bài thơ không có ý đó. Sau này được biết, nghe tin cô vợ bị tai nạn chết, Hữu Loan sững sờ, buông tách nước rơi xuống vỡ tan mà không hay biết. Phải chăng Dzũng Chinh có linh cảm đồng điệu ra sao đó về khoảnh khắc nhà thơ “được tin em gái mất”?

Giống như hai tác giả, bài thơ và ca từ trong bài hát phổ nhạc cũng chịu gian truân theo thời thế. Ban đầu, bài thơ bị cấm phổ biến ở miền Bắc vì bị coi là mang tình cảm “tiểu tư sản” của thành phần trí thức. Còn ở miền Nam trước 1975, khi ngâm bài thơ hoặc trình bày ca khúc Áo anh sứt chỉ đường tà của Phạm Duy thì phải đổi “ba người anh đi bộ đội” thành “ba người anh đi quân đội”, làm như thể ba người anh của nàng đi lính Cộng hòa! Sau 1975, ca sĩ Việt ở hải ngoại vẫn ngâm và hát “ba người anh đi quân đội”, nhưng cũng ca sĩ đó khi về Việt Nam thì đổi lại “ba người anh đi bộ đội”!

dzung chinh
Nhạc sĩ Dzũng Chinh

Tác giả bài phổ nhạc tên thật là Nguyễn Bá Chính (1941-1969) ở Nha Trang, tốt nghiệp Trung học với bằng Tú tài toàn phần. Sau đó anh theo học Đại học Luật khoa ở Sài Gòn, và sáng tác bài Những đồi hoa sim trong thời gian này. Năm 1965 anh bị động viên vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa, và năm 1969 tử trận khi đang giữ cấp bạc thiếu úy, được truy thăng trung úy.

Thật ra, cấp trên đã biết Dzũng Chinh là tác giả ca khúc nổi tiếng nên ban đầu điều anh về đơn vị không chiến đấu. Do bản tính lãng tử của người nghệ sĩ, Dzũng Chinh hay lén trốn đi ra ngoài chơi không phép, nên bị điều đi chiến trường, làm trung đội trưởng.

Phạm Tín An Ninh (2015), người ở cùng một đơn vị với Dzũng Chinh khi anh tử trận, kể về sự kiện này như sau.

Trung đội của Dzũng Chinh nhận trách nhiệm án ngữ dưới chân núi Chà Bang, Phan Rang, để phục kích một toán quân của MTDT Giải phóng. Đến địa điểm phục kích khoảng 7 giờ tối, Dzũng Chinh cho tiểu đội của Trung sĩ Luận ra nằm tiền đồn phía trước, cách trung đội chừng 500 mét, vừa theo dõi báo cáo bằng tín hiệu riêng khi đối phương xuất hiện, vừa làm nút chặn khi đối phương bị trung đội tấn công, chạy ngược lại phía sau.

Khoảng 11 giờ tối, một toán người xuất hiện và lên tiếng: “Luận về đây”. Dzũng Chinh tưởng là Trung sĩ Luận đã dắt tiểu đội về, nên hỏi lại: “Sao Luận về sớm vậy?” Một tràng súng nổ tức thì. Dzũng Chinh ngã xuống.

Thì ra một trùng hợp kỳ lạ, quái ác, đưa đến cái chết tức tưởi của Dzũng Chinh. “Luận về đây” lại là mật khẩu của đối phương, trong đó cũng có tên Luận trùng với tên Trung sĩ Luận, người tiểu đội trưởng có nhiệm vụ tiền đồn. Đối phương sợ bị phục kích nên đã chia làm hai toán, sử dụng lộ trình khác, không đi theo con đường mòn, nên tiểu đội tiền đồn của Trung sĩ Luận không phát hiện được. Vì sự ngộ nhận đáng tiếc này làm Dzũng Chinh hứng trọn một tràng đạn AK, rồi qua đời trong quân y viện tối ngày 01.3.1969.

Cái chết oan uổng của Dzũng Chinh được bạn bè cùng đơn vị bàn tán khá nhiều với vài sự kiện mà mọi người cho là những điềm gỡ báo trước.

Ngày xưa lương lính thường không đủ xài, nhất là những khi được về thành phố, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến Ban Tài chánh Trung đoàn xin mượn lương trước. Vị sĩ quan tài chánh ngần ngừ, bảo sao mượn lương sớm thế, mới đầu tháng đã mượn, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh gãi đầu năn nỉ: “Thì cứ xem như Đại úy ứng trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà.”

Vị Đại úy Tài chánh cho mượn, nhưng rầy anh: “Cậu chớ nói điều gỡ, không nên!”

Sau đó, anh rủ hai người lính về thành phố Phan Thiết chơi. Không hiểu nhóm anh đụng chạm thế nào với một nhóm lính thuộc đơn vị khác. Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo của Quân cảnh Phan Thiết, gọi trình diện. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói: “Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai mà trình diện!”

Không ngờ anh đi luôn thật!

Dưới chân núi Chà Bang, nơi Dzũng Chinh ngã xuống, là một vùng đầy hoa sim. Tác giả nhạc phẩm Những đồi hoa sim phổ thơ Màu tím hoa sim cuối cùng nằm xuống trên ngọn đồi bạt ngàn hoa sim tím.

Di mộ của nhạc sĩ Dzũng Chinh tức Nguyễn Bá Chính nằm ở khu kim tĩnh gần Tượng Kim thân Phật tổ của Chùa Long Sơn, số 22 đường 23 tháng 10, Phường Phương Sơn, dưới chân núi Trại Thủy, Thành phố Nha Trang. Di mộ nằm ở dãy B1 của khu kim tĩnh, cách lối đi vào khoảng vài mét. (Vũ Khuê, 2017)

Còn nhà thơ Hữu Loan, khi sống gắn kết với hoa sim tím, sau khi qua đời cũng thế: mộ ông nằm trên một đồi sim tím thuộc xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

doi hoa sim

Cộng thêm cô vợ Hữu Loan: từng dạo chơi với nhà thơ trên các đồi sim rồi ngã xuống nước ở vùng mọc đầy sim tím, thế là cuộc đời ba người gắn kết với hoa sim tím – trong những vần thơ và dòng nhạc cũng như dòng đời đầy bất hạnh.

Có lần, Hữu Loan tâm sự:

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc… Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? …

Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì.

Màu tím hoa sim trong thơ và trong nhạc sống mãi trong lòng người.

Xuân Diệu

Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học.

Một công ty ăn uống ở Hà Nội mới làm được một loại bánh bao ngon, hy vọng hơn cả bánh của người Hoa ở phố Hàng Buồm. Chủ nhiệm công ty là người mê văn nghệ, mời hơn chục nhà thơ đến thưởng thức. Ngồi vào bàn, không chờ chủ mời, nhà thơ Xuân Diệu cầm một chiếc bánh bao ăn liền.

Còn những người khác thì lịch sự nghe bài diễn văn của chủ nhiệm. Đọc xong bài diễn văn, ông mời các nhà thơ thưởng thức bánh. Nhìn đến cái đĩa trước mặt nhà thơ Xuân Diệu, thấy trống trơn, ông lừ mắt ra hiệu cho cô nhân viên bỏ thêm bánh vào. Nhà thơ Xuân Diệu lại thản nhiên ăn.

banh bao XDVừa ăn, Vĩnh Mai vừa lúi húi viết. Một lúc sau, mọi người chuyền tay nhau một mẩu giấy có bài thơ bốn câu:

Cái bánh bao hời, cái bánh bao
Mùa xuân kỳ diệu, Diệu kỳ sao!
Người ta một chiếc, ông hai chiếc
Thơ nghĩ chưa ra, bánh đã vào!

Xuân Diệu là người đọc bốn câu thơ luân lưu ấy sau cùng, ông gật gù khen hay.

(Theo Nguyễn Bùi Vợi, 1944)

Câu chuyện về Nguyễn Bính

Chơi khăm trọc phú

Một lần chủ nhiệm tờ Dân Báo thông qua Tế Xuyên nhờ Nguyễn Bính (1918-1966) làm một bài thơ để đăng trên số báo đặc biệt Xuân Giáp Thân. Bài thơ viết về một xóm nhỏ bên kia Cầu Kinh, nơi có khu nhà nghỉ nằm ven sông Sài Gòn của một “đại gia” họ Nguyễn (khu vực Thanh Đa ngày nay).

nguyenbinha
Nguyễn Bính

Bài thơ của Nguyễn Bính mang tên Xóm Dừa:

Lối đỏ như son tới Xóm Dừa
Ngang cầu điểm điểm giọt mưa thưa
Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá
Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?

Còn đây là khổ thơ cuối:

Ở lại kinh thành với bút nghiên
Đêm đêm quán trọ thức thi đèn
Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ
Thiên hạ đem thơ đọ với tiền.

Ông chủ nhiệm tờ Dân Báo không thích hai câu cuối, nên nói với Tế Xuyên nhờ thi sĩ sửa lại. Nể bạn, Nguyễn Bính thay bằng:

Xót xa một sớm soi gương cũ
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền!

Hai câu này vẫn chưa làm ông chủ báo hài lòng, đề nghị sửa thêm lần nữa.

Nguyễn Bính khước từ.

Báo sắp lên khuôn, bài thơ đã được “rao” (quảng cáo) trước, thành thử Tế Xuyên phải năm lần bảy lượt làm thuyết khách. Cuối cùng thì bài thơ được đăng báo, nằm ở vị trí trang trọng với hai câu cuối như sau:

Xót xa một sớm xòe năm ngón
Thấy chết lòng tay vệt trái tim.

