“Hãy rời khỏi Ấn Độ!” – Mohandas K. Gandhi

Mahatma Gandhi hoặc Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) là chính khách người Ấn Độ. Trong nửa đầu Thế kỷ 20, ông tranh đấu nhằm giành độc lập cho Ấn Độ từ Đế quốc Anh bằng đường lối bất bạo động và bất hợp tác với chính quyền Anh đang cai trị lục địa Ấn Độ.

Ngày 30 tháng 1 năm 1948, Gandhi bị bắn chết khi ông đang đi đến bục giảng để phát biểu trong một cuộc hội họp có cầu nguyện.

Ủy ban Nobel bị công kích rất nhiều vì không trao Giải Nobel Hòa bình cho Gandhi dù ông được đề cử cho giải này nhiều lần, lần cuối cùng là một năm trước khi ông bị ám sát. Có dư luận cho rằng Ủy ban Nobel chịu áp lực của Đế quốc Anh nên từ chối trao Giải Nobel Hòa bình cho ông.

Encarta Yearbook 1999 bình chọn Gandhi là một trong “mười nhân vật làm thay đổi thiên niên kỷ”. Năm 2012, Tạp chí TIME bình chọn ông là một trong 100 nhân vật của mọi thời đại.

Trong khi các cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ diễn ra trên khắp thế giới, người dân Ấn Độ tranh đấu cho nền độc lập chống lại Đế quốc Anh. Trong hơn một thế kỷ, chính thức từ năm 1858, tiểu lục địa Ấn Độ nằm dưới quyền đô hộ của Anh và nhiều người Ấn không thể nào chịu đựng được tình trạng này nữa. Mahatma Gandhi cùng Đảng Quốc Đại thúc đẩy một phong trào hoàn toàn bất bạo động nhằm buộc người Anh phải rời khỏi Ấn Độ.

Ngày 8 tháng 8 năm 1942, trước ngày phát động “Phong trào Rời Ấn Độ” (Quit India Movement), Gandhi đọc bài diễn văn “Hãy rời khỏi Ấn Độ!” trước Ủy ban Quốc Đại toàn Ấn Độ (the All India Congress Committee – A.I.C.C.), đòi hỏi người Anh phải rút về Anh lập tức.

Bài diễn văn có thể được chia ra làm 3 phần:

  • Phần 1 bằng tiếng Hindu: Ý tưởng của Gandhi trước khi Đảng Quốc Đại thông qua nghị quyết “Hãy rời khỏi Ấn Độ”.
  • Phần 2 bằng tiếng Hindu: Ý tưởng của Gandhi sau khi Đảng Quốc Đại thông qua nghị quyết “Hãy rời khỏi Ấn Độ”.
  • Phần 3 bằng tiếng Anh: Kết luận của Gandhi.

Ngoài những lời lẽ đanh thép đòi hỏi tự do cho Ấn Độ, bài diễn văn còn bộc lộ sự rạn nứt giữa Đảng Quốc Đại của người Ấn giáo và Liên đoàn Hồi giáo được cầm đầu bởi Muhammad Ali Jinnah, được gọi theo danh hiệu “Lãnh tụ Vĩ đại”. Do sự xung khắc quá trầm trọng giữa tín đồ Ấn giáo và tín đồ Hồi giáo, Anh và Mỹ hậu thuẫn việc phân chia tiểu lục địa Ấn Độ thành hai quốc gia riêng biệt dựa trên hai tôn giáo này. Jinnah ủng hộ việc phân chia nhưng Quốc Đại chống đối.

Bài diễn văn được đánh giá như sau:

  • Một trong 35 bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử (trang mạng The Art of Manliness)
  • Một trong 13 bài diễn văn hay nhất mọi thời đại (trang mạng MSN News).
  • Một trong 10 bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử (trang mạng TopTenz.net).

Diễn văn trước Ủy ban Quốc Đại toàn Ấn Độ

Phần 1

Trước khi quý vị thảo luận về nghị quyết, tôi mong quý vị hiểu thật rõ hai điều và xem xét theo khía cạnh của tôi. Sở dĩ tôi yêu cầu quý vị xem xét theo khía cạnh của tôi bởi vì nếu quý vị chấp thuận hai yêu cầu này thì quý vị phải thực hiện tất cả những gì tôi nói. Đó sẽ là một trách nhiệm lớn lao. Có những người hỏi tôi phải chăng tôi vẫn là người như vào năm 1920 hay không, hoặc tôi đã thay đổi. Các bạn đã đúng khi hỏi đặt câu hỏi ấy.

Gandhi-independence-quit-india 1942
Gandhi (giữa) cùng các nhà lãnh đạo Quốc Đại

Tôi xin nói ngay rằng tôi vẫn là Gandhi như vào năm 1920. Tôi không thay đổi trong bất kỳ khía cạnh cơ bản nào. Tôi luôn đặt tầm quan trọng vào nguyên tắc bất bạo động như lúc trước. Nếu có thay đổi, thì đó là trọng tâm của tôi về bất bạo động càng mạnh mẽ hơn trước. Không có mâu thuẫn nào giữa quyết tâm bây giờ và những gì tôi đã viết hoặc nói ra lúc trước.

Những cơ hội như hiện giờ không xảy ra trong cuộc đời của mọi người, và đối với một số người là hiếm hoi. Tôi mong quý vị biết và cảm nhận rằng không có gì ngoại trừ đức hạnh Hỉ xả trong tất cả những gì tôi đang nói và làm ngày hôm nay. Bản thảo nghị quyết của Ủy ban Hành động dựa trên Hỉ xả; tương tự như thế là cuộc đấu tranh hiện tại có gốc rễ từ Hỉ xả. Vì thế, nếu có ai trong số quý vị mất niềm tin nơi Hỉ xả hoặc cảm thấy chán nản, thì người ấy không nên bỏ phiếu cho nghị quyết này.

Để tôi giải thích rõ quan điểm của mình. Thượng Đế đã ban cho tôi món quà vô giá là vũ khí Hỉ xả. Tôi và Hỉ xả của tôi cùng nhau tiến bước ngày hôm nay. Trong cơn khủng hoảng hiện tại khi mà mặt đất đang bị ngọn lửa dữ dội nung nóng và đang kêu cứu, nếu tôi không sử dụng tài năng Thượng Đế trao cho thì Thượng Đế sẽ trừng phạt tôi, và tôi sẽ bị phán xử đúng mực về món quà vĩ đại kia. Bây giờ tôi phải hành động. Tôi không thể lưỡng lự mà đứng nhìn, khi Nga và Trung Quốc bị đe dọa.

Không phải là chúng ta muốn quyền lực, nhưng đây chỉ thuần túy là cuộc tranh đấu bất bạo động cho nền độc lập của Ấn Độ. Trong một cuộc tranh đấu bạo lực, một vị tướng thắng lợi thường chỉ huy một cuộc đảo chính quân sự rồi thiết lập một chế độ độc tài. Nhưng trong phương án của Quốc Đại, nguyên tắc chủ lực là bất bạo động, không có chỗ cho chế độ độc tài. Chiến binh bất bạo động không màng cái gì cho riêng mình; anh ta chỉ chiến đấu cho nền tự do của đất nước anh ta. Một khi có tự do, Quốc Đại không màng ai sẽ cai trị. Lúc ấy, quyền lực sẽ thuộc về nhân dân Ấn Độ, tùy họ quyết định giao phó quyền lực cho ai. […]

Tôi biết đức hạnh Hỉ xả của chúng ta không toàn vẹn như thế nào, và chúng ta vẫn còn cách xa lý tưởng như thế nào, nhưng trong Hỉ xả không có thắng hay bại. Vì thế, tôi tin rằng dù cho có khuyết điểm, nếu chuyện lớn thành thì bởi vì Thượng Đế muốn giúp chúng ta […].

Tôi tin rằng trong lịch sử thế giới chưa từng có một cuộc đấu tranh thực sự dân chủ như cuộc đấu tranh của chúng ta. Khi ở trong tù tôi đọc Nghị quyết Pháp của Carlyle[A] và Pandit Jawaharlal [Nehru] kể cho tôi đôi điều về cách mạng Nga. Nhưng tôi tin rằng các cuộc tranh đấu này được thực hiện bằng vũ khí bạo lực, họ không nhận ra lý tưởng dân chủ. Trong nền dân chủ mà tôi trù tính, một nền dân chủ được thành lập bởi bất bạo động, sẽ có tự do công bằng cho tất cả. Mọi người sẽ làm chủ chính mình. Ngày hôm nay tôi mời quý vị gia nhập cuộc đấu tranh như thế cho dân chủ. Khi nhận ra điều này, quý vị sẽ quên những khác biệt giữa tín đồ Ấn giáo và tín đồ Hồi giáo, mà chỉ nghĩ mình là người Ấn Độ, tham gia vào cuộc đấu tranh cho nền độc lập.

Và rồi, có câu hỏi về thái độ của quý vị với người Anh. Tôi nhận thấy dân ta thù hận người Anh. Họ bảo họ lấy làm kinh tởm với cách hành xử của người Anh. Họ không phân biệt giữa chủ nghĩa đế quốc Anh và nhân dân Anh. Đối với họ, cả hai là một. Thậm chí thù hận khiến cho họ hoan nghênh người Nhật. Đây là điều nguy hiểm nhất. Nó có nghĩa là họ thay chế độ nô dịch này bằng chế độ nô dịch kia. Chúng ta phải gạt bỏ cảm nghĩ đó. Chúng ta không tranh chấp với nhân dân Anh; chúng ta chỉ chống lại chủ nghĩa đế quốc của họ. Đề xuất triệt thoái quyền lực Anh quốc không xuất phát từ sự tức giận. Nó tạo cơ hội cho Ấn Độ hành xử quyền chính đáng của mình trong buổi giao thời gay cấn này. Đó không phải là một vị thế vui vẻ đối với một đất nước rộng lớn như Ấn Độ chỉ biết hân hoan hưởng thụ tiền bạc và vật chất dù muốn hay không từ họ trong khi các dân tộc thống nhất đang tiến hành chiến tranh. Chúng ta không thể vận dụng tinh thần hy sinh và dũng cảm khi nào mà chúng ta vẫn chưa được tự do. Tôi biết khi chúng ta có đủ tinh thần tự hy sinh thì Chính phủ Anh sẽ trao trả tự do cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải rũ bỏ thù hận.

Nói về mình thì tôi có thể khẳng định rằng tôi chưa bao giờ cảm thấy thù hận. Thực ra, bây giờ hơn lúc nào hết tôi tự cảm thấy mình là một người bạn của Anh quốc. Một lý do cho việc này là họ đang bị khủng hoảng. Vì thế, chính tình hữu nghị của tôi đòi hỏi tôi phải giúp họ tránh sa vào lỗi lầm. Khi tôi xem xét tình hình, họ đang đứng bên bờ vực thẳm. Vì thế, tôi cảm thấy có nhiệm vụ cảnh báo họ về mối hiểm nguy, cho dù trong lúc này tôi làm cho họ giận dữ đến mức chặt đứt bàn tay hữu nghị vươn ra để cứu họ. Người ta có thể cười, nhưng đó là sự thật. Đến lúc tôi phải phát động cuộc đấu tranh lớn lao nhất trong đời mình, tôi vẫn không thù hận ai cả.

Phần II

Sự đoàn kết Ấn giáo-Hồi giáo không phải là mới. Hàng triệu người Ấn giáo và người Hồi giáo tìm kiếm điều này. Tôi vẫn có chủ đích đóng góp vào điều này từ thời trai trẻ của mình. Khi còn đi học, tôi chú trọng đến việc nuôi dưỡng tình thân hữu giữa các sinh viên Hồi giáo và Parsi[B]. Ngay vào thời đó, tôi tin rằng nếu người Ấn giáo ở Ấn Độ muốn sống trong an bình và thân thiện với các cộng đồng khác, thì họ phải nỗ lực vun đắp phẩm giá của tình làng nghĩa xóm. Tôi nghĩ nếu tôi không nỗ lực vun đắp tình hữu nghị với người Ấn giáo thì chẳng sao cả, nhưng tôi phải kết bạn ít nhất với một số người Hồi giáo. Chính vì lời khuyên của một thương nhân Hồi giáo mà tôi đi Nam Phi. Ở đó, tôi kết bạn với những người Hồi giáo khác, ngay cả với những đối thủ của thân chủ tôi, và tôi được tiếng về sự chính trực và thành tâm. Tôi có nhiều người bạn và đồng nghiệp Hồi giáo cũng như Parsi. Họ mến tôi,, và cuối cùng khi tôi trở về Ấn Độ, họ buồn và rơi lệ vì sự chia xa.

Ở Ấn Độ, tôi tiếp tục nỗ lực và tìm mọi cách để vun đắp tình đoàn kết ấy. Chính vì ước vọng cả đời này mà tôi hợp tác toàn diện với người Hồi giáo trong phong trào Khilafat[C]. Người Hồi giáo khắp đất nước chấp nhận tôi là người bạn thực sự của họ,

Thế thì làm thế nào mà bây giờ tôi bị xem là người xấu xa và ghê tởm? Tôi có lợi lộc gì khi hậu thuẫn phong trào Khilafat hay sao? Đúng, trong thâm tâm tôi ấp ủ hy vọng là việc này có thể giúp tôi cứu lấy bò. Tôi là người thờ bò. Tôi tin rằng bò và tôi là cùng do Thượng Đế tạo ra, và tôi sẵn lòng hy sinh cuộc đời mình để cứu lấy bò. Nhưng, cho dù triết lý cuộc đời và hy vọng cuối cùng là gì đi nữa, tôi gia nhập phong trào mà không mặc cả điều gì. Tôi cộng tác với cuộc tranh đấu cho Khilafat chỉ nhằm thực hiện nghĩa vụ với người láng giềng mà tôi thấy họ đang đau khổ. […]

Trong những ngày ấy, tôi làm cho người Ấn giáo bị sốc vào thời gian dùng bữa tối mà bây giờ họ quen rồi. Tuy nhiên, Maulana Bari[D] nói với tôi rằng ông ấy không cho phép tôi dùng bữa với ông, kẻo một ngày ông sẽ bị kết án là có động cơ xấu xa. Thế là, mỗi lần tôi có dịp ở lại, ông ấy gọi một người đầu bếp để nấu riêng rẽ. [Gandhi tiếp tục thêm chi tiết về các mối quan hệ tốt khác giữa ông và người Hồi giáo trong quá khứ, và khẳng định ông không có ý đồ gì với người Hồi giáo và không bao giờ làm hại đến lợi ích của họ] Đời tôi hoàn toàn do họ quyết định. Mỗi khi họ muốn kết thúc cuộc đời tôi thì họ có toàn quyền định đoạt. Trong quá khứ tôi bị nhiều vụ tấn công, nhưng cho đến giờ Thượng Đế cứu rỗi cho tôi, và những người tấn công tôi lấy làm ân hận vì hành động của họ. Nhưng nếu có ai đó bắn tôi vì tin rằng anh ta muốn trừ khử một kẻ bất lương, thì anh ta không phải là giết con người Gandhi thực, mà giết một kẻ có vẻ như là bất lương đối với anh ta.

Đối với những người can dự vào một chiến dịch lăng mạ và phỉ báng, tôi muốn nói rằng “Hồi giáo dạy quý vị không được phỉ báng kẻ thù. Thậm chí nhà Tiên tri còn đối đãi kẻ thù một cách tử tế và cố lấy lòng họ bằng tính công minh và độ lượng. Có phải quý vị theo lời dạy của Hồi giáo như thế hoặc lời dạy gì khác? Nếu quý vị theo lời dạy của Hồi giáo đích thực, có phải quý vị không còn tin nơi lời của người công bố đức tin của ông ta? Một ngày nào đó quý vị có thể thấy tiếc vì không tin nơi tôi và giết một người bạn đích thực và hết lòng với quý vị.” […]

Đối với vị Lãnh tụ Vĩ đại[E], tôi muốn nói: Bất kỳ điều gì có thực và đúng lý trong việc đòi độc lập cho Pakistan đều nằm trong tay của ngài. Điều sai trái và không đứng vững thì không phải là quà tặng của ai cả, nên nó có thể được giao cho ngài. Cho dù ai đó có thể áp đặt điều giả dối lên người khác, họ sẽ không thể hưởng lâu thành quả của sự áp bức ấy. Thượng Đế không thích sự tự phụ và tránh xa nó. Thượng Đế sẽ không dung thứ việc áp đặt điều giả dối.

Lãnh tụ Vĩ đại nói ông ấy bắt buộc phải nói ra sự bất mãn chỉ vì chẳng đặng đừng mà tỏ lộ cảm nghĩ. Tương tự, tôi muốn nói: “Tôi xem mình như là bạn của người đạo Hồi. Thế thì tại sao tôi không nói ra tâm tư của mình, ngay cả nếu làm phật lòng họ? Làm thế nào tôi che giấu được ý nghĩ sâu kín của tôi? Tôi muốn có lời khen Lãnh tụ thẳng thắn tỏ lộ ý nghĩ và cảm tưởng của ông ấy, cho dù có vẻ cay đắng với người nghe. Nhưng dù là như thế, nếu những người Hồi giáo ở đây không ủng hộ ông thì tại sao lại trách mắng họ? Nếu hàng triệu người Hồi giáo ủng hộ ông, liệu ông không thể phớt lờ một số ít người Hồi giáo mà ông thấy họ có vẻ như lầm lạc hay sao? […]

Đảng Quốc Đại tin rằng chỉ bất bạo động mới có thể mang đến kết quả là nền dân chủ thực sự. Cơ cấu của một liên minh rộng mở chỉ có thể được xây dựng dựa trên nền tảng bất bạo động, và bạo động phải được từ bỏ hoàn toàn khỏi các sự vụ của thế giới. Nếu điều này là đúng thì vấn đề Ấn giáo-Hồi giáo không thể được giải quyết bằng cách dựa trên bạo lực. Nếu người Ấn giáo áp bức người Hồi giáo thì họ còn mặt mũi nào mà nói đến một liên minh rộng mở? Chính vì lý do này mà tôi không tin vào khả năng của việc thành lập hòa bình rộng mở qua bạo lực như các chính khách Anh và Mỹ đề xuất. Đảng Quốc Đại đồng ý đưa tất cả xung khắc ra một tòa án quốc tế trung lập và tuân theo phán quyết của họ. Nếu đề xuất công bằng nhất này không được chấp nhận thì con đường duy nhất còn lại là thanh gươm của bạo lực. Làm thế nào tôi có thể tự thuyết phục cho điều bất khả này? Đòi hỏi chia cắt sống một sinh linh là đòi hỏi lấy mạng sống của nó. Đó là tiếng gọi chiến tranh. Đảng Quốc Đại không thể tham gia vào cuộc chiến tranh tương tàn như thế. […]

Có nhiều điều trong tâm tư mà tôi muốn bộc lộ trước hội nghị này. Điều quan trọng nhất trong con tim thì tôi đã trình bày. Quý vị có thể tin rằng đó là điều sống chết đối với tôi. Nếu những người Ấn giáo và Hồi giáo chúng ta có ý muốn một liên minh thực lòng, mà không thiên vị chút nào ở bên này hoặc bên kia, thì chúng ta phải liên minh trong nỗ lực nhằm thoát khỏi gông xiềng từ đế quốc này. Nếu Pakistan sau cùng là một phần của Ấn Độ, thì có lý do nào ngăn cản người Hồi giáo tham gia cuộc đấu tranh này cho nền tự do của Ấn Độ? Vì thế, người Ấn giáo và người Hồi giáo trước nhất phải đoàn kết trong việc tranh đấu cho tự do. Ông Jinnah nghĩ cuộc chiến sẽ kéo dài lâu. Tôi không đồng ý với ông ấy. […]

Vì thế, tôi muốn có tự do lập tức, ngay tối nay, trước khi trời sáng, nếu có thể được. Bây giờ tự do không thể chờ việc thực hiện hòa hợp cộng đồng. Nếu không đạt được hòa hợp ấy, thì sẽ cần hy sinh nhiều hơn. Nhưng Đảng Quốc Đại phải giành được tự do, nếu không sẽ bị xóa sổ trong nỗ lực này. Và nên nhớ rằng tự do mà Quốc Đại đang tranh đấu giành lấy không phải chỉ cho đảng viên Quốc Đại, mà là cho toàn dân Ấn. Quốc Đại vẫn luôn là công bộc khiêm tốn của toàn dân.

Lãnh tụ Vĩ đại nói Liên đoàn Hồi giáo sẵn sàng tiếp nhận quyền lãnh đạo từ người Anh nếu Anh sẵn sàng chuyển giao cho Liên đoàn Hồi giáo, vì lẽ người Anh chiếm lấy đế quốc từ tay người Hồi giáo. Tuy nhiên, đó sẽ là chính quyền Hồi giáo. Đề xuất của chúng tôi không phải là sự thành lập chính quyền do người Hồi giáo thống trị. Quốc Đại không tin vào sự thống trị của bất kỳ phe nhóm nào hoặc bất kỳ cộng đồng nào. Quốc Đại tin vào chế độ dân chủ trong đó các tín đồ Hồi giáo, Ấn giáo, Kitô giáo, người Parsi[F], Do Thái giáo – tất cả cộng đồng sinh sống trên đất nước bao la này. Nếu không tránh khỏi chính quyền Hồi giáo thì phải chấp nhận; nhưng làm thế nào chúng tôi có thể đóng dấu chuẩn y ngay từ đầu? Làm thế nào chúng tôi đồng ý với việc một cộng đồng thống trị những cộng đồng khác?

Hàng triệu người Hồi giáo trên đất nước này xuất thân từ dân Ấn. Làm thế nào quê hương của họ khác hơn là đất Ấn? Mấy năm trước, con trai trưởng của tôi chọn theo Hồi giáo. Liệu quê hương của nó là ở nơi đâu – Porbandar hay Punjab[G]? Tôi hỏi những người Hồi giáo: “Nếu Ấn Độ không phải là quê hương của các bạn, thì các bạn thuộc về quê hương nào? Các bạn sẽ đặt con trai tôi theo Hồi giáo trong quê hương riêng rẽ nào?” Mẹ nó viết thư cho tôi sau việc đổi đạo này, hỏi nó nếu đổi qua Hồi giáo thì nó kiêng uống rượu hay không, bởi vì Hồi giáo cấm việc này. Đối với những người hả hê vì việc đổi đạo, bà ấy viết: “Nếu nó theo Hồi giáo thì tôi không phiền như việc nó uống rượu. Người Hồi giáo sùng đạo các bạn dung tha việc nó uống rượu sau khi cải đạo hay không? Nó trở thành một người bê tha vì uống rượu. Nếu các bạn giúp nó trở lại là con người tốt thì việc nó cải đạo là tốt. Vì thế, các bạn vui lòng giúp cho nó xa lánh rượu và phụ nữ. Nếu nó không thay đổi như thế thì việc cải đạo là vô ích, và chúng tôi sẽ tiếp tục không hợp tác với nó.”

Chắc chắn Ấn Độ là quê hương của tất cả tín đồ Hồi giáo sống trên đất nước này. Vì thế mọi tín đồ Hồi giáo nên cộng tác trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ. Đảng Quốc Đại không thuộc về giai cấp hoặc cộng đồng nào; nó thuộc về toàn đất nước. Nó rộng mở đối với người Hồi giáo để nhận lấy Quốc Đại. Nếu muốn, họ có thể chiếm đa số trong Đảng Quốc Đại và có thể lèo lái đảng này theo con đường của họ. Quốc Đại đấu tranh không phải nhân danh người Ấn giáo mà nhân danh toàn dân, kể cả các dân tộc thiểu số. Khi nghe chỉ một trường hợp của một người Hồi giáo bị một đảng viên Quốc Đại giết, tôi rất lấy làm đau lòng. Trong cuộc cách mạng sắp tới, các đảng viên Quốc Đại phải hy sinh mạng sống của mình đế bảo vệ người Hồi giáo chống lại cuộc tấn công của người Ấn giáo, và ngược lại. Đó là một phần tín điều của họ, là một trong những điểm thiết yếu trong nguyên tắc bất bạo động. […]

Tôi đã nói rằng lần này sẽ cần hy sinh lớn lao vì sự chống đối của Liên đoàn Hồi giáo và của người Anh. Các bạn đã thấy thông tư bí mật do Sir Frederick Puckle[H] phát hành. Ông này làm như thế là tự sát. Thông tư này kích động các tổ chức mọc lên như nấm nhằm hợp lực chống lại Quốc Đại. Vì thế chúng tôi phải đối phó với một đế quốc có cách hành xử thiếu chân thật. Cách hành xử của chúng tôi là ngay thẳng đến mức chúng tôi có thể nhắm mắt mà đi. […]

Trong sức mạnh của chân lý, không có chỗ cho bất kỳ sự lừa gạt hay dối trá nào. Hiện giờ lừa gạt và dối trá đang rình rập thế giới. Tôi không thể nào làm nhân chứng bất lực cho tình trạng này. Tôi đã đi khắp các miền trên Ấn Độ mà có lẽ không ai ở độ tuổi của tôi đã đi nhiều như thế. Hàng triệu người không có tiếng nói trên đất nước xem tôi là người bạn và người đại diện, và tôi đồng hóa mình với họ đến mức có thể được. Tôi thấy niềm tin trong ánh mắt của họ, mà bây giờ tôi muốn dựa vào đó để tranh đấu chống lại đế quốc này dựa trên dối trá và bạo lực. Cho dù đế quốc có những chuẩn bị to tát đến đâu, chúng ta phải thoát ra khỏi gông cùm của họ. Làm thế nào tôi vẫn lặng im trong thời khắc cao cả này? Nếu ngày hôm nay tôi vẫn im lặng và bất động, Thượng Đế sẽ trừng phạt tôi vì đã không vận dụng kho báu của Người giữa cơn xung đột đang bao trùm thế giới. Nếu điều kiện có khác đi thì tôi hẳn đã yêu cầu quý vị chờ đợi một thời gian. Nhưng tình hình hiện nay trở nên không còn chịu đựng được nữa, và Quốc Đại không còn có cách nào khác.

Tuy thế, vào lúc này cuộc đấu tranh thực sự chưa bắt đầu. Quý vị chỉ mới đặt quyền hạn vào tay tôi. Bây giờ tôi chờ đợi vị Phó vương và van nài ông chấp nhận yêu cầu của Quốc Đại. Tiến trình này có thể mất hai hoặc ba tuần. Trong lúc đó, quý vị sẽ làm gì? Chương trình cho mọi người tham gia là như thế nào? Như quý vị đã biết, guồng dệt vải là món đầu tiên mà tôi nghĩ tới. Tôi trả lời vị Lãnh tụ theo cùng cách thức. Ông ấy không chấp nhận, cho dù sau này ông hiểu được tầm quan trọng của nó. Dĩ nhiên là chương trình xây dựng gồm 14 điểm là để cho các bạn thực hiện. Liệu các bạn làm được gì thêm? Để tôi nói cho các bạn rõ. Từ lúc này trở đi, mỗi người trong các bạn nên tự xem mình là một người tự do, và hành xử như thể mình được tự do chứ không còn nằm dưới gót giầy của chủ nghĩa đế quốc.

Đó không phải là chuyện hoang đường mà tôi kể cho các bạn. Đó là điều cốt lõi của tự do. Gông xiềng nô dịch đứt gãy vào lúc con người xem như mình có tự do. Anh ta chỉ việc bảo người chủ: “Từ trước đến giờ tôi đã là nô lệ của ông, nhưng bây giờ tôi không còn là nô lệ nữa. Ông có thể giết tôi nếu muốn, nhưng nếu ông giữ cho tôi sống thì tôi muốn nói với ông là nếu ông tự nguyện trả tự do cho tôi, rồi tôi sẽ không yêu cầu ông điều gì nữa cả. Ông đã từng cho tôi cái ăn cái mặc, dù tôi có thể tự nuôi sống bằng sức lao động của mình. Cho đến giờ, tôi đã lệ thuộc vào ông thay vì lệ thuộc vào Thượng Đế. Nhưng bây giờ Thượng Đế đã truyền cảm hứng cho tôi về tự do, và ngày hôm nay tôi là người tự do chứ không còn lệ thuộc vào ông nữa.”

Các bạn có thể tin lời tôi nói rằng tôi sẽ không thỏa hiệp với Phó vương về các chức bộ trưởng và đại loại như vậy. Tôi sẽ không thỏa mãn với bất kỳ điều gì kém hơn là tự do. Có lẽ ông ấy sẽ đề nghị xóa bỏ thuế muối, thuế rượu, vân vân. Nhưng tôi sẽ nói: “Không có gì khác hơn tự do.”

Đây là câu châm ngôn, một câu ngắn gọn, mà tôi muốn đưa ra cho các bạn. Các bạn có thể ghi lòng tạc dạ câu này và hãy kèm theo câu châm ngôn này trong mỗi lời các bạn thốt ra. Châm ngôn đó là: “Hãy hành động hay là chết”. Chúng ta hoặc là giải phóng Ấn Độ hoặc là chịu hy sinh; chúng ta sẽ không sống mà nhìn chế độ nô lệ trường tồn. Mỗi đàn ông hoặc phụ nữ đảng viên Quốc đại sẽ gia nhập cuộc tranh đấu với lòng kiên trì không dời đổi mà không chịu sống để nhìn đất nước trong nô dịch. Chúng ta hãy lấy đó là lời thệ nguyện. Hãy loại bỏ hình ảnh nhà tù ra khỏi đầu óc. Nếu Chính phủ giữ cho tôi tự do, tôi sẽ không bắt Chính phủ phải chịu gánh nặng vì số lớn tù nhân khi tình hình biến động. Từ giờ trở đi, mỗi đàn ông và phụ nữ sống từng khoảnh khắc của mình với ý thức rằng mình ăn và sống để giành lấy tự do và hy sinh, nếu cần, nhằm đạt đến mục tiêu đó. Hãy cam kết – với Thượng Đế và lương tâm của các bạn chứng giám – rằng các bạn sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi giành được độc lập và sẽ sẵn sàng hy sinh thân mình trong khi nỗ lực giành độc lập. Người mất đi mạng sống của mình sẽ được nhận cuộc sống; người muốn cứu mạng sống sẽ mất mạng. Tự do không phải cho người hèn nhát hoặc người yếu lòng.

Tôi có lời muốn nói với các nhà báo. Tôi cảm ơn các bạn vì sự hậu thuẫn cho đến giờ các bạn giành cho yêu sách quốc gia. Tôi hiểu rõ những hạn chế mà các bạn phải chịu đựng. Nhưng bây giờ tôi yêu cầu các bạn tháo bỏ gông xiềng đang kềm cặp các bạn. Đi đầu và nêu gương khi hiến thân mình cho tự do là ân huệ đáng hãnh diện của các tờ báo.

Các bạn có ngòi bút mà Chính phủ không thể trấn áp. Tôi biết các bạn có những tài sản lớn dưới dạng máy in, vân vân, và các bạn hẳn e sợ Chính phủ có thể tấn công những tài sản đó. Tôi không yêu cầu các bạn tình nguyện kết nối công việc với máy in. Bản thân tôi không trấn áp ngòi bút của mình cho dù máy in bị tấn công. Như các bạn biết, trong quá khứ máy in của tôi bị tấn công và sau đó được trả lại. Nhưng tôi không yêu cầu các bạn phải hy sinh đến thế. Tôi đề nghị cách trung gian. Bây giờ các bạn nên triệu tập ủy ban của mình, và các bạn có thể tuyên bố các bạn chỉ treo bút khi Ấn Độ giành được độc lập. Các bạn có thể bảo Sir Frederick Puckle rằng ông ấy không thể trông chờ cách làm việc theo mệnh lệnh, rằng máy in của ông ấy đưa ra toàn những sai lạc mà các bạn từ chối đăng tải. Các bạn cần tuyên bố công khai rằng các bạn hoàn toàn ủng hộ Quốc Đại. Nếu làm thế, các bạn sẽ thay đổi tình thế trước khi cuộc tranh đấu thực sự bắt đầu.

Đối với các Tiểu Vương[I], tôi trân trọng yêu cầu một việc rất nhỏ nhoi. Tôi là người có hảo tâm đối với các Tiểu Vương. Tôi được sinh ra từ một Bang. Ông nội tôi từ chối chào bằng tay phải tất cả Tiểu Vương ngoại trừ Tiểu Vương của ông. Nhưng ông không nói với Tiểu Vương của mình – mà tôi nghĩ đáng lẽ ông nên nói ra – rằng ngay cả quân vương của ông vẫn không thể bắt ông làm trái với lương tâm của mình. Tôi đã ăn muối của Tiểu Vương tôi và tôi sẽ không phụ lại việc này. Vì là một thần dân trung thành, tôi có nghĩa vụ phải cảnh báo các Tiểu Vương rằng nếu họ hành động trong khi tôi còn sống, thì các Tiểu Vương sẽ có một chỗ đứng danh dự trên đất nước Ấn Độ tự do. Trong kế hoạch của Jawaharlal [Nehru], không có giai cấp đặc quyền đặc lợi nào. Jawaharlal xem tất cả tài sản là thuộc về Quốc gia. Ông ấy muốn có một nền kinh tế theo kế hoạch. Ông ấy muốn tái thiết Ấn Độ theo kế hoạch. […] Tôi xin yêu cầu tất cả các Tiểu Vương hãy vui vẻ quên thân mình. Các Tiểu Vương có thể từ chối quyền làm chủ tài sản của mình và trở thành người quản lý những tài sản đó theo đúng ý nghĩa. Tôi hình dung Thượng Đế ở trong quần chúng. Các Tiểu Vương có thể nói với thần dân của họ: “Các người là chủ sở hữu và là chủ nhân của Quốc gia còn chúng tôi là công bộc của các người”.

Tôi xin yêu cầu các Tiểu Vương trở thành công bộc của nhân dân và phụng sự nhân dân. Đế quốc cũng ban quyền hạn cho các Tiểu Vương, nhưng các Tiểu Vương nên nhận quyền hạn từ nhân dân; và nếu họ muốn hưởng những thú vui vô hại thì họ hãy vui hưởng như là những công bộc của nhân dân. Tôi không muốn các Tiểu Vương sống bần cùng. Nhưng tôi muốn hỏi họ: “Quý vị muốn làm nô lệ mãi mãi hay sao? Tại sao quý vị không chấp nhận chủ quyền của thần dân mình mà lại quỵ lụy nước ngoài?” Quý vị có thể viết cho Cục Cảnh sát: “Nhân dân bây giờ đã thức tỉnh. Làm thế nào chúng ta cưỡng lại cao trào trước khi đế quốc hùng mạnh tan rã? Vì thế, bắt đầu từ ngày hôm nay chúng thuộc về nhân dân. Chúng tôi sẽ bơi cùng với họ hoặc chết đuối theo họ.” Hãy tin tôi đi, không có gì là vi hiến trong tiến trình tôi đang đề xuất. Theo tôi được biết, không có hiệp ước nào cho phép đế quốc cưỡng bách các Tiểu Vương. Nhân dân của các Bang cũng sẽ tuyên cáo rằng dù họ là thần dân của các Bang, họ là một phần của dân tộc Ấn Độ và họ sẽ chấp nhận sự lãnh đạo của Tiểu Vương nếu Tiểu Vương ngả về phía nhân dân, Tiểu Vương sẽ chấp nhận cái chết một cách anh dũng mà không nao núng, nhưng sẽ không nuốt lời.

Tuy nhiên, không nên làm việc gì mờ ám. Đây là cuộc nổi dậy công khai. Trong cuộc tranh đấu này, bí mật là một cái tội. […]

Tôi cũng có lời muốn nói với các công chức của Chính phủ. Nếu muốn, họ không cần phải từ chức. Cố thẩm phán Ranade không từ chức, nhưng ông ấy công khai tuyên bố rằng ông thuộc về Đảng Quốc Đại. Ông ấy bảo Chính phủ rằng tuy ông ấy là thẩm phán, ông ấy là Đảng viên Quốc Đại và sẽ công khai tham dự các phiên họp của Quốc Đại, nhưng cùng lúc ông ấy sẽ không để quan điểm chính trị của mình làm méo mó sự công minh của ông ấy trong tòa án. […] Tôi yêu cầu tất cả công chức của Chính phủ noi gương Ranade và tuyên bố sự trung thành với Quốc Đại như là câu trả lời cho thông tư bí mật do Sir Frederick Puckle phát hành.

Đấy là tất cả những gì tôi yêu cầu quý vị bây giờ. Tôi sẽ viết thư cho Toàn quyền. Quý vị sẽ đọc được thư này khi tôi cho đăng tải với sự đồng ý của Toàn quyền. Nhưng quý vị có quyền tự do mà nói rằng quý vị ủng hộ yêu sách được nêu trong thư của tôi. Một thẩm phán tìm đến và nói: “Chúng tôi nhận được thông tư bí mật từ cấp cao. Chúng tôi phải làm sao?” Tôi trả lời: “Nếu tôi ở vào địa vị của ông, tôi phớt lờ các thông tư. Ông có thể nói công khai với Chính phủ: ‘Tôi nhận được thông tư bí mật. Tuy nhiên, tôi thuộc Quốc Đại. Cho dù tôi phục vụ Chính phủ vì miếng cơm manh áo, tôi sẽ không tuân theo các thông tư bí mật hoặc sử dụng cách thức mờ ám.”

Binh sĩ cũng nằm trong chương trình hiện tại. Tôi không yêu cầu họ bây giờ phải từ chức và xin xuất ngũ. Các binh sĩ tìm đến tôi, Jawaharlal [Nehru], và vị Lãnh đạo Hồi giáo mà nói: “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ các ông. Chúng tôi quá chán ngán với sự chuyên chế của Chính phủ.” Tôi trả lời các binh sĩ này: “Các bạn có thể nói với Chính phủ ‘Con tim chúng tôi thuộc về Quốc Đại. Chúng tôi sẽ không rời bỏ hàng ngũ. Chúng tôi sẽ phục vụ Chính phủ khi nào mà chúng tôi còn nhận đồng lương. Chúng tôi sẽ tuân theo mệnh lệnh đúng lý, nhưng sẽ từ chối bắn giết nhân dân chúng tôi’.”

Đối với những người không có dũng khí để hành động như thế thì tôi không có gì để nói. Họ sẽ đi theo con đường của họ. Nhưng nếu các bạn thể hiện hành động như thế, các bạn có thể tin lời tôi nói là cả tình thế sẽ được kích hoạt. Hãy để cho Chính phủ trút bom đạn, nếu họ muốn. Nhưng không quyền lực nào trên trái đất có thể xiềng xích các bạn nữa.

Nếu các sinh viên muốn gia nhập cuộc đấu tranh chỉ để quay lại học tập sau một thời gian ngắn, thì tôi không muốn họ làm như thế. Vào lúc này, cho đến khi tôi hoạch định chương trình đấu tranh, tôi yêu cầu sinh viên nói với giáo sư của họ: “Chúng tôi thuộc về Quốc Đại, thầy cô không cần phải từ chức. Thầy cô cứ tiếp tục giảng dạy cho chúng tôi và dẫn chúng tôi đến tự do”. Trong tất cả các cuộc tranh đấu cho tự do trên toàn thế giới, sinh viên đóng góp vai trò quan trọng.

Tôi có nhiều điều muốn nói. Nhưng tâm tư tôi quá nặng nề. Tôi đã chiếm nhiều thời giờ của quý vị. Tôi cần phải phát biểu đôi lời bằng tiếng Anh. Tôi cảm ơn sự kiên nhẫn và chăm chú mà quý vị lắng nghe tôi vào giờ giấc trong đêm khuya như thế này. Đấy là điều mà chiến sĩ thực sự thể hiện. Trong 22 năm qua, tôi kiểm soát câu từ, ngòi bút và tích lũy năng lượng. […] Bây giờ tôi đã trao thông điệp cho quý vị, và qua quý vị tôi truyền thông điệp cho toàn Ấn Độ.

Phần III

Tôi đã chiếm thời giờ quá nhiều mà bộc bạch những gì khuấy động trong tâm tư tôi với những người mà bây giờ tôi có đặc ân được phụng sự. Tôi được kêu gọi làm lãnh đạo của họ, hoặc theo ngôn từ quân sự thì là tư lệnh của họ. Nhưng tôi không nhìn cương vị của mình qua khía cạnh đó. Tôi không có vũ khí, mà chỉ có tình yêu thương để thể hiện quyền năng của mình. Tôi không vung vẩy một cây gậy mà quý vị không cần sức mạnh cũng đánh gãy được thành từng mảnh. Đấy chỉ là cây gậy chống để tôi đi đứng. Tôi không lấy làm tự hào vì sự tàn phế này, khi tôi được kêu gọi đảm nhận lấy gánh nặng to tát nhất. Các bạn có thể chia sẻ gánh nặng này chỉ khi nào tôi đứng trước các bạn không phải là tư lệnh, mà là tôi tớ khiêm tốn. Và người phụng sự tốt nhất là những đi đầu giữa những người bình đẳng với nhau.

Vì thế, tôi muốn chia sẻ với các bạn những ý nghĩ tràn ngập trong tâm tư tôi và nói với các bạn, theo cách thức ngắn gọn có thể, những gì tôi mong đợi các bạn thực hiện như là bước đầu.

Tôi cần phải nói ngay với các bạn là cuộc đấu tranh thực sự chưa bắt đầu ngày hôm nay. Tôi chưa làm qua các nghi thức theo như cách tôi vẫn làm. Tôi phải nhìn nhận rằng gánh nặng thực sự là khó kham được. Tôi phải tiếp tục sử dụng lý lẽ đối với những người mà tôi mất lòng tin. Tôi biết trong vài tuần lễ qua tôi mất tín nhiệm với nhiều thân hữu, đến nỗi họ bắt đầu nghi ngờ không những trí khôn của tôi mà cả lòng chân thật của tôi. Bây giờ tôi thấy trí khôn không phải là tài sản vô giá đến nỗi tôi phải giữ cho bằng được; nhưng lòng chân thật thì đúng là tài sản vô giá mà tôi không thể đánh mất. Tuy vậy, có vẻ như trong lúc này tôi tạm thời đánh mất nó.

Thân hữu của Đế quốc

Có những cơ hội xảy đến trong đời của người muốn đi tìm công lý, muốn phụng sự nhân loại và đất nước với năng lực tốt nhất của ông ấy mà không lo sợ và không đạo đức giả. Trong 50 năm qua, tôi không biết đến con đường nào khác. Tôi là đầy tớ khiêm tốn của nhân loại và hơn một lần tôi cống hiến theo cách có thể được với Đế quốc. Ở đây tôi muốn nói, mà không sợ bị phản bác, rằng suốt cuộc đời mình tôi chưa từng cầu xin ân huệ cá nhân nào. Từ trước đến giờ tôi vẫn có quan hệ tốt đẹp với Lord Linlithgow[J]. Tình thân hữu vượt quá mức quan hệ chính thức. Liệu Lord Linlithgow đồng tình với tôi không thì tôi không biết, nhưng có mối dây cá nhân giữa ông ấy và tôi. […] Tôi kể về mối quan hệ này nhằm cho thấy quan hệ cá nhân sẽ không bao giờ ngáng trở cuộc đấu tranh kiên trì mà nếu tôi phải lấy quyết định thì tôi sẽ chống lại Lord Linlithgow, là người đại diện cho Đế quốc. Tôi sẽ phải chống lại sức mạnh của Đế quốc đó bằng sức mạnh của hàng triệu người thầm lặng mà không bị hạn chế gì ngoại trừ tính bất bạo động như là chính sách trong cuộc tranh đấu này. Quả là đau khổ khi phải chống lại vị Phó vương mà tôi có mối quan hệ tốt đẹp. […]

Charlie Andrews

Và rồi có hoài niệm thiêng liêng của Charlie Andrews[K] lấp đầy tâm tưởng tôi. Vào lúc này, linh hồn của ông lơ lửng trên tôi. Vì lẽ ông ấy là hiện thân cho những truyền thống tươi sáng nhất của nền văn hóa Anh quốc. Tôi có mối quan hệ với ông gần gũi hơn so với bất kỳ người Ấn Độ nào khác. Giữa hai chúng tôi không có điều gì là bí mật. Chúng tôi tâm sự với nhau hằng ngày. Bất kỳ điều gì chất chứa trong tim, ông ấy đều thổ lộ mà không chút ngại ngần hoặc che giấu. […]

Thế rồi tôi nhận được một bức thư nhiệt liệt chúc mừng từ Thành phố Calcutta. Tôi cho rằng ông ấy là người của Trời. Ngày hôm nay ông ấy chống lại tôi.

Tiếng nói của lương tâm

Trong bối cảnh này, tôi muốn tuyên cáo với thế giới, cho dù tôi có thể phải bỏ qua tình cảm đối với nhiều người bạn ở phương Tây và tôi phải cúi đầu chấp nhận; nhưng thậm chí với tình thân hữu hoặc tình thương của họ tôi vẫn không muốn trấn áp tiếng nói của lương tâm – ngày hôm nay thúc đẩy bản chất gốc nội tại của tôi. Có cái gì đó trong tôi thúc giục tôi phải cất tiếng tỏ lộ nỗi đau đớn của mình. Tôi biết tính nhân văn. Tôi học đôi điều về tâm lý học. Một người như thế biết rõ nó là cái gì. Tôi không màng quý vị mô tả nó ra sao. Tiếng nói trong nội tâm bảo tôi: “Bạn phải đứng lên chống lại thiên hạ cho dù bạn phải đứng một mình. Bạn phải nhìn thẳng vào mắt của thiên hạ cho dù thiên hạ nhìn lại bạn bằng cặp mắt tóe máu. Đừng e sợ. Hãy tin nơi tiếng thầm thì trong nội tâm của bạn. Tiếng nói ấy bảo: “Hãy quên bạn bè đi, quên vợ và nhiều người khác; nhưng quên tất cả đi; hãy biểu lộ đối với họ vì đó mà những gì bạn sống và vì đó mà bạn sẵn sàng chết vì nó. Tôi muốn sống trọn vẹn cuộc đời của mình. Và vì mình, tôi định vòng đời của mình là 120 năm. Vào lúc ấy Ấn Độ sẽ được tự do, thế giới sẽ được tự do..”

Tự do đích thực

Tôi muốn nói với quý vị rằng tôi không xem Anh quốc hoặc Hoa Kỳ là hai nước tự do. Họ được tự do theo cung cách riêng của họ: tự do áp bức các dân tộc da màu của trái đất. Có phải ngày hôm nay Anh quốc và Hoa Kỳ đang chiến đấu cho tự do vì các dân tộc đó hay không? Nếu không, đừng yêu cầu tôi chờ cho đến khi chiến tranh kết thúc. Quý vị không nên hạn chế ý tưởng của tôi về tự do. Các nhà giáo Anh và Mỹ, lịch sử của họ, thơ văn hoa mỹ của họ không nói rằng quý vị không được mở rộng sự diễn giải về tự do. Và theo sự diễn giải của tôi về tự do đó, tôi bắt buộc phải nói rằng họ không hiểu gì về nền tự do mà các thầy giáo và các nhà thơ của họ miêu tả. Nếu họ thông hiểu tự do đích thực thì họ phải đến Ấn Độ. Họ phải đến không phải với thói kiêu hãnh hoặc kiêu ngạo, mà họ phải đi tìm công lý. Đó là công lý cơ bản mà Ấn Độ kinh qua trong 22 năm.

Quốc Đại và bất bạo động

Trong tiềm thức từ nền tảng thời xa xưa, Quốc Đại xây dựng nên bất bạo động như là phương pháp lập hiến. […] Tôi phải nhìn nhận có những kẻ đi ngược đường lối trong hàng ngũ đảng viên Quốc Đại chúng ta. Nhưng tôi tin tưởng ngày hôm toàn dân tộc Ấn Độ phát động một cuộc đấu tranh bất bạo động. Tôi tin tưởng bởi vì bản chất của tôi là dựa trên tính bổn thiện trong nội tại của con người vốn nhận thức được công lý và theo bản năng vượt qua khủng hoảng. Nhưng cho dù trong việc này tôi bị lừa dối, tôi vẫn không chuyển hướng. Tôi sẽ không giao động. […]

Tôi sẽ xông lên

Tuy nhiên, dựa theo tất cả những điều ấy mà tôi muốn người Anh, người Châu Âu và toàn thể các dân tộc thống nhất hãy rà soát tâm tư của họ để xét xem Ấn Độ đã phạm tội gì khi đòi hỏi độc lập. Tôi muốn hỏi: quý vị có đúng lý không khi nghi ngờ một tổ chức như thế với tất cả cơ sở, truyền thống và thành tích trên nửa thế kỷ, để rồi diễn dịch sai lạc những nỗ lực của họ trước toàn thế giới dựa theo mọi phương tiện trong tay mình? Có đúng lý không khi bằng trăm phương nghìn kế, được giới truyền thông nước ngoài hậu thuẫn, được Tổng thống Hoa Kỳ hậu thuẫn, hoặc thậm chí được hậu thuẫn bởi cái ông Thống chế của Trung Hoa[L] vốn chưa tạo được thành tích gì, mà quý vị lại thể hiện cuộc tranh đấu của Ấn Độ trong hí họa gây sốc?

Tôi đã gặp Thống chế. Tôi được quen biết ông qua Bà Thạch[M], người làm thông dịch cho tôi; và cho dù đối với tôi ông có vẻ khó hiểu, Bà Thạch thì không như thế; ông ấy cho phép tôi đọc được tâm tư của ông ấy qua bà. Khắp thế giới ồn ào những tiếng nói bác bỏ và phản đối đúng lý chống lại chúng tôi. Họ bảo chúng tôi nhầm lẫn, cuộc tranh đấu là không hợp thời. Tôi tôn trọng nền ngoại giao của Anh vốn cho phép họ giữ vững Đế quốc được lâu dài như thế. Bây giờ nó thối tha đầy mũi tôi, và những người khác nghiên cứu nền ngoại giao này mà đem ra áp dụng. Qua cách này, trong một thời gian họ có thể thành công khi tranh thủ dư luận thế giới về phía họ; nhưng Ấn Độ sẽ lên tiếng chống lại dư luận thế giới đó. Ấn Độ sẽ cất tiếng nói chống lại tất cả các luận điệu tuyên truyền có tổ chức. Tôi sẽ lên tiếng chống lại. Cho dù tất cả các dân tộc thống nhất chống lại tôi, cho dù toàn dân Ấn Độ bỏ rơi tôi, tôi sẽ nói: “Quý vị lầm. Bằng cách bất bạo động, Ấn Độ sẽ giành lấy tự do từ những bàn tay miễn cưỡng.” Tôi sẽ tiến lên không chỉ vì Ấn Độ, mà còn vì cả thế giới. Cho dù tôi nhắm mắt trước khi có tự do, bất bạo động vẫn tiếp diễn. Họ sẽ giáng một cú chí tử cho Trung Hoa và Nga nếu hai nước này chống lại tự do của Ấn Độ bất bạo động đang uốn gối đòi lại món nợ từ lâu chưa trả. Liệu người cho vay đã từng đối xử với con nợ như thế hay không? Và cho dù Ấn Độ gặp phải sự chống đối giận dữ, họ vẫn nói: “Chúng tôi sẽ không đấm dưới thắt lưng[N], chúng tôi học được phong thái quân tử. Chúng tôi cam kết bất bạo động.” Tôi là tác giả của chính sách không làm cho ai xấu hổ, thế mà ngày hôm nay quý vị nghe tôi dùng lời lẽ mạnh bạo như thế này. Tôi nói nó tương ứng với danh dự của chúng ta. Nếu một người nắm lấy cổ tôi mà muốn vật tôi xuống, thì liệu tôi có nên tìm cách thoát ra hay không? Không có gì thiếu nhất quán trong quan điểm của chúng tôi ngày hôm nay.

Kêu gọi tới các dân tộc thống nhất

Có những đại diện báo chí nước ngoài tụ tập ở đây. Qua các đại diện này, tôi xin nói với thế giới rằng các cường quốc thống nhất, vốn từng nói họ cần Ấn Độ, bây giờ có cơ hội để tuyên bố Ấn Độ được tự do và chứng tỏ thiện ý của mình. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, họ sẽ bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở, và lịch sử sẽ ghi rằng họ đã không kịp thời làm tròn nghĩa vụ đối với Ấn Độ, và thua trong cuộc tranh đấu. Tôi muốn có ơn phước của cả thế giới hầu tôi có thể thành công. Tôi không muốn các cường quốc vượt quá giới hạn hiển nhiên của họ. Tôi không muốn họ chấp nhận bất bạo động và giải giới hôm nay. Có sự khác biệt cơ bản giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa đế quốc mà tôi đang tranh đấu. Làm cho người Anh nhận từ Ấn Độ những gì mà họ trói buộc. Hãy nghĩ đến sự khác biệt nếu Ấn Độ tham gia như là một đồng minh tự do. Nền tự do đó, nếu nó đến, thì phải đến ngày hôm nay. […]

Chiến đấu hoặc Chết

Tôi cam kết với Quốc Đại và Quốc Đại sẽ chiến đấu hoặc chết.

Diệp Minh Tâm dịch từ bản Anh văn: Gandhian Institute – http://www.mkgandhi.org/speeches/qui.htm

Chú thích

[A] Thomas Carlyle (1795 1881): nhà triết học, tác gia, sử gia và nhà giáo người Scotland, tác giả bộ sách nổi tiếng The French Revolution: A History [Cách mạng Pháp: Lịch sử] gồm 3 quyển.

[B] Parsi: một dân tộc có nguồn gốc Ba Tư (Iran bây giờ), từ Thế kỷ 8 đến Thế kỷ 10 di cư đến miền tây Ấn Độ, hòa nhập khá tốt vào xã hội Ấn Độ tuy vẫn giữ nhiều sắc thái riêng biệt về phong tục tập quán.

[C] Phong trào Khilafat: diễn ra trong giai đoạn 1919-1924 của người Hồi giáo ở Ấn Độ nhằm gây ảnh hưởng với người Anh và bảo vệ Đế quốc Ottoman (đa số theo theo Hồi giáo) chống lại sự chia cắt đế quốc này. Sau đó, Phong trào Khilafat chuyển qua việc đòi độc lập cho Ấn Độ.

[D] Maulana Bari: học giả Hồi giáo truyền cảm hứng cho Gandhi về sự đoàn kết giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo.

[E] Lãnh tụ Vĩ đại: nguyên văn: Quaid-Azam, là danh hiệu chỉ Muhammad Ali Jinnah (1876-1948), người thành lập nước Pakistan từ tiểu lục địa Ấn Độ.

[F] Parsi: ở đây là dân tộc Parsi ngày xưa từ Iran di cư đến vùng Punjab thuộc miền tây tiểu lục địa Ấn Độ, có phần khác biệt với dân tộc Parsi ở Iran.

[G] Porbandar: thành phố sinh quán của Gandhi, còn Punjab là vùng đất bây giờ được cắt ra làm hai để chia cho Pakistan và Ấn Độ. Ý Gandhi muốn nói nếu chia cắt tiểu lục địa Ấn Độ thành hai nước theo Ấn giáo và Hồi giáo thì không rõ con trai ông sẽ thuộc về nước nào.

[H] Sir Frederick Puckle (1889-1966): một quan chức cấp cao của Anh ở Ấn Độ.

[I] Tiểu Vương: cho đến lúc đó, tiểu lục địa Ấn Độ được chia ra làm nhiều bang, mỗi bang do một tiểu vương cai trị theo cách cha truyền con nối, có một số quyền hạn nhất định dưới sự đô hộ của Anh quốc.

[J] Lord Linlithgow: đúng ra là Victor Alexander John Hope, 2nd Marquess of Linlithgow (1887-1952), Toàn quyền Anh kiêm Phó vương ở tiểu lục địa Ấn Độ trong giai đoạn 1936-1943.

[K] Charles Freer Andrews (1871-1940): giáo sĩ thuộc Giáo hội Anh, cũng là nhà cải cách xã hội. Ông tham gia vào phong trào đòi độc lập của Ấn Độ và qua đó trở thành đồng chí của Gandhi.

[L] Thống chế của Trung Hoa: ý nói Tưởng Giới Thạch, tên viết theo Anh văn là Chiang Kai-shek.

[M] Bà Thạch: Gandhi gọi “Madame Shek” theo tên của chồng, có nhũ danh là Tống Mỹ Linh, đáng lẽ phải gọi theo họ của chồng là “Bà Tưởng”.

[N] Không đấm dưới thắt lưng: nghĩa đen từ lề luật trong môn quyền Anh, có ý nói Ấn Độ sẽ tranh đấu theo lề luật.

One thought on ““Hãy rời khỏi Ấn Độ!” – Mohandas K. Gandhi

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *