Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa
- Kết nghĩa vườn đào (Hồi 1)
- Thanh long Yển nguyệt đao (Hồi 1)
- Trương Phi giết tướng Khăn Vàng Đặng Mậu (Hồi 1)
- Quan Vũ giết tướng Khăn Vàng Trình Viễn Chí (Hồi 1)
- Trương Phi muốn giết Đổng Trác, Lưu Bị và Quan Vũ ngăn cản (Hồi 1)
- Dực Đức đánh Đốc bưu (Hồi 2)
- Tào Tháo hành thích Đổng Trác rồi trốn thoát (Hồi 4)
- Trần Cung bắt rồi thả Tào Tháo (Hồi 4)
- Tào Tháo giết cả nhà Lã Bá Sa (Hồi 4)
- Tào Tháo phát hịch triệu 17 chư hầu (Hồi 5)
- Hoa Hùng giết bốn tướng phe chư hầu (Hồi 5)
- Quan Vũ giết Hoa Hùng (Hồi 5)
- Lã Bố đánh hạ bốn tướng chư hầu (Hồi 5)
- Lưu, Quan, Trương đánh Lã Bố (Hồi 5)
- Câu chuyện của Điêu Thuyền (Hồi 8)
- Đổng Trác dùng kích ném Lã Bố ở Phụng Nghi Đình (Hồi 8)
- Tào Tháo uống rượu luận anh hùng (Hồi 21)
- Quan Vũ giao ước ba việc (Hồi 25)
- Quan Vũ phò hai chị dâu (Hồi 25)
- Quan Vũ giết Văn Sú (Hồi 26)
- Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng (Hồi 27)
- Quan Vũ chém Sái Dương (Hồi 28)
- Triệu Vân giết Bùi Nguyên Thiệu chỉ sau 1 hiệp (Hồi 28)
- Tôn Sách bị Vu Cát ám ảnh phát bệnh chết (Hồi 29)
- Tôn Sách dặn dò mẹ trước khi chết (Hồi 29)
- Tào Tháo nói dối với Hứa Du (Hồi 30)
- Từ Thứ bất đắc dĩ hàng Tào (Hồi 36)
- Từ Thứ ra đi rồi quay lại giới thiệu Gia Cát Lượng (Hồi 36)
- Gia Cát Lượng đốt quân Tào ở Gò Bác Vọng (Hồi 39)
- Trương Phi khuyên giết Tống Trung, Sái thị và Lưu Tôn (Hồi 40)
- Tào Tháo giết Lưu Tôn (Hồi 40)
- Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã (Hồi 40)
- My phu nhân giao ấu chúa cho Triệu Vân rồi tự tử (Hồi 41)
- Triệu Vân giết hơn 50 danh tướng Tào (Hồi 41-42)
- Trương Phi hét lớn làm chết Hạ Hầu Kiệt (Hồi 42)
- Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho (Hồi 43)
- Ngô quốc thái nhắc Tôn Quyền mời Chu Du (Hồi 44)
- Gia Cát Lượng đọc bài phú của Tào Thực để khích Chu Du (Hồi 44)
- Chu Du lừa Tưởng Cán (Hồi 45)
- Tào Tháo giết Sái Mạo và Trương Doãn (Hồi 45)
- Thuyền cỏ mượn tên (Hồi 46)
- Sái Hòa và Sái Trung trá hàng Đông Ngô (Hồi 46)
- Hoàng Cái dùng khổ nhục kế (Hồi 46)
- Hám Trạch dâng thư trá hàng của Hoàng Cái (Hồi 47)
- Bàng Thống lừa Tào Tháo xích thuyền (Hồi 47)
- Gia Cát Lượng nêu ý kiến đánh hỏa công (Hồi 49)
- Gia Cát Lượng cầu gió đông (Hồi 49)
- Quan Vũ vì nghĩa tha Tào Tháo ở Hoa Dung (Hồi 50)
- Triệu Vân chiếm Nam Quận, Quan Vũ lấy Tương Dương (Hồi 51)
- Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du lần thứ nhất (Hồi 51)
- Quan Vũ thu phục Hoàng Trung (Hồi 53)
- Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị giết Ngụy Diên (Hồi 53)
- Lưu Bị ký văn tự mượn Kinh Châu (Hồi 54)
- Chuyện Lưu Bị làm rể Đông Ngô (Hồi 54-55)
- Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du lần thứ hai (Hồi 55)
- Chu Du lập kế gạt Lưu Bị (Hồi 56)
- Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du đến chết (Hồi 56)
- Hứa Chử cởi trần đánh tay đôi với Mã Siêu (Hồi 59)
- Gia Cát Lượng biên thư giới thiệu Bàng Thống (Hồi 60)
- Tào Tháo khinh khi Trương Tùng (Hồi 60)
- Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng (Hồi 63)
- Gia Cát Lượng dùng mẹo bắt Trương Nhiệm (Hồi 64)
- Lưu Bị nể mặt Gia Cát Lượng, trả ba quận (Hồi 66)
- Quan Vũ một đao tới hội (Hồi 66)
- Lưu Bị phong Ngũ Hổ Tướng (Hồi 73)
- Quan Vũ nhận lệnh đánh Phàn Thành (Hồi 73)
- Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương lần thứ hai (Hồi 73)
- Quan Vũ khơi dòng nước, làm ngập bảy đạo quân Tào (Hồi 74)
- Lã Mông giả bệnh lừa Quan Vũ (Hồi 75)
- Quan Vũ hiên ngang cự tuyệt đầu hàng ở Mạch Thành (Hồi 76)
- Tôn Quyền dụ hàng Quan Vũ lần nữa (Hồi 77)
- Quan Vũ hiển linh vật chết Lã Mông (Hồi 77)
- Hoa Đà đề nghị mổ óc Tào Tháo (Hồi 78)
- Lưu Bị huy động 75 vạn quân trong Trận Di Lăng (Hồi 81)
- Hoàng Trung anh dũng hy sinh (Hồi 83)
- Quan Hưng chém Phan Chương, cúng Quan Vũ (Hồi 83)
- Triệu Vân đâm Chu Nhiên (Hồi 84)
- Hám Trạch đảm bảo cho Lục Tốn (Hồi 83)
- Bát trận đồ của Gia Cát Lượng ngăn chặn Lục Tốn (Hồi 84)
- Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch (Hồi 87-91)
- Quan Sách tham gia đánh Mạnh Hoạch (Hồi 87-91)
- Mã Tốc bày kế ly gián để Tào Tuấn cách chức Tư Mã Ý (Hồi 91)
- Triệu Vân ra sức giết năm tướng (Hồi 92)
- Gia Cát Lượng mắng khiến Vương Mãng chết trước trận (Hồi 93)
- Gia Cát Lượng lập mưu ly gián hàng phục Khương Duy (Hồi 94)
- “Không thành kế” của Gia Cát Lượng (Hồi 95)
- Triệu Vân lập công ở hang Cơ Cốc (Hồi 96)
- Gia Cát Lượng hai lần dâng biểu (Hồi 91, 97)
- Trương Bào làm tướng đánh Thục (Hồi 99)
- Tào Chân đọc thư Gia Cát Lượng, uất ức mà chết (Hồi 100)
- Tư Mã Ý dùng kế ly gián khiến Lượng rút quân về (Hồi 100)
- Gia Cát Lượng mưu đốt ba cha con Tư Mã Ý (Hồi 102)
- Gia Cát Lượng sáu lần ra Kỳ Sơn (Hồi 91-103)
- Tượng gỗ Gia Cát Lượng hù dọa Tư Mã Ý (Hồi 104)
- Gia Cát Lượng sắp đặt cái chết của Ngụy Diên (Hồi 105)
- Khương Duy vây khốn Tư Mã Chiêu trên núi Thiết Lung (Hồi 109)
- Khương Duy giết Quách Hoài (Hồi 109)
- Bộ hạ Đào Khiêm giết cả nhà Tào Tung, cướp sạch của cải (Hồi 10)
- My Phu nhân là vợ Lưu Bị (Hồi 15, 22, 25, 28, 41)
- Hán Hiến đế nhận Lưu Bị là hoàng thúc (Hồi 20)
- Lưu Bị dẫn Tôn Phu nhân trốn về, quân Ngô đuổi theo (Hồi 55)
- Tôn Quyền bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn (Hồi 66)
- Tôn Phu nhân tự tử (Hồi 84)
- Mã Tốc bị xử tử hình (Hồi 91)
- Gia Cát Lượng tăng bếp lừa Tư Mã Ý (Hồi 100)
- Cha con Gia Cát Chiêm tử trận (Hồi 117)
Lưu Bị
Quan Vũ
Trương Phi
Triệu Vân
Gia Cát Lượng
Tào Tháo
Chu Du
Lỗ Túc
Dẫn nhập
Trung Quốc có bốn tác phẩm văn học cổ điển được mệnh danh là “tứ đại danh tác” (bốn tác phẩm lớn) hoặc “tứ đại kỳ thư” (bốn quyển sách xuất sắc), xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện là:
1/ Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung (khoảng 1330 – 1400)
2/ Thủy hử của Thi Nại Am (1296? – 1370?)
3/ Tây du ký của Ngô Thừa Ân (1500/1506 – 1581)
4/ Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần (1715/1724 – 1763/1764).
Riêng hai tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa và Hồng lâu mộng làm dấy lên những bình luận sôi nổi từ thời này sang thời khác. Luận Hồng lâu mộng rõ ràng là bình luận văn học, ai cũng biết như thế, nên dù có ý kiến này khác chẳng qua là nói chuyện văn học. Còn luận Tam Quốc thì thường bị lấn cấn: người ta thường dựa trên tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa chứa nhiều hư cấu để bình luận lan man qua lịch sử. Chẳng hạn có những bài viết nói chuyện Tam Quốc đưa ra thông tin cơ sở về thời kỳ này và những bình luận dựa trên những hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa – khiến cho người đọc khó nhận ra đâu là thật và đâu là giả.
Những bình luận đầu tiên là một số bài thơ – kể cả thơ của những tác giả nổi danh – cảm tác những sự kiện hư cấu. Những bình luận kế tiếp cũng dựa theo Tam Quốc diễn nghĩa mà xét về tính chất nhân hiền của Lưu Bị, hoặc nói chung về “ba anh em kết nghĩa”, hoặc sự vũ dũng của Quan Vũ, hoặc tính gian hùng của Tào Tháo, hoặc tài năng siêu việt của Gia Cát Lượng… Phong trào “luận Tam Quốc” sôi nổi không khác gì chuyên ngành nghiên cứu về Hồng lâu mộng được gọi là “Hồng học”– nhằm đưa ra những khía cạnh mới mà độc giả không nhìn thấy hết.
Có điều, đánh giá những nhân vật lịch sử nhưng dựa theo những tình tiết trong một tiểu thuyết hư cấu thì quả là điều trái khoáy! Chỉ vì ngòi bút của La Quán Trung quá hấp dẫn khiến cho nhiều độc giả khi đọc Tam Quốc diễn nghĩa thường dễ bị nhầm lẫn chi tiết hư cấu trong tiểu thuyết với các sự kiện lịch sử ngoài đời thật. Bài tổng hợp này có chủ đích trả về lịch sử những gì thuộc về lịch sử.
Thời Tam Quốc
Dịch Trung Thiên tóm tắt về thời kỳ này:
Chỉ có hai chữ: loạn thế. Nói rộng ra là: khói lửa ngút trời, chết đói đầy đường, chiến tranh liên miên, dân không còn đường sống. Hoặc mượn lời Lỗ Tấn: “Trong mộng, mơ màng mẹ hiền nhòa lệ, đầu thành biến ảo lá cờ đại vương”. Nhưng thời loạn có anh hùng. Càng trong bể dâu càng có anh hùng. Vì vậy, đây là thời đại có nhiều anh hùng, một thời đại đầy khí thế vừa anh hùng vừa lãng mạn. Không biết đã có bao nhiêu nhân vật phong lưu với lời kể xúc động về giang sơn, có bao nhiêu anh hùng cái thế thể hiện thân thủ bay bổng như gió mây, thực là “giang sơn như tranh, một thời bao hào kiệt”.
Đây là một giai đoạn lịch sử bộn bề khó phân, một câu chuyện vô cùng hấp dẫn, một đề mục vô cùng thú vị. Chính sử ghi chép, dã sử truyền miệng, hí kịch biên soạn, tiểu thuyết diễn nghĩa. Mỗi thời kỳ có sự đánh giá khác nhau, mỗi tác phẩm có miêu tả khác nhau. Nhiều bàn luận sôi nổi về đúng–sai thật–giả, nhiều nghi hoặc phân vân về thành–bại được–mất.
Thông thường, nói đến Tam Quốc là nói đến giai đoạn lịch sử 90 năm kể từ năm đầu thời Hán Hiến đế (năm 190) đến thời Tấn Vũ đế (năm 280). Ngay cách gọi tên Tam Quốc cũng có vấn đề. Bởi vì Tào Phi xưng đế năm 221; Lưu Bị xưng đế năm 221; Tôn Quyền xưng đế năm 222. Đây là thời kỳ ba nước Ngụy, Thục, Ngô chính thức ra đời. Theo lý, Tam Quốc sử phải được tính từ đây tới lúc ba nhà quy về Tấn, mới đúng là thời kỳ “Tam Quốc”. Xem ra xưa nay không hề nói như vậy. Nếu thế thì Tào Tháo, Quan Vũ, Chu Du và Lỗ Túc v.v… sẽ không thể xuất hiện. Cũng không thể nói tới chuyện mơ xanh uống rượu, ba lần lều tranh, trận chiến Xích Bích, đại bại Mạch Thành…
Thực tế thì, bất kể là chính sử (như Tam Quốc chí), hay tiểu thuyết (như Tam Quốc diễn nghĩa) gần như đều bắt đầu từ lúc Đổng Trác làm loạn, thậm chí sớm hơn, Đó mới là thái độ cầu thị đối với lịch sử. Bởi vì ba thế lực lớn Tào, Lưu, Tôn được phát triển và trưởng thành từ lúc quan quân hỗn chiến những năm cuối thời Đông Hán; thế chân vạc Ngụy–Thục–Ngô về cơ bản đã hình thành từ trước lúc họ dựng nước. Cần phải đọc lịch sử với con mắt lịch sử.
Bộ sử Tam Quốc chí
Tây Tấn diệt ba nước Ngụy, Thục, Ngô để thống nhất Trung nguyên năm 280. Sau đó 5 năm, Trần Thọ biên soạn xong Tam Quốc chí. Đây được xem là sử liệu khá xác thực cho giai đoạn lịch sử thời Tam Quốc, và được xếp vào hệ thống 24 bộ chính sử Trung Quốc. Vì đã làm quan nhà Tây Tấn, Trần Thọ lấy triều đại nhường ngôi cho nhà này là Tào Ngụy làm chính thống.
Bốn bộ sử liệu sau đây góp phần không nhỏ cho Trần Thọ hoàn thành bộ Tam Quốc chí:
1/ Ngụy thư của Ngụy Thâu;
2/ Tam Quốc chí của Ngư Hoạn;
3/ Ngô thư của Vi Chiêu; và
4/ Tấn thư của Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ.
Riêng Thục Hán không có chính sử (triều đình của Lưu Bị không có quan chép sử), Trần Thọ phải tự thu thập tư liệu để viết.
Trần Thọ có chủ ý loại bỏ những chuyện thần bí, những chuyện đáng ngờ, thiếu hợp lý nhằm tâng bốc Tấn và Ngụy. Vì thế, Tam Quốc chí được xem là có độ chính xác cao, được đánh giá ngang với những bộ chính sử xuất sắc như Sử ký của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Cố và Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Một khuyết điểm của bộ Tam Quốc chí là chủ yếu chép về các nhân vật thời Tam Quốc chứ không chép về địa lý, kinh tế và chế độ chính trị như Sử ký trước đó và Tư trị thông giám sau này. Khuyết điểm thứ hai là Tam Quốc chí quá giản lược, bỏ sót một số thông tin quan trọng. Ví dụ như Trần Thọ chỉ ghi chép về những dị tộc triều cống Ngụy mà bỏ sót những dị tộc triều cống Thục và Ngô. Đây có thể do Thục và Ngô không được xem là chính thống.
Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu mới về thời Tam Quốc xuất hiện. Tống Văn Đế (trị vì 424-453) thấy nội dung của Tam Quốc chí quá sơ lược nên ra lệnh cho sử quan Bùi Tùng Chi chú thích.
Nhờ có độ lùi 130 năm (năm 413), Bùi Tùng Chi tập hợp được hơn 200 sử liệu để bổ sung các phần mà Trần Thọ không chép hoặc chép thiếu, bằng cách:
- dẫn ý kiến của các tác giả khác nhau để phân định thực hư;
- kể thêm uẩn khúc trong một số sự kiện;
- bổ sung sự kiện còn thiếu;
- thêm chi tiết về cuộc đời của một số nhân vật; và
- bổ sung một số nhân vật còn thiếu.
Kết quả là bản Tam Quốc chí chú giải dài gần gấp đôi so với bản Tam Quốc chí nguyên thủy. Tống Văn Đế gọi công việc chú giải của Bùi Tùng Chi là “bất hủ”. Lý do chính là vì Bùi Tùng Chi làm việc một cách bao quát và cẩn thận. Ông dẫn chứng thông tin từ nhiều sử liệu, kể cả sử liệu đáng ngờ. Những chuyện không hợp lý thì ông giải thích bằng câu như “sử liệu này không đáng tin”. Các sách trích dẫn và tác giả đều được ông ghi chép đầy đủ để độc giả rộng đường tham khảo. Đây là ý hướng của các nhà sử học hiện đại mà vào thế kỷ 4 Bùi Tùng Chi đã áp dụng.

Nhờ công lao của Bùi Tùng Chi, bộ Tam Quốc chí chú giải được cân bằng hơn. Ví dụ như ông phê phán Tư Mã Ý một cách nặng nề khi diệt Tào Sảng trong chú giải sau này thêm vào, nên nói tới Tư Mã Ý một cách thẳng thắn, không như Trần Thọ ở đời Tấn viết Tam Quốc chí phải tránh nói không hay về Tư Mã Ý.
Tuy nhiên, có lẽ vì tham khảo nhiều nguồn nên Tam Quốc chí có vài đoạn không nhất quán với đoạn khác.
Trong bài này, khi tham chiếu đến Tam Quốc chí thì đó là bản được Bùi Tùng Chi chú giải, tức cũng tham chiếu đến nhiều sử liệu khác.
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa (三国演义), nguyên tên Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, do La Quán Trung viết vào thế kỷ 14, nội dung bắt đầu từ việc loạn Khăn Vàng khởi sự năm 184 cho đến khi nhà Tấn thống nhất Trung Quốc năm 280, tức 97 năm.
Trung Quốc có nhiều bộ sử chứa nội dung xác thực nhưng lại khô khan, phần lớn chỉ có giới nghiên cứu lịch sử chịu khó đọc. Riêng bộ Sử ký của Tư Mã Thiên thì có sức hấp dẫn ít nhiều đối với đại chúng. Nhiều độc giả vẫn cảm thấy Tam Quốc chí khô khan, cách viết lan man khó theo dõi, đọc chỉ để tìm hiểu lịch sử thôi.
Đến khi Tam Quốc diễn nghĩa được La Quán Trung viết ra thì tình hình khác hẳn: từ thế hệ này qua thế hệ khác đều đọc tiểu thuyết này một cách say mê thích thú. Tam Quốc diễn nghĩa được viết một cách mạch lạc từ hồi này qua hồi kế, thêm những tình tiết truyền cảm về sắc diện và tâm tư con người, những nhân vật kiệt xuất, những trận chiến hào hùng, những mưu mô lôi cuốn, những mẩu chuyện thần kỳ… Người đọc xem xong một hồi đều nôn nóng muốn xem hồi kế tiếp (bị kích thích bởi câu ở cuối hồi: “xem hồi sau sẽ rõ” hoặc “hạ hồi phân giải”), và xem xong quyển sách rồi trong đời vẫn muốn xem đi xem lại.
Tam Quốc diễn nghĩa thường bị chỉ trích ở chỗ đề cao quá đáng những nhân vật của Hậu Hán mà dè bỉu quá tệ hại những nhân vật chống nhà Hán. Đó là do tư tưởng “ủng Lưu phản Tào” hoặc “tôn Lưu biếm Tào” của La Quán Trung: xem Thục Hán là chính thống, lên án Tào Ngụy, còn Đông Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Người nào thuộc nhà Hán thì dù bất tài cũng được tác giả tô vẽ thành nhân vật kiệt xuất hoặc chính nhân quân tử. Ai thuộc phe đối nghịch thì dù là bậc anh hùng hào kiệt, ông cũng gán cho cái tội “gian thần quốc tặc”. Thế là có nhiều hư cấu để đạt mục đích này.
Ý kiến chung cho rằng Tam Quốc diễn nghĩa là “bảy thực ba hư”, nhưng cũng có lời bình cho rằng phần thực còn kém hơn. Ví dụ như Trần Văn Đức cho rằng Tam Quốc diễn nghĩa “già nửa là sự tô vẽ phi lịch sử”.
Qua ngòi bút phù phép của La Quán Trung – thêm chọn lọc có chủ đích những truyền thuyết dân gian – nhiều độc giả thần tượng hóa một số nhân vật và oán ghét một số nhân vật khác, đồng thời có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc tưởng đó là sự thật.
Những hư cấu chính
Trang Wikipedia liệt kê 57 sự kiện hư cấu và 169 nhân vật hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa, riêng người tổng hợp bài này tìm được thêm một số sự kiện hư cấu khác. Dưới đây là những hư cấu chính mà nếu xem xét sự thật lịch sử, câu chuyện trong Tam Quốc diễn nghĩa đổi thay khá nhiều.
Phần trích dẫn Tam Quốc diễn nghĩa (TQDN) là từ bản dịch của Phan Kế Bính, Bùi Kỷ hiệu đính.
Kết nghĩa vườn đào (Hồi 1)
TQDN: Ba người Lưu–Quan–Trương sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật trong một vườn đào, đốt hương, lạy hai lạy mà thề nguyền chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Lưu Bị làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út.

Chính sử: Không có hội thề. Khảo cứu từ nhiều nguồn tư liệu lịch sử chính thống, trong đó chủ yếu là Tam Quốc chí và Tư trị thông giám, các nhà sử học đều thấy việc kết nghĩa vườn đào của bộ ba Lưu–Quan–Trương không được ghi chép lại trong khi đây là sự kiện quan trọng.
Tam Quốc chí_Thục thư viết: “Tiên Chủ [Lưu Bị] cùng với hai người [Quan–Trương] ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày … Tiên Chủ với Vân ngủ cùng giường”. Việc đứng hầu cho thấy thứ bậc giữa chủ và bộ hạ, còn câu sau cùng cho thấy tình thân cũng bao gồm Triệu Vân chứ không giới hạn trong bộ ba Lưu–Quan–Trương.
Hoa Dương quốc chí viết tương tự: “Chúa [Lưu Bị] cùng hai người [Quan Vũ, Trương Phi] ngủ chung giường, ăn cùng mâm, tình như anh em.”
Tam Quốc chí_Quan Vũ truyện ghi lại câu nói của Vân Trường: “Tôi chịu ân trọng của Lưu tướng quân, thề sẽ cùng sống cùng chết.” Có lẽ chữ “thề” ở đây có nghĩa chung chung như tự hứa, không hẳn cụ thể là thắp hương thề nguyền. Cách Quan Vũ gọi Lưu Bị là “Lưu tướng quân” một cách khách sáo còn góp phần khẳng định thêm giả thuyết về việc ba người không thề nguyền kết nghĩa.
Tam Quốc chí_Trương Phi truyện viết: “Vũ hơn Phi mấy tuổi, nên Phi thường coi như anh.”
Các dẫn chứng trên cho thấy tình nghĩa khăng khít, gắn bó của ba nhân vật Lưu–Quan–Trương. Tuy nhiên, mối quan hệ ấy chỉ dừng ở mức “thân như anh em”, không hẳn là “huynh đệ kết nghĩa”.
Nhận xét: Xuyên suốt qua nhiều luận bàn về thời Tam Quốc vẫn nói đến “ba anh em kết nghĩa”, chứng tỏ ảnh hưởng hư cấu của La Quán Trung quá lớn!
Thanh long Yển nguyệt đao (Hồi 1)
TQDN: Sau khi kết nghĩa vườn đào, Quan Vũ cho thợ rèn một thanh đao nặng tám mươi hai cân, được gọi là Thanh long Yển nguyệt đao. Từ đó về sau, Quan Vũ luôn sử dụng Thanh long Yển nguyệt đao này trong các trận chiến.
Sau khi Quan Vũ lìa đời, dân địa phương lập miếu thờ ông trên đỉnh núi Ngọc Toàn. Người sau có đề một câu đối ở miếu ấy, dịch nghĩa:
Bộ mặt đỏ giữ tấm lòng đỏ, mình cưỡi ngựa xích thố truy phong, lúc ruổi rong, không bao giờ quên về vua đỏ
Ngọn đèn xanh xem bộ sử xanh, tay cầm đao thanh long yển nguyệt, nơi kín đáo, chẳng chỗ nào thẹn với trời xanh.
Chính sử: Không có ghi chép cụ thể Quan Vũ thường dùng vũ khí gì. Các tài liệu lịch sử Trung Quốc chép về thời Tam Quốc không nhắc đến nhân vật nào từng sử dụng vũ khí có tên gọi Thanh long Yển nguyệt đao. Loại vũ khí này đến thời Đường mới xuất hiện.
Tam Quốc chí_Quan Vũ truyện ghi: “Vũ trông xa thấy [Nhan] Lương ở dưới lọng chỉ huy, liền ra roi quất ngựa xông tới đâm chết Lương giữa vạn quân.” Trong khi sự thực là đao chỉ dùng chém chứ không đâm.
Theo Đăng Nguyễn,
“Yển nguyệt” có nghĩa là cong tựa như mặt trăng. Người ta hay gọi là “Thanh Long đao” do màu xanh của sắc đao mỗi khi Quan Vũ chém quân địch.
Theo sử sách Trung Quốc, từ thời nhà Minh, quân đội Trung Quốc có truyền thống kiểm tra thể lực của binh sĩ bằng cách cho nâng các tảng đá với trọng lượng khác nhau. Tác giả La Quán Trung sống ở thời Minh có thể mượn hình tượng này để mô tả sức nặng bất thường của Thanh long Yển nguyệt đao của Quan Vũ.
Hơn nữa, các nhà nghiên cứu cho rằng, vào thời đại Tam Quốc, công nghệ chế tạo binh khí chưa đủ độ khó để làm ra loại đại đao lưỡi lớn như Thanh Long đao. Đao được sử dụng thời Tam Quốc đa số có lưỡi đao hẹp, độ dài khoảng 1m, độ dày khá lớn và có 1 lưỡi, gọi chung là Tam Quốc hoàn thủ đao. Ở thời Tam Quốc, trường đao có cán dài vẫn chưa phải là một vũ khí phổ thông. Các tướng lĩnh thời Tam Quốc, bao gồm cả Quan Vũ, được cho là ưa thích sử dụng trường mâu để đâm đối phương trên lưng ngựa.
Cũng có ý kiến cụ thể cho rằng đối chiếu lịch sử Trung Quốc, thì loại vũ khí Thanh long Yển nguyệt đao này mãi cuối thời Đường đến đầu thời Tống (những năm 900) mới bắt đầu xuất hiện, tức hơn 700 năm sau khi Quan Vũ bị quân Đông Ngô bắt sống và hành quyết.
Nhiều khả năng, để hạ thủ mãnh tướng của Viên Thiệu ở trận Bạch Mã, Quan Vũ sử dụng loại vũ khí chuyên dụng cho việc đâm. Đó có thể là trường mâu hoặc thương. Mâu, thương, giáo là các loại vũ khí được ưa thích nhất thời Tam Quốc. Theo ghi chép chính sử, Trương Phi, Lữ Bố, Triệu Vân và nhiều danh tướng của Ngụy, Thục, Ngô đều sử dụng loại vũ khí này. Khó đưa ra một kết luận chính xác, nhưng khả năng Quan Vũ chỉ có thể sử dụng một trong hai loại vũ khi chuyên dụng thời Tam Quốc là mâu hoặc thương mà thôi.
Ghi chú: Đúng thật là thanh đao rộng và dài giúp Quan Vũ trông oai hùng rất nhiều so với loại đao ngắn, hoặc vũ khí khác như mâu và thương thời Tam Quốc. Có ý kiến cho rằng thanh đao nặng 82 cân (gần 50 kg) là quá nặng nề, khó xoay trở nhanh nhẹn cho dù người sử dụng có sức mạnh đáng kể. Tuy vậy, tiểu thuyết của La Quán Trung tạo ảnh hưởng rộng rãi đến nỗi thanh đao hư cấu đều xuất hiện theo tranh vẽ và tượng của Quan Vũ ở các đền thờ, lăng, công viên…
Trương Phi giết tướng Khăn Vàng Đặng Mậu (Hồi 1)
TQDN: Có tin báo tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác Quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại Hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Quan Vũ, hữu có Trương Phi, giơ roi mắng lớn: “Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi?”
Trình Viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Chính sử: Đặng Mậu là một nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Tam Quốc chí không ghi chép ai tên Đặng Mậu.
Quan Vũ giết tướng Khăn Vàng Trình Viễn Chí (Hồi 1)
TQDN: Cũng trong trận đánh kể trên, Trình Viễn Chí thấy Đặng Mậu bị giết, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình Viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Chính sử: Trình Viễn Chí là một nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Tam Quốc chí không ghi chép ai tên Trình Viễn Chí.
Trương Phi muốn giết Đổng Trác, Lưu Bị và Quan Vũ ngăn cản (Hồi 1)
TQDN: Trương Giác đuổi Đổng Trác, Lưu–Quan–Trương cứu được ông ta về trại. Trác nghe ba người nói chưa có chức tước và công trạng gì nên tỏ vẻ khinh khi. Trương Phi cả giận nói: “Thằng cha này láo quá! Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, sao hả được giận này!” Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác. Lưu Bị và Quan Vũ vội ngăn.
Có thơ cảm khái điển tích này.
Chính sử:
Khi đánh Hàn Toại, Tôn Kiên muốn giết Đổng Trác nhưng Trương Ôn không đồng ý. [Trịnh Phúc Điền]
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi:
Biên Chương, Hàn Toại làm loạn ở Lương Châu. Trung lang tướng Đổng Trác đánh ngăn không được. Trương Ôn làm Xa kỵ Tướng quân đến đánh bọn Chương. Ôn dâng biểu xin dùng Tôn Kiên cùng tham dựa việc quân, đóng quân ở Trường An. Ôn lấy chiếu thư gọi Trác, Trác rất lâu sau mới đến chỗ Ôn. Ôn trách mắng Trác, Trác đối đáp không được. Bấy giờ Kiên đang ngồi, đến bảo nhỏ bên tai Ôn nói: “Trác không sợ tội, lại như cú kêu tiếng to cho nên gọi mà không đến đúng lúc, nên dùng luật quân mà chém hắn”. Ôn nói: “Trác vốn có tiếng tốt ở vùng Lũng Thục, ngày nay giết hắn, đi về phía tây không có chỗ dựa”. Kiên nói: “Minh công tự thân thống lĩnh quân sĩ, uy trùm thiên hạ, sao chỉ cậy vào Trác? Xem lời mà Trác nói thì không dựa vào minh công mà lại khinh nhà vua, không có lễ phép, là một tội. Chương, Toại dày xéo nhiều năm, nên hẹn đúng lúc đến đánh mà Trác nói là chưa nên, ngăn quân cản lính, là hai tội. Trác chịu mệnh mà không chịu lập công, được gọi đến mà ngưng trệ, lại ngang ngạnh kiêu ngạo, là ba tội. Tướng giỏi thời xưa, cầm kích búa xua quân, chưa có ai không dám chém để ra oai, cho nên Nhương Tư chém Trang Cổ, Ngụy Chung giết Dương Can vậy, nay minh công tha cho Trác, nếu không giết hắn, đó là là tổn hại hình luật oai nghiêm”. Ôn không nỡ ra tay, lại nói: “Ông sắp về, Trác sẽ là người nghi ngờ”. Kiên nhân đó đi ra.
Nhận xét: Tiểu thuyết TQDN nhằm đề cao tính nhân nghĩa pha trầm ổn của hoàng đế tương lai Lưu Bị và nêu bật nét hào hùng pha nông nổi của tướng võ biền Trương Phi, nên mượn câu chuyện giữa Trương Ôn và Tôn Kiên mà gán cho hai tướng Thục.
Dực Đức đánh Đốc bưu (Hồi 2)
TQDN: Huyền Đức được bổ làm quan úy huyện An Hỷ. Có viên Đốc bưu đến thanh tra, vòi vĩnh. Huyền Đức mấy lần đến để kêu van, đều bị quân canh cửa không cho vào. Trương Phi vừa uống mấy chén rượu, cả giận, lôi Đốc bưu ra ngoài đánh một trận.
Chính sử: Lưu Bị là người đánh Đốc bưu trong khi vẫn tỉnh táo. [Lê Đông Phương]
Tam Quốc chí_Thục thư ghi: Viên quan Đốc bưu nhân việc công đến huyện, Lưu Bị xin vào yết kiến, không được, liền xông thẳng vào trói cổ viên Đốc bưu lại, đánh cho hai trăm trượng, lại cởi dây thao đỏ buộc vào trước cổ ngựa rồi bỏ quan trốn đi.
Điển lược ghi: Nghe tin viên Đốc bưu nghỉ ở quán dịch, Bị liền đến xin ra mắt viên Đốc bưu, Đốc bưu xưng có bệnh không cho Bị tiếp kiến, Bị nổi giận, liền quay về sở quan, dẫn bọn lại tốt đi thẳng đến quán dịch, xông vào tận cửa, trói viên Đốc bưu lại, lôi ra khỏi quá dịch, cởi dây thao đỏ ra để trói cổ viên Đốc bưu, cột vào gốc cây, đánh cho hơn trăm trượng, dọa giết. Đốc bưu phải van xin, Bị bèn phóng thích đuổi đi.
Nhận xét: Chính sử kể rõ Lưu Bị đánh Đốc bưu một cách nặng nề chứ không như Trương Phi trong TQDN. Bằng cách chuyển hành động lỗ mãng đó từ Lưu Bị qua Trương Phi, La Quán Trung đạt hai mục đích: (1) tránh bêu xấu tính lỗ mãng của Lưu Bị; (2) ngược lại nêu bật đức nhân từ độ lượng của Lưu Bị. Còn gán cho Trương Phi tính khí nóng nảy (nhất là sau khi uống rượu) thì phù hợp với chính sử ghi chép về tính khí này.
Tào Tháo hành thích Đổng Trác rồi trốn thoát (Hồi 4)
TQDN: Tháo giắt dao đến tướng phủ Đổng Trác định ám sát ông này. Nhân khi Lã Bố đi ra ngoài và Đổng Trác ngả mình nằm xuống, ngoảnh mặt vào trong, Tháo liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng. Tháo tay đang cầm con dao, vội quỳ xuống, nói “có con dao quý xin dâng thừa tướng”. Thừa cơ Đổng Trác còn phân vân, Tháo bỏ chạy trốn.
Chính sử: Đổng Trác muốn thu phục Tào Tháo bằng chức Kiêu kỵ Hiệu úy, nhưng Tào Tháo không muốn nhận vì nghĩ Đổng Trác sẽ thất bại. Không thấy sử liệu nào nêu việc Tháo muốn hành thích Đổng Trác, mà chỉ nói Tháo rời bỏ Đổng Trác, lén trở về quê nhà. [Lê Đông Phương] [Ngụy thư]
Nhận xét: La Quán Trung biến suy nghĩ chín chắn của Tào Tháo thành hành động nông nổi.
Trần Cung bắt rồi thả Tào Tháo (Hồi 4)
TQDN: Tháo chạy đến huyện Trung Mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Ông này nhìn kỹ Tháo, đến nửa đêm sai người thân tín gọi Tào Tháo lên để hỏi. Nghe xong, quan huyện cởi trói cho Tháo, tự giới thiệu là Trần Cung, bỏ chức quan, theo Tháo đi trốn.
Chính sử: Không thấy ghi đích danh tên Trần Cung vào thời gian này, và không kể việc quan huyện đi theo Tào Tháo.
Thế ngữ: Khi Tào Tháo đến Trung Mâu bị nghi là kẻ bỏ trốn, bị bắt giải lên huyện. Quan huyện đã nhận được trát từ Đổng Trác, nhưng viên Công tào biết lòng Tháo, lại nghĩ đang khi loạn lạc không nên bắt kẻ hùng tuấn, bèn trả tự do cho Tháo.
Tam Quốc chí_Ngụy thư ghi: Tào Tháo đổi tên họ, bỏ trốn về Đông. Đến Trung Mâu, bị viên Đình trưởng nghi ngờ, bắt giải lên huyện. Trong xóm có người biết mặt, xin giúp nên được thả.
Dịch Trung Thiên cho biết Trần Cung chưa từng nhậm chức ở Trung Mâu.
Nhận xét: Sau này, vì Trần Cung không chịu quy hàng nên Tào Tháo buộc phải giết Cung. Vì có tình tiết hư cấu là trước đó Trần Cung đã tha Tháo rồi bỏ trốn theo, Tháo mang thêm tiếng ác là quên tình nghĩa cũ.
Tào Tháo giết cả nhà Lã Bá Sa (Hồi 4)
TQDN: Tào Tháo với Trần Cung rón rén bước vào sau nhà Lã Bá Sa, chỉ nghe tiếng người nói: “Trói lại mà giết!” Tháo và Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi, rồi gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về. Tháo chém chết luôn Lã Bá Sa rồi thốt nên câu nói khét tiếng: “Thà ta phụ người trong thiên hạ, chứ không để người trong thiên hạ phụ ta” (Ninh sử ngã phụ thiên hạ nhân, hưu giáo thiên hạ nhân phụ ngã).
Chính sử: Không thấy ghi có người nào khác đi theo Tào Tháo. Tam Quốc chí không ghi chép gì về Lã Bá Sa, nhưng tác giả Trần Thọ lấy triều đại Tào Ngụy làm chính thống nên có thể vì đó mà phớt lờ vụ việc này. Cần xét qua những sử liệu khác.
- Ngụy thư của Vương Thẩm: Sa không có nhà, con cháu và tân khách hợp nhau muốn cướp đoạt cả ngựa và vật dụng, Tháo cầm dao giết sạch cả nhà.
- Thế ngữ: Tào Tháo ghé ngang, Bá Sa không có ở nhà, chỉ có 5 người con chuẩn bị lễ ‘tân khách’. Tháo đang trốn Đổng Trác, đâm ra nghi ngờ, đang đêm cầm kiếm giết 8 người.
- Tạp ký của Tôn Thịnh: Tháo nghe tiếng dao chặt thịt, nghĩ bọn này âm mưu hại mình, nên trong đêm giết người. Việc lỡ rồi không tỏ ra hối hận gì, nói: “Ta đành có lỗi với người, không để người phụ ta”, rồi đi.
Nhận xét: La Quán Trung có ý kết án đây là vụ tàn sát dã man, khiến cho Tào Tháo bị vết nhơ tệ hại trong lịch sử. Nếu đem Tào Tháo ra xử trong một phiên tòa hiện đại, công lý được đảm bảo thì sao?
Tòa án chấp nhận lập luận cho rằng trong khi chạy trốn hẳn Tào Tháo không muốn gây án bừa bãi nếu không có lý do biện minh, kẻo địa phương sẽ huy động quan binh truy nã. Cần biết, sau khi Tào Tháo hành thích Đổng Trác không thành công phải bỏ trốn, Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo, hứa ai bắt được sẽ thưởng nghìn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; đe dọa ai chứa chấp sẽ bị trị tội. Vì thế, lý do cho việc gây án ở nhà Bá Sa là tự vệ, hoặc vì quá đa nghi trong tâm trạng hoảng hốt lúc chạy trốn khỏi con người tàn bạo Đổng Trác nên có hành động quá đáng. Ba bộ hồ sơ Ngụy thư, Thế ngữ vàTạp ký cung cấp những bằng chứng cho lập luận đó.
Tòa án chấp nhận lập luận rằng không có chứng cứ cho thấy Tào Tháo vô cớ giết người.
Tòa án không chấp nhận biện luận của La Quán Trung vì ông này phớt lờ Ngụy thư, kết hợp Thế ngữ vàTạp ký rồi thêm cái chết của Lã Bá Sa mà không có hồ sơ nào khác ghi chép.
Kế tiếp, tòa án xét qua biện luận của Trần Đình Hiến về câu nói đó của Tào Tháo.
Tạp ký của Tôn Thịnh kể rất cụ thể: Một là nghe tiếng mài dao; hai là sau khi giết người, Tào Tháo mới phát hiện người nhà Lã Bá Xa mổ lợn thết đãi mình, bèn xót xa mà nói rằng “Ta đành có lỗi với người, không để người phụ ta.” “Đành” có nghĩa bất đắc dĩ, biết mình giết lầm, là có tội với người ta, nhưng xét hoàn cảnh, chẳng còn cách nào khác. Mình đang cùng đường mạt lộ, đành phụ người, chứ không để người phụ mình. Nói câu này để tự an ủi nhưng trong lòng thì xót xa, chứng tỏ Tào Tháo chưa đến nỗi táng tận lương tâm.
Nhưng Tam Quốc diễn nghĩa thay đổi tận gốc câu nói trên: Từ đau xót biến mất, thay vào đó là “Thà ta phụ người trong thiên hạ, chứ không để người trong thiên hạ phụ ta”.
Thêm “trong thiên hạ” so với câu trên chỉ mỗi “người”, ý nghĩa rất khác nhau. Câu trên chỉ riêng gia đình Lã Bá Xa, câu dưới chỉ mọi người. Tuy vẫn là cái ác, nhưng mức độ và phạm vi khác nhau hoàn toàn.
Tòa án cũng xét qua những hồ sơ khác về nhân thân và tư cách của Tào Tháo.
Tam Quốc chí_Ngụy thư:
Tháo vốn dòng dõi Tướng quốc nhà Hán là Tào Tham.
Năm hai mươi tuổi, Tháo được đề cử Hiếu Liêm, làm chức Úy một bộ ở Bắc Lạc.
Người nước Lương là Kiều Huyền bảo Thái Tổ rằng: “Thiên hạ sắp loạn to, không phải người có tài ‘mệnh thế’ tất không cứu được. Ông chính là người đó!”
Đổng Trác xin cho Tháo làm Kiêu kỵ Hiệu úy, muốn dùng. Tháo bèn đổi tên họ, bỏ trốn về Đông.
Tào Man truyện:
Khi Hán Cao Tổ nổi lên, Tào Tham nhờ công được phong Bình Dương Hầu, con cháu tập tước, vài lần bị dứt nhưng đều được tái lập cho đến ngày nay.
Ngụy thư của Ngụy Thâu:
Thái úy Kiều Huyền, vốn nổi tiếng biết coi người, cho rằng Tháo khác thường, nói: “Tôi biết hầu hết danh sĩ thiên hạ, nhưng chưa thấy ai được như ông! Ông ráng giữ lấy mình. Tôi già quá! Vợ con gởi gấm nơi ông đấy!” Thanh danh Tháo nhờ đó càng nổi.
Khi Đại Tướng quân Hà Tiến cùng Viên Thiệu mưu diệt các hoạn quan, Tháo không theo. Tiến muốn mời Đổng Trác theo mình , nhằm tạo thế uy hiếp Thái hậu. Tháo cười rằng “Quan hoạn xưa nay có bao giờ không có, chẳng qua gần đây các vua cho chúng nhiều quyền hành, ân huệ quá mới nên nỗi. Muốn trị bọn này, cứ giết mấy tên đầu sỏ, chỉ cần một viên ngục quan là đủ, cần gì phải gọi đến các tướng bên ngoài! Bằng như muốn diệt sạch bọn này, việc thể nào cũng lộ ra, tôi nghĩ là sẽ thất bại”. [Đúng như lời Tháo: Trác chưa đến, Tiến đã bị giết.]
Khi Đổng Trác muốn phong chức cho Tháo, Tháo nghĩ Trác cuối cùng sẽ thất bại, nên không đến gặp mà trốn về quê nhà.
Qua những hồ sơ trên, tòa án yêu cầu bồi thẩm đoàn ghi nhận nhân thân tốt, tài trí trong quá khứ của Tào Tháo.
Kết cục, có lẽ bồi thẩm đoàn sẽ tuyên Tào Tháo vô tội đối với cáo buộc cố sát, có tội đối với cáo buộc ngộ sát có tình tiết giảm nhẹ. Bản án có lẽ là án tù ngắn hạn và bồi thường cho gia đình nạn nhân, chứ không phải tử hình.
Tào Tháo phát hịch triệu 17 chư hầu (Hồi 5)
TQDN: Tào Tháo làm một bài hịch gửi đi các quận, kêu gọi cùng đánh Đổng Trác. Có 17 chư hầu các trấn khởi binh đến hưởng ứng (được ghi tên tuổi và nơi trấn đóng hẳn hoi), cộng với quân của Tháo được gọi là “thập bát lộ quân”.
Chính sử: Tào Mạo là người gửi thư cho các châu quận.
Theo Dịch Trung Thiên,
Cho rằng Tào Tháo đã kêu gọi thành lập liên quân là quá đề cao Tào Tháo. Khi đó Tháo chưa có tiếng tăm gì. Sau khi Tào Tháo cự tuyệt lệnh bổ nhiệm của Đổng Trác (cũng là lệnh của triều đình) đã trở thành can phạm truy bắt quy án. Tháo không có quan hàm, không có địa bàn, quân lính ít ỏi, thì hiệu triệu được ai? Thái thú Đông Quận Kiều Mạo – chứ không phải Tào Tháo – là người phát hiệu triệu chư hầu.
Anh hùng ký ghi:
Đông Quận Thái thú Kiều Mạo giả danh Tam công ở Kinh sư gửi thư cho các châu quận, kể ra tội ác của Trác, nói rằng “bị bức bách, không thể tự cứu nổi, ngóng đợi nghĩa binh, cứu quốc gia qua cơn hoạn nạn”.
Sự thực chỉ có 10 người hội quân. Tam Quốc chí_Ngụy thư_Tào Tháo truyện ghi:
Mùa xuân Năm Sơ Bình nguyên niên tháng giêng, đồng thời cùng khởi binh gồm có:
- Hậu Tướng quân Viên Thuật
- Ký Châu Mục Hàn Phức
- Dự Châu Thứ sử Khổng Du
- Duyện Châu Thứ sử Lưu Đại
- Hà Nội Thái thú Vương Khuông
- Bột Hải Thái thú Viên Thiệu;
- Trần Lưu Thái thú Trương Mạc
- Đông Quận Thái thú Kiều Mạo
- Sơn Dương Thái thú Viên Di
- Tế bắc Quốc tướng Bão Tín.
Riêng Tôn Kiên tự động khởi binh đánh Đổng Trác chứ không hội quân với Viên Thiệu.
Nhận xét: La Quán Trung tự mâu thuẫn ở chỗ đã thuật rằng ai cũng biết Tào Tháo lúc này là can phạm đang bị Đổng Trác ra lệnh tầm nã, vừa mới tụ tập một ít thủ hạ và quân sĩ, thế thì Tháo làm sao dám ra mặt hiệu triệu chư hầu kẻo có người giết Tháo mà nhận tước vạn hộ hầu. Chắc chắn Tháo không thể nào có tư cách mà hiệu triệu các thái thú và thứ sử, mỗi người đang hùng cứ một phương. Tháo lại càng không thể hiệu triệu một người như Viên Thiệu mà La Quán Trung giới thiệu thuộc nhà bốn đời làm tam công.
Hoa Hùng giết bốn tướng phe chư hầu (Hồi 5)
TQDN: Hoa Hùng thân cao chín thước, mình hổ lưng lang, đầu báo tay vượn. Khi nghe tin quân chư hầu động binh, Hùng xin đi đánh. Đổng Trác phong Hùng làm Kiêu kỵ Hiệu úy (ngang với quân hàm của Tào Tháo lúc còn đương chức). Hùng dẫn quân nghênh chiến phe chư hầu.
Trận đầu, Hoa Hùng chém chết Pháo Trung, là tướng chư hầu ở Tế Bắc. Rồi Hùng đến đánh trại Tôn Kiên vào ban đêm khiến cho Tôn Kiên cùng Tổ Mậu chạy dài. Tổ Mậu bảo Kiên cởi chiếc mũ chóp đỏ đưa cho mình đội để đánh lạc hướng Hùng, hai người chia đường chạy hai ngã. Quân Hoa Hùng cứ đuổi theo người đội mũ chóp đỏ. Cuối cùng Hùng chém chết Tổ Mậu. Tôn Kiên cấp tốc cho người đi báo Viên Thiệu, còn Hùng được Trác thăng chức đô đốc.
Viên Thiệu họp chư hầu để bàn bạc. Trong khi đó, Hoa Hùng dẫn quân đến thách đánh. Hai tướng phía chư hầu là Du Thiệp và Phan Phụng lần lượt ra nghênh chiến, đều bị Hùng chém chết. Các tướng chư hầu không người nào còn máu mặt.
Chính sử: Ba cái tên Pháo Trung, Du Thiệp và Phan Phụng đều là hư cấu [Wikipedia], và không có sử liệu nào ghi Tổ Mậu tử trận.
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư, Tôn Kiên đích thực bị Hoa Hùng tấn công. Có chi tiết hơi khác với TQDN ở chỗ Tôn Kiên tháo khăn quàng màu đỏ cho Tổ Mậu mang để dẫn dụ quân của Đổng Trác đuổi theo Tổ Mậu. Đến một lúc vì quá mệt, Tổ Mậu tháo khăn quàng ra quấn quanh một cây cột rồi lẩn trốn vào bụi rậm. Quân Đổng Trác kéo đến bao vây, thấy đó chỉ là một cây cột đang cháy dở nên rời đi. Số phận Tổ Mậu về sau không rõ.
Nhận xét: La Quán Trung hư cấu về sức mạnh và nêu rõ quân hàm cao của Hoa Hùng nhằm nâng cao chiến tích của Quan Vũ sau đó. (Xem tiếp dưới đây.)
Quan Vũ giết Hoa Hùng (Hồi 5)
TQDN: Sau khi Hoa Hùng giết Du Thiệp và Phan Phụng, Quan Vũ xin ra đánh. Viên Thiệu nghe Lưu Bị giới thiệu Quan Vũ là lính bắn cung nên có ý khinh khi, thét bảo quân lính “đuổi cổ nó ra ngoài”. Nhưng Tào Tháo can, nói hãy cho Quan Vũ cơ hội, và sai người rót chén rượu, đưa Quan Vũ uống trước khi đi. Quan Vũ nói hãy để chén rượu đấy, mình đi rồi về ngay. Chư hầu nghe tiếng trống đánh, tiếng người reo ầm ầm như trời long đất lở, rồi tiếng nhạc nhong nhong trở về, ngựa đã vào tới trung quân. Quan Vũ cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo đưa hãy còn nóng.
Chính sử: Tôn Kiên chém chết Hoa Hùng năm 191 ở địa danh cụ thể là Dương Nhân. [Hậu Hán thư và Tam Quốc chí]
Nhận xét: Như đã nêu trên, La Quán Trung lập nên một chuỗi sự kiện hư cấu nhằm tôn vinh “chiến công đầu tay” của Quan Vũ vô cùng hào hùng. Thực chất là La Quán Trung giật lấy chiến công của Tôn Kiên mà trao cho Quan Vũ! Ảnh hưởng của văn chương La Quán Trung mạnh mẽ và lâu dài đến nỗi điển tích “Ôn tửu trảm Hoa Hùng” của Quan Vũ được lưu truyền ngàn đời và thường được tái hiện trên sân khấu kinh kịch qua nhiều thế hệ, thậm chí trong trò chơi điện tử.
Lã Bố đánh hạ bốn tướng chư hầu (Hồi 5)
TQDN: Quân Hoa Hùng thua, chạy về báo. Đổng Trác sai Lã (Lữ) Bố lĩnh ba mươi vạn quân ra trước cửa quan Hổ Lao, đóng một trại lớn. Lã Bố đem năm nghìn quân thiết kỵ ra trận. Vương Khuông đem quân mã, bày thành thế trận, trông thấy Lã Bố mình mặc áo gấm đỏ trăm hoa, ngoài khoác áo giáo thú diện liên hoàn; dưới thắt dây lưng sư man, lưng đeo một bộ cung tên; tay cầm một ngọn họa kích, cưỡi ngựa xích thố. Khuông ngoảnh lại hỏi ai dám ra đánh. Đằng sau có một tướng vác ngọn giáo, tế ngựa chạy ra; đó là một danh tướng ở Hà Nội, tên là Phương Duyệt. Hai ngựa giao nhau, chưa được năm hiệp, Duyệt bị Lã Bố đánh một ngọn kích ngã xuống ngựa.
Chư hầu ba xứ mỗi xứ mất ít nhiều người ngựa, lui ba mươi dặm, đóng trại. Quân năm xứ đi sau cũng dần dần kéo cả đến, họp lại bàn nhau, đều cho Lã Bố là anh hùng, không ai địch nổi.
Khi đang lo nghĩ thì có quân vào báo rằng Lã Bố đến khiêu chiến. Chư hầu tám xứ đều lên ngựa kéo ra cả, chia quân ra làm tám đội ở trên gò cao; trông ở đằng xa thấy một toán quân mã, cờ bay phấp phới; Lã Bố xông đến. Bộ tướng của Trương Dương, thái thú Thượng Đẳng tên là Mục Thuận vác ngọn giáo tế ngựa ra đánh, bị Bố đâm một ngọn kích chết lăn từ trên ngựa xuống đất.
Thấy thế, một bộ tướng của Khổng Dung, tên là Vũ An Quốc, vác một cái dùi sắt, tế ngựa chạy ra, Lã Bố đến, đánh nhau được mười hiệp, Bố đưa một ngọn kích đánh gãy cánh tay An Quốc. An Quốc vứt dùi sắt chạy. Chư hầu tám xứ cùng đổ ra mới cứu được An Quốc. Lã Bố lui quân trở về, các chư hầu lại về trại bàn với nhau.
Trong khi đang bàn bạc, Lã Bố lại kéo quân đến thách đánh. Công Tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố, mới được vài hiệp, Toản thua chạy.
Chính sử: Ba cái tên Phương Duyệt, Mục Thuận, Vũ An Quốc đều là hư cấu [Wikipedia], còn Công Tôn Toản thật ra không tham dự vào chiến dịch đánh Đổng Trác vì khi ấy vẫn còn ở U Châu.
Lưu, Quan, Trương vây đánh Lã Bố (Hồi 5)
TQDN: Trong trận trước cửa quan Hổ Lao, sau khi Công Tôn Toản thua chạy, Trương Phi xông ra đánh, chưa ăn thua, rồi Quan Vũ và Lưu Bị cũng xông ra. Ba người vây tròn lấy Lã (Lữ) Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù. Binh mã tám xứ ngây mặt ra trông. Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi, phi ngựa chạy về.
Cổ nhân có người làm một bài ca dài cảm tác điển tích “Tam anh chiến Lã Bố”.

Chính sử: Cả Công Tôn Toản và Lưu–Quan–Trương lúc ấy phục vụ dưới trướng Toản không đánh Lã Bố, bởi vì đơn giản là bốn người không tham gia “thập bát lộ quân” chống Đổng Trác. Thật ra, Tôn Kiên là người đánh lui Lã Bố.
Anh hùng ký ghi:
Lúc đầu Tôn Kiên đánh Đổng Trác, đến phía nam lấy Dương Nhân thuộc huyện Lương. Trác sai quân kị chặn Kiên. Trần Quận Thái thú Hồ Chẩn làm Đại đốc hộ, Lữ Bố làm Kị đốc, quân kị bộ còn lại đều theo Đô đốc rất đông. Quân đến Quảng Thành, cách thành Dương Nhân mấy chục dặm. Chiều tối, quân mã mỏi mệt, phải nghỉ lại, lại nhận lệnh của Trác nghỉ ở Quảng Thành, cho ngựa ăn uống, đến đêm tiến quân, sắp sửa đánh thành. Các tướng sợ hãi Chẩn, muốn làm hỏng mưu của Chẩn. Bọn Lữ Bố truyền nói: “Giặc trong thành Dương Nhân đã chạy, nên đuổi bắt chúng; không được để mất chúng”, liền buổi đêm tiến quân.
Trong thành phòng giữ đã vững, không thể đánh úp. Do đó quan quân đói khát, người ngựa mỏi mệt, đến giữa đêm, lại không có hào lũy, cởi giáp nghỉ ngơi, mà Bố lại nói lời kinh đông: “Giặc trong thành lại đến”. Quân sĩ tan vỡ trốn chạy, đều vứt giáp, cung tên, yên ngựa. Chạy được hơn mười dặm, dừng lại không thấy giặc. Lúc trời sáng, quay về, thu thập binh khí, muốn đến đánh thành. Trong thành giữ đã vững, hào lũy đã sâu, bọn Chẩn không đánh được mà về.
Nhận xét: Một lần nữa, La Quán Trung cướp chiến công của Tôn Kiên để trao cho người khác. Công Tôn Toản và Lưu–Quan–Trương không hề tham gia chiến dịch đánh Đổng Trác, nhưng La Quán Trung vẫn kéo bốn người vào những trận chiến anh dũng, hết đánh Hoa Hùng vốn có chiến tích hư cấu tới đánh Lã Bố cũng vốn có chiến tích hư cấu. Nếu gạt bỏ tất cả những tình tiết hư cấu này kể cả hư cấu Quan Vũ chém Văn Sú thì chiến dịch đánh Đổng Trác còn lại chẳng là gì cả!
Câu chuyện của Điêu Thuyền (Hồi 8)
Đây là câu chuyện về “Liên hoàn kế” của Tư đồ Vương Doãn và “Mỹ nhân kế” của Điêu Thuyền.
TQDN: Có một con hát trong phủ của quan Tư đồ Vương Doãn tên là Điêu Thuyền, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn nói với Điêu Thuyền rằng ông ta muốn dùng liên hoàn kế: trước đem nàng gả cho Lã Bố, sau lại đem nàng dâng Đổng Trác. Điêu Thuyền sẽ dùng mỹ nhân kế để làm mê hoặc và ly gián Trác và Bố, xui khiến thế nào cho Lã Bố giết Đổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Điêu Thuyền nhận lời.
Trước nhất, Vương Doãn mời rượu và tâng bốc Lã Bố, sai “con gái” Điêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy ra mời rượu, rồi hứa sẽ cho Điêu Thuyền làm tỳ thiếp của Bố. Kế tiếp, Vương Doãn mời Đổng Trác đến nhà, tâng bốc Trác, “kêu con hát của nhà” Điêu Thuyền ra múa hát hầu Trác, thưa muốn dâng Điêu Thuyền lên thái sư, và sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ.
Bố biết chuyện, hỏi Vương Doãn. Doãn đáp rằng Trác đã nói tự đưa “con dâu” về cho Bố. Rốt cuộc Bố đau khổ biết Trác đã chiếm đoạt Điêu Thuyền. Còn Điêu Thuyền hết lòng hầu hạ, tận tình chiều chuộng Trác, nhưng lúc trông thấy Bố lại lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Đổng Trác, luôn gạt nước mắt.
Lý Nho khuyên Trác vì đại cục đem Điêu Thuyền cho Bố để Bố sống chết với cha nuôi Trác. Khi Trác tỏ ý muốn gả Điêu Thuyền cho Bố, cô này lại giả vờ giật mình, khóc lóc rằng mình “đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở”, lại toan tự vẫn, còn nói xấu Lý Nho về bè với Bố để lăng nhục mình.
Mặc cho Lý Nho khuyên giải, Bố vẫn muốn giữ Điêu Thuyền, mắng Nho: “Thế thì vợ mày, mày có đem cho nó không? Việc Điêu Thuyền cấm không được động đến nữa, còn nói tao sẽ chém đầu.”
Vương Doãn đào thêm hố sâu chia rẽ Trác và Bố, và thuyết phục để Bố thay lòng đổi dạ ra tay hạ sát Trác.
Chính sử: Nếu thật sự có câu chuyện chấn động khiến dẫn đến cái chết của Đổng Trác về sau thì đáng lẽ phải được ghi trong sử liệu, nhưng không có sử liệu nào nhắc đến tên nhân vật Điêu Thuyền.
Tam Quốc chí_Lữ Bố truyện không hề nhắc đến Điêu Thuyền là một người, chỉ đề cập: “Trác thường dùng Bố giữ Trung các, Bố cùng với thị tỳ của Trác tư thông, sợ bị phát giác, nên tâm hay bất an”.
Hậu Hán thư, Lã Bố truyện viết: “Bố vụng trộm tư thông cùng thị tỳ của Doãn.”
Trong khi đó, các tài liệu chính sử về nhân vật Vương Doãn lại không nhắc tới Điêu Thuyền hoặc một “thị tỳ”, “ca kỹ”, “con nuôi” nào.
Sử gia Lê Đông Phương giải thích: Hai chữ “điêu thuyền” vốn là tên một chức quan trong cung thời Hán, địa vị thấp hơn phi tần khá nhiều. Đây không phải là tên người. Khi Đổng Trác vào cung vua hoành hành đã bắt nhiều phi tần của Hán đế mua vui, nên một thị tỳ ở cấp điêu thuyền của triều đình có thể có trong nhà Đổng Trác chứ không thể có trong nhà Vương Doãn.
Nhận xét: Từ điển tích này có câu: “Mười tám lộ chư hầu không giết nổi Đổng Trác; chỉ một mình Điêu Thuyền giết được. Lưu–Quan–Trương, không thắng nổi Lã Bố; chỉ một mình Điêu Thuyền thắng được”.
Chuyện khó tin mà có thật: nhân vật hư cấu Điêu Thuyền được kể là một trong “tứ đại mỹ nhân” của Trung Hoa do sắc đẹp và tầm ảnh hưởng đối với lịch sử: Ba mỹ nhân kia có thật trong lịch sử: Tây Thi, Vương Chiêu Quân và Dương Quý phi. Người tổng hợp bài này vẫn nghĩ thay vì Điêu Thuyền, nên xếp nhân vật có thật Trần Viên Viên vào danh sách “tứ đại mỹ nhân”. Đó là người được kể là có nhan sắc tuyệt trần, hát hay múa đẹp, sắc nghệ quán thế, từng làm say mê ba nhân vật lịch sử nổi tiếng: Sùng Trinh (Hoàng đế nhà Minh), Ngô Tam Quế (người được nhà Thanh phong là Tây Bình vương, có thời xưng là hoàng đế), và Lý Tự Thành (người từng có thời xưng là hoàng đế). Tức là một phụ nữ vì tài sắc mà ảnh hưởng đến cái chết của ba vị hoàng đế!
Đổng Trác dùng kích ném Lã Bố ở Phụng Nghi Đình (Hồi 8)
TQDN: Đỉnh điểm của câu chuyện nêu trên xảy ra ở Phụng Nghi Đình, nơi Điêu Thuyền sụt sùi khóc than với Lã Bố rằng “… Từ khi gặp tướng quân, được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu Thái sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được chàng để từ giã lần cuối cùng…” Điêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.
Lã Bố vội vàng ôm ngay lấy Điêu Thuyền, khóc nói rằng từ lâu đã hiểu lòng nàng, nguyện lấy được nàng, bây giờ sợ thằng giặc già nó nghi, phải đi ngay.
Thuyền lôi vạt áo Lã Bố lại nói rằng đã được nghe tiếng Bố lừng lẫy, ai ngờ tướng quân lại chịu dưới quyền áp chế của người khác! Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa.
Lã Bố thẹn đỏ cả mặt, quay lại ôm lấy Điêu Thuyền, dỗ dành an ủi, hai người quấn quýt không nỡ buông nhau ra.
Đổng Trác bất chợt xuất hiện, giận quát to một tiếng. Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.

Trác vớ ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy mau, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lã Bố. Bố gạt rơi xuống đất, Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa.
Chính sử: Do Đổng Trác tàn bạo, giết nhiều người và kết oán với nhiều người nên những lúc xuất hành và nghỉ ngơi thường dùng Lã Bố làm cảnh vệ. Tuy nhiên, Trác quen tính thô lỗ và nóng nảy, có lần Lã Bố đứng hầu có chút không vừa ý bèn chộp lấy cái kích phi vào ông. Lã Bố vội tránh cây kích và xin lỗi, Đổng Trác mới nguôi giận. [Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân], [Lê Đông Phương]
Nhận xét: Qua ngòi bút thần kỳ của La Quán Trung, điển tích “Phụng Nghi Đình” hoặc “Lã Bố hí Điêu Thuyền” tuy hư cấu nhưng đầy kịch tính lâm li trở thành bất hủ và là đề tài thường được đưa lên sân khấu kinh kịch ở Trung Quốc, thậm chí sân khấu hát bộ và cải lương trước đây ở miền Nam.
Tào Tháo uống rượu luận anh hùng (Hồi 21)
TQDN: Tào Tháo sai mời Lưu Bị vào phủ. Tháo nói thấy trên cành mai có quả xanh nên hái xuống mà thưởng thức, còn có rượu nấu vừa chín cho nên mời Bị đến tiểu đình uống rượu. Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà say, Tháo hỏi Bị: “Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.”
Lưu Bị kể qua Viên Thuật ở Hoài Nam (mà Tháo ví như “xương khô trong mả”), Viên Thiệu ở Hà Bắc, Lưu Biểu ở Kinh Châu, Tôn Sách ở Giang Đông, Lưu Chương ở Ích Châu, thêm Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại.
Đối với mỗi người Tháo đều phản bác, sau cùng lấy tay trỏ vào Bị, rồi lại trỏ vào mình nói rằng: “Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi.”
Huyền Đức nghe nói, giật nảy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm ở trong tay, rơi cả xuống đất. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng: “Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!”

Tào Tháo cười hỏi rằng: “Trượng phu cũng sợ sấm à?” Lưu Bị nói: “Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, huống chi là tôi đây sao lại không sợ?” Lưu Bị che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng. Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền Đức nữa.
Chính sử: Không có nhiều chi tiết như La Quán Trung tưởng tượng.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi:
Cậu của Hiến đế là Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa nhận cái đai áo của Đế, bên trong có mật chiếu, chịu gánh vác việc tru diệt Tào Tháo. Lưu Bị còn chưa khởi hành. Lúc ấy Tào Tháo thung dung bảo Lưu Bị rằng: “Ngày nay anh hùng trong thiên hạ, chỉ có sứ quân và Tháo này; lũ Bản Sơ [Viên Thiệu] chẳng đáng kể đến.” Lưu Bị đang ăn, đánh rơi cả thìa đũa.
Người ví Viên Thuật như “xương khô trong mả” là Khổng Dung. Khi Đào Khiêm muốn bàn giao Từ châu cho Lưu Bị, Lưu Bị không dám nhận mà tiến cử Viên Thuật. Đào Khiêm liền hỏi ý kiến Khổng Dung. Dung chê Thuật không thể đảm đương bằng nhận xét này. [Lê Đông Phương]
Quan Vũ giao ước ba việc (Hồi 25)
TQDN: Khi Quan Vũ đóng quân ở Hạ Phì, Hạ Hầu Đôn. Quan Vũ ra ngoài thành giao chiến rồi bị vây hãm, phải lên quả núi đất đóng quân tạm nghỉ. Trương Liêu đến, Quan Vũ nói sẵn sàng chết. Trương Liêu dùng lời lẽ khuyên Quan Vũ về hàng Tào Tháo: nếu chết đi, Quan Vũ sẽ mắc ba tội: phụ lời sống thác có nhau với Lưu Bị, phụ lời phó thác bảo vệ hai phu nhân của Lưu Bị, phụ nghĩa lớn là khuông phò nhà Hán.
Quan Vũ giao ước ba việc: (1) Vũ chỉ hàng vua nhà Hán chứ không hàng Tháo, (2) cấp dưỡng hai chị dâu theo bổng lộc của hoàng thúc, nhất thiết người ngoài không ai được đến cửa; (3) hễ Vũ nghe Bị ở đâu sẽ lập tức cáo từ Tháo rồi đi theo Bị.
Chính sử: Nếu thật sự có chuyện giao ước quan trọng như thế thì đáng lẽ phải được ghi trong sử liệu.
Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện ghi: “Tào công Đông chinh, Tiên Chủ [Lưu Bị] thua chạy sang với Viên Thiệu, Tào công bắt được Vũ đem về, bái làm Thiên tướng quân, ban cho lễ cực hậu.”
Tam Quốc chí_Ngụy thư_Tào Tháo truyện ghi vắn tắt: “Quan Vũ đóng binh ở Hạ Bì, Công [Tào Tháo] lại tiến công Hạ Bì, Vũ hàng.”
Quan Vũ phò hai chị dâu (Hồi 25)
TQDN: Sau khi Tào Tháo chấp nhận ba điều ước như nêu trên, Quan Vũ dẫn binh vào thành, vào yết kiến hai chị dâu. Cam, My, hai phu nhân nghe Quan Công đã về, vội ra đón vào. Quan Công thuật rõ lại ba điều ước.
Khi đi đường, nghỉ ở xá, Tào Tháo muốn làm rối loạn lễ vua tôi, để Quan Vũ và hai chị dâu cùng ở một nhà. Vũ cầm đuốc đứng hầu ngoài cửa, tự tối đến sáng, sắc mặt không lúc nào có dáng mỏi mệt. Tháo thấy thế lại càng kính phục.
Cứ ba ngày một lần Vũ đứng cửa ngoài chắp tay kính cẩn, hỏi thăm sức khỏe hai chị.
Chính sử: Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện ghi: Tào công “bắt được vợ con Tiên Chủ, bắt giữ được cả Quan Vũ đem về.” Câu này khiến cho độc giả hiểu lầm rằng Tháo bắt vợ con Bị cùng với Vũ.
Thật ra, Lưu Bị đóng quân ở Tiểu Bái, bại trận bỏ chạy, vợ con bị bắt ở đây, còn Quan Vũ đầu hàng ở Hạ Bì (Phì) mà không có hai Cam, My phu nhân ở bên. Sử sách không ghi chép gì về số phận của vợ con Lưu Bị sau khi bị Tào Tháo bắt.
Quan Vũ giết Văn Sú (Hồi 26)
TQDN: Viên Thiệu sai đại tướng là Văn Sú băng dòng Hoàng Hà, đóng quân ở bến Diên Tân. Văn Sú mình cao tám thước (1,8m) là danh tướng của Viên Thiệu, từng thắng nhiều địch thủ giỏi. Sau khi Văn Sú đánh bại Trương Liêu và Từ Hoảng của Tháo, Quan Vũ xông ra đánh Văn Sú. Chưa được ba hiệp, Văn Sú thấy núng liền quay ngựa chạy. Ngựa Quan Vũ chạy nhanh, sấn kịp ngay sau lưng Văn Sú. Quan Vũ đưa một nhát đao, Văn Sú ngã chết ngay dưới chân ngựa.
Chính sử: Văn Sú trúng kế Tào Tháo mà bị giết chứ không phải bị Quan Vũ chém.
Theo Tam Quốc chí_Ngụy thư,
Tào Tháo sai Trương Liêu và Quan Vũ làm tiên phong, đánh tan quân của Viên Thiệu, chém được Nhan Lương. Bạch Mã được giải vây.
Viên Thiệu vượt sông đuổi theo quân của Công, đến phía nam Diên Tân. Tháo kìm binh đóng lại ở phía Nam sườn núi, sai người lên mặt lũy ngắm xem quân Thiệu, rồi ra lệnh cho quân kỵ cởi yên thả ngựa. Lúc ấy, xe chở đồ nặng của Tháo từ Bạch Mã đang trên đường chuyển đến. Chư tướng cho rằng quân kỵ của địch quá nhiều, chẳng bằng quay về bảo vệ doanh trại. Tuân Du nói: “Đấy là để nhử địch, sao lại bỏ đi?” Tướng kỵ binh của Thiệu là Văn Sú và Lưu Bị dẫn năm sáu nghìn quân kỵ trước sau ào tới. Chư tướng lại bẩm: “Hãy lên ngựa thôi.” Tháo nói: “Chưa cần.” Lát sau, kỵ binh Thiệu kéo đến khá đông, tranh nhau chạy tới chỗ các xe chở đồ nặng. Tháo nói: “Lên ngựa được rồi.” Quân kỵ của Tháo chẳng đến sáu trăm, xông thẳng đến phá tan quân Thiệu, chém chết Văn Sú.
Nhận xét: La Quán Trung miêu tả chiến công tài giỏi của Văn Sú nhằm tôn vinh Quan Vũ thành lừng lẫy. Thêm chiến công của người khác được La Quán Trung chuyển qua cho Quan Vũ.
Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng (Hồi 27)
TQDN: Thêm một chiến tích hào hùng của Quan Vũ, tạo thành điển tích “Quá ngũ quan trảm lục tướng”.
Khi được tin Lưu Bị đang ở Nhữ Nam, Quan Vũ vào ngay tướng phủ để từ biệt Tào Tháo. Tháo đã biết trước, sai treo một cái biển “hồi tỵ” (tránh xa) ở ngoài tướng phủ. Quan Công đành lủi thủi trở về, sai những người tùy tùng cũ thu xếp xe ngựa sẵn sàng, lại dặn bảo trong nhà: phàm bao nhiêu những đồ Tào Tháo cho, đều để cả lại, cái tơ cái tóc cũng không được mang đi. Hôm sau Quan Công lại đến tướng phủ để từ tạ. Ngoài cửa vẫn có biển “hồi tỵ”. Quan Công đến luôn mấy lần, đều không được vào. Quan Vũ bèn viết một phong thư từ tạ Tào Tháo, sai người mang đến tướng phủ. Một mặt đem những vàng bạc đã được tặng mấy lần trước gói hết cả lại bỏ vào kho, treo ấn Hán thọ Đình hầu trên sảnh đường, rồi mời hai phu nhân lên xe mà lên đường.
Quan Vũ lần lượt phải đi qua 5 ải. Vì không có giấy tờ của Tào Tháo nên Quan Vũ qua mỗi ải đều bị ngăn cản, bất đắc dĩ phải chém 6 tướng của Tào Tháo, bao gồm Khổng Tú, Mạnh Thản, Hàn Phúc, Biện Hỉ, Vương Thực và Tần Kỳ. Điển tích “Quá ngũ quan trảm lục tướng” này được thổi phồng như bằng chứng về sức mạnh vô song của Quan Vũ.
Chính sử: chỉ có ghi chép Quan Vũ về với Lưu Bị chứ không ghi chép cụ thể hành trình và diễn biến. Tên của 6 tướng nêu ra trong TQDN không có thật trong các sử liệu. Trên thực tế, 5 ải này ở cách nhau rất xa và không liên quan đến việc Quan Vũ tìm đường về với Lưu Bị. Quan Vũ cưỡi ngựa từ Hứa Xương về Nhữ Nam tìm Lưu Bị khá thuận lợi, chỉ mất khoảng 3-4 ngày đường.

Ghi chú: Như đã nêu cho Hồi 25, hai chị dâu không đi theo Quan Vũ hàng Tào. Vì thế, điển tích “Đuốc sáng thâu đêm” trước nhà khi “Phò nhị tẩu” cũng là hư cấu.
Quan Vũ chém Sái Dương (Hồi 28)
TQDN: Lại thêm một “chiến công” hào hùng của Quan Vũ.
Khi Quan Vũ hộ tống hai chị dâu đến Cổ Thành, Trương Phi hiểu lầm mà cho rằng Quan Vũ đã bội nghĩa lời thề vườn đào (chuyện thề thốt ở vườn đào cũng là hư cấu, như trên đã ghi). Vừa lúc Sái Dương dẫn quân Tào đến truy đuổi. Quan Vũ nói sẽ chém Sái Dương để tỏ lòng mình. Trương Phi giao hẹn Quan Vũ phải giết được Sái Dương trong ba hồi trống. Quan Vũ múa long đao xông đến Sái Dương. Trương Phi thẳng cánh đánh trống, chưa dứt một hồi, đầu Sái Dương đã lăn xuống đất.
Chính sử: Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ. Một lần nữa, chiến công của người khác được La Quán Trung chuyển qua cho Quan Vũ.
Triệu Vân giết Bùi Nguyên Thiệu chỉ sau 1 hiệp (Hồi 28)
TQDN: Lưu Bị sợ Viên Thiệu cho người đuổi theo, vội vàng thu xếp để đi. Đang đi chợt gặp Châu Thương dẫn vài mươi người bị thương đến. Châu Thương kể: “Khi tôi chưa đến núi Ngọa Ngưu có một tướng cưỡi ngựa qua đó, đánh nhau với Bùi Nguyên Thiệu, chỉ một hiệp, đâm chết Nguyên Thiệu, chiêu hàng quân sĩ chiếm giữ sơn trại. Khi gọi quân sĩ ra, chỉ có mấy người dám ra, còn thì đều sợ hãi, không dám rời bỏ sơn trại. Tôi giận lắm, cùng với tướng ấy đánh nhau, tôi bị đâm ba vết thương, bởi vậy tôi chạy lại đây báo chúa công biết.”
Lưu Bị hỏi tướng ấy hình dạng thế nào, họ tên là gì thì Châu (Chu) Thương nói: “Trông người rất hùng tráng, không biết tên họ là gì.”
Quan Vũ thúc ngựa đi trước, Lưu Bị đi sau, đi tắt đến núi Ngọa Ngưu. Châu Thương đến đứng dưới núi, mắng chửi, tướng ấy mặc áo giáp, vác giáo tế ngựa đem quân xuống núi. Tướng ấy thấy Lưu Bị, nhảy từ trên yên ngựa xuống đất, thụp lạy ở bên đường: quả nhiên là Triệu Vân.
Chính sử: Triệu Vân không giết Bùi Nguyên Thiệu, đơn giản vì cái tên Bùi Nguyên Thiệu là hư cấu [Wikipedia].
Chu Thương cũng là nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Vì thế, những điển tích như Chu Thương đi theo Quan Vũ chặn bắt Tào Tháo ở Hoa Dung hoặc hộ vệ Quan Vũ trong điển tích “Đơn đao phó hội”, hoặc bắt sống Bàng Đức… rồi đâm cổ tự vẫn sau khi Quan Vũ chết đều là hư cấu.
Tôn Sách bị Vu Cát ám ảnh phát bệnh chết (Hồi 29)
TQDN: Khi Tôn Sách đi săn, có một con hươu lớn chạy ra. Sách tế ngựa đuổi theo, thấy trong rừng rậm có ba người cầm giáo đeo cung đứng rình. Một người cầm giáo đâm vào đùi Tôn Sách. Một người giương cung bắn tên vào má Sách. Sách nhổ cái tên ra, lấy cung bắn trả lại, người theo tiếng dây cung ngã liền. Còn người kia vác giáo đến đâm Sách túi bụi và kêu to họ là gia khách Hứa Cống, nay báo thù cho chủ.
Thầy thuốc nói đầu tên có thuốc độc, đã ngấm vào xương, phải nghỉ ngơi trong một trăm ngày mới khỏi lo ngại, nếu để cơn tức giận nổi lên, thì vết thương sẽ khó chữa.
Một đạo nhân tên Vu Cát đi đến, tả hữu rối rít xuống lầu nghênh đón cùng dân chúng. Tôn Sách cho Cát là tà đạo, sai bắt bỏ ngục. Mẹ Sách là Ngô thái phu nhân khuyên con không nên giết Vu Cát. Bọn Trương Chiêu vài mươi người cùng đứng tên làm giấy bảo lĩnh cho Vu thần tiên. Lã Phạm đề nghị Sách khiến Vu Cát cầu mưa để chuộc tội. Mưa xuống như trút nước, nhưng Sách cho rằng yêu nhân ngẫu nhiên gặp dịp, quát võ sĩ đem chém Vu Cát. Sách sai đem thây Vu Cát bêu ở chợ để trị cái tội yêu tà. Đến sáng không thấy xác Vu Cát, quân giữ thây vào báo Tôn Sách. Chợt thấy một người từ ngoài thong thả bước vào, trông ra thì là Vu Cát. Tôn Sách giận lắm, toan rút gươm ra để chém, tự nhiên tối sầm mặt lại, ngã ngay xuống đất.
Canh hai đêm hôm ấy, Tôn Sách lại thấy Vu Cát đứng ngay đầu giường, rồi sau đó lại thấy Vu Cát ở miếu nơi Sách đến đốt hương, khi trở về phủ lại thấy Vu Cát đứng ngay trước cửa phủ, rồi khi soi gương lại thấy Vu Cát trong gương. Vết đau ở chỗ bị thương vỡ ra, Tôn Sách trăn trối với bọn Trương Chiêu và các em rồi chết.
Chính sử: Sự thật là Tôn Sách chết vì vết thương quá nặng do khách của Hứa Cống, chứ không phải vì bị ám ảnh bởi Vu Cát.
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư, năm Kiến An thứ 5 (năm 200), Tôn Sách ngầm muốn đánh úp đất Hứa, đón Hán Đế, ngầm luyện quân, sắp đặt các tướng. Chưa đi, bị khách của Thái thú Ngô Quận là Hứa Cống ngày trước giết. Lúc trước, Sách giết Cống, con nhỏ của Cống cùng người khách trốn náu ở bờ sông. Sách một mình cưỡi ngựa đi ra, rồi gặp người khách, người này đâm Sách. Vết thương rất nặng, đến đêm thì Sách chết.
Giang Biểu truyện và Sưu thần ký đề cập đến nhân vật Vu Cát với chi tiết khác nhau một ít, nhưng có hai điểm giống nhau: (1) quả thật Sách ra lệnh chém Vu Cát với ý bài trừ mê tín dị đoan, (2) không có chi tiết về việc Sách thấy Vu Cát hiển linh nhiều lần sau khi ông này bị chém chết.
Tôn Sách dặn dò mẹ trước khi chết (Hồi 29)
TQDN: Trước khi chết, Tôn Sách dặn dò mẹ rằng “Về sau nếu có việc trong không quyết thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết thì hỏi Chu Du.” Sách lại gọi các em và vợ là Kiều phu nhân mà trăn trối.
Chính sử: Các nhà nghiên cứu khẳng định: di ngôn của Tôn Sách là hư cấu. [Dịch Trung Thiên]
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi:
Sách gọi bọn Trương Chiêu đến, nói: “Trung Quốc đang loạn, ta dựa vào quân Ngô, Việt, cái vững của Tam Giang, đủ để xem thành bại. Các ông giúp em ta cho tốt”! Gọi Quyền đến cho đeo ấn thao, nói: “Dấy quân Giang Đông, quyết mưu ở vùng Lưỡng Trần, tranh đua với thiên hạ thì ngươi không bằng ta; nhưng cử người hiền, dùng người tài, bọn chúng đều hết lòng để giữ Giang Đông thì ta không bằng ngươi”. Đến đêm thì chết.
Không ghi gì về việc dặn dò mẹ, các em và vợ.
Nhận xét: Đã trao ấn cho Quyền thì đáng lẽ Sách phải dặn dò Quyền về việc hỏi Trương Chiêu và Chu Du, để khi cần Quyền có thể làm theo ngay. Dặn dò bà mẹ như thế rồi bà ít khi can dự việc triều chính nên không thể thực hiện nhanh chóng khi cần, như vậy là thiếu lô-gíc.
Tào Tháo nói dối với Hứa Du (Hồi 30)
TQDN: Trong Trận Quan Độ chống Viên Thiệu, Tào Tháo nghe thấy Hứa Du tự Tử Viễn đến, mừng quá không kịp đi giày, cứ chân không chạy ra đón vào…
Hứa Du hỏi: “Nay lương thảo của ông còn bao nhiêu?” Tháo nói: “Có thể chi dùng một năm.”
Du cười: “Sợ rằng không thể được thế.” Tháo nói: “Độ sáu tháng thôi!”
Hứa Du rũ vạt áo, đứng phắt dậy, bước ra khỏi trướng nói: “Tôi đã lấy bụng thực lại đây để giúp ông mà ông còn nói dối, khá phải là điều mong thế hay sao!” Tháo nắm áo Du kéo lại nói: “Xin Tử Viễn đừng giận, để tôi nói thực: Lương thảo quả thực chỉ còn độ ba tháng nữa thì hết.”
Du cười nói: “Thiên hạ thường vẫn đồn Mạnh Đức là gian hùng, quả đúng thế!” Tháo cũng cười nói: “Ông còn lạ gì, người ta đã có câu nói: ‘Binh bất yếm trá’ [Nghĩa là trong phép dùng binh tha hồ nói dối].” Rồi lại ghé vào tai Hứa Du nói thầm: “Lương ăn chỉ còn đủ tháng này thôi!”
Du nói to: “Thôi đừng nói dối nữa, lương ông hết sạch rồi!”
Chính sử: Tào Man truyện chép:
Công [Tào Tháo] nghe tin Du tới, đi chân không ra đón, vỗ tay cười nói: “Tử Viễn, khanh tới đây, việc của ta xong rồi vậy!” …
Du hỏi: “Nay lương thảo của ngài có được bao nhiêu?” Công nói: “Còn đủ dùng một năm.”
Du cười: “E không được thế, ngài nói lại xem!” Công lại nói: “Có thể được nửa năm.”
Du nói: “Túc hạ chẳng muốn phá họ Viên ư, sao chẳng nói thật lòng!” Công nói: “Trước là ta nói đùa thấy thôi. Kỳ thật lương chỉ đủ cho một tháng, biết làm sao đây?”
Theo Trần Đình Hiến,
La Quán Trung có ý nhấn mạnh tính chất gian manh của Tào Tháo, bèn thêm một số chi tiết chẳng khác nào thêm cả nắm mì chính vào món “lẩu Tào Tháo”. Tiểu thuyết có thể hư cấu, nhưng hư cấu đến mức biến Tào Thào thành kẻ trí trá đến cùng, thì không đúng với tính cách Tào Tháo.
Từ Thứ bất đắc dĩ hàng Tào (Hồi 36)
TQDN: Tào Tháo ra lệnh bắt mẹ Từ Thứ và buộc bà viết thư dụ con về hàng. Từ mẫu cự tuyệt. Trình Dục bắt chước lối chữ của Từ mẫu, mẹ của Từ Thứ, để viết một bức thư giả khuyên Từ Thứ Tào Tháo. Thứ tin thật đó là thư của mẹ mình, nên chịu theo Tháo. Khi Từ Thứ về với Tào, bà mẹ trách mắng ông “… chỉ tin một mảnh thư giả, không suy xét kỹ càng, vội bỏ chỗ sáng đâm đầu vào hang tối, rước lấy tiếng xấu…” Rồi lão bà treo cổ tự tử. Khi biết nguồn cơn, Từ Thứ nói sẽ không hiến kế gì cho Tháo.
Đó là lúc Tào Tháo còn ở Hứa Xương, đang luyện tập thủy quân để chuẩn bị đánh Kinh Châu.
Chính sử: Câu chuyện xảy ra sau khi Tào Tháo dẫn quân đánh Kinh Châu, Lưu Bị chạy xuống phía nam cùng Gia Cát Lượng và Từ Thứ.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi:
Lưu Biểu chết, Lưu Tông nghe tin Tào Tháo tới đánh, sai sứ đến xin hàng. Lưu Bị ở Phàn Thành hay được tin ấy, đem binh xuống phía nam, Gia Cát Lượng và Từ Thứ cùng đi theo. Tào Công truy đuổi đánh phá, bắt được mẹ của Từ Thứ. Thứ từ biệt Bị, nói: “Tôi vốn muốn giúp tướng quân mưu đồ nghiệp vương bá, cho trọn tấc lòng. Nay vì mẹ già thất tán, tấc lòng đã loạn, chẳng giúp được việc gì, xin đành từ biệt.” Rồi đến chỗ Tào Tháo.
Khi Lưu Bị bị thua ở Đương Dương–Tràng Bản, mẹ Từ Thứ bị bắt tại đây. Tào Tháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự tuyệt Tào Tháo. Từ Thứ lúc đó mới sang Tào.
Nhận xét: Trong câu chuyện hư cấu này, lại một lần nữa La Quán Trung gieo tiếng ác cho Tào Tháo. Nếu thật như thế thì Từ Thứ dở hơi ở hai điểm: (1) đã biết rõ Tào Tháo bức tử mẹ mình nhưng vẫn lưu lại với Tào Tháo trong khi có thể chính đáng trở về với Lưu Bị – trước đó Trương Liêu còn đầu hàng Tào Tháo mà đâu có sợ tai tiếng; (2) nói rằng sẽ không hiến kế gì cho Tháo nhưng vẫn là bầy tôi của Tháo, tức là bầy tôi thiếu trách nhiệm. Đúng thật Từ Thứ thể hiện tính “quân tử Tàu”, là tính chất thường bị chê bai.
Từ Thứ ra đi rồi quay lại giới thiệu Gia Cát Lượng (Hồi 36)
TQDN: Từ Thứ lên đường về với Tào Tháo, Lưu Bị đi theo tiễn hết cung đường này đến cung đường khác. Từ Thứ nói: “Không dám phiền sứ quân đi tiễn xa quá. Đến đây, Thứ xin cáo biệt.”
Lưu Bị dừng ngựa bên rừng, trông theo, khóc mà nói: “Nguyên Trực đi rồi, ta làm thế nào bây giờ?” Lưu Bị đang trông theo, chợt thấy Từ Thứ cưỡi ngựa quay lại.
Thứ nói với Huyền Đức: “Lúc tôi ra đi, ruột rối bời bời, quên bẵng đi một việc: Trong vùng này có một bậc kỳ tài ở tại Long Trung, cách Tương Dương hai mươi dặm, sứ quân nên đến mà tìm… Người đó không thể gọi ra được, sứ quân phải thân đến mà mời. Nếu được người đó, không khác gì nhà Chu được Lã Vọng nhà Hán được Trương Lương… Tôi mà so với người đó, khác nào ngựa hèn sánh với kỳ lân, quạ đen sánh với phượng hoàng. Người đó thường ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị . Cứ như ý tôi, Quản, Nhạc còn kém xa. Người đó có tài ngang trời dọc đất, thiên hạ chắc chỉ có một không hai… Người ấy quê ở Dương Đô, quận Lang Nha, họ Gia Cát tên Lượng, tự Khổng Minh… Nếu được ngưòi ấy giúp cho thì lo gì việc thiên hạ không định xong!”
Người đời sau có thơ khen Từ Thứ ruổi ngựa tiến cử Gia Cát.
Chính sử: Khi còn làm việc cho Lưu Bị, Từ Thứ giới thiệu Gia Cát Lượng, Lưu Bị mời Gia Cát Lượng về với mình. Do đó, có thời gian Từ Thứ và Gia Cát Lượng cùng làm quân sư cho Lưu Bị.
Theo Tam Quốc chí_Thục thư (nêu trên), khi Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Từ Thứ vẫn còn ở với Lưu Bị và cả hai người cùng làm quân sư chống Tào. Khi Tào Tháo dẫn quân đánh Kinh Châu, Lưu Bị chạy xuống phía nam cùng Gia Cát Lượng và Từ Thứ.
Theo Trần Văn Đức,
Sau khi Lưu Bị đến Tân Dã, Từ Thứ rất muốn đếm thăm kẻ anh hùng đã dám tham dự việc mưu sát Tào Tháo, bèn chủ động tìm gặp. Lưu Bị với ông ta đàm luận rất thích thú, bèn lưu ông ta làm tân khách dưới trướng, làm cố vấn và quy hoạch. Sau khi hiểu rõ tình thế của Lưu Bị, Từ Thứ nói với Lưu Bị: “Tôi có một người bạn thân tên là Gia Cát Lượng vẫn được gọi là Ngọa Long, có tài năng cao hơn tôi nhiều, tướng quân hãy nên tìm đến ông ấy”.
Đó là lần thứ hai Lưu Bị bị nghe đến đại danh Gia Cát Lượng tự nhiên rất đỗi cao hứng bảo rằng: “Vậy phiền tiên sinh giúp tôi mời ông ấy lại đây!” Từ Thứ lại bảo: “Người này tính đạm bạc, trừ phi tướng quân đích thân đến mời, ông ấy không chủ động đến xin việc, tướng quân khá nên uốn mình thân chinh tận nơi thăm hỏi”.
Gia Cát Lượng đốt quân Tào ở Gò Bác Vọng (Hồi 39)
TQDN: Tháo sai Hạ Hầu Đôn làm đô đốc, Vu Cấm, Lý Điển, Hạ Hầu Lan, Hàn Hạo làm phó tướng, lĩnh mười vạn quân kéo thẳng đến thành Bác Vọng để thừa cơ đánh vào Tân Dã. Gia Cát Lượng họp các tướng lại để ban lệnh cho từng người. Quan Bình, Lưu Phong nhận lệnh dẫn năm trăm quân sắp sẵn củi đuốc, chực ở hai bên sườn gò Bác Vọng, chập tối địch kéo đến, thì đốt lửa lên. Vân Trường, Trương Phi cũng như các tướng đều nghi hoặc, không được yên tâm. Khi Hạ Hầu Đôn thúc quân chạy qua đường sá chật hẹp, cây cối rậm rạp ở Gò Bác Vọng thì bỗng lửa cháy đùng đùng, tiếp đó hai bên lau sậy cũng bốc cháy. Chỉ trong chớp mắt, ba bề bốn bên biến thành biển lửa, lại gặp gió to, lửa bốc càng mạnh, quân Tào dẫm đạp lên nhau, chết không biết bao nhiêu mà kể. Quan, Trương, hai người mới công nhận “Gia Cát Lượng quả là bậc anh tài!”
Chính sử: Trận thắng quân Tào này hoàn toàn là chiến công của Lưu Bị, chả liên quan gì đến Gia Cát Lượng bởi trận này xảy ra năm Kiến An thứ 7, trong khi đến năm Kiến An thứ 12 Gia Cát Lượng mới theo Lưu Bị. Tương tự, Trận Gò Bác Vọng xảy ra khi Lưu Biểu còn sống, còn TQDN ghi xảy ra sau khi Lưu Biểu chết và Lưu Tông đã hàng Tào Tháo.
Theo Tam Quốc chí_Thục thư,
Lưu Biểu sai Lưu Bị chống cự bọn Hạ Hầu Đôn–Vu Cấm ở Bác Vọng. Được ít lâu, Lưu Bị đặt phục binh, một sớm tự đốt bỏ quân doanh vờ trốn chạy, bọn Đôn đuổi theo, bị phục binh của Bị đánh tan ở đấy.
Theo Trần Văn Đức,
Thật ra khi chiến dịch Gò Bác Vọng nổ ra, Lưu Bị chưa từng gặp Gia Cát Lượng và Từ Thứ, không thể có chuyện Gia Cát Lượng và Từ Thứ tham dự mưu lược.
Gò Bác Vọng ở vùng Nhữ Nam, đương khi Lưu Bị và Lưu Tích ở Nhữ Nam đánh du kích giữa hậu phương quân Tào, Hạ Hầu Đôn đang phụ trách phòng thủ ở Dự Châu, rất đau đầu. Bởi thế sau chiến thắng Quan Độ, Hạ Hầu Đôn chủ trương tiêu diệt quân du kích của Lưu Bị. Tuy Tào Tháo cho rằng thời cơ chưa chín muồi, song Hạ Hầu Đôn cứ thúc giục, Tào Tháo chỉ còn biết điều động tướng Vu Cấm đang ở bờ nam Hoàng Hà cùng hiệp trợ. Binh lực quân Tào rất mạnh, bởi vậy ngay từ lúc ban đầu, quân Lưu Bị, Lưu Tích đều phải chịu áp lực rất lớn. Lưu Tích bị chết giữa trận. Hạ Hầu Đôn tranh thủ truy kích, Vu Cấm khuyên mãi không được đành phải làm theo, song khi quân đuổi đến gò Bác Vọng, liền bị hỏa công vây bủa vào thế mai phục trước của Lưu Bị. Quân Tào đại bại, Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm cố chạy thoát thân. Nhưng Lưu Bị cũng thấy binh lực của mình rất mỏng, về căn bản chẳng thể đối chọi với quân Tào, theo sự sắp xếp của Tôn Càn, đành rút về Kinh Châu, nhận sự che chở của Lưu Biểu.
Nhận xét: sau khi chuyển công lao của Tôn Kiên thành chiến công đầu anh dũng của Quan Vũ (chém Hoa Hùng), đến hồi này La Quán Trung chuyển chút ít công trận của Lưu Bị thành chiến công đầu ly kỳ của Gia Cát Lượng.
Trương Phi khuyên giết Tống Trung, Sái thị và Lưu Tôn (Hồi 40)
TQDN: Lưu Tôn viết thư hàng, sai Tống Trưng bí mật mang đến bản doanh Tào Tháo. Tháo mừng lắm, trọng thưởng cho Tống Trung… Tống Trung lạy từ biệt Tào Tháo trở về Kinh Tương. Lúc sắp qua sông, chợt gặp Quan Vũ. Tống Trung chưa kịp tránh thì bị Vân Trường gọi lại, hỏi tỉ mỉ công việc Kinh Châu. Trung phải nói thật cả. Quan Vũ bắt Tống Trung đến Tân Dã ra mắt Lưu Bị kể lại tường tận việc đó. Trương Phi nói: “Việc thế này, nên chém Tống Trung trước, rồi cất quân sang sông chiếm lấy Tương Dương, giết Sái thị và Lưu Tôn, rồi hãy đánh nhau với Tào Tháo.” Huyền Đức nói: “Chú hãy im đi, để cho ta liệu.”
Ghi chú: Bản dịch của Phan Kế Bính ghi tên Lưu Tôn thay vì tên thật Lưu Tông. Đó là do người Nam Bộ có thời còn theo quy định kỵ húy của nhà Nguyễn mà tránh dùng chữ “tông” trong tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị. Vì thế một loạt các tên, như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, Tông Đản và thậm chí từ thông thường như tông thất, chữ “tông” phải đổi là “tôn”.
Chính sử: Không thấy sử liệu nào ghi về câu nói của Trương Phi.
Tam Quốc chí_Thục thư chỉ ghi ngắn gọn về việc Lưu Tông hàng Tào Tháo: “Tào Công nam chinh Biểu, gặp lúc Biểu chết, con là Tông lên thay, sai sứ đến xin hàng.”
Hán Ngụy Xuân Thu của Khổng Diễn chép:
Lưu Tông xin hàng, không dám báo tin cho Bị. Bị cũng không biết, mãi sau mới phát giác ra, sai người đến căn vặn Tông. Tông sai Tống Trung đến chỗ Bị tuyên chỉ. Bấy giờ Tào Công ở Uyển Thành, Bị giật mình kinh hoảng, bảo Trung rằng: “Mấy người bọn khanh làm việc như thế, chẳng sớm nói ra, nay họa đến nơi mới bảo ta, chẳng quá lắm ư!” Rồi rút đao trỏ vào Trung bảo: “Nay ta chém đầu khanh, chẳng đủ để tan mối hận, cũng lấy làm hổ thẹn là bậc đại trượng phu mà đến lúc sắp chia ly lại giết bọn khanh!” Bèn sai đuổi Trung đi, rồi gọi bộ khúc đến họp bàn. Có người khuyên Bị đoạt lấy binh tướng của Tông cùng quan lại ở Kinh Châu rồi theo lối tắt đi về Nam đến Giang Lăng, Bị đáp rằng: “Lưu Kinh Châu lúc sắp mất phó thác con côi cho ta, nếu bội tín tự lên làm chúa, ta quyết chẳng làm, lúc chết đi sao dám đối mặt với Lưu Kinh Châu đây!” Rồi gióng ngựa đến gọi Tông, Tông sợ không dám ra.
Nhận xét: Có vẻ như La Quán Trung muốn miêu tả bản tính nóng nảy của Trương Phi và nêu bật đức độ thâm trầm của Lưu Bị, xứng đáng là quân vương.
Tào Tháo giết Lưu Tôn (Hồi 40)
TQDN: Lưu Biểu qua đời, con thứ Lưu Tôn (thật ra tên là Tông) được đưa lên cầm quyền Kinh Châu. Theo lời khuyên của bộ hạ và được mẹ đồng ý, Lưu Tôn xin hàng Tào Tháo. Tháo mừng lắm, hứa sẽ cho Lưu Tôn giữ Kinh Châu mãi.
Nhưng Tháo cử Lưu Tôn làm Thứ sử Thanh Châu, bắt phải đi ngay lập tức. Tôn hai ba lần từ chối, Tháo không cho, bất đắc dĩ phải cùng Sái phu nhân đi Thanh Châu; chỉ có tướng cũ là Vương Uy đi theo. Tháo gọi Vu Cấm đến, ra lệnh dẫn khinh kỵ đuổi theo, giết cả hai mẹ con đi để khỏi lo hậu hoạn.
Vu Cấm được lệnh, mang quân đuổi theo, thét lớn: “Ta phụng mệnh thừa tướng theo giết mẹ con mày! Mau sớm nộp thủ cấp đi!” Sái phu nhân ôm Lưu Tôn khóc ầm ĩ. Vu Cấm thét quân sĩ hạ thủ, Vương Uy tức giận cố sức chống cự, cũng bị giết nốt. Vu Cấm về báo, Tháo trọng thưởng cho.
Chính sử: Lưu Tông đầu hàng vô điều kiện, được Tào Tháo trọng dụng. Đó là chủ trương chung của Tháo nhằm dẫn dụ thu dùng nhân sự cũ của Kinh Châu.
Theo Tam Quốc chí_Ngụy thư,
Tháng chín, Công [Tào Tháo] đến Tân Dã, Tông bèn ra hàng, Bị chạy ra Hạ Khẩu. Công tiến quân đến Giang Lăng, hạ lệnh tha cho dân chúng và quan lại cấp thấp ở Kinh Châu, cho phép hối cải và thay đổi. Rồi luận xét công lao những kẻ ở Kinh Châu theo hàng, phong tước hầu cho mười lăm người, để đại tướng của Lưu Biểu là Văn Sính làm Thái thú Giang Hạ, sai thống lĩnh binh cũ. Lại dẫn dụ thu dùng được bọn danh sĩ ở Kinh Châu là Hàn Tung–Đặng Nghĩa.
Thái Tổ [Tào Tháo] lấy Tông làm Thanh châu Thứ sử, phong tước Liệt hầu.
TheoVũ Đế cố sự , Tào Tháo đề nghị Hán Hiến đế phong Tông làm Gián nghị đại phu và Tham đồng quân sự.
Nhận xét: La Quán Trung làm một công hai việc, vừa che giấu sự ô nhục của họ Lưu vừa gieo tiếng ác cho Tào Tháo: đã thất hứa với Lưu Tông mà còn tàn nhẫn giết anh này. Sử chép Tháo đã phong thưởng nhiều bộ hạ của Lưu Tông xin hàng tức có ý chặt vây cánh của Lưu Tông, từ nay bọn họ mỗi người đều có chức tước mới mà không thể phục vụ Lưu Tông nữa. Vì thế, Tào Tháo không phải lo bọn Lưu Tông sẽ phản loạn, lại được tiếng chiêu hiền đãi sĩ, nên giết Lưu Tông là hạ sách. Một tình tiết minh chứng cho ý này là tờ hịch Tháo gửi cho Tôn Quyền có nhắc đến việc Lưu Tông đã hàng Tào. Giữ cho Tông sống thì mới có thể khuyến dụ Quyền cũng hàng theo.
Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã (Hồi 40)
TQDN: Gia Cát Lượng sai Triệu Vân dẫn quân chia làm bốn đội; Vân tự lĩnh một đội phục cửa đông; còn ba đội phục ba cửa tây, nam, bắc. Trước hết phải gài những vật bắt lửa như lưu hoàng, diêm tiêu trên các mái nhà trong thành Tân Dã. Quân Tào vào thành tất phải nghỉ ở nhà dân. Chiều tối hôm sau thế nào cũng có gió lớn. Hễ nổi gió, thì sai quân phục ba cửa tây, nam, bắc bắn tên lửa vào thành; lúc lửa bốc lên to, bên ngoài hò reo ầm lên để trợ oai.
Tào Nhân kéo quân đến Tân Dã, ra lệnh cướp thành thì bốn cửa mở toang. Quân Tào xông vào không thấy ngăn trở; trong thành cũng không có một bóng người nào cả. Lúc này quân sĩ đều mệt và đói khát cả, liền tranh nhau thổi cơm ăn. Tào Nhân, Tào Hồng vào nghỉ trong huyện. Nửa đêm, gió to nổi lên, ba cửa tây, nam, bắc đều bốc cháy. Khi Tào Nhân ra lệnh tất cả các tướng phải lên ngựa ngay, thì toàn huyện đã trở thành bể lửa bốc sáng rực trời. Lửa đêm hôm ấy lại cháy dữ hơn lửa đồn Bác Vọng hôm trước. Vô số quân Tào chết trong biển lửa.
Chính sử: Tam Quốc chí không ghi chép gì về chiến công này. Dịch Trung Thiên khẳng định Trận Tân Dã không có thật.
Nhận xét: Khi thực sự Lưu Bị chiến thắng ở Bác Vọng thì La Quán Trung chuyển công lao qua Gia Cát Lượng, khi không có chiến thắng nào thêm thì bịa đặt, mục đích chung là để tôn vinh Gia Cát Lượng thành thiên tài quân sự!
My phu nhân giao ấu chúa cho Triệu Vân rồi tự tử (Hồi 41)
TQDN: Trong Trận Đương Dương–Trường Bản, Triệu Vân xông xáo đi tìm, gặp ai cũng hỏi tin tức My phu nhân và A Đẩu. Vân nghĩ bụng rằng Lưu Bị đã đem Cam, My hai phu nhân cùng A Đẩu ủy thác cho minh, nay phải liều chết đánh giặc, cứu cho được hai phu nhân và A Đẩu. Vân tìm thấy Cam phu nhân, lại thấy My Chúc bị trói trên lưng ngựa, theo sau là Thuần Vu Đạo, bộ tướng của Tào Nhân. Triệu Vân đâm chết Đạo, cứu được My Chúc, lấy được đôi ngựa, mời Cam phu nhân cưỡi, đánh giết mở một con đường đi thẳng đến gò Trường Bản. Vân bảo My Chúc hãy bảo vệ Cam phu nhân đi trước, để mình đi tìm nốt My phu nhân và ấu chúa.
Có người nói về một phu nhân bị thương ôm một đứa bé, Vân vội vàng theo đến. Vân tìm thấy My phu nhân ôm A Đẩu ngồi ở bờ giếng cạn khóc lóc. My phu nhân nhờ Vân bế A Đẩu đi cho mau, rồi gieo ngay mình xuống giếng khô mà chết. Triệu Vân thấy phu nhân chết rồi, sợ quân Tào đến cướp mất xác, liền đạp đổ bức tường xuống, lấp kín giếng. Rồi cởi dây lưng thắt áo giáp ra, bỏ miếng hộ tâm kính xuống, đem A Đẩu buộc vững vào lòng, vác giáo nhảy lên ngựa.

Chính sử: Thuần Vu Đạo là nhân vật hư cấu. [Wikipedia]
Triệu Vân cứu mẹ con Cam phu nhân ở Trường Bản.
Tam Quốc chí_Thục thư_Triệu Vân truyện chỉ ghi vắn tắt (và không ghi gì về My phu nhân):
Lúc Lưu Bị bị Tào Tháo truy đuổi ở Đương Dương–Trường Bản, bỏ cả vợ con chạy trốn về phía Nam, Triệu Vân tự thân bồng ấu chúa, bảo hộ Cam phu nhân, đều thoát được về Nam.
Tam Quốc chí_Thục thư_Nhị chủ phi tử truyện cũng vắn tắt (và không ghi gì về My phu nhân):
Cam Hoàng hậu theo Lưu Bị tới Kinh Châu rồi sinh Hậu Chủ. Gặp lúc quân Tào đánh đến, đuổi kịp Bị ở Đương Đương–Trường Bản, trong lúc khốn quẫn, Hậu bị bỏ lại sau cùng với Hậu Chủ. Nhờ có Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi nguy nan.
Triệu Vân giết hơn 50 danh tướng Tào (Hồi 41-42)
TQDN: Tiếp theo câu chuyện trên, Vân dẫn vài quân kỵ mã theo lối cũ trở lại. Đương chạy, gặp Hạ Hầu Ân, mới được một hiệp, Vân đâm chết tướng ấy, rồi đoạt lấy gươm báu “Thanh Công”.
Hai tướng đuổi sau lưng là Mã Diên, Trương Dĩ; hai tướng chặn trước mặt là Tiêu Súc, Trương Nam. Triệu Vân cố sức đánh với bốn tướng. Quân Tào kéo ùa cả đến. Vân rút gươm “Thanh Công” chém tứ tung, chém vào đâu, người và áo giáp cứ đứt phăng phăng, máu chảy như suối. Vân đánh tan được các quân tướng, ra khỏi vòng vây.
Bấy giờ Tào Tháo đứng trên đỉnh núi Cảnh Sơn, trông thấy một tướng đi đến đâu người giãn ra đến đấy, vội hỏi tả hữu người đó là ai. Khi biết được đó là Triệu Vân, Tháo truyện lệnh chỉ nên bắt sống Vân.
Nhờ lệnh ấy, Triệu Vân thoát được nạn. Trong trận này, Triệu Vân chém gãy được hai lá cờ to, cướp được ba ngọn giáo; giáo đâm gươm chém, trước sau cả thảy giết được hơn năm mươi danh tướng của quân Tào.
Chính sử: Nếu Triệu Vân thật sự lập chiến công hào hùng như TQDN miêu tả thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập, nhưng Tam Quốc chí không ghi chép gì.
Nhận xét: La Quán Trung ghi “năm mươi danh tướng ” nhưng không nêu ra tên người nào cả.
Trương Phi hét lớn làm chết Hạ Hầu Kiệt (Hồi 42)
TQDN: Văn Sính đem quân đuổi theo Triệu Vân đến cầu Trường Bản, thì gặp Trương Phi, râu hùm vểnh ngược, hai mắt trợn trừng, tay cầm xà mâu, cưỡi ngựa đứng sừng sững trên cầu. Lại thấy sau rừng ở mé đông cầu, bụi bay mù mịt, Sính tưởng có quân phục, dừng ngay ngựa lại, không dám theo nữa. Một lát, Tào Nhân, Lý Điển, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Nhạc Tiến, Trương Liêu, Hứa Chử lũ lượt kéo đến. Trương Phi vẫn cứ trợn mắt, cầm ngang ngọn mâu đứng sững trên cầu.
Tướng Tào thấy vậy, ai cũng sợ là mẹo của Khổng Minh không dám tiến gần nữa và bày thành thế trận. Các tướng Tào đứng dàn hàng chữ nhất ở bên tây cầu, rồi sai người phi ngựa báo với Tào Tháo. Tháo nghe tin cũng lật đật lên ngựa chạy đến.
Trương Phi trợn mắt tròn xoe trông thấy hậu quân có tán vóc vàng, mao, việt, tinh, kỳ: đoán biết là Tào Tháo hoài nghi nên đến xem, Phi bèn thét lên một tiếng cực to rằng: “Ta là Trương Dực Đức nước Yên đây! Ai dám cùng ta quyết một trận tử chiến nào?” Tiếng Phi to như tiếng sấm, quân Tào nghe thấy run cầm cập.
Tào Tháo vội sai cụp tán xuống, ngoảnh lại bảo tả hữu: “Bây giờ ta mới nhớ lời Vân Trường nói khi trước rằng Trương Dực Đức ở trong đám quân trăm vạn, lấy đầu thượng tướng như thò tay vào túi lấy đồ vật. Nay gặp Dực Đức không nên khinh địch.”
Nói chưa dứt lời, Trương Phi lại trợn mắt quát một tiếng nữa: “Trương Dực Đức người nước Yên đây! Ai dám cùng ta quyết một trận tử chiến nào?”
Tào Tháo thấy Trương Phi kiêu dũng như thế, có ý muốn lui.
Trương Phi thấy sau trận Tào hơi rục rịch, lại vác mâu quát to: “Đánh cũng không đánh, lui cũng chẳng lui, là cớ làm sao?”
Phi quát chưa dứt tiếng, Hạ Hầu Kiệt ở bên cạnh Tào Tháo khiếp sợ quá, đứt ruột vỡ gan, ngã nhào xuống ngựa. Thào liền quay ngựa chạy. Quân tướng Tháo thấy vậy cũng nhằm hướng tây chạy cả.
Chính sử: Tam Quốc chí_Thục thư ghi vắn tắt: Tào Tháo đuổi theo, một ngày một đêm đuổi kịp ở Đương Dương Tràng Bản. Lưu Bị sai Phi cầm 20 kỵ binh chống cự ở phía sau. Phi chặt cầu giữ bên kia sông, trợn mắt cầm ngang ngọn mâu quát rằng: “Ta là Trương Dực Đức đây, ai dám cùng ta tử chiến?” Quân địch không ai dám tiến đến gần, vì thế Lưu Bị được thoát.
Hạ Hầu Kiệt là nhân vật không có thật. Ở Cầu Trường Bản không có ai chết cả; tình tiết trong TQDN viết theo kiểu khoa trương, không có trong thực tế.
Nhận xét: Chỉ từ một câu ngắn trong chính sử, La Quán Trung viết thành một câu chuyện hào hùng phía Trương Phi và hèn yếu phía quân Tào. Thật ra kỵ binh của Tào Tháo nổi tiếng là dũng mãnh chứ không hèn nhát như thế.
Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho (Hồi 43)
TQDN: Sau khi từ biệt Huyền Đức. Lưu Kỳ, Lỗ Túc và Gia Cát Lượng xuống thuyền đến quận Sài Tang. Lỗ Túc mới dẫn Lượng đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung, toàn ban văn võ hơn hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề, ngồi có thứ tự rồi. Gia Cát Lượng chào hỏi từng người, thông tính danh đâu đấy, rồi đến ngồi trên ghế tân khách.
Bọn Trương Chiêu thấy Lượng phong thái đàng hoàng, tự nhiên, độ lượng, khảng khái, biết rằng người này tất là người đi thuyết khách. Tiếp theo, lần lượt Trương Chiêu, Ngu Phiên, Bộ Trắc, Tiết Tung, Lục Tích, Nghiêm Tuấn và Trình Đức Khu chất vấn Gia Cát Lượng, và Lượng đanh thép trả lời từng người một. Các tướng thấy Lượng ứng đối như nước chảy, ai cũng sợ mất vía.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ nhất liên quan đến Trận Xích Bích: điển tích “Thiệt chiến quần nho” (Đấu khẩu với đám nho sĩ). Gia Cát Lượng được đưa đến Sài Tang gặp ngay Tôn Quyền và sau đó không có trao đổi gì với đám nho sĩ Giang Đông.
Tam Quốc chí_Thục thư_Gia Cát Lượng truyện ghi từ lúc đầu đến khi Tôn Quyền quyết định điều quân chống Tào, Gia Cát Lượng chỉ trao đổi với Tôn Quyền, đưa ra nhiều lập luận khúc chiết:
Tào Tháo đuổi đánh, Lưu Bị đến Hạ Khẩu, Gia Cát Lượng nói: “Nay việc cấp bách, xin được phụng mệnh đến cầu cứu Tôn tướng quân”. Bấy giờ Quyền đang hội quân ở Sài Tang, ngóng xem việc thành bại, Lượng thuyết Quyền rằng: […] Quyền rất hài lòng, lập tức phái Chu Du-Trình Phổ-Lỗ Túc nắm ba vạn thủy quân, theo Lượng đến gặp Tiên chủ, cùng hợp sức cự Tào công.
Tam Quốc chí_Thục thư_Gia Cát Lượng truyện ghi ngắn gọn:
Lưu Bị đến đóng quân ở Hạ Khẩu, sai Gia Cát Lượng đến chỗ Quyền. Quyền sai bọn Chu Du, Trình Phổ đi theo. Bấy giờ Tào Tháo vừa thu được quân của Biểu, thế lực rất mạnh, nhiều người khuyên Quyền đầu hàng Tháo. Chỉ có Du, Túc là giữ ý chống lại, giống ý với Quyền. Du, Phổ làm Tả, Hữu đô đốc, đều lĩnh vạn quân, cùng đi với Bị.
Nếu thật sự có câu chuyện hấp dẫn “Thiệt chiến quần nho” liên quan đến nhiều người nổi tiếng thì đáng lẽ sử sách phải ghi chép lại. Thật ra, Gia Cát Lượng không cần phải đấu khẩu để thuyết phục quần hào Giang Đông, bởi vì từ đầu Chu Du và Lỗ Túc đã có chủ ý là liên minh với Lưu Bị để chống Tào Tháo, và Tôn Quyền đã chấp thuận chiến lược này. Đặc biệt là Chu Du đã thuyết phục Tôn Quyền bằng luận điệu vững chắc mà không cần đến Gia Cát Lượng.
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi:
Kinh Châu Mục là Lưu Biểu chết, Lỗ Túc vâng lệnh đến thăm hỏi hai con của Biểu, cũng để xem sự biến. Túc chưa đến thì Tào Tháo đã dẫn quân vào Kinh Châu, con của Biểu là Lưu Tông đã ra hàng. Lưu Bị muốn vượt sông xuống phía nam. Túc gặp nhau với Bị, nhân đó truyền ý của Quyền, nói rõ thành bại […]
Chu Du nói: “Nay đất Bắc đã không yên bình, hơn nữa Mã Siêu–Hàn Toại còn ở cửa ngõ phía Tây, là mối lo sau lưng Tháo vậy. Lại cởi bỏ yên ngựa, khua động mái chèo, cùng với Ngô Việt đua tranh, vốn chẳng phải là sở trường của quân Trung Quốc. Lại nữa là hiện nay trời rất lạnh, ngựa không có cỏ khô ăn, binh sĩ Trung Quốc ruổi ngựa lặn lội đến nơi sông hồ, không quen thủy thổ, tất sẽ sinh bệnh tật. Bốn điều ấy, chính là mối lo lắng của kẻ dùng binh vậy, thế mà Tháo vẫn mạo hiểm hành binh. Tướng quân bắt được Tháo, xong việc là ở hôm nay vậy. Du này xin được cấp ba vạn tinh binh, tiến đến đóng giữ Hạ Khẩu, bảo đảm sẽ vì tướng quân mà phá tan quân giặc.”
Giang Biểu truyện ghi:
Đến đêm tan hội, Du vào gặp Quyền nói: “Mọi người thấy hịch của Tháo, nói rằng quân thủy bộ có tám mươi vạn, đều kinh sợ mất vía, chẳng suy xét rõ thực hư, đưa ra lời bàn luận như thế, thật là vô vị vậy. Nay cứ thật mà tính, số người Trung Quốc đem theo, bất quá chừng mười lăm mười sáu vạn, vả lại quân ấy đã mệt mỏi rồi, quân số thu được của Biểu, nhiều lắm cũng chỉ bảy tám vạn thôi, nhưng còn mang lòng nghi hoặc. Lấy đám quân lính mỏi mệt chế ngự số đông quân sĩ hồ nghi, binh kia dẫu có đông chẳng có gì phải sợ. Có được năm vạn binh là đủ để khắc chế địch rồi, xin tướng quân chớ lo lắng.”
Theo Dịch Trung Thiên,
Vấn đề là, Tam Quốc diễn nghĩa muốn đề cao Gia Cát Lượng. Vì đề cao Gia Cát Lượng nên phải hạ thấp Lỗ Túc, phải giảm bớt ý nghĩa của buổi nói chuyện của Lỗ Túc, càng không thể để Lỗ Túc thành công nhanh chóng. Vì vậy, Tôn Quyền tuy tán thành Lỗ Túc, nhưng vẫn có nghi vấn. Thế là Lỗ Túc kiến nghị Tôn Quyền trò chuyện với Gia Cát Lượng, vì vậy mới có việc “Khua lưỡi bẻ bọn nho” của Gia Cát Lượng và buổi trò chuyện giữa Gia Cát Lượng và Tôn Quyền.
Ngô quốc thái nhắc Tôn Quyền mời Chu Du (Hồi 44)
TQDN: Sau khi Tào Tháo gửi hịch đến Tôn Quyền đòi Quyền chịu hàng, bọn võ tướng Giang Đông có nhiều người muốn đánh, nhưng bọn quan văn thì ai cũng muốn hàng; mọi người bàn bạc phân vân, không nhất trí. Tôn Quyền vào nhà ăn ngủ không yên, vẫn phân vân chưa định.
Ngô quốc thái [vợ thứ của Tôn Kiên, tức mẹ kế của Tôn Quyền] thấy thế mới hỏi: “Con suy nghĩ đến việc gì đến nỗi bỏ cả ăn lẫn ngủ thế?” Quyền nói: “Nay Tào Tháo đóng quân ở Giang Hán, có ý muốn đánh xuống Giang Nam, hỏi các văn võ, kẻ muốn hàng, người muốn đánh. Nếu đánh thì e mình ít không địch nổi nhiều, muốn hàng thì sợ Tào Tháo không dung, bởi thế con phân vân chưa định.”
Ngô quốc thái nói: “Con không nhớ lời chị ta lúc lâm chung dặn lại thế nào ư?” Tôn Quyền sực nhớ lời trước, như người say tỉnh lại, như người ngủ mê thức dậy.
Ngô quốc thái thấy Tôn Quyền nghi hoặc không quyết, mới bảo: “Khi hấp hối, mẹ con dặn phải theo di ngôn của Bá Phù là phàm công việc trong nước không quyết định được thì hỏi Trương Chiêu, việc bên ngoài không quyết định được nên hỏi Chu Du. Nay sao con không mời Chu Du về mà hỏi?” Quyền mừng lắm, lập tức sai sứ ra Phiên Dương mời Chu Du về bàn việc.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ hai liên quan đến Trận Xích Bích.
Ngô quốc thái là nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Chính vì thế mà Tam Quốc chí_Ngô thư không hề nhắc đến Ngô quốc thái. Các nhà nghiên cứu khẳng định: không chỉ nhân vật Ngô quốc thái mà ngay cả di ngôn của Tôn Sách cũng là hư cấu. [Dịch Trung Thiên]
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư_Lỗ Túc truyện, người khuyên Quyền gọi Chu Du về là Lỗ Túc.
Ghi chú: Có người lầm tưởng Ngô quốc thái là vợ cả của Tôn Kiên, nên ghi rằng Ngô quốc thái đã qua đời nhiều năm trước.
Gia Cát Lượng đọc bài phú của Tào Thực để khích Chu Du (Hồi 44)
TQDN: Sau khi Chu Du được gọi về, Lỗ Túc đưa Gia Cát Lượng đến. Lượng nói có một kế: chỉ cần đưa hai người sang sông, Tào Tháo sẽ rút lui ngay. Đó là Đại Kiều và Tiểu Kiều. Du hỏi có gì làm chứng về việc Tào Tháo muốn được hai nàng Kiều.
Gia Cát Lượng đọc một bài phú của Tào Thực, có ý nói dựng hai đài nhốt hai nàng Kiều bên đông-nam để sớm chiều cùng vui vầy. Gia Cát Lượng đổi chữ “kiều” trong bài phú có nghĩa cầu ra chữ “kiều” là nàng Kiều, và đổi chữ “đông-tây” ra “đông-nam” để khích Chu Du, vì Đại Kiều là vợ Tôn Sách, Tiểu Kiều là vợ Chu Du, và đông-nam ngụ ý đất Giang Nam.
Chu Du nghe xong mấy câu ấy, đỏ mặt tía tai, đứng phắt dậy trỏ tay về phương Bắc mà mắng rằng: “Thằng giặc Tào này khinh ta quá chừng!” Khổng Minh vội ngăn lại, nói: “Ngày xưa chúa rợ Hung Nô hay xâm lấn bờ cõi, thiên tử nhà Hán còn phải đem công chúa gả cho nó để cầu hòa, nay tướng quân tiếc làm chi hai người con gái thường dân ấy?”
Du nói: “Ông chưa rõ Đại Kiều là vợ Tôn Bá Phù, Tiểu Kiều là vợ Du đó.” Khổng Minh giả vờ sợ sệt nói: “Tôi thật vô tình, nói năng lỗ mỗ, tội đáng chết, đáng chết!”
Chu Du nói: “Ta thề cùng thằng giặc già một còn một mất!”
Chính sử: Đây là hư cấu thứ ba liên quan đến Trận Xích Bích. Sau trận đánh này, Tào Tháo mới xây đài và khi đó Tào Thực mới làm bài phú. [Lê Đông Phương]
Ghi chú: Nhà thơ nổi danh Đỗ Mục bị cuốn theo ý tưởng hư cấu mà làm thơ cảm khái “một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều”.
Chu Du lừa Tưởng Cán (Hồi 45)
TQDN: Năm 209, Tưởng Cán đang phục vụ Tào Tháo, tình nguyện đến dụ hàng Chu Du vốn là bạn học cũ. Chu Du sớm biết được ý định của Tào Tháo nên cố tình đóng kịch để lừa Tưởng Cán. Chu Du cho bày tiệc rượu thết đãi bạn cũ rồi còn dẫn Tưởng Cán đi dạo chơi, thăm thú doanh trại quân Ngô. Đoạn, Chu Du giả say, đưa Tưởng Cán về ngủ cùng trong doanh trại.
Trước đó, Chu Du đã sớm chuẩn bị một lá thư đặt trên mặt bàn, giả vờ ngủ say. Nửa đêm, Tưởng Cán mò dậy, bỗng thấy lá thư trên mặt bàn. Đó là thư đầu hàng của Sái (Thái) Mạo, Trương Doãn mà Chu Du đã mạo danh viết. Trong thư viết: “Không lâu nữa sẽ dâng đầu của Tào Tháo”. Cán lập tức giấu ngay tờ thư ấy vào tay áo rồi nằm xuống bên Du.
Đến canh tư, có người vào trướng báo tin cho Du, Tưởng Cán nghe loáng thoáng “Trương Doãn, Sái Mạo cho người lại bảo chưa thể nào hạ thủ được…” Những câu sau nói nhỏ quá nên Cán nghe không rõ. Cán vẫn vờ ngủ.
Vừa sang canh năm, Cán dậy gọi Chu Du. Du vẫn ngủ say. Cán bèn đội khăn mặc áo, lẻn ra ngoài trướng, về ra mắt Tào Tháo, trình phong thư lấy trộm.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ tư liên quan đến Trận Xích Bích, điển tích “Quần anh hội”. Thực tế Tưởng Cán đến gặp Chu Du ở hai thời điểm khác, không thu thập được thông tin gì.
Giang biểu truyện ghi chuyện này xảy ra mấy năm trước khi diễn ra Trận Xích Bích:
Tào Tháo nghe nói Chu Du tuổi trẻ tài cao, cho là có thể thuyết phục được Du, bèn phái Tưởng Cán qua gặp Du. Du ra ngoài đón, hỏi Cán có phải vì Tào Tháo mà làm thuyết khách hay không. Cán nói đến chỉ để thăm bạn đồng hương.
Du cho bày tiệc rượu. Ba ngày sau, Du mời Cán đi vòng quanh doanh trại của Du, cho xem kỹ hết cả kho lương và quân tư trang khí trượng, rồi quay về yến ẩm, lại bảo kẻ hầu cận mặc các quần áo đẹp và đeo đồ châu báu, nhân tiện nói cho Cán hiểu không ai thay đổi ý chí của mình được. Cán chỉ cười, rút cục chẳng nói được gì.
Cán trở về, khen rằng Du tao nhã rộng lượng, có chí khí lớn, không thể dùng ngôn từ mà ly gián được.
Tư trị Thông giám ghi sau trận chiến Xích Bích, năm Kiến An thứ 14 (năm 209), Tưởng Cán từng đến doanh trại Chu Du, và dĩ nhiên là không lấy trộm văn thư gì cả.
Nhận xét: Câu chuyện vô thưởng vô phạt, Chu Du không lừa Tưởng Cán gì cả, và Cán cũng không thu thập được gì cả. Chính sử ghi hai lần Cán đến thăm Du, nhiều năm trước và sau Trận Xích Bích. Có lẽ qua đó La Quán Trung tưởng tượng thêm tình tiết về mưu mẹo trong hai chuyến đi của Cán ngay trước Trận Xích Bích cho thêm hấp dẫn.
Tào Tháo giết Sái Mạo và Trương Doãn (Hồi 45)
TQDN: Do Tưởng Cán mắc mưu của Chu Du, mang thư giả của Sái (Thái) Mạo và Trương Doãn hàng Ngô, Tháo lập tức quát võ sĩ lôi Trương Doãn và Sái Mạo ra chém. Khi võ sĩ đem đầu hai người vào dâng, Tháo sực nghĩ ra rằng mình đã mắc mẹo, nhưng vẫn không chịu nhận lỗi.
Người sau có thơ cảm khái về vụ việc này.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ năm liên quan đến Trận Xích Bích. Tào Tháo không mắc mưu Chu Du mà chém Sái Mạo và Trương Doãn. Cả hai sử gia Dịch Trung Thiên và Trần Thọ đều không ghi Sái Mạo và Trương Doãn chết như thế nào, nhưng có ý kiến (không dẫn nguồn) cho rằng Sái Mạo và Trương Doãn chết trong Trận Xích Bích.
Thuyền cỏ mượn tên (Hồi 46)
TQDN: Chu Du thấy Gia Cát Lượng tài giỏi hơn mình, bèn bày mưu lấy phép công mà chém Lượng. Du hỏi sắp đánh nhau với Tào Tháo ở trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì đánh cho tiện. Lượng thưa trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.
Chu Du yêu cầu Lượng trông nom giúp cho việc làm mười vạn chiếc tên. Lượng nói: “Đô đốc đã sai, tôi xin hết sức. Xin hỏi mười vạn tên khi nào dùng đến?”
Du hỏi: “Trong mười hôm, có làm xong không?” Lượng nói trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.
Du nói: “Việc quân không phải trò đùa đâu!” Lượng xin ký giấy cam đoan, nếu ba ngày không xong, cam chịu trọng tội.
Gia Cát Lượng yêu cầu Lỗ Túc cho mượn hai chục chiếc thuyền, mỗi chiếc dùng ba chục tay thủy thủ tốt, trên thuyền căng vải xanh che chung quanh, và xếp hơn nghìn bó cỏ ở hai bên mạn thuyền.
Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba, độ canh tư, Gia Cát Lượng mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền, rồi, sai lấy thừng chạc dàng cả hai chục thuyền làm một, cho bơi thẳng lên phía bắc. Canh năm đêm ấy, thuyền đến sát thủy trại của Tào Tháo. Lượng sai đổ thuyền quay mũi về hướng tây, dàn thành hàng chữ nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ.
Trong trại Tào, nghe thấy tiếng trống đánh, tiếng reo hò, Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng mỗi người dẫn ba nghìn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân nam tràn vào thủy trại, đã sai quân bắn rào rào ra, rồi một lát quân trên cạn cũng đến, ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có tiếng trống bắn xuống như mưa. Lượng lại sai quay mũi thuyền về phía tây, áp vào trại thủy đỡ lấy tên; một mặt vẫn cứ thúc trống hò reo ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù dần tan, Lượng sai thu thuyền kéo về. Các bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào cũng chi chít những tên cắm.
Lượng sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng: “Tạ ơn thừa tướng giúp tên!”
Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi, đã đi xa hàng hai chục dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.
Lượng quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng: “Mỗi thuyền được ước chừng năm sáu nghìn tên mà không hề tốn chút công sức nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?” Túc nói: “Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?”
Lượng nói: “Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời, hại làm sao nổi!”

Chính sử: Đây là hư cấu thứ sáu liên quan đến Trận Xích Bích. Điển tích “Thuyền cỏ mượn tên” không xảy ra trong trận Xích Bích, mà do La Quán Trung “mượn” ở chuyện khác diễn ra 5 năm sau Trận Xích Bích.
Theo Ngụy lược:
Năm Kiến An thứ 18 [năm 213], Tào Tháo mang quân tiến vào Nhu Tu Khẩu để đánh Tôn Quyền, nhưng bị bất lợi. Quyền luôn khiêu chiến Tào Tháo, nhưng Tháo cố thủ không ra. Quyền cưỡi thuyền đến xem doanh trại quân Tào. Tháo hạ lệnh bắn tên ra. Kết quả là thuyền của Tôn Quyền bị nghiêng về một bên vì bị dính nhiều tên. Thế là Quyền hạ lệnh quay thuyền cho mặt kia cũng dính nhiều tên, để thuyền trở lại thăng bằng. Rồi Quyền lui về.
Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường: Trương Tuần trong khi dẹp loạn An Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, kiếm được 10 vạn mũi tên của Lệnh Hồ Triều.
Sái Hòa và Sái Trung trá hàng Đông Ngô (Hồi 46)
TQDN: Tuân Du hiến kế với Tào Tháo: sai Sái Trung và Sái Hòa sang trá hàng Đông Ngô.
Tào Tháo theo lời ấy, đang đêm, gọi hai người vào trướng dặn hai người dẫn một số quân sang Đông Ngô trá hàng, hễ thấy động tĩnh gì, sai người về mật báo ngay, khi thành công sẽ có thưởng. Sái Trung, Sái Hòa bẩm: “Xin thừa tướng chớ nghi, vợ con chúng tôi ở cả Kinh Châu, chúng tôi có đâu dám thế! Hai chúng tôi quyết lấy đầu Chu Du, Gia Cát Lượng về dâng dưới trướng.” Tháo trọng thưởng cho hai người.
Hôm sau, hai người đem năm trăm tên quân, chở vài chiếc thuyền, thuận gió xuôi xuống bờ phía nam. Chu Du đang tính toán việc tiến quân, chợt có tin báo có thuyền ở Giang Bắc sang, tự xưng tên là Sái Hòa, Sái Trung, em ruột Sái Mạo, đến hàng. Du cho gọi vào. Hai người vừa khóc vừa lạy, nói: “Anh chúng tôi là Sái Mạo, không có tội gì, tự dưng bị Tào Tháo giết mất. Chúng tôi muốn báo thù cho anh, nên sang đầu hàng. Mong đô đốc thu dụng cho, chúng tôi xin làm tiền bộ.”
Du mừng rỡ, trọng thưởng cho hai người rồi sai dẫn quân theo Cam Ninh làm tiền bộ. Hai người lạy tạ, chắc mẩm Du đã trúng kế rồi. Du gọi Cam Ninh vào dặn rằng: “Hai thằng này không mang theo vợ con, chẳng phải thực bụng hàng đâu, đúng Tào Tháo sai đến làm gian tế đây. Nay ta muốn biến kế của nó thành kế của mình, để nó báo tin về cho Tào Tháo. Ngươi phải ân cần khoản đãi chúng nó, nhưng phải đề phòng. Đợi khi nào ta cất quân đi, sẽ đem giết chúng để tế cờ. Ngươi phải cẩn thận, không được để lỡ việc.”
Chính sử: Đây là hư cấu thứ bảy liên quan đến Trận Xích Bích. Sái Hòa và Sái Trung là hai nhân vật hư cấu. [Wikipedia]
Hoàng Cái dùng khổ nhục kế (Hồi 46)
TQDN: Hoàng Cái tình nguyện làm khổ nhục kế: giả vờ công kích Chu Du trước mặt các tướng sĩ khiến cho Chu Du giả vờ nổi giận, thét chém Hoàng Cái. Các quan đều quỳ xuống can gián. Chu Du vẫn hầm hầm, sai tả hữu vật cổ Hoàng Cái xuống đánh một trăm roi. Các quan lại kêu van, Du hất đổ cả bàn đi, quát mắng các quan, và thét bảo đánh đập. Tả hữu lật áo Hoàng Cái, vật sấp xuống, đánh năm chục roi. Các quan lại xúm vào xin tha.
Du đứng dậy, chỉ mặt Hoàng Cái nói: “Mày còn dám coi thường tao chăng? Hãy cho chịu năm chục trượng đó, nếu còn vô lễ, hai tội sẽ trị nhân thể.” Rồi vừa đi vừa mắng nhiếc om sòm trở vào trong trướng.
Hoàng Cái đau nằm trong trướng, các tướng đều đến hỏi thăm. Cái chẳng nói năng gì cả, cứ thở dài sườn sượt. Chợt báo có quan tham mưu là Hám Trạch lại thăm. Cái sai mời vào tận chỗ nằm, đuổi tả hữu lui ra ngoài.
Hám Trạch hỏi: “Tướng quân có thù hằn gì với đô đốc chăng?” Cái nói: “Không thù hằn gì cả.”
Trạch nói: “Thế thì vừa rồi ông bị đòn có phải là khổ nhục kế không?” Cái hỏi: “Sao ông biết?”
“Tôi xem bộ dạng Công Cẩn, mười phần đã đoán được chín.” Cái nói: “Tôi chịu hậu ân họ Tôn đã ba đời, không lấy gì báo được, nên hiến kế ấy để phá Tào Tháo. Thân tôi tuy đau khổ, nhưng lòng tôi hả hê. Tôi xem trong đám tướng sĩ, không ai là tâm phúc của tôi; duy có ông là người trung nghĩa, nên tôi mới dám thổ lộ can trường.”
Chính sử: Đây là hư cấu thứ tám liên quan đến Trận Xích Bích: Hoàng Cái không phải chịu đánh đập gì cả. [Lê Đông Phương] Nếu đúng thật có hành động hy sinh thân mình như thế của một vị tướng Ngô triều kỳ cựu thì đáng lẽ Tam Quốc chí phải ghi lại.
Hám Trạch dâng thư trá hàng của Hoàng Cái (Hồi 47)
TQDN: Hám Trạch chơi với Hoàng Cái thân thiết lắm, nên Cái nhờ dâng thư trá hàng. Trạch nhận lấy thư, đến đêm giả làm ông lão đánh cá, bơi chiếc thuyền con tới cạnh thủy trại quân Tào. Trạch nói Hoàng Cái là cựu thần ba đời bên Đông Ngô, nay vô cớ bị Chu Du dập đánh khổ sở trước mặt các tướng, Phúc lấy làm căm tức vô cùng bởi vậy, muốn sang hàng thừa tướng để báo thù.
Tháo mở xem thư Hoàng Cái, rồi trợn mắt nổi giận lên mà nói Hoàng Cái dùng khổ nhục kế, sai người đến dâng thư trá hàng, và thét tả hữu lôi Trạch ra chém. Khi Trạch bị dẫn đi, nét mặt vẫn thản nhiên như không. Trạch chỉ ngẩng mặt lên trời cười ngất.
Tháo sai lôi lại quát hỏi: “Ta đã biết rõ ruột gan ngươi, ngươi còn cười gì nữa?”
Từ đây là cuộc đối đáp sôi nổi giữa Tào Tháo và Hám Trạch, để cuối cùng Tháo tin theo và sai đem rượu khoản đãi.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ chín liên quan đến Trận Xích Bích. Thật ra, việc gửi thư trá hàng của Hoàng Cái lập tức được Tào Tháo tin theo, không cần Hám Trạch phải đấu trí với Tào Tháo. [Lê Đông Phương]
Bàng Thống lừa Tào Tháo xích thuyền (Hồi 47)
TQDN: Bàng Thống tránh loạn sang ngụ bên Giang Đông. Chu Du sai Lỗ Túc đến hỏi kế phá Tào. Thống cho biết phải dùng nên dùng liên hoàn kế khiến Tháo phải ghép cả đội thuyền vào một chỗ, rồi dùng hỏa công. Vừa lúc Tưởng Cán lại sang. Chu Du hầm hầm nổi giận trách Thống lấy trộm thư, lẻn về báo với Tào Tháo, để Trương Doãn và Sái Mạo bị giết, làm hỏng việc của mình. Bây giờ phải giữ Thống lại, kẻo tiết lộ quân cơ. Liền sai tả hữu đưa Cán ra nghỉ trong một cái am.
Cán ở đó vừa buồn vừa lo, ăn ngủ không yên. Đêm hôm ấy, dạo ra sau am, nghe văng vẳng có tiếng đọc sách. Cán lần theo, thấy có căn nhà tranh, liền gõ cửa. Một người ra đón Cán vào, hai bên giới thiệu với nhau rồi nói chuyện. Cán nói: “Cứ như tài của tiên sinh, đi đâu mà chẳng được trọng dụng. Nếu tiên sinh chịu sang với Tào công, tôi xin tiến dẫn”.
Ngay đêm hôm ấy, Thống cùng với Cán xuống núi, ra bờ sông tìm chiếc thuyền của mình trước, chở như bay về Giang Bắc.
Bấy giờ, quân Tào không quen thủy thổ, bệnh thổ tả phát ra, nhiều người bị chết. Thống hiến kế đem thuyền lớn nhỏ ghép lại thành từng cụm độ ba chục chiếc hoặc năm chục chiếc, đầu đuôi dùng xích sắt ghép liền với nhau, trên thuyền lát ván phẳng phiu, như thế chẳng những người đi lại dễ dàng, mà đến ngựa chạy cũng được.
Người sau có thơ cảm khái mưu kế của Bàng Thống.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ mười liên quan đến Trận Xích Bích. Bàng Thống không tham gia trận Xích Bích. Việc xích thuyền với nhau là chủ ý của Tào Tháo. Ông ta buộc phải làm thế vì binh sĩ phương Bắc không quen thủy chiến lại không hợp thủy thổ phương Nam nên bị bệnh quá nhiều, không thể chịu được thuyền tròng trành. [Wikipedia]
Nhận xét: La Quán Trung tôn vinh Bàng Thống hiệu Phượng Sồ, nên gán cho ông này mưu mẹo tài tình.
Gia Cát Lượng nêu ý kiến đánh hỏa công (Hồi 49)
TQDN: Chu Du đứng trên đỉnh núi đang mải quan sát, bỗng một trận gió đùng đùng thổi đến, sóng vật tới bờ. Cái dải cờ bay tạt vào mặt Chu Du. Du sực nghĩ tới điều gì, bỗng kêu rú lên một tiếng rồi ngã vật ra phía sau, miệng thổ máu tươi. Các tướng vội vàng vực Du đứng dậy, thì Du đã mê man không biết gì nữa rồi.
Lỗ Túc thấy Chu Du nằm một chỗ, trong lòng buồn bã, đến chơi Gia Cát Lượng, thuật chuyện Chu Du bị bệnh bất ngờ.
Gia Cát Lượng cười, nói: “Bệnh Công Cẩn, tôi có thể chữa được.” Túc liền mời Lượng cùng đến thăm Chu Du.
Lượng nói: “Mấy bữa nay không đến hầu, ngờ đâu ngọc thể bất an!” Du nói: “Người ta họa phúc sớm tối khôn lường, biết đâu mà giữ cho xuể!”
Lượng cười, nói: “Trời kia gió mưa bất thường, người ta có liệu trước được không?” Du nghe nói tái mặt đi, rên khừ khừ.
Lượng hỏi: “Trong bụng đô đốc, nghe như hơi đầy có phải không?” Du đáp: “Phải.”
Lượng nói: “Trước hết phải chữa cái khí, nếu khí thuận, thì thở hít cũng dễ, rồi tự nhiên sẽ khỏi bệnh.” Du tin chắc Lượng hiểu được ý mình, liền hỏi thử rằng: “Muốn cho thuận được khí, nên uống thuốc gì?”
Lượng cười, nói: “Tôi có một phương thuốc, làm cho đô đốc thuận được khí.” Du hỏi: “Phương thuốc gì, xin tiên sinh cho biết.”
Lượng mượn giấy bút, bảo tả hữu lui ra ngoài rồi viết mười sáu chữ như sau: “Muốn đánh Tào công / Phải dùng hỏa công / Muôn việc đủ cả / Chỉ thiếu gió đông”.
Viết xong, đưa cho Chu Du và nói: “Căn bệnh của đô đốc ở đây!” Du xem xong giật mình, nghĩ rằng: “Khổng Minh thật là thần thánh, biết hết cả ruột gan ta! Cần phải nói rõ sự thật mới xong!”
Chính sử: Đây là hư cấu thứ mười một liên quan đến Trận Xích Bích. Ý kiến đánh hỏa công là do Hoàng Cái đưa ra.
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư,
Bấy giờ rất nhiều quân lính của Tào Tháo bị bệnh, mới giao chiến một trận, Tháo thua binh thối lui, dẫn quân về Giang Bắc. Bọn Du ở bờ nam. Bộ tướng của Du là Hoàng Cái nói: “Nay địch đông ta ít, khó cầm giữ được lâu. Nhưng tôi quan sát thấy chiến thuyền của quân Tháo đầu đuôi liên tiếp nhau, có thể dùng kế hỏa công để chúng phải bỏ chạy vậy.” Lập tức chọn lấy mấy chục chiến thuyền, che trùm kín mít, chứa đầy cỏ khô, trong tẩm dầu mỡ, ngoài dùng vải che kín, trên cắm cờ xí, trước hết gửi thư báo với Tháo, trá rằng muốn đến hàng.
Gia Cát Lượng cầu gió đông (Hồi 49)
TQDN: Gia Cát Lượng nói mình có gặp được một dị nhân truyền cho quyển Kỳ môn độn giáp thiên thư có thể gọi được gió, bảo được mưa, yêu cầu Chu Du lập đàn tại núi Nam Bình, Lượng sẽ lên đàn dùng phép, mượn gió đông-nam thật to ba ngày ba đêm để Du dùng binh.
Du nói chẳng cần đến ba ngày ba đêm, chỉ một đêm gió to là xong việc. Du sai quân đến núi Nam Bình đắp đàn, và điều một trăm hai mươi tên lính cầm cờ giữ đàn, sẵn sàng nghe lệnh.
Đến ngày 20 giáp tý, tháng 11, giờ tốt, Lượng tắm gội sạch sẽ, mặc áo phù thủy, xoã tóc đi chân không đến trước đàn, dặn các tướng sĩ coi đàn không ai được tự tiện bỏ chỗ đứng mà đi chỗ khác; không ai được quay đầu ghé tai, nói năng bậy bạ; không ai được thất kinh sợ hãi. Ai trái lệnh sẽ bị chém đầu! Chúng đều tuân lệnh răm rắp.
Lượng khoan thai bước lên đàn, quan sát phương hướng đâu đấy, đốt hương rót nước, ngẩng mặt lên trời khấn thầm một hồi, rồi xuống đàn vào trướng nghỉ. Lại truyền cho quân sĩ thay đổi nhau ăn uống. Mỗi ngày Khổng Minh lên đàn ba lần, xuống đàn ba lần, mà mãi vẫn không thấy có gió đông-nam.
Chu Du mời Trình Phổ, Lỗ Túc và các tướng chực sẵn dưới trướng, chỉ đợi có gió đông-nam là cất quân đi, một mặt báo tin cho Tôn Quyền để tiếp ứng. Hoàng Cái đã dự sẵn hai chục chiếc hỏa thuyền, mũi thuyền cắm chông sắt, trong thuyền chứa đầy lau sậy, củi khô tẩm dầu mỡ, trên rắc lưu hoàng, diêm tiêu, dùng vải xanh che kín. Trên mũi thuyền cắm cờ xanh, đuôi thuyền đóng sẵn một cái xuồng dự bị, sẵn sàng đợi lệnh Chu Du.
Hôm ấy, trời gần tối, bầu trời sáng sủa, không phe phẩy một tí gió nào. Du nói với Lỗ Túc: “Khổng Minh nói sai rồi, trời đông tháng rét thế này, làm gì có được gió đông-nam?” Túc nói: “Tôi chắc Khổng Minh không phải là người nói bậy.”
Gần đến canh ba, bỗng nhiên nghe thấy tiếng gió thổi, cờ quạt tung bay. Du ra trướng xem, thấy đuôi cờ bay về phía tây-bắc. Một lát, gió đông-nam nổi lên ầm ầm.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ mười hai liên quan đến Trận Xích Bích: điển tích “Gia Cát Lượng mượn gió Đông”.
Thời điểm Đông chí phần nhiều đều có gió đông-nam, nên có thể nói Tào Tháo bại trận do thiên tai chứ không phải vì người tạo ra. Theo ghi chép của chính sử, việc gió đông-nam xuất hiện vào mùa đông ở vùng Giang Đông là có thể. [An Hòa]
Khi đội thuyền của Hoàng Cái nhắm về phía Tào doanh, gió đông-nam đang thổi mạnh. [Giang Biểu truyện] [Tư trị thông giám]
Theo Trần Văn Đức,
Có không ít sử gia cho rằng, bởi Gia Cát Lượng thấu hiểu thiên văn học và khí tượng học, cho nên có thể dự đoán được sẽ có gió đông-nam, đã ghi công đầu cho ông ta, thực ra khả năng này rất ít. Những nhân vật tham mưu cổ xưa, không ít người hiểu được thiên văn và khí tượng học, trong đội quân viễn chinh của Tào Tháo tất nhiên cũng có chuyên gia về mặt này. Bằng vào những yếu tố thông thường về khí tượng học, muốn lừa được một thiên tài quân sự như Tào Tháo, dứt khoát là chẳng thể được. Huống chi theo ghi chép của sử liệu, Gia Cát Lượng sinh ở Lang Nha quận (tỉnh Sơn Đông), lớn lên ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam), cách Trường Giang mấy nghìn dặm, vào thời ấy giao thông và tin tức còn chưa thuận lợi, Gia Cát Lượng chẳng thể có khả năng thấu hiểu địa hình và tư liệu khí tượng của lưu vực Trường Giang.
Đối với sự xuất hiện gió đông-nam, đều chưa phân tích hoặc giải thích rõ nguyên nhân, xem như chỉ là một biến cố đột xuất mà thôi. Song nếu như đó chỉ là một nhân tố ngẫu nhiên, Chu Du làm sao dám vận dụng chiến thuật hỏa công, hơn nữa lại điều động quân mã tự tin như thế, lựa chọn thời gian và không gian định sẵn như thế, với đội quân to lớn của Tào Tháo quyết, đấu một trận sinh tử, trong đó ắt phải có cơ sở.
Đại chiến Xích Bích xảy ra vào năm Kiến An thứ 13, theo âm lịch là khoảng thời gian từ đêm 22 tháng 11 đến sáng ngày 23. Trong khoảng vài chục ngày trước đó, sử liệu đã ghi về đêm có sương mù ở vùng đó. Tào Tháo bởi không quen thủy chiến, lại phòng bị cẩn thận, đấy là nguyên nhân chủ yếu khiến Tào Tháo hạ lệnh dùng xích sắt tạo thành đoàn thuyền liên hoàn.
Vào lúc sáng sớm mấy hôm đó vùng Xích Bích có sương mù dày đặc trên mặt sông. Sương mù vào lúc sớm như thế, thường báo hiệu một ngày rất nắng. Đêm hôm trước đại chiến Xích Bích (có thể là ngày rằm), Tào Tháo mở yến tiệc trên thuyền để khích lệ tướng sĩ, trong tiệc rượu Tào Tháo cao hứng sáng tác bài Đoản ca hành, trong đó có câu thơ “trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam”, cho thấy trời quang đãng không một đám mây.
Qua đoạn miêu tả thiên nhiên này, chúng ta có thể phán đoán vào mấy hôm trước đại chiến Xích Bích, có thể trời nắng nóng liên tục, ôn khí bốc lên cao không ít. Lại thêm dòng Trường Giang uốn cong ở đấy, gần với vùng Đạm Thủy, kết hợp những nhân tố này dễ phát sinh gió địa hình tạm thời. Lúc này gió mùa tây-bắc thổi qua đại lục, bởi thế khí ấm nóng bốc lên khiến cho ôn độ ở vùng hồ Đạm Thủy phía đông-nam Xích Bích cũng tăng lên không ít. Vùng hồ này khá rộng lớn, mặt nước có công năng điều hòa, cho nên ôn khí trên mặt hồ thấp hơn với lục địa tây-bắc. Theo nguyên lý khí tượng học, khi độ nóng khác biệt, không khí lạnh từ mặt hồ sẽ tràn vào lục địa, đây có thể là nguyên nhân thực sự hình thành nên gió đông-nam lúc ấy.
Quan Vũ vì nghĩa tha Tào Tháo ở Hoa Dung (Hồi 50)
TQDN: Đông Ngô dùng hỏa công đốt thuyền của Tào Tháo ở Trận Xích Bích. Tào Tháo cùng với Trương Liêu dẫn hơn chục quân kỵ mã tháo chạy trong rừng lửa, được ba nghìn quân mã ứng cứu. Đội quân này lần lượt bị tướng Đông Ngô là Lục Tốn và các tướng của Lưu Bị là Triệu Vân, Trương Phi chặn đánh, Tháo dẫn tàn quân đi theo đường nhỏ Hoa Dung.
Theo miêu tả của La Quán Trung thì tàn quân Tháo lúc bấy giờ vừa yếu lại vừa thiếu:
Quân mã mỏi mệt, thương binh phải gượng gạo dắt díu, cõng đỡ nhau mà đi, quần áo ướt sũng, tả tơi; vũ khí cờ quạt xơ xác. Trong số này, phần nhiều bị đuổi riết ở đường Di Lăng mới rồi, chỉ còn cưỡi ngựa trần, yên cương chẳng có. Vả đang lúc trời đông rét mướt, khổ não không sao kể xiết.
Tháo lại sợ sau lưng có quân đuổi theo, sai Trương Liêu, Hứa Chử, Từ Hoảng dẫn một trăm lính kỵ, tuốt gươm cầm sẵn trong tay, tên nào chậm chạp thì chém. Lúc này, quân sĩ đều đói mệt, lăn queo ra đường. Tháo thét người ngựa giẫm lên trên mà đi, chết hại không biết bao nhiêu, tiếng kêu khóc vang cả đường sá.
Trong ba toán quân mã, một toán ở lại sau, một toán đi trước đắp đường, lấp hố, còn một toán đi kèm với Tào Tháo. Đi khỏi quãng hiểm trở, ra đến đường cái phẳng phiu hơn, Tháo ngoảnh lại thấy chỉ còn hơn ba trăm quân mã, quần áo tả tơi.
Trước đó, Quan Vũ đã nhận lệnh Gia Cát Lượng đi bắt Tào Tháo ở Hoa Dung. Lưu Bị nói nhỏ với Lượng rằng Quan Vũ là người nghĩa khí lắm, chỉ sợ vì ơn nghĩa trước đây mà tha mất. Lượng thưa rằng mình xem thiên văn, biết số Tào Tháo chưa chết, nên mới để một mối tình nghĩa ấy cho Quan Vũ làm.
Quả nhiên, Tháo dẫn tàn quân chạy đến Hoa Dung như Gia Cát Lượng tiên liệu. Bộ tướng của Tháo là Trương Liêu xin Quan Vũ nghĩ đến tình nghĩa khi được Tào Tháo trọng đãi lúc về hàng. Quan Vũ trả lời rằng tuy mình đội ơn sâu của Tháo nhưng đã chém Nhan Lương và Văn Sú, giải vây thành Bạch Mã, để đền đáp rồi. Đến phiên Tháo kể lể việc Quan Vũ qua năm cửa ải chém sáu tướng và nhắc đại trượng phu phải trọng điều tín nghĩa. Quan Vũ là người luôn trọng nghĩa, nhớ đến Tào Tháo khi xưa đãi mình rất hậu và việc ra khỏi năm cửa ải chém sáu tướng, không khỏi động lòng, tha cho Tào Tháo.
Khi biết Quan Vũ tha Tào, Gia Cát Lượng quát võ sĩ lôi ông này ra chém. Lưu Bị nhắc đến việc ba anh em kết nghĩa đã thề cùng sống chết có nhau mà xin tha cho Quan Vũ.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ mười ba liên quan đến Trận Xích Bích. Thật sự là tàn quân của Tào Tháo không thê thảm đến thế, và người chặn Tào Tháo ở Hoa Dung là Lưu Bị, nhưng ông này đến muộn nên Tào Tháo chạy mất.
Sơn dương công tái ký ghi:
Thuyền của Tào Tháo bị đốt, Tháo bèn dẫn quân theo đường Hoa Dung trở về, gặp bùn lầy, đường không đi được, trời lại có gió lớn, Tháo sai tất cả binh lính gầy yếu phải vác cỏ lấp những chỗ lầy lội, quân kỵ mới đi qua được. Đám quân sĩ gầy yếu bị người ngựa giầy xéo, bị vùi lấp trong bùn lầy, chết rất nhiều. Quân đã qua được, Tháo rất mừng, chư tướng hỏi việc ấy, Tháo nói: “Lưu Bị xứng đáng là đối thủ của ta, chỉ hiềm hành động hơi chậm chạp, nếu y phóng hỏa sớm hơn một chút, chúng ta đã chết rồi vậy.” Bị cũng có phóng hỏa nhưng không kịp.
Trần Văn Đức viết: “Thực ra đội quân Lưu Bị, tự biết thực lực có hạn, chỉ bố phòng một chỗ, về căn bản chưa từng nghĩ đến việc truy kích Tào Tháo.”
Nhận xét: Thành ngữ “tha Tào” trở thành phổ biến, chỉ hành động tha thứ đầy trượng nghĩa. Nhiều bàn luận sôi nổi xoay quanh nghĩa cử này của Quan Vũ, cho rằng đúng thật Quan Vũ là người trọng tình nghĩa. Cũng có ý kiến cho rằng Gia Cát Lượng thật ra chỉ nhằm hạ nhục Quan Vũ vì ông này lúc đó hay xem thường quân sư. Ý kiến khác lại nói “tha Tào” chỉ nhằm giữ thế chân vạc tạo ổn định cho Thục: nếu Tào Tháo chết đi thì Thục sẽ bị Đông Ngô nuốt chửng. Và một lần nữa, tình nghĩa ba anh em đã thề cùng sống chết lại được nêu ra. Những tranh luận về lịch sử sôi nổi như thế là quá phóng túng khi xoay quanh bốn câu chuyện hư cấu: (1) Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng; (2) Quan Vũ giết Văn Sú; (3) kết nghĩa vườn đào; và (4) Quan Vũ tha Tào.
Triệu Vân chiếm Nam Quận, Quan Vũ lấy Tương Dương (Hồi 51)
TQDN: Sau Trận Xích Bích năm 208, Chu Du và Lỗ Túc đến gặp Lưu Bị. Du trông thấy quân mã hùng tráng lắm, trong bụng áy náy không yên.
Chu Du hỏi Lưu Bị có phải muốn lấy Nam Quận hay không. Bị đáp: “Nghe tin đô đốc có ý lấy Nam Quận, nên tôi dẫn quân đến giúp. Nếu đô đốc không lấy, thì tôi lấy vậy.”
Du cười, nói: “Nay Nam Quận đã ở trong tay rồi, lẽ đâu lại không lấy!” Lưu Bị nói e rằng Du không lấy nổi.
Du nói: “Nếu tôi không chiếm được Nam Quận, bấy giờ ngài muốn thế nào tùy ý.” Gia Cát Lượng nói đồng ý nhường Đông Ngô lấy trước, nếu không xong, Lưu Bị sẽ lấy. Du và Túc từ biệt ra về.
Lưu Bị hỏi Gia Cát Lượng: “Tôi nay cô cùng, không nơi nương náu, muốn được một xứ Nam Quận này để lấy chốn dung thân. Nếu để Chu Du lấy trước, thì thành trì về tay Đông Ngô rồi, ta ở vào đâu cho được?” Lượng cả cười, nói: “Chúa công đừng ngại, cứ mặc sức cho Chu Du quần nhau với Tào Nhân. Nay mai sẽ rước chúa công vào ngồi chễm chệ ở trong thành Nam Quận.”
Đúng như Gia Cát Lượng dự liệu, Chu Du đánh nhau với Tào Nhân dằng dai cả năm, rồi bị tên bắn trọng thương. Lượng sai Triệu Vân thừa cơ đánh chiếm thành Nam Quận, rồi lấy binh phù sai Trương Phi đánh úp lấy thành Kinh Châu và Quan Vũ đánh úp lấy Tương Dương.
Để ý rằng “thành Nam Quận” mà La Quán Trung gọi chính là Giang Lăng – thủ huyện của Nam Quận – bởi vì đó là trị sở của Nam Quận, và “thành Kinh Châu” chính là thành Công An bởi vì đó là bản doanh Kinh Châu của Lưu Bị ở thời kỳ đầu (trước khi mượn được Giang Lăng).
Chính sử: Thực tế là Chu Du không chiếm Nam Quận, và Quan Vũ không đánh úp lấy Tương Dương.
Về Nam Quận, theo Tam Quốc chí_Ngô thư, Chu Du và Tào Nhân chống nhau hơn một năm, người chết và bị thương rất nhiều. Cuối cùng Nhân bỏ thành chạy, Chu Du chiếm được Nam Quận và lấy luôn một phần Giang Hạ của Lưu Kỳ, Quyền phong Du làm Thái thú Nam Quận. Có nghĩa là không phải như La Quán Trung hư cấu, phía Lưu Bị không hề kiểm soát Nam Quận.
Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương. Thật ra, trong thời Tam Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này.
Ghi chú: Sau Trận Xích Bích, tình hình chiếm đóng Kinh Châu là như sau:
- Quân Tào giữ phía bắc Giang Hạ đến Tương Dương–Phàn Thành, với Tương Dương là trị sở mới của Kinh Châu thuộc Tào.
- Quân Ngô nắm Giang Lăng, Nam Quận kéo dài đến tận Di Lăng và Giang Hạ, với Giang Lăng là trị sở Kinh Châu của Tôn Quyền.
- Quân Thục chiếm từ Công An xuống bốn quận Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, với Công An là trị sở Kinh Châu của Lưu Bị.

Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện ghi sau khi Lưu Bị thu được các quận Giang Nam, phong Quan Vũ làm Tương Dương Thái thú. Có lẽ đó chỉ là tên chức vụ chứ không chỉ ra nhiệm vụ cai trị thành Tương Dương.
Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du lần thứ nhất (Hồi 51)
TQDN: Đây là lần chọc tức thứ nhất trong điển tích “Tam khí Chu Du”, được La Quán Trung tô vẽ như sau.
Chu Du và Trình Phổ thu cả quân mã, kéo nhau đến Nam Quận. Vừa đến nơi đã thấy trên mặt thành tinh kỳ đỏ rực cả, một tướng trên chòi canh gọi to lên rằng: “Xin lỗi đô đốc, tôi phụng mệnh quân sư lấy được thành đã lâu rồi. Tôi là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây.”
Chu Du giận lắm, liền sai đánh thành. Trên thành tên bắn xuống rào rào. Du truyền rút quân về để bàn bạc, và sai Cam Ninh dẫn một nghìn quân đến lấy Kinh Châu; Lăng Thống dẫn một nghìn quân đến lấy Tương Dương; rồi sẽ tính đến Nam Quận cũng vừa.
Du đang cắt đặt mọi việc thì có thám mã lại báo rằng: “Gia Cát Lượng lấy được Nam Quận, liền dùng binh phù của Tào Nhân cấp tốc điều quân giữ thành Kinh Châu đến cứu, rồi sai Trương Phi đánh úp lấy thành Kinh Châu.”
Lại có một thám mã về báo rằng: “Hạ Hầu Đôn giữ ở Tương Dương, Gia Cát Lượng cho người đem binh phù đến, nói dối rằng Tào Nhân cầu cứu, dụ cho Hạ Hầu Đôn ra khỏi thành, rồi sai Vân Trường đánh úp lấy Tương Dương. Thành trì hai nơi đều rơi vào Huyền Đức mà Huyền Đức không hề tốn một chút công sức nào!
Chu Du hỏi: “Gia Cát Lượng làm thế nào mà lấy được binh phù?” Trình Phổ nói: “Hắn tóm được Trần Kiều, thì binh phù lọt vào tay hắn chớ gì!”
Chu Du nghe nói, kêu to một tiếng, nhọt đau vỡ tung ra.
Chính sử: Đúng thật là Lưu Bị chiếm bốn quận phía nam Kinh Châu là Vũ Lăng, Trường Sa, Linh Lăng và Quế Dương, nhưng hai bên Thục–Ngô hòa hoãn trong tinh thần hợp tác chứ không đến nỗi thù hằn, và cũng khá thuận lợi chứ không phải dùng mưu mẹo.
Ngô lục ghi:
Lưu Bị bảo Chu Du rằng Tào Nhân giữ thành Giang Lăng, trong thành lương thảo rất nhiều, đủ để chống giữ. Thục sẽ sai Trương Phi dẫn một nghìn người đi theo Du, còn Du chia hai nghìn quân đi theo Bị, Bị sẽ theo dòng Hạ Thủy xuống cắt đứt hậu phương của Nhân, Nhân hay tin tất bỏ chạy. Du bèn giao thêm hai nghìn người cho Bị.
Còn vết thương của Chu Du là do trong lần giao chiến trước với quân Tào. Tam Quốc chí_Ngô thư ghi:
Tào Nhân chia kỵ binh bao vây Cam Ninh. Ninh cáo cấp với Chu Du. Du dùng kế của Lã Mông, để Lăng Thống giữ hậu phương, đích thân cùng với Mông đến cứu Ninh. Ninh được giải vây, bèn qua sông đóng ở bờ bắc, chuẩn bị hẹn ngày đại chiến. Du thân chinh cưỡi ngựa đi trước trận, bỗng đâu bị cung tên bắn trúng sườn, bị thương rất nặng, phải lui về. Sau Nhân hay tin Du thụ thương phải nằm không đứng dậy được, liền đem binh đến bầy trận. Du bèn tự ngồi dậy, đi xem xét doanh quân, khích lệ binh sĩ. Nhân thấy thế lại lui về.
Cũng theo tập nêu trên, cuối cùng Chu Du chiếm được Nam Quận và một phần Giang Hạ của Lưu Kỳ, chiếm được Giang Lăng năm 209, Tôn Quyền phong Chu Du làm Thái thú Nam Quận, Du đóng dinh sở tại Giang Lăng (Giang Lăng đồng thời làm trị sở Kinh Châu của họ Tôn), còn Lưu Bị lĩnh chức Kinh Châu Mục, đóng ở Công An.
Việc Lưu Bị đánh 4 quận phía nam Kinh Châu diễn ra không quá khó nhọc, khi nhiều thuộc hạ cũ của Lưu Biểu theo về với ông. Tam Quốc chí_Thục thư_Tiên Chủ truyện ghi: Lưu Bị nam chinh bốn quận, Thái thú Vũ Lăng là Kim Toàn, Thái thú Trường Sa là Hàn Huyền, Thái thú Linh Lăng là Lưu Độ, Thái thú Quế Dương là Triệu Phạm đều quy hàng.
Nhận xét: Chu Du với Lưu Bị thỏa thuận là để Du đánh Nam Quận trước, không được thì mới tới lượt Bị. Như đã nêu trên, phía Lưu Bị không hề kiểm soát Nam Quận của Chu Du, thế thì Chu Du tức tối là không hợp lý.
La Quán Trung tài tình ở chỗ việc đánh chiếm 4 quận là đơn giản, nhưng viết nên những mưu mẹo thần kỳ khiến cho độc giả thấy cuốn hút.
Quan Vũ thu phục Hoàng Trung (Hồi 53)
TQDN: Sau Trận Xích Bích, để tạo thế đứng Lưu Bị nỗ lực lấp vào khoảng trống ở Kinh Châu do Tào Tháo để lại. Gia Cát Lượng điều Triệu Vân lấy Quế Dương, Trương Phi lấy Vũ Lăng, còn Quan Vũ lấy Trường Sa. Thái thú ở Trường Sa là Hàn Huyền sai lão tướng Hoàng Trung ra nghênh chiến.
Vân Trường đánh với Hoàng Trung trăm hiệp không phân thắng bại. Hôm sau, hai người lại đánh nhau tới năm sáu chục hiệp mà vẫn chưa phân được thua. Vân Trường quay ngựa chạy về, Hoàng Trung đuổi theo. Vân Trường sắp sửa quay đao chém lại, bỗng nghe sau lưng “huỵch” một tiếng, ngoảnh lại thấy Hoàng Trung bị ngựa sa chân trước, ngã lăn xuống đất. Quan Vũ bảo Hoàng Trung về đổi ngựa khác rồi ra đánh nữa.
Hôm sau, hai người đánh nhau chưa đầy ba chục hiệp, Trung giả thua chạy. Vân Trường đuổi theo. Trung nghĩ ân tình hôm trước, giương cung bắn dây không. Vân Trường né tránh nhưng không thấy có tên bay đến, lại đuổi. Trung lại bắn dây không lần nữa. Vân Trường lại lánh, nhưng vẫn không thấy tên, cho là Hoàng Trung không biết bắn, càng vững dạ đuổi theo. Khi sắp đến đầu cầu, Hoàng Trung đứng trên cầu, giương cung đặt tên, bắn một phát, tin ngay vào quai mũ Vân Trường. Vân Trường giật mình, đeo cả tên chạy về trại. Bấy giờ Vân Trường mới biết Hoàng Trung có tài bắn xuyên lá liễu cách xa hàng trăm bước, bữa nay sở dĩ bắn lên chỏm mũ mình là có ý báo ơn không giết hôm trước đó thôi.
Hàn Huyền cho rằng Hoàng Trung thông đồng với Quan Vũ nên quát tả hữu trói Trung chém đầu. Quân vừa sắp sửa khai đao, bỗng Ngụy Diên đánh thốc vào pháp trường, chém chết ngay tay đao phủ, cứu được Hoàng Trung, đánh thẳng lên mặt thành chém Hàn Huyền rồi xách đầu dẫn bá tính ra hàng Vân Trường.
Chính sử: Quan Vũ và Hoàng Trung không hề giao chiến nên càng không có chuyện Vũ dùng nhân nghĩa để thu phục Trung. Không phải Ngụy Diên giết Hàn Huyền, mà chính Hoàng Trung khuyên Hàn Huyền hàng Lưu Bị.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi:
Quan Vũ phải chiến đấu gian khổ ở Trường Sa bởi vì Thái thú ở đấy là Hàn Huyền dựa vào thành trì hiểm trở mà cố thủ. May mà nhờ có Ngụy Diên, một tướng lĩnh ở Kinh Tương chạy về đấy trước đó, thuyết phục được người cầm đầu quân sĩ là Hoàng Trung làm phản, mới bức được Hàn Huyền ra hàng.
Nhận xét: La Quán Trung đổi trắng thay đen khi biến nỗ lực chiến đấu gian lao hầu như vô vọng của Quan Vũ trở thành hào hùng và đầy nghĩa khí vì thu phục được Hoàng Trung, trong khi thật ra Vũ phải chịu ơn Trung mới đúng.
Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị giết Ngụy Diên (Hồi 53)
TQDN: Sau khi Ngụy Diên chém Hàn Huyền như ghi trên, Quan Vũ đưa Ngụy Diên vào ra mắt. Gia Cát Lượng sai võ sĩ lôi Diên ra chém, cho rằng Diên ăn lộc của chủ mà giết chủ, thế là người bất trung, ở đất ấy mà lại dâng đất ấy, thế là quân bất nghĩa, lại xem sau gáy Diên có cái phản cốt, mai sau tất sinh lòng phản nghịch, cho nên chém trước để trừ vạ sau này. Lưu Bị ngăn lại, nói nếu chém Diên thì e những người theo hàng khác sợ hãi, mong quân sư tha cho hắn. Gia Cát Lượng trỏ vào mặt Ngụy Diên, bảo Diên hãy hết lòng báo chúa, nếu ăn ở hai lòng thì sẽ bị lấy đầu.
Các sử gia chỉ rõ chuyện Gia Cát Lượng đòi giết Ngụy Diên là hoàn toàn hư cấu, bởi vì Ngụy Diên không giết chủ Hàn Huyền.
Thực chất Ngụy Diên là người rất trung thành, dũng cảm. và những phẩm chất đó được không chỉ Lưu Bị mà cả Gia Cát Lượng quý mến”. [Lê Đông Phương]
Tam Quốc chí_Ngụy Diên truyện cũng ghi Lưu Bị và Gia Cát Lượng hậu đãi Ngụy Diên:
Khi Tiên Chủ xưng làm Hán Trung Vương, cần một tướng giỏi trấn giữ Hán Xuyên. Mọi người đều bàn luận cho rằng tất sẽ là Trương Phi, Phi cũng nghĩ như vậy. Tiên Chủ lại đề bạt Diên làm đô đốc Hán Trung, tước Trấn Viễn tướng quân. … Tiên Chủ xưng đế hiệu, tiến cử Diên làm Trấn Bắc tướng quân. Năm Kiến Hưng nguyên niên, Diên được phong làm Đô đình hầu. Năm Kiến Hưng thứ năm, Gia Cát Lượng đóng quân ở Hán Trung, đổi Diên làm đô đốc quân tiên phong, lĩnh chức tư mã, Lương Châu Thứ sử.
Nhận xét: Hình như La Quán Trung có ác cảm với Ngụy Diên, trái ngược với những phong thưởng của Lưu Bị mà hẳn Gia Cát Lượng ít nhất không phản đối, và bản thân Gia Cát Lượng cũng tin dùng Ngụy Diên. Nhưng qua ngòi bút của La Quán Trung, hư cấu kể trên tạo hiệu ứng ngược qua những bình luận sôi nổi chê bai Gia Cát Lượng, ví dụ như: (1) không tin thì không nên dùng, đã dùng thì nhất định phải tin; (2) chính sự bất công của Gia Cát Lượng dẫn đến sự tạo phản của Ngụy Diên sau này.
Lưu Bị ký văn tự mượn Kinh Châu (Hồi 54)
TQDN: Thoạt đầu, Kinh Châu thuộc Lưu Biểu, anh họ của Lưu Bị. Lưu Biểu qua đời, con thứ là Lưu Tông được đưa lên nối nghiệp. Khi Tào Tháo kéo đại quân đến, Lưu Tông dâng Kinh Châu cho Tào Tháo (Hồi 40). Rồi Tháo bị đại bại ở trận Xích Bích, phải rút quân về Hứa Đô (Hồi 50). Từ đây, Kinh Châu là vấn đề gay go và dai dẳng nhất trong mối bang giao giữa hai nhà Tôn–Lưu.
Tôn Quyền nghĩ Kinh Châu do chính Đông Ngô đánh chiếm được từ tay Tào Tháo nên Kinh Châu phải thuộc về Đông Ngô. Lưu Bị chiếm Kinh Châu vì muốn có đất lập nghiệp, viện hai lý do: phía Thục cũng có đóng góp công sức đánh Tào, và con trưởng của Lưu Biểu là Lưu Kỳ còn sống, chú giúp cháu giữ lấy Kinh Châu là lẽ đương nhiên. Lỗ Túc đành phải chấp nhận biện luận này. (Hồi 52)
Đến lúc này, sau khi nghe tin Lưu Kỳ qua đời [năm 209], Lỗ Túc lấy cớ đến viếng tang nhưng mục đích chính là đòi lại Kinh Châu. Gia Cát Lượng nêu ý kiến Đông Ngô cho Lưu Bị mượn Kinh Châu, khi lấy được Tây Xuyên từ tay Lưu Chương thì sẽ trả Kinh Châu cho Đông Ngô. Huyền Đức viết một tờ văn tự, ký tên xong, Gia Cát Lượng cũng ký tên làm chứng, rồi yêu cầu Lỗ Túc cũng ký tên vào.
Chính sử: Có ba điều đảo ngược so với TQDN.
1/ La Quán Trung viết về việc “mượn” Kinh Châu năm 209, nhưng thực tế việc này diễn ra sau năm 210.
2/ Có sự đảo ngược về vai trò: không phải Lưu Bị xin mượn Kinh Châu, mà chỉ xin trông coi Kinh Châu, rồi Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn. Hai ý nghĩa “xin mượn” và “cho mượn” khác nhau.
3/ Thực chất là chỉ mượn Giang Lăng, nhưng vì Tôn Quyền đặt trị sở Kinh Châu thuộc Ngô ở Giang Lăng, nên việc cho Lưu Bị “mượn Giang Lăng” vẫn được gọi là “mượn Kinh Châu”.
Sau Trận Xích Bích, Bị chiếm bốn quận phía nam: Vũ Lăng, Linh Lăng, Trường Sa và Quế Dương nhưng thấy không đủ cho “Long Trung sách” (sách lược chia ba thiên hạ mà Gia Cát Lượng trình bày lúc ở Long Trung). Do đó, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải tính tới việc tiếp cận địa bàn các quận phía bắc Kinh Châu.
Bị thỉnh cầu Quyền để được bàn giao Giang Lăng thuộc Nam Quận, đánh đổi nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ mới mất mà có. Việc này chỉ đạt được sau cái chết của Chu Du (210) – người cực lực phản đối giao Giang Lăng cho Lưu Bị – và nhờ quan điểm ôn hòa hơn của người kế tục Chu Du là Lỗ Túc lên cầm quân Giang Đông.
Như vậy sau trận Xích Bích và Giang Lăng, Kinh Châu được phân chia lại như sau:
- Tào Tháo giữ quận Nam Dương, nửa quận Giang Hạ, và nửa Nam Quận là các huyện Tương Dương và Phàn Thành;
- Tôn Quyền chiếm được nửa quận Giang Hạ: Giang Lăng đến Di Lăng;
- Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa Nam Quận.
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi: Lưu Bị đến Đông Ngô gặp Tôn Quyền, xin trông coi Kinh Châu. Chỉ có Lỗ Túc khuyên Quyền cho Bị mượn đất ấy để cùng chống Tào Tháo. Tháo nghe tin Quyền đem đất đai cho Bị dựng nghiệp, đang viết thư mà quẳng bút xuống đất.
Theo Hán Tấn Xuân thu, lúc Lưu Bị qua Ngô, Lữ Phạm khuyên Tôn Quyền giữ Bị ở lại. Lỗ Túc nói rằng không nên, bởi vì thế lực của Tào Tháo còn rất mạnh, nên cho Bị mượn đất để Bị bình định đất ấy, khiến Tháo có thêm kẻ địch, Đông Ngô cứ để cho Thục và Ngụy kình chống nhau. Quyền nghe theo kế sách này.
Nhận xét: Lưu Bị viện cớ Kinh Châu thuộc Lưu Kỳ là luận điệu gượng ép. Sau khi Lưu Biểu chết, Lưu Tôn là chủ Kinh Châu trong khi Lưu Kỳ không có tư cách gì cả. (Đó là theo cung cách thời bấy giờ; thời nay anh có thể đòi chia gia tài dù em được thừa kế.) Vì thế, Tào Tháo nhận Kinh Châu từ Lưu Tôn thì Tháo là chủ Kinh Châu, và Tôn Quyền đánh đuổi Tháo thì Quyền là chủ mới của Kinh Châu. Còn nếu nói Lưu Bị cũng góp công đánh Tào thì hai bên cần đàm phán với nhau xem công đó có bao nhiêu phần trăm rồi chia Kinh Châu theo tỷ lệ đó. Hai bên không muốn làm thế mà chỉ muốn chiếm toàn bộ Kinh Châu bởi vì vùng đất này có giá trị chiến lược cực kỳ quan trọng trong đối sách chia ba thiên hạ của Lỗ Túc và Gia Cát Lượng.
La Quán Trung viết Lưu Bị dùng lý lẽ để chứng tỏ tính chính danh khi chiếm Kinh Châu, còn việc ký giấy “mượn” Kinh Châu chỉ là chiến thuật xoa dịu Đông Ngô mà lần lữa. Nhưng nếu viết theo chính sử rằng Đông Ngô cho mượn Kinh Châu như cách ban ơn thì sau này Đông Ngô có quyền đòi lại, Lưu Bị khó thoái thác.
Cách sửa đổi chính sử của La Quán Trung gây phản tác dụng đối với Lưu Bị ở chỗ sau này “Lưu Bị mượn Kinh Châu” trở thành một thành ngữ thông dụng của người Tàu, chỉ hành động bội ước, mượn rồi cứ chây lì không trả. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng việc “Mượn Kinh Châu”, thật ra chỉ là mượn huyện Giang Lăng mà thôi, nhưng sau đó Tôn Quyền đòi trả lại hết 4 quận, bao gồm cả Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa thì là cho vay quá nặng lãi!
Chuyện Lưu Bị làm rể Đông Ngô (Hồi 54-55)
TQDN: Đây là một chuyện tình đẹp như mơ, qua hôn lễ khởi đầu và kết thúc đầy những mưu mẹo và những kế chống mưu mẹo.
Chu Du hiến kế giả vờ gả em gái cùng cha khác mẹ của Tôn Quyền cho Lưu Bị để lừa Bị đến Nam Từ, không gả người mà bắt giam lại, rồi đòi lại Kinh Châu, đánh đổi Lưu Bị. Bị biết Chu Du muốn hại mình, nhưng Gia Cát Lượng nói có mẹo khiến cưới được em gái Ngô hầu mà vẫn giữ vững Kinh Châu. Lượng điều Triệu Vân dẫn quân đi theo hộ tống Bị và giữ ba túi gấm.
Khi thuyền đến Nam Từ, Vân mở túi gấm thứ nhất ra xem. Theo đó Lưu Bị mang dê và rượu vào bái kiến Kiều quốc lão (cha của hai chị em Kiều, tức cha vợ của Tôn Quyền và Chu Du) thuật lại chuyện hôn nhân, trong khi quân sĩ áo thắm quần điều tấp nập ra phố mua bán đồ vật, nói toang lên rằng Huyền Đức vào làm rể Đông Ngô. Mọi người trong thành đều biết chuyện cả.
Kiều quốc lão vào cung chúc mừng bà Ngô quốc thái (vợ thứ của Tôn Kiên, tức mẹ kế của Tôn Quyền). Bà này bù lu bù loa với Tôn Quyền và mắng Chu Du: “Ngươi làm đại đô đốc sáu quận, tám mươi mốt châu, không nghĩ được một mưu gì để lấy Kinh Châu mà phải mượn tiếng con gái bà, dùng kế mỹ nhân! Lưu Bị bị giết, con bà chưa chồng mà té ra mang tiếng góa bụa, còn ai lấy nữa, có phải lỡ cả một đời con gái bà không? Thế cũng đòi lập mưu với lập mẹo!”
Đến đây thì vai trò của Kiều quốc lão càng nặng cân, khi can gián: “Việc lỡ rồi, chi bằng gả đi, kẻo mang tiếng xấu.”
Quốc thái ra lệnh đưa Bị đến chùa Cam Lộ cho bà xem mặt. Giả Hoa dẫn võ sĩ phục kích bên ngoài chùa, chờ Tôn Quyền làm hiệu sẽ xông vào giết Bị, nhưng Triệu Vân phát hiện được. Quốc thái đòi giết Giả Hoa, Bị can gián. Rốt cục Quốc thái ưng ý, chàng rể Lưu Bị cưới được cô dâu Tôn Thượng Hương, hai người tâm đầu ý hợp.
Chu Du được tin, nghĩ ra một kế khác: giam lỏng Lưu Bị ở Đông Ngô, sửa sang cung điện hoa viên cho lộng lẫy, đưa vào nhiều gái đẹp và hàng chục con hát cực hay cùng những đồ vàng ngọc, gấm vóc quý báu khiến Bị mê mải cuộc vui, nhạt tình cũ với Quan, Trương, quên Gia Cát Lượng, mỗi người một nơi, rồi Đông Ngô sẽ đem quân sang đánh chiếm lại Kinh Châu. Quả nhiên Huyền Đức mê mải về nhạc hay sắc đẹp, không tưởng trở về Kinh Châu nữa.
Chính sử: Thân thế của Tôn tiểu thư không rõ ràng. Điều lạ lùng là đối với một nhân vật có vai vế trong hoàng tộc họ Tôn này, Tam Quốc chí_Ngô thư chỉ ghi “Kiên có bốn con là Sách, Quyền, Dực, Khuông”, chứ không ghi gì về con gái của Tôn Kiên hoặc em gái của Tôn Sách, Tôn Quyền.
Chí lâm viết: “Kiên có năm con: Sách, Quyền, Dực, Khuông là do vợ họ Ngô sinh; con út là Lang (Lãng), sinh về sau, còn có tên là Nhân.” Như vậy, Tôn Nhân có thể là em cùng cha khác mẹ của Tôn Quyền (tuy không có sách khác ghi Tôn Kiên có vợ thứ).
Tam Quốc chí_Thục thư không ghi chép gì về hôn lễ, và cũng không ghi rõ Bị đi Đông Ngô để cưới vợ. Có thể suy đoán đây là cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị chứ không có tình yêu, qua những miêu tả sau:
- Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị được tôn làm Kinh Châu Mục, đóng dinh sở ở Công An. “Quyền có chút úy kỵ về việc ấy, mới tiến dâng em gái mình cho Bị để giữ tình hòa hiếu.”
- Tôn phu nhân “có sách nói tên là Tôn Thượng Hương”, “là em gái Quyền vốn kiêu căng, có nhiều binh tướng Ngô là thủ hạ, thao túng ngang ngược chẳng có phép tắc”.
- Bị đi gặp Tôn Quyền rồi “hai bên thắt chặt ân tình”.
- Khi đóng tại Công An, Lưu Bị “lo lắng Tôn Quyền bức bách, lại sợ Tôn phu nhân sinh biến ngay sát nách”.
Hơn nữa, có âm mưu giam lỏng Lưu Bị ở Ngô, nhưng ta không rõ việc này liên hệ tới mối hôn nhân hay không. Theo Tam Quốc chí_Ngô thư ,
Lưu Bị đến kinh sư gặp Tôn Quyền. Du dâng sớ rằng: “Lưu Bị có tư thế kiêu hùng, lại có Quan Vũ-Trương Phi như hùm như gấu làm tướng, tất chẳng khuất thân để người khác sai khiến mãi. Nên đưa Bị vào đất Ngô, xây cho cung thật lớn, ban cho nhiều mỹ nữ để nô đùa, vui tai no con mắt, chia rẽ người ấy với với hai người kia, mỗi người ở một nơi.”
Quyền vì Tào Tháo ở phương bắc đang rộng tay thâu tóm kẻ anh hùng, lại sợ rằng Bị khó có thể vội vàng khống chế được, nên không nghe lời Du.
Giang Biểu truyện cũng ghi:
Lưu Bị cùng Bàng Thống ung dung ăn tiệc, trò chuyện, hỏi Thống rằng Thống làm Công tào chỗ Chu Du, khi Bị ở Ngô, nghe thấy người ấy bí mật tâu trình, khuyên Chu Du lưu ta lại đó, có việc ấy không?” Thống đáp: “Có việc ấy.”
Một số nhân vật hư cấu là như sau:
- Kiều Quốc lão: không phải là Kiều Huyền, nhạc phụ Chu Du, do đó không có chuyện Gia Cát Lượng trao “túi gấm” để Lưu Bị đến gặp Kiều Quốc lão rồi ông này “nhận quà nói giúp” Lưu Bị và “chúc mừng” Ngô quốc thái.
- Ngô quốc thái: Tôn Kiên chỉ lấy một Ngô phu nhân và bà đã mất trước Trận Xích Bích, do đó không có chuyện “Ngô quốc thái đến chùa xem mặt rể hiền”.
- Giả Hoa: do đó không có cảnh gay cấn “mưu sát Lưu Bị”.
Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du lần thứ hai (Hồi 55)
TQDN: Đây là lần chọc tức thứ hai trong điển tích “Tam khí Chu Du”, được La Quán Trung tô vẽ như sau.
Khi Chu Du thực hiện kế giam lỏng Lưu Bị ở Đông Ngô, Triệu Vân và năm trăm quân sĩ nhàn rỗi cả ngày, chỉ ra ngoài thành phóng ngựa săn bắn chơi bời. Ngày tháng thấm thoát, đã gần hết năm. Triệu Vân sực nhớ lời dặn của Gia Cát Lượng, mở túi gấm thứ hai.
Theo đó, đến giữa hôm mồng một tết, Lưu Bị và Ngô phu quân mượn cớ ra bờ sông tế tổ, rồi cùng lẻn về Kinh Châu. Hôm ấy, Tôn Quyền say quá, văn võ tan đâu về đấy. Đến lúc các quan biết tin Lưu Bị và phu nhân đi, thì trời đã tối. Muốn báo cho Tôn Quyền biết nhưng Quyền lại đang ngủ say. Khi Quyền tỉnh dậy thì trời đã tang tảng sáng. Quyền sai ngay Trần Vũ và Phan Chương lựa năm trăm tinh binh, không kể ngày đêm phải đuổi kịp bắt Huyền Đức về. Sau đó lại nghe lời Trình Phổ, sai Tưởng Khâm và Chu Thái dẫn một nghìn quân mã đi lấy cả đầu em gái lẫn đầu Lưu Bị mang về.
Còn Lưu Bị, trước nhất bị Từ Thịnh và Đinh Phụng chặn đường. Triệu Vân theo lời quân sư mở túi gấm thứ ba. Theo đó, Lưu Bị tỏ bày cùng Tôn phu nhân, xin cứu giúp. Tôn phu nhân mắng mỏ Từ Thịnh và Đinh Phụng. Từ, Đinh hai tướng nghĩ rằng mình là người bề dưới, đâu dám kháng cự với phu nhân, vả lại trông thấy Triệu Vân có vẻ căm tức lắm, nên buộc lòng phải thét quân sĩ mở đường cho đi. Xe vừa đi được năm sáu dặm, thì Trần Vũ và Phan Chương đuổi đến nơi. Tôn phu nhân lại mắng mỏ một chập, khiến bốn tướng chỉ đứng nhìn nhau. Ai nấy tự nghĩ rằng: “Người ta với chủ mình vẫn là anh em, việc này còn có quốc thái làm chủ. Ngô hầu là người chí hiếu, sao dám trái lời mẹ! Mai này nghĩ lại, thì muôn sự té ra chúng mình không phải cả. Chỉ bằng ta hãy làm một việc có chút tình tử tế là hơn.” Vả lại trong đám ấy không thấy Lưu Bị, chỉ thấy có Triệu Vân mắm môi trợn mắt, lăm le muốn đánh. Bởi thế, các tướng dạ ran mấy tiếng, rồi rút quân về.
Kế tiếp, Tưởng Khâm và Chu Thái xồng xộc chạy đến, cho biết “được lệnh giết cô em trước, Lưu Bị sau, hễ sai lệnh sẽ bị chém đầu!” Từ, Đinh hai tướng phi báo với Chu Du, bốn tướng đuổi trên bộ.
Có vài chục chiếc thuyền đậu ở bờ sông, một người khăn lượt áo the ở trong khoang vừa cười vừa bước ra nói: “Xin chúc mừng chúa công! Gia Cát Lượng chờ ở đây đã lâu rồi!” Còn Chu Du đang dẫn quân bộ đuổi theo miết, bỗng thấy Quan Vũ dẫn quân chặn đường. Du luống cuống, vội quay ngựa chạy. Vân Trường xốc tới, Du tế ngựa chạy chí chết. Đang chạy, Hoàng Trung, Ngụy Diên hai bên đổ ra đánh giết, quân Ngô thua to. Du lật đật xuống được đến thuyền, thì quân sĩ ở trên bờ đồng thanh hô lớn: “Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân!”
Du gầm lên một tiếng, vết đau vỡ tung ra, mê man bất tỉnh nhân sự.
Chính sử: Không có ghi chép gì về việc Lưu Bị dẫn vợ mới cưới trốn về.
Chu Du lập kế gạt Lưu Bị (Hồi 56)
TQDN: Quyền nói với Lỗ Túc: “Ngươi có ý kiến cho Lưu Bị mượn Kinh Châu, nay hắn dây dưa mãi không trả, còn đợi đến bao giờ?” Túc thưa: “Trong văn khế hẹn rằng khi nào lấy được Tây Xuyên mới trả kia mà!”
Quyền gắt mắng: “Cứ nói lấy được Tây Xuyên, nay vẫn chưa thấy cất quân, còn đợi đến già à?”
Túc thưa: “Vậy tôi xin sang đòi.” Nói rồi, liền đi sang Kinh Châu.
Có tin báo Lỗ Túc đến, Gia Cát Lượng nói: “Nếu Lỗ Túc nhắc đến việc Kinh Châu, thì chúa công cứ oà lên khóc, khóc đến chỗ thảm thiết, tôi sẽ xin ra khuyên giải.”
Túc nói: “Hoàng thúc mượn Kinh Châu cũng đã lâu rồi, nay hai nhà lại kết thân với nhau, nên nể mặt nhau một chút, mau trao trả cho xong.” Huyền Đức nghe nói, ôm mặt khóc hu hu. Túc sợ, hỏi: “Sao hoàng thúc lại thế?” Bị cứ khóc.
Gia Cát Lượng ở sau bình phong bước ra, nói: “Trước kia chúa công tôi mượn Kinh Châu có hẹn rằng bao giờ lấy được Ích Châu thì trả. Nhưng suy đi nghĩ lại: Lưu Chương ở Ích Châu là em chúa công tôi, đôi bên cùng là máu mủ nhà Hán cả. Nếu cất quân sang cướp lấy thành trì, e thiên hạ chê cười. Ích Châu đã không lấy được mà lại phải trả Kinh Châu thì còn chỗ nào mà ở? Mà không trả thì e mất thân tình, việc thực khó nghĩ, bởi thế mới đau lòng mà khóc.”
Lượng nói động đến niềm tâm sự của Lưu Bị, Bị càng đấm ngực giẫm chân, khóc ầm lên.
Lỗ Túc vốn là người nhân từ độ lượng, thấy Huyền Đức sầu não như vậy, đành trở về thuật chuyện lại với Chu Du. Du giẫm chân xuống đất nói rằng: “Tử Kính lại mắc lừa Gia Cát Lượng rồi! Khi xưa Lưu Bị ở nhờ Lưu Biểu còn có bụng muốn cướp lấy Kinh Châu, huống chi là đối với Lưu Chương ở Ích Châu! Y cứ nói quanh mãi thế này, e lại lụy đến ông mất! Nay ta có một mẹo này, chắc Gia Cát Lượng không sao thoát được.”
Túc hỏi: “Xin cho tôi được biết mưu hay ra sao.”
Du đáp: “Cứ lại sang Kinh Châu, bảo với Lưu Bị rằng Tôn, Lưu hai nhà đã kết thân với nhau, thì cũng như một nhà. Nếu hoàng thúc không nỡ lấy Tây Xuyên [Ích Châu], hãy để Đông Ngô khởi quân đi đánh lấy hộ. Lấy được Tây Xuyên rồi, thì Đông Ngô đem châu ấy làm của hồi môn, mà hoàng thúc phải trả Kinh Châu cho Đông Ngô.”
Túc nói: “Tây Xuyên xa xôi lắm, chưa dễ đã lấy được. Kế ấy của đô đốc, có lẽ không xong chăng?”
Du cười nói rằng: “Tử Kính thật thà quá! Ông tưởng tôi lấy Tây Xuyên thật cho hắn sao? Ta mượn tiếng lấy Tây Xuyên, kỳ thực là sang lấy Kinh Châu, để hắn không đề phòng trước. Quân mã ta kéo sang Tây Xuyên phải đi qua Kinh Châu, ta bắt y phải cung cấp tiền lương, Lưu Bị thế nào cũng ra khao quân, ta sẽ thừa cơ giết phăng đi, rồi cướp lấy Kinh Châu. Có thế, mới rửa được hận của ta, mà gỡ luôn cả vạ cho ông nữa!”
Chính sử: Chu Du có ý đánh Ích Châu thật sự chứ không phải nói dối để gạt Lưu Bị, vì thế đưa ý kiến này cho Tôn Quyền và Quyền ngại không đủ sức nên mời gọi Lưu Bị cộng tác. Lưu Bị cũng thật sự muốn đánh Ích Châu, nhưng muốn chờ thời cơ để tự mình tiến hành.
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư,
Bấy giờ Lưu Chương làm Ích Châu Mục, ở bên ngoài có Trương Lỗ vào cướp. Chu Du đến kinh đô gặp Tôn Quyền, nói rằng nay Tào Tháo mới bị đánh thua, chưa thể cùng Đông Ngô giao tranh tiếp. Du xin vào lấy Ích Châu, lấy được rồi sẽ đánh Trương Lỗ. Du trở về sẽ cùng với Quyền chiếm lấy Tương Dương để cự Tháo, do đó có thể bình định phương Bắc. Quyền nghe theo.
Theo Hiến đế Xuân Thu,
Tôn Quyền muốn cùng với Bị chung sức lấy Ích Châu, sai sứ đến bảo Bị rằng Trương Lỗ xưng vương, là tai mắt của Tào Tháo, mưu toan dòm ngó Ích Châu. Lưu Chương không có uy vũ, chẳng thể tự giữ; nếu Tháo lấy được Ích Châu, ắt Kinh Châu sẽ nguy ngập; nay ta muốn đánh Chương trước, rồi tiến lên dẹp Trương Lỗ, đầu đuôi nối liền với nhau, nhất thống Ngô-Sở, dẫu có mười Tào Tháo vẫn không cần phải lo.
Bị muốn tự mình lấy Thục, không nghe theo, nói rằng Ích Châu nhân dân giàu mạnh, đất đai hiểm trở, Lưu Chương dẫu yếu nhược vẫn đủ giữ mình; Trương Lỗ là kẻ xảo trá, chưa hẳn đã tận tâm với Tháo; Nay vội vã đưa quân vào Thục, chuyển quân lương ngàn dặm, mà muốn thu được toàn công, thì không thể nào làm được; Tào Tháo có danh nghĩa vâng mệnh vua, đừng nên cho rằng Tháo thua trận ở Xích Bích mà bảo rằng không còn mạnh, không còn có chí xa nữa.
Quyền không đồng ý, sai Chu Du đốc xuất thủy quân. Bị sai Quan Vũ, Trương Phi, Gia Cát Lượng trấn thủ các nơi.
Quyền biết ý chống đối của Bị, nên cho triệu Du trở về.
Gia Cát Lượng chọc tức Chu Du đến chết (Hồi 56)
TQDN: Đây là lần chọc tức thứ ba trong điển tích “Tam khí Chu Du”, được La Quán Trung tô vẽ như sau.
Chu Du dẫn đại quân kéo sang Kinh Châu theo kế giả vờ mượn đường, thật ra là để thừa cơ hội đánh úp Kinh Châu. Khi đến thành Kinh Châu, chỉ thấy phất phơ hai lá cờ trắng, ngoài ra chẳng có một ai. Rồi thấy Triệu Vân đứng trên chòi cao, nói “Quân sư tôi đã biết đô đốc dùng mẹo ‘Mượn đường diệt Quắc’ nên sai tôi giữ ở đây. Chúa công tôi nói: “Ta với Lưu Chương đều là tôn thần nhà Hán cả, sao nỡ bội nghĩa mà cướp lấy Tây Xuyên!”
Chu Du nghe vậy, quay ngựa trở về, bỗng thấy một người cầm cờ lệnh đến báo rằng: “Chúng tôi dò biết có quân mã bốn mặt kéo đến: Quan Vân Trường từ Giang Lăng, Trương Phi từ Tỷ Quy, Hoàng Trung ở Công An, Ngụy Diên thì từ con đường nhỏ Sán Lăng; bốn mặt không biết có bao nhiêu quân mã kéo đến, tiếng reo vang trời dậy đất, chúng hò hét ‘Chuyến này nhất bắt sống Chu Du!’”
Du gầm lên một tiếng, ngã nhào xuống ngựa, tả hữu cấp cứu xuống thuyền. Lại có quân sĩ bẩm rằng: Lưu Bị và Gia Cát Lượng đang ngồi trên đỉnh núi trước mặt, uống rượu vui cười.
Du càng tức lắm, nghiến răng lại, nói rằng: “Người bảo ta không lấy được Tây Xuyên hay sao? Ta thề sang lấy cho mà xem!”
Du thúc quân kéo đi đến Ba Khâu, bỗng lại có người báo mé thượng lưu có Lưu Phong, Quan Bình chặn ngang sông. Chu Du lại càng tức nữa. Một lát, thấy Khổng Minh sai người đưa thư đến. Trong thư nói đại ý khó mà lấy được Tây Xuyên trong khi Tào Tháo sẽ thừa cơ đến đánh, thì Giang Nam ra cám mất.
Chu Du xem xong, thở dài một tiếng, gọi tả hữu đem bút mực đến, viết một phong thư, sai người dâng lên Ngô hầu. Đoạn ngất đi một lúc, rồi dần dần lại tỉnh, ngửa mặt lên trời thở dài mà than rằng: “ Trời sinh Du, sao còn sinh Lượng?”
Du kêu luôn mấy tiếng rồi mất, thọ 36 tuổi.
Chính sử: Chu Du chết ở Ba Khâu do lao lực quá độ chứ không vì Gia Cát Lượng chọc tức. Từ trận Xích Bích đến khi Chu Du chết bệnh chỉ có 2 năm, Gia Cát Lượng đang làm công tác hậu cần ở Linh Lăng nên không hề gặp Chu Du. Đáng lẽ chính sử hẳn đã ghi chép câu than “Trời sinh Du, sao còn sinh Lượng?” nếu đó là sự thật.
Theo Dịch Trung Thiên,
Nhắc tới vị danh tướng Giang Đông, người ta thường nghĩ ngay đến câu chuyện “Ba lần chọc tức Chu Du”. Tiếc thay, đó là tiểu thuyết, không phải lịch sử. Trong sử Gia Cát Lượng chưa từng chọc tức Chu Du. Và dù có chọc tức, Du vẫn không thể chết được. Vì sao vậy? Bởi vì Chu Du tính tình mạnh mẽ, hào phóng. Tam Quốc chí nói Chu Du “khoan dung độ lượng”, tính tình phóng khoáng, rộng rãi, được người cùng thời đánh giá rất cao.
Tam Quốc chí không ghi Gia Cát Lượng viếng tang Chu Du, nhưng ghi “Du chết, Thống đưa tang về Ngô”.
Nhận xét: TQDN rõ ràng nâng cao khả năng bày mưu và phá mưu của Gia Cát Lượng đến mức thần kỳ, đồng thời hạ thấp Chu Du và Lỗ Túc đến mức ngu xuẩn. Do ma lực của ngòi bút La Quán Trung, câu than ai oán nhưng hư cấu “Trời sinh Du, sao còn sinh Lượng!” được trích dẫn thường xuyên, thậm chí trong nghệ thuật thời hiện đại như bộ phim TV Hậu cung Chân Hoàn truyện (2012). Sau này cũng có câu đố vui: Cha của Chu Du là ai? Không ai trả lời được. Đáp án dựa trên câu “Thiên sinh Du, hà sinh Lượng”, tức cha của Du là ông Thiên, và nhân đó cũng suy ra cha của Lượng là ông Hà (!)
Hứa Chử cởi trần đánh tay đôi với Mã Siêu (Hồi 59)
TQDN: Tháo cỡi ngựa ra cửa trại, chỉ có một mình Hứa Chử theo sau. Tháo giơ roi gọi mời Mã Siêu ra nói chuyện. Siêu cưỡi ngựa vác giáo xông ra.
Tháo nói: “Ngươi tưởng ta không lập nổi dinh trại, nay có một đêm, trời đã đã giúp cho ta xong rồi, sao ngươi không hàng đi cho sớm sủa?”
Mã Siêu giận lắm, muốn xốc tới bắt sống lấy Tào Tháo, bỗng thấy sau lưng Tào Tháo có một tướng trợn mắt tròn xoe, tay lăm lăm thanh đại đao, kìm ngựa đứng nhìn. Siêu đoán là Hứa Chử, trỏ roi hỏi rằng: “Ta nghe trong đám này, có một Hổ hầu, ở đâu?”
Hứa Chử vác đao thét lớn: “Ta là Hứa Chử ở Tiêu Quận đây!” Mắt Chử nảy hào quang, oai phong thật lẫm liệt. Siêu không dám xông sang nữa, phải quay ngựa trở về.
Hôm sau đôi bên kéo nhau ra dàn trận. Hứa Chử đã múa đao tế ngựa chạy ra. Mã Siêu vác giáo xông lại đánh. Hai bên đấu nhau hơn một trăm hiệp, chưa phân thắng bại, mà ngựa đã kiệt sức. Hai người đều phải trở về thay ngựa, rồi lại ra trận đánh nhau non trăm hiệp nữa, vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Chử nổi xung lên chạy ngay về, cởi cả áo giáp và mũ, mình trần trùng trục, vác giáo tế ngựa ra quyết chiến. Hai bên quân sĩ rất sợ hãi. Đánh được ba mươi hiệp, Chử ráng sức giơ đao bổ xuống đầu Mã Siêu. Siêu tránh ngay được, đâm luôn một giáo vào giữa rốn Chử. Chử vội vàng quẳng đao, túm luôn ngọn giáo.
Hai người ngồi trên ngựa giằng nhau, Chử khỏe quá, bẻ ngọn giáo đánh rắc một cái gãy ngay làm đôi. Mỗi người cầm nửa cán giáo gãy, giựt nhau lộn bậy. Tháo sợ Chử núng thế, sai Hạ Hầu Uyên, Tào Hồng ra đánh giúp. Bên này hai cánh quân thiết kỵ của Bàng Đức, Mã Đại thấy vậy cũng xô cả vào đánh tới tấp. Quân Tháo rối loạn. Cánh tay Hứa Chử bị hai mũi tên. Các tướng hoảng sợ rút về trại, Siêu đuổi riết đến bờ sông. Quân Tháo thiệt hại quá nửa. Tháo sai đóng chặt cửa lại, không ra nữa.
Chính sử: Hứa Chử không hề cởi trần đánh tay đôi với Mã Siêu.
Tam Quốc chí_Thục thư chỉ ghi vắn tắt: “Tào công cùng với Toại–Siêu một mình ngồi trên mình ngựa nói chuyện. Siêu cậy quân đông, ngấm ngầm định bắt Tào công trước trận. Hứa Chử đứng cạnh Tào công nổi giận quắc mắt nhìn, Siêu chẳng dám vọng động.”
Chỉ một chi tiết nhỏ vẫn được ghi, nếu có trận đánh tay đôi dữ dội như thế thì chính sử hẳn không bỏ qua.
Nhận xét: La Quán Trung có màn giới thiệu một trong “Ngũ Hổ Tướng” hư cấu của Lưu Bị.
Gia Cát Lượng biên thư giới thiệu Bàng Thống (Hồi 60)
TQDN: Sau khi viếng tang Chu Du, Khổng Minh từ biệt ra về, vừa sắp xuống thuyền, bỗng có một người đội mũ áo đạo sĩ, một tay nắm lấy Khổng Minh cười ha hả, nói: “Ngươi đã làm Chu Du tức mà chết, lại còn đến viếng tang, rõ ràng coi thường Đông Ngô không còn ai nữa chăng?”
Khổng Minh vội trông lại xem ai, thì là Phượng Sồ tiên sinh Bàng Thống. Khổng Minh cũng cười lớn dắt tay nhau lên thuyền nói chuyện.
Khổng Minh đưa một phong thư cho Bàng Thống và dặn: “Tôi chắc Tôn Quyền không trọng dụng được ông, nếu có điều gì không như ý, xin hãy sang Kinh Châu giúp Lưu Huyền Đức với tôi. Huyền Đức là người khoan nhân trung hậu, tất không phụ cái học của ông.”
Thống nhận lời, rồi từ biệt Khổng Minh.
Chính sử: Lỗ Túc chứ không phải Gia Cát Lượng là người biên thư giới thiệu Bàng Thống.
Tam Quốc chí_Thục Thư_Bàng Thống truyện ghi:
Khi Lưu Bị nắm Kinh Châu, Bàng Thống làm tòng sự, giữ chức huyện lệnh Lỗi Dương, nhưng chẳng ngó ngàng tới công việc ở huyện, bị miễn chức. Lỗ Túc để lại thư cho Lưu Bị nói rằng tài năng của Thống chẳng phải chỉ trong vòng trăm dặm, nên cho làm Trị trung biệt giá mới phát huy hết năng lực. Gia Cát Lượng cũng nói với Lưu Bị về Thống. Bị bèn gặp, cùng đàm luận tâm đắc, vô cùng coi trọng Thống, rồi phong Thống làm Trị trung tòng sự.
Ghi chép: La Quán Trung muốn nêu bật Gia Cát Lượng là người thấu hiểu nhân tài nên đem công lao giới thiệu của Lỗ Túc chuyển qua cho Lượng.
Tào Tháo khinh khi Trương Tùng (Hồi 60)
TQDN: Khi trước, Lưu Chương ở Ích Châu (Tây Xuyên tức Thục) giết mẹ và em Trương Lỗ, bởi thế hai bên vẫn thù hằn nhau. Rồi có tin Trương Lỗ định cất quân vào lấy Ích Châu. Quan Biệt giá Trương Tùng đề nghị Lưu Chương sắm sửa đồ tiến cống để mình đi bàn với Tào Tháo cất quân phá Trương Lỗ.
Tháo trông thấy Trương Tùng xấu xí, có ý hơi ghét, lại thấy ăn nói lỗ mãng nên không muốn tiếp Tùng. Tả hữu trách Trương Tùng rằng đi sứ sao không biết giữ lễ phép, lại dám nói xúc phạm. Nhờ Dương Tu nói giúp, Trương Tùng được đưa đến giáo trường xem luyện quân. Tháo điểm quân hộ vệ tinh nhuệ, áo mũ rực rỡ, chiêng trống vang trời, gươm giáo sáng quắc, cơ nào đội ấy, tinh kỳ phấp phới, người ngựa hăng hái. Khi được hỏi ý kiến, Tùng lại kể ra những chiến bại của Tháo. Tháo nổi giận quát võ sĩ lôi ra chém Tùng. Nhờ Dương Tu và Tuân Úc can, Tháo mới tha cho Tùng tội chết, nhưng sai tả hữu đánh tới tấp đuổi ra.
Trương Tùng thầm nghĩ định đem Ích Châu dâng cho Tào Tháo, không ngờ hắn khinh người như vậy, mình đã trót nói khoác trước mặt Lưu Chương, nay lại tiu nghỉu về không, chắc bị người đất Thục chê cười, chi bằng về qua lối Kinh Châu xem thử Lưu Bị thế nào, rồi sẽ liệu.
Nghe nói Trương Tùng mới đến, Gia Cát Lượng rất vui mừng, phái Triệu Vân đi đón và dâng cơm rượu cho Tùng ở địa giới rồi đưa Tùng về nhà nghỉ. Hôm sau Lưu Bị dẫn cả hai quân sư Gia Cát Lượng và Bàng Thống đến đón Trương Tùng một cách trọng thị, khiến Tùng rất thỏa lòng. Bởi thế, Trương Tùng về Thành Đô không tiếc lời khen ngợi về cách đối xử của Lưu Bị ngay trước mặt Lưu Chương. Kết quả là Lưu Chương quay sang đón tiếp Lưu Bị vào Thục.
Chính sử: Không thấy ghi việc Trương Tùng xúc phạm Tào Tháo. Việc một sứ thần đến cầu cạnh Tháo cất quân đánh Trương Lỗ lại thô lỗ miệt thị Tháo là điều đáng ngạc nhiên, hầu như khó xảy ra trong hoạt động ngoại giao.
Còn về phần Tào Tháo, có một số tình tiết chỉ ra tại sao Tháo hành xử như thế. Vào năm đó Tào Tháo mất một đứa con trai bé rất tuấn tú tên là Tào Xung, bởi thế việc chiêu đãi không khỏi có phần sơ lược và lãnh đạm. Riêng Tam Quốc chí_Thục thư ghi rõ: “Lúc bấy giờ Tào công đã định Kinh Châu còn Tiên Chủ chạy trốn, nên Tào Công chẳng để mắt đến Tùng.”
Nhận xét: La Quán Trung dài dòng tường thuật để nêu rõ Tào Tháo khinh người và Lưu Bị trọng người. Thực sự thì Tào Tháo không đến nỗi kém cỏi như thế sau khi đã gây một số tiếng vang về việc trọng người. Còn những nghi lễ long trọng và lời nói cung kính mà La Quán Trung gán cho Lưu Bị có vẻ như quá đáng đến mức người biết suy nghĩ sẽ thấy như giả tạo.
Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng (Hồi 63)
TQDN: Quân Thục chia hai đường tiến công đến Lạc Thành; Huyền Đức đi đường lớn còn Ngụy Diên làm tiên phong và Bàng Thống đi đường nhỏ. Trương Nhiệm dẫn một toán quân ra giữ đường nhỏ. Thấy quân Ngụy Diên đi qua, Nhiệm bảo cứ mặc cho đi. Bàng Thống dẫn quân từ từ tiến đi, ngẩng đầu nhìn thấy hai bên rặng núi liền sát với nhau, cây cối cuối hè um tùm, rậm rạp. Thống trong bụng nghi hoặc, dừng ngựa lại, hỏi thuộc hạ: “Đây là chỗ nào?” Có tên quân Thục mới hàng, trỏ lên núi bẩm: “Đây gọi là gò Lạc Phượng.” Thống giật mình, nói “Hỏng, hỏng! Ta hiệu là Phượng Sồ, mà đây lại là gò Lạc Phượng, dễ thường quan hệ đến tính mạng ta.” Lập tức truyền lệnh quân sĩ vội vã rút lui.
Bỗng nhiên một tiếng pháo hiệu nổi lên, rồi tên ở trên núi bắn xuống như châu chấu bay, cứ châu cả vào người cưỡi ngựa trắng mà bắn. Thương hại thay cho Bàng quân sư, cả người lẫn ngựa chết ở dưới sườn núi. Bấy giờ Bàng Thống mới có 36 tuổi.
Rồi Trương Nhiệm tiến đánh Lưu Bị. Bị sai Quan Bình về Kinh Châu mời Khổng Minh vào Tây Xuyên.
Chính sử: Tam Quốc chí_Thục thư ghi Bàng Thống suất binh Thục tấn công rồi bị trúng tên lúc chỉ huy tấn công Lạc Thành (không phải tại gò Lạc Phượng).
Gia Cát Lượng dùng mẹo bắt Trương Nhiệm (Hồi 64)
TQDN: Gia Cát Lượng dẫn Trương Phi, Triệu Vân còn Lưu Bị dẫn Hoàng Trung, Ngụy Diên chia hai ngã tiến quân để cùng hội ở Lạc Thành. Lưu Bị dẫn quân đi đánh Lạc Thành nhưng lại bị Trương Nhiệm rượt đuổi, may nhờ có Trương Phi đến cứu.
Rồi Gia Cát Lượng đến, bày binh bố trận cho các đội quân. Trương Nhiệm dẫn quân tiến đánh, bị quân Huyền Đức ở mé tả, quân Nghiêm Nhan ở mé hữu, kéo ập cả lại. Nhiệm biết là mắc mẹo, vội vàng rút về, lại thấy một toán quân của Triệu Vân án ngữ, mới rẽ ra phía nam, men theo bờ sông mà chạy. Chạy độ năm sáu dặm, bỗng nhiên ở trong bụi lau sậy có hai toán quân của Hoàng Trung, Ngụy Diên đổ ra, bên thì giáo đâm, bên thì dao chặt, đánh tan tác quân Trương Nhiệm. Nhiệm dẫn vài trăm quân kỵ chạy thoát, trốn vào trong đường núi, lại gặp Trương Phi. Nhiệm toan tháo lui, Phi quát to lên một tiếng, quân sĩ ập cả vào, bắt sống ngay được Trương Nhiệm.
Chính sử: Gặp khó khăn khi đánh Ích Châu (còn được gọi là Tây Xuyên hoặc Thục), Lưu Bị gọi Gia Cát Lượng từ Kinh Châu vào tham chiến. Gia Cát Lượng cùng Trương Phi và Triệu Vân vào Ích Châu. Nửa năm sau thì Bàng Thống mới chết tại Lạc Thành (không phải tại gò Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm. Trong trận vây hãm Lạc Thành kéo dài gần một năm trời, Lưu Bị cùng Bàng Thống tác chiến độc lập mà không có Gia Cát Lượng, và chính Lưu Bị bắt sống được Trương Nhiệm. Trương Nhiệm không chịu hàng mà chết.
Theo Ích bộ kỳ cựu tạp ký: Lưu Chương sai Trương Nhiệm và Lưu Kỳ dẫn tinh binh hăng hái chống cự Lưu Bị ở Phù Thành, bị đánh tan, phải lui về cố thủ ở Lạc Thành. Nhiệm ém binh tiến ra Nhạn Kiều, đánh nhau lại bị thua. Nhiệm bị bắt. Lưu Bị nghe nói Nhiệm là người trung dũng, cho quân dụ hàng, Nhiệm cứng cỏi nói lớn rằng: “Lão thần trọn đời chẳng phụng sự hai chủ.” Lưu Bị phải cho giết Nhiệm, nhưng cảm thán thương tiếc mãi.
Nhận xét: Thêm một lần, La Quán Trung chuyển chiến công của Lưu Bị qua Gia Cát Lượng để tỏ rõ Lưu Bị chỉ dùng đức trị người chứ không cần dùng vũ lực, còn Gia Cát Lượng có tài năng quân sự kiệt xuất.
Lưu Bị nể mặt Gia Cát Lượng, trả ba quận (Hồi 66)
TQDN: Lại thêm mưu mẹo của Gia Cát Lượng bày một màn kịch tinh vi.
Tôn Quyền sắp đặt bắt cả nhà Gia Cát Cẩn giam vào trong phủ, và sai Cẩn sang Ích Châu để đòi Kinh Châu. Gia Cát Lượng khóc với Lưu Bị rằng Tôn Quyền bắt cả nhà anh mà chết, xin Bị trả Kinh Châu cho vẹn tình anh em.
Bị nói với Gia Cát Cẩn rằng vì nể mặt Gia Cát Lượng, trả cho một nửa Kinh Châu là ba quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Lại bảo Gia Cát Cẩn rằng có đến Kinh Châu, nên nói mềm mỏng với Quan Vũ cho khéo, em ta tính nóng như lửa, ta còn phải sợ, nên cẩn thận mới được.
Cẩn lên đường, đến thẳng ngay Kinh Châu, đưa tờ thư của Lưu Bị cho Quan Vũ xem và xin Vũ giao ngay cho ba quận. Vũ biến sắc mặt, nói rằng mình kết nghĩa với Lưu Bị ở vườn đào, thề với nhau giúp nhà Hán, Kinh Châu là đất của nhà Đại Hán không thể trao cho ai, tướng ở ngoài, dẫu vua sai khiến vẫn có khi không chịu.
Cẩn lại trở vào Tây Xuyên nói với Gia Cát Lượng. Nhưng Lượng đã đi tuần kiểm nơi khác, không có nhà. Cẩn lại phải kêu với Lưu Bị, khóc lóc thuật chuyện Quan Vũ đã không trả lại Kinh Châu còn muốn giết mình.
Lưu Bị nói rằng Quan Vũ nóng tính khó nói lắm, Cẩn hãy chịu khó trở về, để mình lấy nốt Đông Xuyên và Hán Trung, sai Vũ ra giữ chỗ ấy, rồi mới giao trả được Kinh Châu.
Chính sử: Thật sự không phải Lưu Bị có ý trả lại ba quận và không phải Quan Vũ từ chối trả, mà Đông Ngô dùng vũ lực chiếm lại. Năm 214, sau khi Bàng Thống chết Lưu Bị gặp khó khăn, bèn gọi Gia Cát Lượng, Triệu Vân và Trương Phi dẫn quân rời Kinh Châu tiến vào Ích Châu. Nhân lúc Lưu Bị để lại khoảng trống phòng ngự như thế, Tôn Quyền sai Lã Mông đánh chiếm ba quận Kinh Châu.
Lưu Bị định đoạt lại 3 quận nhưng sợ Tào Tháo thừa cơ tấn công, phải thôi. Rốt cuộc năm 215 hai nhà Tôn–Lưu dàn hòa, phân chia lại Kinh Châu: Lưu Bị đổi hai quận trước đó bị Ngô chiếm là Trường Sa, Quế Dương và phần còn lại của Giang Hạ để lấy Nam Quận.
Như vậy sau lần phân chia này, phần Kinh Châu của mỗi bên khá cân bằng và cả ba bên đều bổ nhiệm chức Thứ sử Kinh Châu:
- Lưu Bị có 3 quận Vũ Lăng, Nam Quận (Giang Lăng), Linh Lăng do Quan Vũ trấn thủ.
- Tôn Quyền chiếm được Quế Dương, Trường Sa và nửa quận Giang Hạ, do Lã Mông trấn thủ. Tôn Quyền tách mấy huyện thuộc quận Trường Sa, lập ra quận thứ 4 do mình cai quản là Hán Xương.
- Tào Tháo chiếm các quận Nam Dương, Nam Hương, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam Quận, do Tào Nhân trấn thủ.

Tam Quốc chí_Ngô thư và Tam Quốc chí_Thục thư ghi giống nhau:
Tôn Quyền thấy Lưu Bị đã có được Ích Châu, sai Gia Cát Cẩn đến xin lại các quận của Kinh Châu. Bị không ưng, nói rằng đợi khi lấy được Lương Châu thì sẽ trả lại Kinh Châu.
Quyền nói: “Đấy là mượn mà không trả, lại muốn nói lời sáo rỗng để kéo dài năm tháng”. Năm Kiến An thứ 20 (năm 215) Quyền sai Lữ Mông đánh lấy ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương. Rồi Lã Mông chuẩn bị quân chống Quan Vũ ở Ích Dương.
Chưa đánh, gặp lúc Tào Tháo vào Hán Trung, Bị sợ mất Ích Châu nên sai sứ xin hòa với Ngô.
Quyền sai Gia Cát Cẩn đến báo, rồi hai bên lại kết thân, bèn chia từ các quận Giang Hạ, Trường Sa, Quế Dương đến phía đông của Kinh Châu thuộc về Quyền, từ các quận Nam Quận, Vũ Lăng, Linh Lăng, đến phía tây thuộc về Bị.
Nhận xét: La Quán Trung đổi trắng thay đen từ chuyện Lưu Bị để thua ba quận vào tay Lã Mông biến thành chuyện Lưu Bị “nể mặt” Tôn Quyền mà “trả” ba quận, đồng thời sáng tác thêm mưu mẹo cho Gia Cát Lượng.
Quan Vũ một đao tới hội (Hồi 66)
Đây là tích “Đơn đao phó hội” oai phong của Quan Vũ.
TQDN: Trước đó, Lưu Bị hứa sẽ trả Kinh Châu sau khi lấy được Ích Châu. Nay Lưu Bị đã lấy được Ích Châu rồi, mà vẫn không chịu trả. Lỗ Túc nói với Tôn Quyền sẽ bày kế mời Quan Vũ đến ăn tiệc ở Lục Khẩu, Quan Vũ chịu đến thì lấy lời lẽ phải quấy yêu cầu trả Kinh Châu, nếu không nghe thì phục quân đao phủ mà giết đi, còn Quan Vũ không đến thì Đông Ngô tiến quân đánh lấy lại Kinh Châu.
Quan Vũ chỉ dùng một chiếc thuyền nhỏ, mười người đi theo, cầm một thanh đao sang hội, trước dặn Quan Bình chọn mười chiếc thuyền nhanh nhẹn và năm trăm thủy thủ giỏi chực sẵn bên sông, khi nào thấy phất cờ thì chèo thuyền sang đón ông về. Phía Đông Ngô, Lã Mông cùng với Cam Ninh phục năm mươi đao phủ nơi hậu đình, chờ khi có hiệu lệnh xông ra giết Quan Vũ ngay ở bàn tiệc.
Một chiếc thuyền bơi đến, chỉ có vài thủy thủ. Một lá cờ đỏ phấp phới trước gió, giữa có chữ “Quan” cực to. Khi thuyền đến gần, nhìn rõ Quan Vũ đội khăn xanh, mặc áo bào lục, ngồi chễm chệ, bên cạnh có Chu Thương vác thanh long đao đứng hầu; lại có tám, chín người Quan Tây to lớn lực lưỡng, mỗi người đeo một thanh mã tấu. Lỗ Túc có vẻ khiếp sợ, ra tiếp vào trong đình. Khi Túc cầm chén mời rượu, không dám ngẩng mặt lên trông. Quan Vũ thì cười nói như thường. Túc nhắc việc trả Kinh Châu; Vũ mượn cớ đó là việc công, trong tiệc rượu không nên nhắc đến. Bị Túc truy vấn tiếp, Vũ nói đó là việc của Lưu Bị, mình không được biết.
Khi Túc cố biện luận thêm, Chu Thương chen vào quát to rằng đất đai trong thiên hạ, người nào nhân đức thì được ở, không phải của riêng Đông Ngô. Quan Vũ đưa mắt cho Chu Thương và quát bước ra ngoài. Chu Thương biết ý, chạy ra bờ sông, cầm lá cờ đỏ phất một cái. Quan Bình trông thấy hiệu cờ, mười chiếc thuyền bay đến vùn vụt như tên.
Quan Vũ tay phải cầm đao, tay trái nắm chặt lấy tay Lỗ Túc, giả đò say rượu, bảo đừng nhắc đến việc Kinh Châu làm chi e tổn thương đến ân tình cũ. Lỗ Túc sợ hết hồn hết vía, bị Vân Trường dắt ra mãi bờ sông. Lã Mông, Cam Ninh định dẫn quân phục xông ra, nhưng thấy vậy sợ Lỗ Túc bị hại, đành im thin thít, không dám cựa quậy. Vân Trường đến bến, lên thuyền, mới buông tay Lỗ Túc ra, từ biệt trở về. Túc đứng ngây người trông theo. Thuyền Quan Vũ lướt gió đi nhanh.
Chính sử: Thật ra, kể từ lúc hai bên thỏa thuận phân chia lại Kinh Châu năm 215 như đã nêu trên, Tôn Quyền không đòi lại Kinh Châu nữa.
Trước khi hai nhà Tôn–Lưu phân chia lại Kinh Châu như trên, có câu chuyện tương tự nhưng không có việc sắp đặt giết Quan Vũ và Vũ giương oai khiến cho Lỗ Túc khiếp sợ, ngược lại Lỗ Túc biện luận một cách thấu tình đạt lý mà Quan Vũ không trả lời được. Chu Thương là nhân vật hư cấu.
Theo Tam Quốc chí_Ngô Thư_Lỗ Túc truyện,
Túc mời Vũ gặp nhau, binh sĩ hai bên chỉ được đứng cách trướng 100 bước, và những người đến phó hội chỉ được phép mang một thanh đao. Túc nhân đó trách mắng Vũ: “Nhà nước [Đông Ngô] nhún nhường vốn là đem đất đai cho các ông mượn, các ông vốn thua trận từ xa đến, không có gì làm đất riêng. Nay đã lấy Ích Châu, vậy mà không có ý trả về, nhà nước chỉ xin lại ba quận, lại không chịu nghe”.
Lời nói chưa xong, có một người ngồi nói: “Đất đai chỉ thuộc về người có đức mà thôi, muốn có dễ sao!” Túc lớn tiếng mắng người đó, lời lẽ rất khẩn thiết.
Vũ cầm đao đứng dậy, nói: “Đấy là việc của nhà nước, ta sao biết được!” Liếc mắt sai người ấy đi ra.
Ngô thư của Vi Chiêu kể khác một chút:
Lố Túc muốn gặp nói chuyện với Quan Vũ, các tướng nghi sợ có biến, bàn không nên đến. Túc nói: “Việc ngày nay nên nói phải quấy cho rõ. Lưu Bị quên ơn, việc đúng hay sai còn chưa quyết, không lẽ Vũ dám muốn làm trái lệnh!” Bèn đến chỗ Vũ.
Vũ nói rằng: “Ở trận Ô Lâm, thân Tả Tướng quân [Lưu Bị] ở trong trận, ngủ chẳng cởi giáp, gắng sức phá quân Ngụy, gian lao như thế mà không được phong một mảnh đất nhỏ hay sao? Thế mà ông lại đến muốn đòi lại đất!”
Túc nói rằng: “Không phải thế. Lúc trước cùng Lưu Dự Châu [Lưu Bị] nhìn biến cố ở Trường Bản, quân của Lưu Dự Châu không đủ một đội, kế cùng lực kiệt, các ông chỉ mong muốn đi xa lánh nạn Tháo. Chủ ta thương xót Lưu Dự Châu không có chỗ ở, cho nên không màng đến công lao của quân Ngô mở đất mà sai khiến mở các chỗ che chở cứu giúp nạn. Vậy mà Lưu Dự Châu mưu muốn chiếm riêng, đức hạnh lầm lỡ, tiếng tốt hủy hoại. Nay đã lấy được Ích Châu rồi, lại muốn tiếp tục chiếm cả Kinh Châu. Việc này dẫu kẻ thất phu vẫn không nỡ làm sai, huống chi là người chủ đứng đầu hàng vạn người! Túc nghe nói rằng tham của mà vứt đạo nghĩa, tất bị họa đến thân. Ta thấy ông gánh vác việc lớn, đã không làm rõ đạo lý, chia rành chức phận để giữ lễ nghĩa, lại còn cậy dựa quân gầy yếu để mưu tính tranh giành, đem quân già yếu sao mà giành lấy cho được!”
Vũ không đáp được.
Nhận xét: La Quán Trung chuyển vị thế Lỗ Túc từ biện luận có lý có tình thành hãi sợ hèn yếu. Có điều đặc biệt là cả trong chuyện hư cấu và chuyện thật Quan Vũ không thể trả lời luận cứ của Lỗ Túc.
Lưu Bị phong Ngũ Hổ Tướng (Hồi 73)
TQDN: Năm Kiến An thứ 24 (219), Lưu Bị xưng làm Hán Trung vương, phong cho Quan Vân Trường, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung làm Ngũ Hổ Đại Tướng quân.
Chính sử: Tam Quốc chí cũng như nhiều sử liệu khác không hề có chi tiết gì về việc Lưu Bị phong “Ngũ Hổ Tướng”.
Sự thật là sau khi xưng Hán Trung vương (năm 219), Lưu Bị phong cho Quan Vũ là Tiền tướng quân, Trương Phi là Hữu tướng quân, Mã Siêu là Tả tướng quân, Hoàng Trung là Hậu tướng quân. Riêng Triệu Vân được phong Dực quân Tướng quân, là phẩm hàm “không theo chương pháp gì”. [Dịch Trung Thiên] [Lê Đông Phương]
Tiền, Hậu, Tả và Hữu Tướng quân là bốn cấp tướng cao ngang nhau. Quan Vũ và Trương Phi dĩ nhiên chiếm hai cấp vì vừa là thân cận nhất với Lưu Bị vừa có nhiều chiến công. Ngoài tài năng trên chiến trận, Hoàng Trung (một tướng của Kinh Châu cũ) được Lưu Bị phong nhằm thể hiện lòng trọng dụng nhân tài Kinh Châu, và Mã Siêu (hậu duệ của Phục ba Tướng quân Mã Viện) nhận cấp tướng còn lại do danh tiếng lẫy lừng, đã đứng đầu danh sách những người đứng tên làm tờ biểu dâng lên Hán Hiến đế, đề nghị phong Lưu Bị làm Hán Trung vương, và Lưu Bị cũng muốn có tính kế tục chính danh vì đã phong hậu duệ của một danh tướng triều Hán. Còn lại Triệu Vân, trước đó không lâu đã được thăng cấp lúc Lưu Bị chiếm Thành Đô (năm 215) nên bây giờ không cần thăng nữa. Triệu Vân là con người cúc cung tận tụy hết mực, lại khiêm tốn, biết thân phận, nên Lưu Bị không lo Vân bất mãn.
Cụ thể, năm người được phong và thăng/giáng quan hàm tướng như sau:
- Quan Vũ được phong Đãng khấu Tướng quân sau khi Lưu Bị thu được các quận Giang Nam, được thăng Tiền Tướng quân sau khi Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương.
- Trương Phi được phong Chinh lỗ Tướng quân sau khi Lưu Bị thu được các quận Giang Nam, được được thăng làm Hữu Tướng quân sau khi Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, năm Chương Vũ nguyên niên được thăng làm Xa kỵ Tướng quân.
- Mã Siêu được phong Bình Tây Tướng quân sau khi về với Lưu Bị, được thăng làm Tả tướng quân sau khi Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, năm Chương Vũ nguyên niên được thăng làm Phiêu kỵ Tướng quân.
- Hoàng Trung được phong Thảo lỗ Tướng quân sau khi Lưu Bị bình định Ích Châu, được thăng làm Chinh Tây Tướng quân sau khi đánh bại Hạ Hầu Uyên, cùng năm đó được thăng làm Hậu Tướng quân sau khi Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương. Đây là quân hàm cuối cùng của Hoàng Trung, bởi vì năm sau ông mất.
- Triệu Vân được phong Nha môn Tướng quân sau trận Đương Dương Trường Bản, được thăng làm Thiên Tướng quân sau khi Lưu Bị thu được các quận Giang Nam, được thăng làm Dực quân Tướng quân sau khi Lưu Bị bình định được Thành Đô, đến Kiến Hưng nguyên niên thăng làm Chinh Nam Tướng quân, sau đổi làm Trấn Đông Tướng quân, năm Kiến Hưng thứ sáu gặp thất lợi ở Cơ Cốc phải lui binh, bị biếm chức xuống Trấn quân Tướng quân.
Cần phân biệt giữa các hàm tướng cuối thời Đông Hán:
- Cao nhất là Đại Tướng quân, Xa kỵ Tướng quân, Phiêu kỵ Tướng quân, tương đương với đại tướng (4 sao) thời hiện đại.
- Kế tiếp là bốn cấp Tiền, Hậu, Tả, và Hữu Tướng quân, tương đương với thượng tướng (3 sao) thời hiện đại.
- Thấp hơn là Chinh lỗ, Chinh Tây, Bình Nam, Trấn Đông, Trấn Bắc, Trấn Tây, Trấn Nam… Tướng quân, tương đương với trung tướng (2 sao) thời hiện đại.
- Thấp hơn nữa là: Phụ Hán, An Hán, Đãng khấu, Thảo nghịch, Thảo khấu, Thảo lỗ, Chiêu đức, Chiêu văn, Bỉnh trung, Kiến nghĩa, Phụng nghĩa, Trung tiết, Kiến tín, Quân sư, Chấp thận, Phủ nhung, Tuy vũ, Dực quân, Hưng nghiệp, Phó quân, Dực vũ, Phụ quân, Tuy quân, Nha môn, Thiên… tương đương với thiếu tướng (1 sao) thời hiện đại.
Ví dụ như triều đình nhà Hán từng phong:
- Hà Tiến và Tào Tháo là Đại Tướng quân, quân hàm thực quyền cao nhất của nhà Hán, về sau Tào Tháo nhường quân hàm này cho Viên Thiệu;
- Đổng Thừa và Tôn Quyền là Xa kỵ Tướng quân;
- Lưu Bị và Lữ Bố là Tả Tướng quân;
- Viên Thuật là Hậu Tướng quân;
- Tôn Sách là Đãng khấu Tướng quân, sau đó là Thảo nghịch Tướng quân; và
- Quan Vũ là Thiên Tướng quân (lúc về hàng Tào).
Riêng Nhan Lương được La Quán Trung viết là đại tướng quân nhưng đó là đại tướng cầm quân của Viên Thiệu chứ không phải mang hàm Đại Tướng quân của nhà Hán.
Nhận xét: Do La Quán Trung dành nhiều thiện cảm cho nhà Thục nên hình tượng của các tướng lĩnh dưới trướng Lưu Bị được khắc họa hết sức uy mãnh, lại mang danh hiệu nghe thật kêu, đi vào điển tích, ăn sâu trong tiềm thức của nhiều người, đến nỗi khi nói về năm danh tướng của Lưu Bị thì người ta vẫn nói là “Ngũ Hổ”.
Quan Vũ nhận lệnh đánh Phàn Thành (Hồi 73)
TQDN: Sau khi Quan Vũ nhận lĩnh ấn thụ, Phí Thi đưa dụ chỉ ra sai Vũ dẫn quân đến đánh Phàn Thành. Vũ vâng mệnh. Khi trước có con Hồ Hoa là Hồ Ban đến Kinh Châu theo hàng với Quan Vũ. Giờ nghĩ đến ơn Hồ Hoa cứu mình, Quan Vũ cho Hồ Ban theo Phí Thi về Ích Châu để được phong tước.
Chính sử: Hồ Hoa và Hồ Ban là hai nhân vật hư cấu. [Wikipedia]
Không sử liệu nào ghi chép việc Quan Vũ nhận lệnh đánh Phàn Thành. Tam Quốc chí_Thục thư ghi ngắn gọn:
Năm Kiến An thứ hai mươi bốn (năm 219), Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, phong Quan Vũ làm Tiền tướng quân, ban cho tiết việt. Năm ấy, Vũ xuất binh đánh Tào Nhân ở Phàn Thành.
Trần Tiến giải thích:
Việc Quan Vũ tự dẫn quân đánh Phàn Thành không có nghĩa Quan Vũ chuyên quyền. Khi được Lưu Bị phong làm Tiền tướng quân, Quan Vũ đồng thời nhận tiết việt. Tiết là cờ, việt là lưỡi rìu, tiết việt là tín vật biểu thị quyền hành mà vua ban cho thuộc hạ, đặc biệt là quyền hành về mặt quân sự. Nói cách khác, Quan Vũ được trao toàn quyền quyết định mọi việc tại Kinh Châu, trong đó bao gồm cả việc chinh chiến.
Nhận xét: La Quán Trung hư cấu việc Quan Vũ nhận lệnh đánh Phàn Thành, qua đó độc giả thấy tội của Quan Vũ để mất Kinh Châu là châm chước được, thay vì tự ý hành động thì đáng trách hơn.
Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương lần thứ hai (Hồi 73)
TQDN: Tào Nhân thúc quân chạy về Tương Dương. Khi chạy gần đến thành, còn cách vài dặm, thì đã thấy ở mé trước có một lá cờ thêu bay phấp phới, Quan Vũ cầm thanh long đao dừng ngựa đứng chặn ngang đường. Tào Nhân sợ mất vía, không dám chống cự, lẻn theo ngay đường tắt mà chạy. Vân Trường không đuổi. Một lát, Hạ Hầu Tồn dẫn quân đến, thấy thế giận lắm, xông vào đánh nhau với Quan Vũ, chỉ một hiệp, bị Vũ chém chết.
Quan Vũ hạ được thành Tương Dương, dụ yên dân chúng, khao thưởng quân sĩ.
Chính sử: Hạ Hầu Tồn là nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Thời Tam Quốc, Ngụy không hề mất Tương Dương lần nào.
Nhận xét: La Quán Trung viết Quan Vũ đã đánh úp được Tương Dương ở Hồi 51, rồi không viết trả cho Tào lúc nào mà Hồi 73 phải đi đánh giành lại.
Quan Vũ khơi dòng nước, làm ngập bảy đạo quân Tào (Hồi 74)
TQDN: Khi tiến quân đánh Phàn Thành, Quan Vũ trèo lên gò cao đứng xem, thấy nước Sông Tương chảy xiết lắm. Vũ mừng nói rằng: “Vu Cấm tất bị ta bắt sống!” Vũ về trại, lúc ấy vào mùa thu tháng tám, mưa rào liền mấy hôm, bèn sai thu xếp thuyền bè, dự sẵn đồ thủy chiến. Quan Bình hỏi: “Đánh nhau trên bộ, can gì phải dùng đến thuyền bè?”
Quan Vũ nói: “Mày biết đâu được mẹo này! Vu Cấm không đóng quân ở chỗ rộng rãi, mà tụ cả vào chỗ hẻm ở trong cửa sông Khoái Khẩu. Hiện nay, mưa thu tầm tã, nước Sông Tương dâng lên đầy ắp. Ta đã sai người lấp các cửa sông, đợi khi nào nước to, ta lên chỗ cao cho thuyền ra tháo nước tràn vào thì quân giặc ở Phàn Thành, Khoái Khẩu thành ra cua cá cả!”
Quân Ngụy đóng ở cửa Khoái Khẩu, mưa to luôn mấy hôm. Đốc tướng là Thành Hà vào bẩm với Vu Cấm rằng: “Quân ta đóng ở cửa sông, địa thế thấp lắm, tuy có núi đất, nhưng cách trại hơi xa. Hiện nay mưa thu ròng rã, quân sĩ vất vả lắm. Mấy bữa nay lại nghe tin quân Kinh Châu đóng cả ở trên gò cao, và sửa sang lại thuyền bè ở Hán Thủy. Nếu nước sông lên to, thì quân ta nguy mất, phải liệu trước đi mới được.”
Vu Cấm quát mắng rằng: “Đồ sất phu kia! Mày dám làm loạn bụng quân hả! Hễ còn nói nữa thì ta chém!”
Thành Hà hổ thẹn lui ra, lại đến nói chuyện với Bàng Đức. Đức nói: “Ngươi nói phải lắm! Vu tướng quân không dời quân đi chỗ khác, đến mai ta đem quân ra nơi khác một mình vậy!”
Bàn định xong xuôi, đêm hôm ấy bỗng nổi mưa to gió lớn. Bàng Đức đang ngồi trong trướng, nghe thấy tiếng nước reo ầm ầm, tiếng trống chiêng rầm rĩ. Đức giật mình, vội vàng ra trướng lên ngựa, thì thấy ba bề bốn bên nước đổ về như thác lũ. Bảy đạo quân Tào bấy giờ chạy đâu cho thoát, thôi thì người chìm giữa dòng, kẻ giạt ngọn sóng, lênh đênh trên mặt nước, chết đuối không biết cơ man nào mà kể. Chỗ đất phẳng, nước sâu hơn một trượng.

Chính sử: Nếu thật sự Quan Vũ có mẹo “thủy công” thần kỳ như thế thì đáng lẽ phải được ghi trong sử liệu.
Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện ghi ngắn gọn: “Đến mùa thu, có mưa lớn, nước Sông Hán ngập mênh mông, bảy cánh quân do Cấm đốc suất đều bị dìm trong nước.”
Theo Dịch Trung Thiên,
Tháng tám, trời mưa như trút, nước Sông Hán dâng cao, tràn ra ngoài đê, Phàn Thành bị nước lũ vây kín, Vu Cấm cùng bảy đạo quân bị chìm trong nước, gọi là “thủy dìm thất quân”. Nhưng Tam Quốc chí không nói Quan Vũ khơi nước, càng không nói Quan Vũ biết trước có lũ lụt. Tư trị thông giám cũng không nói như vậy. Sự thực, cái gọi là “nước dìm Thất quân” chỉ là thiên tai. Quan Vũ may mắn thừa cơ tấn công.
Ghi chú: Có ý kiến cho rằng quân Ngụy vì là người phương Bắc không quen thủy chiến nên bị nước lũ dìm ngập.
Lã Mông giả bệnh lừa Quan Vũ (Hồi 75)
TQDN: Lã (Lữ) Mông thưa với Tôn Quyền rằng Quan Vũ đang vây Phàn Thành, Đông Ngô nên thừa dịp Vũ vắng nhà mang quân sang đánh úp lấy Kinh Châu. Quyền đồng ý.
Lã Mông về đến Lục Khẩu, được tin báo ven sông, cứ cách hai chục dặm hoặc ba chục dặm, trên các gò cao đều có ụ đốt lửa, lại nghe quân mã Kinh Châu tề chỉnh lắm, chắc là có chuẩn bị rồi. Lã Mông giật mình nghĩ đã trót khuyên Quyền lấy Kinh Châu, nay không biết xử trí làm sao. Mông nghĩ ngợi mãi, không có mẹo gì, mới cáo bệnh và cho người về báo với Tôn Quyền.
Lục Tốn nói với Quyền rằng Mông chỉ giả bệnh, và lĩnh mệnh đến Lục Khẩu xem xét, quả nhiên thấy Mông không có dáng gì đau ốm cả. Tốn hiến kế cho Mông: từ chức lui về, giao công việc cho người khác để cho người ấy phỉnh phờ làm cho Quan Vũ thêm kiêu ngạo, rút hết quân Kinh Châu kéo ra Phàn Thành. Lúc đó Đông Ngô phải tìm mưu lạ sang sông mà đánh úp lấy Kinh Châu.
Sau đó, Lã Mông giả vờ ốm nặng, dâng thư từ chức.
Chính sử: Lã Mông bệnh thật chứ không phải giả vờ.
Tam Quốc chí_Ngô thư_Lục Tốn ghi:
Lã Mông xưng có bệnh, quay về Kiến Nghiệp. Lục Tốn đến gặp Mông, bảo rằng Quan Vũ ở gần bờ cõi là việc đáng lo. Mông nói: “Đúng như lời ông, nhưng ta đang bệnh nặng”. Theo ý của Lục Tốn, Mông về gặp Tôn Quyền, đề xuất Tốn thay thế mình.
Tam Quốc chí_Ngô thư_Lã Mông truyện ghi:
Sau khi Quan Vũ đánh Phàn Thành, để quân tướng ở lại giữ Công An và Nam Quận, Lã Mông dâng sớ nói: “Vũ đánh đất Phàn mà để nhiều quân ở lại phòng giữ, chỉ là sợ Mông đánh úp mặt sau mà thôi. Mông thường mắc bệnh, xin chia quân sĩ về Kiến Nghiệp, lấy cớ là chữa bệnh. Vũ nghe tin, tất rút quân phòng giữ đem hết đến Tương Dương. Đại quân đi ngược sông, ngày đêm lên đầu nguồn, đánh úp đất vắng thì Nam Quận tất chiếm được, lại bắt được Vũ vậy”. Bèn xưng bệnh nặng.
Nhận xét: La Quán Trung hư cấu vụ việc nhằm hạ thấp năng lực của Lã Mông: vì bất tài không nghĩ ra cách đánh Quan Vũ nên giả bị bệnh. Thật ra Lã Mông đã chứng tỏ tài năng từ trước, như làm đô đốc đánh bại Tào Tháo ở Nhu Tu và lấy ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương khi Quan Vũ nắm quyền Kinh Châu (các sự kiện này không được thuật lại trong TQDN). Khi lên thay Chu Du, Lỗ Túc vẫn thường hỏi han Lã Mông về sách lược, và khen ngợi Mông.
Quan Vũ hiên ngang cự tuyệt đầu hàng ở Mạch Thành (Hồi 76)
TQDN: Quan Vũ ở Mạch Thành, mong ngóng quân Thượng Dung đến cứu, mà mãi không thấy đến. Thủ hạ thì chỉ còn năm sáu trăm người, lại bị thương hơn một nửa; trong thành lương đã cạn, khổ sở vô cùng.
Gia Cát Cẩn đến, nói: “Nay chín quận Kinh Tương của tướng quân đã vào tay người khác cả rồi, chỉ còn một xó Mạch Thành này, trong thì hết lương, ngoài thì không có quân cứu, nguy đến ngay trước mắt. Tướng quân sao không về hàng với Ngô hầu, lại trấn thủ ở Kinh Tương, và giữ toàn được cả gia quyến, xin quân hầu nghĩ cho kỹ mà xem!”
Quan Vũ sầm mặt lại, nói: “Ta là một kẻ võ phu ở Giải Lương, được nhờ chủ ta coi như anh em thủ túc, có lẽ đâu ta lại trái nghĩa mà theo hàng với người khác! Thành này mà phá, ta chỉ còn cái chết nữa thôi. Ngọc tuy đập vụn được, nhưng không sao đổi được sắc trắng; trúc đốt cháy được, nhưng không sao hủy được gióng thẳng; thân người tuy chết, nhưng còn danh tiếng truyền mãi trong sử sách đời sau. Ngươi đừng nói làm chi cho phí lời, xin mời ra thành cho mau, ta muốn đánh nhau với Tôn Quyền một trận nữa!”
Cẩn nói: “Ngô hầu muốn cùng với quân hầu kết làm dâu gia với nhau, hiệp sức lại để đánh Tào Tháo, chớ không có bụng dạ nào đâu, quân hầu sao lại gàn thế!”
Quan Vũ sai tả hữu đuổi Gia Cát Cẩn ra thành. Cẩn thẹn đỏ mặt, lên ngựa đi về, nói với Tôn Quyền rằng: “Quan Công bụng vững như sắt đá, không sao nói chuyển được!”
Chính sử: Nếu thật sự có chuyện Quan Vũ hiên ngang cự tuyệt như thế, thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập.
Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện không ghi gì về việc Tôn Quyền sai người dụ hàng và Quan Vũ cự tuyệt.
Tam Quốc chí_Ngô thư_Ngô chủ truyện ghi:
Quan Vũ về Đương Dương, rút đến phía tây giữ Mạch Thành. Quyền sai người dụ Vũ. Vũ giả hàng, dựng cờ hiệu làm người tượng ở trên thành, nhân đó chạy trốn.
Tôn Quyền dụ hàng Quan Vũ lần nữa (Hồi 77)
TQDN: Phan Chương và Chu Nhiên dẫn quân bắt được Quan Vũ và Quan Bình.
Buổi sáng hôm ấy, Tôn Quyền được tin hai cha con Quan Công bị bắt, mừng lắm, bèn tụ cả các tướng lại ở dưới trướng. Một lát, Mã Trung đem Quan Công đến. Quyền hỏi: “Tôi lâu nay vẫn mộ tiếng tướng quân, muốn kết hiếu Tần Tấn với nhau, sao tướng quân khinh tôi quá thế? Tướng quân xưa nay vẫn coi thiên hạ chẳng ai ra gì, hôm nay bị bắt, đã chịu Tôn Quyền này chưa?”
Quan Công quát lên rằng: “Thằng nhãi con mắt biếc, con chuột râu tía kia! Tao cùng với Lưu hoàng thúc kết nghĩa ở vườn đào, thề với nhau cùng giúp nhà Hán, lại thèm bầu bạn với quân giặc phản nhà Hán à! Tao nay mắc phải mẹo gian, chỉ có chết là cùng, can gì phải căn vặn tao cho lắm!”
Quyền ngoảnh lại bảo với các tướng rằng: “Vân Trường là bậc hào kiệt trên đời, ta lấy làm yêu mến lắm; nay muốn dùng cách tử tế để y theo hàng với ta, các ngươi nghĩ làm sao?”
Chủ bộ là Tả Hàm thưa rằng: “Không nên! Khi xưa Tào Tháo bắt được người ấy phong hầu cho tước, ba hôm thết một tiệc yến nhỏ, năm hôm thết một tiệc yến to, khi lên ngựa thưởng một nén vàng, khi xuống ngựa thưởng một nén bạc, ân lễ đến thế là cùng! Thế mà vẫn không sao lưu được người ấy ở lại, phải để mặc cho phá cửa ải, giết tướng mình mà đi. Để đến nỗi, ngày nay bị người ấy đánh lại, toan thiên đô lánh đi chỗ khác. Chúa công nay đã bắt được người ấy, nếu không trừ đi, e rằng để vạ về sau!”
Quyền ngồi ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói rằng: “Ngươi nói phải lắm!” Liền sai đem hai cha con Quan Công ra hành tội.
Chính sử: Tuy thông tin thiếu nhất quán nhưng có phần đúng là Quan Vũ và Quan Bình bị chém trên chiến trường. Như các đoạn khác trong bài này nêu ra, việc “kết nghĩa ở vườn đào”, và “phá cửa ải, giết tướng mình mà đi” đều là hư cấu.
Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện ghi: “Quyền sai tướng đón đường đánh lén Vũ, chém chết Vũ cùng con của Vũ là Bình ở Lâm Thư.”
Thục ký của Vương Ẩn ghi rằng Tôn Quyền muốn chiêu hàng Vũ, bộ hạ can, nhắc việc Tào Tháo từng tha Vũ rồi bị Vũ tiến đánh đến lúc Tháo phải bàn đến việc dời đô, Quyền bèn sai đem chém hai cha con Vũ.
Khi chú giải Tam Quốc chí, hàm ý Thục ký nói sai, Bùi Tùng Chi viết:
xét Ngô thư rằng: Tôn Quyền sai tướng là Phan Chương đón bắt được Vũ lúc trốn chạy, Vũ bị chém chết, vả lại Lâm Thư cách Giang Lăng hai ba trăm dặm, sao lại dung tha chẳng giết Vũ ngay lúc ấy, còn bàn đến chuyện sống chết vậy? Lại nói rằng: “Quyền muốn chiêu hàng Vũ để đối địch với Lưu-Tào”, thế là chẳng đúng, như vậy tuyệt trí chỉ là lời cửa miệng hay sao?
Nhận xét: La Quán Trung kể việc Tôn Quyền dụ hàng Quan Vũ lần nữa để nhân đó viết Quan Vũ trước khi chết có cơ hội mắng nhiếc Quyền cho độc giả hả dạ. Còn nếu viết Vũ chết trên chiến trường thì chẳng có oai phong gì cả!
Quan Vũ hiển linh vật chết Lã Mông (Hồi 77)
TQDN: Tôn Quyền giết xong Quan Vũ, lấy hết được cả Kinh Châu, khao thưởng ba quân, mở tiệc yến, hội cả các quan lại ăn mừng. Quyền cho Lã Mông ngồi trên cả các quan rồi rót chén rượu đưa cho Lã Mông. Mông vừa đỡ lấy sắp uống, bỗng nhiên ném ngay chén rượu xuống đất, một tay lôi đầu Tôn Quyền, thét to lên rằng “… Có biết tao là ai không? Tao là Hán thọ Đình hầu Quan Vân Trường đây!”
Tôn Quyền sợ quá, vội vàng dắt các tướng sĩ đến lạy. Lạy vừa xong, thì Lã Mông ngã quay xuống đất, hộc máu mồm máu mũi ra rồi chết.
Chính sử: Đây là hư cấu khởi đầu về việc Quan Vũ hiển linh. Lã Mông chết vì bệnh.
Theo Giang Biểu truyện, khi Tôn Quyền mở hội lớn ở Công An, Lữ Mông lấy cớ bị bệnh, từ chối không đến.
Tam Quốc chí_Ngô thư chép:
Tôn Quyền phong Lã Mông chức Thái thú Nam Quận, tước Sàn Lăng Hầu, thêm một ức tiền, năm trăm cân vàng ròng. Mông cố từ chối tiền vàng, nhưng Quyền không nghe. Chưa hạ lệnh phong tước, vừa lúc Mông phát bệnh. Bấy giờ Quyền ở tại Công An, đưa Mông vào trong điện, tìm vạn phương thuốc để chữa bệnh, chiêu mộ người nào chữa khỏi bệnh cho Mông hứa sẽ ban cho nghìn vàng. Bấy giờ có thầy thuốc châm chữa, Quyền vì Mông mà đau xót, muốn mấy lần thấy vẻ mặt của Mông, lại sợ Mông động đậy, thường xuyên lỗ qua tường để xem, thấy Mông đứng dậy ăn được thì nói cười, nếu không thì than thở, đêm không ngủ được. Bệnh được khỏi, liền hạ lệnh sai bầy tôi đến chúc mừng. Sau lại thêm nặng, Quyền tự đến thăm, sai đạo sĩ vì Mông mà cầu đảo ở đàn tế sao. Lúc Mông bốn mươi hai tuổi, chết ở trong điện.
Theo Trần Văn Đức,
Lã Mông vốn sức khỏe không tốt, ông thấy rõ được trách nhiệm, làm việc rất vất vả, lại thêm thích uống rượu nên bệnh tỳ vị khá nghiêm trọng. Kể từ cuộc tập kích Giang Lăng, công việc rất căng thẳng bề bộn, hay tư lự, bởi thế bệnh cũ tái phát, thổ huyết không thôi, có thể là vỡ dạ dày hoặc dạ dày chảy máu.
Nhận xét: La Quán Trung có hư cấu là, khi rời Tào Tháo, Quan Vũ đã bỏ lại ấn Hán thọ Đình hầu (cấp hầu thấp, do Tào Tháo tâu với Hán đế phong cho) tức là từ bỏ tước vị này, bây giờ Quan Vũ hiển linh nói mình là Hán thọ Đình hầu, nghe ra có phần mâu thuẫn!
Hoa Đà đề nghị mổ óc Tào Tháo (Hồi 78)
TQDN: Tháo sai người đi mời Hoa Đà về bắt mạch coi bệnh. Đà đề nghị “lấy búa mổ óc ra, nạo hết rãi gió độc đi thì mới triệt hết được nọc bệnh.” Tháo nghi Hoa Đà báo thù cho Quan Vũ, bắt Hoa Đà bỏ ngục để tra hỏi.
Hoa Đà tặng một quyển sách thanh nang của mình cho cai ngục để nối nghiệp mình. Hoa Đà chết rồi, cai ngục bỏ việc, về nhà định lấy sách Hoa Đà ra học thì thấy vợ đang đốt quyển sách ấy. Vợ nói: “Có học giỏi được như Hoa Đà, chẳng qua chết rũ ở trong ngục, cần gì quyển sách ấy!” Bởi thế quyển thanh nang không truyền ra đời, chỉ còn sót một vài trang chữa những thuật nhỏ, như thiến gà, thiến lợn mà thôi.
Người sau có thơ cảm thán việc thất truyền sách của Hoa Đà.
Chính sử: Tam Quốc chí_Ngô thư kể về những cách chữa trị khác nhau của Hoa Đà, nhưng không kể gì về phương án mổ óc cho Tào Tháo, lại có kết thúc khác:
Hoa Đà viện cớ xa nhà lâu ngày, xin về nhà. Đến nhà, lại lấy cớ vợ bệnh mà nhiều lần hẹn nhưng không quay lại. Tào Tháo gửi thư gọi, lại sai quận huyện điều lệnh, nhưng Đà cậy vào tài năng mà khinh ghét việc hầu hạ, vẫn không lên đường. Tháo cả giận, sai người đến xem xét. Nếu vợ bệnh thật thì ban cho bốn mươi hộc đậu, tha cho tội hoãn lâu ngày; nếu có lừa dối thì bắt Đà. Do đó bắt Đà giam vào ngục. Tuân Úc xin tha cho Đà. Tháo không nghe, xét hỏi Đà đến chết. Đà sắp chết, lấy một quyển sách trao cho quan coi ngục, nói: “Nó có thể cứu người”. Quan coi ngục sợ phạm pháp không nhận. Đà không ép, lấy lửa đốt sách. Sau đó con yêu của Tháo là Thương Thư mắc bệnh, Tháo than: “Ta giết bừa Hoa Đà, khiến cho con nhỏ bị chết”.
Lưu Bị huy động 75 vạn quân trong Trận Di Lăng (Hồi 81)
TQDN: Không nghe lời can gián của Tần Mật, Gia Cát Lượng và nhất là của Triệu Vân, Lưu Bị huy động bảy mươi lăm vạn quân, năm Chương Vũ thứ nhất (năm 221) ra quân đánh Trận Di Lăng (còn được gọi là Trận Khiêu Đình).
Chính sử: Các sử gia lý giải việc Lưu Bị không mang nhiều quân đi đánh Ngô do 2 nguyên nhân: (1) nhân khẩu Ích Châu không nhiều tới mức có thể điều động đến 75 vạn người; (2) Thục phải bố trí số quân đáng kể đề phòng sự xâm phạm của Tào Ngụy. Thực tế Lưu Bị chỉ có khoảng 4 vạn, còn ít hơn số quân Ngô là 5 vạn [Lê Đông Phương]
Nhận xét: Nhân đây, cần đặt nghi vấn về con số “vạn” trong tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc. Một vạn (10.000) quân là một đội quân rất lớn, chiếm một địa bàn rộng, có nhiều ngựa và xe, đặt ra nhiều vấn đề về khai đường mở lối, bắc cầu, cung ứng hàng hậu cần, xây bếp nấu ăn, dựng trại và nhổ trại, điều phối chỉ huy… Vài chục vạn quân đặt ra những vấn đề càng nan giải, nhất là việc động binh trong dân số nhỏ và địa hình hạn chế, nên con số trở thành đáng ngờ.
Lấy ví dụ, La Quán Trung viết Viên Thiệu mang 70 vạn quân ra Trận Quan Độ, còn Tào Tháo có 7 vạn. Tuy Viên Thiệu mắc một số sai lầm nhưng không thể bại trận một cách thê thảm với tỉ lệ quân số áp đảo như thế. Thiệu chỉ cần xua quân tiến đánh, lấy tỉ lệ 5 áp đảo 1 là đủ thắng mà chẳng cần mưu mẹo gì cả. Nguyễn Đỗ Thuyên (2017) phân tích các nguồn sử liệu để đi đến con số hợp lý là 10 vạn bên Thiệu và 5 vạn bên Tháo.
La Quán Trung viết trước đó, Tào Tháo dẫn quân xuống Kinh Châu, thu quân của Lưu Biểu rồi gửi hịch cho Tôn Quyền nói rằng mình có trăm vạn quân (1 triệu người), và quần thần Ngô vẫn bàn cãi nhau dựa theo con số đó. Chu Du phân tích cho Quyền hiểu Tháo “huy động quân mã trong nước chẳng qua được mười lăm, mười sáu vạn, mà đã mệt mỏi cả rồi; số quân thu được của họ Viên cũng độ bảy tám vạn, nhưng đa số vẫn còn nghi ngờ chưa phục.” Tức là Tháo chỉ có 22-24 vạn. Thế mà những lời bình về Trận Xích Bích vẫn dựa trên con số trăm vạn quân Tào, biến Xích Bích thành trận đánh lớn nhất tập trung ở một địa điểm trong lịch sử Trung Quốc.
Một ví dụ khác là Thủy Hử viết Lâm Xung chỉ huy tám mươi vạn cấm quân, rồi phim ảnh vẫn lặp lại con số đó. Tám mươi vạn (800.000) cấm quân để bảo vệ kinh thành thời đó là con số cực kỳ vô lý, bởi vì toàn thể quân sĩ trên khắp đất nước nhà Tống thế kỷ 12 cộng lại vẫn không thể đến con số đó. Có lẽ con số thực tế là 8 nghìn thay vì 80 vạn cấm quân.
Hoàng Trung anh dũng hy sinh (Hồi 83)
TQDN: Hoàng Trung theo Lưu Bị sang đánh Ngô (Trận Di Lăng năm 221). Nghe Bị nói lão tướng vô dụng, Trung lập tức cầm đao lên ngựa, dẫn năm sáu người đi theo, đến thẳng trại Di Lăng. Trung nói với Trương Nam, Phùng Tập: “Ta tuy tuổi ngoài bảy mươi, nhưng mỗi bữa còn ăn chục cân thịt, cánh tay còn giương nổi cung hai tạ, cưỡi được ngựa thiên lý, thì vẫn chưa lấy gì làm già. Ta lại đây để đánh nhau với Đông Ngô, xem ta chém tướng, già hay không già?” Bọn Phùng Tập can, Trung không nghe, tế ngựa ra đi. Ngô Ban sai Phùng Tập dẫn quân hỗ trợ.
Phan Chương dẫn bộ tướng là Sử Tích ra trận. Tích khinh Trung già yếu, vác giáo xốc vào đánh, mới ba hiệp bị Trung chém một nhát ngã quay xuống đất. Phan Chương nổi giận, múa ngay thanh long đao của Quan Vũ lại đánh, Trung hăng sức đánh dữ quá, Chương địch không nổi, quay ngựa chạy về. Trung thừa thế đuổi theo, thu được toàn thắng. Trung về đến nửa đường, gặp Quan Hưng, Trương Bào. Hưng nói: “Chúng tôi phụng thánh chỉ, lại giúp lão tướng quân đây. Tướng quân đã lập được công rồi, xin mời về dinh ngay cho.” Trung không nghe.
Hôm sau, Phan Chương lại đến khiêu chiến, Trung hăng hái lên ngựa. Hưng, Bào hai người muốn ra đánh giúp, Trung không cho, Ngô Ban muốn giúp, Trung cũng chẳng nghe, chỉ một mình dẫn năm nghìn quân ra trận. Đánh nhau được mấy hiệp Chương vác đao chạy. Trung đuổi theo hơn ba chục dặm, bỗng tiếng hò reo nổi lên tứ phía, quân phục kéo ra, hữu có Chu Thái, tả có Hàn Đương, trước mặt có Phan Chương, sau lưng là Lăng Thống, bọn người vây bọc Hoàng Trung ở giữa. Trung vội vàng tháo đường chạy thì Mã Trung dẫn một toán quân trên sườn núi kéo xuống, bắn một phát tin ngay vào giữa vai Hoàng Trung, khiến Trung suýt ngã ngựa. Quân Ngô thấy Hoàng Trung bị trúng tên liền ùa lại đánh. Bỗng nhiên hai toán quân Thục ập đến đánh quân Ngô chạy tản lạc, cứu được Hoàng Trung. Đó là Quan Hưng, Trương Bào, hai tướng đưa Hoàng Trung về đến ngự doanh.
Trung tuổi già, khí lực đã kém, bị tên đau nặng lắm. Đêm hôm ấy, Hoàng Trung mất ở ngự doanh.
Chính sử: Thêm một câu chuyện hào hùng của tướng Thục, nhưng đó chỉ là hư cấu: Trận Di Lăng xảy ra năm 221-222, Hoàng Trung mất vì bệnh trước đó.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi: khi xưng làm Hán Trung Vương [năm 219], Lưu Bị phong Hoàng Trung làm Hậu Tướng quân, tước Quan nội hầu. Năm sau [220], Trung mất.
Quan Hưng chém Phan Chương, cúng Quan Vũ (Hồi 83)
TQDN: Trong Trận Di Lăng năm 222, Quan Hưng xông vào trận Ngô, gặp Phan Chương chính là kẻ thù (trước kia Phan Chương đón bắt được hai cha con Quan Vũ và Quan Bình, còn đoạt lấy Thanh long Yển nguyệt đao). Hưng liền tế ngựa đuổi theo, Chương kinh hãi chạy trốn vào trong hang núi, rồi mất hút. Hưng đi lại tìm mãi vẫn không thấy. Hưng thấy một túp nhà, gõ cửa xin nhờ một bữa cơm. Hưng trông lên trên giường thờ, thấy treo bức tượng Quan Công, khóc oà ngay lên, chạy vào lạy.
Cuối canh ba, nghe có người gõ cửa, té ra Phan Chương tới. Chương vừa bước vào, Quan Hưng trông thấy, rút gươm quát to lên: “Phản tặc đừng chạy!” Chương quay mình chạy ra, bỗng lại có một người mặt đỏ râu dài, mặc áo bào xanh giáp vàng, cầm lăm lăm thanh kiếm đi vào. Chương thấy Quan Vũ hiển thánh, kêu rú lên một tiếng, hồn bay phách lạc, đang chực chạy thì bị Quan Hưng chém một nhát, ngã quay xuống đất. Hưng mổ ruột lấy máu, đem đến trước tượng thần Quan Công cúng tế.
Quan Hưng lấy lại được thanh long đao của Quan Vũ khi xưa, treo đầu Phan Chương vào cổ ngựa, rồi từ tạ ông già, cưỡi ngựa của Phan Chương về trại. Còn thây của Phan Chương thì ông già đem thiêu ra tro.
Chính sử: Đây là hư cấu thứ hai về việc Quan Vũ hiển linh. Thực tế, Phan Chương sống thêm được hơn 10 năm sau Trận Di Lăng. Còn Quan Hưng chỉ làm quan được một thời gian rồi qua đời sớm. [Lê Đông Phương]
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi: “Lưu Bị đánh vào Di Lăng, Chương cùng Lăng Tốn đều hết sức chống trả. Bộ hạ của Chương chém chết hộ quân của Bị là bọn Phùng Tập, đánh giết rất nhiều. Chương được phong Bình Bắc Tướng quân, làm Thái thú ở Tương Dương… Tôn Quyền xưng tôn hiệu [làm hoàng đế năm 229], phong Chương làm Hữu Tướng quân.”
Đến năm 234 Phan Chương mới qua đời.
Ghi chú: Bởi vì Quan Hưng là quan văn, những chiến công oai hùng và chuyện thần kỳ khác trên chiến trường của Quan Hưng cũng là hư cấu: tranh tài bắn cung với Trương Bào (Hồi 81), giết Lý Dị để cứu Trương Bào, giết Tôn Hoàn (Hồi 82), giết Chu Bình (Hồi 83), chém Đổng Hy để cứu Triệu Vân rồi chém Dương Lăng (Hồi 92), được Quan Vũ hiển linh cứu nguy rồi chém chết Việt Cát (Hồi 94).
Triệu Vân đâm Chu Nhiên (Hồi 84)
TQDN: Khi Lưu Bị dẫn đại quân đánh Ngô trong Trận Di Lăng (còn được gọi là Trận Hào Đình), Triệu Vân đang ở Giang Châu trong Xuyên, nghe tin Ngô–Thục đang đánh nhau mới kéo quân đi. Chợt trông thấy một dải đông-nam, lửa sáng rực trời. Vân trong bụng kinh hãi, kíp đến xem có sự gì, không ngờ gặp Lưu Bị đang bị khốn ở đó, Vân liền hết sức đánh thốc vào. Lục Tốn nghe tiếng Triệu Vân, vội vàng ra lệnh rút quân. Vân đang đánh nhau, bỗng gặp Chu Nhiên, liền xông vào giao chiến. Chưa đầy một hiệp, Vân đâm Nhiên một nhát giáo ngã quay xuống ngựa, đánh tan quân Ngô, cứu được Bị chạy về thành Bạch Đế.
Chính sử: Lại thêm hư cấu về việc trả thù cho Quan Vũ, bởi vì các sử liệu không ghi chi tiết gì về việc Triệu Vân tham chiến trong Trận Di Lăng và giết Chu Nhiên.
Theo Tam Quốc chí_Thục thư: Tôn Quyền đánh úp Kinh Châu, Lưu Bị giận lắm, muốn sang đánh Quyền. Vân can, Bị không nghe, dẫn quân đông chinh, lưu Vân ở lại đốc trách Giang Châu. Bị thua trận ở Tỷ Quy, Vân tiến binh đến Vĩnh An. Quân Ngô bèn lui về.
Theo Tam Quốc chí_Ngô thư: Chu Nhiên tham gia Trận Di Lăng, không thấy chi tiết gì về việc bị Triệu Vân đâm, nhưng vẫn còn sống sau khi Lưu Bị đã vào thành Bạch Đế. Lúc ấy bọn Từ Thịnh, Phan Chương, Tống Khiêm đều dâng biểu nói tất bắt được Bị, xin lại đến đánh. Lục Tốn cùng Chu Nhiên, Lạc Thống cho rằng Tào Phi tụ hợp quân sĩ ngoài mượn tiếng là giúp Ngô đánh Bị, trong thực là có ý gian, nên rút quân về. Không lâu, quân Ngụy xuất chinh như dự đoán. Chu Nhiên được sáu mươi tám tuổi, là năm Xích Ô thứ mười, thì chết.
Nhận xét: Trước đây Tôn Quyền sai Phan Chương và Chu Nhiên chặn đường bắt hai cha con Quan Vũ và Quan Bình. Trong Hồi 83 La Quán Trung hư cấu việc Phan Chương bị Quan Hưng chém, đến Hồi 84 tác giả lại hư cấu việc Triệu Vân đâm Chu Nhiên. Hai chuyện khiến cho độc giả vì thương mến Quan Vũ mà nức lòng!
Hám Trạch đảm bảo cho Lục Tốn (Hồi 83)
TQDN: Lưu Bị dẫn đại quân đánh Đông Ngô nhằm trả thù cho Quan Vũ, bước đầu đạt những thắng lợi như đã kể trên. Tôn Quyền cho người mang trả lại cho Thục đầu Trương Phi và hai người hại Trương Phi là Phạm Cương và Trương Đạt, cam kết trao lại Kinh Châu, hứa đưa Tôn Thượng Hương về, và dâng biểu cầu hòa. Lưu Bị từ chối dàn hòa, nói nhất quyết diệt cho được Đông Ngô. Tôn Quyền kinh hãi, luống cuống cả lên.
Hám Trạch bước ra tâu, đề xuất Lục Tốn, nói rằng người này có tài hùng lược chẳng kém Chu Du. Trương Chiêu, Cố Ung và Bộ Trắc phản đối, cho rằng Lục Tốn không phải đối thủ với Lưu Bị vì tuổi còn trẻ, danh tiếng chưa có, e các tướng không phục.
Hám Trạch kêu to lên rằng nếu không dùng Lục Tốn thì Đông Ngô hỏng mất, và xin đem cả nhà mình để đảm bảo cho hắn. Quyền nói ý đã quyết, không ai được nhiều lời nữa.
Quyền sai đòi Lục Tốn đến, rút thanh đao đang đeo trao cho Lục Tốn và nói: “Trong văn võ, nếu ai không tuân lệnh, cho ngươi chém trước tâu sau.”
Chính sử: Không có ghi chép gì về việc Hám Trạch đảm bảo cho Lục Tốn. Trước đó, Quyền đã biết rõ tài năng của Lục Tốn khi Tốn bày kế cho Lã Mông đánh Kinh Châu, rồi cùng Lã Mông tiến quân.
Tam Quốc chí_Ngô thư_Lục Tốn ghi:
Khi Lã Mông xưng có bệnh, Lục Tốn đến gặp, nói rằng Quan Vũ tỏ ý kiêu ngạo, chèn ép người khác, sau khi lập được công lớn, lòng càng phóng túng, nhưng chỉ mưu đánh miền Bắc mà không ngờ gì Đông Ngô, nghe tin Mông đang bệnh tất không phòng bị thêm, bây giờ tiến quân thì có thể bắt được Vũ.
Tam Quốc chí_Ngô thư ghi:
Sau khi nghe lời khuyên của Lục Tốn, Lã Mông đến kinh. Tôn Quyền hỏi: “Người nào thay khanh được”? Mông đáp: “Lục Tốn suy nghĩ sâu xa, có tài gánh vác việc lớn, xem mưu lược của hắn, có thể cho giữ chức cao. Lại chưa có tiếng xa, không bị Vũ nghi ngờ, không ai hợp hơn.”
Quyền bèn gọi Tốn về thay Lã Mông.
Để đánh lạc hướng Quan Vũ, Lục Tốn gửi thư cho Vũ, lời lẽ ca ngợi tài năng của Vũ, đồng thời hạ thấp mình. Vũ xem thư của Tốn có ý nhún nhường tự gửi gắm, lòng rất vui, không còn nghi ngờ gì về Tốn. Lúc đó Tốn mới trình bày cho Tôn Quyền kế hoạch đánh lấy Kinh Châu.
Quyền sai Tốn cùng Lã Mông làm Tiền bộ, chiếm Công An và Nam Quận. Tốn lĩnh chức Thái thú Nghi Đô, quân hàm Phủ Biên Tướng quân, tước Hoa Đình hầu. Năm đó là Kiến An thứ hai mươi tư [năm 219]. Sau khi Tốn tấn công Nghi Đô, tiến chiếm Tỷ Quy và Di Đạo, Quyền phong Tốn làm Hữu Hộ quân, Trấn Tây Tướng quân, tước Lâu Hầu.
Những tình tiết trên cho thấy lần này chính Tôn Quyền đã biết rõ tài Tốn mà phong Tốn làm thống lĩnh chống Lưu Bị.
Nhận xét: Có vẻ như La Quán Trung muốn hạ thấp tài năng của Lục Tốn khi trình bày tình tiết các tướng phản đối việc bổ nhiệm Tốn chống Lưu Bị. Tốn đã có kinh nghiệm chỉ huy chiến trường và lập nhiều chiến công trong chiến dịch đánh Kinh Châu và bắt sống Quan Vũ, vì vậy Tốn không bị ai xem thường và càng không cần ai đảm bảo.
Bát trận đồ của Gia Cát Lượng ngăn chặn Lục Tốn (Hồi 84)
TQDN: Lục Tốn dẫn quân truy đuổi bị mắc vào “Bát trận đồ”, may nhờ nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn cứu giúp mới có thể thoát được nguy hiểm. Hoàng Thừa Ngạn lại hình dung Bát trận đồ “biến hóa vô cùng chẳng thể học được”.
Nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ có bài thơ cảm khái về sự kiện hư cấu này.
Chính sử: Theo Trần Văn Đức,
Nhà viết tiểu thuyết miêu tả tình tiết này đầy vẻ thần kỳ huyền diệu. Song lấy quan điểm lịch sử mà xem, có thể nói là hoang đường không kể xiết, chẳng thể như thế được. Thật ra Bát trận đồ chỉ là sa bàn đóng quân mà Gia Cát Lượng bày ra mà thôi, chẳng phải thần bí gì đặc biệt. Hơn nữa, Lục Tốn chưa từng đuổi đánh Lưu Bị đến Vu Huyện, nên càng không thể bị nguy khốn ở Bát trận đồ.
Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch (Hồi 87-91)
TQDN: Đây là điển tích“Thất cầm Mạnh Hoạch”.
Mã Tốc [Tắc] nói với Gia Cát Lượng: “Tôi có một lời này, xin thừa tướng xét cho: Nam Man cậy có đất xa, núi hiểm, không phục đã lâu; tuy hôm nay phá xong, ngày mai tất lại làm phản. Đại quân của thừa tướng đến đó, tất nhiên dẹp được, nhưng sau khi rút quân về, phải lên mặt bắc đánh Tào Phi, nếu quân Man biết trong nước bỏ ngỏ, quyết nhiên lại trở mặt ngay. Phàm phép dùng binh đánh giặc, sao cho người ta tâm phục mới cao, chớ đánh lấy thành trì là thấp; đem bụng mình mà đánh mới giỏi, chớ đem quân mà đánh thì xoàng. Xin thừa tướng làm thế nào thu phục được bụng chúng là hơn.”
Khổng Minh thầm khen rằng Tốc thực là biết đến ruột gan mình. Liền sai Mã Tốc làm tham quân và dẫn quân kéo đi.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ nhất: quân Man thua liểng xiểng, bị bắt vô kể, Mạnh Hoạch chỉ còn vài mươi tên kỵ đi theo, rồi bị quân Thục bắt sống. Gia Cát Lượng sai giết trâu mổ bò, mở tiệc yến ở trong trại, và sai quân đứng dàn thành bảy vòng, các tay đao phủ cầm gươm giáo sáng lòa như tuyết. Lại sai bày các đồ việt vàng, tán vóc, trước sau đánh đàn thổi sáo. Quân ngự lâm dàn bày hai bên, rất là nghiêm chỉnh. Khổng Minh ngồi ngất ngưởng trên trướng.
Gia Cát Lượng hỏi Mạnh Hoạch:” Nay ta bắt được ngươi rồi, bụng ngươi đã chịu ta chưa?” Mạnh Hoạch đáp: “Đường hẻm núi cao, lỡ sa vào tay ngươi, ta đâu có chịu!”
Khổng Minh nói: “Ngươi đã chưa chịu, ta hãy tha cho về, có được không?” Mạnh Hoạch đáp: “Nếu tha cho ta về, ta chỉnh đốn lại quân mã, quyết một trận sống chết nữa, bấy giờ mà ngươi lại bắt được ta thì ta mới chịu.”
Gia Cát Lượng lập tức sai cởi trói cho Mạnh Hoạch, cho áo xống và cho ăn uống, cấp cho con ngựa và sai người đưa ra đường tắt về trại.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ hai: Tù trưởng các động chiêu tụ dần dần những quân Man được tha về, được hơn mười vạn. Đổng Trà Na dẫn hơn trăm người bắt Mạnh Hoạch trói nghiến lại giao cho Gia Cát Lượng.
Hoạch nói: “Đó là thủ hạ ta muốn hại lẫn nhau, mới đến nông nỗi này, chớ không phải là tài của ngươi, sao ta có chịu!”
Gia Cát Lượng lại tha Mạnh Hoạch.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ ba: Mạnh Hoạch mắc mưu, bị Vương Bình, Ngụy Diên, Triệu Vân ba mặt đánh dồn cả vào. Mạnh Hoạch bị trói nghiến.
Khổng Minh hỏi: “Ngươi sai em đem lễ lại trá hàng, che mắt ta thế nào được, phen này đã chịu chưa?” Hoạch thưa: “– Đó chỉ vì em ta tham ăn, tham uống, trúng phải thuốc độc, bởi thế lỡ việc. Nếu ta đến mà để cho em ta đi tiếp ứng bên ngoài thì chắc xong việc. Đó là trời không tựa ta, chớ không phải ta có dại dột gì. Đành chết thì chết, chớ ta vẫn chưa chịu!
Gia Cát Lượng lại tha Mạnh Hoạch.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ tư: Bấy giờ quân Thục đã sang qua cả sông Lưu Thủy rồi.
Mạnh Hoạch dẫn vài chục vạn quân; gần đến bờ sông, Hoạch đem một vạn quân đao mộc tới thẳng cửa trại khiêu chiến. Khổng Minh bảo các tướng: “Quân rợ thế đang hung tợn, ta chưa nên đánh vội, hãy giữ vững vài ba hôm, thế hung tợn giảm đi, ta khắc có mẹo phá được.”
Cuối cùng, Ngụy Diên dẫn quân ra trói ráo lại quân Hoạch không chừa một người nào, giải Mạnh Hoạch đến.
Hoạch nói: “Ta tuy là người rợ mọi, nhưng không chuyên dùng qủy kế như thừa tướng, cho nên ta chưa phục”.
Khổng Minh liền cười, tha cho.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ năm: Hoạch vui vẻ lạy tạ, về tụ tập được vài ngàn quân các động, ẩn trong động Thứu Long, chặn lấp mất cửa động, cho quân canh giữ, chốn ấy núi non hiểm hóc, không thể tiến lên được.
Gia Cát Lượng tìm thấy miếu quan Phục ba tướng quân Mã Viện, bèn vào lạy khấn. Rồi Lượng găp một cụ già nói: “Quân của thừa tướng uống phải suối câm, chỉ vài ngày là chết. Ngoài suối ấy ra lại có ba ngọn suối nữa, toàn là khí độc tụ lại, không thuốc gì chữa được. Thừa tướng đừng lo, lão phu xin chỉ dẫn một chỗ có thể cứu vãn được.” Nhờ Mạnh Tiết anh ruột Mạnh Hoạch giúp chữa độc cho quân lính.
Chúa một động tên Dương Phong vùng hai con bắt Mạnh Hoạch, Mạnh Ưu trói nghiến lại, giải đến trại Gia Cát Lượng.
Hoạch nói: “Ta bị bắt là không phải do tài của ngươi. Vì người trong động ta hại lẫn nhau, mới đến nỗi này! Muốn giết thì giết, chớ ta vẫn chưa chịu!”
Liền quát tả hữu cởi trói cho tất cả.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ sáu: Em vợ Mạnh Hoạch hiện đang làm trưởng bộ Bát Phiên, gọi là chúa động Đái Lai, cử một người đủ phá được Gia Cát Lượng. Đó là Mộc Lộc đại vương, chúa động Bát Nạp cao tay phù phép, thường hay cưỡi voi, biết phép hô gió gọi mưa; hổ, báo, sói, lợn lòi, rắn dữ, rết độc thường đi theo; thủ hạ lại có ba vạn thần binh, rất là khỏe mạnh.
Mạnh Hoạch mừng rỡ, sai Đái Lai động chúa mang thư đi. Lại sai Đóa Tư đại vương giữ thành Tam Giang, để phòng thủ mé trước mặt.
Quân Thục được thành Tam Giang. Đóa Tư đại vương chết trong đám loạn quân.
Hoạch cuống quýt cả lên. Bỗng ở sau bình phong, một người bước ra, cười ha hả mà rằng: “– Đã là đàn ông sao không có mưu mẹo? Tôi tuy là một người đàn bà, cũng xin ra đánh giúp chàng phen này!” Hoạch trông lại, té ra vợ mình là Chúc Dong phu nhân.
Trận đầu, Chúc Dong phu nhân bắt được Trương Ngực và Mã Trung. Trận kế, Mã Đại bắt được Chúc Dong phu nhân. Hai bên trao đổi tù nhân.
Mộc Lộc đại vương đến, làm phép cho gió thổi đùng đùng, sỏi đá bay rào rào như mưa to, rồi hổ, báo, sói, gấu, lợn lòi, rắn rết to tày cột, lướt theo gió ùa đến, con thì nhe nanh, con thì múa vuốt, tràn sang trận Thục. Quân Thục khiếp sợ, chưa đánh đã vỡ, xô nhau chạy toán loạn.
Gia Cát Lượng chế tạo các giống thú to bằng gỗ, có các thứ nhung dạ ngũ sắc bọc ngoài làm da, đồng sắt làm nanh vuốt, mỗi con thú gỗ có thể ngồi được mười người, con nào cũng chứa sẵn đồ khói lửa.
Hôm sau, Khổng Minh kéo quân ra, dàn ngoài cửa động. Mộc Lộc đại vương mồm niệm thần chú, tay rung chuông. Một lát, gió to ào ào nổi lên, các giống mãnh thú xông đến. Khổng Minh cầm quạt lông phẩy một cái, ngọn gió liền thổi tạt trở lại. Các thú gỗ trong trận Thục bấy giờ mới ùa sang. Những giống thú ấy bên trận Man, thấy các giống lớn bên Thục miệng lè ra lửa, mũi thở ra khói, trên mình chuông kêu leng keng, giơ nanh múa vuốt, nên không dám đến gần, cong đuôi chạy trở về, giày xéo quân Man, chết hại rất nhiều. Khổng Minh thúc quân ùa vào, trống, tù và vang lừng, đuổi đánh cực rát. Mộc Lộc đại vương chết trong đám loạn quân.
Em vợ Mạnh Hoạch là Đái Lai động chúa khuyên Hoạch đầu hàng, Hoạch không nghe, bởi thế bắt Mạnh Hoạch và vợ là Chúc Dong phu nhân cùng tòng đảng hơn trăm người trói cả lại đem nộp Gia Cát Lượng.
Khổng Minh quát binh sĩ trói cả bọn này lại, trong mình người nào cũng giắt một con dao găm rất sắc.
Hoạch thưa: “Chuyện này thực là tự chúng ta đem thịt đến miệng hùm chớ không phải là tài của ngươi, chết thì chết chứ ta vẫn chưa chịu.”
Gia Cát Lượng lại thả Hoạch ra.
Bắt Mạnh Hoạch lần thứ bảy: Mạnh Hoạch thu nhặt quân tàn. Đái Lai động chúa giới thiệu vua nước Ô Qua tên là Ngột Đột Cốt, chỉ ăn toàn những giống rắn độc, tên bắn không vào, quân thủ hạ toàn mặc áo giáp mây, lội xuống nước không chìm, tên bắn, dao chém cũng không thấu.
Mạnh Hoạch mừng lắm, sang tận nước Ô Qua. Ngột Đột Cốt Cốt dẫn quân giáp mây qua sông đánh quân Thục. Ngụy Diên dẫn quân ra địch. Quân Thục bắn không thủng được áo giáp, tên rơi tua tủa xuống đất, gươm giáo đâm chém cũng không thấu. Quân Man đều dùng mã tấu. Quân Thục không địch nổi, phải bỏ chạy. Quân Man không đuổi theo. Ngụy Diên quay lại đuổi mãi đến bến đò, thấy quân Man mặc cả áo giáp, lội xuống nước bơi đi. Tên nào mệt mỏi lắm thì cởi áo giáp, thả xuống nước, rồi ngồi lên chèo đi.
Gia Cát Lượng đi tiền thám, đến chỗ núi cao đường hẹp, trông thấy có cửa hang, vòng vèo như hình con rắn dài, hai bên vách đá dựng đứng, không có cây cối, có một con đường cái đi thông ở giữa. Đó là hang Bàn Xà, ra khỏi cửa hang tức là con đường lớn thành Tam Giang.
Gia Cát Lượng gọi Mã Đại đến dặn: “Ta giao cho ngươi mười cỗ xe hòm sơn đen, phải dùng đến hàng ngàn dóng tre, mở hòm ra cứ y kế mà làm. Lại phải dẫn quân bản bộ chặn giữ hai đầu hang Bàn Xà, hạn nửa tháng phải xong, và phải bảo mật.” Lại gọi Ngụy Diên đến dặn: “Ngươi dẫn quân bản bộ ra hạ trại. Nếu quân Man qua sông sang đánh thì bỏ trại mà chạy thẳng đến chỗ cắm cờ trắng. Hạn trong nửa tháng phải thua luôn mười lăm trận.”
Sau đó, Ngụy Diên cứ đánh rồi chạy, Ngột Đột Cốt cứ đuổi theo. Đến hôm thứ mười sáu, Diên dẫn quân chạy vào trong hang Bàn Xà. Ngột Đột Cốt thúc quân vào đến trong hang, thấy có hơn mười cỗ xe sơn đen chất ở giữa đường đi. Quân Man bảo rằng: “Đây hẳn là đường vận lương của quân Thục, nhân thấy quân đại vương đến đây, cho nên bỏ cả xe lương mà chạy.” Ngột Đột Cốt mừng lắm, thúc quân cắm cổ đuổi miết. Khi gần ra khỏi cửa hang đầu kia thì không thấy quân Thục đâu, chỉ có đá gỗ chồng chất ngổn ngang lấp cả lối đi. Ngột Đột Cốt sai quân dọn đường. Bỗng nhiên, các cỗ xe phía trước mặt, toàn chứa củi khô cỏ ráo, lửa ở đâu bốc cháy đùng đùng. Ngột Đột Cốt vội vàng rút quân về, lại thấy hậu quân nhốn nháo cả lên, nói cửa hang đằng sau cũng bị củi cỏ chặn lấp cả rồi, trong củi toàn là thuốc súng nổ tứ tung. Ngột Đột Cốt thấy không có cây cối gì, còn hơi vững dạ, sai tìm đường chạy. Bỗng đâu lửa ở hai bên sườn núi ném ra, lửa bay đến đâu, địa lôi ở dưới đất nổ tung đến đấy. Trong hang đỏ rực toàn lửa, hơi lém vào áo giáp mây là cháy. Ngột Đột Cốt và ba vạn quân ôm nhau chết thui cả trong Bàn Xà.
Gia Cát Lượng ngồi trên núi trông xuống, ứa nước mắt, than rằng: “Ta tuy có công với nước, nhưng sẽ chắc tổn thọ!”
Lượng dẫn Mã Đại bắt sống Mạnh Hoạch, bọn Vương Bình, Trương Dực dẫn quân sấn vào trong trại Man, bắt nàng Chúc Dong và cả nhà Mạnh Hoạch già trẻ lớn bé điệu đi.
Gia Cát Lượng sai cởi trói cho tất cả, dẫn ra chỗ khác ăn uống cho hoàn hồn. Mạnh Hoạch, Chúc Dong phu nhân, Mạnh Ưu, Đái Lai động chúa và cả bọn tông đảng đang ăn uống, chợt có một người vào báo với Mạnh Hoạch rằng: “Thừa tướng xấu hổ không muốn trông thấy mặt ông, nên sai tôi đến tha ông về, để thu nhặt quân mã quyết một trận thắng phụ, ông nên đi ngay.”
Mạnh Hoạch khóc, nói: “Từ xưa đến nay, chưa có ai đánh giặc, bảy lần bắt được mà bảy lần tha bao giờ. Tôi tuy là người mọi rợ, cũng hiểu chút đôi chút lễ nghĩa, có đâu mà lại mặt dày mãi thế được!” Nói đoạn dắt díu vợ con, anh em, họ hàng, cởi trần ra khúm núm vào qùy cả dưới trướng, tạ tội rằng: “Thừa tướng thực là thiên oai, người phương nam tôi không dám làm phản nữa!”
Khổng Minh nói: “Ông nay đã chịu rồi à?” Mạnh Hoạch khóc, nói: “Con con cháu cháu tôi cũng được đội ơn sinh thành thừa tướng, dám đâu không phục.”
Khổng Minh mời Mạnh Hoạch lên trướng, mở tiệc yến ăn mừng, rồi lại cho làm chúa các động như trước. Lại trả lại cho Mạnh Hoạch tất cả đất đai đã chiếm được.
Chính sử: Trong lịch sử đúng là có chuyện Gia Cát Lượng xuất quân Nam chinh, cũng có người tên là Mạnh Hoạch, nhưng trong Tam Quốc chí không thấy ghi chuyện “Thất cầm Mạnh Hoạch”. Đại bộ phận chiến trường đều là vùng Điền Tây.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi ngắn gọn: “Năm thứ ba [năm 225] mùa xuân, Lượng xuất quân nam chinh. Đến mùa thu bình định được hết cả.”
Tương Dương ký ghi: “Năm Kiến Hưng thứ ba, Lượng đi đánh Nam Trung, Mã Tắc (Tốc) nêu ý kiến rằng người Nam Trung dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở, lâu nay không chịu phục tùng, tuy hôm nay dẹp tan, ngày mai lại làm phản. Phá thành là phụ, thâu tóm lòng người là chính, xin Lượng xét kỹ mà thu phục nhân tâm của người Di. Lượng nghe lời ấy, tha Mạnh Hoạch, bình định phương nam. Đương thời khi Lượng còn sống, người nam không dám làm phản.”
Theo Trần Văn Đức,
Việc Gia Cát Lượng vào sâu phương nam như thế, thời gian tiêu hao như vậy xem ra rất ít có khả năng. Gia Cát Lượng cố ý thả Mạnh Hoạch là chấp hành cụ thể sách lược “công tâm làm đầu”, điều đó chẳng có gì nghi ngờ, song hành vi ấy lặp lại nhiều đến bảy lần, hiển nhiên có chỗ khoa trương. Sự kiện bảy lần bắt Mạnh Hoạch chủ yếu phát sinh từ dã sử của vùng Nam Trung, lịch sử tuy có chép việc bắt rồi lại thả, song đích xác mấy lần thì không nói rõ. Hoa Dương quốc chí tuy nêu bảy lần bắt bảy lần thả, song thời gian và địa điểm hoàn toàn không ghi chép. Chính sử đều không ghi chép Gia Cát Lượng có dẫn quân đến vùng Điền Tây.
TQDN chẳng những có chỗ tô vẽ, tên người (ví dụ như nhân vật hư cấu Chúc Dung một mình giao chiến với Triệu Vân, Ngụy Diên, Trương Ngực và Mã Trung), tên đất đều cực kỳ quái dị, về ghi chép cũng thiếu tính cẩn thận và tính hợp lý của sự thực lịch sử. Sự xuất hiện của nhân vật lại mâu thuẫn với sự thực lịch sử. Ví dụ như Triệu Vân và Ngụy Diên nắm quân chủ lực của Thục Hán, phải được bố trí ở phương bắc và phương đông để đối phó với Tào Ngụy và Đông Ngô hùng mạnh mới đúng. Sắp xếp họ thành những vai chính trong chiến dịch bình Nam hiển nhiên là hư cấu của nhà viết tiếu thuyết. Tóm lại, đối chiếu ghi chép lịch sử và tình tiết tiểu thuyết, đoạn miêu tả bảy lần bắt bảy lần tha thật là khó tin.
Quan Sách tham gia đánh Mạnh Hoạch (Hồi 87-91)
TQDN: Khi Gia Cát Lượng chuẩn bị Nam chinh, có Quan Sách là con thứ ba Quan Vũ vào thưa rằng: “Từ khi Kinh Châu bị mất, tôi lánh nạn ở Bảo Gia trang dưỡng bệnh, chỉ mong muốn vào Xuyên ra mắt tiên đế để đi báo thù, nhưng thương tích chưa khỏi, không thể đi được. Nay đã bình phục, dò biết được kẻ thù ở Đông Ngô đều bị giết cả rồi, bèn đi tắt vào Tây Xuyên với tiên đế, may giữa đường gặp đại quân nam chinh, nên đến đây ra mắt.”
Gia Cát Lượng nghe nói lấy làm ái ngại, một mặt cho người về báo với triều đình, một mặt sai Quan Sách làm tiền bộ tiên phong, cùng đi đánh phương nam. Quan Sách lập nhiều chiến công, có lúc đánh với Mạnh Hoạch.
Chính sử: Quan Sách là nhân vật hư cấu. [Wikipedia] Tam Quốc chí không ghi tên ai là Quan Sách.
Mã Tốc bày kế ly gián để Tào Tuấn cách chức Tư Mã Ý (Hồi 91)
TQDN: Tào Phi chết, Tào Tuấn (Duệ) lên ngôi. Bấy giờ ở Châu Ung và Châu Lương khuyết người trấn thủ, Tư Mã Ý dâng biểu xin ra giữ. Tào Tuấn nghe lời, phong cho Ý làm đề đốc cả quân mã hai xứ ấy.
Có mật thám báo tin. Khổng Minh giật mình, nói: “Tào Phi chết rồi, con là Tào Tuấn nối ngôi, ta chẳng lo ngại gì. Chỉ e có Tư Mã Ý lắm mưu lược, nay y đề đốc quân mã Ung, Lương, nếu để y luyện tập thành thuộc rồi tất gây họa lớn cho nước Thục ta. Chi bằng ta cất quân sang đánh trước còn hơn.”
Tham quan Mã Tốc nói: “Thừa tướng mới đánh dẹp miền nam trở về, quân sĩ còn mỏi mệt, hãy cho nghỉ ngơi, chớ nên bắt đi đánh xa vội. Tôi có một mẹo này, khiến Tư Mã Ý phải chết vào tay Tào Tuấn. Tư Mã Ý tuy là đại thần nước Ngụy, nhưng Tào Tuấn vẫn có lòng ngờ ghét. Ta nên mật sai người sang các xứ Lạc Dương Nghiệp Quận, phao tin Ý muốn làm phản, lại làm bản văn của Ý cáo thị dán khắp nơi, khiến Tào Tuấn sinh nghi, tất nhiên phải giết hắn đi.”
Khổng Minh nghe lời, lập tức sai người mật làm kế ấy.
Kết quả là Tào Tuấn cách tuột cả quan chức Tư Mã Ý, đuổi về quê quán.
Chính sử: Nếu thật sự có biến cố quan trọng thay đối cán cân sức mạnh giữa Thục và Ngụy như TQDN miêu tả thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập, nhưng Tam Quốc chí không ghi chép gì.
Triệu Vân ra sức giết năm tướng (Hồi 92)
TQDN: Khi Gia Cát Lượng dẫn quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất đánh Ngụy, Hạ Hầu Mậu tụ tập các đạo quân mã chống cự. Có đại tướng ở Tây Lương là Hàn Đức, sức khỏe địch nổi muôn người. Đức có bốn con, là Hàn Anh, Hàn Giao, Hàn Quỳnh, Hàn Kỳ, đều tinh thông võ nghệ. Đức dẫn bốn con và tám vạn quân Thục kéo đến.
Triệu Vân vác giáo tế ngựa thách Hàn Đức ra đánh. Con cả là Hàn Anh thúc ngựa ra đánh, được ba hiệp bị Vân đâm một giáo chết. Con thứ hai là Hàn Giao thấy vậy, múa đao lại địch. Vân giở oai hổ khi xưa, đánh rất hăng, Giao không chống nổi. Con thứ ba là Hàn Quỳnh vác phương thiên kích đến đánh ập vào. Vân không chút nao núng. Hàn Kỳ thấy hai anh đánh không đổ Triệu Vân, cũng tế ngựa ra, múa đôi đao nhật nguyệt vây bọc Triệu Vân vào giữa mà đánh. Vân một mình ở giữa chống đỡ ba mặt. Một lát, Hàn Kỳ trúng phải giáo ngã ngựa, các tướng bên Hàn Đức vội vàng xô ra đem về. Vân rê ngọn giáo vừa đánh vừa chạy. Hàn Quỳnh bỏ kích, rút cung tên ra bắn luôn ba phát, đều bị Vân múa giáo gạt được cả. Quỳnh tức quá, lại vớ ngọn kích đuổi theo, bị Vân bắn một phát tin vào giữa mặt lăn xuống ngựa chết. Hàn Giao khoa đao chém sang. Vân quẳng giáo đi, né qua mũi đao, sấn vào bắt sống Hàn Giao đem về trận, rồi lại tế ngựa ra lấy ngọn giáo. Hàn Đức thấy bốn con cùng bị về tay Triệu Vân, ruột gan như xé, xông ngay vào trận. Quân Tây Lương vốn biết tiếng Triệu Vân, nay thấy Vân vẫn khỏe mạnh như xưa, không ai dám ra địch. Hễ Triệu Vân đi đến đâu người dạt ra đến đấy, một ngựa một thương, qua lại xông xáo, như vào chỗ không người. Hàn Đức suýt nữa bị Triệu Vân bắt sống, phải bỏ áo giáp, đi chân không, mới trốn thoát.
Hàn Đức dẫn bại quân về ra mắt Hạ Hầu Mậu, khóc lóc thuật lại sự việc. Mậu bèn dẫn quân đến đánh Triệu Vân. Thám mã báo tin về trại Thục, Vân lên ngựa vác thương dẫn hơn nghìn quân ra trước núi Phượng Minh dàn trận. Hạ Hầu Mậu đội mũ chỏm vàng, cưỡi ngựa trắng, tay cầm thanh đao lớn, đứng dưới cửa cờ, thấy Triệu Vân cưỡi ngựa vác giáo, đi lại rong ruổi, Mậu muốn ra đánh. Hàn Đức nói: “Triệu Vân giết mất bốn con tôi, thù ấy tôi không báo không xong!” Liền vác búa khai sơn, tế ngựa xốc vào chém Triệu Vân. Vân nổi giận, khoa giáo lên địch. Đánh được vài ba hiệp, Vân lại đâm chết Hàn Đức.
Chính sử: Hàn Đức và bốn con là năm nhân vật hư cấu [Wikipedia]. Thật ra, Vân phải lui binh do điều kiện chiến trường bất lợi.
Theo Tam Quốc chí_Thục thư: Năm Kiến Hưng thứ năm, Triệu Vân là Trấn Đông Tướng quân theo Gia Cát Lượng ra Hán Trung. Năm sau, Lượng xuất quân, phô trương thanh thế ở đường Tà Cốc. Tào Chân phái đại quân chống giữ. Lượng sai Triệu Vân và Đặng Chi cự địch, còn Lượng thân tấn công Kỳ Sơn. Vân–Chi binh yếu địch mạnh, gặp thất lợi ở Cơ Cốc, mới làm nghi binh cố thủ, chẳng chịu thua trận. Sau phải lui binh, Vân bị biếm chức xuống Trấn quân Tướng quân.
Gia Cát Lượng mắng khiến Vương Mãng chết trước trận (Hồi 93)
TQDN: Khi Gia Cát Lượng dẫn quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất đánh Ngụy thời Ngụy Minh Đế Tào Tuấn (trị vì 226-239), Vương Lãng lúc bấy giờ 76 tuổi, là quân sư cho Đô đốc Tào Chân và Phó đô đốc Quách Hoài. Vương Lãng tự tin mình có thể dụ hàng Gia Cát Lượng nên ra trước trận thuyết phục Lượng bỏ Hán về Ngụy. Nhưng Lượng không bị khuất phục, mà còn mắng lại Vương Lãng là gian thần nhà Hán, bỏ họ Lưu theo họ Tào là nghịch tặc. Vương Lãng nghe xong, khí uất đầy ruột, kêu hú lên một tiếng, ngã lăn xuống đất mà chết.
Người đời sau có thơ khen Gia Cát Lượng về việc này.
Chính sử: Gia Cát Lượng và Vương Lãng không hề gặp nhau ngoài chiến trường.
Thật ra, việc đối đáp giữa Vương Lãng và Gia Cát Lượng xảy ra thời Ngụy Văn Đế Tào Phi (trị vì 220-226) và được thực hiện bằng thư từ. Sự việc dừng lại ở đó và Vương Lãng không chết vì bức thư trả lời của Gia Cát Lượng. [Lê Đông Phương].
Theo Tam Quốc chí_Thục thư trích Gia Cát Lượng tập,
Kiến Hưng năm đầu [năm 223, Lưu Bị chết, Lưu Thiện nối ngôi], các quan nhà Ngụy là Tư đồ Hoa Hâm, Tư không Vương Lãng, Thượng thư lệnh Trần Quần, Thái sử lệnh Hứa Chi, Yết giả Phó xạ Gia Cát Chương đều gửi thư riêng cho Gia Cát Lượng, bày đặt mệnh trời việc người, muốn Lượng dâng cả nước Thục mà xưng thần với Ngụy. Lượng không đáp thư, lại viết một bức chính luận công kích lại các tác giả Ngụy đã “buông tuồng dùng những lời quỷ biện hoa mỹ”, trong khi Lượng “nương theo chính đạo soi xét kẻ có tội”.
Gia Cát Lượng lập mưu ly gián hàng phục Khương Duy (Hồi 94)
TQDN: Triệu Vân thuật lại việc mắc phải mẹo Khương Duy. Gia Cát Lượng giật mình, cất cả đại quân kéo đi. Được biết mẹ của Khương Duy đang ở Ký Thành, Gia Cát Lượng gọi Ngụy Diên dặn dẫn một toán quân giả danh sang lấy Ký Thành, hễ Khương Duy đến đó thì cứ để cho hắn vào thành.
Khương Duy nghe tin, xin với Mã Tuân lĩnh quân ra cứu Ký Thành và để trông nom mẹ nhân thể. Mã Tuân nghe lời, cấp cho Duy ba nghìn quân ra giữ Ký Thành. Khương Duy dẫn quân đến Ký Thành, gặp Ngụy Diên chặn đường. Hai tướng đánh nhau được vài hiệp, Diên giả đò thua chạy. Duy vào thành đóng chặt cửa, dàn quân ra canh giữ, rồi về nhà thăm mẹ, chớ không ra đánh nữa.
Do kế ly gián của Gia Cát Lượng, Khương Duy mang tiếng đã theo về Thục, lại bị Ngụy Diên và Trương Bào chặn đánh, chỉ còn trơ một mình một ngựa chạy đến dưới thành Thiên Thủy gọi cửa. Mã Tuân sai quân sĩ trên thành bắn xuống như mưa. Khương Duy tìm đường chạy ra Thượng Nhai. Lương Kiền ở trên thành sai quân bắn tên xuống tíu tít.
Khương Duy không biết nói năng ra sao, ngẩng mặt lên trời than thở, hai hàng nước mắt chứa chan, quay ngựa chạy về phía Trường An. Đi chưa được vài dặm, gặp Gia Cát Lượng kêu hàng. Duy nghĩ ngợi hồi lâu, trước có Khổng Minh sau có Quan Hưng, biết chạy đâu cho thoát, đành xuống ngựa xin hàng.
Chính sử: Không phải Gia Cát Lượng chặn đường ép Khương Duy hàng, mà dân quân Ký Huyện khuyên Duy ra hàng Lượng.
Khương Duy đầu hàng chẳng phải do Gia Cát Lượng có kế sách gì khiến Duy phải tâm phục khẩu phục. [Ngụy lược]
Nguyên nhân chủ yếu là Duy bị Mã Tuân không tín nhiệm, bức bách đến nỗi không thể làm khác. [Trần Văn Đức]
“Không thành kế” của Gia Cát Lượng (Hồi 95)
TQDN: Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng điều các tướng dẫn quân đi các nơi để đối phó, rồi Lượng dẫn năm nghìn quân ra huyện Tây Thành để chuyển vận lương thảo. Bỗng tin dồn dập về báo rằng Tư Mã Ý dẫn mười lăm vạn đại quân kéo đến Tây Thành. Bấy giờ không còn viên đại tướng nào đi kèm với Gia Cát Lượng, chỉ có một bọn quan văn, mà trong số năm nghìn quân thì đã chia một nửa cho vận lương về trước rồi, còn vỏn vẹn có hai nghìn rưỡi người ở trong thành. Các quan nghe tin ấy, ai nấy đều mất vía.
Gia Cát Lượng truyền cho các tướng: quân sĩ đâu cứ giữ đấy, không được nhốn nháo; nếu ai thậm thọt ra vào hoặc nói năng to tiếng thì chém lập tức; cứ việc mở toang bốn cửa thành, mỗi cửa cắt hai chục tên lính ăn mặc giả làm cư dân quét tước dọn dẹp; nếu quân Ngụy đến, không được kinh hãi! Rồi Lượng mặc áo cánh bạc, đội khăn lượt, đem hai tiểu đồng và cắp một cái đàn trèo lên địch lâu, ngồi tựa vào bao lơn, đốt hương gảy đàn.
Tiền quân Ngụy đến nơi, thấy vậy, không dám đến gần, vội báo với Tư Mã Ý. Ý cười, không tin, mới dừng quân lại, phi ngựa đến đứng tận đằng xa nhìn xem, quả nhiên thấy Lượng ngồi trên địch lâu, miệng cười tươi như hoa, đốt hương đánh đàn, tả có một đồng tử cầm bảo kiếm, hữu có một đồng tử cầm phất trần đứng hầu hai bên. Ngoài cửa thành, vài chục dân phu cúi đầu quét dọn tấp lập, tựa hồ như không có chuyện gì cả. Ý xem xong, lấy làm nghi lắm, liền sai đổi hậu quân làm tiền quân, nhằm đường Bắc Sơn rút chạy.
Tư Mã Chiêu nói: “Hoặc giả Gia Cát Lượng không có quân, cho nên bày trò ra thế, cớ sao phụ thân lại rút quân ngay?” Ý nói: “Gia Cát Lượng xưa nay cẩn thận, chưa từng dám làm liều. Nay cửa thành mở toang thế kia, tất có quân mai phục. Quân ta nếu tiến chắc chắn là mắc mẹo, chúng mày biết đâu, nên lui ngay!”
Bởi thế, quân hai đường đều lui chạy cả. Khổng Minh thấy quân Ngụy đi xa rồi, vỗ tay cười ầm lên. Các quan ai cũng ngơ ngác. Gia Cát Lượng nói: “Đó là hắn nghĩ rằng ta xưa nay cẩn thận, không dám làm liều, cho nên thấy quang cảnh như thế, nghi ta có phục binh, mới rút quân về. Ta không phải là muốn bày trò nguy hiểm thế, cũng là bất đắc dĩ đấy thôi.”
Chúng đều phục và nói: “Thừa tướng huyền cơ, quỷ thần cũng không biết đâu mà lường! Giá như chúng tôi, thì đã phải bỏ thành mà chạy rồi.” Gia Cát Lượng nói: “Quân ta chỉ có hai nghìn rưỡi người, nếu bỏ thành chạy thì trốn làm sao cho kịp? Tư Mã Ý nó chẳng tóm cổ ráo ư?”
Chính sử: “Không thành kế” của Gia Cát Lượng là chuyện hư cấu.
Theo Dịch Trung Thiên,
Lúc chú thích Tam Quốc chí, Bùi Tùng Chi bác bỏ “không thành kế”: lúc Gia Cát Lượng đóng quân ở Dương Bình, Tư Mã Ý là Đô đốc Kinh Châu ở Uyển Thành, thì làm gì có khả năng xuất hiện ở chiến trường Dương Bình!
Câu chuyện “không thành kế” không có thật vì không hợp lô-gíc. Thứ nhất, Tư Mã Ý không dám tiến công, sợ trong thành có mai phục. Vậy, phái một toán do thám, có được không? Thứ hai, Tư Mã Ý “quả nhiên thấy Khổng Minh ngồi trên địch lâu, miệng cười tươi như hoa”, khoảng cách không xa lắm, vậy nên chọn một thần xạ, bắn hạ Gia Cát Lượng xuống lầu, thực hiện “bắt giặc bắt chúa trước”, có được không? Thứ ba, theo Quách Xung, khi đó Tư Mã Ý có hai mươi vạn quân, Gia Cát Lượng chỉ có một vạn; tóm lại quân Ý đông hơn vượt trội. Vậy vây ba ngày mà không đánh, có được không?
Theo Trần Văn Đức,
Theo ghi chép lịch sử, tình tiết “không thành kế” là hoàn toàn không xảy ra được.
Trước hết, Gia Cát Lượng có tính cẩn thận, chẳng thể với việc rút quân lại hoàn toàn không có chuẩn bị. Huống chi đại bản doanh của ông ta ỏ đông-nam Kỳ Sơn, cách Nhai Đình có một đoạn đường, ví như Nhai Đình đột nhiên thất thủ, Gia Cát Lượng cũng chẳng thất thế đến như vậy. Lại nữa hành động bắc chinh lần này, từ đầu đến cuối Gia Cát Lượng chưa từng giao đấu trực tiếp với Tư Mã Ý. Từ sau khi thu lại Tân Thành và chém được Mạnh Đạt, Tư Mã Ý vẫn phụ trách phòng thủ chiến tuyến phía đông, nói chung chưa từng đến chiến tuyến phía tây. Trấn thủ ở Tràng An là Ngụy Minh đế Tào Tuấn, chỉ huy chiến dịch Nhai Đình là lão tướng Trương Cáp, thậm chí sau này thu phục được Lương Châu cũng là do Đại tư mã Tào Chân chỉ huy và Trương Cáp cùng Quách Hoài thực hiện; Tư Mã Ý làm sao lại xuất hiện như thế? Đây hiển nhiên là chuyện mà nhà tiểu thuyết tự mình nghĩ ra thôi.
Nhận xét: “Huyền cơ” của Gia Cát Lượng càng thần sầu hơn khi La Quán Trung giảm quân của Lượng từ 10.000 xuống còn 2.500. Thế nên lại có thêm một bài thơ ca ngợi chuyện hư cấu.
Triệu Vân lập công ở hang Cơ Cốc (Hồi 96)
TQDN: Sau khi Tư Mã Ý được cử cầm quân chống Thục, Gia Cát Lượng điều Triệu Vân và Đặng Chi mỗi người dẫn một toán quân ra hang Cơ Cốc để làm nghi binh; dặn nếu gặp quân Ngụy, hoặc đánh, hoặc không đánh, để cho giặc hồ nghi, không biết đâu mà lần. Trong khi đó, Tư Mã Ý điều Trương Cáp đi men đường nhỏ, lẻn ra hang Cơ Cốc mà tiến binh.
Triệu Vân và Đặng Chi phục binh ở trong đường Cơ Cốc nghe tin Gia Cát Lượng truyền lệnh đem quân về, Vân bảo Chi lui về trước, còn để mình đoạn hậu. Đặng Chi nghe lời, dẫn quân về trước.
Nói về Quách Hoài, từ khi ở Nhai Đình, dẫn quân trở về Cơ Cốc, dặn tiên phong là Tô Ngung muốn đuổi theo phải cẩn thận. Tô Ngung dẫn quân kéo vào hang Cơ Cốc, dần dần đuổi kịp quân Thục, thấy bên cạnh núi phất phới lá cờ đỏ đề hiệu Triệu Tử Long. Tô Ngung vội thu quân rút lui. Đi chưa được vài dặm, tiếng reo nổi lên ầm ầm, một toán quân tràn ra, viên đại tướng tế ngựa xông lại quát to lên: “Mày biết Triệu Tử Long là ai không?” Tô Ngung giật mình, không hiểu sao vừa thấy cờ hiệu Triệu Vân đi trước, nay lại có Triệu Vân ở đây. Ngung trở tay không kịp, bị Triệu Vân đâm một giáo ngã ngựa.
Vân phá xong quân Ngụy, lại cứ thong thả kéo đi. Chợt có bộ tướng của Quách Hoài là Vạn Chính đuổi theo. Vân dừng ngựa cầm giáo đứng sững giữa đường, đợi tướng kia đến giao phong. Quân Thục đi trước hơn ba chục dặm rồi. Vạn Chính biết là Triệu Vân, không dám tiến lên nữa. Vân đợi mãi đến gần tối, mới quay ngựa từ từ đi về. Một lát Quách Hoài đến, Vạn Chính kể chuyện Triệu Vân vẫn hùng dũng như xưa, bởi thế không dám đuổi theo. Hoài truyền lệnh quân sĩ đuổi gấp. Vạn Chính dẫn vài trăm tráng sĩ lại đuổi theo. Đi qua cánh rừng, bỗng nghe tiếng quát to: “Triệu Tử Long ở đây!” Quân Ngụy rụng rời hết vía, hơn một trăm tên ngã ngựa, còn bao nhiêu trèo qua núi mà chạy. Vạn Chính gượng lại đánh, bị Vân bắn một phát tin vào chỏm mũ. Chính ngã lăn xuống khe núi. Vân cầm giáo trỏ bảo rằng: “Tao tha hết cho mày, về bảo thằng Quách Hoài đến đây mau! Vạn Chính được thoát, chạy trở về. Vân hộ tống xa trượng về hết cả Hán Trung, dọc đường không mất mát một tí gì.
Chính sử: Tam Quốc chí_Thục thư ghi: “Lượng sai Triệu Vân và Đặng Chi cự địch. Vân-Chi binh yếu địch mạnh, gặp thất lợi ở Cơ Cốc, mới làm nghi binh cố thủ, chẳng chịu thua trận. Sau phải lui binh, biếm chức xuống Trấn quân Tướng quân.”
Cũng theo Trần Văn Đức, từ Trấn Đông Tướng quân Triệu Vân bị giáng xuống làm Trấn quân Tướng quân.
Từ việc giáng chức mà suy ra, có lẽ chiến tích oai hùng của Vân ở hang Cơ Cốc là hư cấu.
Riêng Vân biệt truyện ghi tương tự như TQDN: “Vân đi đoạn hậu, quân tư trang vật dụng, đều không bỏ sót, binh tướng được vô sự nên không tổn thất gì.” Có lẽ đây là công trạng cuối cùng trong đời của Triệu Vân, bởi vì Vân qua đời trước khi quân Thục ra Kỳ Sơn lần thứ hai.
Gia Cát Lượng hai lần dâng biểu (Hồi 91, 97)
TQDN: Trong Hồi 91 (Đánh giặc Ngụy, Võ Hầu dâng biểu): sau khi Tào Tuấn (Duệ) mắc mưu cách chức và đuổi Tư Mã Ý về quê, Gia Cát Lượng mừng lắm, nói: “Ta muốn đánh Ngụy đã lâu, chỉ ngại có Tư Mã Ý cầm quân ở Ung, Lương mà thôi. Nay hắn đã mắc mưu phải đuổi, ta còn lo chi nữa!” Hôm sau, Hậu Chủ khai chầu sớm, hội tất cả các quan liêu, Gia Cát Lượng ra dâng biểu xin cất quân sang đánh Ngụy. Quan thái sử Tiêu Chu can mãi không được.
Khổng Minh cất quân đi. Đây là chiến dịch thứ nhất của Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Ngụy.
Trong Hồi 97 (“Võ Hầu hai lần dâng biểu”): Năm Kiến Hưng nhà Thục thứ sáu [năm 228 DL], Dương Nghi cầm đạo biểu của Khổng Minh đến dâng, nội dung phân tích “sáu điều thần không hiểu nổi”.
Hậu Chủ xem xong mừng lắm, sai Khổng Minh cất quân đi. Đây là chiến dịch thứ hai của Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Ngụy.
Chính sử: Tam Quốc chí ghi hai bài biểu của Gia Cát Lượng, một trước khi ra Kỳ Sơn lần thứ nhất và một trước khi ra Kỳ Sơn lần thứ hai. Sử gọi bài biểu thứ nhất là “Xuất sư biểu”, và bài biểu thứ hai là “Hậu Xuất sư biểu”.
TheoTam Quốc chí_Thục thư_Gia Cát Lượng truyện, năm Kiến Hưng thứ năm (năm 227), Gia Cát Lượng cất đại quân ra bắc đóng ở Hán Trung, trước khi đi, dâng biểu tâu lên Hậu Chủ. Được sử gia gọi là “Xuất sư biểu”, đây là bài biểu có ý nghĩa quan trọng về chiến lược và đối sách của Gia Cát Lượng.
Theo sách Mặc ký của Trương Nghiễm được Bùi Tùng Chi trích lại trong Tam Quốc chí_Thục thư_Gia Cát Lượng truyện, trước khi ra Kỳ Sơn lần thứ hai, Gia Cát Lượng dâng một bài biểu lên Hậu Chủ, diễn giải “năm điều thần thần không hiểu nổi”. Bài biểu nói việc “đã mất Triệu Vân”, vì thế Bùi Tùng Chi chú giải rằng:
Có một chi tiết đáng ngờ là Triệu Vân, một mãnh tướng hàng đầu của Thục Hán, ông mất sau khi Lượng ra quân phạt Nguỵ lần thứ hai, mà bài biểu này lại có trước đó? Vì sao Gia Cát Lượng có nhầm lẫn vô lý như thế? Đây là một chi tiết mà học giả đời sau suy luận rằng trước tác này không phải do Gia Cát Lượng viết ra.
Theo Trần Văn Đức,
Sau khi hoàn thành việc sắp xếp đội quân bắc chinh, Gia Cát Lượng trình lên Hậu Chủ Lưu Thiện bản Xuất sư biểu thiên cổ còn truyền tụng.
Thừa tướng Văn Thiên Tường cuối đời Nam Tống để lại di bút trong Chính khí ca, khi đánh giá cao Xuất sư biểu có nói, “Có thể với Xuất sư biểu, quỷ thần cũng phải khóc than”. Nho gia đời sau cũng thường nói: “Đọc Xuất sư biểu mà không khóc chẳng phải là người có lòng trung”. Xuất sư biểu đích xác đã thể hiện đầy đủ niềm trung thành xán lán của Gia Cát Lượng với vương triều Thục Hán. Đặc biệt đọc nguyên văn, từ lời văn và khí chất ở đó chúng ta có thể thấy rõ nhân cách và khí chất của Gia Cát Lượng
Qua Xuất sư biểu, chúng ta có thể thấy Gia Cát Lượng đối với việc bắc phạt có tin tưởng rất lớn, tuyệt đối chẳng phải là một việc khổ hạnh chẳng thể đừng. Trái lại, ông lo lắng chẳng phải ở tiền tuyến mà là ở quốc nội. … Xuất sư biểu giống như là một người cha đang ở xa dặn đi dặn lại và răn bảo đứa con phải thân hiền thần, xa tiểu nhân, lời lẽ khẩn thiết, chân tình lộ rõ, thực khiến người ta phải cảm động.
Chỉ ra chỗ nguy cơ, đương nhiên cũng bày tỏ rõ chỗ cơ hội, … Tiếp đó Gia Cát Lượng lại nói cụ thể Lưu Thiện phải làm ông chủ như thế nào …
Đấy không những là những lời can gián chính thức của kẻ đi xa đối với đức vua, mà đấy cũng là những lời kiến nghị sáng tỏ về việc lãnh đạo điều hành. Chẳng phải là những lời trung nghĩa sáo rỗng kiểu “Bát cố”, mà từng câu đều là những sách lược cụ thể để thi hành. Xuất sư biểu sự thực dã cảm kích lòng người có thể chính là ở đấy.
Ghi chú: Tựa Hồi 97 được dịch ra là “hai lần dâng biểu” thì không đúng bởi vì bài biểu thứ nhất được ghi trong Hồi 91; nên hiểu “lần thứ hai dâng biểu” thì đúng hơn.
Trương Bào làm tướng đánh Thục (Hồi 99)
TQDN: Đây là chiến dịch thứ ba của Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Ngụy vào năm Kiến Hưng thứ bảy (năm 229 DL).
Tư Mã Ý sai Quách Hoài và Tôn Lễ dẫn quân đi cứu hai quận Võ Đô và Âm Bình. Dọc đường, tiểu mã chạy lại báo Âm Bình đã bị Vương Bình đánh tan, Võ Đô cũng bị Khương Duy phá mất rồi.
Lễ nói phải rút quân về cho mau. Quách Hoài nghe lời, sắp sửa thu quân, bỗng một tiếng pháo hiệu nổ rầm trời, rồi mé sau có một toán quân đổ ra, cờ hiệu Gia Cát Lượng. Khổng Minh ngồi chĩnh chện trên xe, Quan Hưng, Trương Bào đi kèm tả hữu. Tôn, Quách hai người trông thấy thất kinh.
Bỗng lại nghe tiếng reo ầm ĩ, té ra Vương Bình, Khương Duy từ mặt sau đánh lại, Hưng, Bào hai tướng cũng từ mặt trước đổ đến. Quân Ngụy thua to. Tôn, Quách, hai người phải bỏ ngựa trèo qua núi mà trốn. Trương Bào trông thấy giục ngựa đuổi theo, không ngờ ngựa vấp phải tảng đá, cả người lẫn ngựa ngã lăn xuống khe núi. Quân sĩ vội vã xuống cứu, thì đầu Trương Bào đã toạc ra rồi. Khổng Minh vội sai người đưa Bào về Thành Đô dưỡng bệnh.
Có thơ cảm thán Trương Bào.
Chính sử: Lê Đông Phương cho rằng Trương Bào chết yểu nên không làm tướng Thục.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi: “Con trưởng của Phi là Bào, chết sớm.” và “Con Bào là Tuân làm đến chức thượng thư, theo Gia Cát Chiêm ra Miên Trúc, đánh nhau với Đặng Ngải, bị chết.”
“Chết sớm” khác với “chết yểu”. Trương Bào có con, không thể gọi là chết yểu. Vì thế, vẫn có khả năng Trương Bào tham gia chiến dịch ra Kỳ Sơn lần thứ ba.
Nhưng nếu Trương Bào có chiến công hiển hách như TQDN miêu tả thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập, nhưng Tam Quốc chí không ghi chép gì. Và sử cũng không ghi Trương Bào mất vào năm nào, chứng tỏ khi sống Trương Bào không có công trạng gì đặc biệt.
Tào Chân đọc thư Gia Cát Lượng, uất ức mà chết (Hồi 100)
TQDN: Đây là lần thứ tư Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Ngụy.
Có mật thám về báo rằng Tào Chân bị đau, hiện đang phải phục thuốc ở trong trại. Gia Cát Lượng mừng lắm, bảo các tướng rằng nếu Tào Chân bệnh nhẹ thì hẳn về Trường An, quân Ngụy không rút lui tức là Chân bị bệnh nặng, phải lưu ở lại để yên bụng quân. Lượng viết một phong thư, sai quân hàng mang về đưa cho với Tào Chân.
Chân gượng dậy, mở xem, khí đầy, tức ruột, chiều hôm ấy chết ở trong quân.
Chính sử: Tào Chân chết ở Lạc Dương vì bệnh.
Năm Thái Hòa thứ 4 (năm 230 DL), Đại tư mã Tào Chân từ Trường An tiến quân chống Gia Cát Lượng. Tuy nhiên trời đổ mưa, cuộc hành quân tạm hoãn. Ngay sau đó, Tào Chân đột nhiên mắc bệnh, phải về Lạc Dương. [Tam Quốc chí_Ngụy thư]
Năm sau, Tào Chân qua đời. [Wikipedia]
Tư Mã Ý dùng kế ly gián khiến Lượng rút quân về (Hồi 100)
TQDN: Đây là lần thứ tư Gia Cát Lượng xuất Kỳ Sơn.
Đô úy Cẩu An được lệnh tải lương, vì hay uống rượu nên sai hẹn. Gia Cát Lượng sai đánh Cẩu An. An tức giận, đến trại Ngụy đầu hàng.
Tư Mã Ý bảo An trở về Thành Đô, phao tin Gia Cát Lượng có bụng oán chúa, nay mai sẽ tự xưng là vua. Cẩu An vâng lời. Hậu Chủ liền giáng chiếu đòi Lượng về triều. Lượng dùng mẹo tăng bếp để lừa Tư Mã Y, rồi từ từ rút quân về.
Chính sử: Nếu thật sự có kế ly gián gây hậu quả nghiêm trọng cho chiến dịch của Thục như TQDN miêu tả thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập, nhưng Tam Quốc chí không ghi chép gì. Thật ra, Tam Quốc chí không ghi chép gì về lần xuất quân này (vì thế ghi chỉ có 5 lần Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn) và cũng không ghi tên Cẩu An trong bất kỳ chuyện gì khác.
Gia Cát Lượng mưu đốt ba cha con Tư Mã Ý (Hồi 102)
TQDN: Gia Cát Lượng tìm thấy hang Thượng Phương (cũng được gọi là hang Hồ Lô) trông như hình quả bầu, giữa phình rộng ra, có thể chứa hàng nghìn người, được một quãng, núi đôi bên thắt lại, rồi lại phình ra một hang, chứa được bốn năm người. Mé sau, núi bọc xung quanh, có một con đường ở giữa, chỉ một người một ngựa đi vừa. Lượng lại sai Mã Đại lập một trại ở trong hang Hồ Lô. Trong trại đào hố sâu, chứa cỏ khô và đồ dẫn hỏa thật nhiều. Xung quanh núi, làm nhiều những phòng chứa cỏ, trong ngoài đặt địa lôi phục. Rồi dặn Mã Đại chặn lấp cửa đường sau hang Thượng Phương cho kỹ, phục quân sẵn trong hang, nếu Tư Mã Ý đuổi vào cửa hang thì phóng hỏa mà đốt cỏ và địa lôi. Gia Cát Lượng làm cho Tư Mã Ý tưởng rằng hang Thượng Phương là nơi quân Thục chứa lương, rồi sai Ngụy Diên khiêu chiến để dụ Ý vào hang.
Tư Mã Ý dẫn hai con và cánh trung quân kéo đến hang Thượng Phương, gặp Ngụy Diên. Tư Mã Ý xông thẳng vào đánh, chưa được vài hiệp Diên quay ngựa chạy. Ý theo sau đuổi đánh. Diên cứ trông về phía có ngọn cờ thất tinh mà chạy. Ý thấy Ngụy Diên có mỗi một mình; quân mã lại ít, cứ vững dạ đuổi tràn, sai Tư Mã Sư ở mặt tả, Tư Mã Chiêu ở mặt hữu. Ý đi giữa, kéo quân đuổi riết. Ngụy Diên dẫn năm trăm quân lùi cả vào hang. Ý đuổi đến cửa hang, sai người vào do thám trước. Người đi thám về báo trong hang không có quân phục gì cả, chỉ thấy trên núi dựng lều cỏ.
Ý nói: “Đây hẳn là nơi chứa lương.” Liền thúc quân mã vào cả trong hang. Vừa đến nơi, thấy trong các lều cỏ toàn chứa củi khô, mà Ngụy Diên thì không thấy đâu nữa. Ý đâm nghi, bảo hai con rằng: “Ta vào đây, phỏng có quân giặc lấp mất cửa hang thì làm thế nào?” Nói chưa dứt lời, đã thấy tiếng reo nổi lên, lửa đâu ở trên núi ném xuống, đốt chặn ngang cửa hang trước, rồi tên lửa bắn ra, địa lôi phục bật nổ lên, củi khô ở trong các lều cỏ cháy đùng đùng, chỗ nào cũng nổ đôm đốp, ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt. Tư Mã Ý hồn bay phách lạc, chân tay luống cuống, nhảy xuống ngựa, ôm lấy hai con, khóc ầm lên rằng: “Ba cha con ta chết cả ở chỗ này mất rồi!”
Bỗng dưng trời nổi cơn giông to, mây đen kéo ngất trời, một tiếng sét nổ dữ dội, rồi đổ mưa xuống như trút nước. Lửa đang cháy tắt sạch, địa lôi phục câm tịt, những đồ dẫn hỏa cũng vô dụng.
Tư Mã Ý mừng rằng: “Không nhân lúc này mà đánh ra, còn đợi đến bao giờ nữa?” Lập tức dẫn quân hăng sức phá toang ra.
Khổng Minh ở trên núi than rằng: “Mưu việc tại người, thành việc tại trời, không sao cưỡng được!”
Đời sau có thơ cảm thán.
Chính sử: Tam Quốc chí không ghi chép gì về hang Thượng Phương hoặc hang Hồ Lô, và cũng không ghi sự kiện tương tự nào xảy ra với ba cha con Tư Mã Ý.
Lê Anh Chí phân tích một số điểm vô lý trong câu chuyện này:
- Tư Mã Ý vốn là vị tướng tài ba lại không biết gì về địa hình địa thế vùng Kỳ Sơn kể cả kích thước hang Thượng Phương nằm trong lãnh thổ nước Ngụy.
- Người vào do thám trước không nghĩ ra hiểm họa ở củi khô trong các lều cỏ, hoặc có báo cáo về việc này như Tư Mã Ý cũng không nghĩ ra.
- Là bậc kỳ tài trong thiên hạ, thế mà Ý cứ dẫn hai con chạy vào hang một cách khinh suất. Nếu muốn vào thì một người vào, còn hai người ở bên ngoài bảo vệ cửa hang. Cũng cần phòng trường hợp tất cả đi vào rồi đi ra gặp quân Thục đổ vây bên ngoài, chạy chen chúc ra khỏi cửa hang bị loạn tên thì chết chắc!
- Tư Mã Ý là quan văn lại giáp chiến với Ngụy Diên là võ tướng giỏi. Trong khi đó, hai con của Ý là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu đều làm tướng quân nhưng không tiếp chiến Ngụy Diên.
- Địa lôi đã nổ, hang đã thảnh biển lửa mà ba cha con Tư Mã Ý không chết.
Gia Cát Lượng sáu lần ra Kỳ Sơn (Hồi 91-103)
Đây là điển tích nổi tiếng “Lục xuất Kỳ Sơn”.
Có một số tài liệu cho rằng Lượng không ra Kỳ Sơn đủ sáu lần, nhưng không ghi rõ thực sự Lượng xuất chinh những lần nào, cũng không ghi nguồn thông tin hoặc không giải thích chính sử sai như thế nào.
Chính sử: Ngoài vài tình tiết khác biệt, Tam Quốc chí ghi năm lần Gia Cát Lượng xuất Kỳ Sơn, không có chi tiết gì về việc Lượng ra Kỳ Sơn lần thứ tư trong TQDN. Trang Wikipedia và Trần Văn Đức cũng ghi năm chiến dịch Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn tương ứng với chính sử. Xem bảng đối chiếu dưới đây. Năm Dương Lịch có thể sai lệch một năm giữa các nguồn tư liệu.
Tượng gỗ Gia Cát Lượng hù dọa Tư Mã Ý (Hồi 104)
TQDN: Tư Mã Ý dẫn quân đuổi theo mãi đến chân núi, trông thấy quân Thục đi chưa xa mấy, liền giục quân đuổi riết. Bỗng nhiên ở sau núi, một tiếng pháo nổ vang, rồi thấy quân Thục quay cả cờ lại, trống đánh om sòm. Trong bóng cây có một lá cờ to bay phấp phới, đề một hàng chữ lớn: “Hán thừa tướng Võ hương hầu Gia Cát Lượng”. Ý giật mình, đã hơi xanh mắt. Nhìn kỹ thấy vài mươi viên thượng tướng xúm xít quanh cái xe bốn bánh, trên xe Khổng Minh ngồi chĩnh chện, khăn lượt quạt lông, giầy thâm, áo hạc.
Ý giật mình, nói: “Khổng Minh còn sống, ta khinh thường vào nơi trọng địa, mắc phải mẹo mất rồi!” Vội vàng quay ngựa chạy.
Khương Duy gọi to lên rằng: “Tướng giặc chớ chạy nữa, mày mắc phải mẹo thừa tướng ta rồi!”
Quân Ngụy hồn bay phách lạc, bỏ giáp, quẳng chỏm mũ, vất khí giới, ù té chạy cả, giày xéo lẫn nhau, chết hại rất nhiều. Tư Mã Ý cắm cổ chạy hơn năm chục dặm đường đất. Bỗng có hai tướng sấn lên cầm lấy cương ngựa, gọi rằng: “Đô đốc đừng sợ, quân Thục đi xa rồi!”
Ý thở dốc một hồi, mới hơi hoàn hồn, giương mắt trông xem ai té ra Hạ Hầu Bá, Hạ Hầu Huệ. Bấy giờ Bá mới buông lỏng cương ngựa, tìm đường nhỏ chạy về trại nhà, cho các tướng dẫn quân tản ra bốn phía nghe ngóng.
Cách hai hôm sau, dân quê đến bẩm rằng: “Khi quân Thục rút về trong hang, tiếng khóc vang động trời đất. Trong quân kéo toàn cờ trắng, Khổng Minh quả thực chết rồi. Chỉ có Khương Duy dẫn một nghìn quân đi sau. Hôm trước Khổng Minh ngồi trên xe, đó là người gỗ đấy.”
Chính sử: Tư Mã Ý đuổi theo, Khương Duy đón đánh, Ý quay về.
Hán Tấn Xuân Thu ghi:
Bọn Dương Nghi chỉnh đốn quân sĩ rút về, dân địa phương cấp báo Tư Mã Ý. Ý đuổi theo, Khương Duy vâng lệnh Nghi quay cờ gióng trống, nhằm hướng Ý đón đánh. Tuyên Vương bèn lui binh, không dám bức bách. Bọn Nghi lại nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, về đến cốc mới cho phát tang. Nhân chuyện Ý sợ phải lui binh, trăm họ vì chuyện ấy có câu ngạn ngữ rằng: “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt” [Gia Cát chết đuổi được Trọng Đạt sống]”. Khi nghe người mách chuyện ấy, Ý bảo: “Ta chỉ có thể liệu được việc sống, chẳng liệu được việc chết!”
Theo Trần Văn Đức,
Thật ra có nhiều chỗ khuếch đại tô vẽ. Lịch sử chép rằng phụ trách chỉ huy rút quân là Dương Nghi. Sau khi quân Thục Hán rời khỏi gò Ngũ Trượng tiến vào đường Bao Tà, dân ở đây báo cáo với Tư Mã Ý. Ông này dẫn quân đến xem xét, Khương Duy đề nghị Dương Nghi vẫy cờ gióng trống, đánh lại quân Tư Mã Ý đuổi theo. Tư Mã Ý thấy thế, lập tức thu quân rút về doanh trại, không dám tiếp cận.
Nói rằng nhìn thấy tượng gỗ Gia Cát Lượng làm sẵn là chuyện tô vẽ, và hoàn toàn không có khả năng Tư Mã Ý bay hồn lạc vía. Bởi Tư Mã Ý vốn bình tĩnh, không thể không phân biệt được người thật và tượng gỗ, mà Gia Cát Lượng vốn cẩn thận, cũng không đến nỗi bày ra một trò diễn như thế, vậy Tư Mã Ý vì sao lại vội vã rút quân nhỉ?
Chúng tôi nghĩ rằng, thời kỳ cuối đối trận ở gò Ngũ Trượng, Gia Cát Lượng cố ý hóa trang với khăn vàng, quạt lông và xe gỗ màu trắng, xuất hiện ở trước mặt các tướng sĩ của Tư Mã Ý ở tiền tuyến, hiển nhiên ngoài việc chọc giận kẻ địch, còn có mục đích khác. Chúng ta đều biết Vũ Điền Tín Huyền dùng “người giả làm Vũ Điền”, Napoléon cũng dùng “người đóng thay mình”. Kẻ địch thấy phục sức đặc thù như vậy, lại thêm người giả ăn mặc rất giống, khi xuất hiện ở chiến trường thì không dễ phân biệt được thật giả. Từ đấy có thể thấy Gia Cát Lượng sau khi sức khỏe xấu đi, cố ý thay đổi phục trang, có thể là có ý muốn tạo ra hình tượng như vậy.
Tư Mã Ý vẫn kiên trì sách lược phòng thủ, không muốn trực diện giao chiến với Gia Cát Lượng, nhìn thấy người giả ngồi trên xe gỗ với khăn quấn quạt lông, trong phút chốc chưa quan sát kỹ, có thể đã phán đoán nhầm tưởng là bị mắc phải mưu kế Gia Cát Lượng dẫn dụ đuổi theo, bởi thế mà đã vội vã rút quân về.
Gia Cát Lượng sắp đặt cái chết của Ngụy Diên (Hồi 105)
TQDN: Dương Nghi nghe báo có quân chặn đường, sai người ra dò xem, té ra Ngụy Diên đốt mất đường sàn, dẫn quân chặn lối. Khương Duy trông nom linh cữu kéo quân đi sau, rút về Hán Trung. Nghi sai tiên phong là Hà Bình dẫn quân đi lẻn con đường nhỏ núi Sà Sơn khiêu chiến. Ngụy Diên nổi giận, mặc giáp lên ngựa, cầm đao dẫn quân ra đánh.
Hà Bình cầm roi trỏ sang bảo quân Thục rằng: “Quân sĩ chúng mày, toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ, vợ con, anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay chớ nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê hương, chờ đợi ơn trên ban thưởng.”
Quân sĩ nghe xong, reo ầm lên một tiếng, tản đi quá nửa.
Diên giận lắm, múa đao thúc ngựa vào đánh Hà Bình. Được vài hiệp, Bình giả thua chạy. Diên đuổi theo. Quân sĩ bắn tên ra như mưa, Diên phải quay ngựa trở về, thấy quân mình tan nát đi cả. Chỉ có ba trăm quân của Mã Đại, cứ đứng sừng sững, không hề nhúc nhích.
Mã Đại nói Diên trí dũng đủ cả, người trong hai Xuyên không ai địch nổi, nên lấy Hán Trung, rồi sẽ tiến đánh Tây Xuyên. Diên mừng lắm, cùng với Đại kéo quân đi.
Khương Duy và Dương Nghi ở trong thành Nam Trịnh lấy túi gấm của Gia Cát Lượng ra xem. Rồi Duy mở cửa thành ra quát to: “Phản tặc Ngụy Diên, thừa tướng không bạc đãi mày, sao mày dám làm phản?” Diên nói với Duy cứ về bảo Dương Nghi ra đây.
Nghi ở trong cửa cờ, mở túi gấm ra xem, biết được mẹo như thế rồi, mừng lắm, bèn cưỡi ngựa ra đứng ở trước trận, trỏ sang Ngụy Diên, cười mà rằng: “Khi còn thừa tướng, biết mày về sau tất làm phản, đã sai ta phòng trước, nay quả nhiên như thế thực! Mày có dám ngồi trên ngựa kêu luôn ba tiếng: ‘Ai dám giết ta?’ thì mới kể là đại trượng phu, ta xin dâng thành Hán Trung cho mày ngay!”
Diên cười ầm lên, nói: “Đồ sất phu kia! Lặng im ta nói cho mà nghe: Khi Khổng Minh sống ta còn sợ hắn vài ba phần, nay hắn chết rồi, thiên hạ còn ai làm gì nổi ta nữa? Đừng nói kêu luôn ba tiếng, kêu luôn hẳn ba vạn tiếng, ta cũng chẳng ngại gì!” Nói đoạn, cắp đao, cầm vững cương ngồi trên ngựa, kêu lên rằng: “Ai dám giết ta?”
Diên kêu vừa dứt lời thì một người ở sau lưng Diên thét lên rằng: “Tao dám giết mày đây!”
Miệng nói, tay chém Ngụy Diên chết quay xuống ngựa. Chúng kinh hãi nhìn ra thì là Mã Đại.
Nguyên Khổng Minh trao mật kế cho Mã Đại, chỉ đợi Ngụy Diên thét lên, thì nhân lúc bất ngờ mà chém chết Diên. Khi ấy Dương Nghi xem thư trong túi gấm, đã biết rằng có Mã Đại làm tay trong, cho nên y mẹo mà làm, quả nhiên giết được Ngụy Diên.
Chính sử: Các sử liệu đều phản bác TQDN, nói rõ Diên không làm phản.
Hoang Viet Dinh (2016) biện luận như sau.
Tam Quốc chí_Thục thư_Ngụy Diên truyện ghi: “Lượng bị bệnh nặng, bí mật cùng Trưởng sử Dương Nghi, Tư mã Phí Vỹ, Hộ quân Khương Duy rằng sau khi mình chết sẽ lui quân, sai Ngụy Diên đoạn hậu, tiếp nữa là Khương Duy, nhược bằng Diên không vâng mệnh, cứ tự dẫn quân rút về”.
Người đoạn hậu phải là mãnh tướng, lại phải là người trung thành (bằng không kẻ đi cuối chỉ cần quay đầu làm phản là xong), như lần thứ nhất Bắc phạt, khi rút quân đoạn hậu là Triệu Vân. Nay sai Ngụy Diên đoạn hậu tức là tin Ngụy Diên lắm, sao lại sắp đặt hại Diên? Còn nói “nhược bằng Ngụy Diên không vâng mệnh” là vì Lượng hiểu tính Diên: kiêu ngạo chỉ sợ mỗi quân sư, khó có thể nghe sắp đặt của người khác.
Cũng tập Tam Quốc chí trên ghi: “Nghi bèn lệnh cho Hà (Vương) Bình đến trước trận đánh Diên. Bình tiến lên mắng Diên rằng: ‘Thừa tướng mới mất, thi thể còn chưa lạnh, bọn ngươi sao dám như vậy?” Binh sỹ của Diên nghe thấy biết lỗi đều ở Diên, chẳng ai theo mệnh nữa, quân sỹ đều tan đi cả”.
Đoạn này cho thấy 2 điều:
1/ Quân sĩ của Diên coi trọng Diên một thì coi trọng thừa tướng hai. Chỉ là Vương Bình đem chuyện thừa tướng mới mất ra mắng Ngụy Diên, mà quân không đánh đã tan. Điều này có thể tin được, vì nếu không với tài năng và sức khỏe của Ngụy Diên, trong quân Thục ai chống nổi, không vì quân sĩ tan vỡ, thế cô lực mỏng sao chịu bó tay chịu chết? Thế nên nếu lúc Lượng còn sống mà dùng việc công xử phạt Diên, thì lại càng không cần phải nghĩ về phản ứng của chúng tướng.
2/ Gia Cát Lượng không có ý giết Ngụy Diên. Bằng không Vương Bình chỉ cần mang mật lệnh ra tuyên đọc, có lẽ Ngụy Diên cả cơ hội bỏ chạy cũng không có, Vương Bình cũng không cần chỉ lấy lý mà mắng suông.
Cũng Tam Quốc chí_Thục thư_Ngụy Diên truyện ghi:
“Diên bị cô lập mới dẫn con cái cùng mấy kẻ tay chân đào tẩu, chạy vào Hán Trung. Nghi sai Mã Đại đuổi theo chém được, đem thủ cấp dâng cho Nghi, Nghi đạp chân lên đầu Diên mắng: “Đồ nô tài, ngươi còn làm ác được nữa chăng?”
Khi trước, Tưởng Uyển dẫn quân túc vệ đi nhanh về Bắc tới doanh quân, còn cách hơn 20 dặm, hỏi thăm thì biết Diên đã chết, bèn lui về. Nguyên ý Diên chẳng phải về Bắc hàng Ngụy mà lại chạy về Nam, chỉ những muốn giết bọn Nghi mà thôi. Bình nhật Diên cùng chư tướng vốn có bất đồng, đương thời bàn luận rằng Diên tất là người thay Lượng. Việc vốn chỉ có như thế, chẳng phải là làm phản.
Ngụy lược ghi:
Gia Cát Lượng bị bệnh, bảo bọn Diên rằng: “Sau khi ta chết, phải hết sức thận trọng, chớ có như thế nữa”. Lại sai Diên thay mình điều hành mọi việc, bí mật làm lễ tang và lui về. Diên nhân thế bèn giấu việc ấy, lui binh về đến Bao Khẩu mới phát tang. Trưởng sử Dương Nghi với Diên vốn bất hòa, thấy Diên nắm quyền quân sự, sợ bị hại, bèn nói phao lên rằng Diên muốn dẫn quân theo về phương Bắc, nhân đó dẫn quân đánh Diên. Diên vốn không có bụng dạ ấy, không đánh mà dẫn quân bỏ chạy, bị quân đuổi theo giết chết.
Như thế, không có chuyện túi gấm của Gia Cát Lượng. Tam Quốc chí chỉ ghi cái chết của Ngụy Diên là do Nghi và Diên tranh quyền (“hai người ấy thường như nước với lửa”), nói rõ Diên không phản quốc, cũng không cho rằng Lượng mật lệnh cho Nghi.
Khương Duy vây khốn Tư Mã Chiêu trên núi Thiết Lung (Hồi 109)
TQDN: Năm Diên Hy thứ mười sáu nhà Thục, Khương Duy đem quân ra ải Dương Bình đánh Ngụy.
Khương Duy gọi Liêu Hóa, Trương Dực vào dặn dò mẹo mực, sai hai người lĩnh binh đi. Một mặt sai binh sĩ thả chông ngoài đường và rào chông chà kín chung quanh trại, làm ra vẻ muốn ở lâu dài. Từ Chất mấy hôm dẫn quân ra khiêu chiến, quân Thục không ra.
Có tiểu mã báo với Tư Mã Chiêu (con Tư Mã Ý, em trai Tư Mã Sư) rằng: quân Thục tải vận lương thảo ở sau núi Thiết Lung. Chiêu bảo Từ Chất dẫn quân ra chặn đường ấy.”
Đầu canh một, Từ Chất dẫn quân ra núi Thiết Lung. Quân Thục bỏ cả lương thảo mà chạy. Chất chia một nửa quân mang lương thảo về trại, còn một nửa quân đuổi theo. Đuổi được mười dặm, bỗng thấy xa trượng ngổn ngang chặn mất lối đi. Chất sai quân dọn đường, bỗng thấy lửa bốc lên ngùn ngụt. Chất vội quay ngựa trở về, gặp hai tướng Thục là Liêu Hóa và Trương Dực, quân Ngụy thua chạy tan hoang. Từ Chất còn độc một mình cắm đầu chạy miết, lại gặp Khương Duy, bị đâm ngã ngựa, quân Thục kéo lại, băm Chất nhỏ ra như cám. Một nửa quân vận luơng cũng bị Hạ Hầu Bá bắt được cả. Bá lấy áo giáp và ngựa của quân Ngụy, cho quân Thục mặc vào, cưỡi ngựa cầm cờ hiệu nước Ngụy, đi vào trại Ngụy. Quân Ngụy thấy quân nhà trở về, mở cửa chạy cho vào. Quân Thục vào đến trại, vùng lên đánh giết.
Tư Mã Chiêu vội vàng lên ngựa chạy thì thấy Liêu Hóa kéo đến. Chiêu chạy lùi lại, gặp ngay Khương Duy. Chiêu trông ra bốn phía không còn đường nào, phải dắt quân lên đóng trên núi Thiết Lung. Núi ấy bốn bề hiểm trở cao ngất, chỉ có một đường trèo lên. Trên núi có một ngọn suối, chỉ đủ nước cho trăm người uống. Bấy giờ quân của Chiêu có tất cả sáu nghìn người bị Khương Duy chặn mất cửa núi không xuống được. Nước suối trên núi không đủ dùng, người ngựa khô khát, Chiêu ngẩng cổ lên trời than rằng: “Ta chết ở đây mất thôi!” Chiêu lên trên đỉnh núi khấn, nước bỗng tuôn ra tràn suối.
Chính sử: Nếu thật sự có trận đánh oai hùng và đầy mưu mẹo khôn ngoan của tướng Thục như TQDN miêu tả thì đáng lẽ chính sử hẳn cũng phải đề cập, nhưng Tam Quốc chí không ghi chép gì về Thiết Lung.
Tam Quốc chí_Thục thư_Khương Duy truyện ghi:
Mùa hè năm Diên Hi thứ 16 [năm 254], Khương Duy dẫn quân tiến ra Thạch Doanh (Thao), theo lối Đổng Đình, tiến đến Nam An. Ngụy Thứ sử Ung Châu là Trần Thái đoán biết nên đóng quân giữ vững Lạc Môn. Duy hết lương, phải lui về.
Khương Duy giết Quách Hoài (Hồi 109)
TQDN: Cũng trong lần xuất chinh của Khương Duy năm Diên Hy thứ mười sáu nhà Thục, Quách Hoài, Trần Thái dẫn quân đến cướp trại Khương Duy, bắt sống vua Khương là Mễ Đương lúc ấy đang cộng tác với Khương Duy. Hoài dỗ Đương đánh giải vây ở núi Thiết Lung, sẽ tâu với thiên tử hậu thưởng cho ông.
Mễ Đương theo lời, dẫn quân Khương đi trước, quân Ngụy đi sau, kéo đến núi Thiết Lung. Bấy giờ vào canh ba, Mễ Đương cho người vào báo với Khương Duy trước. Duy mừng lắm, cho mời vua Khương vào. Khi gần đến trước trại Thục, Đương dẫn hơn trăm người vào trướng ra mắt Khương Duy. Duy và Hạ Hầu Bá cùng ra đón. Tướng Ngụy không đợi cho Mễ Đương mở miệng chào hỏi, nổi ngay lên đánh giết. Khương Duy thất kinh, kíp nhảy lên ngựa chạy trốn. Quân Ngụy tràn vào, quân Thục vỡ lở tan tác, tìm đường tháo thân.
Duy chạy lẻn vào trong đường núi. Quách Hoài dẫn quân đuổi theo, bị Duy bắn một phát tên ngay vào trán. Máu chảy mãi không cầm, Hoài chết.
Duy thiệt quân mã rất nhiều, nhặt nhạnh tàn quân, trở về Hán Trung. Chuyến này Khương Duy tuy bại trận, nhưng bắn chết được Quách Hoài, giết được Từ Chất, làm kinh động cả nước Ngụy, công tội đủ bù cho nhau.
Chính sử: Nếu thật sự có chiến công “kinh động” Khương Duy giết cả Quách Hoài thì đáng lẽ phải được ghi trong sử liệu, nhưng sử chỉ ghi Khương Duy giết Từ Chất.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi:
Năm Diên Hi thứ 17 [năm 255], Khương Duy lại tiến quân ra Lũng Tây. Tướng giữ Địch Đạo là Lý Giản dâng thành đầu hàng. Duy tiến quân vây Tương Vũ, chém được Từ Chất. Duy thừa thắng vây hãm Hà Gian, Địch Đạo, Lâm Thao, đem dân chúng ba huyện ấy về Thục.
Không có ghi chép gì về Thiết Lung và việc chém Quách Hoài.
Tam Quốc chí_Ngụy thư _Quách Hoài truyện ghi Quách Hoài chết năm Chính Nguyên thứ hai [năm 255] và không đề cập đến nguyên nhân cái chết.
Nhận xét: Sau khi thổi phồng uy vũ của các tướng Quan Vũ, Triệu Vân, Trương Phi, đến giai đoạn này ba tướng kia đã chết, La Quán Trung quay sang thổi phồng Khương Duy.
Một số nghi vấn
Có một số nghi vấn mà các tác giả nêu ra nhưng không trình bày biện luận hoặc không ghi nguồn, người tổng hợp vẫn ghi ra đây để rộng đường dư luận.
Bộ hạ Đào Khiêm giết cả nhà Tào Tung, cướp sạch của cải (Hồi 10)
TQDN: Tào Tung (cha của Tào Tháo) cùng em là Tào Đức và người nhà hơn bốn mươi người, lại đem hơn một trăm đầy tớ, ngồi mấy trăm cỗ xe, kéo nhau về Duyện Châu. Lúc đi qua Từ Châu, quan thái thú ở đấy là Đào Khiêm, người ôn hậu hòa nhã, vốn xưa nay vẫn muốn làm quen với Tào Tháo, nay thấy bố Tào Tháo đi qua địa hạt mình bèn thân hành ra đón chào lạy cung kính, mở tiệc khoản đãi mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm thân đưa ra khỏi thành, rồi lại sai đô úy là Trương Khải đem năm trăm bộ binh đi hộ tống.
Khi Tung và người nhà đi đến địa giới đất Hoa và Phí, bấy giờ vào cuối hạ sang thu, bỗng gặp cơn mưa to, phải vào nghỉ nhờ một ngôi chùa. Sư tăng trong chùa ra tiếp. Tung thu xếp cho người nhà nơi ăn chỗ nghỉ, rồi sai Trương Khải đem quân mã đóng hai bên hành lang chùa.
Bị mưa ướt cả quần áo và hành trang, quân sĩ đều kêu ca oán thán. Trương Khải mới gọi những đầu mục thủ hạ đến một chỗ vắng và bảo rằng: “Chúng ta vốn là dư đảng Khăn Vàng, bất đắc dĩ phải đầu hàng Đào Khiêm. Từ ấy đến giờ chưa thấy được lợi lộc gì. Nay của cải nhà họ Tào chất đầy bao nhiêu xe cộ, các anh em muốn phú quý, cũng chẳng khó gì. Canh ba đêm hôm nay, chúng ta bổ cửa chùa vào giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, rồi ta lại cùng nhau về rừng làm nghề lạc thảo, kế ấy anh em nghĩ thế nào?
Quân sĩ đều cùng thuận cả. Đêm hôm ấy mưa gió chưa dứt. Tung đương ngồi bỗng nghe bên ngoài bốn mặt có tiếng hò reo rầm rĩ. Tào Đức cầm gươm ra xem việc gì, bị đâm chết ngay. Tung vội vàng dắt một người thiếp chạy vào buồng phương trượng, định nhảy qua tường đi trốn, chẳng may người thiếp to béo không ra lọt. Tung vội vàng cùng người thiếp ẩn vào trong chuồng tiêu, rồi cả hai đều bị loạn quân giết mất.
Nghi vấn: Đào Khiêm trên thực tế chủ mưu sắp đặt để giết Tào Tung (cha Tào Tháo) mà cướp của.
Chính sử: Sử liệu xác nhận Tào Tháo mang quân đánh Đào Khiêm, giết hàng vạn người vô tội, và không thấy có chứng cứ gì biện minh cho việc này. Sử liệu thiếu nhất quán ở hai điểm khác: (1) hoặc khen hoặc chê nhân cách của Đào Khiêm; và (2) có nguồn cho rằng Đào Khiêm chủ mưu trong khi nguồn khác ghi Trương Khải là kẻ gây tội ác. Vì thế, vụ việc vẫn còn là nghi vấn.
Về nhân cách của Đào Khiêm, Ngô thư khen ngợi: “Tính Khiêm thẳng thắn, có tiết tháo cao đẹp…”
Nhưng Tam Quốc chí_Ngụy Thư_Đào Khiêm có ý phê phán: “Khiêm làm trái đạo dùng người; Quảng Lăng Thái thú Triệu Dục người quận Lang Nha là danh sĩ của Từ Châu, vì thẳng thắn mà bị đuổi.”
Hậu Hán thư của Tạ Thừa giải thích việc này như sau: Triệu Dục là người ngay thẳng, giữ lễ mà lập thân, cung kính trong sạch, thường được mời gọi ra làm quan nhưng đều từ chối, hoặc nhận rồi nhưng trả chức về nhà. Đào Khiêm bắt đầu gọi Dục làm Biệt giá Tòng sự, Dục xưng bệnh trốn tránh. Khiêm nhiều lần sai người đến gọi, Dục vẫn không đổi ý. Khi Khiêm mốn dùng hình phạt để ra oai, Dục mới đến, được cử làm Quảng Lăng Thái thú. Bọn giặc Trách Dung chạy vào đất quận, Dục đem quân đánh, thua vỡ bị giết.
“Bọn Tào Hoành là kẻ tiểu nhân gian ác mà Khiêm lại tin dùng. Hình pháp không yên, nhiều người hiền lương bị hại, do đó dần loạn. Người huyện Hạ Bì là Khuyết Nghi tự xưng Thiên tử, lúc đầu Khiêm cùng chúng liên hợp cướp bóc, sau bèn giết Nghi, thu lấy quân của hắn.”
Đào Khiêm là chủ mưu?
Tam Quốc chí_Ngụy Thư_Tào Tháo và Thế Ngữ cho rằng Tào Tung bị Đào Khiêm hại.
Tôn Thịnh có phần quy trách nhiệm cho Đào Khiêm khi viết về hành động trả thù của Tào Tháo: “Phạt kẻ có tội nhưng phải thương dân, đó là lối người xưa; tội ấy là nơi Khiêm mà tàn sát đến bộ thuộc thì thật là quá đáng.”
Dịch Trung Thiên ghi “Tào Tháo thân dẫn đại quân xông thẳng đến Từ Châu để trả thù cho cha là Tào Tung em là Tào Đức bị Trương Khải là bộ tướng của Từ châu mục Đào Khiêm cướp bóc và giết chết. … Dù tội ác của Đào Khiêm là quá lớn, nhưng nhiều nhất cũng chỉ nên giết Đào Khiêm hoặc một số người, liên quan gì đến trăm họ?” Nếu bản dịch là đúng, có phần thiếu nhất quán khi viết Trương Khải hành động nhưng phê phán tội ác của Đào Khiêm.
My Phu nhân là vợ Lưu Bị (Hồi 15, 22, 25, 28, 41)
Nghi vấn: Nhân vật được ghi là My Phu nhân không phải là vợ Lưu Bị.
Chính sử: Tam Quốc chí_Thục thư_My Trúc truyện ghi vắn tắt: “Trúc dâng em gái cho Tiên Chủ [Lưu Bị] thu làm vợ”. Trong khi La Quán Trung đặt My phu nhân có địa vị đứng trên Cam phu nhân, điều lạ lùng là Tam Quốc chí không ghi chép thêm chi tiết về My phu nhân kể cả tên.
Hán Hiến đế nhận Lưu Bị là hoàng thúc (Hồi 20)
Nghi vấn: Hán Hiến đế không hề nhận Lưu Bị là hoàng thúc.
Chính sử: Tam Quốc chí ghi Lưu Bị là dòng dõi Trung sơn Tĩnh vương Thắng là con của Hán Cảnh Đế; con Thắng là Trinh, được phong làm Lục Thành Đình hầu. Tuy nhiên, việc Hán Hiến đế nhận Lưu Bị là hoàng thúc là sự kiện cực kỳ quan trọng nhưng Tam Quốc chí lại không ghi chép.
Vì thế, có hai ý kiến nghi ngờ thân phận của Lưu Bị:
1/ Nhà Hán của Chiêu Liệt Đế [Lưu Bị], tuy nói là con cháu của Trung Sơn Tĩnh Vương, nhưng quan hệ quá xa, không thể ghi rõ thân thế danh vị. [Tư trị thông giám của Tư Mã Quang]
2/ Tuy thân phận hoàng thúc đó không phải là giả mạo, nhưng hàm lượng vàng trong đó không cao, khác gì “miếng thịt thấm nước”. [Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên]
Lưu Bị dẫn Tôn Phu nhân trốn về, quân Ngô đuổi theo (Hồi 55)
Nghi vấn: Quân Ngô không hề đuổi theo.
Chính sử: Người tổng hợp bài này không tìm được sử liệu ghi việc Lưu Bị trốn về Thục.
Tôn Quyền bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn (Hồi 66)
Nghi vấn: Tôn Quyền không hề bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn.
Chính sử: Tam Quốc chí_Ngô thư ghi rằng sau khi Lưu Bị đã có được Ích Châu, Tôn Quyền phái Gia Cát Cẩn đi xin lại các quận của Kinh Châu, nhưng không ghi chép gì về việc Tôn Quyền bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn. Bởi vì đây là chi tiết nhỏ nhặt, việc chính sử không ghi chép không có nghĩa là không có. Vì thế, đây vẫn là nghi vấn.
Tôn Phu nhân tự tử (Hồi 84)
Nghi vấn: Khi Lưu Bị thua trận, Tôn phu nhân không đâm đầu xuống sông tự tử.
Chính sử: Người tổng hợp bài này không tìm được sử liệu về cái chết của Tôn Phu nhân.
Mã Tốc bị xử tử hình (Hồi 91)
Nghi vấn: Sau trận Nhai Đình, Mã Tốc (Tắc) bị kết tội chết, nhưng không bị xử tử hình mà chết trong ngục do bệnh.
Chính sử: Người tổng hợp bài này không tìm được sử liệu cho rằng Mã Tốc chết trong ngục.
Tam Quốc chí_Thục thư_Vương Bình truyện ghi rõ ràng: “Gia Cát Lượng giết Mã Tắc”.
Gia Cát Lượng tăng bếp lừa Tư Mã Ý (Hồi 100)
TQDN: Đây là lần thứ tư Gia Cát Lượng xuất Kỳ Sơn. Hậu Chủ giáng chiếu đòi Gia Cát Lượng về triều. Lượng nói với Khương Duy mỗi ngày đắp thêm nhiều bếp. Dương Nghi hỏi: “Ngày xưa Tôn Tẫn bắt Bàng Quyên, dùng mẹo giảm bếp. Nay thừa tướng thêm bếp là lý làm sao?” Gia Cát Lượng nói: “Tư Mã Ý giỏi việc dùng binh, biết quân ta lui tất nhiên đuổi theo. Nhưng trong bụng còn ngờ ta có quân mai phục, tất vào trại ta đếm bếp. Hắn thấy mỗi ngày thêm mãi bếp ra, thì không biết lui hay là không lui, tất sinh nghi mà không dám đuổi theo nữa. Ta cứ từ từ đi về, không đến nỗi tổn hại binh sĩ.”
Tư Mã Ý được tin báo trại Thục bỏ không, quân mã rút về cả rồi. Ý còn ngại Gia Cát Lượng lắm mưu, chưa dám khinh tiến, tự dẫn hơn trăm kỵ binh đến trại Thục xem xét rồi sai quân sĩ đếm bếp, đoạn trở về trại mình. Hôm sau, Ý lại sai quân sĩ đến một trại nữa, tra điểm xem có bao nhiêu bếp. Quân sĩ về báo rằng bếp ở trại này hơn trại trước một nửa nữa.
Tư Mã Ý bảo các tướng: “Ta tin chắc Khổng Minh lắm mẹo, nay quả nhiên thêm quân, cho nên bắc thêm bếp. Nếu ta đuổi theo, thì mắc phải mẹo của hắn. Không bằng ta hãy trở về, sẽ liệu kế khác.” Bởi thế Ý dẫn quân về, không đuổi theo nữa. Khổng Minh đem được toàn quân về Thành Đô, không thiệt một người nào.
Cách vài hôm sau, dân địa phương báo với Tư Mã Ý rằng khi Khổng Minh rút quân về, chỉ thấy làm thêm bếp, chứ không thấy thêm quân gì cả. Tư Mã Ý ngẩng mặt lên trời than: “Khổng Minh bắt chước mẹo Ngu Hủ, lừa được ta rồi. Mưu lược ấy, ta thực chịu không bằng.”
Nghi vấn: Trang Wikipedia cho rằng việc Gia Cát Lượng tăng bếp là sự kiện hư cấu.
Chính sử: Đây là mẹo của Ngu Hủ lừa quân Khương trước đó 70 năm. Tam Quốc chí không ghi chép gì về việc tăng bếp, nhưng không có nghĩa là không có thật. Cũng không thấy biện luận gì của sử gia chứng tỏ đây là hư cấu. Biết đâu thật sự Gia Cát Lượng bắt chước Ngu Hủ mà cuối cùng Tư Mã Ý cũng nhận ra?
Cha con Gia Cát Chiêm tử trận (Hồi 117)
Nghi vấn: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung viết con và cháu ông là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thật là cha con Gia Cát Chiêm đầu hàng Đặng Ngải.
Chính sử: Người tổng hợp bài này không tìm được sử liệu cho rằng cha con Gia Cát Chiêm đầu hàng. Ngược lại, có sử liệu ghi Đặng Ngải chém Gia Cát Chiêm.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi: “Đặng Ngải từ Âm Bình theo đường nhỏ Cảnh Cốc tiến vào, đánh tan được quân của Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc.” Không có ghi chép gì về Gia Cát Thượng.
Tam Quốc chí_Ngụy thư ghi: “Ngải đến được Miên Trúc, đại chiến ở đấy, chém được Gia Cát Chiêm.” Không có ghi chép gì về Gia Cát Thượng.
Tổng hợp về các nhân vật
Lưu Bị
Sự thật lịch sử liên quan đến tài năng và tư cách của Lưu Bị là như sau:
- Đánh Đốc bưu 200 roi, không phải Trương Phi đánh;
- Chỉ huy trận Gò Bác Vọng trước khi gặp Gia Cát Lượng, không phải Gia Cát Lượng bày kế;
- Giết Dương Phụng, Hàn Tiêm, không phải Quan Vũ và Trương Phi giết;
- Giết Xa Trụ, không phải Quan Vũ giết;
- Chém Sái Dương, không phải Quan Vũ chém; và
- Tự chỉ huy chiếm Lạc Thành bắt Trương Nhiệm, không phải Gia Cát Lượng giúp.
Vì có xu hướng xem nhà Thục là chính thống nên La Quán Trung xây dựng con người Lưu Bị nhân hậu, chín chắn đúng mực quân vương, còn hành động xốc nổi và việc chiến đấu để cho tướng võ biền phụ trách. Vì thế mà việc đánh Đốc bưu được chuyển qua cho Trương Phi, việc đốt Gò Bác Vọng trong cách đánh du kích hóa thành mưu mẹo chi li của Gia Cát Lượng, việc chém Sái Dương được giao cho Quan Vũ, v.v… Nhưng từ chủ yếu này lại có phản ứng ngược: độc giả thấy Lưu Bị hóa ra mềm yếu (hay khóc!), yếu kém về quân sự, thiếu mưu trí lại thêm nhu nhược, chỉ nhờ Gia Cát Lượng lắm mưu mẹo và các tướng vũ dũng mà dựng nên sự nghiệp. Trên thực tế, chính sử cho thấy Lưu Bị từng nhiều lần đích thân cầm quân giành được chiến thắng và cũng dùng đến võ nghệ khi cần, ứng phó linh hoạt, nhất là khả năng nhìn thấu nội tâm, thu phục nhân tài và khiến họ một lòng trung thành với mình.
Tam Quốc chí bình luận về Lưu Bị như sau:
Lưu Bị là người cương nghị, khoan hòa, nhân hậu, hiểu lòng người, kính kẻ sĩ, có phong độ của Hán Cao Tổ, có khí chất của bậc anh hùng. Cơ mưu quyền biến và tài cán thao lược chẳng theo kịp Tào Tháo, bởi thế cơ nghiệp gây dựng được cũng hạn hẹp. Nhưng vấp ngã mà chẳng sờn lòng, sau cùng chẳng chịu ở dưới người, có lẽ là suy đoán rằng sự độ lượng của Tháo ắt hẳn chẳng dung được mình, nên chẳng những tranh cái lợi, mà còn tránh họa cho mình vậy.
Quan Vũ
Sự thật lịch sử liên quan đến tài năng quân sự và đức độ của Quan Vũ là như sau:
- Không sử dụng Thanh long Yển nguyệt đao nặng gần 50 kg.
- Không giết tướng Khăn Vàng Trình Viễn Chí; đó là nhân vật hư cấu.
- Không giết Hoa Hùng, Văn Sú.
- Không phò nhị tẩu và đốt đuốc canh bên ngoài suốt đêm khi về hàng Tào Tháo.
- Không qua 5 ải chém 6 tướng; tên các tướng này không có thật.
- Không giết Sái Dương khi gặp lại Trương Phi; Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ.
- Không thu phục Hoàng Trung bởi vì không hề giao chiến với lão tướng này, trong khi thật ra Vũ phải chịu ơn Trung vì Trung khuyên Hàn Huyền ra hàng.
- Không đánh chiếm Tương Dương sau Trận Xích Bích; thời Tam Quốc, Ngụy không hề mất Tương Dương lần nào.
- Để mất ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương vào tay Lữ Mông mà không thấy chi tiết Vũ đã chiến đấu như thế nào.
- Không “đơn đao phó hội” với Lỗ Túc; ngược lại Lỗ Túc đến gặp Quan Vũ.
- Không đánh chiếm Tương Dương lần thứ hai trong chiến dịch Tương Dương–Phàn Thành; thời Tam Quốc, Ngụy không hề mất Tương Dương lần nào.
- Không tháo nước gây lũ dìm quân Vu Cấm ở Trận Phàn Thành; chỉ may mắn lợi dụng thiên tai.
- Không hiên ngang cự tuyệt đầu hàng ở Mạch Thành; trái lại giả hàng rồi chạy trốn.
- Chết trên chiến trường chứ không phải bị bắt rồi mắng Tôn Quyền khi Quyền dụ hàng.
- Không hiển linh mắng và giết Lã Mông; ông này chết do bệnh.
- Không hiển linh giúp Quan Hưng giết Phan Chương; Quan Hưng là quan văn còn Phan Chương về sau mới qua đời.
- Không hiển linh cứu nguy Quan Hưng trên chiến trường; Quan Hưng là quan văn.
Về tư cách của Quan Vũ, có hai câu chuyện:
1/ Theo Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện, sau khi Lưu Bị đã bình định được Ích Châu (năm 214), Quan Vũ chất vấn về Mã Siêu: “Vũ nghe tin Mã Siêu mới theo hàng, chẳng phải người cũ thế mà nắm tước vị cao. Vũ gửi thư cho Gia Cát Lượng, hỏi Siêu là nhân tài thế nào mà được đứng vào hạng ấy.” La Quán Trung tường thuật chuyện này ở Hồi 65.
2/ Theo Tam Quốc chí_Thục thư_Phí Thi truyện sau khi Lưu Bị đã xưng làm Hán Trung Vương (năm 219), Quan Vũ chất vấn về Hoàng Trung: “Vũ nghe tin Hoàng Trung được thăng làm Hậu tướng quân, bèn nổi giận nói: ‘Bậc đại trượng phu sao có thể cùng đứng ngang hàng với tên lính già!’ Rồi nhất quyết không nhận thụ phong.” La Quán Trung tường thuật chuyện này ở Hồi 73.
La Quán Trung muốn nêu bật nét hào hùng của Quan Vũ, nên thuật hai câu chuyện hư cấu Vũ chất vấn ngang ngược về Mã Siêu và Hoàng Trung, chống lại ý của cấp trên là Lưu Bị. Cả hai câu chuyện gây phản ứng ngược: có ý kiến cho rằng khi chất vấn như thế, Quan Vũ vẫn mang tính háo thắng, vô trách nhiệm và vô kỷ luật (TQDN hư cấu chi tiết Vũ đòi rời Kinh Châu vào Ích Châu đánh với Mã Siêu), lại ấu trĩ đến nỗi được khen bộ râu đẹp cũng đủ đắc ý mà quên chuyện so đo tài năng với Mã Siêu.
Về đức độ của Quan Vũ, Hoa dương quốc chí , Ngụy thị Xuân Thu và Tam Quốc chí_Thục thư_Quan Vũ truyện trích Thục ký ghi câu chuyện sau:
Tào Tháo cùng với Lưu Bị vây Lã Bố ở Hạ Bì (Phì). Nhân khi Bố sai Tần Nghi Lộc đến cầu cứu Quan Vũ, Vũ xin Tào Tháo cho mình lấy vợ của Lộc là Đỗ thị làm vợ. Tào Tháo ưng cho. Bố bị Tháo đánh bại, Vũ lại tỏ ý với Tháo về Đỗ thị. Nghe vậy, Tào Tháo đoán người con gái kia hẳn có nhan sắc, bèn bí mật sai người đi triệu về, thấy quả thật đúng như thế. Tào Tháo chiếm nàng làm của riêng. Vũ bất mãn trong lòng.
Việc xin người có quyền lực ban cho (thật ra là ép bức) vợ của một sứ giả đến xin ân huệ quả là vô nguyên tắc, vô đạo đức.
Còn về chiến công, Tam Quốc diễn nghĩa kể 17 tướng địch bị Quan Vũ hạ khi giao tranh, nhưng thực sự chỉ có Nhan Lương và Bàng Đức. Cụ thể 15 tên các tướng hư cấu bị Quan Vũ giết như sau:
1/ Trình Viễn Chi, tướng của giặc Khăn Vàng
2/ Hàn Trung, tướng của giặc Khăn Vàng
3/ Hoa Hùng, tướng của Đổng Trác
4/ Quản Hợi, dư đảng Khăn Vàng
5/ Tuân Chính, tướng của Viên Thuật
6/ Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ Châu
7/ Văn Xú, tướng của Viên Thiệu ở Diên Tân
8/ Khổng Tú ở ải Đông Lĩnh
9/ Mạnh Thản ở Lạc Dương
10/ Hàn Phúc ở Lạc Dương
11/ Biện Hỉ ở Nghi Thủy
12/ Tân Kỳ ở Hoạt Châu
13/ Sái Dương ở Cổ Thành
14/ Hạ Hầu Tồn ở Tương Dương
15/ Dương Linh, tướng của Hàn Huyền ở Trường Sa.
Người ta tự hỏi: Bỏ qua các chiến tích được người đời ca tụng hết mức và thêm tình tiết nài nỉ Tào Tháo ban người vợ của Lã Bố mà La Quán Trung không nêu ra, tài năng quân sự và đức độ của Quan Vũ thật sự còn lại bao nhiêu?
La Quán Trung khéo tô vẽ Quan Vũ thành một tài năng quân sự siêu việt và một đức độ đáng nể, khiến cho qua nhiều thế hệ đền “Võ Thánh” hoặc “Quan Thánh Đế” thờ Quan Vũ (thường có hình ảnh thanh long đao hư cấu và Chu Thương hư cấu) hiện diện nhiều nơi trong các cộng đồng người Hoa. Thật ra theo chính sử Quan Vũ là một viên tướng võ biền, chỉ khỏe chứ không có mưu mẹo gì, trên thực tế Trương Phi còn khôn ngoan hơn Quan Vũ.
Không những nâng cao Quan Vũ khi còn sống, La Quán Trung còn nâng Vũ lên mức thần thánh qua các sự hiển linh, và qua sự trừng trị tưởng tượng những người làm chết Vũ:
- Lã Mông, người thực hiện kế hoạch đánh úp Kinh Châu, bị Vũ vật chết trong khi trên thực tế Mông chết vì bệnh;
- Phan Chương, người chém Quan Vũ trên chiến trường, bị Quan Hưng giết để cúng Quan Vũ trong khi trên thực tế Phan Chương sống thêm được hơn 10 năm.
- Chu Nhiên, người cùng Phan Chương rượt đuổi Quan Vũ dẫn đến cái chết của Vũ, bị Triệu Vân đâm trong khi trên thực tế Chu Nhiên sống đến sáu mươi tám tuổi.
Vì thế, huyền thoại về Quan Vũ lại giảm thêm giá trị.
Trương Phi
Sự thật lịch sử liên quan đến con người của Trương Phi là như sau:
- Không đánh viên quan Đốc bưu.
- Không tỏ ý muốn giết Đổng Trác.
- Không thách Quan Vũ giết Sái Dương rồi đánh trống trợ lực, bởi vì Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ.
- Không quát trên cầu Trường Bản làm chết Hạ Hầu Kiệt.
- Tam Quốc chí_Thục thư không chép việc Trương Phi đánh đập Trương Đạt và Phạm Cương, chỉ ghi vắn tắt: Khi mới khởi quân, bộ hạ dưới trướng là Trương Đạt – Phạm Cương giết Phi, cắt lấy thủ cấp, xuôi theo sông lớn chạy sang xin hàng với Tôn Quyền.
La Quán Trung tô vẽ Trương Phi thành con người nóng tính, bộc trực và có suy nghĩ đơn giản – không hẳn để chê bai, mà nhằm nêu bật cá tính võ biền của một dũng tướng.
Tam Quốc chí_Thục thư ghi:
Phi yêu kính người quân tử mà không thương xót kẻ tiểu nhân. Tiên Chủ thường khuyên bảo Phi rằng: “Khanh dùng hình phạt quá mức, lại hay đánh đập người dưới, xử phạt xong mà vẫn giữ bên mình, ấy là chuốc lấy tai vạ vậy.” Phi vẫn không chịu sửa đổi.
Theo sách sử, Trương Phi còn nổi tiếng về một tài năng đặc biệt là thư họa.
Triệu Vân
Sự thật lịch sử liên quan đến chiến công của Triệu Vân là như sau:
- Không giết 50 danh tướng của Tào Tháo giữa Trận Đương Dương–Trường Bản.
- Không giết Thuần Vu Đạo vì đây là nhân vật hư cấu.
- Không giết Bùi Nguyên Thiệu vì đây cũng là nhân vật hư cấu.
- Không giết năm cha con Hàn Đức vì họ cũng là những nhân vật hư cấu.
- Không có chiến công đánh hạ tướng giặc ở hang Cơ Cốc, chỉ lui binh an toàn.
Bỏ qua các chiến công hiển hách nhưng hư cấu kể trên, Triệu Vân không thể được gọi là “chiến thần”, tuy vẫn đáng được ngưỡng mộ nhờ lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, nhất là khi can Lưu Bị đừng cất quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vũ.
Gia Cát Lượng
Những sự thật lịch sử liên quan đến tài năng của Gia Cát Lượng là như sau:
- Không dùng kế hỏa công đốt quân Tào ở Gò Bác Vọng; đây là chiến công của Lưu Bị.
- Không sắp đặt thiêu sống quân Tào ở thị trấn Tân Dã; đây là hư cấu.
- Không đấu khẩu với quần hùng Giang Đông; từ đầu Chu Du và Lỗ Túc đã có chủ ý liên minh Lưu chống Tào.
- Không thuyết phục Tôn Quyền đánh Tào; tất cả lập luận là từ Chu Du.
- Không dùng kế “thuyền cỏ mượn tên”; đây là kế của Tôn Quyền.
- Không nêu ý kiến đánh hỏa công ở Trận Xích Bích; đây là ý kiến của Hoàng Cái.
- Không làm phép “cầu gió đông”; đây là chuyện hư cấu.
- Không lập kế cho Quan Vũ đánh úp lấy Tương Dương. Thời Tam Quốc, Ngụy không hề mất Tương Dương lần nào.
- Không khuyên Lưu Bị giết Ngụy Diên vì tiên đoán Diên sẽ làm phản; thực chất Ngụy Diên là người trung thành, được cả Lưu Bị mà cả Gia Cát Lượng quý mến và hậu đãi.
- Không biên thư cho Lưu Bị giới thiệu Bàng Thống; Lỗ Túc là người biên thư giới thiệu.
- Không có chuyện “3 lần chọc tức Chu Du”; Chu Du chết vì bệnh.
- Không dùng mẹo bắt Trương Nhiệm; chính Lưu Bị bắt sống được Trương Nhiệm.
- Bát trận đồ không có uy lực thần kỳ ngăn quân Lục Tốn.
- Có nhiều tình tiết phóng đại trong việc bắt rồi tha Mạnh Hoạch nhiều lần.
- Không lập mưu ly gián hàng phục Khương Duy; dân quân Ký Huyện khuyên Duy ra hàng.
- Không dùng “không thành kế” ; đây là hư cấu.
- Không dùng kế tăng bếp; đây là hư cấu.
- Không mắng khiến Vương Mãng chết trước trận; hai người không hề gặp nhau ngoài chiến trường.
- Không sắp đặt cái chết của Ngụy Diên.
- Sau khi chết không làm tượng gỗ trông giống người sống.
Đặc biệt, chính sử ghi trong Trận Xích Bích, Gia Cát Lượng chỉ có một vai trò nhỏ lúc đầu là thuyết phục Tôn Quyền đánh Tào, trong khi Lỗ Túc cùng Chu Du cũng thuyết phục Quyền, và Quyền quyết tâm đánh Tào chủ yếu là nhờ hai người sau. Kế tiếp, không thấy ghi chép gì về việc Lượng sáng suốt nhận ra “khổ nhục kế” của Hoàng Cái, biết mẹo Chu Du lập “quần anh hội” lừa Tưởng Cán, biết Tào Tháo mắc mẹo mà chém Sái Mạo và Trương Doãn, rồi vì Chu Du thấy Lượng biết quá nhiều nên lập mưu hại Lượng khiến cho Lượng phải dùng kế “thuyền cỏ mượn tên”, rồi Chu Du không tìm ra cách đánh Tào đến nỗi ngã bệnh và Lượng hiến kế hỏa công, rồi Lượng làm phép “cầu gió đông”. Gia Cát Lượng chẳng có vai trò gì cả trong những câu chuyện này, đơn giản bởi vì tất cả câu chuyện đều là hư cấu.
Có ý kiến cho rằng Gia Cát Lượng là nhân vật được hư cấu nhiều nhất trong Tam Quốc diễn nghĩa. Qua La Quán Trung mà Gia Cát Lượng hiện thân là người có trí tuệ và mưu lược quân sự xuất chúng, có năng lực dự tính siêu thường, có thêm quyền uy kỳ ảo có thể hô mưa gọi gió, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Lược bỏ những công trạng hư cấu như nêu trên thì còn gì cho Gia Cát Lượng?
Thật ra Gia Cát Lượng tài giỏi về các mặt chính trị, hành chính, kinh tế, thương mại – còn nổi bật hơn tài năng quân sự, như Trần Văn Đức phân tích một cách khúc chiết. Nhưng mang những chi tiết đó vào TQDN sẽ khiến cho độc giả buồn ngủ! Tương tự, Trần Văn Đức có những phân tích cặn kẽ về bài Xuất sư biểu của Gia Cát Lượng trình bày lập luận, cương lĩnh và chiến lược cho việc cất quân đánh Ngụy, nhưng một quyển tiểu thuyết không thể dài dòng những điều khô khan như thế. Hậu quả là độc giả TQDN chỉ hồi hộp theo dõi những tình tiết ảo nhưng không nắm bắt hết các tài năng thật sự của Gia Cát Lượng.
Bình phẩm về Gia Cát Lượng, tác giả Trần Thọ viết khác với La Quán Trung:
“Gia Cát Lượng giữ chức tướng quốc, vỗ yên bách tính, tỏ rõ nghi thức, sắp xếp quan chức, điều hành chính sự, khai sáng dân tâm cùng là ban bố pháp luật… Có thể nói ông là bậc hiền tài trị quốc, sánh được với các năng thần như Quản Trọng, Tiêu Hà, song liên tục nhiều năm huy động sức dân đánh mãi không thắng, nói về tháo vát ứng biến, có thể đó chẳng phải là sở trường vậy”.
Tào Tháo
Đây là nhân vật Tam Quốc chịu nhiều oan ức nhất. Hai bộ sử Tam Quốc chí và Tư trị thông giám không ưa Tháo, riêng Tam Quốc diễn nghĩa thể hiện “quốc tặc” Tào Tháo cực kỳ xấu xa khiến cho qua nhiều thế hệ người ta đều chán ghét ông này, đến nỗi Quách Mạt Nhược nhận xét: “Đến đứa trẻ cũng căm ghét Tào Tháo”. Qua Tam Quốc diễn nghĩa, cái tên Tào Tháo là biểu trưng cho gian hùng, quỷ quyệt, tráo trở, hiểm ác. Cuốn tiểu thuyết này thiếu công tâm ở chỗ ủng hộ Lưu Bị cũng như quá đề cao Gia Cát Lượng mà phớt lờ công lao của Tào Tháo trong việc ngăn chặn chém giết và đại loạn cuối thời Đông Hán. Chỉ ở khía cạnh này, Tào Tháo đã cứu sống không biết bao nhiêu mạng người.
Sự thật lịch sử liên quan đến tính chất của Tào Tháo là như sau:
- Tháo giết nhà Lã Bá Ba vì có lý do có thể biện minh được chứ không phải cố ý tàn sát.
- Câu nói khét tiếng “Thà ta phụ người, không để người phụ ta”còn là nghi vấn, có nguồn cho rằng đó là do Tư Mã Ý nói ra.
- Trong Trận Quan Độ, Viên Thiệu không tin quân sư của mình là Hứa Du nhưng Tháo tin người bạn cũ này – và điều đó tạo nên sự khác biệt lớn.
- Sau khi đánh bại Viên Thiệu ở Trận Quan Độ, Tháo bắt được thư từ trong doanh trại của Thiệu, có cả thư từ của bộ hạ Tháo, đều đem đốt bỏ cả chứ không truy cứu. Tháo nói rằng “Đang lúc Thiệu cường mạnh, ta còn chẳng thể tự bảo vệ mình, phương chi là chúng nhân!”
- Tháo không cố ý khinh khi Trương Tùng.
- Cả cuộc đời Tháo bình định những sứ quân cát cứ, vô hình trung ổn cố nhà Hán và giảm đau thương chết chóc cho xã hội.
Ngụy thư ghi một câu chuyện nêu bật tài quản trị của Tào Tháo so với những sứ quân đương thời:
Từ lúc xảy ra chiến loạn, ruộng đất bỏ hoang, lương thực thiếu thốn. Chư quân nổi dậy khắp nơi, chẳng có ai tính việc lâu dài, đói thì đi cướp bóc, no thì phung phí lương thực, lòng người ly tán. Dân quân trong vùng cai trị của Viên Thiệu và Viên Thuật đều đói kém, dân chúng phải ăn thịt lẫn nhau, làng xóm tiêu điều. Tào Tháo nhận rõ bài học của lịch sử, nói: “Thuật định quốc là, binh muốn mạnh cần có đủ lương, người Tần bởi thúc đẩy nghề nông mà thâu tóm được thiên hạ, Hiếu Vũ lấy việc khai khẩn đồn điền mà bình định được Tây Vực, đó là sớm ý thức được việc ấy vậy.” Tháo chiêu mộ dân khai khẩn ở đất Hứa, trong các châu quận đặt chức quan trông coi việc đồn điền, tích trữ lương thực tại chỗ. Khi chi phạt tứ phương, không phải khó nhọc về việc vận chuyển lương thảo, lại kiêm quản được việc diệt trừ đám đạo tặc, người trong thiên hạ được yên bình.
Trong khi Anh hùng ký chép:
Quân của Bị ở Quảng Lăng, đói khổ khốn quẫn, quan lại lớn nhỏ hết sạch lương ăn, bị cái đói bức bách đến cùng cực, muốn kéo về Tiểu Bái, bèn sai người đến xin hàng Lã Bố.
Một điểm son khác của Tào Tháo là thuật dùng người. Tháo có năm danh tướng, ba trong số đó từ lực lượng địch đến: Trương Liêu vốn là bộ tướng của Lã Bố, Trương Hợp vốn là bộ tướng của Viên Thiệu, Từ Hoảng vốn là bộ tướng của Dương Phụng; còn Nhạc Tiến và Vu Cấm được Tào Tháo đề bạt từ dưới lên.
Xét qua những điểm son như trên trong chính sử, và nhiều điểm son khác, trong khoảng 4 thập kỷ trở lại đây ở Trung Quốc tính cách và công/tội của Tào Tháo được xét lại theo hướng công tâm hơn.
Chu Du
Theo Trần Quỳnh (2016a), trong Tam Quốc chí, tác giả Trần Thọ nhiều lần khen ngợi Chu Du là bậc “anh tuyển dị tài”, “nhân tài phò vương”, thậm chí còn coi ông là vị “anh tài văn võ thao lược trong vạn người”. Đối với nhân vật được biết tới là “thiên hạ đệ nhất nam tử Giang Đông” này, Trần Thọ hết lời ca tụng: “Trong chính trị thì có tầm nhìn xa trông rộng, trung thành, tận tâm, trong quân sự lại đảm lược hơn người, trí dũng song toàn, nhân cách tốt đẹp…” Từ đó, có thể thấy bản thân Chu Du là một nhân vật xứng danh anh hùng trong lịch sử Trung Hoa. Vậy nhưng, theo thời gian, hình tượng của nhân vật này trong mắt hậu thế lại bị biến đổi và bóp méo tới mức khó tin.
Viết về danh tướng tài ba ấy, Tam Quốc chí ghi chép: “Chu Du tiến cử người tài có thể ngang với Bảo Thúc Nha, lấy lễ vì nước có thể sánh với Lận Tương Như, còn khiêm lễ, trung quân thì không ai có thể so được. Độ lượng, cao thượng, biết dùng người, một lòng phò tá quân vương, đối với Hoàng đế trẻ tuổi thì cực kỳ tôn kính, đối với các bậc tiền bối cũng hết sức kính cẩn.”
Về chuyện “kính trên nhường dưới”, chính sử vẫn ghi chép lại cố sự giữa Chu Du và Trình Phổ. Năm xưa, Chu Du mặc dù trẻ tuổi, nhưng chức vị lại được Tôn Quyền đặt trên lão tướng Trình Phổ. Phổ vốn không bằng lòng, nhưng lại được Chu Du cảm hóa bằng tài năng, sự khiêm nhường và kính cẩn của mình. Bởi vậy, vị lão tướng này khi nhắc tới Chu Du đã từng nói: “Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, sau lúc nào cũng không biết!”
Không chỉ vậy, bản thân Chu Du còn là người rất tài hoa, tinh thông âm nhạc. Ngay cả khi “rượu đã tam tuần” (ngà ngà say), ông vẫn dễ dàng nhận ra nốt nhạc đánh sai trong dàn nhạc của cung đình. Có câu nói nổi tiếng: “Nghe nốt nhạc sai, Chu lang ngoảnh mặt lại”.
Về mặt quân sự, Chu Du xứng đáng với danh hiệu “khai quốc công thần” của nhà Đông Ngô. Sau khi lập nên cơ nghiệp ở vùng Giang Đông, Chu Du càng được Tôn Sách tín nhiệm bội phần. Tới khi Sách không may bỏ mạng, vị danh tướng này lại tiếp tục phò tá thế tử Tôn Quyền lên ngôi, đồng thời chấp chính việc đại sự, quân chính. Lúc bấy giờ, Tào Tháo đã diệt được Viên Thiệu, liền ép Tôn Quyền đưa con ruột ra làm con tin. Chu Du có tầm nhìn xa trông rộng, khuyên Tôn Quyền không nghe theo Tào Tháo. Khi đại chiến Xích Bích nổ ra, Chu Du kiên quyết nêu cao chủ trương gắng sức kháng Tào. Nhờ nắm được điểm yếu của phe địch, lại hiểu rõ lợi thế của quân ta, Du đã chỉ huy đại quân Đông Ngô đánh tan quân Tào, trở thành một trong những đại công thần trong trận chiến lừng danh ấy. Tiếp đó, quân của Chu Du tấn công Kinh Châu, chiếm được vị trí chiến lược là Nam Quận, quân Tào liên tục tháo chạy.
Sau đại chiến Xích Bích, Chu Du đề xuất với Tôn Quyền mang binh đi chiếm đất Thục, tiêu diệt Trương Lỗ, thu phục Lưu Chương, cùng Táo Tháo tranh thiên hạ. Những bước đi được tính toán chu toàn ấy đã phần nào thể hiện được tầm nhìn xa trông rộng của vị tướng tài ba này. Tiếc thay, trong khi chuẩn bị cho chiến sự tại Giang Lăng, Chu Du đột ngột qua đời vì bệnh tật khi mới 35 tuổi. Mất đi một tướng tài, Tôn Quyền lòng đau như cắt, khóc rống mà than rằng: “Công Cẩn có tài phò vương, nay lại đoản mệnh mà chết, sau này ta biết trông cậy vào ai?”
Sau khi xưng đế, Tôn Quyền vẫn nhớ mãi công lao của vị khai quốc công thần Chu Du, từng đối với quần thần mà ca ngợi: “Không có Công Cẩn, ta làm sao có thể xưng đế?” Thế nên, sau cái chết của Chu Du, sự nghiệp “tranh thiên hạ” của Đông Ngô nhanh chóng tan thành mây khói. Từ một thế lực đáng gờm, tập đoàn chính trị này lại trở nên an phận thủ thường, dậm chân tại chỗ ở một phương. Từ đó, ta càng thấy rõ vai trò và công lao không thể thay thế của Chu Du đối với đại nghiệp Đông Ngô.
Vậy mới thấy, một nhân vật lịch sử như Chu Du vốn là người không thể chê bai về phẩm cách, lại văn võ toàn tài, vẻ ngoài tuấn mỹ, nội tâm phong phú. Danh tướng ấy hoàn toàn xứng đáng được hậu thế ca ngợi như một hình tượng thập toàn thập mỹ.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng của Chu Du tồn tại nhiều mâu thuẫn. Một mặc, La Quán Trung tạo nên một Chu Du kết giao với Tôn Sách, khai phá Giang Đông, sáng lập đại nghiệp, tiến cử Lỗ Túc, lập nhiều công trạng bất hủ. Mặt khác, khi đứng trước khối nhân vật trung tâm là Lưu Bị, Chu Du lại phải tháo chạy khắp nơi, cam chịu cảnh “làm nền”. Câu nói hư cấu “trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng” được La Quán Trung gán cho Chu Du trong tác phẩm của mình đã phần nào thể hiện điều đó.
Trên thực tế, đối chiếu với nguyên mẫu lịch sử, ta có thể thấy rõ hình tượng Chu Du trong Tam Quốc diễn nghĩa có nhiều khác biệt:
Về chuyện Chu Du bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần, khi đó, chính sử ghi chép, Lưu Bị đánh giá Chu Du là người “độ lượng quảng đại”. Một người khí lượng khoan dung như vậy, sao có thể dễ dàng bị “làm cho tức chết”?
Hơn nữa, từ khi đại chiến Xích Bích kết thúc cho tới lúc Chu Du qua đời, Gia Cát Lượng đều ở Linh Lăng làm công tác hậu cần, căn bản không giáp mặt Du. Mặt khác, Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức. Sau này, khi Chu Du qua đời, người đưa ma phúng viếng chính là thuộc hạ cũ là Bàng Thống chứ không phải Gia Cát Lượng.
Tam Quốc diễn nghĩa miêu tả Chu Du vì đố kỵ Gia Cát Lượng mà “triệt đầu triệt đuôi” hoàn toàn là bịa đặt. Trước đó, cuốn Tam Quốc chí bình thoại đã khẳng định diệu kế “mượn tên” là thành quả của Chu Du.
Việc “tiền mất, tật mang”: Trong lịch sử, Tôn Quyền thực chất muốn đem em gái gả cho Lưu Bị. Đó đơn thuần là một cuộc hôn nhân chính trị do Tôn Quyền “can tâm tình nguyện” chứ không can hệ tới mưu kế của Chu Du.
“Trí kích Chu Du”: Đây hoàn toàn là tình tiết hư cấu của Tam Quốc diễn nghĩa. Bởi lẽ, bản thân Chu Du là người thuộc phái chủ chiến có thực lực nhất của Đông Ngô. Tôn Quyền vì nghe theo lời khuyên của Du nên mới có Đại chiến Xích Bích.
Về chuyện “mượn gió đông”: Đây cũng là một chi tiết không có thật trong lịch sử được Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu mà thành. Trên thực tế, khi đó Gia Cát Lượng vẫn chưa tham gia Đại chiến Xích Bích, công lao này hoàn toàn thuộc về Chu Du.
Vấn đề Kinh Châu: Quả thật, sau khi Chu Du mất, Lỗ Túc vì “liên Lưu kháng Tào” mà cho Lưu Bị mượn Nam Quận thuộc Kinh Châu. Khi còn sống, Du từng nắm giữ Giang Lăng, Di Lăng làm đường nhập Xuyên, không có chuyện Đông Ngô đánh Tây Thục hay Lưu Bị “mượn” đường. Chỉ sau khi Chu Du qua đời, Lỗ Túc mới chủ trương đem Nam Quận cho Lưu Bị mượn. Từ đó về sau, Đông Ngô phái Tôn Du phạt Thục đều bị Lưu Bị cản đường. Rất có khả năng, Tam Quốc diễn nghĩa cố tình đảo lộn hai nhân vật Tôn Du và Chu Du.
Thực tế chứng minh rằng ảnh hưởng của chính sử luôn thua xa so với dòng văn học dân gian hay những cuốn thoại bản được bán chạy. Nhờ việc sở hữu lượng độc giả vô cùng đông đảo, nên từ thời nhà Minh, hình tượng của Chu Du đều lấy từ cuốn tiểu thuyết trứ danh Tam Quốc diễn nghĩa mà ra. Chính bởi vậy, trong suốt hàng trăm năm qua, câu nói “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng” bị hậu thế nhầm tưởng là do Chu Du thốt ra.
Nhận xét về những ảnh hưởng của cuốn sách này tới hình tượng Chu Du, trong bộ Tướng soái cổ đại Trung Quốc, các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân ghi: “Đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin cậy!”
Lỗ Túc
Trong xu hướng “ủng Lưu phản Tào” hoặc “tôn Lưu biếm Tào” và xem họ Tôn là đứng giữa, La Quán Trung đề cao Gia Cát Lượng và hạ thấp Lỗ Túc về tầm nhìn chiến lược. Thật ra Lỗ Túc không phải yếu kém như thế.
Lấy ví dụ, điển tích “Tam cố thảo lư” được kể dông dài nhằm tạo sự nôn nóng trong lòng độc giả rồi đi đến việc Gia Cát Lượng trong nhà tranh ở Long Trung bàn sách lược chia ba thiên hạ. Đó là “Long Trung sách” năm 207. Độc giả tấm tắc khen ngợi đầu óc của Gia Cát Lượng mà có thể không biết rằng trước đó Lỗ Túc đã trình bày cho Tôn Quyền về tầm nhìn chiến lược tương tự cho thế chân vạc chia ba thiên hạ. Đó là lúc Quyền “dẫn riêng Túc về, cùng ngồi trên giường uống rượu, nhân đó bàn ngầm”. Trương Chiêu “chê bai Túc, nói rằng Túc tuổi còn trẻ dại, chưa nên dùng”, nhưng “Quyền không vì thế mà vướng bận, lại càng coi trọng”. [Tam Quốc chí_Ngô thư] Túc sinh năm 172, nếu nói còn trẻ dại thì lúc đó khoảng 25-28 tuổi tức năm 197-200. Như vậy, khoảng 7-10 năm trước khi Lượng thuyết cho Lưu Bị nghe về “Long Trung sách”, thì Túc đã thuyết cho Tôn Quyền nghe sách lược thế chân vạc tương tự mà sử gọi là “Tháp Thượng sách” (“tháp” là cái giường nhỏ, “tháp thượng” chỉ hoàn cảnh hai người đang ngồi trên giường).
Sự khác biệt giữa Lỗ Túc và Quan Vũ ở chỗ, trong khi quân Ngô và quân Thục đóng kế nhau, thường xảy ra đụng độ, đích thân Lỗ Túc đến gặp Vũ, nhẹ nhàng khuyên giải. Đó là vì Túc vẫn muốn giữ mối giao hảo giữa hai nhà Tôn–Lưu nhằm tạo thế chân vạc tương tự “Long Trung sách” của Gia Cát Lượng. Trong khi đó, Vũ không thấu hiểu chiến lược “Long Trung sách”, lại chửi mắng nhục mạ sứ giả của Tôn Quyền đề nghị tác thành hôn sự cho con trai Quyền và con gái Vũ. [Thục chí_Quan Vũ truyện]
Sự khác biệt rõ nhất giữa Lỗ Túc và Gia Cát Lượng là khi nghe tin Lưu Biểu chết, Túc bàn với Tôn Quyền rằng hai con của Biểu không hòa nhau, các tướng mỗi người một ý, còn Bị kiêu hùng, có hiềm khích với Tháo mà ở nhờ chỗ Biểu nhưng Biểu ghét tài Bị mà không dùng, nhân dịp này nên khuyên Bị vỗ về quân của Biểu, một lòng một ý cùng chống Tào Tháo. Nhưng khi Túc đến thì Lưu Tông đã hàng Tháo, Bị kinh hoàng đang vội bỏ chạy. Túc bèn đi thẳng đón Bị, nói rõ lệnh của Quyền, khuyên Bị hợp sức với Ngô. Túc nói với Gia Cát Lượng rằng mình là bạn của Gia Cát Cẩn (ý nói đều là người nhà). Hai người liền cùng giao kết. Bị bèn đến Hạ Khẩu, sai Lượng làm sứ giả đến chỗ Quyền. Có nghĩa là trong khi Bị và Lượng chưa định hướng, chỉ lo rút chạy, thì Lỗ Túc đã sẵn có sách lược trong đầu về việc hợp tác giữa hai nhà Tôn–Lưu.
Tuy nhiên La Quán Trung lại kể Lưu Bị thua chạy về Giang Hạ, đang cùng Gia Cát Lượng bàn kế thì Lỗ Túc mới đến, từ việc này biến một người có tầm nhìn xa trở thành một người thật thà đang khẩn trương lo lắng cho Ngô. Rồi khi Lỗ Túc đưa Lượng đến Giang Đông thì độc giả TQDN chỉ thấy mọi việc đều do Lượng dẫn dắt trong khi ngược lại: Lỗ Túc và Chu Du lập đại công khi thuyết phục được Quyền đánh Tào.
Vì muốn xây dựng hình ảnh một Lỗ Túc thật thà và nông cạn bên cạnh Gia Cát Lượng sắc sảo, La Quán Trung phớt lờ tình tiết này, cũng như thay đổi mốc thời gian nhằm che đậy nhận thức của Lỗ Túc. Còn tệ hơn cả thật thà: với óc tưởng tượng của La Quán Trung, Lỗ Túc là người khờ khạo, có nhiều chuyện đơn giản phải nhờ Gia Cát Lượng hoặc Tôn Quyền giải thích mới hiểu ra.
Thế là tài năng của Lỗ Túc thường được La Quán Trung chuyển cho người khác. Ví dụ như một ý kiến cực kỳ quý báu của Lỗ Túc là gọi Chu Du về để chống Tào Tháo, nhưng La Quán Trung viết thành di ngôn của Tôn Sách, và phải đợi đến khi Ngô quốc thái nhắc về di ngôn đó thì Tôn Quyền mới nhớ ra.
Nếu Lỗ Túc là người khờ khạo như La Quán Trung miêu tả thì tại sao Chu Du lúc bị bệnh dâng sớ cho Tôn Quyền tiến cử Lỗ Túc thay thế mình? Du lại còn giải thích rằng nên chọn tướng giỏi để đánh dẹp Lưu Bị, Lỗ Túc có mưu trí nên dùng, Lỗ Túc làm việc chẳng có sai lầm… Nếu Tôn Quyền còn nghi ngờ về tài năng của Lỗ Túc thì tại sao khi Du chết lập tức phong Túc làm tướng quân, thay Du mà nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân Đông Ngô?
Kết luận
Cần phân biệt bình luận văn học dựa trên Tam Quốc diễn nghĩa với bình luận lịch sử dựa trên sự kiện ghi chép trong chính sử. Đã có quá nhiều bình luận sa đà thành thiếu chính xác (thậm chí một số tài liệu nói nhập nhằng về “Tam Quốc chí của La Quán Trung”). Độc giả ngỡ là bình luận lịch sử nhưng cũng thấy viết về “kết nghĩa vườn đào”, hoặc “Điêu Thuyền”, “ôn tửu trảm Hoa Hùng”, “tam anh chiến Lữ Bố”, “quá ngũ quan trảm lục tướng”, “quần anh hội”, “thuyền cỏ mượn tên”, “Ngũ Hổ Tướng”, “thất cầm Mạnh Hoạch”, hoặc câu than ai oán “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng!” Mỗi câu chuyện đều được La Quán Trung thêu dệt với nhiều tình tiết hấp dẫn.
Một ví dụ khác là Trận Xích Bích. Chính sử chỉ ghi vài đoạn ngắn về trận đánh này, còn La Quán Trung dành đến 8 hồi để tường thuật tất cả lập luận, mưu kế và tương kế tựu kế, chuyện ân nghĩa, chuyện trá hàng, thuật huyền bí… Độc giả say mê theo dõi từng tình tiết mà không biết rằng có đến 13 hư cấu liên quan đến Trận Xích Bích. Nếu bỏ ra 13 hư cấu này thì câu chuyện Xích Bích chẳng còn lại gì đặc biệt.
Đã vinh danh hão các tướng nhà Thục, La Quán Trung cũng vinh danh hão con cái của họ:
- Quan Hưng, con thứ hai của Quan Vũ, làm quan văn được một thời gian rồi qua đời sớm, vì thế các chiến công hiển hách của anh này đều là hư cấu.
- Quan Sách, con thứ ba của Quan Vũ, tham gia đánh Mạnh Hoạch, là nhân vật hư cấu.
- Trương Bào, con của Trương Phi, không làm tướng Thục, không để lại danh tiếng gì đặc biệt đến nỗi sử không ghi chết vào năm nào, vì thế các chiến công hiển hách của anh này đều là hư cấu.
Điều buồn cười là tiểu thuyết của La Quán Trung tạo nguồn cảm hứng cho một số tác giả sáng tác bài thơ hoặc bài ca mà không biết rằng họ ca ngợi những nhân vật hoặc sự kiện hư cấu. Ví dụ như:
- Trương Phi giết tướng Khăn Vàng Đặng Mậu (Hồi 1): bài thơ khen Vân Trường và Trương Phi.
- Quan Vũ giết Hoa Hùng (Hồi 5): bài thơ khen Quan Vũ.
- Tam anh chiến Lã Bố (Hồi 5): một bài ca dài cảm tác điển tích hư cấu này.
- Nhân vật hư cấu Điêu Thuyền (Hồi 8): một bài ca và một bài thơ khen Điêu Thuyền, một bài thơ khác ca ngợi Vương Tư đồ lập Liên hoàn kế với Điêu Thuyền.
- Uống rượu luận anh hùng (Hồi 21): bài thơ khen Huyền Đức.
- Từ Thứ hàng Tào (Hồi 36): bài phú khen mẹ của Từ Thứ.
- Gia Cát Lượng đốt quân Tào ở Gò Bác Vọng (Hồi 39): bài thơ khen Gia Cát Lượng.
- My phu nhân giao ấu chúa cho Triệu Vân rồi tự tử (Hồi 41): bài thơ My phu nhân và một bài thơ khác khen Triệu Vân.
- Triệu Vân giết hơn 50 danh tướng Tào (Hồi 41-42): bài thơ khen Triệu Vân.
- Gia Cát Lượng đọc bài phú của Tào Thực để khích Chu Du (Hồi 44): bài phú của Đỗ Mục viết về “Đồng Tước đêm xuân khóa nhị Kiều”.
- Thuyền cỏ mượn tên (Hồi 46): bài thơ khen Gia Cát Lượng.
- Bàng Thống lừa Tào Tháo xích thuyền (Hồi 47): bài thơ khen việc bày mưu đặt mẹo cho kế liên hoàn.
- Gia Cát Lượng cầu gió đông (Hồi 49): bài thơ khen Gia Cát Lượng.
- Quan Vũ vì nghĩa tha Tào Tháo ở Hoa Dung (Hồi 50): bài thơ khen Quan Vũ.
- Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng (Hồi 63): thơ cảm thán cho Bàng Thống.
- Quan Vũ một đao tới hội (Hồi 66): bài thơ khen Quan Vũ.
- Quan Vũ khơi dòng nước, làm ngập bảy đạo quân Tào (Hồi 74): bài thơ ca ngợi “trí dũng” của Quan Vũ.
Nực cười nhất là cái anh Mao Tôn Cương, sau mỗi hồi của Tam Quốc diễn nghĩa lại viết phần bình luận, nhiều khi bình luận lan man về những hư cấu. Hóa ra ông này chẳng màng tham khảo bộ sử Tam Quốc chí đã được soạn ra hơn một nghìn năm trước.
Việc tham khảo chính sử cần để ý đến một điều là ngay cả các sử liệu cũng có chỗ dị biệt. Ví dụ như Tam Quốc chí và Cửu Châu Xuân Thu viết Gia Cát Lượng “lên Bắc gặp Bị” lúc hai người chưa quen biết nhau. Thế là có người kết luận rằng “tam cố thảo lư” chỉ là hư cấu: Gia Cát Lượng đến gặp Lưu Bị chứ không phải Lưu Bị đi tìm Gia Cát Lượng. Cần xét đến Tam Quốc chí và Xuất sư biểu đều ghi cụ thể chuyện ba lần Lưu Bị đến lều cỏ. Tam Quốc chí là bộ sử được Trần Thọ thực hiện công phu và Bùi Tùng Chi chú giải chi tiết dẫn chứng nhiều tài liệu, thế nên là bộ sử đáng tin cậy (tuy không đến 100% bởi vì kiểm chứng các sử liệu khác cho thấy Trần Thọ cũng có nhầm lẫn). Riêng Xuất sư biểu là văn bản chính thức của Thừa tướng Gia Cát Lượng trình lên Hoàng đế Lưu Thiện có viết: “Tiên đế không xem thần là kẻ hèn mọn, đem lòng chiếu cố, ba lần đến nơi lều cỏ của thần”, không lẽ là dối trá?
Những hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa có mặt tích cực là trước nhất, tạo nên một tiểu thuyết thật cuốn hút, chứa đủ sắc thái hào hùng và lâm li làm say mê bao độc giả nhiều thế hệ, và thứ hai làm nguồn cảm hứng cho thi ca, sân khấu và phim ảnh lẫn trò chơi điện tử cho dù ca ngợi và thể hiện lại những hư cấu. Nhờ những tình tiết hư cấu đầy huyễn hoặc, tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa cũng đóng góp một nhân vật vào “tứ đại mỹ nhân” của Trung Quốc, và những danh hiệu “Võ thánh” và “Quan thánh đế” cho Quan Vũ, cùng “chiến thần” hoặc “võ thần” cho Triệu Vân.
Tóm lại, qua việc hư cấu những sự kiện và nhân vật đầy óc tưởng tượng phong phú, có cuốn tiểu thuyết nào khác tạo nên những hiệu ứng như thế?
Thật ra, La Quán Trung thường gây phản tác dụng khi hư cấu các câu chuyện. Ví dụ như Lã Mông bị hạ thấp (giả bệnh vì không tìm ra cách đánh Quan Vũ), trong khi La Quán Trung lại viết thật sự Mông đã thể hiện tài năng và nổi danh từ trước (như làm tiền bộ tiên phong đánh Hoàng Tổ, làm tướng đánh Trận Xích Bích), nhưng Quan Vũ vẫn coi thường. Tương tự, Lục Tốn bị hạ thấp (bị các tướng sĩ bên Ngô khinh thường), trong khi chính La Quán Trung kể rằng thật sự trước đó Tốn đã có kinh nghiệm chỉ huy chiến trường (tướng tiên phong trong Trận Xích Bích và là Thiên Tướng quân Hữu Đô đốc đánh Quan Vũ, làm tiên phong đánh Uyển Thành) và lập nhiều chiến công, nhưng Lưu Bị vẫn khinh miệt Tốn là “thằng nhãi con”. Hai việc này cho thấy Quan Vũ và Lưu Bị quá yếu kém về tình báo!
Người tổng hợp bài này tâm đắc với Nguyễn Đỗ Thuyên,
Những nhân vật được “biểu tượng hóa” đến mức tối đa trong Tam Quốc diễn nghĩa, một ngày nào đó ắt phải được nhìn nhận lại theo nhu cầu và nhận thức tương ứng của thời đại. Logic của cuộc sống hiện tại không chấp nhận mức độ “tuyệt đối” trong bình xét con người, vậy thì những “tuyệt nghĩa Quan Vũ” hay “tuyệt trí Khổng Minh” ắt phải đứng trước áp lực đánh giá lại về tính cách, tài năng, tư tưởng; và những “tuyệt nhân Lưu Bị”, “tuyệt gian Tào Tháo” ắt phải bị nghi ngờ rằng có nhân đến mức đó không? và có gian đến thế không?
Dần dần, báo chí cũng bắt đầu khai thác nhiều về đề tài này. Nhưng thẳng thắn mà nói, đa phần đều là những bài viết mang tính chất câu view bằng tít gây sốc, bằng chủ đề đầy rẫy thuyết âm mưu, chẳng hạn: Lưu Bị “mượn tay” Tôn Quyền để triệt hạ Quan Vũ, Triệu Vân là nữ cải nam trang, Gia Cát Lượng bức Bàng Thống vào tử lộ… Tít được giật rất kêu, âm mưu nghe ra rất lớn, thậm chí một số ý kiến của “chuyên gia” Trung Quốc cũng được trích dẫn. Nhưng rốt cuộc, chỉ là trích dẫn chủ quan, không hề có cơ sở sử liệu; các luận điểm nặng về suy diễn, đoán mò, thiếu chứng cứ.
Vậy thì, cần có sự rạch ròi: cứ thưởng thức văn học trong Tam Quốc diễn nghĩa nhưng không sa đà vào luận lịch sử, và tìm hiểu lịch sử trong Tam Quốc chí nhưng không sa đà vào suy luận phóng túng.
Nguồn tham khảo
An Hòa (2017). Ghi chép lịch sử về tài ‘mượn gió đông’ của Gia Cát Lượng. https://trithucvn.net/van-hoa/muon-gio-dong-ghi-chep-lich-su-ve-tai-tri-sieu-pham-cua-gia-cat-luong.html
Dịch Trung Thiên. Phẩm Tam Quốc, bản dịch được xuất bản năm 2010 (Tập 1 và 2). Nhà Xuất bản Công an Nhân dân.
Đăng Nguyễn (2019). Võ Thánh Quan Vũ chưa từng cầm Thanh Long đao huyền thoại? http://danviet.vn/the-gioi/vo-thanh-quan-vu-chua-tung-cam-thanh-long-dao-huyen-thoai-963591.html
Đặng Thành (2015). Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Bị theo chính sử. https://nghiencuulichsu.com/2015/10/16/nhin-lai-cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-luu-bi-theo-chinh-su/
Hoang Viet Dinh (2016). Ngụy Diên – Bị oan hay được sửa sai quá lố? https://www.facebook.com/notes/tam-qu%E1%BB%91c-di%E1%BB%85n-ngh%C4%A9a/ng%E1%BB%A5y-di%C3%AAn-b%E1%BB%8B-oan-hay-%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c-s%E1%BB%ADa-sai-qu%C3%A1-l%E1%BB%91/1173054062707523/
Lan Hương (2016). Lật tẩy 99 tình tiết… bịa đặt trong Tam Quốc diễn nghĩa. http://baophapluat.vn/dan-sinh/tam-quoc-dien-nghia-lat-tay-99-tinh-tiet-bia-dat-283781.html và http://baophapluat.vn/the-gioi-sao/lat-tay-99-tinh-tiet-bia-dat-trong-tam-quoc-dien-nghia-284797.html
Lê Anh Chí “Gia Cát Lượng đốt Tư Mã Ý ở hang Hồ Lô” là chuyện Xạo! http://www.leanhchi.com/VanHoc2/HangHoLoXao.html
Lê Cung Hoàng. Những phát hiện khoa học kì lạ về Khổng Minh. https://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuong-c40/doc-sach-truc-tuyen-nhung-phat-hien-khoa-hoc-ki-la-ve-khong-minh-b3004/chuong-1-thong-tin-ti1
Lê Đông Phương (2007). Kể chuyện Tam Quốc, Cao Tự Thanh dịch. Nhà Xuất bản Đà Nẵng.
Lê Đông Phương & Vương Tử Kim (2007). Kể chuyện Tần Hán, Cao Tự Thanh dịch. Nhà Xuất bản Đà Nẵng.
Lê Thời Tân (2018). Tam Quốc: lịch sử diễn nghĩa và diễn nghĩa lịch sử. https://nghiencuulichsu.com/2018/06/11/tam-quoc-lich-su-dien-nghia-va-dien-nghia-lich-su/
Nguyễn Đỗ Thuyên (2017). Giải mã Tam quốc: Chiến dịch Quan Độ và những bí ẩn. https://www.tienphong.vn/van-hoa/giai-ma-tam-quoc-chien-dich-quan-do-va-nhung-bi-an-1132706.tpo
Nguyễn Đỗ Thuyên (2018). Đi tìm thế giới thật trong Tam Quốc diễn nghĩa. http://danviet.vn/dong-tay-kim-co/di-tim-the-gioi-that-trong-tam-quoc-dien-nghia-943107.html
Nguyễn Thanh Điệp (2017). Trận Xích Bích: Tranh cãi nghìn năm về kế của Chu Du hay Gia Cát Lượng. https://news.zing.vn/tran-xich-bich-tranh-cai-nghin-nam-ve-ke-cua-chu-du-hay-gia-cat-luong-post785525.html
OB Ben (2016). Lưu Bị – dũng mưu gồm đủ, văn võ song toàn? https://doclaitamquoc.wordpress.com/2016/11/23/luu-bi-tri-dung-song-toan/#more-184
Phạm Tú Châu (2014). Những độc hại của Tam Quốc diễn nghĩa. https://www.dokiencuong.com/nhung-doc-hai-cua-tam-quoc-dien-nghia-377.html
Quốc Tiệp (2019). Tam Quốc diễn nghĩa: Không phải Quan Vũ đây mới là người trảm mãnh tướng Hoa Hùng. https://www.nguoiduatin.vn/tam-quoc-dien-nghia-khong-phai-quan-vu-day-moi-la-nguoi-tram-manh-tuong-hoa-hung-a434401.html
Thanh Xuân (2019). La Quán Trung đã ‘dìm hàng’ Lưu Bị đến mức nào trong Tam Quốc diễn nghĩa. https://docbao.vn/the-gioi/la-quan-trung-da-dim-hang-luu-bi-den-muc-nao-trong-tam-quoc-dien-nghia-tintuc603393
Thái Quốc Mưu (2016). Nhân vật Quan công trong Tam Quốc diễn nghĩa. https://datdung.com/nhan-vat-quan-cong-trong-tam-quoc-dien-nghia-bai-1-thai-quoc-muu/
Trần Đình Hiến (2008). Những “bịa đặt chết người” trong “Tam quốc diễn nghĩa”. https://forums.voz.vn/showthread.php?t=108857
Trần Quỳnh (2015). “Tam Quốc diễn nghĩa” đã hư cấu hình tượng Quan Vũ đến mức nào? http://soha.vn/doi-song/tam-quoc-dien-nghia-da-hu-cau-hinh-tuong-quan-vu-den-muc-nao-20150921173847928.htm
Trần Quỳnh (2016a). Bị hậu thế “dìm hàng”: Nỗi oan không biết tỏ cùng ai của Chu Du. https://soha.vn/bi-hau-the-dim-hang-noi-oan-khong-biet-to-cung-ai-cua-chu-du-20160531164552548.htm
Trần Quỳnh (2016b). Sự thật bất ngờ về điển tích “kết nghĩa đào viên” trong Tam Quốc. http://soha.vn/su-that-bat-ngo-ve-dien-tich-ket-nghia-dao-vien-trong-tam-quoc-20160916094506224.htm
Trần Tiến (2018). ‘Mọt’ Tam quốc (kỳ 4) – Phong vũ Kinh châu: Nước cờ ‘Bắc phạt’ của Quan Vũ. https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/mot-tam-quoc-ky-4-phong-vu-kinh-chau-nuoc-co-bac-phat-cua-quan-vu-n20181210064522118.htm
Trần Thọ & Bùi Tùng Chi. Tam Quốc chí (tức bản Trần chí, Bùi chú), biên dịch của Bùi Thông (2016). Nhà Xuất bản Văn học.
Trần Văn Đức. Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Dịch giả: Nguyễn Quốc Thái (2016). Nhà Xuất bản Văn học.
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết & Dương Hiệu Xuân (2006). Tướng soái cổ đại Trung Hoa, trọn bộ 4 tập. Nhà xuất bản Lao động.
Tư Mã Quang (1084). Tư trị thông giám; Bản dịch Việt văn của Bùi Thông, Nguyễn Đức Vịnh hiệu đính (Tập 1: 2016; Tập 2: 2017). Nhà xuất bản Văn học.
Wikipedia. Danh sách sự kiện hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa. https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_s%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_h%C6%B0_c%E1%BA%A5u_trong_Tam_qu%E1%BB%91c_di%E1%BB%85n_ngh%C4%A9a#cite_note-autogenerated8-8
Wikipedia. Nhân vật hư cấu thời Tam Quốc. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_v%E1%BA%ADt_h%C6%B0_c%E1%BA%A5u_th%E1%BB%9Di_Tam_Qu%E1%BB%91c
Tổng hợp: Diệp Minh Tâm — Tháng 7/2019
[…] Những hư cấu trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa” – https://tamdiepblog.wordpress.com/2019/07/26/nhung-hu-cau-trong-tieu-thuyet-tam-quoc-dien-nghia/. […]