Hai ngày sau khi báo phát hành, Nguyễn Bính đến tòa soạn đòi nhuận bút. Ông chủ tờ Dân Báo bảo thủ quỹ trao cho Nguyễn Bính 10 đồng. Nguyễn Bính chê ít, không nhận. Ông chủ giải thích: “Với các văn sĩ nổi tiếng, bài nào tôi trả cao nhất cũng chỉ tới 5 đồng. Riêng với ông, tôi có cảm tình đặc biệt…”

Ông chủ báo chưa dứt lời thì Nguyễn Bính đã ném xấp tiền tung tóe dưới đất rồi ung dung ra về trước sự kinh ngạc của nhiều người có mặt…

Chiều hôm đó, Tế Xuyên thay mặt ông chủ báo tìm đến xin lỗi và trao cho Nguyễn Bính 50 đồng trong sự kinh ngạc của mọi người.

Sau khi báo đăng bài thơ Xóm Dừa, Nguyễn Bính rất được “đại gia” họ Nguyễn biệt đãi và thường mời đến khu nhà nghỉ ở Thanh Đa chơi. Trong một lần đến chơi như thế, Nguyễn Bính được chủ nhân biếu 500 đồng (giá vàng thời điểm này khoảng 60 đồng/lượng).

Nhưng sau đó ít lâu, cô em họ của “đại gia” này phát biểu sao đó làm thương tổn danh dự nhà thơ. Nguyễn Bính giận lắm, không ngần ngại đáp lại trên mặt báo những câu thơ:

Trọc phú ti toe bàn sách vở
Điếm già tấp tểnh nói văn chương
Chúng coi đồng bạc to hơn núi
Lại học đòi theo thói Mạnh Thường.

Nguyễn Bính và bạn hữu

Đoạn này là từ một nguồn duy nhất: Lê Hoài Nam (2006). Tựa đề bài viết của ông về Nguyễn Bính ghi “giai thoại”, nhưng theo tinh thần ghi ở đầu bài này thì người tổng hợp gọi là “câu chuyện” bởi vì có chất thật hơn là hư cấu.

Sinh thời, nhà văn Chu Văn và họa sĩ Nguyệt Hồ rất hay kể lại những kỷ niệm của họ với nhà thơ Nguyễn Bính. Nhà văn Chu Văn thì mãi tới thời kỳ làm Trưởng ty Văn hóa tỉnh Nam Định, ông mới sống cùng Nguyễn Bính. Còn Nguyệt Hồ thì làm bạn với Nguyễn Bính ngay từ thuở họ đang đặt những bước chân đầu tiên vào làng văn nghệ.

Nguyệt Hồ xuất hiện trước Nguyễn Bính. Ông sống ở Nam Định nhưng thường xuyên được các ông chủ báo ở Hà Nội mời vẽ minh họa. Chính Nguyệt Hồ giới thiệu Nguyễn Bính với chủ bút báo Tiểu thuyết thứ năm là nhà thơ Lê Tràng Kiều để Nguyễn Bính được đăng tác phẩm đầu tiên ở tờ báo này là bài Cô hái mơ.

Đấy là vào những năm cuối thập kỷ ba mươi, tại Nam Định có một nhóm văn nghệ sĩ chơi với nhau: Nguyễn Bính, họa sĩ Nguyệt Hồ, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Phong Giao, Trúc Đường… Nhưng nhóm này không chỉ quan hệ bạn bè khép kín trong phạm vi một tỉnh, mà họ còn chơi với nhiều văn nghệ sĩ Thủ đô và các tỉnh khác như Tô Hoài, Lê Tràng Kiều, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Anh Thơ, Ngân Giang, Nguyễn Vĩ, Hoàng Tấn, Trúc Khê, Vũ Trọng Can, Trúc Sơn, Hoàng Lập Ngôn, Trương Tửu…

Hồi ấy đường sá, xe cộ khó khăn, nhưng họ tìm đến với nhau như cơm bữa. Họ chơi với nhau thân tình, rất thoáng đãng nghệ sĩ, nhưng vẫn giữ cái nếp sống đạo lý, tự trọng và quý tài năng của nhau. Họa sĩ Nguyệt Hồ kể rằng, ngày ấy các nhà thơ chơi với nhau lấy tài năng thi ca, tài ứng đối, tài chơi chữ… để hấp dẫn nhau, quý trọng nhau nên tình bạn của họ rất bền chặt.

Chẳng hạn, một lần nhà thơ Trúc Khê (1901-1947) mời một nhóm bạn gồm Nguyễn Bính, Ngân Giang, Trần Huyền Trân về nhà mình ở Ngô Sơn chơi. Họ ngồi uống rượu dưới trăng.

Ông chủ nhà Trúc Khê ra đề tài “Đêm hội Ngô Sơn” để các bạn xướng họa:

Non Ngô dưới ánh trăng rằm
Duyên may hội ngộ tri âm buổi này

Trần Huyền Trân (1913-1989) liền đọc tiếp:

Rượu nồng chưa nhấp đã say
Nhưng tình đã thấy rót đầy lòng nhau

Nguyễn Bính đọc:

Chắc rằng gặp mãi nhau đâu
Duyên bèo nước có bền lâu bao giờ!

Ngân Giang (1916-2002) tiếp:

Tiệc này dưới ánh trắng mờ
Tiệc sau e bóng người thơ lạc loài

Họ cứ thế đọc tiếp thành một bài thơ dài. Và điều đáng khâm phục là giọng thơ của người nào mang phong cách riêng của người ấy.

Trong số bạn bè văn chương thời đó, Nguyễn Bính được coi là người hay chữ nhất. Ông thường xuất khẩu thành thơ và những áng thơ đó không hề xoàng xĩnh.

Đây là câu chuyện vào thời kỳ Nguyễn Bính đã phải rời báo Trăm hoa về làm việc ở Ty Văn hóa Nam Định. Cái đêm ấy chắc phải thức khuya sáng tác nên hôm sau tới nhà bạn chơi, trông Nguyễn Bính lờ đờ mệt mỏi.

Họa sĩ Nguyệt Hồ liền “xuất khẩu” bài thơ chơi chữ rất sành điệu trêu Nguyễn Bính:

Văn nghệ hay là văn gừng
Sao ông lửng khửng lừng khừng vậy ôi?
Hay là tối đã tác rồi
Sáng không tác được mệt nhoài tứ chi?

Cứ tưởng Nguyễn Bính đang mệt thế không ứng đối ngay được, không ngờ ông nhấp một ngụm nước rồi đọc luôn:

Sáng tác hay là tối tác đây?
Tối không tác đủ tác ban ngày
Xem ra sáng tác không bằng tối
Tối tác, ông ơi, sướng gấp hai!

Các bạn ngồi đó đều cười, gật gù khen tài ứng đối của Nguyễn Bính.

Nhưng cũng có khi vì cách chơi chữ quá sắc sảo mà Nguyễn Bính làm mất bạn. Nguyễn Bính chơi thân với một nhà thơ nữ còn trẻ, nhưng nàng lại “dính bùa yêu” của một người nhiều gấp đôi tuổi nàng. Năm 1954, Nguyễn Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, ông tìm đến thăm nhà thơ nữ nọ. Nàng tiếp ông thân ái.

Nàng để đĩa cam lên bàn. Trong lúc nàng hí húi bổ cam mời Nguyễn Bính thì ông đã viết xong hai câu thơ toàn vần C để trêu bạn, nhét xuống dưới đĩa cam:

Cô cầm cam, cụ cầm cô, cô cứ cỳ cèo co céo cụ
Cụ càng cao, cô càng cáu, cô càng cay cú cái cò con!

Nguyễn Bính về rồi, nữ sĩ đọc bài thơ giận tím mặt. Nàng quyết định cắt đứt quan hệ với Nguyễn Bính. Bạn bè biết chuyện liền có thơ giễu lại Nguyễn Bính:

Chơi chữ cam, chơi chữ chua cay
Câu chuyện cũ càng, còn cáu kỉnh
Cô cấm cửa, cuối cùng cũng cắt!

Tuy nhiên, chuyện “không nhìn mặt nhau nữa” như trường hợp với nữ sĩ kia không xảy ra nhiều trong đời Nguyễn Bính.

Nguyễn Bính rất dễ yêu song cũng hay thất tình. Mỗi lần thất tình ông thường trút nỗi niềm vào thơ. Những bài thơ như thế của Nguyễn Bính thường là hay.

Chẳng hạn, một lần Nguyễn Bính cùng Vũ Hoàng Chương nhảy tàu hỏa lên Bắc Giang chơi. Ở đây Nguyễn Bính có một người bạn là nhà thơ Bàng Bá Lân. Bàng Bá Lân cùng nhóm thơ Bắc Giang mới lập một hội gọi là “Tao đàn Sông Thương”.

Tại Tao đàn này có một nữ sĩ, rất xinh đẹp, từng hút hồn Nguyễn Bính bấy nay. Nguyễn Bính “kết” lắm, nhưng nữ sĩ thì có vẻ chỉ mê thơ chàng chứ không mặn mà với con người chàng cho lắm.

Lần này Nguyễn Bính kéo Vũ Hoàng Chương lên để mong sự trợ giúp của bạn cho cuộc tình đi đến độ đơm hoa kết trái. Nhưng không ngờ tình hình càng trở nên xấu đi.

Trên đường về, ngồi trong toa tàu, Nguyễn Bính đã làm tức thì những câu thơ và đọc cho Vũ Hoàng Chương nghe:

Sông Thương nước chảy đôi dòng
Bao giờ bên đục bên trong hài hòa
Ngậm ngùi một bước một xa
Đến đây là… đến đây là… là thôi!

Cái câu “Đến đây là… đến đây là… là thôi!” thật kỳ tài. Chỉ có tâm trạng kẻ thất tình thì câu thơ mới dùng dằng, ngắt quãng kiểu ấy. Về sau, hai câu cuối của Nguyễn Bính đưa vào bài Rượu xuân.

Các nhà thơ thời Thơ Mới, dù sống ở tỉnh lẻ như Nguyễn Bính cũng ít nhiều biết chút tiếng Hán, tiếng Pháp. Vốn chữ Hán không nhiều nhưng Nguyễn Bính dịch thì rất giỏi.

Một lần tại tòa soạn báo Tiều thuyết thứ năm hội ngộ khá đông bạn bè, Nguyễn Bính muốn có chút tiền khao các bạn một bữa, ông liền đề nghị mọi người thi dịch thơ. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cũng hưởng ứng, liền “ra đề” bằng một bài thơ Đường:

Hoàng mai thời thiết gia gia vũ
Phương thảo trì đường cứ cứ oa
Hữu ước bất lai hoa dạ bán
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa

Mọi người cầm bút dịch, gạch xóa mãi chưa xong thì Nguyễn Bính đã xin được đọc bản dịch của mình:

Ao hồ tiếng ếch gần xa
Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi
Nửa đêm cái hẹn sai rồi
Quân cờ gỗ nhảm làm rơi hoa đèn

Mọi người phải thừa nhận bài thơ Nguyễn Bính dịch khá hay. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cao hứng liền ra tiếp đề khác:

       Nhất ấp xuân giao vạn lý tình
       Đoạn trường phương thảo, đoạn trường oanh
       Nguyễn tương song lệ đồ vi vũ
       Minh nhật lưu quân bất xuất thành

Lần này Nguyễn Bính lại dịch xong đầu tiên:

Một chén tiễn đưa tình vạn lý
Oanh buồn rầu rĩ, cỏ buồn phai
Mong đem lệ tưới thành mưa lớn
Ngăn bước đường anh buổi sớm mai

Nghe đến đây mọi người lặng đi vì bài dịch quá hay. Ông chủ bút đành phải “ra đề” dễ hơn cho các nhà thơ khác tham gia dịch. Song cũng chỉ dịch thêm vài bài nữa là ông cho dừng lại vì nó liên quan đến số tiền nhuận bút ông phải thưởng.

Hôm ấy, Nguyễn Bính giật giải nhất. Số tiền đủ để ông khao cả nhóm bạn tại một quán ăn khá sang trọng của Hà thành.

Sinh hoạt, quan hệ của các nhà thơ trẻ hồi ấy là thế. Tài năng và phong cách sống của Nguyễn Bính là thế. Họ không giầu. Vả lại họ không quá câu nệ vật chất trong cư xử. Cách họ giao kết bạn bè thật trọng thị, chí tình chí nghĩa. Có lẽ đấy mới là cái tình đích thực của thi nhân!

Vũ Trọng Can

Một lần nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) cùng nhà văn Vũ Trọng Can (1915-1943) đang đứng ở nhà số 20 phố Hàng Ngang Hà Nội, thấy có một đám ma đi qua. Người ta nói đó là đám tang một cô gái mới 16 tuổi đẹp nhất phố Hàng Đào. Ai cũng xuýt xoa thương tiếc. Nhìn những cỗ xe tang trắng, vòng hoa trắng và những khăn sô trắng… đầy đường, hai nghệ sĩ rất xúc động.

Chiều, Vũ Trọng Can làm xong một bài thơ đưa Bính xem. Bính không nói gì. Hôm sau, Nguyễn Bính đưa bài thơ của mình cho Can xem. Đó là bài Viếng hồn trinh nữ.

Can bèn rút túi áo, xé bài thơ của mình đi và nói:

–  Ngày xưa Lý Bạch không làm thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu, vì đã có thơ của Thôi Hiệu rồi. Nay có bài thơ của cậu thì thơ mình nên xé đi! Cả bài đều hay, nhưng mình thích nhất các câu:

Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những vòng hoa trắng lạnh người.

Theo bước, những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi…

Cũng là một chuyện nhỏ về biết mình, biết người ngày xưa.

Một ca khúc liên quan đến một bài thơ

nhac si thong dat
Nhạc sĩ Thông Đạt

Ngô Văn Giảng (1924-2013) là nhạc sĩ sáng tác nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca, như bài Lục quân Việt Nam nổi tiếng. Khi viết tình ca, ông ký tên Thông Đạt.

Thuở ấy, nhạc sĩ mới ngoài 30, dáng điệu phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân trường. Đó là thời gian ông làm giáo sư âm nhạc tại trường Hàm Nghi, Huế. Cứ mỗi cuối giờ, thầy Giảng có một câu chuyện kể về các giai thoại âm nhạc, đặc biệt là những chuyện thâm cung bí sử của những nghệ sĩ âm nhạc tài hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày về của Hoàng Giác, thầy Giảng xướng âm lên và phân tích cho học trò nghe rằng, tiết điệu của bài ca đó có những trường canh trải dài xa vắng và âm hưởng thương nhớ quặn lòng “rất Tây Phương”, vì đây là bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân viễn chinh của Pháp viết lên giai điệu. Nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ soạn ca từ…

Hoặc như bản nhạc Trầm hương đốt của Bửu Bác, xuất xứ là bài Hải triều âm. Đây là một trong những bản nhạc nghi lễ đầu tiên dùng trong sinh hoạt chùa viện bứt phá từ giai điệu ngũ âm “Đăng đàn cung” để tiến lên bát cung của phương Tây. Bởi vậy mà ảnh hưởng âm điệu “thánh ca nhà thờ” như âm vang trầm trầm không cao không thấp quá tầm uyển thanh của organ thể hiện rất rõ trong giai điệu của bản nhạc.

Nhưng thú vị hơn cả là lịch sử bản nhạc Ai về sông Tương. Nhạc sĩ kể rằng, thời trai trẻ, ông ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim Long, nhưng duyên không thành vì gia đình nho phong của cô không có cái nhìn thiện cảm với đời nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca… Thế là chia tay và cô bé đi lấy chồng!

Rồi một hôm, ông vào rạp chiếu bóng Tân Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc sông Hương, để xem phim “Bé nhà trời” (Les enfants du paradis). Ngay trước mắt ông, ở hàng ghế trước có một cô bé tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt, nhưng từ dáng dấp đến hương tóc thoang thoảng mùi hoa ngâu của người thiếu nữ làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long ngày xưa.

Nhạc sĩ bị xúc động đến nỗi không thể ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng, nên vội vàng ra khỏi rạp. Ông cưỡi chiếc xe đạp Dura Mercier của mình và đạp xe dọc theo bờ sông Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội. Thoáng chốc dòng sông Hương hiện ra như là dòng sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư Trung Quốc. Ông vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức nghệ thuật với sự chấn động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai về sông Tương được viết ra trong vòng mười lăm phút!

Sau đó, nhạc sĩ bí mật ký tên là Thông Đạt và chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Mấy hôm sau, Mạnh Phát  – vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ  – hát bản Ai về sông Tương lần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội. Bản nhạc sáng tác năm 1949 nhanh chóng nổi tiếng cả nước.

Những mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở răng trắng tóc xanh đã thành răng long đầu bạc, nhưng Ai về sông Tương vẫn mới như thời gian là nước chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự của những đôi tình nhân ước hẹn không thành. Bản nhạc – với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời lẽ đậm nét hoài niệm trữ tình – làm dậy lên nguồn tình cảm mượt mà như một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn cảnh tạm hồi sinh sau cuộc chiến:

Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương

Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương…

Cũng theo lời nhạc sĩ vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát – là bạn thân của ông – nhờ ông đến nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy giờ là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng Duyệt làm giám Đốc, để hỏi cho ra Thông Đạt là ai ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á. Tác giả bài nhạc tảng lờ như không hay biết. Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của Thông Đạt mới được tiết lộ. “Mạnh Phát vô Huế chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui thùi thụi như rứa thì thôi!” – Văn Giảng cười vui kể lại.

Một lần trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế hỏi: “Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình cũng có Hương giang đầu, Hương giang vỹ mà Thầy lại phải vay mượn sông Tương của Tàu như rứa ạ?”

Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương chưa có chuyện tình nào nổi tiếng trong tình sử như sông Tương. Tương Giang là một con sông ở Trung Hoa, bắt nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài hơn hai ngàn dặm. Còn ý “Ai về sông Tương” của Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của bốn câu thơ tình sử trích từ khúc Trường tương tư của nàng Lương Ý, đời Hậu Chu. Nàng và Lý Sinh yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm thơ mong gửi gấm nguồn tâm sự đau khổ khi phải xa cách người yêu:

Trường tương tư – Lương Ý Nương

Truong tuong tu B. . .
Ngã tại Tương giang đầu
Quân tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy
. . .

Bản dịch của Vũ Ngọc Khánh

Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương

Bản dịch của Hoàng Khắc Chinh

Đầu sông chàng đợi, mong chờ
Cuối sông thiếp những thẫn thờ nhớ trông
Nhớ nhau chẳng thấy nhau cùng
Nước sông ta uống nỗi lòng của nhau

Bản dịch của Hải Đà

Đầu sông chàng đứng thẫn thờ trông
Còn thiếp mỏi mòn đợi cuối sông
Nhung nhớ nhau hoài sao chẳng thấy
Nước sông cùng uống nỗi lòng chung

Trước ca khúc của Thông Đạt, sông Tương như là biểu tượng cho sự ngăn cách đã đi vào hai tác phẩm kinh điển của Việt Nam.

Chinh phụ ngâm, ra đời khoảng năm 1740:

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Nơi Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xa xa những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai!

Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều, viết khoảng thập kỷ 1810:

Từ phen đá biết tuổi vàng
Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia

Câu chuyện về Nguyễn Khải

Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải (1930-2008) sinh tại Hà Nội, quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch.

Một ngày, ông làm giúp cậu con trai bài tập làm văn cô giáo cho về nhà làm (tất nhiên cô không biết em là con nhà văn). Đầu đề: “Em hãy phân tích chủ ý của nhà văn Nguyễn Khải qua tác phẩm…”

Được bố, một nhà văn có tiếng làm văn cho, lại là bài văn trực tiếp viết về bố mình thì còn gì hơn nữa! Không điểm 10 thì cũng phải là điểm 9. Từ đó cậu cứ nóng lòng chờ ngày cô giáo trả bài. Ngày ấy đến và thật bất ngờ cho cậu, bài của cậu chỉ đạt điểm trung bình bởi lời phê thật oái oăm: “Không hiểu ý tác giả!”

Để kiểm tra lại sự chính xác của giai thoại này, một người bạn, Nguyễn Khoa Đăng, điện thoại cho nhà văn. Đầu dây bên kia, ông cười thành tiếng: “Ờ… ờ… có đấy!”

– Vậy anh có tán thành ý kiến của cô giáo không?

– Tán thành quá đi chứ! Vì tác phẩm văn chương khi ra ngoài đời nó có cuộc sống riêng của nó. Độc giả đọc nó chính là lại sáng tạo lần thứ hai. Mà đã sáng tạo thì họ có quyền nghĩ theo cách của họ chứ!

Cuối cùng, ông bạn nói với nhà văn Nguyễn Khải:

– Chuyện anh kể làm tôi nghĩ đến vua hề Sạc-lô [Charlie Chaplin]. Nghe nói có lần đi qua thành phố nọ ở nước Anh , thấy ở đây có cuộc thi với nội dung “Bắt chước Sạc-lô”, ai bắt chước càng giống thì được điểm càng cao, Sạc lô liền cải trang vào dự thi. Kết quả cũng thật bất ngờ. Ông chỉ đạt được giải ba trong khi giải nhất thuộc về một người không hề quen biết ông. Nghệ thuật là thế phải không anh?

Phía đầu dây bên kia nhà văn lại cười…

Câu chuyện về Cao Văn Tuế

Cao Văn Tuế sinh khoảng 1930, có gốc gác ở làng Sủi (Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội), là hậu duệ đời thứ 5 của Cao Bá Quát, sinh sống bằng nghề cắt tóc.

Bên cạnh việc cắt tóc, ông Tuế rất thích làm thơ, viết văn, hay “hóng hớt chuyện thiên hạ”. Chính cái miệng có duyên đến lạ của ông khiến nhiều người khách dốc ruột, dốc gan kể chuyện đời mình. Câu chuyện có thể từ chuyện vặt vãnh trong gia đình đến quốc gia đại sự, có thể là chuyện đời, chuyện nghề… Ông ghi chép, gom góp lại rồi đêm về lại đem nhưng câu chuyện người ta tự nguyện… cho không ấy, viết thành văn rồi gửi đăng báo, kiếm thêm tiền… tiêu vặt.

Ông bảo, cho đến nay, ông đã có 10 tác phẩm viết về làng Sủi quê mình được nhận giải từ cấp báo đến cấp huyện… Với ông, không biết thì không viết đã đành, không biết rành rọt ông cũng không đặt bút.

Trên nhiều tờ lịch có in những câu châm ngôn mà tác giả chính là… phó cạo Cao Văn Tuế. Số là một đêm, nằm mãi không ngủ được, ông bèn dậy hí hoáy viết một cái gì đó. Cuối cùng, ông hí hoáy được 32 câu châm ngôn với câu đầu tiên: “Người già mọi cái đều co lại, riêng cái mồm lại rộng ra.” Trong số 32 câu châm ngôn “mất ngủ” ấy, ông Tuế gửi đi các báo thì có tới 31 câu được đăng tải. Có những dòng tâm thức khi ngắn gọn:

Chê nhau nhăn mặt, chán nhau quắt gan

khi hóm hỉnh:

Bố con đều khôn, khó bàn; Chủ khách đều khôn, khó nói.

Thậm chí, nhiều câu làm người sưu tầm đăng trên báo, sách, lịch, đã nhầm là của… Khổng Tử:

Chê người mà được thưởng là gặp Thánh; Khen người mà bị phạt là gặp Thần

hoặc:

Nói viển vông phí một lúc, làm viển vông phí một đời.

Những câu châm ngôn do ông Cao Văn Tuế sáng tác rất bình dị, ngỡ như vừa được xuất khẩu thành văn ở một nơi nào đấy quanh ta. Chúng không cao siêu chữ nghĩa mà dễ hiểu và vẫn có tính thâm trầm triết học, dễ đi vào lòng người đọc như:

Yêu ai chớ nên yêu hết; Ghét ai chớ ghét tới cùng

Lừa bằng trí là mẹo lừa bậc Thầy; Lừa bằng tâm là mẹo lừa bậc Thánh

Nói thật nhưng chớ nói hết.

Theo nhà văn Xuân Cang: “Đó là kinh nghiệm ngay trong cuộc phê bình trên báo chí thời đổi mới chúng ta. Cần nói ra sự thật nhưng chỉ nên vừa đủ thành sự thật, không thể phơi bày tất cả, thảm họa sẽ sinh ra từ đó”.

Ông Cao văn Tuế còn có những câu:

Người chê ta về đạo đức, ta cúi đầu; người chê ta về trí tuệ ta mở mắt

Câu hỏi uyên bác làm cho người trả lời nổi tiếng (Nhà báo nên biết câu này)

Người tướng giỏi không chịu thua nhưng phải biết về sự thất bại (Nhà quân sự nên biết câu này)

Gặp người khôn chớ để hở, tiếp người tinh chớ để hớ (Nhà ngoại giao nên biết câu này)

Hoặc

Người trồng cây không nghĩ đến ngày hái quả, đó mới thực là trồng cây

Học cưỡi ngựa, mấy ai học cách ngã ngựa

Mọi sự va chạm đều thành sẹo

Luôn thấy cái mới ở nhau thì ít khi chán nhau

Ông Tuế vui vẻ khoe, đến năm 2010 ông đã có 3.688 câu châm ngôn với hơn 1.000 câu được đăng trên các sách, báo, lịch.

Không chỉ viết báo, làm thơ, viết châm ngôn, ông thợ cạo Cao Văn Tuế còn viết câu đối bằng Hán-Việt tự cho dù không hề biết viết tí chữ Hán nào. Ông bảo, đấy là do học lỏm, hay đọc thơ dịch từ chữ Hán sang nôm, rồi nhớ lại để khi nào viết thì… lắp ghép vào. Sau đó, ông sẽ mang tới những người bạn là bậc túc nho để nhờ sửa xem có… sai sót gì không.

Dưới đây là đôi câu đối cho Tướng Nguyễn Sơn (1903–1956):

 Chí tráng sơn hà lưỡng quốc tạc
 Danh truyền sử sách thiên thư lưu

Dịch:

Chí khí sông núi hai nước khắc ghi
Danh tiếng sử sách vạn trang giữ

“Hai nước” bởi vì Nguyễn Sơn được phong tướng ở Việt Nam (1948) và Trung Quốc (1955), nên ông còn được gọi là “Lưỡng quốc tướng quân” (Tướng quân hai nước).

Cao Văn Tuế còn có câu đối cực kỳ độc đáo, ngông ở chỗ là ông lão ít học này dám cả gan sửa cả chữ “Tả thanh thiên” của Thần Siêu vốn tồn tại suốt bao đời nay tại Tháp Bút bên hồ Hoàn Kiếm:

Sơn tạc thi thư tâm khoát hải
Tháp giương nghiên bút chí cao thiên

Dịch:

Núi tạc bài thơ, tâm như biển cả
Tháp bút giương lên, chí cao tới trời

Ông Tuế có hai câu như tóm lại cuộc đời mình, để kết cho một câu chuyện về người cắt tóc đầy duyên nợ với văn chương:

Ngày vương tóc vụn, tối dốc tâm can
Gieo vần ủ chữ, thấm đọng nhân gian

Ông bảo, đầu mình ít chữ, nên phải dốc tâm can, xương tủy để gieo vần.

Câu chuyện về Hai Bà Trưng và hai nhà thơ

Mùa xuân năm Canh Tý (tháng 3 năm 40), Trưng Nữ Vương hội quân ở Hát Môn làm lễ tế cờ chính thức phát động nhân dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị của ngoại tộc. Nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy dưới cờ lệnh của Trưng Nữ Vương.

Các quận Nam Hải (đảo Hải Nam ngày nay), Cửu Chân (Bắc Việt ngày nay), Nhật Nam (Trung Việt ngày nay), Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay) cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng.

Năm Tân Sửu (41) hoàng đế Quang Vũ của nhà Đông Hán sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân cầm quân sang đánh Trưng Vương. Mã Viện là một danh tướng khét tiếng, lúc bấy giờ ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn khỏe. (Đền thờ Mã Viện được nhắc đến trong truyện Tam quốc diễn nghĩa.)

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ghi:

“Hai bà rút quân về đóng ở Cẩm Khê (phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên). Mã Viện tiến quân lên đánh, quân hai bà vỡ tan cả. Hai bà chạy về đến xã Hát Môn, thuộc huyện Phúc Lộc (nay là huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây), thế bức quá, bèn gieo mình xuống sông Hát (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng) mà tự tận. Bấy giờ là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão (năm 43).”

Tương truyền sau khi Hai Bà Trưng tử tiết ở sông Hát thì hóa thành tượng đá, trôi đến Thăng Long thì rẽ nước nhô lên. Nhân dân xã Đồng Nhân đưa về lập đền thờ. Đền Đồng Nhân được dựng từ năm 1160 đời vua Lý Anh Tông ở phường Bố Cái, tức là bãi Đồng Nhân, bên bờ sông Hồng. Năm 1819, vì bãi bị lở, dân dời đền vào khu vực trường Giảng Võ cũ của thời Lê, thuộc đất thôn Hương Viên, tổng Thanh Nhàn huyện Thọ Xương tức địa điểm hiện nay: đền thờ Hai Bà Trưng nằm ở số 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hàng năm mở hội đền vào Mùng 6 tháng 2 âm lịch để ghi nhớ ngày đón tượng từ sông lên.

* * *

Người tổng hợp bài này đã đọc ở đâu đó (hiện không tìm lại được nguồn) được biết trong một cuộc thi thơ vào dịp lễ hội Hai Bà Trưng, nữ sĩ Ngân Giang đóng góp một bài thơ có tựa Trưng Nữ Vương đoạt giải nhất, rồi sau đó được đưa vào tập thơ Tiếng vọng Sông Ngân.

ngan giang b
Nữ sĩ Ngân Giang

Nữ sĩ Ngân Giang (1916-2002) có tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh tại Hà Nội, quê quán gốc ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thủ đô Hà Nội).

Lên 6 tuổi, Ngân Giang được cha dạy cho chữ Hán, học “ké” chữ quốc ngữ của một thầy hàng xóm và được người bác gái làm nghề thuốc yêu thích thơ Đường, dạy cho cách làm thơ phú… Nhờ vậy, mới lên 8 tuổi, bà có bài thơ đầu tiên tên Vịnh Kiều đăng trên báo Đông Pháp, với bút danh Nguyệt Quyên.

Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc. Suốt một đời người, nữ sĩ làm trên 4000 bài thơ, theo đó có thể nói bà là một nhà thơ có tác phẩm thơ nhiều nhất, nhì ở Việt Nam.

Trưng Nữ Vương
Ngân Giang

Thù hận đôi lần chau khoé hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi

Ngang dọc non sông đuờng kiếm mã
Huy hoàng cung điện nếp cân đai
Bốn phương gió bão dồn chân ngựa
Tám nẻo mưa ngàn táp đoá mai

Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi

Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận
Non hồng quét sạch bụi trần ai
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời…

Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi

(Ngân Giang, Tiếng vọng Sông Ngân, Hà Nội, 1939)

Có thể nghe giọng ngâm bài thơ này ở trang web sau:
https://www.youtube.com/watch?v=k_CpJ0sUDdw

Có một nhận xét như sau về bài thơ Trưng nữ vương:

“Thật đặc biệt và cũng thật tinh tế, âm điệu toàn bài giống như một khúc bi hùng ca. Lẫn trong tiếng trống đồng, tiếng tù và, vừa rộn ràng, vừa uyển chuyển, diễn tả được hết niềm vui của người thắng trận; là tiếng rơi thật khẽ của những giọt nước mắt của người góa bụa trẻ thầm tủi cho thân phận cô đơn, lạnh lẽo của mình… Chỉ có phụ nữ mới có thể hiểu cạn cùng tâm trạng của một phụ nữ.”

* * *

dong ho bĐúng 30 năm sau, nhân lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng…

Trong một tiết dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn ngày 25 tháng 3 năm 1969, thi sĩ Đông Hồ (1906-1969), bình giảng cho sinh viên nghe bài thơ Trưng Nữ Vương. Đó là lúc hai miền đất nước còn chia cắt, nhà thơ Đông Hồ đang làm việc cho chính quyền miền Nam còn tác giả bài thơ đang ở miền Bắc. Nhưng Đông Hồ vẫn không ngại ngần gì mà ngâm nga bình giảng bài thơ đó giữa một giảng đường đại học lộng gió ở Sài Gòn.

Thế rồi, biến cố xảy ra!

Theo ghi chép về lời bình giảng của nhà thơ – nhà giáo Đông Hồ trong buổi giảng cuối cùng của ông ngày ấy:

“Thơ về Hai Bà kể rất nhiều. Nhưng có điểm chung các tác giả đều là đàn ông. Họ chỉ nhìn khía cạnh Hai Bà yêu nước, diệt xâm lăng. Cho đến ngày thầy được xem bài của một nữ sĩ tên là Ngân Giang trong tập Tiếng vọng Sông Ngân mới chợt thấy: Trời ơi, có một điểm mà từ trước tới nay chưa một ai nghĩ tới, mà tới nay mới có một người nhìn thấy! Ðó là khi đánh đuổi quân Tàu, thắng khắp nơi, Bà Trưng vẫn là một người góa bụa. Dù chiến thắng nhiều, dù quân thù kinh hãi, bà vẫn là một người đàn bà đang có tang chồng. Phần trên bài thơ tả chiến thắng của Hai Bà, đến bốn câu kết thì thật tuyệt. Ðể thầy đọc các con nghe; ai thích thì chép.”

Ông ngâm đến 4 câu cuối thì ngâm mãi câu “Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá”. Lúc đó cảm giác như hồn ông không còn ở trên giảng đường nữa. Ông đứng yên một chỗ, đôi tay gầy vòng trước ngực, lưng tựa vào bàn giáo sư và hướng về phía sinh viên. Tiếng ngâm của ông càng lúc càng nhỏ, cánh tay đưa lên giữa chừng dừng lại. Trạng thái đó diễn ra khá lâu, ông bỗng ngáp lên một tiếng thật dài mà không đưa tay che miệng. Hai tay ông đưa thẳng ra và sắp ngã. Một sinh viên ngồi phía trước chạy vội lên đỡ và dìu ông ngồi xuống ghế. Sau đó ông được đưa đến Bệnh viện Saint Paul, lúc đó là 12h trưa, đến 19 giờ 30 tối thì ông qua đời.

Cái chết của một nhà thơ trong Nam khi bình giảng về tác phẩm của một nhà thơ ngoài Bắc lúc hai miền còn chia cắt thật là một thi thoại văn chương tạo nhiều cảm xúc.

Về việc này, nhà thơ Chiêu Dương viết bài Cảm thương có hai câu:

Ai đem tang tóc vào thơ
Ngâm câu điện ngọc, Đông Hồ ra đi…

Câu chuyện về Văn Như Cương

Van Nhu Cuong BVăn Như Cương (1937-2017) sinh trong một gia đình làm nghề dạy học chữ Hán (đồ Nho) tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông nhận bằng phó tiến sĩ tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Sau khi về nước ông làm giảng viên, công tác tại bộ môn Hình học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, và Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1989, ông mở trường Lương Thế Vinh, trường phổ thông dân lập đầu tiên của Việt Nam từ khi Đổi mới.

Người ta hỏi vì sao ông hết lòng vì sự nghiệp trồng người đến vậy, ông điềm đạm vuốt râu đọc mấy dòng thơ tâm huyết:

Ta phải về thôi tuổi xế chiều
Dẫu còn dan díu chút tình yêu
Bài ca sư phạm không đành bỏ
Sự nghiệp trồng người vẫn cố theo.

Văn như – Võ nguyên

Tuy là một giáo viên dạy toán, Văn Như Cương cũng đam mê văn học nghệ thuật. Khi ông về giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đồng nghiệp bên khoa văn thấy một thầy giáo dạy toán, lại có họ tên là Văn Như Cương, bèn thử tài văn chương của “ông đồ xứ Nghệ” (ngày đó thầy Cương đã để râu dài, rất ra dáng ông đồ xưa), bằng cách ra câu đối:

Văn như Văn Như Cương

Không cần nghĩ ngợi nhiều, thầy Cương đối lại:

Võ nguyên Võ Nguyên Giáp

Đó là một vế đối quá chỉnh nhưng lại đưa tên vị Đại tướng lừng danh vào đây, nên nhiều người ngại “phạm húy”, không dám phát tán đôi câu đối này.

Bà Đặng Bích Hà, phu nhân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bà là người có họ hàng với PGS.TS Văn Như Cương) ngày ấy cũng công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, biết chuyện, bà vui miệng kể lại với chồng.

Nghe xong Đại tướng Võ Nguyên Giáp tủm tỉm cười khen: “Giỏi, đối như vậy là rất chỉnh. Người thông minh mới làm được như vậy”.

Về sau, có người biến tấu giai thoại này để trêu đùa rằng, chính PGSVăn Như Cương là người đưa ra câu đối: “Võ nguyên Võ Nguyên Giáp” để mọi người phải đối lại là: “Văn như Văn Như Cương”.

Chuyện “phó tiến sỹ lợn”

Năm 1971, sau khi học ở Liên Xô về, mặc dù là phó tiến sỹ nhưng lương của Văn Như Cương chẳng đủ ăn. Nên gia đình ông quyết định cải thiện cuộc sống bằng cách nuôi lợn.

Nói là làm, ông cho quây một góc sân nhà tập thể lại để làm chuồng. Do mát nay nên lợn ông nuôi lớn nhanh như thổi. Sau mỗi lần xuất chuồng thì kiếm thêm được 70 đồng, bằng lương tháng của một phó tiến sỹ thời đó, nên ông thường nói vui: “Trong nhà có hai phó tiến sỹ. Một phó tiến sỹ không bao giờ kêu ca, không tiêu xài tốn kém, chỉ ăn rồi lớn”.

Nhưng việc nuôi lợn cũng chỉ được một thời gian, vì không đủ tiền mua cám, ông phải cho “tiến sỹ” lợn “bảo vệ luận án” sớm. Nói vui theo kiểu của ông là: “Bảo vệ sớm vì hết đề tài (rau, cám)”.

Còn giai thoại kể khi bị lập biên bản, ông cứ bắt người ta phải ghi lại câu chữ, rằng: “Các anh không được viết tôi nuôi lợn làm ảnh hưởng tới môi trường, mà phải viết lợn nuôi tôi làm ảnh hưởng tới môi trường, thì tôi mới ký”.

Văn Như Mắm

Cũng vì đam mê văn học nghệ thuật, nên Văn Như Cương vẫn có mơ ước cháy bỏng là sinh được một cậu quý tử để đặt tên là Văn Như Mắm. Cậu con Mắm sẽ được dạy dỗ, hướng nghiệp để trở thành một nhà văn nổi tiếng và là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Nghe vậy có người hài hước hỏi: “Thầy có phải là người đam mê chức tước đâu mà sao có ước mơ đầy quyền quý đến thế?”

Văn Như Cường cười rung cả râu nói: “Mình chẳng mong muốn gì chức tước, quyền lực cả, nhưng mình sẽ cảm thấy rất thú vị khi được nghe người ta dõng dạc hô lên: “Kính mời nhà văn Văn Như Mắm, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, lên phát biểu ý kiến!”

Phát biểu của Văn Như Cương

Nhiều cựu học trò của Văn Như Cương vẫn còn nhớ những lời nhắn nhủ của ông, ví dụ như:

Biển học là mênh mông, trong đó sách vở tuy quan trọng nhưng cũng chỉ là vùng biển gần bờ mà thôi.

Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, trước hết các em phải là những người tử tế.

Câu chuyện về Tháp Bút

Hà Nội có một tòa tháp rất đặc biệt: không đồ sộ nguy nga nhưng vĩ đại, không lộng lẫy lầu tía gác son nhưng vang bóng một thời, không cổ kính rêu phong nhưng là chứng tích cho một thời kỳ đầy rối ren biến động. Tòa tháp ấy dẫu nhỏ bé và khiêm nhường nhưng mang hoài bão lớn lao: Viết lên trời xanh! Đó chính là Tháp Bút trên núi Độc Tôn bên hồ Hoàn Kiếm.

thap but c
Tháp Bút

Chỉ là một tòa tháp bằng đá 5 tầng, cao không hẳn là cao, thấp cũng không hẳn là thấp, trên bề mặt cũng chẳng có lấy một họa tiết cầu kỳ. Nhưng nội hàm và giá trị bên trong lại to tát.

Bối cảnh lịch sử

Tháp Bút được cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) xây dựng vào năm 1864. Đó là sau khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn lúng túng lựa chọn giữa việc cải cách toàn diện đất nước hay cố thủ vào các giá trị đã lỗi thời. Trong những thập niên ấy, uy thế của cố đô Thăng Long bị hạ thấp, còn văn hóa xã hội thì sa sút đến mức báo động. Nhiều năm trước đó, tức năm 1831, ông nghè Phan (Vũ Tông Phan) đã mượn lời thơ để miêu tả về một Hà Nội văn hóa suy thoái, đạo đức suy đồi:

Chợ buổi chợ phiên buôn bán bỏ.
Quanh thành trộm cướp nổi triền miên,
Một đêm năm lần cháy trong phố.
Thôn phường mười hộ, chín trống không,

Dắt díu bỏ đi tìm lạc thổ.
Than ôi! Nghìn năm đất phồn hoa,
Vật thịnh hay suy đều tại số (…)

Đi học chỉ cốt giật tiếng Nho,
Đi buôn chửa giàu đã khoe của.
Cư dân thường túm tụm ba hoa,

Bộ hành áo giày cực diêm dúa.
Sòng bạc tràn lan khắp gần xa,
Chiếu rượu, sạp ca thâu sớm tối.”

(Đến đầu địa giới Hà Nội, Vũ Tông Phan)

Còn Quốc Tử Giám, niềm tự hào hơn bảy trăm năm của nho sĩ Đại Việt, nay hoang phế cô liêu:

Trăm vua hình bóng tàn cây cổ
Muôn thuở phong văn nát đá bia
Trở lại thiếu thời nơi trọ học
Giảng đường cô tịch bóng chiều đi!

(Thăm Quốc tử giám cũ, Vũ Tông Phan)

Trước tình hình đó, Tiến sĩ Vũ Tông Phan cùng với các nho sĩ tài hoa như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lê Duy Trung… cải tạo ngôi chùa tư gia của gia đình Tín Trai thành đền Ngọc Sơn, làm nơi khôi phục văn hóa và phục hưng Nho học:

       Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến
       Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh

Dịch:

Phong văn nước cũ truyền người trước
Mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau

Vào thời điểm đền Ngọc Sơn mới được hoàn thành thì chưa có Tháp Bút. Đến năm 1864 hoặc 1865, khi Nguyễn Văn Siêu tôn tạo lại đền mới thì cho xây dựng thêm Bút Tháp, Đài Nghiên, cầu Thê Húc và đình Trấn Ba.

Như vậy, đền Ngọc Sơn vốn đã là trung tâm Nho học, nay có thêm Tháp Bút và Đài Nghiên lại càng thể hiện hoài bão “thế bút chống trời” (kình thiên bút thế). Nghĩa là, việc khôi phục lại văn hóa truyền thống và cứu vãn đạo đức sa đọa cũng giống như chống đỡ bầu trời đang suy sụp vậy.

Đài Nghiên

Có bút thì phải có nghiên, mà bút dùng để viết lên trời xanh thì nghiên cũng phải lớn tương xứng với bút.

Nghien
Đài Nghiên

Theo GS Ngô Ngọc Liễn, khi còn nhỏ ông nghe các bậc cha, chú kể là vào một giờ nhất định trong ngày nắng, bóng ngọn bút trên Tháp Bút in đúng vào lòng nghiên ở Đài Nghiên như là bút chấm mực, và vào đêm trời trong  thấy được sao Thượng Thai (một ngôi sao sáng trong chòm Đại Hùng) soi bóng trong lòng nghiên đầy nước.

Đài Nghiên là một kết trúc hình nghiên mực ở bên dưới chân Tháp Bút. Qua cổng Long Môn – Hổ Bảng, đường vào đền Ngọc Sơn thu hẹp lại vì hai bên lề có xây hai dãy tường hoa thấp. Cuối con đường là lớp cổng thứ ba. Khác với hai lớp cổng ngoài có bốn hàng cột hay lớp cửa trống, lớp cổng này có tường cao, có mái, cửa cuốn, cánh cửa gỗ sơn son. Trên mái đặt một cái nghiên đá cho nên cổng cũng có tên là Nghiễn Đài (đài Nghiên). Nghiên được tạc từ cả một tảng đá xanh, hình quả đào cắt ngang theo chiều dọc, được đội trên lưng ba con thiềm thừ (con cóc).

Hai bên đài đề đôi câu đối:

Bát đảo mặc ngân hồ thủy mãn
Kình thiên bút thế thạch phong cao

Chữ Hán:

潑 島 墨 痕 湖 水 滿

擎 天 筆 勢 石 峯 高

Dịch:

Tràn quanh đảo, ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi

Coi nước hồ là mực, lấy trời xanh làm giấy, lại có sẵn nghiên đá. Trong thư pháp, người ta thường nhắc đến bốn vật báu (văn phòng tứ bảo) là bút, nghiên, giấy, mực. Vậy nên, Bút Tháp bổ sung thành một bộ tứ bảo hoàn chỉnh giữa đất trời. Đó không phải tứ bảo trong văn phòng, mà là bộ tứ bảo kỳ vĩ của đất Việt trời Nam.

Trên thân Tháp Bút có ba chữ khắc theo chiều dọc: tả thanh thiên (viết lên trời xanh), thể hiện cái hùng tâm tráng chí của các bậc sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Ba chữ này và bài minh trên đài Nghiên đều do Thần Siêu (Nguyễn Văn Siêu) và Thánh Quát (Cao Bá Quát) viết và soạn ra.

Tháp Bút đứng trên đỉnh núi đá Độc Tôn tạo thành hai biểu tượng Võ Công–Văn Vật, khi đứng bên hồ Gươm lại tạo thành cặp Bút–Kiếm sóng đôi, Văn–Võ toàn tài. Hai cách kết hợp tạo nên sự hài hòa âm dương hoàn hảo.

Vì sao lại là “văn”?

Nếu như Tháp Bút, Đài Nghiên là để tôn vinh văn nghiệp, thì “văn” ở đây có ý nghĩa thế nào? “Văn” không chỉ là văn chương, khoa cử, mà còn là tu dưỡng đạo đức và nhân cách làm người.

Hai câu đối trên lớp cổng thứ hai gần Tháp Bút nêu bật ý này:

Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đơn khán tâm điền

Chữ Hán:

人間文字無權全憑陰德

天上主司有眼單看心田

Dịch:

Chữ nghĩa cõi đời không quyền, toàn dựa vào âm đức
Chủ tư thượng giới có mắt, chỉ nhìn xét cõi lòng

Thiên thượng đâu có coi trọng tài năng hay bản sự, mà chỉ nhìn vào nhân tâm. Con người cũng vậy, cần phải tu dưỡng đạo đức và tinh thần.

(Tóm tắt nguồn Tâm Minh – Tam Nhật, 2018)

Giai thoại trong văn chương nước ngoài

Trong khi dịch văn học nước ngoài, người tổng hợp bài này tìm thấy một ít giai thoại lý thú, cần vận dụng tiếng Việt một cách đặc biệt nhằm lột tả nội dung của giai thoại.

Giai thoại trong văn chương Ba Lan

Trong quyển sách God’s playground: The history of Poland (tựa bản dịch là Sân chơi của Chúa: Lịch sử Ba Lan) của Norman Davies có giai thoại văn chương sau.

Nét trần tục của đời sống xã hội là hoàn toàn tương thích với tính bỗ bã mà văn học Ba Lan thường thể hiện. Mikołaj Rej, nhà đạo đức học, nhà thông tin tuyên truyền cho giới quý tộc, tạo nên những vần thơ khiếm nhã để độc giả quý tộc của ông thưởng thức, trong bài Figliki (Một chút vui đùa) năm 1562:

Linh mục xưa, chuẩn bị lễ xức dầu
Cho một trẻ, nhận rửa tội lần đầu
Trộn bột thơm, nhờ một phụ nữ già
Thêm ít bụi vào bàn tay Cha cả

Bà cúi mặt và làm theo yêu cầu
Tiếng đánh rắm một cái rõ từ đâu
Bột đáng kính, giờ đã thấy hỡi ôi!

“Quỷ sứ nào nhảy từ chỗ thấp hèn
Ta đã rõ ngay là chẳng bõ bèn.”
Lão bà đáp: “Xin Ngài đừng nhìn tôi
Vì đấy là do đứa trẻ thôi nôi.”

“Vâng ta biết, ta chẳng thèm mỏi miệng
Bà cứ đi lo thêm chuyện đại tiện.”

Câu chuyện nhóm lính giương ngọn cờ Iwo Jima

Iwo Jima flag

James Bradley viết quyển sách Flags of our fathers (Bản dịch: Ngọn cờ của cha) thuật lại câu chuyện 6 người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ (trong số đó có cha của anh) giương ngọn cờ trong trận đánh Iwo Jima, tạo nên một bức ảnh nổi tiếng. Trong 6 người này, Trung sĩ Tiểu đội trưởng Mike Strank là người có cấp bậc cao nhất.

James Bradley kể lại:

Riêng Mike Strank thể hiện tình huynh đệ chi binh một cách bay bướm. Trong khi nhiều binh sĩ xem anh là thần tượng, nhiều lúc anh tỏ ra tếu để không lên mặt mình là quan trọng. Ở trong số những người lính Thủy quân Lục chiến khoái xin phép xả trại được “tự do” để đi tìm thú vui ở những thị trấn và quán bar gần vùng, Mike thấy thích thú khi nhìn cảnh tượng diễn ra sau mỗi chuyến binh sĩ được tự do: mỗi anh phải được một quân y tá khám để phát hiện bệnh lây lan qua đường tình dục, trong khi vị tuyên úy với vẻ mặt thành kính đứng kế bên.

Tex Stanton mô tả cách phát hiện triệu chứng: “Mỗi anh phải móc ra cây súng nhỏ của mình để quân y tá khám xem nó có ‘khóc’ hay không. Rồi một ngày, Mike sáng tác một bài thơ về chuyện này.”

Theo cách Tex nhớ lại, bài thơ như sau:

Bạn bước ngay vào
Mà không cần chào
Kéo quần bạn xuống
Móc ra cái cuống
Lật da lên và bóp lấy nó
Cứ tự nhiên mà đứng yên đó.

Giai thoại trong văn chương Trung Hoa

Trung Hoa có rất nhiều giai thoại văn chương. Trong phạm vi bài này, người tổng hợp chỉ ghi lại giai thoại về một bài thơ Đường nổi tiếng.

phong kieuChùa Hàn San là một ngôi chùa hẻo lánh ngoài thành Ngô Huyện thuộc tỉnh Giang Tô. Chùa ở bên cầu có cây phong nên gọi là Phong Kiều. Trên sông vào ban đêm có ánh lửa chài.

Tương truyền một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung

Đến đây thì sư cụ tắc, ý thơ đang hay bỗng dưng bị ngắt ngang không sao liền mạch, nghĩ mãi không sao ra hai câu kết nên sư cứ đi đi lại lại, vừa đi vừa lẩm bẩm. Lúc này, có chú tiểu, nhìn thấy sư cứ đi đi lại lại nên mới đánh bạo hỏi nguyên cớ vì sao. Sư mới nói rõ tâm trạng của mình.

Chú tiểu tỏ ra rất cảm thông với tâm trạng của sư phụ, chú nhìn trời, nhìn nước, bỗng thấy ánh trăng lung linh huyền ảo, thấp thoáng nằm ở dưới đáy hồ. Và chú liền đọc:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không

Nghe tiểu đọc, sư mừng quá, cho rằng Bồ Tát hiển linh chứ như tiểu làm sao có được ý thơ hay như thế. Liền đó, sư sai tiểu đánh chuông cảm tạ Bồ Tát đã giúp thầy trò làm được bài thơ hay. Vì quả thật hai câu thơ của chú tiểu ăn khớp với hai câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt. Như một nửa còn lại của một viên ngọc, hai câu thơ của chú tiểu ý tứ liền lạc với hai câu của sư cụ, tạo thành một bài thơ hoàn hảo.

Bản dịch Nôm (khuyết danh, Diệp Minh Tâm chỉnh lý)

Mồng ba, mồng bốn trăng mông lung
Nửa tựa móc câu, nửa tựa cung
Một mảnh trăng chia thành hai đoạn
Nửa chìm đáy nước, nửa trên không

Tình cờ đêm hôm đó, trên thuyền, thi sĩ Trương Kế (? – 756) cũng không ngủ được vì không nghĩ được hai câu tiếp cho bài thơ tứ tuyệt của mình. Trước đó, Đuờng Minh Hoàng vì loạn An Lộc Sơn đã chạy trốn sang đất Thục, còn đại quan Tiến sĩ Ngự sử đài Trương Kế chẳng kịp hộ giá vương tôn lánh nạn nên đành xuống thuyền lưu lạc đến tận miền Giang Nam. Bây giờ, bỗng nhiên tiếng chuông chùa Hàn San vọng đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong Kiều dạ bạc.

Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Đêm đỗ thuyền Phong kiều – Trần Trọng San

Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài
Ngoài lũy Cô Tô, chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai

Tính chất giai thoại cũng lan sang Việt Nam: bản dịch thơ dưới đây thường được cho là của Tản Đà, nhưng Nguyễn Ngọc Kiên (2013) cho biết đó là của Nguyễn Hàm Ninh. Không lẽ nào người ta không thể truy tìm đích xác tên người dịch?

Đêm đỗ thuyền Phong kiều – Tản Đà

Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Tài liệu tham khảo

Anon. Cao Bá Quát. http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/caobaquat.htm

Anon. Đào Duy Từ. http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/daoduytu.htm

Anon. Giai thoại Trạng nguyên Nguyễn Hiền. http://truyenxuatichcu.com/truyen-thuyet-viet-nam/giai-thoai-trang-nguyen-nguyen-hien.html

Anon. Nguyễn Tuấn. http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/nguyentuan.htm

Anon. Nguyễn Văn Xiển – Tôn Thất Thuyếthttp://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/nguyenvanxien_tonthatthuyet.htm

Anon. Phạm Trấn – Ðỗ Uông. http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/cauchuyendanhnhan/phamtran_douong.htm

Anon. (2009). Rêu xanh máu đỏ. http://quehuongonline.vn/giai-thoai-viet-nam/reu-xanh-mau-do-5885.htm

Anon. Trường tương tư • Tương tư dài – Thơ Trung Quốc » Ngũ đại » Lương Ý Nương. https://www.thivien.net/L%C6%B0%C6%A1ng-%C3%9D-N%C6%B0%C6%A1ng/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-t%C6%B0%C6%A1ng-t%C6%B0/poem–36sK3wLjynlHbCinJmwqg

Bích Huyền (2014). Nguyễn Nhược Pháp và giai thoại “Chùa Hương. https://giadinhhoangtrong.wordpress.com/2014/01/28/nguyen-nhuoc-phap-va-giai-thoai-chua-huong/

Bùi Thiết. Phan Sào Nam và hát đối đáp dân ca ví, giặm Nghệ-Tĩnh. http://thegioidisan.vn/vi/phan-sao-nam-va-hat-doi-dap-dan-ca-vi-giam-nghe-tinh.html

Diệp Minh Tâm (2008). Ngọn cờ của cha. Nhà Xuất bản Tri Thức. Bản dịch từ quyển Flags of our fathers của James Bradley.

Diệp Minh Tâm (2011). Sân chơi của Chúa: Lịch sử Ba Lan – Tập 1. Nhà Xuất bản Tri Thức. Bản dịch từ quyển God’s playground: The history of Poland của Norman Davies.

Đường Phong (2018). Những giai thoại có một không hai về vị Trạng Nguyên thông minh nhất trong lịch sử nước Nam. https://www.dkn.tv/van-hoa/nhung-giai-thoai-co-mot-khong-hai-ve-vi-trang-nguyen-thong-minh-nhat-trong-lich-su-nuoc-nam.html

Hiền Mai (2010). Cao Văn Tuế: “Ngày vương tóc vụn, tối dốc tâm can”. https://www.vietnamplus.vn/cao-van-tue-ngay-vuong-toc-vun-toi-doc-tam-can/49987.vnp

Hoàng Tuấn Phổ (2014). Trạng Quỳnh, ông là ai? https://dannews.info/2014/12/14/trang-quynh-ong-la-ai/

Hoàng Trọng Thược (1969). Thi ca châm biếm và trào lộng Việt Nam. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

Hoàng Trọng Thược (1973). Tinh thần trào phúng trong thi ca xứ Huế. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

Hữu Loan (2015). Thổn thức trước tự sự xót xa của tác giả “Màu tím hoa sim. http://giadinh.net.vn/xem-nghe-doc/thon-thuc-truoc-tu-su-xot-xa-cua-tac-gia-mau-tim-hoa-sim-20150408152733119.htm

Lãng Nhân (1964). Giai thoại làng nho. Nhà Xuất bản Nam Chi Tùng thư, Saigon.

Lê Hoài Nam (2006). Giai thoại về Nguyễn Bính. http://nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=5313

Lê Thái Dũng (2013). Mối tình đầu dang dở của Trạng Lường. https://kienthuc.net.vn/tham-cung/moi-tinh-dau-dang-do-cua-trang-luong-251496.html

Mạc Đĩnh Chi. Ngọc tỉnh liên phú • Phú sen trong giếng. https://www.thivien.net/M%E1%BA%A1c-%C4%90%C4%A9nh-Chi/Ng%E1%BB%8Dc-t%E1%BB%89nh-li%C3%AAn-ph%C3%BA/poem-kmc4IXweJeTsqjRgFM3A6A

Ngô Lăng Vân (1972). Trạng Quỳnh toàn tập. Nhà Xuất bản Mây Hồng.

Nguyễn Bùi Vợi (1944). 101 Truyện vui các nhà văn hiện đại Việt Nam. Nhà Xuất bản Văn học.

Nguyễn Khoa Đăng. Nguyễn Khải. https://sites.google.com/site/gocthovan/truyen-ngan/nguyen-khai

Nguyễn Ngọc Kiên (2013). Giai thoại về bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế. http://chuyenminhkhaist.edu.vn/index.php/tin-tuc-su-kien/tin-thoi-su/161-giai-tho-i-v-bai-tho-phong-ki-u-d-b-c-c-a-truong-k

Nguyễn Thành Hữu (2018). Lê Hiến Phủ – phù chính nghĩa lòng son lẫm liệt. https://khoahocdoisong.vn/le-hien-phu-phu-chinh-nghia-long-son-lam-liet-117229.html

Nguyễn Thanh Điệp (2017). Sứ thần Đại Việt và chuyện giải ‘câu đố chết người’. https://news.zing.vn/su-than-dai-viet-va-chuyen-giai-cau-do-chet-nguoi-post808031.html

Nguyễn Thanh Điệp (2018). Vua Tự Đức tuyên án bằng thơ và vụ xử tử 17 quan lại phạm tội hối lộ. https://news.zing.vn/vua-tu-duc-tuyen-an-bang-tho-va-vu-xu-tu-17-quan-lai-pham-toi-hoi-lo-post815564.html

Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2018). Một số truyền thuyết sai lầm về Cao Bá Quát. https://trithucvn.net/van-hoa/mot-so-truyen-thuyet-sai-lam-ve-cao-ba-quat.html

Phạm Trọng Chánh (2015). Hoàng Hạc Lâu qua thi ca các sứ thần nước Nam. https://langhue.org/index.php/bien-khao/vien-tai-lieu-trau-cau/13359-hoang-hac-lau-qua-thi-ca-cac-su-than-nuoc-nam-pham-trong-chan

Phanxipăng. Rau sắng trong lẫn ngoài chùa Hương. http://chimviet.free.fr/amthuc/phanxipang/phanxipn_RauSang.htm

Phanxipăng. Thực hư Từ Đạm. http://chimviet.free.fr/vanhoc/phanxipang/phanxipn_ThucHuTuDam_a.htm

Phạm Tín An Ninh (2015). Nhạc sĩ Dzũng Chinh – tác giả “Những đồi hoa sim” chết trên đồi hoa sim. http://phamtinanninh.com/?p=3066

Phụng Hà (2010). Giai thoại làng nho Việt Nam. https://www.thivien.net/forum/Giai-tho%E1%BA%A1i-l%C3%A0ng-nho-Vi%E1%BB%87t-Nam/topic-39DMTk0IHWNZx8yk5k-jVg

T.D. (2017). Sau 2 năm, bài phát biểu xúc động của thầy Văn Như Cương tại lễ khai giảng bất ngờ được chia sẻ lại. http://soha.vn/sau-2-nam-bai-phat-bieu-xuc-dong-cua-thay-van-nhu-cuong-tai-le-khai-giang-bat-ngo-duoc-chia-se-lai-20171009134435641rf20171009134435641.htm

Tâm Minh – Tam Nhật (2018). Tháp Bút – khát vọng viết lên trời xanh của sĩ phu nước Việt. https://www.dkn.tv/van-hoa/thap-but-khat-vong-viet-len-troi-xanh-cua-si-phu-nuoc-viet.html

Thái Bạch (1957). Cuộc bút chiến giữa Phan-Văn-Trị – Tôn-Thọ-Tường. Nhà Xuất bản Sống Mới, Sài Gòn.

Thân Trọng Sơn. Về hiện tượng thơ Bút Tre. http://chimviet.free.fr/vanhoc/thantrongson/thantrongson_ThoButTre.htm

Thiên Minh (2011). Người anh của cô gái “Màu tím hoa sim” kể chuyện. http://nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=5385

Tố Hoài (2017). Lời kêu gọi phụ lão cả nước – Lão y Nguyễn Sĩ Tấn, bản dịch năm 1949. http://tohoai.net/loi-keu-goi-phu-lao-ca-nuoc-lao-y-nguyen-si-tan/

Trân Trân (2013). Hai giai nhân của thi sỹ Nguyễn Nhược Pháp. http://baicadicungnamthang.net/tu-lieu/hai-giai-nhan-cua-thi-sy-nguyen-nhuoc-phap-465.html

Trần Kim Đoàn (2013). Ai về Sông Tương. https://amnhac.fm/tan-nhac/6003-ai-ve-song-tuong

Trần Nhuận Minh (2016). Chiêu Hổ trong Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương không phải là Phạm Đình Hổ. https://suckhoedoisong.vn/chieu-ho-trong-tho-nom-truyen-tung-ho-xuan-huong-khong-phai-la-pham-dinh-ho-n124713.html

Viên Linh (2012). Ðông Hồ (1906-1969), nhập thần Trưng Nữ Vương. http://www.maiyeuem.net/topic/158875/%C3%90ong-Ho-1906-1969-nhap-than-Trung-Nu-Vuong]

Võ Tế Mỹ, Đặng Ngọc Có & Nguyễn Quới Trai (1906). Trọng Tương vấn Hớn. Imprimerie F.H. Schneider, Saigon.

Vũ Khuê (2017). Chuyện đi tìm một nhánh sim rừng! https://tuongtri.com/2017/11/24/chuyen-di-tim-mot-nhanh-sim-rung/

Vương Hồng Sển (1970). Thú xem truyện Tàu. Nhà Xuất bản Hiếu cổ Đặc san, Saigon.

Wikipedia. Đào Duy Từ. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0o_Duy_T%E1%BB%AB

Wikipedia. Giang Văn Minh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Giang_V%C4%83n_Minh

Wikipedia. Lê Quý Đôn. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Qu%C3%BD_%C4%90%C3%B4n

Wikipedia. Phạm Trấn. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Tr%E1%BA%A5n

Winston Phan Đào Nguyên (2019). Nhân việc dựng tượng Petrus Ký ở San Jose, California, nghĩ về một bài thơ cũ. https://nghiencuulichsu.com/2019/01/15/nhan-viec-dung-tuong-petrus-ky-o-san-jose-california-nghi-ve-mot-bai-tho-cu/

Xuân Đài (2017). Một lần gặp nhà thơ Hữu Loan. http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/mot-lan-gap-nha-tho-huu-loan

Tổng hợp: Diệp Minh Tâm – 07-Feb-2019

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *