Giới thiệu “Con chim trốn tuyết”

Giới thiệu tác phẩm The snow goose

Truyện vừa này chỉ có hai nhân vật: Philip Rhayader, chàng nghệ sỹ tật nguyền đơn độc, sống trong một hải đăng trên đảo Essex, cô bé mười hai tuổi hồn nhiên Frith, và một con ngỗng Canada.

Biến cố chính trong câu chuyện là quân đội Đồng minh bị vây hãm tại cảng Dunkerque trước sự tấn công ồ ạt của Đức quốc xã. Phim Dunkirk miêu tả sự kiện này

Tác giả tạo sự cảm thông cho ta đối với Philip, một chàng trai có dị tật: lưng gù, đen đủi, tay co quắp, chiếc đầu kỳ quái. Mặc cảm, nhưng không hận thù, vì tật nguyền nên anh xa lánh thế giới con người, tìm về thiên nhiên và bao che nuôi dưỡng nó. Trong cái thân xác cộc cằn đó lại là một tâm hồn cao thượng, tinh khiết, chỉ biết đến tha nhân và thế giới bên ngoài.

Câu chuyện để lại trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác, nhưng không bi thương. Trái lại, nó mở ra một chân trời sáng rực về lòng hy sinh, mong ước được làm một cái gì tươi đẹp hơn cho cuộc sống. Từ đó, ta yêu đời, yêu người nhiều hơn!

Mạch văn trong The snow goose trong sáng, nhẹ nhàng đủ để bạn tin rằng đâu phải cái gì cũ, cái gì đơn sơ quá… cũng mất chỗ đứng trong thời đại số đâu. Có khi còn cần hơn giữ cuộc sống xô bồ. Đơn giản vì những truyện như The snow goose lâu lắm người ta không viết nữa.

Những ai thỉnh thoảng còn đọc lại truyện cổ tích, còn tin rằng truyện cổ tích vẫn còn đang được viết trong âm thầm, thì sẽ nhìn thấy sự quyến rũ dịu dàng của cốt chuyện.

Tác phẩm Paul Gallico được nhiều người đánh giá có tính nhân văn sâu sắc, hướng con người vào những vẻ đẹp nội tại, khơi gợi ở mỗi người tình yêu chân chính và trách nhiệm cao cả.

Theo Kiều Phong (Báo Bình Định 19-3-2007)

Bản dịch: Con chim trốn tuyết

Lời nói đầu

Sinh năm 1897 tại New York, sau hơn 20 năm cầm bút, tên tuổi nhà báo Mỹ, Paul Gallico bỗng nổi bật trên văn đàn với The snow goose, truyện vừa, gây chấn động dư luận bạn đọc cả trong và ngoài nước Mỹ.

Con chim tron tuyet 1Trong sáng, và thơ mộng, Paul Gallico nhẹ nhàng đi vào thế giới bên trong đầy nhân ái khao khát yêu đương của nhân vật Rhayader, một họa sĩ tật nguyền, phải tìm nơi ẩn dật ở một hải đăng hoang phế ven biển. Con người cao đẹp của Rhayader bên dưới vòng cánh lượn đầy tình nghĩa của “con chim trốn tuyết”, sự thể hiện của chính nó, sự bùng nổ tình yêu trong lòng Frith, cô gái ngây thơ và trong trắng… tất cả biến câu chuyện như thành một bài thơ viết bằng văn xuôi ca ngợi vẻ đẹp cả trong tâm hồn lẫn ý thức trách nhiệm của con người.

Giống như những tác phẩm khác của Paul Gallico, truyện vừa này mang tính nhân đạo sâu sắc, hướng con người vào những vẻ đẹp bên trong, khơi gợi ở mỗi người tình yêu chân chính và trách nhiệm cao cả.

Cũng giới thiệu với bạn một lối viết trữ tình, dung dị, giàu chất thơ trong văn học Mỹ.

Vào truyện

Cánh đồng lầy mênh mông chạy dọc theo theo bờ duyên hải Essex[1], giữa thôn Chelmbury và Wickaeldroth, một bến chài của dân Saxon ngày xưa[2]. Đây là miền hoang đại cuối cùng còn sót lại tại nước Anh, một miền sình lầy, hẻo lánh đầy cỏ lác và lau sậy với những bãi cỏ ngợp nước trải dài tới bên bờ những ruộng muối lớn. Những bãi bùn non và những vũng nước thủy triều sát bên đại dương đầy sóng gió.

Những đường mương rạch do nước thủy triều xẻ vào nội đại và những nhánh sông nhỏ lượn uốn quanh co trước khi tuôn ra biển cả, qua miền lầy lội, mặt đất bập bềnh lên xuống như hô hấp theo nhịp thủy triều lên xuống mỗi ngày. Cảnh tượng vắng vẻ, cho ta cảm giác càng thêm quạnh hiu bởi tiếng kêu, tiếng gọi của loài dã điểu làm tổ trong những đầm lầy hay ruộng muối – những con ngỗng trời, những con hải âu, vịt trời, le le, cò lửa, cò hương mò mẫm tìm mồi trên những hồ nước mặn. Còn sự hiện diện của loài người thì không có, không thấy một ai, hiếm lắm mới thấy một người lưới chim hoặc vài thổ dân mò sò, tới đó tiếp tục làm cái nghề đã cũ mèm ngay từ hồi những người Normand đặt chân lên miền Hasting[3].

Peter-scott-8

Màu xám, màu xanh và màu xanh lá cây nhạt là những màu nổi bật, bởi vì suốt trong những mùa đông dài dằng dặc, nhiều vũng nước trên bãi biển, trên đầm lầy phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo và xám đen của bầu trời. Nhưng đôi khi, vào buổi bình minh hoặc lúc hoàng hôn, màu trời sắc đất bật lên như ánh lửa vàng, lửa đỏ.

Sát bên một nhánh quanh co của con sông Aelder nhỏ bé có một quãng đê thuộc bức trường thành trấn giữ bờ biển ngày xưa, khúc đê nhẵn và kiên cố, không một kẽ hở, đó là thành lũy bảo vệ đất liền chống lại sự xâm lấn của biển cả. Con đê chạy sâu vào tận hồ muối, sâu vào đất liền tới ba dặm kể từ eo biển nước Anh, rồi từ đó rẽ theo hướng Bắc. Chính ở góc đó mặt đê bị sóng biển nhồi vỗ đã rạn vỡ tan tành. Con đê bị chọc thủng và qua chỗ hổng, biển cả như con thú đói ùa vào tranh giành đất đai, cả bức trường thành và cả những vật gì còn lại nơi đó.

Lúc thủy triều rút, trơ ra những tảng đá vỡ màu xám đen[4], vết tích của ngọn hải đăng hoang phế, nằm phơi trên mặt nước, lác đác quanh đó, tựa như những cái phao cột xác chết, rải rác đầu những cây cọc của một hàng rào đã bị lún xuống. Ngày xưa ngọn hải đăng nhô cao trên biển và ánh đèn đã từng soi sáng dọc miền duyên hải Essex. Theo dòng năm tháng, sóng biển soi đất lở dần, ngọn hải đăng hóa thành vô dụng.

Gần đây nó được dùng làm nơi trú ngụ của loài người. Có một người đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó, nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với các loài hoang thú bị săn đuổi. Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là người tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó, và một cô bé đã tìm hiểu được anh, tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệch của anh.

Đây không phải loại truyện có bố cục với những tình tiết nhịp nhàng hấp dẫn. Cốt truyện được thu góp từ nhiều nguồn và từ nhiều người, một phần dưới hình thức những mẩu chuyện vụn vặt của chính những người đã chứng kiến những cảnh tượng khốc liệt và kỳ lạ. Rốt cuộc, biển cả đã trở lại nguyên vị, bao phủ lên nơi chiến trận lớp sóng nhấp nhô, và bóng chim trắng khổng lồ, hai đầu cánh đốm đen, cánh chim đã từng chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối, cũng đã quay về miền yên lặng huyền bí, cóng lạnh của vùng Bắc cực, là nơi mà từ đó nó đã bay đi.

Lighthouse1 1934

Vào cuối mùa xuân năm 1930, Philip Rhayader tìm đến ngọn hải đăng hoang phế ở cuối sông Aelder. Anh mua vọng đèn bỏ hoang cùng nhiều mẫu đất lầy và đồng cỏ nước mặn quanh đó.

Anh sống cô đơn, quanh năm cặm cụi làm việc một mình. Anh là họa sĩ chuyên vẽ chim và phong cảnh thiên nhiên. Vì nhiều lý do, anh muốn trốn lánh khỏi xã hội loài người. Người ta có thể tìm ra một vài trong số những lý do đó, trong những chuyến anh xuống làng Chelmbury, nửa tháng một kỳ để mua thực phẩm, phơi bày tấm thân lệch và bộ mặt đen đúa của mình dưới những cái nhìn soi mói của dân làng. Bởi vì anh gù lưng và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khoèo lại tựa như móng của loài chim.

Ít lâu sau dân làng dần quen với hình dáng kỳ quái của anh, nhỏ nhưng đầy sức lực, quen dần với chiếc đầu vững chắc, tóc đen, râu rậm hơi tụt xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm mọc trên lưng anh, quen dần với đôi mắt sáng ngời, cánh tay hình móng chim, và đối với họ anh trở thành “anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng”.

Hình thù quái dị thường khiến cho người có tật thù hận loài người. Nhưng Rhayader không hề thù hận! Anh thương yêu tha thiết con người, mọi loài muông thú và cảnh vật thiên nhiên. Tâm hồn anh tràn đầy lòng thương xót và sự cảm thông. Anh làm chủ được điều bất hạnh, nhưng không sao chế ngự nổi sự hắt hủi phải gánh chịu – sự hắt hủi gây ra bởi hình thù quái dị của anh. Sự kiện dồn anh đến thế ẩn dật là sự thất bại không tìm thấy nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình nồng nàn từ nội tâm anh tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh anh. Còn đàn ông có thể đối tốt với anh, nếu họ hiểu anh. Nhưng chỉ nghĩ rằng người đó phải cố gắng mới hiểu được anh cũng khiến anh tủi hổ và cũng đủ để anh lánh xa kẻ ấy.

Năm đến vùng đầm lầy này, anh 27 tuổi. Anh đã đi du lịch khá nhiều nơi và đã chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến quyết định rút lui ra khỏi cái thế giới mà anh không có chỗ đứng như những người đàn ông khác. Ngoài sự nhạy cảm của người nghệ sĩ và sự hiền dịu đầy phụ nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng phồng, anh cũng là đàn ông như ai.

Peter-scott-6

Trong cuộc sống ẩn dật, anh còn có chim chóc, hội họa và cánh thuyền buồm. Anh có một chiếc thuyền dài gần 5 mét, mà anh sử dụng rất tài tình. Những lúc một mình, không bị ai dòm ngó xét nét, anh điều khiển nó rất khéo léo bằng bàn tay có tật, anh cũng thường vận dụng đến hai hàm răng vững chắc để điều chỉnh những cánh buồm bập bùng khi gặp cơn gió chướng.

Anh thường thả thuyền dọc theo con lạch hay chạy ra khơi, mỗi lần thường mấy ngày liền, tìm kiếm những loài chim mới để chụp ảnh hay vẽ phác; anh cũng lưới được chim khá thiện nghệ để tăng thêm cho bầy hoang điểu mà anh thu thập về nuôi trong chiếc chuồng dựng bên phòng vẽ vốn là trung tâm ở ẩn của anh.

Anh không hề bắn chim bao giờ và anh không chịu cho những người săn chim lại gần khu vực mình ở. Anh là bạn thân của mọi loài chim hoang dã và chúng cũng đền đáp lại anh bằng tình thân hữu.

Con chim 16

Thuần thục trong khu vườn nhà anh có giống ngỗng hoang dã, hàng năm cứ đến Tháng Mười lại từ miền Băng-đảo và từ quần đảo Spitbergen bay dọc duyên hải mà xuống, từng bầy lớp rợp trời và thinh không rào rào tiếng cánh vỗ mỗi khi chúng bay ngang – những con ngỗng thân lông nâu, chân mầu hồng, ngực lông trắng với những chiếc cổ lông đen và bộ mặt ngộ nghĩnh, những con hải âu lông trắng ngực có sọc đen và nhiều loại vịt trời, le le, mòng két, mòng đốc…

Vài con được xén lông cánh ở lại làm chim hiệu và mỗi đầu mùa đông chúng sẽ nhử những loài chim hoang dã dừng cánh nơi đây là chỗ trú ẩn an toàn và sẽ có miếng ăn.

Hàng trăm con đến và ở với anh suốt mùa đông lạnh buốt từ Tháng Mười cho mãi tới đầu xuân, khi chúng lại di chuyển về phương Bắc, trở về đất tổ của chúng, gần bên những vòm băng đá.

Rhayader thấy mãn nguyện khi biết rằng dù cho bão táp có dập vùi, sự lạnh buốt có nghiệt ngã và mồi ăn có khan hiếm hay những cây súng lớn mũi nhọn của những người thợ săn đeo túi đựng thú ở xa có nổ, thì những con chim của anh vẫn bình an – những con chim mà anh đã tụ tập vào nơi an toàn dưới sự bảo trợ của đôi cánh tay và con tim mình, những con chim hoang dã hiểu biết và đã đặt lòng tin cậy nơi anh.

Vào xuân chúng sẽ đáp lại tiếng gọi của quê hương miền bắc, nhưng sang thu chúng sẽ trở lại, trở lại kêu la rối rít, tru tréo om sòm, huyên náo cả vòm trời thu muộn, lượn quanh ngọn hải đăng xưa cũ rồi cùng hạ cánh xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý của anh – những con chim mà anh còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.

Và điều này khiến Rhayader sung sướng, bởi vì anh biết rằng ẩn bên trong chúng có mầm mống tri giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của anh, rằng sự tri giác này đã tham dự vào cuộc đời chúng để mỗi khi bầu trời trở xám và gió bấc thổi lộng chúng sẽ tìm lại với anh không hề nhầm lẫn.

Ngoài ra anh để hết tâm trí vào việc vẽ lại cảnh vật nơi anh đang sống cùng những sinh vật trong vùng. Không có nhiều tranh của Rhayader bán ngoài thị trường. Anh say sưa giữ lại, chồng chất chúng trong hải đăng, và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng trăm bức. Anh không hài lòng về chúng, vì người nghệ sĩ vốn không mấy khi mãn nguyện về những gì mình sáng tạo.

Nhưng vài bức đến tay người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn ngập nguồn sáng và màu sắc từ mặt nước loáng lên, từ những cánh chim bay rung động tỏa xuống, từ sự gắng gỏi mãnh liệt của những cánh chim bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những ngọn lau lớn xuống. Anh diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự vĩnh cửu, vẻ thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn chim bay trong bình minh, hoặc thảng thốt vút lên bầu trời và những bóng chim xoải cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.

* * *

Vào một buổi chiều Tháng Một, ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng đồng lầy, có một cô bé lại gần phòng vẽ trong hải đăng, qua lối bờ đê. Hai tay cô ôm khư khư một gói nặng.

Cô bé trạc mười hai tuổi, mảnh mai, lem luốc, lo lắng và nhút nhát như một con chim, nhưng dưới vẻ lọ lem ấy cô ta đẹp kỳ lạ như một nàng tiên của vùng Đồng lầy. Cô là giống người Saxon thuần túy, to xương, da trắng mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so với thân hình và đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm.

Cô bé vô cùng khiếp sợ người đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một huyền thoại về Rhayader đã bắt đầu hình thành, và những người thổ dân ưa săn bắn đâm ra thù ghét anh vì anh cản trở môn thể thao ưa thích của họ.

Nhưng vượt trên nỗi sợ hãi ấy là tình cảnh nguy khốn của sinh vật mà em đang ấp ủ trên tay. Trong trái tim bé nhỏ của em, đã gắn sâu sự hiểu biết, nhờ nghe người ta đồn đãi quanh vùng, rằng con ngáo ộp sống trong hải đăng có bùa phép chữa lành những thú vật bị thương.

Trước đó chưa bao giờ cô bé nhìn thấy Rhayader và cô suýt hoảng hốt bỏ chạy trước bóng dáng anh xuất hiện nơi khung cửa phòng vẽ, khi nghe tiếng chân người lại gần – một sự hiện hình dễ sợ với chiếc đầu bù xù và bộ râu đen, chiếc lưng gù buồn thảm và cánh tay khoèo hình móng chim.

The snow goose

Cô bé đứng sững lại, nhướng mắt nhìn chằm chặp hơi sẵng như một con chim nhút nhát dưới đồng lầy sẵn sàng cất cánh bay xa.

Nhưng khi anh lên tiếng, giọng chàng thật trầm và thân thiện: “Có chuyện gì đấy hở em?”

Cô bé vẫn không bớt sợ hãi, rụt rè bước tới. Vòng tay cô ôm một con chim lớn màu trắng, con vật nằm bất động. Có những vệt máu trên bộ lông trắng và trên chiếc áo của cô bé nơi mảnh vải dùng để lót con chim.

Cô bé đặt con chim vào đôi cánh tay anh: “Thưa ông, em bắt gặp nó, nó bị thương. Nó còn sống, phải không ông?”

“Đúng. Đúng đấy, tôi cũng nghĩ vậy. Vào đây, vào đây em”.

Rhayder mang con chim vào trong nhà, đặt nó lên bàn, và con vật yếu đuối cựa mình. Tính tò mò lước thắng sự sợ hãi, cô bé vào theo và thấy mình ấm hẳn lên trong căn phòng có ngọn lửa than đốt để sưởi, căn phòng sáng rực lên dưới những bức tranh màu treo la liệt trên tường, và tràn ngập một mùi hương là lạ nhưng dễ chịu.

Con chim vẫy cánh. Với bàn tay lành lặn, Rhayader trải rộng một trong hai chiếc cánh trắng lớn ra. Bầu cánh có đốm đen rất đẹp.

Rhayader trầm trồ ngắm nghía và hỏi: “Này em! Em thấy nó ở đâu vậyy?”

“Ở trong đồng lầy, ông ạ, nơi những tay thợ săn đi qua. Đó là loài chim gì thế?”

“Loài ngỗng Canada[5]. Mà tại sao nên nông nỗi này?”

Tên con chim hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái bé nhỏ. Đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm sáng lên làm át cả vẻ lem luốc của khuôn mặt gầy đét, chăm chú nhìn con vật bị thương đầy vẻ lo âu.

Cô bé lại hỏi: “Liệu ông có thể chữa cho nó lành được không?”

Rhayader đáp: “Được, được chứ. Chúng ta thử xem sao. Lại đây, em giúp tôi một tay nhé!”

Trên chiếc kệ có sẵn kéo, băng và nẹp gỗ để bó xương gãy. Mặc dù có tật, anh khéo tay lạ thường, ngay cả cánh tay khoèo hình móng chim cũng vậy, cầm vật dụng rất tài.

Anh nói: “Tội nghiệp, cô nàng bị đạn bắn trúng đây. Cẳng bị gãy rồi, đầu cánh cũng vậy, nhưng không đến nỗi nặng lắm. Xem nào, mình phải xén lông cánh mới băng bó được, nhưng sang xuân lông cánh sẽ mọc lại và cô nàng sẽ lại bay được. Ta sẽ cột chặt cánh vào thân, như vậy cô ta sẽ không cựa quậy đôi cánh được cho tới khi lành hẳn. Kế đó ta sẽ bó chỗ chân cô ả bị đau”.

Cô bé quên cả sợ, say sưa theo dõi việc làm của anh, một phần cũng vì anh vừa bó chiếc chân chim gãy vừa kể cho cô nghe một câu chuyện kỳ diệu.

Con chim còn non, chưa tròn một tuổi. Nó sinh ra ở đất bắc xa xôi, cách mấy trùng biển cả trên một lãnh địa thuộc vương quốc Anh Cát Lợi. Nó bay về phương nam để trốn tuyết, trốn băng giá, trốn làn khí lạnh rợn người, một cơn bão lớn đã vồ lấy nó, đã cuốn nó vào những đợt cuồng phong. Một trận bão thật kinh khủng, mạnh gấp bội đôi cánh lớn của nó, và mạnh hơn bất cứ sức mạnh nào. Ròng rã nhiều đêm và nhiều ngày, trận bão đã xua đuổi nó, không ngừng nghỉ và con chim mắc kẹt không thể làm được gì hơn là nương bay theo luồng gió cuốn. Sau cùng cơn bão tan dần và bản năng tinh tường lại dẫn nó bay theo về hướng nam, nó đã tới một miền đất xa lạ và quanh nó toàn giống chim lạ mà trước đó nó chưa hề thấy. Sau cùng, mệt lả vì đuối sức, nó sà xuống nghỉ trên cánh đồng xanh thân thuộc để rồi được viên đạn của người đi săn tiếp đón.

“Một lối tiếp rước tàn nhẫn đối với một vị công chúa từ nơi xa tới viếng thăm”, Rhayader kết luận. “Mình sẽ gọi cô ta bằng biệu hiệu “La Prrincesse Perdue” – Nàng Công chúa Lạc loài. Rồi chỉ ít ngày sau nàng sẽ khá hẳn đó. Coi nào!” Anh thọc tay vào túi lấy ra một nắm hạt. Con ngỗng trốn tuyết mở tròn đôi mắt ra và bắt đầu rỉa mồi.

Cô bé cất tiếng cười thích thú, rồi bỗng nín thở khi chợt nhận ra nơi chốn cô ta đang ở, và không nói nửa lời cô bé quay mình chạy vọt ra khỏi cửa.

Rhayader la lên: “Đợi chút, đợi một chút!” rồi chạy theo ra cửa. Anh đứng lại nơi ngưỡng cửa và khuôn cửa đóng khung lấy hình thù dềnh dàng của anh. Cô bé đã thoát ra tới bờ đê ven biển rồi, nhưng nghe tiếng gọi thì dừng lại.

“Này em, em tên gì?”

“Frith”.

Rhayader hỏi: “Hả? Tôi chắc là Fritha mới đúng. Thế em ở đâu?”

“Với dân chài dưới bến Wickaeldroth”. Cô bé nói ra tên ấy bằng giọng Saxon thật xưa.

“Mai hay mốt em có lại thăm sức khoẻ nàng Công chúa hay không?”

Cô bé không trả lời ngay khiến Rhayader lại liên tưởng đến những con chim hoang dưới đầm lầy khi hoảng sợ thường bất động trong khoảng một phần mười giây trước khi vỗ cánh bay xa.

Nhưng giọng nói trong trẻo mà yếu ớt của cô bé lại vọng tới anh: “Có chứ!”

Và rồi cô bé bỏ chạy, mái tóc hung vàng tha thướt tung bay trước gió.

Con ngỗng trốn tuyết bình phục mau lẹ, khoảng giữa mùa đông nó tập tễnh đi trong khu đất có hàng rào, hay nhập bọn với những con ngỗng hoang chân hồng, chứ không đi với bọn lông nâu, và nó cũng biết chạy lại tìm ăn mỗi khi Rhayader lên tiếng gọi. Và cô bé, Fritha, hay Frith, là người khách thường xuyên lui tới. Cô không còn sợ hãi Rhayader nữa. Trí tưởng tượng của cô bị thu hút bởi sự hiện diện của nàng công chúa áo trắng kỳ ngộ đến từ miền đất lạ cách mấy trùng dương, miền đất toàn màu hồng trên tấm bản đồ mà Rhayader đã chỉ cho em xem, trên đó hai người dựng lại cuộc hành trình vất vả mà cánh chim lạc lõng trong cơn gió bão đã vượt quakể từ khi rời quê hương trên đất Canada để đến miền Đồng lầy rộng lớn trên duyên hải Essex.

Rồi một buổi sáng Tháng Sáu một bầy ngỗng chân hồng cuối cùng, no nê, mập mạp sau suốt mùa đông ở hải đăng, nghe theo tiếng gọi thôi thúc của miền đất xanh tươi, uể oải bay lên theo vòng trôn ốc mỗi lúc một rộng. Lẫn trong đàn chim đó, rực sáng trong ánh nắng xuân tươi, là thân lông trắng tuyền với hai đầu cánh lớn đốm đen của con chim trốn tuyết. Sự việc xảy ra vào lúc Frith có mặt ở hải đăng. Tiếng kêu của cô bé khiến Rhayader từ trong phòng vẽ nhảy bổ ra.

Con chim tron tuyet 4

“Coi kìa! Coi kìa! Nàng công chúa! Bộ nàng cũng bỏ đi hay sao?”

Rhayader ngước nhìn lên trời dõi theo những chấm đen di chuyển. Bất giác anh rập theo lời cô bé: “Chà! Nàng công chúa hồi hương! Lắng tai mà nghe, nàng đang từ giã chúng ta đó!”

Từ trên vòm trời trong vắt vọng xuống tiếng kêu ai oán của những con ngỗng chân hồng, và nổi bật lên trên, cao hơn, trong hơn, là tiếng của con chim trốn tuyết. Những chấm đen di chuyển theo hướng Bắc, kết thành hình chữ V nhỏ dần, rồi mất hút.

Từ bữa con chim trốn tuyết ra đi, Frith không lui tới vọng hải đăng nữa.

Rhayader lại một lần nữa thấm thía ý nghĩa của hai chữ “cô đơn”.

Mùa hè năm ấy, moi trong ký ức, anh vẽ lại hình dáng thanh thanh của cô bé, mặt lem luốc, mái tóc hung vàng bồng bềnh trong gió lộng Tháng Chín, trong tay ghì chặt con chim trắng bị thương.

* * *

Con chim 8

Vào giữa Tháng Mười, có một chuyện lạ xảy ra. Lúc đó Rhayader đang đứng trong khu đất có hàng rào cho chim ăn. Gió đông bắc gay gay lạnh và mặt đất rầm rì dưới làn nước thủy triều dâng. Vượt lên trên tiếng sóng biển và tiếng gió rì rào, anh chợt nghe, có tiếng kêu lanh lảnh, cao vút. Anh ngước mắt nhìn lên vòm trời chiều vừa đúng lúc để trước hết thấy một chấm đen nhỏ xíu, rồi thấy ảo ảnh một giấc mơ đen trắng chập chờn xuất hiện, nó lượn quanh hải đăng một vòng, rồi, sau chót, một cánh chim thực hạ cánh xuống đất ngay chỗ chuồng chim rồi đường bệ tiến lên đòi ăn như thể nó chưa hề bỏ đi xa bao giờ.

Đó chính là con chim trốn tuyết, không thể nào lầm lẫn được. Nó đã đi đâu? Chắc chắn là không thể bay về tổ nó bên Canada. Không, chắc chắn là nó đi nghỉ hè ở Greenland hay Spitzbergen với những con ngỗng chân hồng. Nó đã nhớ và đã trở lại.

Kỳ tới xuống thôn Chelmbury mua lương thực, chàng nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm, làm cho cô ngạc nhiên không ít. Chàng nói: “Phiền cô làm ơn nói lại với Frith, cô bé ở dưới xóm chài Wickaeldroth, rằng nàng Công chúa Lạc loài đã trở lại”.

Ba hôm sau, Frith, cao lớn hơn nhưng áo quần vẫn xốc xếch, tóc rối, bẽn lẽn tìm đến hải đăng để thăm nàng Công chúa.

Thời gian trôi qua. Trên vùng đồng lầy, bước đi của thời gian được đánh dấu bởi sự lên xuống của nước thủy triều, nhịp đi chầm chậm của bốn mùa, sự di chuyển của chim muông, và, riêng đối với Rhayader, sự đến và đi của con chim trốn tuyết.

Thế giới bên ngoài xao động, bùng sôi và gầm gừ dưới áp lực của một mãnh lực nào đấy, không bao lâu sau đã bùng nổ và đưa thế giới đến bên bờ sự hủy diệt. Nhưng mãi tới lúc đó, Rhayader vẫn chưa chịu ảnh hưởng của thời cuộc, và cả Frith cũng thế. Ngay cả khi cô bé đã khôn lớn, hai người vẫn hòa hợp tự nhiên một cách lạ thường. Khi con chim trốn tuyết có mặt tại hải đăng thì chính cô bé cũng lại lui tới để thăm viếng và học hỏi Rhayader được nhiều điều. Hai người ra biển chơi trên chiếc thuyền buồm chạy nhanh mà anh điều khiển rất tài tình. Họ lưới chim hoang để tăng thêm số chim đang nuôi, và dựng thêm hàng rào, mở thêm sân che chở cho chúng. Nhờ anh, cô bé học hỏi được nhiều điều về đủ loài chim hoang dã, từ hải âu tới chim ưng bay lượn trên vùng đồng lầy. Thỉnh thoảng cô bé nấu ăn cho anh và đôi khi cô còn tập pha sơn cho anh vẽ.

Nhưng hễ con chim trốn tuyết bay về vùng cư ngụ mùa hè thì mọi chuyện lại xảy ra như thể có một hàng rào ngăn cách giữa hai người và cô gái không lui tới hải đăng nữa. Có một năm con chim không trở lại, Rhayader buồn khôn tả xiết. Anh như có cảm tưởng mọi việc đã chấm dứt trong đời mình. Anh vẽ như điên cuồng suốt mùa đông và mùa hè sau đó, không hề gặp mặt cô bé một lần nào. Nhưng vào thu, tiếng kêu thân thuộc lại vang trên thinh không, và cánh chim trắng khổng lồ, bây giờ đã lớn hết cỡ, từ trời cao hạ xuống, cũng bí mật như lúc nó ra đi. Mừng rỡ, Rhayader dong thuyền xuống Chelmbury để nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm.

Lạ thay, lần này sau khi nhắn tin phải đợi tới hơn một tháng trời Frith mới xuất hiện. Rhayader kinh ngạc đến sững người khi nhận thấy cô không còn là một cô bé nữa.

Và sau cái năm con chim không tới ấy, thời hạn nó vắng mặt càng lúc càng thu ngắn lại. Nó trở nên dạn dĩ đến mức lúc nào nó cũng quấn quít theo Rhayader, thậm chí nó dám đi vào trong phòng vẽ những lúc anh đang làm việc.

Mùa xuân năm 1940, bầy chim thiên du rời khỏi vùng đồng lầy sớm hơn thường lệ. Thế giới đã lâm chiến. Tiếng gầm rú của máy bay oanh kích và tiếng nổ ì ầm của bom đạn làm chúng khiếp đảm. Hôm mồng một Tháng Năm, Frith và Rhayader đứng vai kề vai bên bờ đê ven biển theo dõi những đốm cánh cuối cùng của đán ngỗng chân hồng cánh không bị xén và những con ngỗng hoang lông nâu cất cánh bay lên từ nơi chúng trú ẩn. Cô gái thì cao, dáng thanh tú, thảnh thơi như gió thoảng, vẻ đẹp mê hồn. Anh thì đen đúa, thô kệch, cái đầu râu tóc bù xù ngước nhìn lên trời, đôi mắt đen lóng lánh theo dõi đàn chim bay thành hàng.

Frith gọi: “Anh Philip, coi kìa!”

Con chim 4

Rhayader nhìn theo hướng mắt của cô gái. Con chim trốn tuyết đã cất cánh, đôi cánh lớn xòe ra, nhưng nó bay thấp và có lúc bay sát chỗ hai người đứng, sát đến nỗi hai đầu cánh đen gần như quệt vào người họ, và họ cảm thấy luồng gió mạnh của lớp cánh chim tạt vào người. Một lần, rồi hai lần, con chim lượn quanh hải đăng, rồi hạ cánh trong sân, nơi có những con ngỗng bị xén lông cánh còn ở lại, và bắt đầu nhặt mồi ăn thong thả.

Đầy vẻ kinh ngạc, cô gái nói: “Nó không muốn đi nữa!” Cánh chim trong lúc bay sà xuống sát bên cô dường như đã đem đến cho cô một niềm phấn khởi kỳ diệu: “Nàng Công chúa Lạc loài sẽ ở lại”.

Rhayader đáp: “Đúng vậy.” Giọng nói của anh run lên vì cảm động. “Nàng sẽ ở lại, Nàng sẽ không đi nữa. Nàng Công chúa sẽ không còn lạc loài nữa. Từ nay, nơi đây là quê hương của nàng – quê hương do nàng tự ý chọn lựa”.

Sức quyến rũ mà cánh chim vấn chung quanh cô gái bị rạn vỡ. Frith bỗng ý thức được sự kiện là cô cảm thấy kinh hoàng, và nguyên nhân gây nên sự sợ hãi ấy chính là đôi mắt Rhayader – sự van lơn cầu khẩn, nỗi cô đơn và tất cả những gì thầm kín, sâu xa, sôi động đều tiềm ẩn bên trong và bên trên tia mắt ấy, lúc anh ngước nhìn cô.

Những lời anh vừa nói cứ lặp lại trong đầu cô gái tựa như chính anh vừa nhắc lại: “Từ nay nơi đây là quê hương của cô – cô tự ý chọn lựa”. Bản năng hiền dịu của Frith làm Rhayader xao xuyến, và làm cho cô hiểu được những ý nghĩ thầm kín mà vì mặc cảm tật nguyền, xấu xí, anh không thể nói được nên lời. Và vì lời nói của anh có sức phủ dụ, cô lại càng thêm hoảng sợ trước sự yên lặng cùng mãnh lực của những gì không nói ra giữa hai người. Bản năng phụ nữ trong cô như thôi thúc cô bỏ chạy trước một sự việc nào đó mà cô chưa đủ khả năng hiểu thấu.

Frith lắp bắp: “Em… em phải về. Thôi chào ông. Em cũng vui là… là nàng công chúa ở lại. Từ đây ông không cô đơn lắm nữa”.

Con chim 6B

Cô gái quay lưng, thoăn thoắt bước đi và chỉ thoáng nghe thấy lời chào buồn thảm “Chào em, Frith”, mơ hồ như tiếng ma quái, lạc lõng trong tiếng gió thổi rì rào trên đồng cỏ hoang. Đi được một thôi dài rồi cô mới dám liếc mắt nhìn trở lại phía sau. Anh vẫn đứng trên bờ đê, một chấm đen nhỏ in trên nền trời bao la.

Cơn sợ hãi bấy giờ mới tan. Nó nhường chỗ cho một cái gì khác, một cảm giác mất mát là lạ, cảm giác đó mạnh đến nỗi khiến cô đứng sững lại hồi lâu. Rồi, bước đi chậm chạp hơn, cô tiếp tục rời xa dần ngọn hải đăng mọc chĩa lên nền trời như một ngón tay, tiếp tục rời xa dần người đàn ông đứng ở phía dưới.

Sau đó có đến ba tuần Frith mới trở lại hải đăng. Tháng Năm đã gần hết, và ngày hôm đó, ngày cũng dần tàn, vào lúc hoàng hôn đang nhường dần chỗ cho màu trắng bạc của vầng trăng đã treo lơ lửng trên vòm trời phía đông.

Cô gái tự nhủ, trong lúc tiến bước, rằng cô cần phải tới xem con chim trốn tuyết có còn ở lại đúng như lời Rhayader đã nói hay không. Rất có thể là rốt cuộc nó đã bay đi. Những bước đi vững chắc của cô trên mặt đê thật là hăng hái và đôi lúc bất giác cô chợt nhận ra mình đang rảo bước đi mau.

Frith nhìn thấy ánh lửa vàng của chiếc đèn lồng ở dưới bến thuyền của Rhayader và cô xuống gặp anh dưới đó. Chiếc thuyền buồm của anh nhè nhẹ đung đưa trên ngọn nước triều dâng. Anh đang chất lương thực lên thuyền – nước ngọt, thức ăn khô, mấy chai rượu mạnh, đồ dùng trên thuyền và một cánh buồm phòng hờ. Khi anh quay lại vì nghe tiếng chân cô đến gần, cô thấy vẻ mặt anh tái nhợt, nhưng đôi mắt đen lúc bình thường vốn rất ư dịu dàng, đang sáng ngời lên vì cảm kích, và anh thở hào hển vì mệt nhọc.

Frith bỗng nhiên cảm thấy lo sợ. Con chim trốn tuyết bị lãng quên rồi.

“Philip! Bộ anh dọn đi nơi khác à?”

Rhayader ngừng tay để chào đón cô gái, và trên gương mặt anh thoáng hiện một vẻ gì khác thường – một sắc diện hớn hở mà trước đó cô chưa từng thấy bao giờ.

“Frith! Tôi mừng vì em đến đúng lúc. Vâng, tôi phải đi. Một chuyến đi ngắn ngủi. Rồi tôi sẽ trở về”. Giọng nói của anh thường nhật dịu dàng, bữa nay trở nên khàn khàn vì anh đã cố gắng rõ rệt để chế ngự cơn xúc động trong nội tâm.

Frith hỏi: “Anh phải đi dâu chứ?”

Rhayader vồn vã kể. Anh phải đi Dunkerque[6].

Khoảng một trăm dặm bên kia bờ biển phía Bắc, một đoàn quân Anh mắc bẫy ở đó, trên bãi cát, đang chờ bị tiêu diệt bởi lực lượng quân Đức đang tiến tới. Hải cảng ngùn ngụt bốc cháy, tình cảnh thật tuyệt vọng. Anh nghe được tin ấy khi anh xuống dưới làng mua lương thực. Nhiều người đã đáp lại lời kêu gọi của chính phủ rời bến Chelmbury với đủ thứ tàu: tàu kéo hàng, tàu đánh cá hay xuồng máy – miễn là máy còn chạy được – đều được kéo ra khỏi cảng, vượt eo biển để kéo binh sĩ ra khỏi bãi biển, chở họ đến những tàu vận tải hay những chiến hạm lớn không vào được gần bờ. Dân chúng cố gắng cứu sống càng nhiều càng hay số binh sĩ Anh thoát khỏi làn mưa đạn của quân Đức.

Con chim 7

Frith lắng nghe và cảm thấy lòng mình buồn như muốn chết. Anh cho biết là mình sẽ vượt qua eo biển trên chiếc thuyền buồm nhỏ. Nó có thể chở được sáu người mỗi chuyến, nếu cần thì bảy người. Anh có thể chở nhiều chuyến từ bãi biển ra tàu vận tải đậu ngoài khơi.

Cô gái còn trẻ, chất phác, vụng dại. Em chưa hiểu gì về chiến tranh, hoặc về những gì đang xảy ra trên đất Pháp, hoặc về ý nghĩa sự mắc bẫy của đoàn quân Anh, nhưng do linh tính cô gái cũng biết ở nơi xa xôi đó thật nguy hiểm.

“Philip! Anh đi thật sao? Anh sẽ không về được đâu. Mà tại sao anh phải đi?”

Cơn hăng say đang bồng bột trong tâm hồn anh tưởng chừng tan biến trước đợt đầu tiên của những câu nói và anh cố giải thích bằng những lời lẽ mà cô gái có thể hiểu được.

Anh nói: “Binh sĩ bị lùa ra bãi biển giống như những con chim bị săn đuổi, Frith ạ, như những con chim bị săn và bị thương mà chúng mình vẫn thường bắt gặp và đưa về nơi trú ẩn. Bay lượn trên họ là một bầy chim bằng thép, những con diều hâu, chim ưng, kên kên, và họ chẳng biết nấp vào đâu để tránh những con chim sắt săn mồi ấy. Họ bị thua, bị bão táp dồn đuổi, bị đe dọa như nàng công chúa đi lạc mà em đã bắt gặp trong đầm lầy và mang đến cho tôi nhiều năm trước, và chúng ta đã cùng lo chạy chữa. Cũng như bầy chim hoang của chúng ta, những người lính đó cần được giúp đỡ, em à. Vì thế mà tôi phải đi, đó là việc tôi có thể làm được. Đúng, tôi làm được mà. Ít ra là một lần – phải, ít ra là một lần tôi có dịp chứng tỏ mình là đàn ông và có thể đảm nhận trách nhiệm của mình”.

Frith chăm chăm nhìn Rhayader. Anh như đã hóa thân. Lần đầu tiên cô gái thấy anh không còn xấu xí, tật nguyền nữa, trái lại anh có hình ảnh rất đẹp. Trong tâm hồn cô cũng sôi sục bao nhiêu điều muốn được nói nên lời, nhưng cô không biết nói thế nào.

“Philip! Em muốn đi cùng anh!”

Rhayader lắc đầu: “Em đi thì con thuyền sẽ mất bớt một chỗ, do đó một người lính sẽ bị bỏ lại, rồi một người nữa, và một người nữa. Anh phải đi một mình, em à”.

Anh mặc áo mưa, đi giày ống cao su và dong thuyền lướt đi. Anh giơ tay vẫy gọi với lại: “Tạm biệt nhé! Nhờ em săn sóc giùm lũ chim đến lúc anh về nghe Frith!”

Frith đưa tay lên, nhưng chỉ tới lưng chừng thôi, vẫy lại: “Cầu xin Chúa che chở cho anh”. Rồi cô vội giải thích ngay bằng thổ ngữ Saxon. “Em sẽ săn sóc đàn chim. Cầu trời che chở cho anh, Philip.”

Con chim 9B

Lúc đó đã vào đêm, trời sáng dưới ánh sao, vừng trăng lưỡi liềm cùng ánh lửa cháy hồng từ phương bắc. Frith đứng trên bờ đê, ngó theo cánh buồm trắng trên con lạch ngập nước triều dâng. Bỗng nhiên từ vùng bóng tối phía sau cô gái, có tiếng cánh bay rào rào và có một vật gì đó bay ngang qua sát bên cô. Trong ánh sao đêm cô thoáng thấy đôi cánh trắng lóe sáng, đầu cánh có đốm đen, và cái đầu chúi về phía trước của con chim trốn tuyết.

Nó bay lên và lượn một vòng quanh ngọn tháp để rồi bay xuôi theo hướng con lạch quanh co trên hồ và cánh buồm của Rhayader đang lướt nhanh dưới làn gió lộng. Con chim bay chầm chậm phía trên con thuyền theo hình vòng tròn rộng.

Còn nhìn thấy cánh buồm trắng và cánh chim trắng trong một hồi lâu.

“Hãy trông chừng chàng, hãy che chở cho chàng”, Frith thì thào. Lúc cả hai cùng khuất bóng, cô gái quay lưng và uể oải cất bước, đầu cúi thấp, đi về hải đăng trống vắng.

* * *

Đến đây câu chuyện được chắp nhặt nơi này nơi nọ, và một trong những mẩu chuyện vụn vặt đó được thuật lại do lời những người lính đi phép trong quán Crown and Arrow, một quán rượu gần thánh đường East Chapel.

“Một con ngỗng, một con ngỗng tuyệt đẹp đã cứu tôi”, anh binh nhì Potton thuộc Ngự Đoàn bộ binh thành Luân Đôn nói.

“Xì”, người lính pháo binh có đầu gối cong, tỏ vẻ không tin.

Con chim 17

“Đúng là một con ngỗng, tôi chắc mà. Này Jock, cậu cũng trông thấy nó như tôi, đúng không? Nó bay xuống từ đám khói mịt mù, nồng khét của chiến trường Dunkirk, lơ lửng trên đầu bọn này. Lông nó trắng, đầu cánh có đốm đen, và nó lượn xung quanh bọn này như một phi cơ phóng pháo mắc dịch nọ. Jock thấy thế mới nói: “Tiêu rồi, Thần chết đến tìm bọn mình đó.”

Tôi cãi “Bậy nào, đây là con ngỗng lông hồng, từ quê hương mình bay sang mang theo thông điệp của ông Churchill, ông ta muốn biết tụi mình đang thưởng thức cái thú tắm mát này ra làm sao. Đây là một điềm báo, đúng mà, dù là điềm báo đầy máu. Rồi thế nào bọn mình cũng thoát mà, bạn ơi.”

“Tụi mình đang bị nướng chín trên bãi biển nằm giữa Dunkirk và Lapanny, giống như một xâu chim câu óng chuốt bên bờ hồ Victoria, đang chờ lão đồ tể Jerry[7] đến vặt lông làm thịt. Chắc chắn hắn sẽ ăn sống nuốt tươi bọn mình. Hắn theo bén gót mình, thúc cạnh sườn mình và ngay trên đầu mình. Hắn sẽ cho mình một phát đạn ghém và tặng mình tước vị, và từ trên vòm trời trong sáng lũ quỷ Jittersmiths[8] sẽ rắc tiêu lên đầu mình”.

Và ngoài khơi có chiếc Kentish Maid, chiếc tàu chở du khách mà tôi đã đáp nhiều chuyến đi Margate[9] trong dịp hè, giá vé hai đồng sáu hào, đang chờ đón tụi tôi, nó đậu chỉ cách chỗ bãi biển đang lâm chiến chừng nửa dặm đường.

Trong lúc tụi tôi nằm trên bãi biển thì chỉ còn biết chửi thề thôi vì không có cách nào ra được chỗ tàu đậu, một chiếc Stuka[10] nhào xuống con tàu, một chuỗi bom rơi dọc bên hông tàu, khiếnnước tung lên trông như những vòi nước vọt trong vườn hoa các dinh thự, có điều là ở vườn hoa thì các vòi nước phun lên đều đều.

Rồi một chiếc khu trục hạm ló ra bảo chiếc Stuka: “Đừng có làm thế”, bằng những tiếng nổ lạch tạch, đùng đùng, nhưng một chiếc Jerry khác lại nhào xuống chiếc khu trục hạm và ném bom trúng. Khiếp! Nó nhảy tưng lên! Nó bốc cháy trước khi chìm, rồi khói, mùi khét lẹt tạt vào tận bãi biển, khói vàng, khói đen, và trong đám khói ấy xuất hiện con ngỗng sáng rực, nó lượn quanh chúng tôi đang nằm mắc kẹt trên bờ biển.

Thế rồi, từ một khúc biển uốn quanh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ vấy máu, chạy thật thanh thản tựa như một chiếc du thuyền rực rỡ nhàn nhã rong chơi vào một buổi chiều chủ nhật trên hồ Henlye.

Một người thường dân hỏi: “Ai đó?”

“Tôi đây! Tôi đến để cứu các anh đây”. Con thuyền đã vô sự vượt qua làn mưa đạn súng liên thanh từ một chiếc máy bay trong phi đội phóng pháo Đức dội xuống – trước đó nửa giờ một chiếc thuyền gắn máy ở Ramsgate đã cố vào chuyển chúng tôi đi nhưng bị bắn chìm – mặt nước ngầu lên vì vết đạn cày, nhưng gã lái thuyền như không để ý tới, chắc chắn là gã không thèm để ý. Làm gì có xăng nhớt mà sợ bị máy bay bắn phát nổ, và cứ thế nó len lỏi qua những mũi đạn chúc xuống rào rào.

Từ trong làn khói đen của chiếc tàu bốc cháy rẽ vào chỗ cạn, có một anh chàng nhỏ thó, đen đúa, có râu, một bên cánh tay có tật giống như chiếc móng chim, và một cục bướu trên lưng.

Gã gù cắn chặt sợi dây giữa hai hàm răng, sợi dây trắng bóng giữa bộ râu đen rậm, ngồi đằng đuôi lái gã vẫy chúng tôi lại. Và ngay trên đầu là cánh chim lực lưỡng lượn qua lượn lại.

Thấy thế Jock nói: “Coi kìa, điên thật rồi. Đúng là loài quỷ dữ đến rước mình đi. Chẳng thà trúng đạn chết mất ngáp còn hơn là trông thấy nó”.

“Bậy nào”, tôi cãi, “tôi thấy hắn ta giống ông Thiện chứ không phải loài quỷ dữ”.

Mà thật thế trông hắn ta giống những bức hình in trong những cuốn sách giáo lý với khuôn mặt trắng, và ngay cả con thuyền quái quỉ của hắn nữa.

“Tôi có đủ chỗ cho bảy người mỗi chuyến”, hắn hô lên khi chiếc thuyền ghé lại gần.

Vị sĩ quan chỉ huy chúng tôi đáp: “Anh can đảm lắm! … Bảy cậu gần thuyền nhất, lên đi!”

Chúng tôi lội ùa ra tới bên thuyền hắn. Tôi mệt đến nỗi không leo lên được cạnh thuyền, nhưng hắn nắm lấy gáy áo tôi mà lôi lên, miệng nói: “Ráng lên nào, anh bạn”, rồi người kế tiếp leo lên.

Thế là tôi lên được. Chà, hắn mới khoẻ làm sao chứ. Rồi hắn kéo buồm lên, một cánh buồm lỗ chỗ đạn súng máy giống như chiếc sàng sảy lúa, và hắn hô ta: “Ngồi cả xuống lòng thuyền, mấy chú, phòng trường hợp dọc đường có gặp thêm đồng đội của mấy chú chăng”, và rồi chúng tôi rời khỏi bờ, hắn ngồi đằng sau lái, răng cắn chặt sợi dây thừng, chiếc tay khoèo hình móng chim nắm giữ một sợi khác, tay phải bẻ lái và rồi con thuyền lướt sóng ra khơi, chạy len lỏi giữa những viên đạn làm tung tóe nước, từ một ổ súng đặt ở một nơi nào đó trong bờ biển bắn ra. Và cánh ngỗng lực lưỡng lượn đi lượn lại, kêu quàng quạc át cả tiếng gió và tiếng huyên náo mà quân Đức đang tạo nên, giống như ngày đại hội khiêu vũ hóa trang trên đường phố thành Winchester.

Tôi nói với thằng Jock: “Tôi đã bảo anh con ngỗng kia là điềm lành mà”.

“Nhìn hắn mà xem, hắn là ông Thiện tới cứu mình mà”.

Hắn ngồi ở chỗ tay lái, ngước nhìn lên cánh ngỗng, răng cắn chặt sợi dây thừng, và mỉm cười với con ngỗng như đã từng quen biết nó từ lâu.

Hắn đem chúng tôi ra tới tàu Kentish Maid rồi lại quay thuyền đi chở chuyến khác. Suốt buổi chiều và luôn cả đêm hôm đó nữa hắn chở được rất nhiều chuyến, vì cả vùng trời Dukirk cháy sáng rực nên có thể nhìn thấy rõ như ban ngày. Tôi không rõ hắn đi được bao nhiêu chuyến, nhưng hắn và chiếc du thuyền có gắn máy hảo hạng của hội bơi thuyền Thames Yacht Club và một chiếc tàu cấp cứu khác từ bến Poole tới đã hè vào chở hết bọn tôi, không sót một đứa nào, ra khỏi cái dải đất của vùng hỏa ngục ấy.

Tàu nhổ neo khi người cuối cùng trong bọn tôi đã lên, có tới trên bảy trăm mạng nhét trên con tàu được đóng để chở chừng hai trăm người. Hắn hãy còn ở lại đó khi chúng tôi khởi hành, hắn vẫy tay từ giã chúng tôi và lại quay mũi theo hướng Dunkerque, con ngỗng vẫn bám sát theo hắn. Trông thật ngộ nghĩnh, cánh chim lực lưỡng bay quanh chiếc du thuyền của hắn, cánh chim lóe ngời lửa đạn, tựa như một vị thiên thần trong trắng bay lượn giữa đám khói lửa mịt mờ.

Một chiếc Stuka dọc đường lại tấn công chúng tôi thêm một lần nữa, nhưng anh chàng phi công ý hẳn đã thiếu ngủ từ nhiều đêm trước nên oanh kích hụt đích. Tảng sáng chúng tôi về đến quê nhà bình an vô sự.

Sau đó tôi không biết số phận hắn ra sao, hoặc hắn là ai – cái anh chàng gù lưng với chiếc thuyền buồm bé nhỏ của hắn. Anh chàng đó thật là can đảm và tốt bụng lạ thường”.

Người lính pháo binh nói: “Chà, một cánh chim lực lưỡng và hung hung đỏ, có ai biết không nào?”

Con chim 15B

Một vị sĩ quan hải quân trừ bị, trong bốn ngày cuối cùng của cuộc triệt thoái, đã bị thiệt hại mất hai chiếc tàu kéo lưới Brixham và một chiếc tàu rà mìn Yarmouth được đặt dưới quyền chỉ huy của ông, lên tiếng hỏi: “Bác có nghe nói gì tới huyền thoại khó mà tin được về một con ngỗng hoang không nhỉ? Nó hết bay lên rồi lại bay xuống dọc theo bãi biển. Mà bác cũng thừa biết loại chuyện đó thường xảy ra như thế nào rồi. Có một số binh sĩ tôi chở từ Dunkerque về bàn tán mãi chuyện đó. Con ngỗng xuất hiện trong những ngày cuối cùng từng chập một giữa khoảng Dunkerque và Lapanne. Ai mà may mắn được nhìn thấy con ngỗng là kể như sau đó thế nào cũng được cứu thoát. Bác thừa biết, cái lối nửa hư nửa thực ấy mà…”

Trung tá Brill Oudener nói: “Hè…ừ…ừm, một con ngỗng hoang à? Theo tôi thấy thì nó đã được dạy cho thuần thục rồi. Một thứ chi tiết vô cùng kỳ lạ. Bi đát nữa, hiểu theo một cách khác. Và thật may cho chúng tôi. Để tôi kể cho bác nghe. Đó là chuyến thứ ba trên đường về. Vào khoảng sáu giờ chiều chúng tôi nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ trôi giạt, trên thuyền dường như có một người hay một cái xác người nào đó, và một con chim đậu trên mạn thuyền.

Khi tới gần, chúng tôi bèn đổi hướng tàu để lại xem có chuyện gì. Trời đất ơi, đúng là một người. Hay đúng ra, trước đó đã là một người. Tội nghiệp hắn! Bị trúng một phát đạn liên thanh, nói thế là bác cũng đủ hiểu rồi. Bị nặng lắm! Đầu gục xuống nước. Con chim, một loài ngỗng, cong ngỗng đã được huấn luyện thành thục.

Chúng tôi ghé lại gần, nhưng khi một người trong bọn chúng tôi định leo lên thuyền thì con chim kêu rít lên va dang cánh ra đập hắn. Không lấy được xác gã kia ra. Bất thần, Kettering, một chú lính trẻ theo hộ vệ tôi, thét lên, giơ tay chỉ xuống mạn tàu bên phải. Một trái thủy lôi bập bềnh sát bên. Trái thủy lôi khủng khiếp của bọn Đức. Nếu chúng tôi đi thẳng thì thế nào cũng đụng nhằm trái thủy lôi đó rồi. Chúng tôi lái tránh cho trái thủy lôi dạt ra xa. Khi nó đã giạt ra xa, cách chiếc xà lan cuối đoàn chừng một trăm thước, thì mấy anh lính lấy súng nhắm bắn cho nó nổ tung lên.

Khi chúng tôi quay lại tìm kiếm chiếc thuyền trôi giạt thì nó đã biến đâu mất. Chìm rồi. Thủy lôi nổ, rung động, làm thuyền lật, bác biết đấy. Kéo theo cả cái gã kẹt trong thuyền. Tựa như gã cột người gã vào với chiếc thuyền. Con chim bay lên và lượn vòng quanh. Nó lượn ba vòng tựa như một chiếc máy bay lượn chào làm chúng tôi sững sờ hồi lâu. Rồi nó bay về hướng tây. Cũng may cho chúng tôi đã lên boong xem, nếu không thì sao nhỉ? Mà cũng lạ kỳ là bác đã đề cập tới chuyện con ngỗng đó”.

 ™*  *  *

Fritha ở lại một mình trong hải đăng nhỏ bé trên vùng đồng lầy rộng lớn, săn sóc những con chim bị xén lông cánh còn ở lại. Cô chờ đợi mà chẳng biết mình chờ đợi gì. Những ngày đầu tiên cô hay lên bờ biển ngóng chờ, dù cô đã biết là uổng công. Sau đó cô thơ thẩn đi khắp các căn buồng để đồ trong hải đăng, nơi chất đầy những bức họa trên đó Rhayader đã mô tả lại tất cả những cảnh trí cùng những tác động của ánh sáng trên vùng đất hoang vu và vẻ đẹp huy hoàng của các loài dị điểu sống nơi đó.

Trong số tranh ấy, cô gái tìm thấy bức chân dung Rhayader vẽ mình theo ký ức, nhiều năm về trước, hồi cô còn là một cô bé nhỏ xíu, nhút nhát, đầu tóc rối bù đứng bên ngưỡng cửa, ôm trong lòng con chim trốn tuyết bị thương.

Snow Goose Frith monochromatic study

Bức họa và những gì cô gái nhận thức được đã khiến cô xúc động như chưa từng xúc động, vì Rhayader đã gửi gắm rất nhiều tâm hồn mình vào đấy. Lạ thay, đó là lần duy nhất anh vẽ con chim trốn tuyết, con vật lạc loài, bị bão táp xô giạt đến từ miền đất lạ, con vật đã mang tình bạn đến cho hai người, và chính con vật ấy, cuối cùng trở lại báo cho cô biết là cô sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa.

Khá lâu trước khi con chim trốn tuyết từ vùng trời phía đông ửng hồng sà xuống lượn vòng quanh hải đăng như ngỏ lời chào vĩnh biệt, Fritha nhờ sự linh cảm mẫn tiệp sẵn có trong cô đã biết trước là Rhayader sẽ không bao giờ về nữa.

Cũng chính vì thế, vào lúc trời chiều, nghe tiếng chim kêu lảnh lót quen thuộc từ trời cao vọng xuống, lòng cô không trải qua một giây phút hy vọng hão huyền. Giây phút ấy, dường như cô đã từng sống qua rất nhiều lần, nên không còn ảo vọng.

Cô gái hối hả chạy ra bức trường thành, đôi mắt không hướng ra phía eo biển xa vời mà từ đó một cánh buồm có thể xuất hiện, nhưng lại ngước lên vòm trời đỏ rực mà, từ đó, con chim trốn tuyết rơi thẳng xuống như một hòn đá. Cánh chim từ trời cao rớt xuống, tiếng kêu não nùng của nó, và sự cô quạnh vây bọc quanh cô, đã phá vỡ con đập ngăn giữ mọi xúc cảm trong cô, thả tung mối tình không ngăn giữ được, không chối cãi nổi, tuôn trào thành suối lệ.

Một linh hồn hoang dã kêu gọi một linh hồn hoang dã khác, cô có cảm tưởng như mình đang lượn theo cánh chim to lớn bay vút lên vòm trời chiều và lắng nghe lời Rhayader nhắn nhủ.

Trời đất như vang vang lời nhắn gửi, và cô rung rung theo hòa âm đó với một cường độ vượt quá sức mình. “Frith, Fritha! Frith, em yêu. Vĩnh biệt nhé, người em yêu dấu!” Đôi cánh trắng, có đốm đen, như quạt vào lòng cô những lời âu yếm ấy, và lòng cô đáp lại: “Philip, em yêu anh.”

Có một lúc Frith tưởng là con chim trốn tuyết sắp hạ cánh trong khuôn vườn, khi những con ngỗng bị xén cánh kêu vang lời chào đón. Nhưng nó chỉ sà xuống thấp rồi lại bay vút lên, luợn một vòng tròn rất đẹp mắt, quanh ngọn hải đăng cổ xưa một lần nữa rồi bay lẩn trong đám mây cao vút.

Con chim 5

Nhìn cánh chim bay vút lên cao, Frith không còn thấy hình ảnh con chim trốn tuyết nữa, mà chỉ thấy linh hồn của Rhayader đến giã biệt cô trước khi chắp cánh bay vào cõi hư vô.

Cô gái không còn bay theo cánh chim nữa mà trở lại ràng buộc trên mặt đất. Cô dang hai cánh tay giơ lên trời, những ngón chân nhón cao, với theo, miệng kêu lên: “Xin trời đưa dẫn anh, ra đi êm đẹp nhé, hỡi anh Philip của em!”

Nước mắt Frith như khô cạn. Khi bóng chim mịt mù, cô còn đứng đó, âm thầm ngóng lên trời cao một hồi lâu. Rồi cô trở lại ngọn hải đăng tìm lấy bức chân dung Rhayader đã vẽ mình. Ghì chặt bức họa vào ngực, cô trở về nhà, đi dọc theo con đê ven bờ biển cả.

Đêm đêm, trong nhiều tuần kế tiếp sau đó, Frith còn trở lại hải đăng cho lũ chim bị xén lông cánh ăn. Rồi vào một buổi sớm mai, một phi công Đức trong một phi vụ lúc trời chưa sáng tỏ lầm tưởng ngọn hải đăng cũ hoang phế là một mục tiêu quân sự đang hoạt động nên nhào xuống như một cánh chim ưng bằng thép và bắn phá. Ngọn hải đăng cùng tất cả những gì còn lại trong đó tan thành cát bụi.

Tối hôm đó, khi Fritha trở lại, sóng biển đã ùa qua những bức tường sụp đổ và bao phủ lên tất cả. Không còn gì sót lại khả dĩ làm cho giảm bớt quanh cảnh ảm đạm thê lương. Không một cánh chim nào trong vùng đồng lầy dám trở lại. Chỉ có những con hải âu dạn dĩ chập chờn bay lượn, nức nở kêu thương quanh nơi chốn cũ – nơi mà khi vầng thái dương mới ló còn là ngọn hải đăng xưa.

—Hết—

Trần Phong Giao & Hoàng Ưng dịch, Diệp Minh Tâm sưu tầm hình ảnh và hiệu đính

Giới thiệu tác giả

Con chim 3

Tác giả Paul Gallico (1897-1976) bước đầu nổi tiếng là phóng viên thể thao giỏi. Sau hơn 20 năm cầm bút, Paul Gallico bỗng nổi bật trên văn đàn với truyện vừa The snow goose , được xuất bản năm 1941, gây chấn động dư luận bạn đọc cả trong và ngoài nước Mỹ.

Cha ông người Ý, mẹ người Áo, cả hai người định cư ở Mỹ, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao… Trong sáng, và thơ mộng, những tác phẩm văn học của Paul Gallico nhẹ nhàng đi vào thế giới mang đầy chất nhân ái khao khát yêu thương.

Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm nhận giải Oscar. Riêng truyện The snow goose được chuyển thể thành phim mang tựa cùng tên, do Patrick Garland làm đạo diễn, được IMDb chấm điểm 8.5. Phim đoạt Giải Quả Cầu vàng hạng mục Nữ diễn viên trong vai Fritha.

Bối cảnh lịch sử: Cuộc triệt thoái Dunquerque

Đức tấn công như vũ bão vào đất Pháp, và quân Đồng minh thảm bại. Ngày 20 tháng 2, quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba đại quân đoàn Pháp bị bao vây. Họ không có hy vọng gì mà thoát ra, ngoại trừ hy vọng mong manh là thoát ra đường biển ở Dunquerque. Bộ Tư lệnh Hải quân Anh nhận lệnh của Churchill huy động mọi tàu thuyền để di tản Lực lượng Viễn chinh Anh và những đơn vị Đồng Minh khác. Một đội tàu gồm 861 chiếc đủ mọi kích thước, hình thù và phương tiện hải hành, từ tàu tuần dương và tàu khu trục cho đến thuyền buồm nhỏ, nhiều chiếc do dân thường lái từ những thị trấn ven biển Anh, tụ tập đến Dunquerque. Trong 4 ngày đầu, 27 tháng 5 cho đến 30 tháng 5, họ di tản được tổng cộng gần 130.000 người, vượt quá mong đợi của Hải quân Anh vốn dự định di tản được 45.000 người trong thời gian họ đoán chỉ có 2 ngày.

Dù quân Đức gây áp lực từ mọi hướng, phòng tuyến của Anh vẫn trụ vững và có thêm binh sĩ được di tản. Hôm sau, ngày 31 tháng 5 là ngày tấp nập nhất: khoảng 68.000 người xuống tàu đi Anh, một phần ba từ bãi biển, còn lại là từ bến cảng. Tổng cộng gần 200.000 người đã được chở đi, hơn 4 lần con số hy vọng ban đầu.

Không quân Đức tấn công đoàn tàu và đánh đắm phần lớn – 243 tàu bị chìm – trong tổng số 861 tàu tham gia cuộc di tản. Nhưng Không quân Đức không thể tiêu diệt Lực lượng Viễn chinh Anh. Vào ngày 1 tháng 6, khi máy bay Đức mở cuộc không kích mạnh nhất (và chịu thiệt hại nặng nhất – mỗi bên mất 30 máy bay), đánh chìm 3 tàu khu trục Anh và một số tàu vận tải nhỏ, Anh vẫn di tản được gần 65.000 người. Ngày hôm sau chỉ còn lại 4.000 binh sĩ Anh, được bảo vệ bởi 100.000 quân Pháp giờ đang phụ trách tuyến phòng thủ quanh khu vực bị bao vây.

Không quân Đức vào thời này chưa thể hoạt động ban đêm, vì thế trong hai đêm 2 và 3 tháng 6 tất cả Lực lượng Viễn chinh Anh còn lại và thêm 60.000 quân Pháp được di tản. Lúc này Dunkirk còn 40.000 quân Pháp cố thủ, trụ được cho đến sáng 4 tháng 6. Đến ngày này, tổng cộng gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức. Họ không còn là một đoàn quân; điều dễ hiểu là phần lớn ở trong tình trạng thảm não. Nhưng họ là những chiến binh dạn dày trận mạc; họ biết nếu được vũ trang đầy đủ và được không quân yểm trợ thì họ có thể đứng lên mà chiến đấu với quân Đức. Sau này họ sẽ chứng tỏ điều ấy – và trên những bãi biển không xa nơi họ được giải cứu: Normandie.

(Trích Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế Thứ ba, 2017, Diệp Minh Tâm dịch quyển The rise and fall of the Third Reich – A history of Nazi Germany, Nhà Xuất bản Thông tin và Truyền thông)

Về ngọn hải đăng trong truyện

Một ngọn hải đăng ở vùng châu thổ sông Thames, Essex, là bối cảnh cho truyện The snow goose. Ngọn hải đăng đích thực nằm gần cầu Sutton, vùng Norkfold Wash. Vào năm 1933, một người bạn của tác giả là Peter Scott, lúc ấy mới 23 tuổi, một họa sĩ và nhà bảo tồn chim, đến thuê vùng đất bao gồm ngọn hải đăng bị bỏ hoang. Vào thời gian này, ba mặt của hải đăng là đầm lầy nhận nước thủy triều lên xuống, tạo môi trường thích hợp cho các loài chim di cư ghé qua.

Thế là Scott dời đến ở trong hải đăng, sống tương tự như Rhayder: cũng vẽ tranh, cũng thu nhặt chim thiên di về chăm sóc. Lý do Peter Scott thuê vùng này là vì ông yêu thích bầu trời rộng mở, khung cảnh cô tịch hoang vắng, và sự hiện diện của các loài chim hoang dã – đặc biệt là một con ngỗng trời có chân hồng mang tên Annabel. Con chim này hàng năm trở về nơi chốn cũ quanh ngọn hải đăng trên đường thiên di.

Con chim 2

Gallico lấy bối cảnh này cho truyện The snow goose diễn ra trong thời Thế chiến 2. Ông mang con chim tên Annabel vào truyện thành con chim trốn tuyết, dời ngọn hải đăng từ Norfolk về Essex để tạo dựng hồi kết hợp lý của cốt truyện. Còn Scott không thể chuyển thành nhân vật Rhayder trong truyện, nhưng thay vào đó ông vẽ các hình minh họa, cho thấy ngọn hải đăng, những con sông uốn khúc vùng Wash, và bầu trời đầy những ngỗng trời. Ba tranh minh họa của ông được trình bày ở đây.

Đến năm 1973, Peter Scott được phong hiệp sĩ do thành tựu trong chương trình bảo tồn chim của ông, nên từ đây mọi người phải gọi ông bằng “Sir”. Hiện giờ hải đăng mang tên “Sir Peter Scott Lighthouse”. Một bảo tàng nhỏ được tổ chức ở nhà xe do Scott xây, thêm nhà đón khách du lịch và dịch vụ đưa đón khách đến tham quan hải đăng và vùng bảo tồn chim. Với những sự phát triển này, ngọn hải đăng không còn cảnh thơ mộng vì sự hẻo lánh như miêu tả trong truyện.

Giới thiệu người dịch

Trần Phong Giao tên thật là Trần Đình Tĩnh, bút hiệu Trần Phong, Thư Trung, Mõ Làng Văn. Ông sinh tại Nam Định. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Năm 1960 đến năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn báo Tin Sách do Trung tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới, như Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Paul Gallico.

Cuối năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn (số đầu tiên là số xuân Giáp Thìn, 1964) tại Sài Gòn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm.

Năm 1971, ông thôi làm ở tạp chí Văn, lập nhà xuất bản Giao Điểm và xuất bản tạp chí Giao Điểm, nhưng chỉ được ít số thì đình bản. Sau đó, ông thực hiện một vài giai phẩm khác nữa (trong đó có tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn), nhưng không thành công. Cuối cùng, ông trở lại công việc dịch sách và làm quản thủ thư viện Đại học Cửu Long cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bên cạnh các công việc trên, đầu năm 1975, ông còn giữ mục Giải đáp thắc mắc Văn học trên tờ Thời tập của nhà văn Viên Linh.

Sau một thời gian lâm bệnh (ung thư đại tràng), ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở quận 6, Sài Gòn, thọ 73 tuổi.

Chú thích

[1] Phía Đông Nam nước Anh, gần miền Bắc nước Pháp.

[2] Gốc ở miền Bắc nước Đức tràn xuống chiếm nhiều miền của nước Anh từ thế kỷ thứ V, VI.

[3] Dân Normand thuộc miền Bắc nước Pháp, đối diện với nước Anh, tới xâm chiếm nước Anh năm 1066. Trận Hastings bên bờ eo biển Anh đánh dấu sự toàn thắng của họ.

[4] Những tảng đá đặc biệt này dùng để xây bức trường thành ngày xưa.

[5] Ngỗng Canada: loài ngỗng hoang dã, có kích thước nhất trong số các loài ngỗng, nặng 2,5-6,5 kg, thân có màu xám-nâu, đầu, cổ, đuôi và chân đen, hai bên má và bụng dưới trắng, thường ở gần sông hồ, sống định cư ở Canada và Mỹ, được du nhập vào một số nước như Anh quốc, New Zealand, Argentina, Chile…

[6] Thị xã miền Bắc nước Pháp, nơi quân đội Đồng Minh (chủ yếu là quân Anh) rút lui dưới làn mưa đạn của quân địch (Đức quốc xã). Trận Dunkerque là một trận nổi tiếng thời Thế chiến 2.

[7] Jerry: tiếng lóng của người Anh dùng để chỉ người Đức, nhất là người lính Đức.

[8] Jittersmiths: tên máy bay Đức.

[9] Margate: Một hải cảng và là nơi nghỉ mát miền đông nam nước Anh.

[10] Stuka: Loại máy bay bổ nhào của Đức trong Thế chiến 2.

Tổng hợp: Diệp Minh Tâm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *