Truyện ngắn hay (1)

 

Tháng ngày qua – Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam, 1905-1963)
Vì tình – Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ, 1907-1989)
Nắng trong vườn – Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân, (1910-1942)
Tôi đi học – Thanh Tịnh (Trần Văn Ninh, 1911-1988)
Hoa khế lưng đồi – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)
Khoảng trống sau lưng – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)
Lương mai – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)
Cuôi ba dùm – Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng, 1926- )
Sông Gành Hào – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)
Hòn Cổ Tron – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)
Người thầy học cũ – Mai Thảo (Nguyễn Đăng Quý, 1927-1998)
Những mảnh vụn – Ngô Ngọc Bội (1929-2018)
Ánh trăng – Nguyễn Bản (1931- )
Vũ điệu của cái bô – Nguyễn Quang Thân (1936-2017)
Đêm cỏ tuyết – Kiệt Tấn (Lê Tấn Kiệt 1939- )
Mưa không ướt đất – Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái, 1944- )
Khi biết thương màu lá – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Đừng đến sân ga – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Giao Thừa sao quên – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Loài hoa biến sắc – Dương Thu Hương (1947- )

 

Người sưu tập mong các tác giả thứ lỗi cho sự đường đột đã đưa các truyện ngắn lên đây. Nếu bài trên post này – vốn không vì lợi nhuận thương mại – chỉ nhằm kích thích người đọc yêu văn học, thì hẳn người sưu tập có thể được các tác giả dung thứ.

Đây là những truyện ngắn mà người sưu tập góp nhặt qua nhiều năm tháng: mỗi khi đọc được truyện nào có cảm xúc thì lưu lại. Như vậy, cảm xúc là theo chủ quan của người sưu tập: có thể vui vui (nhưng không quá hài hước) hoặc có thể buồn man mác (nhưng không quá thê lương), có thể là một niềm bâng khuâng, hoặc cảm nhận về cảnh đời con người trong một giai đoạn lịch sử nào đó. Cảm nhận này có thể đến chầm chậm lúc đầu, nhưng tạo ấn tượng lâu dài về sau. (Nhưng cảm nhận không có nghĩa là đồng ý với suy nghĩ của tác giả hoặc với ý tình trong truyện.)

Cho nên một số truyện ở đây có thể không tạo cảm xúc cho người khác. Chẳng sao cả, chín người mười ý mà! Và một số truyện có người cho là hay, nhưng đối với người sưu tập thì không gây cảm xúc. Vì thế mà có truyện đã được đưa vào giảng dạy trong môn ngữ văn vì lý do văn phong, ý tưởng, bố cục… ra sao đó cần được nghiên cứu và học hỏi, nhưng lại không hiện diện ở đây.

Hóa ra đây là bộ sưu tập những truyện ngắn trải dài trên dưới 8 thập kỷ trong nền văn học Việt Nam, trước đây ở cả hai miền Nam-Bắc, và bây giờ ở trong nước cũng như hải ngoại. Người sưu tập chỉ dựa theo cảm xúc của riêng mình mà không phân biệt địa-chính trị gì cả. Và cũng không phân biệt tác giả là ai để theo đó mà chọn lựa. Sự chọn lựa là theo con tim thôi. Cũng vì thế mà có tác giả nổi tiếng nhưng không được chọn ở đây (vì không theo tiêu chí chọn lựa dàn trải cho đủ các gương mặt văn học), trong khi có tác giả được chọn nhiều truyện hơn người khác (vì không theo tiêu chí đánh đồng).

Do sưu tập từ Internet nên không thể đảm bảo tính xác thực theo nguyên bản. Lại cũng vì lý do đó mà người sưu tập phải sửa rất nhiều lỗi chính tả cùng cách sử dụng các dấu chấm câu (không thể nào sửa hết)…

Người đọc chỉ nên tìm ở đây một vài giá trị nào đó về giá trị văn học, tâm lý học, hoặc xã hội học, nhưng không nên dùng tài liệu này làm cơ sở cho việc bình giảng, lý luận phê bình văn học…

Và không nên phát tán quá rộng các truyện này. Ai cũng phát tán như thế thì các tác giả sống làm sao?…

Bộ sưu tập này vẫn còn được mở. Tôi sẽ thêm vào đây truyện nào khác tạo cảm xúc cho mình.

Người sưu tập – Diệp Minh Tâm

Tháng ngày qua – Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam, 1905-1963)

Ðầu hiên, về phía trông ra vườn, một cái vườn trồng toàn roi, Minh và Giao cặm cụi ngồi học. Bấy giờ đã quá trưa. Trời trong biếc. Trên giàn thiên lý, mấy chùm hoa sẽ đưa trước gió, một vài tiếng gà gáy xa xa.

Giao đang học, tự nhiên thấy có cái cảm giác rất lạ, chàng không ngửng đầu lên mà biết chắc có người đứng nhìn chàng. Giao gấp sách lại, quay mặt ra phía vườn, thấy vợ bạn đương đăm đăm nhìn mình:
Hú vía! Chị Minh! Tôi thoáng thấy bóng trắng trắng lại ngỡ là ma.

Người vợ trẻ của Minh hơi có ý ngượng vì thấy Giao bắt gặp mình nhìn trộm, mỉm cười nói chữa:
Hai anh em học chăm quá, người ta đến gần mà không biết.

Lúc bấy giờ nàng đứng tựa đầu vào cái ghế dài, như có vẻ mỏi mệt, cặp môi hơi hé, hai gò má phơn phớt đỏ và đôi mắt trong trẻo, sáng sủa như ánh nắng rực rỡ mùa hè. Nàng có cái vẻ đẹp lộng lẫy quá, khiến Giao không dám nhìn lâu, nhất là không dám nhìn hai con mắt của nàng, hai con mắt huyền bí như có cái mãnh lực vô hình làm cho Giao rạo rực, náo nức cả trong lòng.

Nàng đưa ra mấy cánh hoa nhài và bảo chồng:
Này cậu, cây nhài hôm nọ tôi mua ở chợ về, có hoa rồi đấy, cậu lấy cốc cho nước vào để cắm hoa.

Minh, mắt vẫn để vào sách nói:
Tôi rất ghét thứ hoa nhài. Ngửi nó đâm ra nhức cả đầu.

Nhưng Giao không nghĩ thế, chàng hiểu vì cớ gì mà người vợ Minh đem hoa đến, chàng cảm động. Từ hôm nói chuyện với Minh rằng ở trên đời chàng không thích hoa gì bằng hoa nhài, thì chàng thấy vợ Minh mua ngay cây nhài về trồng trong vườn, tưới xới săn sóc đến luôn luôn. Hôm nay cây nhài nở mấy bông hoa đầu, vợ Minh ngắt hoa có cái ý nghĩa gì, Giao đã hiểu.

o O o

Ðã hơn một tháng nay, Giao cố sức chống lại với cái sức mạnh của ái tình, nó như ngọn sóng gió muốn lôi cuốn chàng đi. Chàng mới có mười bảy tuổi, cái tuổi còn non nớt lại gặp ngay mối tình mãnh liệt mà éo le.

Tuy Minh hơn Giao những bảy tuổi mà hai người cùng học một lớp ở trường Trung học. Giao trọ ở nhà một người quen trong làng N, nhưng vì bên nhà Minh có vườn mát mẻ nên thường hay sang cùng ngồi học với Minh, nhân tiện chỉ bảo giúp Minh, vì Minh học lực rất kém. Thế rồi ngày một ngày hai, khi đi lại, lúc ra vào, Giao cảm vì cái sắc đẹp rực rỡ của vợ Minh mà xem chừng vợ Minh cũng vì cái tình ngây thơ của một cậu học trò còn trẻ tuổi đối với mình.

Nhưng hai người cùng sợ, cùng rụt rè, không dám tìm cách để gặp nhau, nhưng cũng không nỡ xa nhau, cứ để mặc cho cái mùi hương nguy hiểm của ái tình nó mê đắm cả hai người.

Giao biết, biết là có một ngày kia chàng sẽ phạm vào tội lỗi đối với bạn, chàng biết là sẽ làm một việc rất xấu, nên chàng hết sức chống lại. Có khi chàng giữ hai, ba ngày không sang nhà bạn nhưng cái vẻ đẹp kia, đôi má hồng, hai con mắt sáng kia như có sức mạnh bắt chàng không thể nào quên được. Giao lại sang, tự an ủi mình rằng ngắm một người đẹp đã tội lỗi gì đâu.

Cứ mỗi lần Giao sang ngồi học với Minh thì người vợ hay lân la đến chỗ hai người nói chuyện vơ vẩn. Một hôm Giao sang học bên nhà bạn, thấy cửa đóng, gõ thì người vợ ra mở. Nàng thấy Giao làm ra bộ ngạc nhiên:
À anh Giao! Tôi lại tưởng có người đến hỏi nợ, đã lo!

Rồi nàng cười, cười tít đi, đôi má lại càng đỏ, hai con mắt lại càng trong, khiến Giao cuống quít, không biết nói làm sao. Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
Hôm nay anh Minh đi vắng!

Rồi nàng nhìn Giao như dò ý tứ. Giao vội nói:
Thế chị để tôi về thôi, mai sang.

– Về nhà bức chết, anh cứ vào mà ngồi học… việc gì!

Rồi nàng nhìn lên cây, vỗ tay nói một cách ngây thơ như đứa trẻ vui mừng:
Roi chín rồi, để tôi lấy sào chọc mấy quả anh ăn. Ngọt, giòn, mát như đường phèn.

Nàng vừa nói vừa chép miệng, rồi làm bộ như nuốt nước bọt thèm, nhìn Giao cười.

Giao nhìn lên cây roi thấy trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu, sắc da mát và hồng, như muốn trêu giục người ta hái xuống ăn ngấu ăn nghiến, lại nhìn đến người đàn bà đôi má hồng, tự nhiên trong trí chàng nảy ra một sự so sánh chùm quả ngon với người con gái đẹp. Trong lúc say đắm về cách cử chỉ của nàng, Giao không nghĩ gì cả, nhưng Giao sợ, sợ không thoát khỏi! Chàng biết chàng như con cá riết con đã mắc vào lưới, không tài nào thoát, nhưng cũng giẫy giụa trước khi chịu khuất phục.

Một lát vợ Minh đi vào, tay cầm một chùm roi, tóc xõa xuống má, nhìn Giao hớn hở.

Giao đứng ngay dậy, thì nàng cũng vừa bước lại gần sát bên cạnh: bốn mắt gặp nhau. Giao nhìn nàng thấy nàng đổi khác hẳn mọi khi: cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình.

Một lát, nàng sẽ nói:
Mời anh xơi roi…

Lúc bấy giờ Giao như người mất hồn, mặt nóng bừng, không nghĩ gì nữa, như bị hai con mắt đẹp huyền bí của nàng làm tê mê… Giao khẽ để tay lên tay nàng – tay nàng còn cầm chùm roi – nàng để yên không kéo ra, cúi đầu e thẹn. Bỗng tự nhiên, nàng giật mình kéo mạnh tay ra, lùi lại một bước, kêu:
Con sâu! Trong quả roi có con sâu…

Giao nhìn, quả nhiên thấy trong một quả roi to nhất, đẹp nhất, có con sâu từ từ bò ra leo lên tìm đường thoát. Giao vội vàng ném quả roi ra vườn. Nhưng từ lúc đó, chàng như người ngủ mê mới tỉnh: con sâu trong quả roi đã làm cho chàng biết rằng chàng sắp phạm một tội xấu xa, mà trong lúc mê man vì sắc đẹp chàng không nghĩ tới. Chàng ném quả roi xong, quay lại thấy vợ bạn đương nhấc bức mành, bước vội vào nhà như người đi trốn.

Giao thở dài, cắp sách về nhà trọ, và từ đấy, chàng không tới nhà bạn nữa.

o O o

Bảy năm sau… trong bảy năm đó vì việc nhà, Giao phải cách biệt hẳn Hà Nội, phiêu lưu nay đây mai đó: trên đường đời, chàng đã gặp biết bao nhiêu là mỹ nữ, nhưng chàng không sao quên được người xưa.

Bảy năm sau, nhân về Hà Nội, chàng thuê xe xuống làng N… để thăm người bạn học mà chàng phải xa cách, mà nhất là thăm người mà bảy năm về trước có cái sắc đẹp đã làm rung động tấm linh hồn ngây thơ của chàng.

Tình cờ lúc đó lại vừa đúng tháng sáu, đúng mùa roi chín.

Tuy đã lâu năm, nhưng chàng nhận ngay được ngõ vào nhà bạn, cái cổng gỗ bây giờ đã cũ, mấy cây roi có to hơn, nhưng trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu vẫn một sắc da mát và hồng như trước.

Chàng gõ cửa, thấy trong nhà có tiếng người đi ra. Cửa mở, một người đàn bà, tay bế con, thấy Giao buộc mồm kêu:
Anh Giao!

Nàng nhận ngay ra được cậu học trò, bạn học của chồng ngày trước.

Nàng mừng quá, chỉ nói được thế thôi rồi đứng nhìn Giao từ đầu đến chân. Nhưng Giao trông nàng lấy làm lạ, ngạc nhiên, hơi ngờ ngợ. Chàng lãnh đạm hỏi:
Bác trai có nhà không, bác?

Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
Nhà tôi đi vắng.

Giao bước vào thấy cảnh sắc vẫn nguyên như cũ: vẫn giàn thiên lý ở đầu nhà, dăm chùm hoa nở, vẫn cái án thư, hai cái kỷ ở đầu hiên, chỗ mà chàng vẫn ngồi học với Minh năm nọ.

Lúc ngồi nói chuyện, uống nước với vợ Minh, Giao cố ý ngắm kỹ nàng, vì Giao không nhút nhát như trước mà không dám nhìn lâu nữa – nhưng bây giờ còn đâu cái đẹp nồng nàn, còn đâu đôi má hồng, hai con mắt trong trẻo sáng sủa như nắng rực rỡ mùa hè…

… Tháng ngày qua… sắc đẹp tàn…

Nàng thẫn thờ nói:
Chóng thật! mới ngày nào, bây giờ đã…

Nàng ngẩng nhìn lên tường thấy bóng mình in trong cái gương to để đấy, cái bóng một người đàn bà đứng tuổi, không có vẻ gì là vẻ thanh xuân, nàng chạnh tưởng tới cái sắc đẹp lộng lẫy khi xưa nay đã tàn. Nàng nhìn Giao, Giao nhìn nàng, hai người cùng một ý nghĩ như nhau.

Nàng buồn rầu, nhắc lại:
Chóng thật!…

Rồi nàng cố gượng làm bộ vui tươi, bảo Giao:
Bác đến may quá, vừa đúng mùa roi chín… để lấy mấy quả bác xơi.

Giao ăn roi nhìn nàng nói nửa đùa nửa thật:
Roi vẫn ngọt, vẫn mát như đường phèn… nhưng bây giờ không có sâu nữa.

Rồi hai người cùng mỉm cười, cái mỉm cười chua chát, biết bao ý nghĩa, như nhắc hai người ôn lại chuyện xưa. Giao bùi ngùi nhớ lại cái mơ mộng ngày trước, cái mơ mộng yêu một cách thiết tha và không chánh đáng, một cái sắc đẹp mà bây giờ chàng mới biết là ảo mộng, mong manh không có giá trị gì!

Chuyện vẩn vơ một lúc, Giao đứng dậy xin cáo từ. Nàng cũng tiễn theo ra.

Lúc đi qua chỗ ngồi học ngày trước, chàng thấy trên án thư một cái cốc không, có cắm mấy cành nhài mà lúc vào chàng không để ý đến. Mấy bông hoa nhài trắng như mấy cái nụ cười âu yếm nhắc lại trong trí Giao câu chuyện tặng hoa ý nhị năm xưa. Mấy bông hoa có lẽ vô tình cắm đó đã làm cho Giao có cái ảo tưởng rằng trong bảy năm nay, lúc nào nàng cũng còn nhớ đến cậu học trò, cậu học trò đã trót mê nàng vì cái sắc đẹp mà bây giờ không có nữa. Cái ảo tưởng ấy làm cho Giao man mác trong lòng.

Trước khi từ biệt, Giao nhìn thẳng vào mắt nàng như để tỏ lời cám ơn nàng trong bấy lâu vẫn để bên lòng một chút tình thương yêu chàng, chút tình ấy kín đáo hơn cái sắc đẹp kia, nhưng lâu bền hơn.

Tháng ngày qua… sắc đẹp tàn… nhưng cái hương thơm của tình thương yêu tuyệt vọng, u uẩn của nàng đối với Giao còn phảng phất không bao giờ phai.

Vì tình – Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ, 1907-1989)

Anh Trần Văn quả không phải là người đẹp trai.

Độc giả hãy tưởng tượng một người trạc hai mươi nhăm, nước da đen, mũi to nhô đại ra ngoài, cái trán cũng nhô trông như cái bướu, đôi lông mày rất rậm, làm cho cặp mắt cận thị của anh ta có một vẻ dữ tợn đến kỳ khôi. Anh ta ăn mặc quần áo tây nhưng người lùn mà cả ngang, dáng đi láu táu trông rất ngộ nghĩnh. Cả người anh ta cái gì trông cũng buồn cười.

Tôi yêu bạn tôi đến đâu cũng phải nhận rằng bạn tôi trông xấu quá!

Văn cũng tự biết thế. Có khi anh lại tự chế giễu mình để làm cho bạn hữu vui cười. Nhưng anh ta là một người tính nết thật thà, dễ tin người và có một tấm lòng tử tế hơn ai hết thẩy.

Tôi lại phải nói cho độc giả hay rằng con người giản dị thực thà kia lại là người đa tình nữa. Chẳng biết đó có phải là điều “mai mỉa của số mệnh” không? Chỉ biết bạn tôi biết yêu, mà yêu say, yêu đắm, yêu thiết, yêu tha; tình yêu trong huyết mạch người con trai này sôi nổi như sóng bể. Nhưng trong bao nhiêu thiếu nữ mà anh ca tụng nhan sắc, anh ta không được lấy một cô nào để ý đến mình. Cái đó cũng không lấy gì làm lạ.

Ấy vậy mà anh Văn cũng có một chuyện tình, hay một chuyện mà anh sẵn lòng gọi là chuyện tình thì đúng hơn. Câu chuyện thực chẳng hay gì cho anh ta, nhưng bạn tôi không muốn quên, mà mỗi khi nhắc tới, lại ra ý cảm động như người âu yếm vuốt ve một điều ký vãng êm ái.

Đầu đuôi câu chuyện như thế này:

Tháng chạp năm ấy, anh Văn lên Yên Bái, thăm một người bà con. Lúc trở về anh gặp một người thiếu nữ, ăn mặc giản dị, người rất đẹp, và rất có duyên, cùng đi với anh ta một chuyến xe hỏa.

Người ấy ngồi ngay ghế trước mặt Văn, khiến cho anh chàng mở một quyển sách ra nhưng không đọc được câu nào hết. Văn là người nhã nhặn lễ phép, nên không dám nhìn lâu, sợ người thiếu nữ ngượng. Anh ta thỉnh thoảng mới sẽ kín đáo trông lên, để cho mắt được hưởng cái nhan sắc kia trong giây lát thôi. Cái lòng yêu mộ của bạn tôi thì thực nồng nàn, song chỉ dám biểu lộ ra đến thế là hết. Vả anh ta biết rằng mong hơn cũng chẳng được nào. Người thiếu nữ thì trắng trẻo thế kia, yêu kiều thế kia, trên khuôn mặt thanh tú ấy không chỗ nào đáng chê, còn mình thì… ôi chao! Bạn tôi chép miệng thở dài một cách rất chua chát.

Rồi anh ta nghĩ bụng: “Giá mình được là người quen với con người nhan sắc như thế cũng đủ lắm rồi”.

Anh ta bèn cố tình đợi dịp làm quen. Thì may sao cái dịp ấy hiện ngay đến sau khi người thiếu nữ ra cửa toa để nhổ quết trầu.

Xe hỏa về ngày gần Tết, nên rất đông; lúc cô kia ở cửa toa trở vào thì đã bị hai bác nhà quê chiếm mất chỗ. Người thiếu nữ thấy họ ra chiều không nể gì ai hết nên không nói gì, chỉ cau mày vịn tay lên mép cửa sổ gần đấy đứng nhìn ra cảnh tượng bên ngoài.

Văn ngồi bên này tức hộ cô kia, liền mắng cho mấy bác đàn ông vô lễ mấy câu ra phết lắm. Đoạn anh ta đứng dậy, đến bên người thiếu nữ, lúng túng một chút rồi mời cô ngồi xuống chỗ mình. Người thiếu nữ không từ chối. Cô ta vén áo ngồi xuống, lại cám ơn anh Văn bằng một nụ cười. Thế là đủ cho bạn tôi bay ngay lên tận chín tầng mây.

Anh Văn đứng bên người thiếu nữ, không giấu được sự vui mừng. Anh ta lấy dáng bộ rất tình tứ, làm như mình chẳng lùn một tý nào hết, và quên bẵng đi rằng mình hiện làm chủ nhân một cái “mũi sư tử”, đôi mắt cận thị với cái trán gồ. Nhưng dẫu cho bạn tôi có nhớ đến cái xấu đáng giận của mình cũng không hề gì mấy,- anh ta cũng vẫn sung sướng được, bởi vì người thiếu nữ hình như không trọng bề ngoài lắm, và hình như chỉ cảm riêng vì tấm lòng quý báu của anh Văn tôi.

Coi lối ăn mặc nhã nhặn của cô ta, Văn đoán là người nền nếp ở tỉnh nhỏ. Thế thì cô đã không có cái thói đỏng đảnh khinh người như bọn tiểu thư Hà Nội, họ chỉ ưa chuộng những công tử tốt mã bề ngoài. Anh ta lại thấy cô kia đi có một mình nên mới lấy thứ giọng bao dung và rất nhã nhặn mà hỏi:
Thưa cô, cô đi đâu?

– Thưa ông, em xuống Hà Nội.

– Thưa cô, cô xuống chơi hay có việc?

– Thưa ông, em xuống hỏi nợ một người chịu tiền hàng.

Rồi cô ta hỏi lại Văn:
Ông cũng về Hà Nội ư?

– Thưa cô vâng.

Thế rồi câu chuyện của hai người cứ thân thiết hơn, đằm thắm hơn lên, mà con mắt đắm đuối của người thiếu nữ thêm lóng lánh, thêm tình tứ…

Anh Văn thì chưa thấy bao giờ mình có duyên đến thế.

Anh ta cười bằng miệng cười xinh đẹp nhất, hắng giọng luôn để đỡ cảm động, và cứ chớp hoài đôi mắt cận thị để cho mình biết chắc rằng đây là sự thực, chứ không phải trong giấc mơ. Người bạn tốt của tôi thực không ngờ rằng lại được hưởng những giây phút êm đềm quá đáng ấy.

Mà cái hạnh phúc mỗi lúc một tăng lên! Một lần tầu đỗ, hành khách lên ít, xuống nhiều. Người thiếu nữ lại ngồi nhích ra một bên, để cho Văn ta được ngồi cạnh. Lại một lần khác, người thiếu nữ đánh rơi chiếc khăn tay lụa, anh Văn nhặt lên hộ, lúc trả, được chạm đến bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân. Rồi lại được mỹ nhân mời ăn trầu. Văn răng trắng, diện tây, nhưng cũng nhận lấy một cách rất lịch sự.

Anh ta cứ hết lòng cảm tạ sự tình cờ đã làm cho anh gặp được người thiếu nữ, và trong trí đã thấy trước những chuyện tình duyên êm ái sau này. Có một người nhan sắc để mà yêu, để mà nhớ thương, để mà mong đợi đến cái ngày tốt đẹp kia là ngày được sánh vai người ngọc! ồ, còn gì sung sướng cho đời người hơn! Anh Văn thường ngỏ riêng với tôi rằng: “Tôi xấu thế này, chỉ mong lấy được một người có duyên thôi, thế cũng đủ mãn nguyện”. Thế mà người thiếu nữ kia đã có duyên lại đẹp, lại sắc sảo, lại lễ phép, lại con nhà nền nếp, đủ mọi điều hay! Mà lại còn tỏ ra lòng quyến luyến anh Văn nữa kia! Cho nên một lời nói của cô ta, một cử chỉ của cô ta, cùng những ý tứ ở đầu mày cuối mắt cô ta, đã khiến cho trái tim bạn tôi nhiều lần đập mạnh lên dữ dội.

Ngồi bên một người đẹp như thế thì đường dài đến đâu cũng là ngắn. Chả mấy chốc, xe lửa đã tới Gia Lâm.

Rồi qua cầu.

Rồi qua ga Đầu Cầu.

Mọi người đều thu xếp để xuống. Người thiếu nữ buộc lại khăn vuông ra đằng sau gáy rồi đến đứng bên một cái va ly là hành lý của cô ta. Anh Văn lại bên hỏi:
Cô có ai ra đón tầu không?

– Thưa ông, không ạ!

Văn mừng thầm sẽ được dịp xách hộ va ly. Anh ta lại nói:
Từ Hàng Da tới Cửa Nam cũng gần, vậy trước khi ngược Yên Bái, cô ghé qua vào chơi nhà tôi.

– Xin vâng.

Người thiếu nữ lúc ấy đưa đầu ra ngoài cửa sổ trông về phía ga.

Tầu dần dần chạy chậm lại. Văn đang tìm câu gì nói nữa bỗng nhiên cô ta quay lại, tái mặt đi. Văn ân cần hỏi thì cô ta gượng cười đáp:
Em đi tầu không quen, nên vừa đứng dậy đã chóng mặt.

– Thế mà tôi tưởng cô phải cảm… Nhưng cô ngồi xuống, không mệt thêm.

Người thiếu nữ ngồi xuống, mỉm cười nhìn Văn bằng đôi mắt mệt nhọc, dịu dàng và… âu yếm. Văn sướng quá, đỏ cả má, đỏ cả mũi, lần hết túi ba đờ xuy đến túi áo trong định tìm một vật mà không thấy, rồi phàn nàn:
Buồn quá! Tôi bỏ quên lọ dầu ở nhà ông bạn rồi. Không thì cô lấy một chút xoa cũng đỡ.

– Nhưng không hề gì cả! Em cũng chỉ choáng váng một chút thôi.

– Tuy thế cô cũng nên ngồi yên đấy để tôi mang hành lý xuống trước đưa cho mấy người nhà đứng đợi ở ga rồi tôi lên đón cô sau.

Người thiếu nữ tỏ ý mừng rỡ và cám ơn Văn, nhưng cũng nói:
Như thế phiền ông quá.

– Không. Nào, cô có những gì?

– Em chỉ có cái va ly đó thôi. Nhưng phiền ông quá!

– Không có gì mà phiền. Tôi đi không cũng thế.

Lúc ấy tầu vừa đỗ.

Cái va ly nặng lắm mà Văn ta làm ra bộ rất khỏe, coi như rất nhẹ, rồi hăng hái xách bước xuống sân ga. Bấy giờ thì anh ta cao lớn lực lưỡng lắm.

Người thiếu nữ đứng trông theo Văn, tay bóp thái dương. Anh ta thấy mỏi cánh tay mà chưa dám nghỉ vội. Đi đến gần lối ra hạng ba, anh ta mới dám đặt va ly xuống. Đợi một lúc mà đám người chen chúc trước mặt vẫn không chịu tiến lên, Văn nóng ruột hỏi một người đi cạnh mình:
Sao lại đứng cả lại thế này?

Người ấy trả lời:
Họ khám hành lý.

Văn quay lại nhìn thì người thiếu nữ chắc đã ngồi xuống, trông qua cửa sổ xe hỏa không thấy nữa… Văn sợ cô ta đợi lâu quá liền cố sức lách lên trước thì bị mấy người đội đoan cản lại, bắt đưa va ly cho họ xem.

Một người lính đoan bảo Văn:
Chúng tôi vừa nghe tin báo có người đem thuốc phiện lậu đến Hà Nội nên phải khám hành khách.

Văn mỉm cười, đáp:
À, tưởng gì!

Vừa nói dứt lời thì cái va ly người thiếu nữ gửi, mở tung ra, trong thấy đầy những hộp bằng đồng, gắn kín và to bằng quyển sách dầy cộp.

Một người đội đoan cười gằn, nói tiếng Pháp:
Lần này thì anh không thoát được tay tôi!

Văn chưa hiểu ra sao thì đã bị người ta điệu về sở Thương chính.

Tuy rằng bạn tôi hết sức phân trần rằng mình là con nhà lương thiện, không bao giờ làm điều trái phép, nhưng không ai tin. Cái va ly thuốc phiện lậu đó là cái cớ buộc tội rất hùng hồn. Anh ta khai rằng anh ta quá tin người, rằng người ta lợi dụng mình; song nhất định không chịu nói rằng đó là một người con gái.

Nhờ nhiều người có thế lực che chở nên Văn mới được tại ngoại hậu cứu, sau khi bị giam đến gần nửa tháng – từ hăm ba tháng chạp tới mồng mười tháng giêng. Đến lúc ra tòa, anh ta mạnh thầy cãi, nên chỉ phải phạt có hai tháng tù án treo với bồi thường cho sở Thương chính ba nghìn bạc.

Lúc kể chuyện này cho tôi nghe xong, bạn tôi thản nhiên kết luận:

“Tuy vậy, tôi cũng được ngồi nói chuyện với người có nhan sắc ấy… hơn hai tiếng đồng hồ”

Nắng trong vườn – Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân, (1910-1942)

Gần hết mùa hè năm… tôi không rời bỏ Hà Nội một cách đột nhiên. Buổi sớm kia, khi troở dậy trong căn phòng nhà trọ, tôi thấy ánh nắng rực rỡ xuyên qua các khe lá đến nhẩy múa trên mặt tường. Trời trong và gió mát quá, khiến tôi chợt nhớ đến cánh đồi, ruộng ở chỗ ông Ba ở mà đã lâu năm tôi chưa về thăm.

Một vài bộ quần áo với mấy quyển sách đem theo, tôi hớn hở ra ga, sung sướng được xa lánh cái náo nhiệt của thành phố, và nhất là được quên những bài học khô khan và vô ích ở nhà trường.

Tất cả tâm hồn tôi nẩy nở dưới cơn gió từ quãng không đưa lại. Trên tầu, tôi mải mê ngắm dẫy đồi núi xanh xanh ở tận chân trời; chỗ tôi sắp đến cũng có những đồi núi như thế. Ông Ba, bạn thân với cha tôi hồi trước, có một cái đồn điền rộng, trồng toàn sắn và chè. Hồi nhỏ, tôi đã nhiều lần đến chơi nhà ông, nhưng từ khi ra học Hà Nội, tôi không có dịp về nữa.

Xuống ga, một cái ga nhỏ gần tỉnh P., không có ai ra đón tôi cả. Tôi biết trước, vì khi đi tôi cũng không gửi giấy báo cho ông Ba biết. Tôi muốn đến một cách bất thình lình.

Chiếc cập cắp ở nhác, tôi thong thả theo con sông Cống, chạy khuất khúc lên giữa các đồi. Một cái cầu gỗ mong manh bắc qua sông. Hai rặng thông từ trên đỉnh đồi chạy xuôi xuống tận gần bờ, giữa luồng gió thoảng, và cái tiếng rì rào như nhớ nhung của lá thông trái gió nhắc tôi nghĩ đến những cảnh rộng rãi bao la.

Buổi chiều rất êm ả. Về phía tây, mây trời rực rỡ những mầu sáng lạn và ánh nắng chiều loàng một khúc sông, trông như một giải vàng nổi lên giữa đồi ruộng đã bắt đầu tím lại. Một đàn chim đi ăn về vút bay qua ngang đầu, tiếng cánh vỗ rào rào như trận mưa; tôi ngửng lên nhìn theo đến khi cái vết đen linh động của đàn chim lặn hẳn với chân mây.

Tôi theo con đường nhỏ ở ven đồi, qua hai dẫy phố, một cái chợ nhỏ, rồi rẽ về bên phải. Nhà ông Ba ở ngay chân đồi, trông xuống chợ, một cái nhà gạch cũ, tường phủ rêu xanh. Tôi không lưỡng lự, bước đến đẩy cổng vào.

Qua cửa, lên mấy bực vườn chè, tôi gặp ngay hai ông bà đang ngồi hóng mát ở giữa sân. Ông Ba thấy tôi reo to:
A, cậu Bình đã lên. Từ lúc gửi giấy về, chúng tôi mong cậu mãi.

Bà Ba cũng ân cần hỏi:
Sao cậu không đánh giây thép lên cho biết trước để ra đón?

Tôi ngả mũ chào, đáp lại lời hỏi thăm vồn vã của bà Ba, bà lạ bạn thân với mẹ tôi, hồi mẹ tôi còn buôn bán ở trên này.

Ông Ba là một người nhà quê đứng tuổi và khoẻ mạnh. Trông khe áo cánh hở ngực, tôi thấy người ông nở nang, da xám và hồng hào, nước da của những người làm lụng ở ngoài trời và ánh nắng.

Ông đứng dậy nắm tay tôi, đẩy một đứa bé con lại gần, bảo:
Đây, cậu Bình đây, con chào đi.

Rồi quay lại phía tôi, ông cười nói:
Nó cứ nhắc đến cậu luôn và cứ đòi lên Hà Nội.

Tôi xoa đầu cậu bé xinh xánh, độ lên bẩy, tám tuổi. Song, ông Ba rủ tôi đi xem vườn và phố chợ.

Nhà ông chung quanh là vườn cả, từng đợt cao, thấp lên đến đỉnh đồi. Hai bên giồng toàn trà và sắn. Giữa có một lối đi, xếp từng bực đá, những hòn đá mầu xám tím, chơn chu và từng chỗ có rêu xanh bám phủ đầy. Thỉnh thoảng, một cây bứa tươi tốt mọc ở bên, những cành thấp xiên ngang ra khiến chúng tôi phải cúi mình chui qua.

Xuống đến chân đồi, tôi bỗng nghe thấy tiếng cười nói trong cây lá, và qua mấy rặng trà, tôi thấy thoáng có bóng người. Ông Ba nhìn tôi bảo:
Hai em đây, cậu còn nhớ không?

Tôi gật đầu yên lặng tuy không có hình ảnh nào nổi lên trong trí nhớ cả.

Phố chợ ở ngay đầu cầu. Con sông Cống uốn éo trong dẫy đồi, khuất đi, rồi lại loáng loáng đằng xa, chạy giữa những giải ruộng eo hẹp. Bấy giờ sương đã xuống, dặng núi ở chân trời đã bị che lấp. Chúng tôi dạo qua một lượt ở phố, hay dẩy nhà lá nhỏ bé, nhưng ngăn nắp và sạch sẽ, trông rất vui mắt.

Sẫm tối, ông Ba cùng tôi về, một mâm cỗ đầy đã thấy bầy trên chiếc bàn ở giữa sân, bà Ba đang chạy loăng quăng sửa soạn các thức ăn. Thấy tôi, bà vội vã mời:
Cậu về ăn cơm. Có bữa ăn xoàng, xin cậu ăn thực bụng nhé!

Tôi mỉm cười, rồi ngồi vào bàn, tuy trong người mệt mỏi và không thấy đói mà cũng phải cố ăn để vui lòng bà chủ. Ông Ba thì vui vẻ lắm, như rất thích được có người đến chơi, nhất người ấy lại là tôi. Ông uống từng chén rượu lớn, cười nói vang lên. Bà Ba ngồi yên lặng bên cạnh, luôn luôn gắp thức ăn vào bát, ép tôi ăn. Bà cũng hình như vui vẻ lắm vì thấy chồng vui vẻ.

Tôi đưa mắt nhìn vào trong nhà rồi hỏi:
Thưa bác, các em đâu?, bác không bảo ra ăn cơm một thể.

Bà Ba đáp:
Cậu cứ ăn đi. Các em nó đã ăn cơm cả rồi.

Ngừng một lát, bà mỉm cười nói thêm:
Chúng nó thẹn không dám ra.

Ông Ca cười to, đáp:
Ồ, cậu Bình đấy, chứ ai đâu mà thẹn. Chúng nó không nhớ lúc bé vẫn bám theo cậu ấy xin quà à?

Tôi cố nhớ lại buổi cuối cùng lên chơi đây, đã lâu lắm. Hình như độ ấy có hai cô gái bé con để chỏm và mới cắp sách đi học.

Tôi không thể ngờ được lại là hai cô thiếu nữ mà tôi mới thoáng trông thấy ở trong vườn.

Bữa cơm xong, ông Ba bắc ghế ra ngoài sân cùng tôi ngồi nói chuyện. Ngọn đèn dầu có cái chao lụa xanh xinh xắn – chắc hẳn là một công trình của hai cô thiếu nữ – để trên chiếc bàn con, chiếu ra một vùng ánh sáng, làm nổi trắng mấy gốc trà cằn cỗi. Chiều đã tối hẳn, trên trời cao, hàng ngàn ngôi sao thi nhau lấp lánh qua không khí trong và mát. Đêm của vùng đồi bao bọc lấy tôi, đầy những hương thơm lạ theo cơn gió từ đâu đưa lại. Muôn tiếng đều khe khẽ làm cho cái yên lặng vang động như tiếng đàn; những con bướm nhỏ vụt từ bóng tối ra, đến chập chờn ở trước ngọn đèn, rồi lại lẩn vào bóng tối, như những sự gia lẹ làng của cảnh rừng nói chung quanh.

Tôi thấy vui sướng và thư thái trong lòng. Lần đầu, đêm tối và cảnh vật đối với tôi thân mật như một người bạn, khác với khi ở Hà Nội, đêm chỉ là những cuộc vui chơi mệt mỏi và nặng nề.

o O o

Sáng sớm hôm sau, tiếng chim kêu ríu rít trong vườn đã đánh thức tôi dậy. Mặt trời còn khuất sau quả đồi, ánh một vùng hồn lên nền trời xanh biếc. Bên kia sông, rừng cây từng lớp nhiều mầu còn mờ lẩn trong màn sương trắng.

Dưới chân đồi, những mảnh ruộng mạ non như nhung, những thửa ruộng nước sáng lên như tấm gưong. Con đường đất đỏ ngòng nghoèo qua cánh đồng, người đi chợ trộng nhỏ bé như một đàn kiến. Tất cả trời đất trên cao nhìn xuống như cùng cả một bài ca vui vẻ và ham sống, khiến tôi thấy náo nức trong lòng.

Tôi trèo lên đỉnh đồi, ngồi trên những tảng đá quay nhìn khắp bốn phương. Khi nắng bắt đầu gay gắt, và cỏ đã mềm nóng dưới gót chân, tôi thong thả xuống, đi len lỏi vào các vườn chè, sầu, rồi đến bờ sông Cống, tìm một chỗ bóng mát nghỉ ngơi. Tôi ngả người trên cỏ nằm mơ mộng, đếm tiếng kêu của chim gáy ở tận đâu xa xa. Tất cả buổi, tôi chỉ quanh quẩn ở ngoài đồi, trông và nghe không biết mỏi.

Chiều đến, tôi lặng nghe luồng gió thì thào trong gành đá, hay đứng trên đồi nhìn sương mù từ từ bốc trên mặt sông. Tôi lần theo những con đường cỏ ướt đỏ lịm trong bờ rậu cái điểm sáng của con sâu đêm. Tôi ngẩng nhìn những vì sao lấp lánh trên không giải ngân hà mờ sáng và tìm ông Thần Nông đội mũ đỏ.

Khi đi chơi thơ thẩn đã chán, tôi ngồi tiếp chuyện ông Ba trên bộ trường kỷ kê ngoài hiên. Ông Ba trước có ra mở cửa hàng buôn bán, nên ông kể chuyện lại những công việc làm ăn ngoài ấy. Tôi nghe chuyện ông mà chán. Nhưng nhiều khi, đang câu chuyện, tôi ngừng lại vì thấy đằng sau ông Ba, đôi mắt mở to của cô Hậu – con gái cả ông Ba – nhìn tôi một cách chăm chú. Tôi trông lên thì cô ta lại quay mặt đi. Nhưng trong lúc đó, tôi vẫn có cái cảm giác rằng đôi mắt cô đang nhìn tôi.

Hôm sau, tôi để ý đến Hậu. Cô ta rất trẻ, mới độ mười lăm, mười sáu tuổi. Người mảnh dẻ và uyển chuyển như một cành non, khuôn mặt xinh xắn và tươi. Tuy vậy, tôi cũng không chú ý lâu đến cô, chỉ coi cô như một nữ sinh còn nhỏ tuổi, ngây thơ và trẻ dại.

Nhưng thỉnh thoảng những lúc tôi thơ thẩn đi chơi, hình ảnh cô ta lại thoáng hiện qua trong trí. Ở chỗ này, tôi chỉ nhận thấy những người đàn bà nhà quê cục mịch và ngượng nghịu. Cô Hậu là biểu hiệu sự tươi tắn, và thanh nhã. Từ hôm tôi về đây, một đôi khi cũng cùng cô nói chuyện, và nhờ cô những công việc vặt như khâu vá quần áo. Thỉnh thoảng tôi cho cô mượn các tờ báo cũ, và mấy quyển tiểu thuyết tôi đem theo.

Những cơn gió mạnh của đồng nội, mùi thơm mát của hoa cỏ, và vẻ rộng rãi của khoảng trời mây chiếm cả linh hồn tôi. Những cuộc đi chơi lâu trong các vườn chè nương sắn, hay trên sườn đồi làm cho người tôi bồng bột, hoạt động hơn lên. Những lúc ấy, tôi muốn có một người con gái đi bên cạnh, để chia sẻ bao nhiêu cảm giác say sưa ấy.

Nhưng tôi còn ham muốn những cái thú mà một cô thiếu nữ không đem đến được. Tôi còn thích ngắm cảnh rừng đồi, thích vượt qua những nơi cỏ và lau sậy sắc làm sây sát cả chân tay. Những buổi trưa nắng, tôi tìm chỗ có bóng mát, phanh áo nằm trên cỏ thiu thiu ngủ. Những mộng đẹp đến ám ảnh tôi, những mộng mà trong ấy tôi mơ màng khoác tay một cô gái cùng đi len lỏi trong vườn chè. Rồi dần dần hình dáng cô gái đó rõ rệt là hình dáng cô thiếu nữ con ông Ba.

Tôi vùng tỉnh dậy, bước đi nhanh như để tránh xa sự ám ảnh ấy. Tôi lên đồi cao để gió mát thổi vào trán, để mớ tóc bay phất phơ theo chiều gió mạnh.

Tuy vậy, mỗi ngày tôi lại chú ý đến cô ta hơn lên. Mà cô cũng hình như tìm hết cách để làm tôi chú ý đến cô. Trong lúc tôi xem sách hay ngồi nghỉ ngơi, hễ cứ ngẩng đầu lên là tôi lại thấy cô đăm đăm nhìn tôi, hai mắt nhung như cành hoa tím ướt; cô vội quay mặt đi, nhưng cũng không kịp để giấu tôi thấy cái vẻ e lệ làm ửng đỏ hai gò má.

Đôi khi, trên cái bàn làm việc trong phòng tôi bỗng thấy mấy bông hoa cắm trong bình, hay một bông lớn để trên chồng sách. Một buổi sáng tôi đã tỉnh dậy, nhưng vẫn nằm trên giường nhìn ánh nắng qua khe lá; tôi thấy cô Hậu bước vào, ôm một bó hoa sen trắng mới hái ngoài hồ. Cô xếp hoa trong bình, rồi quay về phía tôi nở một nụ cười:
Anh có thích hoa sen trắng không?

Tôi ngồi dậy nhìn cô, khẽ cảm ơn. Tôi thấy mắt cô sáng lên trong lúc xếp hoa, toàn thân cô như xuất hiện cái vui sướng. Cô với một bông hoa, hít mạnh hương thơm rồi đi trở ra. Tôi đưa mắt trông theo, tự nhiên để ý đến dáng điệu uyển chuyển của Hậu, đến tấm thân mảnh dẻ và thon thon của cô, rồi tôi thấy một cái ham muốn đến rung động khắp cả trong người.

Tôi trở dậy ra tựa cửa phòng, thấy Hậu đứng bên cái bệ ngoài sân, đang với gáo múc nước rửa tay. Người cô nổi trên nền lá xanh như một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió bay phất phới, và tất cả ánh nắng, lá cây, bóng mát cũng hình như đang từng bừng rởn múa chung quanh người thiếu nữ tươi tắn ấy. Một lát, tiếng nước rội kêu lanh tanh trên hòn đá nhẵn, rồi từng giọt qua cái nức che, thánh thót rơi vào bể. Hậu rửa mãi hai bàn tay xinh xắn, ngắm nghía mãi các ngón tay hồng hào. Rồi tôi thấy cô nghiêng người trên mặt bể, soi bóng mình dưới nước, tay đưa lên sửa lại mái tóc. Khi ngẩng lên, vô tình nhìn thấy tôi, Hậu e thẹn vội vàng đi lẩn vào trong vườn.

Từ hôm ấy, lúc nào tôi cũng cảm thấy bóng dáng Hậu quanh mình. Nhũung sách vở tôi xem đều được xếp đặt rất có thứ tự, những bút mực trên bàn cất rất ngăn nắp, cho đến cả quần áo của tôi cũng được tay Hậu chải chuốt rất sạch sẽ. Tôi đoán cô ta muốn biết về tôi lắm; những sách viết cũ của tôi nhiều lần thấy mở tung, và một đôi khi, một làn hương thoang thoảng đưa ra, như có một bàn tay ướp nước hoa đã lần giở đến.

Nhiều bận đi trong vườn, tôi bỗng thấy Hậu, như đột nhiên gặp tôi, cô e lệ nép vào bên nhường lối cho tôi hay nở một nụ cười trên đôi môi thắm. Có khi đứng trên đồi, tôi thấy cô đi men bờ cỏ, tìm kiếm những bông hoa đồng, để làm một bó hoa mộc mạc hương vị cảnh quê, mà sau này tôi chắc sẽ thấy mắc trong bình trên bàn học.

Dần dần, tôi quen nói chuyện với Hậu. Khi gặp hai chị em hái chè trong vườn, tôi dừng lại hỏi một hai câu, để thấy đôi má nàng hồng lên trong khoảng lá xanh, và đôi mắt đen của nàng long lanh sáng. Tôi nhận thấy Hậu thơ ngây như bông hoa cỏ, tâm hồn dản dị như các người quê. Cô giở hết các áo đẹp ra mặc, nhưng áo kiểu mới sáng mầu và tha thướt, làm nổi vẻ đều đặn của thân hình; mái tóc cô lúc nào cũng chải chuốt rất mượt, anh ánh như cỏ. Cô muốn làm vừa lòng tôi biết bao nhiêu! Cô giằng buộc chung quanh tôi một vẻ mềm yếu uyển chuyển, một ý thân thiết đậm đà. Còn tôi, tôi cũng thấy vui vẻ mỗi khi đến gần cô.

Chúng tôi dần trở nên thân mật như một đôi bạn quen. Những cuộc đi chơi của tôi đều có cô ở bên cạnh. Cô đi sát vào tôi, có khi tư lự như nghĩ ngợi một sự gì, có khi náo nức như một đứa trẻ. Những khi len lỏi qua các vườn chè, nhiều khi tôi giơ tay đỡ cô bước qua một khe đá hay một bụi cây; cô nắm chặt lấy tay tôi, đưa người lên vai tôi, sung sướng và tin cậy.

Hậu bây giờ đã khác hẳn cô thiếu nữ rụt rè và e lệ ngày tôi mới đến. Hậu đã trở nên một cô gái hay làm dáng, mơ màng và buồn rầu, đầy sức mạnh của tuổi trẻ.

o O o

Mỗi ngày, Hậu lại tỏ cho tôi biết tình yêu của nàng; một đuôi con mắt, một nụ cười, một dáng điệu mà tôi hiểu. Thân thể trẻ con của cô rung động dưới mắt tôi nhìn, tất cả người cô nở ra trước tình yêu như một cái mầm non trong ánh nắng. Về phần tôi, tôi cũng săn sóc đến Hậu như một người tình nhân, riêng với cô, tôi kể những chuyện trên Hà Thành, chỗ tôi ăn học. Cô hỏi tôi về những thiếu nữ xinh đẹp ở tỉnh, những quần áo và trang điểm mới, những cuộc giao du của tôi với bạn gái cùng học một trường. Nghe tôi nói, cô yên lặng, mơ màng, rồi có khi cô vùng nắm chặt lấy tay tôi, rồi hỏi:
Anh, em có xinh đẹp như các cô ấy không? Em có trang điểm khéo hơn không?

Tôi chân thật đáp:
Có, Hậu đẹp hơn nhiều, các cô ấy không sánh kịp.

Hậu lắc đầu; nhìn tôi bảo:
Sang năm em cũng lên tỉnh học với các cô đó. Rồi anh xem, em sẽ đẹp thế nào.

Hậu ngồi lại sát bên, tôi nghe thấy hơi thở của cô dồn dập. Buổi sớm, cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ, càng tươi bên nước da trắng muốt của Hậu. Tôi đoán thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh tay chắc rắn, đôi vú nhỏ và tròn, người Hậu như thoảng ra một thứ hương thơm ngát và say sưa.

Những buổi trưa, tôi rủ Hậu ra bờ sông Cống. Chúng tôi bỏ giầy ngồi trên cỏ ẩm, dưới bóng mát của một cày tràm cành lá um tùm. Trước mặt chúng tôi, dẫy đồi đất tím lóe trong ánh nắng, trời xanh thẳm và sáng như tấm gương. Một vài đám mây trắng thong thả đi ngang trên đỉnh đồi. Chúng tôi nghe ngóng cái yên lặng của buổi trưa, hình như theo giòng nước chói ánh nắng đi xa. Thỉnh thoảng, một bóng cá nổi trong cành lau sậy, lờ đờ lên gần mặt nước như nhìn trộm hai chúng tôi, rồi lại vùng quẫy đuôi chìm mất.

Hậu sung sướng đùa nghịch như một đứa trẻ con. Cô ngồi trên bờ, bỏ thõng hai chân xuống khuấy nước. Nước mát và trong, da chân Hậu trắng xanh bên lá cỏ. Rồi chúng tôi tìm một cây si ven bờ, trèo lên cành lá trên mặt sông, chúm đầu vào nhau nhìn bóng chúng tôi cùng in xuống nước với trời xanh. Có khi Hậu và tôi cùng ngả mình dưới bóng cây, nằm thiêm thiếp trong cái nắng của buổi trưa. Một con chim ở đâu đến khẽ hót trong bụi, tiếng ríu rít như vướng vào cành lá, hòa một bản đàn rực rỡ để ru hai chúng tôi trong những giấc mộng êm đềm.

Hậu chiếm đoạt hết cả ý nghĩ của tôi. Mỗi khi tôi không muốn nhìn trời mây, cảnh vật lôi tôi lại trở lại với nàng. Chúng tôi mang sách ra cùng ngồi đọc ở ngoài vườn, tôi giảng cho Hậu nghe những chuyện đẹp đẽ trong sách và thỉnh thoảng tôi thấy nàng có vẻ mơ màng.

Một buổi sáng, chúng tôi đi sâu vào mấy nương chè bên sườn đồi. Hôm ấy tôi kể nốt cho Hậu một chuyện nàng vẫn thích. Bỗng tôi dừng lại, vì có cảm giác Hậu không nghe tôi nữa. Cô nhìn tôi, yên lặng, đôi môi hơi hé nở trên hàm răng trắng, hai mắt nhung ướt long lanh. Tôi bỏ quyển sách xuống, nhìn lại Hậu, tự nhiên hồi hộp, yếu mềm trong lòng. Hậu đưa tay nắm lấy tay tôi, lần lên vai rồi kéo tôi lại gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy trước môi tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi lặng lẽ ôm lấy nhau, say sưa trong nụ hôn đầu tiên đắm đuối của linh hồn.

Hồi lâu Hậu buông tôi ra, thân nàng hãy còn rung động trên cánh tay tôi. Chúng tôi nhìn chung quanh: cây cối bao bọc như một hàng rào xanh kín đáo; chỉ có hai chúng tôi như xa lánh hẳn cuộc đời, xa lánh hẳn mọi người, quên cảnh vật trong say sưa, trong cái đầm thắm của tình yêu tuổi trẻ.

o O o

Càng ngày Hậu càng đẹp thêm ra. Tình yêu để lại phảng phất trên khuôn mặt nàng một vẻ sung sướng hồn nhiên. Mắt Hậu sáng hơn lên, dáng điệu uyển chuyển thêm; nét môi của Hậu rõ rệt, càng thắm như bông hồng đỏ, và lúc nào cũng như sẵn sàng hé nở đợi chờ cái hôn ân ái. Hậu thành điềm đạm, băn khoăn hơn trước, với những lúc bồng bột, những lúc tin yêu.

Tôi cũng bắt đầu yêu Hậu; tình yêu của nàng vừa làm tôi say sưa vừa làm tôi kỳ dị, như người đầu tiên bước vào một mảnh vườn đầy hoa cỏ lạ. Những cái hôn tha thiết và vụng về của Hậu có một hương vị mới mà tôi chưa từng được hưởng, hương vị đượm ngát của một bông hoa dại. Vì Hậu, tuy đã đi học ở trường tỉnh, vẫn hãy còn ngây thơ; nhưng nàng không chất phác như một cô gái quê, không mộc mạc những người quanh nàng. Tôi thấy trong Hậu những của quý vô ngần của một tâm hồn vừa trong sạch vừa mê mải.

Một buổi chiều hôm rằm, chúng tôi đi xem hội bắt cá ở làng Vị, phía trên; cả ông bà Ba với cô em gái cùng đi. Chúng tôi xuống một chiếc thuyền nan ông Ba đã thuê sẵn, ngược giòng sông Cống đi lên, giữa hai đợt đồi trùng điẹp. Mặt trời chiếu rực rỡ giải sông, một buổi chiều êm ả và bao lạ Giờ khắc thật rất hợp cho những lời tình tứ, nhưng trong đám người, tôi và Hậu chỉ ngồi lặng, thỉnh thoảng nhìn nhau. Chúng tôi không nói, nhưng hai quả tim cùng hồi hộp, mong muốn được xa cách bọn người kia, khao khát những câu thỏ thẻ bên tai, nhũung cái nâng niu âu yếm. Suốt buổi hội, Hậu đăm đăm như chờ đợi, không để ý đến một cuộc vui gì. Một sự may bất ngờ làm cho chúng tôi sung sướng; ông bà Ba và cô em có người anh họ giữ lại xem hội đêm, riêng chỉ Hậu được phép về coi nhà. Tôi cũng tìm cớ thoái thoác xin về.

Thế là chỉ có hai chúng tôi xuống thuyền. Bấy giờ trời đã tối, trăng bắt đầu lên, một mặt trăng vàng đỏ, to như một cái nìa, từ từ nhô lên sau rặng thông ở trên đồi. Tôi đỡ Hậu xuống thuyền, rồi chúng tôi cởi giầy, để mặc thuyền theo giòng suối. Trên mặt sông, một cơn gió mát hiu hiu thổi, tiếng sông róc rách vỗ vào mạn thuyền như một thứ nhạc vui. Phong cảnh lúc ấy thật là tuyệt đẹp; hai bên bờ sông, ruộng mạ non phớt theo chiều gió, nương chè sắn thắm ở ven đồi, mờ dần đằng xa sau một làn sương nhẹ.

Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy vai tôi, kê đầu vào má tôi, ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu quấn lấy tôi như một giây leo. Chúng tôi hòa hơi thở với nhau, tóc nàng bỗng buông xõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương ngát dịu và đầm ấm.

Khi tiếng trống hội làng Vị đã nghe không rõ, Hậu ngồi dậy ở đầu thuyền, một tay dúng xuống sông. Nàng nghịch tung những hạt nước long lanh sáng như hạt ngọc. Trời đã hết mây, quang đãng một vùng rộng. Mặt trăng tròn nhỏ lại và trong hơn, chiếu vằng vặc trên cánh đồi.

Hậu bỗng nhiên cất tiếng hát khe khẽ những câu hát phong tình ở nhà quê mà lần đầu nàng hiểu cái thi vị, bởi vì ca ngợi cái tình yêu đang réo rắt trong lòng nàng. Hậu có giọng hát hay, tiếng nàng ngân dài trên mặt sông theo nhịp sóng. Rồi khi nàng ngừng lại, cả cái yên lặng của quãng không bao bọc lấy chúng tôi như nghe ngóng. Một tiếng vạc đi ăn đêm buông lanh lảnh ở đâu đâu.

Hậu tựa vào tôi trên mui thuyền, không nói gì. Con thuyền cứ từ từ theo giòng nước trôi đi.

Mùa hè đã hết.

Một buổi sáng dậy tôi thấy cây mẫu đơn đầu vườn đã đâm bông, những nụ con chớm đỏ sắp nở trên các cành.

Ông Ba bảo tôi:
Cây đơn này có hoa muộn. Mọi khi đầu tháng Bẩy, hoa đã nở rồi.

Tôi yên lặng không trả lời, nghĩ đến kỳ nghỉ hè của tôi đã sắp hết, tôi sắp phải rời bỏ cái vườn này lên tỉnh học. Một cảm giác dịu buồn thấm vào lòng; nhưng một đằng tôi cũng ao ước được chóng lên Hà Nội, để thấy căn buồng học cũ ở nhà trọ, những anh em, chị em bạn thân ở nhà trường. Cánh đồi ruộng đối với tôi bây giờ đã mất cái vẻ thú vị mới mẻ khi xưa, tôi muốn nói chuyện với những người khác, nhìn những phong cảnh khác.

Nhưng nắng càng bớt rực rỡ bao nhiêu thì Hậu càng buồn rầu bấy nhiêu. Nàng không thể tự an ủi được vì sắp phải xa tôi. Một ít chua chát đã lần vào những cái hôn của chúng tôi, những câu tình tứ đã nhiễm cái buồn của những giờ vui sắp hết.

Hậu muốn cùng tôi đi thăm lại những chỗ chúng tôi đã dừng lại trước. Một bụi cây, một hàng cỏ, một phiến đá trong vườn, là những kỷ niệm của tình yêu, nhắc cho hậu nhớ lại cái thời kỳ say mến. Chúng tôi lại đến dưới cây tràm ở bờ sông Cống, chỗ cỏ mượt và dầy mà chúng tôi vẫn nằm. Hậu nhắc lại những cử chỉ đã quen, nói những câu mà tôi không còn nhớ hương vị ái ân nữa. Nàng ngồi lặng nhìn tôi, thở dài:
Sắp hết hè rồi. Mai kia anh đã lên Hà Nội.

Tôi dỗ dành nàng:
Đến tết tôi lại về đây với Hậu.

Nhưng nàng lắc đầu, bảo:
Không, anh sẽ quên em, anh sẽ không nhớ đến em nữa đâu.

Hậu cúi xuống khóc, không nghe những lời tôi an ủi, vẻ tươi tắn của nàng mất đi. Hậu trở nên thẫn thờ. Chúng tôi lẳng lặng đứng dậy trở về. Cỏ bên đường đã ướt sương buổi chiều. Giòng sông Cống không sáng lạng như trước, nước trông âm u và sâu hơn, chẩy lẫn vào chỗ mờ mờ ở chân trời. Gió hơi lạnh hắt hịu đưa đến, khiến cho lòng chúng tôi se lại.

Tuy vậy, khi nghĩ đến lúc trở về Hà Nội, đến những cuộc vui chơi cùng bè bạn, đến những buổi đêm đầy ánh sáng, tôi lại thấy náo nức và nóng ruột. Tôi nghĩ đến những cô gái lộng lẫy và đài các ở Hà Thành, như những bông hoa quý. Trong tâm can tôi đầy những ham muốn, nhớ tiếc, và tôi bắt đầu thấy hận mình vì một cô gái còn non mà những lời âu yếm đối với tôi bỗng trở nên xa lạ.

Tháng tám đã đến, kỳ nghỉ hè của tôi sắp hết.

Tôi phải chiều những ý muốn ngây thơ của Hậu. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, đối với nàng là một cớ để mà nhớ lại. Những cuộc đi chơi thơ thẩn của hai chúng tôi, những lúc chạy len lỏi trong nương sắn vườn chè, buổi đi xem hội ở làng Vị, lúc nào nàng cũng nhắc tới, nói đến, như để sống lại những thời khắc đã qua ấy. Tôi, tôi không nhớ rõ như nàng. Tâm trí tôi đã quay đi đến những cuộc tình duyên mới lạ khác ở tỉnh thành. Những ngày cuối cùng của tôi ở mảnh vườn này, tôi vừa bâng khuâng vừa mong đợi vẩn vơ, trong lòng không còn chờ tình âu yếm nữa. Thỉnh thoảng, một nét mặt buồn của hậu, một cái nhìn đắm đuối của nàng, làm tôi hối hận và chú ý đến nàng hơn. Nhưng chỉ thoáng qua, rồi tuổi trẻ, sự ham vui, lại đem đến cho tôi những ý nghĩ khác.

Hậu càng ngày trở nên kỳ dị. Nàng ở bên cạnh tôi, yên lặng và đăm đăm, có khi hàng giờ không hé răng nói một câu, chỉ một đôi khi khẽ thở dài. Rồi bỗng đột nhiên, Hậu ôm chầm lấy tôi, áp má vào ngực tôi, cắn lấy môi tôi đến chảy máu. Những cái hôn của hai chúng tôi pha lẫn đầy nước mắt và nức nở.

Ngày tôi phải đi đã đến.

Sau bữa cơm trưa, Hậu và tôi cùng đi chơi một lần cuối cùng. Trời đầy mây u ám, dồn đuổi nhau ở ven đồi. Một cơn gió lạnh lùa trong lá tre kêu sào sạc. Một ngày buồn rầu, ảm đạm, để cho người ta biệt ly. Chúng tôi cầm tay nhau đi, yên lặng, không vội vàng. Ngày mai đây, tôi với Hậu đã cách xa nhau, một nơi; nàng ở lại mảnh vườn đầy hao cỏ, tôi lẫn lộn vào đám những người tuổi trẻ ở Hà thành.

Chúng tôi trèo lên quả đồi cao nhất trong vùng, ngồi trên phiến đá nhìn xuống dưới. Cánh đồng kẻ ngang kẻ dọc những ô ruộng khác mầu, phẳng tới tận rặng núi ở chân trời; giòng sông Cống biêng biếc quanh co khuất khúc như giải lụa mềm. Tiếng thông reo chơ vơ bên tảng đá làm rung động. Hậu và tôi một mối buồn man mác.

Bỗng một làn khói trắng tỏa sau bụi cây ở xa, rồi một chiếc xe hỏa đi ra, trông nhỏ bé như một thứ đồ chơi của con trẻ. Chính là chuyến tầu mà mai tôi sẽ đi. Còi tầu lanh lảnh kéo dài đưa đến, vang động trên cánh đồng, khiến tôi nhớ đến một thế giới khác mà tôi vui vẻ sắp được thấy.

Lúc trở xuống, Hậu muốn men bờ sông Cống đi vòng về. Qua những khu vườn xinh xắn trên sườn đồi, trông thấp thoáng qua lá tre những mái nhà gọn ghẽ,

Hậu nắm chặt tay tôi thì thầm:
Anh Bình, ước gì chúng ta được sống trong gian nhà kia, không lo lắng nghĩ ngợi sự gì, chỉ yêu nhau… anh.

Nàng buồn rầu nhìn con sông Cống, giòng nước chẩy đi cũng như thời khắc cuối cùng của tôi với nàng. Nhẹ nhàng, tôi kéo Hậu lại gần tôi, dỗ dành an ủi nàng hứa sẽ luôn luôn về thăm.

Ngày hôm sau, Hậu cùng với ông bà Ba và cậu con tiễn tôi ra ga. Nàng mắt đỏ lên như mới khóc, tha thiết nhìn tôi, như muốn cùng tôi khoác tay âu yếm. Nhưng có ông bà Ba cùng đi, nên hai chúng tôi chỉ yên lặng ngậm ngùi. Đến một chỗ rẽ khuất sau bụi rưới, tôi thong thả đi lùi lại. Nhanh nhẹ, Hậu ôm vội lấy tôi, kê miệng đến môi tôi, hôn một cái hôn cuối cùng, thất vọng và chứa đầy những lệ.

Đến ga, trong đám người tấp nập, Hậu buồn rầu đứng yên. Tôi thấy trong đôi mắt cái vẻ đắm đuối của nàng. Tôi hứa với nàng sẻ gửi thư về luôn, sẽ nhớ đến nàng. Nhưng trong thâm tâm, tôi thấy bồng bột, vui tươi. Còn Hậu thì đứng lặng, tê tái và ủ rũ, khoé mi rớm nước mắt, lòng thắt lại bởi thất vọng và nhớ thương.

Tiếng còi vang lên, bọn hành khách xô đẩy tranh dành; tầu đến. Tôi cúi chào ông bà Ba, ẵm cậu bé lên hôn, rồi đưa mắt nhìn nàng. Lúc lên tầu, quay lại tôi thấy bóng dáng Hậu lẫn vào đám người nhà vẫn đứng yên trên sân ga vắng. Một bụi cây, chỗ rẽ, rồi cánh đồi che lấy cái ga nhỏ bên đường.

Hơn ba năm đã qua.

Tôi đã không giữ lời hứa. Từ hôm về đến Hà Nội, tôi không viết lá thư nào cho nàng. Nhiều bận tôi đã lấy giấy mực ra định viết, nhưng lại thôi. Cái kỷ niệm tôi giữ được của vườn chè và người thiếu nữ dần mờ đi trong trí nhớ, nhường chỗ cho một hình ảnh mơ màng, một hình ảnh lung linh, dịu dàng và xa xôi, khiến lắm lúc tôi nghĩ tưởng đến một chuyện tình ái ngây thơ, tôi đã mơ thấy trong một mảnh vườn dưới ánh nắng mùa hè.

Năm sau nữa, một cái thiếp mời màu hồng gửi đến làm tươi tắn hình ảnh Hậu; tôi lặng nghĩ một lát đến cô thiếu nữ mê mải ấy đã yêu tôi với những ham muốn trong sáng và tha thiết. Nhưng tôi không muốn về dự tiệc cưới nàng, và từ đấy tôi không được tin tức gì về Hậu nữa. Tôi sống cái đời hoạt động ở Hà Thành, với những tình yêu khác, những người thiếu nữ khác, mà sự nẩy nở của tâm hồn trong yêu mến mỗi lần làm cho tôi say sưa. Hình ảnh Hậu dần mờ hẳn trong trí nhớ tôi.

Tôi quên hẳn nàng đi cho đến khi một sự tình cờ lại khiến tôi gặp Hậu ở nhà một người bạn quen. Tôi đến nhà người này dự một tiệc vui mừng. Đến nơi, bạn tôi chỉ một người đàn ông còn trẻ tuổi, giới thiệu:
Ông M… rể ông Ba trên tỉnh P. đấy anh có biết không?

Tôi gật đầu, chào lại, rồi chú ý nhìn một cách tò mò người khách mới. Chồng Hậu là một người có vẻ thông minh và rụt rè, hơi ốm yếu. Chúng tôi ngồi thong thả nói dăm ba câu chuyện rời rạc, không có cảm tình gì.

Rồi cửa phòng bỗng mở rộng, tiếng nói ríu rít làm tôi quay ra; Hậu ở ngoài bước vào tay dắt một đứa bé. Nhận thấy tôi Hậu e thẹn, hai má ửng đỏ; nàng vội cúi mặt xuống, ôm lấy con, tôi cũng bối rối đứng dậy đưa mắt nhìn nàng. Hậu bây giờ trông đẹp hơn trước, môi thắm hơn, người nở nang hơn cô gái trẻ năm xưa. Toàn người nàng có một vẻ đáng yêu mĩ miều và đằm thắm, như bông hoa nở đã vừa độ. Tôi ngây người nhìn ngắm nàng, trong trí nhớ bỗng vụt nổi lên những kỷ niệm đã lắng sâu, những hình ảnh rực rỡ của cánh vười đồi. Đứng gần Hậu, tôi thấy cảm động mến yêu như lần đầu tôi yêu nàng.

Nhưng Hậu bây giờ đã có chồng rồi. Khi tôi quay lại nhìn chồng nàng, tôi thấy rõ cái lãnh đạm của người đàn ông ấy, bên cái vẻ đẹp lộng lẫy đáng yêu của Hậu. Nàng có sung sướng không? Nàng có nhớ đến tôi không?

Ngậm ngùi, tôi nghĩ đến cuộc ái ân ngắn ngủi của Hậu với tôi trong mấy tháng hè; cái tình yêu ấy biết đâu vẫn còn để lại trong lòng một vẻ rực rỡ như ánh nắng trong vườn.

(trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn, 1938)

Tôi đi học – Thanh Tịnh (Trần Văn Ninh, 1911-1988)

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.

Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.

Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.

Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
Mẹ đưa bút thước cho con cầm.

Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
Thôi để mẹ nắm cũng được.

Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.

Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.

Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.

Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.

Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.

Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.

Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.

Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại.)

Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.

Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.

Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.

Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.

– Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.

Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.

Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật.

Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.

Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.

Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật.

Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:

Bài tập viết: Tôi đi học!

(Trong tập truyện ngắn Quê mẹ, 1941)

Hoa khế lưng đồi – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)

Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe.

Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào, nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa, Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tùy cơ giúp đỡ cô em nhút nhát.

Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
Xin lỗi, cô vào Nha Trang lần đầu tiên?

– Vâng ạ. Em mới tới đây lần đầu.

Giọng nói trầm, thứ giọng thổ ít gặp nơi một thiếu nữ. Tôi không đợi nghe một giọng nói như vậy nên tôi thấy thích đặt câu hỏi để nghe giọng ấy trả lời.

– Cô đã có chỗ trọ rồi?

– Dạ có. Em ở chung với một chị bạn cũng làm ở nhà thương y tế.

– Có gần đây không?

– Dạ ở 153 đường Phước Hải.

– Chỉ có hai chị em ở?

– Dạ, chỉ có hai.

Tôi gật đầu:
Ở thế thì rộng rãi thong thả, khỏi bị trẻ con quấy rầy. Nhưng cũng có điều phiền. Không bị trẻ con quấy rầy thì lại bị người lớn phiền nhiễu. Người lớn…

Tôi ngần ngừ không biết nên nói tiếp như thế nào cho tiện. Thì nàng mỉm cười.

– Em hiểu nhưng không có cách nào khác. Ở đời phải biết chọn sự bất tiện nào tương đối nhỏ hơn hết.

Khi đặt tách trà lên môi tôi thấy nàng đăm chiêu nhìn ra cây ngọc lan đứng cạnh cửa sổ phòng tôi. Nàng ngưng uống tách trà, say mê nhìn thật lâu như không có tôi ngồi trước mặt. Một lát, tôi chợt thấy nơi vành mi mắt nàng có lóng lánh nước mắt. Rồi hai giọt nước mắt đọng lại, thành hình.

Nàng quay về tôi, đưa cánh tay áo chặm mắt, mỉm cười ngượng nghịu:
Xin lỗi anh…

Tôi ngắt lời:
Chắc cô đang nhớ nhà.

– Dạ, nhìn cây hoa ngọc lan, em nhớ cây ngọc lan nhà em. Em nhớ bà Ngoại. Mỗi buổi sáng em hay dậy sớm ngắt hoa ngọc lan đặt lên bàn Phật cho Ngoại. Em đi xa, chắc chỉ có ngoại là nhớ em nhiều nhất.

– Cô xa nhà lần đầu tiên nên sự nhớ nhung xót xa. Lâu dần sẽ quen đi.

– Vâng, nhưng phải lâu lắm mới quen được.

Sau đó, tôi đến thăm nhà trọ của Trâm một lần. Tôi lưu ý nhìn cô bạn cùng ở chung với nàng để tìm đoán xem những loại ý nghĩ nào hay đóng đô ở một khối óc như vậy. Cô bạn có đôi môi nóng bỏng tình cảm và một nốt ruồi dưới cằm. Vành mắt bôi nhiều bút chì than. Tóc đỏ rối lòa xòa theo kiểu rong biển, man dại, say đắm.

Vài tờ tuần san bìa lòe loẹt in hình tài tử chiếu bóng vứt trên giường, trên đi văng. Màn treo cửa mang hình vẽ méo mó lộn xộn. Trong khung cảnh đó, Trâm vẫn đơn sơ và tự nhiên như một lá cỏ non giữa đồng nội. Không có sự pha chế, tính toán, bôi sửa nào trên đôi mày dài màu nhạt đó, trên hàng lông mi cong, trên đôi môi phơn phớt màu hồng.

Nàng cười bảo:
Em ở đây cũng dễ chịu. Thỉnh thoảng em và chị Hòa – tên chị bạn – đi phố thấy anh.

– Tôi ít khi đi phố lắm.

– Thế mà lần nào đi phố cũng thấy anh.

Tôi không biết đó là lời nói đùa hay lời nói thật. Sau đó, Trâm đổi nhà trọ. Những cô thiếu nữ độc thân thường phải đổi nhà trọ luôn, y như những con mèo phải tha con đi giấu khắp mọi xó xỉnh. Những chiếc Vespa, những chiếc xe gắn máy, thỉnh thoảng những chiếc Jeep hay đậu trước nhà. Hàng xóm không ưa những tiếng xe rồ khi tắt máy và khi nổ máy, tiếng còi ậm oẹ gọi cổng. Phải dọn nhà để đánh lạc những chiếc xe thiếu nhẫn nại. Tôi mất hút Trâm.

Hôm trước đây khi cầm một cuốn tiểu thuyết mới xuất bản, tôi nhìn lâu vào bức ảnh một thiếu nữ in ngoài bìa. Hao hao giống một người nào? Đôi mắt khép hờ, mơ màng xa vắng. Mái tóc buông dài. Đôi môi… Tôi chợt nhớ đến Trâm. Đúng là khuôn mặt đó.

Tôi nhìn kỹ vào bức ảnh và tôi thấy Trâm đẹp. Lạ chưa? Có nhìn vào bức ảnh của một người khác tôi mới thấy rõ mặt Trâm. Thì ra khi đối diện với nàng, tôi bị giọng nói, nội dung câu chuyện, bị xúc cảm của tôi làm sai lệch đi hình ảnh của nàng khiến khi hình dung lại tôi thấy những đường nét của khuôn mặt thấp thoáng mơ hồ. Huống chi, không biết đã mấy tháng rồi, tôi không có dịp gặp lại Trâm. Tôi mua cuốn tiểu thuyết về đặt đứng ở bàn, ở đầu tủ, ở trên mặt radio, cạnh đầu giường. Thỉnh thoảng tôi nghĩ: “Hôm nào gặp xem có phải Trâm đẹp như thế không?”

Bất ngờ mới hai hôm thì chợt gặp nàng trên chuyến xe Lambretta hôm nay…

Tôi bước lên xe, ngồi vào chỗ trống mà hai người hành khách đã xích lại để nhường cho tôi:
Lâu quá em không ghé lại thăm anh. Hai tháng nay bận liên miên. Hết chủng ngừa bệnh dịch hạch đến ngừa bạch hầu, đậu mùa. Cứ cách một hôm phải trực một hôm.

– Chắc hôm nay cô mới được rảnh nên đi về nhà quê chơi đấy?

– Đâu có được như vậy! Em đi với đoàn công tác lên Phú Vinh chủng ngừa dịch hạch. Đáng lẽ đi xe của Ty Y tế, nhưng em bận tí việc phải tới trễ nên đành đi Lambretta hàng.

– Cô thôi ở Phước Hải?

– Em đi đã lâu. Thay nhà hai lần nữa rồi. Hiện em ở đường Mạnh Tử.

Một xe chở hàng cao nghễu nghện ầm ầm chạy tới làm át cả tiếng nói của Trâm. Cả hai chúng tôi im lặng. Gió ban mai lạnh buốt thổi tạt vào hông xe. Xe chạy ra khỏi thành phố. Màu xanh của những ruộng rau muống làm tươi mát đôi mắt.

Trâm chỉ tay lên triền núi cao, xuýt xoa:
Có con đường đi trên đầu núi kìa. Đẹp quá anh nhỉ?

Tôi thường thản nhiên trước những tiếng xuýt xoa ngạc nhiên của đàn bà con gái, nhưng không thể chống cự nổi với giọng nói trầm ấm của nàng. Nhất là vào một buổi mai lạnh như thế này. Giọng nói ấy như có chứa ánh nắng trên đồng lúa chín màu vàng, như là hơi thở của những chùm hoa màu đỏ.

Tôi nói:
Con đường đó đi từ chùa Hội sang Phật học viện. Phật học viện nằm kia.

Nàng nhìn theo ngón tay tôi chỉ.

– Em có biết Phật học viện ở Huế. Anh Chơn Tánh con của O em tu ở đấy.

– Cô ở trong gia đình Phật tử?

– Không, em chỉ đọc kinh sách và theo Ngoại đi chùa. Ngoại em sùng đạo lắm.

– Tôi hiểu. Càng về già người ta càng đến gần tôn giáo hơn. Lúc còn trẻ người ta tin ở sự thông minh của khối óc mình và sức mạnh đôi cánh tay mình. Khi lớn lên và càng đi sâu vào năm tháng, người ta nếm nhiều thất bại, và người ta bắt đầu hoang mang. Tôn giáo là nơi nương tựa…

Tôi nhún vai một cái nhẹ tỏ ra chưa tin mấy ở lời mình vừa nói, rồi hạ thấp giọng:
Tôi không thông thạo về Phật pháp nên có thể nhận xét vừa rồi của tôi là sai. Chết! Cô vừa nói cô có đọc nhiều kinh sách. Tôi thật xấu hổ vì đã làm nhằm cái việc “Ban môn vũ phủ.”

Nàng cười xòa.

– Anh làm em xấu hổ thì có.

Xe đậu ở chợ Mới, bỏ một gánh cá xuống.

– Khi nào có dịp tôi sẽ đưa cô đi thăm Phật học viện. Chúng ta sẽ đi trên con đường chạy vắt lưng núi đó. Ngày tết người đi du xuân trên con đường ấy rất đông.

– Đứng trên lưng núi nhìn thấy cả Nha Trang?

– Thấy rõ lắm, dưới mắt mình, bãi biển, Xóm Bống, Tháp Bà, Cầu Đá, Phường Củi… Quay ra sau là rừng dừa xanh mướt bóng loáng của Vĩnh Điềm, Ngọc Hội. Phía Nam là ruộng.

Nàng khẽ gật đầu:
Cảnh trí từ trên cao nhìn xuống bao giờ cũng đẹp. Năm ngoái em đi Quy Nhơn chơi, có leo núi Gành Ráng thăm mộ Hàn Mặc Tử. Đứng trên mộ nhìn xuống vũng bể Qui Nhơn uốn cong một màu xanh ngọc bích nằm im lặng, bất động câm nín. Em nhớ đến câu thơ của Hàn Mặc Tử:

Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ bạn đời.

“ Em chắc Hàn Mặc Tử cô đơn, đau khổ, nhìn xuống, nhân gian cách biệt hẳn với mình kia, nhìn vũng bể mà xanh, nghĩ đến thân phận mình, nghĩ đến cái chết giải thoát nên mới viết được mấy câu thơ đó.

Tôi mỉm cười:
Cô có tâm hồn thi sĩ. Vậy khi thăm Phật học viện, tôi sẽ đưa cô đi thăm những luống hoa đẹp do thượng tọa Giám viện tự tay chăm sóc lấy. Cô sẽ nhìn thấy những cây khế ở lưng đồi trổ hoa tím, những chùm hoa hình khối lục lăng mường tượng những ngôi cổ tháp.

– Anh có vẻ thông thạo cảnh đó.

– Cô đoán không lầm. Tôi có dạy ở trường Bồ Đề nên được quen với Thượng tọa Giám viện và với hầu hết các chú ở viện.

– Thế thì hay quá! Chúng ta chọn một ngày chủ nhật nào và em nhờ anh hướng dẫn cho đi xem.

Tôi nhìn khắp các hành khách trong xe, toàn là những bà buôn bán áo quần nhàu nát, bàn chân bụi bặm xỏ vào đôi dép Nhật Bản. Quang gánh móc ở sau xe đu đưa theo nhịp xe chạy.

Tôi hạ thấp giọng:
Đợi tình thế quang đãng hơn đã. Phật học viện vừa bị bố ráp hôm hai mươi tháng tám. Trường Bồ Đề đã đóng cửa.

Nàng gật đầu:
Vâng. Em hiểu.

Nàng nhìn giây lâu ra cửa xe, mắt lướt qua những dãy cây ôma, cây mít, cây bưởi, của vườn nhà người ta nằm dọc đường lộ. Mi mắt khép hờ một nửa. Chắc chắn là tôi không lầm nếu tôi nghĩ rằng nàng đang để trọn tâm hồn nghĩ về bà Ngoại. Giữa mùa Pháp nạn, tiếng chuông chùa im bặt, lại thêm đứa cháu đi xa. Hoa ngọc lan phải tự tay cụ hái dâng lên bàn Phật. Mỗi ngày hái hoa nhớ cháu, không biết thân gái ở nơi phương xa…

Xe chạy đến bệnh xá Phú Vinh, tôi phải đưa tay vỗ vào vai anh tài xế ra hiệu cho anh ngừng xe. Tôi nói:
Xe đến Phú Vinh rồi. Cô chuẩn bị xuống.

Nàng giật mình quay lại. Vẻ mặt thẫn thờ. Bước xuống xe trả tiền cho anh phụ xong, nàng gật đầu chào tôi mà không nói. Xe rồ máy lao vút tới. Tôi nhìn ra cửa sau. Nàng đi chậm rãi cúi nhìn xuống đất. Chắc tâm hồn đang quanh quẩn xung quanh gốc ngọc lan, bà Ngoại, con đường Phật học viện, màu đất đỏ đượm trên đầu núi.

Trường Bồ Đề đóng cửa!

Tôi nhớ những ngày hưng thịnh, tiếng chuông trường reo vang và học sinh từ các nẻo tấp nập vào trường. Các chú điệu đồng phục áo nhật bình màu nâu đi chầm chậm thành một hàng dài từ tĩnh thất xuống. Dáng đi khoan thai, nét mặt nghiêm nghị khiến tôi nghĩ đến các vương gia tử đệ họ Tạ, họ Vương, đời Tống ở ngõ Ô Y, thanh cao trong chiếc áo thâm dài. Các học sinh nhỏ bám vào các chú vòi vĩnh đủ điều.

Thầy giáo bảo:
Các em hãy đề nghị một người phụ trách bích báo của lớp.

Tiếng nói rào rào nổi lên ngay:
Thưa thầy, bọn em đề nghị chú Huệ Thông.

– Chú Huệ Thông, thưa thầy, chú Huệ Thông.

Chú Huệ Thông đứng dậy nghiêm trang thưa rằng ngoài bài học ở trường còn phải bận học kinh điển trên viện và phụ trách hộp cứu thương của Viện.

Thầy giáo thấy chú nói có lý, nhưng các em nằng nặc không chịu:
Thưa thầy, chú Huệ Thông vẽ đẹp.

– Hoan hô chú Huệ Thông!

– Hoan hô!

Chú Huệ Thông đành phải nhận chức trưởng ban bích báo.

Thầy nói:
Các em hãy bầu liên đội trưởng của lớp.

– Chú Nguyên Lượng, thưa thầy, chú Nguyên Lượng.

– Hoan hô chú Nguyên Lượng.

Chức vụ gì cũng “mấy chú”, công việc gì cũng “mấy chú”, thậm chí chúng đề nghị những chuyện vẩn vơ. Chẳng hạn thầy nói “Ai thử hát bài Lòng mẹ nghe nào” thì có tiếng đề nghị ngay: “Thưa thầy chú Tâm Đức.” Giọng chú Tâm Đức ồ ồ, mỗi lần cất tiếng đọc bài thì tưởng như trời sắp đổ cơn giông. Chúng thích nghịch các chú vì các chú hiền lành tha thứ. Cũng nhiều khi làm nũng nữa. Thằng Lương hay xin tiền chú Thiện Giáp. Nó kể lể những món nó thèm: ổi, me, chùm ruộc, cóc… và chìa tay xin chú một đồng. Chú mỉm cười lặng lẽ đưa bàn tay len lỏi vào khe áo nhật bình móc túi lấy cho. Gặp đứa học sinh nhỏ nghịch ngợm hay nói chuyện, nhiều khi thầy giáo phải cho dời chỗ xuống ngồi cạnh chú, hoặc giữa hai chú lớn. Sự có mặt của các chú làm lớp học ấm áp một tình thân yêu gia đình. Học sinh có cha (thầy giáo), có chú, có anh chị em. Lớp học lại có mang thêm một không khí hòa bình thanh nhã.

Khai giảng niên khóa 1963-1964 nhằm giữa mùa Pháp nạn, nên có nhiều học sinh xin rút hồ sơ đi học trường khác. Đó là con em của một số công chức, binh sĩ. Họ không muốn vì con em học ở trường Bồ Đề mà bị chính quyền đổi đi miền nước độc hoặc bị giáng chức. Lớp học mang nhiều khoảng trống như một cơ thể mang những vết thương. Chỗ trống đó là chỗ ngồi cũ của Mai Văn Hiền đen như một thỏi chì, của Lệ Châu thân mảnh như một con nai uyển chuyển, của Võ Quang Trí học giỏi và nghịch nhất lớp, của Trần Cạm bị ông giám thị bắt quả tang nằm trốn sau ngọn tháp để đọc tiểu thuyết kiếm hiệp. Vết thương của lớp vừa là vết thương nơi lòng của thầy giáo của học sinh còn lại. Vào những lúc này, mọi người mới cảm thấy thấm thía ý nghĩa của một câu nói bị lặp lại quá nhiều, nhiều đến nỗi gần như biến thành sáo ngữ: “Lớp học là một gia đình.”

Tiếp theo sau, là những cuộc biểu tình đòi thực thi bản thông cáo chung, đòi thỏa mãn 5 nguyện vọng, đòi trả lại nhục thân ni cô Diệu Quang hỏa thiêu. Lớp học còn vắng bóng nhiều em học sinh nữa. Chúng theo người lớn xuống nằm ở ty công an.

Ngày bố ráp chùa chiền làm xúc động thành phố. Trường đóng cửa. Cây phượng trước sân trường chưa bao giờ phải chứng kiến một sự vắng lặng kéo dài dường đó. Ngày tôi đến đây, cây phượng mới được trồng. Bây giờ gốc nó đã tràm một vòng tay của em nhỏ. Dãy cây dầu thân cao màu trắng mốc đu đưa những chùm lá mảnh, dài, nghiêng nghiêng. Thầy trụ trì ưu tư nhìn hàng cây mít chạy ven sân chùa. Thầy nhớ những lũ học trò hoang nghịch lén ngắt vú mít chấm muối ăn. Có lần lũ học trò ở lại buổi trưa đã lén hái cả trái mít vừa chín. Thầy bắt gặp, lắc đầu rồi cho luôn trái mít. Lũ chúng là con của người ta nhưng cũng là con tinh thần của thầy. Hoang nghịch là món quà trời ban cho tuổi thơ. Lứa tuổi vô tư mà thầy đã đẩy lùi vào dĩ vãng. Bốn mươi năm hơn rồi.

Ngày tháng trôi qua, mỗi lần đi xe ra khỏi thành phố là mắt tôi chạm phải ngôi trường đóng cửa im ỉm, Phật học viện nằm vắng lặng. Con đường bò vắt lưng núi không có người đi. Tôi không biết bao giờ mới có dịp đưa Trâm đi một vòng trên con đường vắt vẻo ấy. Thì chợt cuối tháng mười, tôi chợt nghe tin Trâm bị nạn. Nàng đi thăm một người anh làm quận trưởng ở quận Hòa Vang và xe nàng bị phục kích. Nàng chết tại trận, còn người anh bị thương nặng. Linh cữu chở về Đà Nẵng.

Tôi không nhìn được thi thể nàng, cũng không đến viếng được mộ. Thành ra ngồi gợi lại Trâm, tôi chỉ thấy những nét đẹp của nàng. Đôi mày dài màu nhạt. Hàng mi cong. Môi hồng phơn phớt. Nếu phải nhìn thi thể dập nát của nàng, nhìn màu da xám xanh nhợt nhạt, tôi sẽ đau xót và bị ám ảnh đến mức nào! Nếu phải nhìn ngôi mộ của nàng, tôi sẽ chán nản bi quan đến mức nào! Không, nàng đối với tôi suốt đời sẽ mãi mãi là cái dáng thiếu nữ mảnh mai ấy, đẹp đẽ và trong sạch như buổi gặp cuối cùng nàng ngồi Lambetta cạnh tôi.

Đầu tháng 11, nổ ra một cuộc đảo chính, chùa chiền và dân chúng được giải phóng. Khắp các nẻo phố, người ta đi tràn ra giữa đường, tự động biến thành biểu tình, những cuộc biểu tình thành thực đúng nghĩa của nó. Tuy vậy, trường Bồ Đề vẫn đóng cửa vì ở giữa năm học. Tôi ghé thăm trường một chiều chủ nhật. Vắng vẻ. Mấy ngôi cổ tháp đứng giữa sân trường lặng lẽ suy tư. Những cây sao thân cao mọc ở ven chân núi thong thả để rơi những cánh hoa màu trắng xuống những bụi gai thấp. Nơi này, ngồi trong lớp thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ tôi thấy một con sóc thoăn thoát chuyền cành.

Tôi theo con đường nằm vắt lưng núi qua Phật học viện. Đáng lẽ có Trâm đi cạnh tôi vào lúc này mới phải, tôi nghĩ. Một ngày đặt biệt như hôm nay không phải để cho tôi đi một mình. Mặt biển rộng trước kia, dãy Xóm Mới nằm ép trên mặt cát, xóm Cồn, xóm Bống, Rộc Rau Muống, cầu Hà Ra… phải là nơi để đôi mắt nàng lướt qua đậu lại. Nàng phải xuýt xoa cạnh tôi “Ồ! Cảnh đẹp quá!”

Thế mà vụt nhiên nàng đã không còn nữa. Vô lý vậy sao? Từ sống sang chết có biên giới nào không? Bước qua ngưỡng cửa của cõi chết, nàng không đủ thời giờ để nhớ lại những nụ hoa ngọc lan, bà Ngoại, con đường nằm vắt ngang lưng núi, dự định đi thăm viện với tôi. Nàng không kịp nghe tiếng chuông chùa ngân xa, u trầm tịch mịch. Không kịp nhìn cây khế lưng đồi lặng lẽ trổ hoa. Nàng không kịp chung chia nỗi vui rộng lớn của những người tản mát trong các thôn xóm dưới kia, mừng thoát được tai nạn mà họ không thể nào lường trước được.

Con đường đất đỏ chạy lui dưới chân tôi. Đến Phật học viện. Những tòa nhà nối tiếp các chú điệu với bước đi khoan thai. Những chậu hoa hồng, hoa huệ, những hòn non bộ, những hồ sen. Tôi lại đứng dưới gốc một cây hoa đại bên tai tôi.

Tôi mường tượng nghe giọng tôi nói: “Cô sẽ nhìn những cây khế đứng ở lưng đồi…”

Và nàng nói lại: “Chúng ta chọn một ngày chủ nhật nào, và em nhờ anh hướng dẫn…”

Giọng nói ấm, trầm. Như có chứa ánh nắng trên đồng lúa chín màu vàng, như là hơi thở của những chùm hoa màu đỏ.

Khoảng trống sau lưng – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)

Tuyết nói:
Ngày mai anh cứ đi làm như thường. Ðừng xin nghỉ. Em không muốn anh đi tiễn em đâu. Em ghét nước mắt lắm bởi vì tính em mau nước mắt. Người ta vẫn thường ghét những cái người ta có. Những người béo rất ghét mỡ, ghét cái bàn cân ở hiệu thuốc tây. Những người gầy không muốn nhìn hình vẽ bộ xương và tỏ nhiều thiện cảm với những cuốn phim có Hardy. Không hẳn là em thích xách va li đi một mình bơ vơ như một ả giang hồ. Người đàn bà đứng đắn bao giờ cũng có người đàn ông đi cạnh khi trên tay họ có hành lý…

Tuyết chợt ngồi bật ngửa chiếc ghế ra đằng sau, cầm lấy điếu thuốc lá của tôi gác ở mép dĩa, đặt lên môi. Nàng kéo một hơi thuốc dài rồi vẫn để điếu thuốc gắn lên môi, nàng nheo mắt tránh khói vừa gật gật đầu, mỉm cười:
Cố nhiên là cuộc hành trình trong trường hợp này thì rất dài, là cả cuộc đời, là con đường calvaire của Ðức Chúa Jésus. Em cũng đi lao đao như vậy, càng lao đao hơn nữa là bởi em đi mà không có mục đích. Cuộc đời là gì? Là những số nhà, những tên đường thay đổi liên tiếp, những chiếc ô tô hàng sơn màu xanh màu vàng, những chiếc DC3, DC6 có gắn ra đa. Anh, anh là một đàn ông tồi, nhút nhát, ích kỷ, nhút nhát bởi vì ích kỷ. Anh rót cho em thêm nửa ly nữa… Calvert uống lâu thấy ngọt. Cái gì rồi cũng quen đi hết. Chất đắng của cà phê. Chất đắng của thuốc lá. Chất đắng của tình yêu. À anh biết không…

Nàng ngừng nói, nốc một ngụm Calvert. Mặt nàng nhăn lại. Rượu chảy tràn ra hai bên mép, nàng quay mặt chùi lên vai áo.

– Anh biết không?… Thói quen thật là dễ sợ. Anh có thể tưởng tượng người ta mổ bụng moi gan người đồng loại – người sống hẳn hoi, – rồi móc lấy mật mà nuốt với rượu được không? Người nào đã nuốt chán rồi thì moi mật phơi khô để dành tặng bà con hoặc để bán. Năm trăm đồng một cái mật. Nuốt được mật thì người khỏe mạnh, trừ ho hen, con mắt sáng lên. Thật là tàn bạo. Tàn bạo… Sao anh không nói? Em chưa say đâu. Em sẽ thức trọn đêm nay. Ðể cho chai rượu làm bạn với em nhé? Ngày mai nó sẽ cạn hết cạn hết những giọt êm đềm, ấm áp, say sưa của một giai đoạn. Bước lên xe “ca” tức là em qua giai đoạn khác.

Tôi vẫn im lặng nhìn Tuyết không trả lời. Chắc chắn là giọng nói của tôi sẽ làm sai lạc âm thanh của bản độc tấu chán chường của nàng. Ít khi tôi được nghe một giọng đàn bà trầm trầm như vậy. Phải có chất rượu làm rè đi, chất chán chường làm nhòa đi và trong cái âm thanh nứt rạn đó, tôi cảm nghe rung lên sự khắc khoải, sự hấp hối. Chưa có khi nào tôi tưởng tượng được rằng Tuyết có thể ngồi cố nốc từng ly rượu như vậy trước mặt tôi như một tên lính ngoại quốc ngồi nhớ quê hương, nhớ những vườn ô liu, những lối đi có trồng cây táo, những rừng cây dẻ cây sồi cất tiếng ca khi gió len thổi giữa cành. Nàng sẽ sống như thế nào, ngày mai, với tâm trạng chán chường hôm nay? Thật là trong khoảnh khắc Tuyết đã thay đổi tất cả.

Lần tôi giã từ nàng trước đây hai năm, tóc nàng còn uốn từng lọn dài. Bây giờ mái tóc đó cắt ngắn, tỉa lòi xòi kiểu Jean Seberg. Ngày đó nàng mặc áo dài thướt tha, choàng khăn, mang găng trắng và giữ khoảng cách với tôi khi tôi đưa tiễn nàng ra phi cảng. Nàng ngồi trước mặt tôi ở phòng đợi và khi móc gói thuốc lá, tôi phải xã giao xin phép nàng được hút và mong rằng khói thuốc không làm phiền nàng. Bây giờ thì tôi không phải xin phép tắc gì nữa hết. Tôi rút ra một điếu thuốc đặt lên môi nàng trước, bật lửa rồi mới châm điếu thuốc của tôi sau. Nàng không kịp từ chối, không buồn từ chối. Có khi nàng dụi tắt điếu thuốc mới bắt đầu rồi liền đó lấy điếu thuốc hút dở của tôi đặt lên môi. Cái khoảng cách ngày xưa không còn nữa. Thỉnh thoảng nàng ôm chầm lấy tôi, lùa những ngón tay lên mái tóc tôi hoặc ngả đầu lên vai tôi.

Mỗi lần như vậy, tiếng nàng khắc khoải đứt quãng:
Em sợ lắm! Em sợ lắm! Em không muốn trái đất xoay nữa, không muốn ngày mai sẽ đến để thay thế ngày hôm nay. Em ghét lắm, ghét cái đồng hồ trên cổ tay anh, trên cổ tay em. Em là tên nô lệ bị cột chân vào xiềng, nô lệ của thời gian, của cuộc đời buồn nản. Thà là một ngày dài bất tận hay một đêm dài vô cùng. Như vậy ít nhất em cũng được an ủi là ngoại cảnh cũng chết đứng một chỗ như em. Ðằng này trái đất cần mẫn quá, chí thú quá, trịnh trọng dọn cho con người một buổi sáng mát mẻ, một buổi chín giờ màu hồng, một buổi trưa trầm mặc, một buổi chiều gợi u hoài và một đêm tối êm ả. Chiếc Longines này là chiếc thứ tư mà em mang. Em đã đập, trước nó, ba chiếc trong cơn điên, thứ điên phản loạn bất lực. Em đã đập chiếc Wesminster treo tường chỉ vì cách mười lăm phút là phải nghe nó thong thả, vô tình đàn cái bản đàn bất biến của nó. Nó trêu tức em. Em ghét! Em ghét! Em ghét hết!

Tôi lại phải giữ im lặng trong những lúc đó. Tôi sợ tiếng nói của tôi sẽ trở thành cái bản đàn dễ ghét của chiếc Westminster. Ai cũng làm cho Tuyết nghi hoặc, để cho Tuyết nghi hoặc.

Mới hai năm thôi! Trong khoảng thời gian ngắn đó, Tuyết đã lấy chồng. Tiếp tới, anh Ðạo – anh cả của Tuyết – bị chết trận ở chiến trường Ðồng Tháp. Rồi đến anh Lương – anh kế của Tuyết – bị mất tích ở chiến trường Cao nguyên.

– Ngày mai, chuyến xe “ca” bắt đầu chạy mấy giờ, anh?

– Bốn giờ rưỡi.

– Còn chuyến thứ nhì?

– Hình như tám giờ.

– Vậy để em đi chuyến thứ nhì. Ði chuyến đầu thì thế nào anh cũng phải lịch kịch đi đưa.

– Ði chuyến đầu mát hơn.

– Mát? Em không có thấy sự liên hệ nào giữa khí hậu và tâm hồn của em hết. Em ở Ðà Lạt mà có bao giờ thấy mát đâu! Lúc nào đầu óc em cũng nóng bừng lên. Em ở dưới đồng bằng mà có bao giờ thấy nóng đâu! Lúc nào cũng tâm hồn âm u lạnh lẽo.

Tôi vuốt má Tuyết chầm chậm, vừa lựa những lời để nói cùng nàng:
Em phải can đảm mà hòa mình vào cuộc sống. Hãy tìm hưởng lấy phần tươi vui ý nhị nhất của cuộc đời và bỏ qua những nỗi bất như ý.

Tuyết nhún vai:
Ðó không phải là một triết lý cao siêu. Ðó là thứ khôn tầm thường. Anh nên nhớ là em mới ba mươi tuổi.

– Em còn hơn tuổi đó nhiều. Anh nói về tâm hồn chứ không nói về thể xác.

– Ừ. Em vừa trẻ vừa già. Mâu thuẫn trong một người. Thế hệ của em đều như thế hết.

Tuyết lảo đảo đứng dậy, tôi phải đỡ vai nàng.

– Em cần gì?

– Một cái khăn dấp nước lạnh để em lau mặt.

Tôi dìu nàng ngồi xuống ghế và đi vào phòng rửa mặt lấy khăn. Tôi lau lên mặt, lên cổ. Tuyết để yên cho tôi chìu chuộng nàng, ngẩng mặt lên đợi và dụi mặt vào khăn như một đứa trẻ con. Qua lớp khăn mỏng, xúc giác của tôi cảm thấy êm đềm khi chạm vào sóng mũi, gò má, vành môi. Dường như xúc giác cũng biết phân biệt được cái đẹp.

Giọng Tuyết vữa ra, thứ giọng vừa mỏi mệt vừa làm nũng:
Anh chìu em một lần chót, hôm nay. Ðâu có dễ mà chìu chuộng nhau mãi được! Anh tồi lắm, ích kỷ, vô trách nhiệm! Nhưng em lại không thể ghét anh được.

Tôi tự nói một mình: Mọi tội lỗi em trách, anh đều có đủ. Tội còn nặng hơn là em tưởng nữa, nhưng mà sao thay vì phạt, em lại ban ơn? Yêu anh là ban ơn cho anh. Bởi anh không có gì hết, ngoài tình yêu.

o O o

Tuyết đột nhiên hiện đến với tôi một tháng trước. Căn gác nhỏ thuê lại của chủ nhà dưới làm nàng tưởng đã đi lầm nhà.

– Vô lý! Chẳng lẽ anh lại ở một nơi kém tiện nghi như thế này sao? Nếu không thấy anh hiện ra đón em thì nhất định là em không dám leo lên một cái thang gác khả nghi như vậy.

– Tại anh không bao giờ giàu nổi để thuê một căn nhà có vườn rộng, có cuội trắng rải trên lối đi, có một giàn nho nơi đó người ta ngồi uống rượu để đợi trăng lên.

– Nếu kể ra những cái anh không có thì biết bao giờ cho hết! Những cái lồng chim bạch yến hót… những lẵng hoa lan, những chậu hoa huệ… một cái xe hơi…

– Một con berger… một con mèo xiêm và…

– Em biết rồi. Và một người đàn bà. Một người đàn bà thì dễ có hơn những món kia.

– Chưa chắc. Vả lại anh không dám có một ý nghĩ phạm thượng như vậy.

– Với anh thì chả có gì chắc chắn hết. Thôi xuống mang va li lên hộ em.

Tôi không hỏi lý do vì đâu Tuyết đến với tôi. Cũng không hỏi nàng từ đâu đến.

Nàng phải giải thích khi tôi vừa đặt va li xuống sàn gác:
Em sẽ ở với anh ba tuần. Có phiền không?

Tôi lắc đầu.

– Có người đàn bà nào hiện ở với anh không?

Tôi chỉ lên cái tủ áo.

– Thế thì tốt. Nhưng có người đàn bà lâu lâu đến với anh không?

Tôi mỉm cười:
Có.

– Anh có biết cách trả lời khi họ hỏi về em?

– Không khó. Có những người em sẽ gặp đều đủ thông minh nên chúng ta không cần phải nói dối. Họ biết tôn trọng tự do của người khác và không để mũi vào khu vực nào không thuộc phạm vi của họ.

Tuyết bĩu môi:
Bây giờ em mới hiểu vì sao bấy lâu nay anh không hề viết thư cho em.

– Lý do không phải như em nghĩ đâu. Thôi, em đi vào thay áo.

Tuyết bước vào nhà tắm. Chợt nàng bước ra, áo pyjamas mới thay chưa kịp gài khuy.

– Có nhiều đàn bà lâu lâu đến với anh không?

– Câu trả lời lấn vào phạm vi khu vực của anh.

– Biết rồi!

Và nàng đóng sầm cửa phòng tắm lại.

Bữa tối đó chúng tôi đi ăn ở Chiêu Anh. Tuyết ăn hết phần của nàng và gọi bồi mang thêm thức ăn. Nàng uống một ly Cap Corse.

– Lâu lắm em mới ăn một bữa ngon như hôm nay.

– Hân hạnh cho người đầu bếp – tôi chậm rãi nói.

– Không phải chỉ nhờ món ăn mà nhờ có anh. Em thấy có một sự thoải mái khi ngồi trước mặt anh. Y như khi em ngồi cạnh một dòng sông, khi em nhìn một bụi chuối tỏa bóng mát. Nơi anh, em nhận thấy một sự bảo vệ kín đáo và êm đềm.

– Cám ơn em.

o O o

Tuyết nhìn ra ban công nơi đó có những ánh đèn nhỏ màu xanh màu đỏ nhấp nháy giữa những chùm lá cây.

– Bình yêu em và chìu chuộng em, nhưng em không có được sự thoải mái mà em mong ước. Hạnh phúc ở đời, theo em nghĩ, như là cảm giác của người đi giày. Một đôi giày làm mình dễ chịu khi mang nó vào chân rồi mà mình không nghĩ rằng mình đang mang giày.

Tôi mỉm cười:
Khá nguy hiểm cho những người chồng! Ði với chồng ở giữa phố mà tưởng như mình còn là con gái, như người đàn ông đó không có liên hệ gì với mình hết…, anh chắc điều đó không có người chồng nào hoan nghênh…

Tuyết cười:
Không đến nỗi như vậy. Tỷ dụ chỉ là một cách nói.

Công việc đầu tiên của Tuyết là chạy đi tìm thuê cho tôi một căn gác có cầu thang bước lên bằng xi măng, có cửa sổ nhìn ra một khu vườn yên tĩnh. Khu vườn này của nhà bên cạnh nên mỗi lần nhìn sang những chùm lá xanh đong đưa uyển chuyển, mỗi lần đón nhận những luồng gió nhẹ thơm mùi hoa huệ hoa hồng, tôi cảm thấy rằng mình đang ăn cắp.

Tôi bày tỏ ý kiến ấy cho Tuyết và nàng cười:
Tội ăn cắp ấy là tội của em. Anh chỉ có tội oa trữ, anh chỉ là đồng lõa. Anh có sợ phạm tội ăn cắp không? Em thì chả sợ. Xã hội đã ăn cắp của em nhiều quá rồi. Cả ngay trong việc em lấy chồng, em cũng bị mất cắp nặng.

– …?

– Hạnh phúc, niềm tin, sự an ổn trong hồn… em đâu có còn được chút chi? Ông Tản Ðà bảo rằng sống ở đời như ngồi một canh bạc. Em là con bạc khù khờ, mới ngồi xuống chiếu đã bị tụi nó chơi thấu cáy. À, anh có hay chơi xì tố không?

– Không.

– Xì lác?

– Thỉnh thoảng.

– Chơi xì tố thì mới có cảm xúc mạnh, mới có chút ít nghẹt thở. Y như đi coi phim suspense vậy. Nhưng mà anh thì chắc chỉ coi những thứ Valse dans l’ombre hay Mayerling.

Tôi nhịn không cãi lời Tuyết. Cãi lại nàng làm chi khi chính nàng đã chạy đến tìm an ủi nơi tôi! Tôi phải làm cái bia hứng chịu những mũi tên hằn học, bất mãn. Vả lại, tôi tự xét mình không phải là không tồi. Ích kỷ cũng không thiếu. Tuyết đến với tôi không phải để tìm lý luận và lẽ phải. Nàng chỉ cần được vỗ về để quên.

Tuyết đau khổ là một điều vô lý. Tôi tưởng chỉ có đàn ông mới phải đau khổ vì nàng. Ðôi mắt nàng với hàng mi đen thăm thẳm chính là thứ đại dương mênh mông, nơi đó đàn ông biến thành những tên thủy thủ. Tha hồ mà phiêu lưu và chết trong đó.

Tuyết thay cho tôi một loạt khăn trải giường, khăn bàn và rèm cửa. Tủ sách cũng được nàng xếp đặt lại có thứ tự. Bao nhiêu những vật trước đây tôi bỏ bề bộn, nàng khéo dọn dẹp thế nào mà mỗi vật đều chỉ chiếm một chỗ rất nhỏ. Một lần tôi đi làm về bất chợt gặp nàng đang dùng một sợi ni lông khâu chiếc quai săng đan cho tôi. Chiếc xăng đan đứt đôi tôi ném mãi ở góc tủ.

Tôi cảm động ôm vai nàng nói:
Bây giờ anh mới hiểu em, mới biết em, mới thưởng thức được em.

– Nhưng đã chậm!

Nàng quay nhìn ra hiên, im lặng không nói tiếp.

Buổi trưa đó, chúng tôi ít nói trong bữa ăn. Tôi có cảm tưởng người nào cũng cố giữ những giọt nước mắt của mình. Tình yêu không phải chỉ là những cái hôn. Nó còn là sự im lặng. Tôi tôn trọng khoảng cách giữa tôi và Tuyết, nó làm tình yêu của chúng tôi trở thành xót xa và cao quý. Người đàn bà không còn là một đối tượng ham muốn. Ðó là cái “tôi” đau khổ và bất lực được tách ra đặt ở trước mặt mình.

Tôi nói:
Bao giờ cũng vậy: hoặc là đã chậm rồi, hoặc là còn quá sớm.

– Áp dụng vào trường hợp em thì là: còn quá sớm để mà tuyệt vọng nhưng lại đã chậm rồi để mà hy vọng.

– Bình là một người chồng tốt, anh nghĩ như vậy.

– Về những phương diện nào đó. Về tài chánh chẳng hạn. Em có một cái Taunus để đi dạo phố, có vòng ngọc và kim cương để làm ganh tị những người đàn bà. Về trí thức chẳng hạn. Bình học giỏi, đỗ cao, được nhiều người nể v. v… Nhưng bao nhiêu ưu điểm Bình có chưa đủ để làm em sung sướng.

– Em đòi hỏi Bình phải…?

– Không thể đòi hỏi được. Mỗi người đều có những ưu điểm và nhược điểm của mình nhìn qua mắt của người khác. Mỗi người nhìn một cách khác nhau, không phải ai ai cũng đồng ý với nhau trong việc ghi nhận ưu điểm và nhược điểm. Nhưng mà thôi, em không muốn nhắc đến Bình khi em ở cạnh anh. Chúng ta không nên đầu độc những ngày vui ngắn ngủi.

– Em có hối hận khi lừa dối Bình mà đến đây?

– Một chút ít thôi. Bình lừa em trước, Bình đi Hồng Kông một tháng và có lén đem theo người tình nhân của hắn. Vợ của bạn hắn đó. Tụi thượng lưu thời nay học đòi lối chim vợ của nhau.

– Em không ghen?

– Vô ích. Vừa mang tiếng là quê mùa, tốt hơn hết là tiễn Bình lên phi cơ xong, em mang va li đến anh. Ít nhất chúng ta cũng còn cao thượng hơn bọn nó. Vì ở đây chỉ có một người bị lừa dối.

Tôi bĩu môi:
Cao thượng!

– Chứ sao? Lừa một tên bịp, em không thấy máy mắt một chút nào hết.

Tuyết trầm ngâm một giây:
Thực ra thì em không có ý lừa Bình. Bao nhiêu thằng bạn thân của Bình chúng tán tỉnh em trắng trợn công khai nhưng em đâu có sa ngã. Em chỉ muốn nhân dịp đến thăm anh coi anh sống hiện nay ra sao.

Tuyết nói điều đó không giả dối. Tôi sống như thế nào, ba tuần qua nàng đã biết. Ðêm nay là đêm chót cùng nàng chung chia mái nhà với tôi.

Ðêm vắng vẻ như tăng thêm chiều sâu.

– Ðáng lẽ thừa lúc Bình lừa em mà đi xa như vậy, em có thể nhân dịp trở về quê hương sống những ngày êm đềm bên cạnh cây cỏ và người thân yêu như những ngày còn nhỏ. Quê hương ám ảnh em không ngớt. Em ghét tiếng xe cộ ồn ào, tiếng máy thu thanh rộn ràng, tiếng cười nói nham nhở với cái đô thị dẫu quen thuộc mà vẫn rất xa lạ với em. Em yêu những con đường làng có bóng cây sung cây keo xanh mướt, em yêu sườn núi sau nhà mọc lẫn lộn những bụi quít bụi găng…

Tuyết thở dài trầm ngâm nhìn xuống chân.

– Nhưng quê hương đó không còn là của em nữa. Một phần tư thế kỷ rồi, chiến tranh và biến cố chính trị đã lần hồi đốn ngã những cột trụ mà em nương tựa. Thầy em đã chết trong ngục. Me em đã chết vì bệnh mà thiếu thuốc. Hai anh trai của em đã chết trên chiến trường. Ngôi nhà và khu vườn bị bom tàn phá. Và bây giờ em còn bị cách trở với quê hương bởi không biết bao nhiêu là phòng tuyến.

– Anh cũng không sung sướng gì hơn em.

– Vả lại, dù có về được e rằng em cũng không về. Nhìn lại những kỷ niệm chỉ làm mình buồn thêm. Coi như là em mất tất cả rồi. Sau lưng em chỉ còn là khoảng trống. Ðưa hộ em tách nước…

Nàng uống một hơi cạn và trả tách cho tôi cất.

– Em tìm đến anh bởi vì anh là hình ảnh của cái quê hương hiền hòa và đau khổ đó. Anh là tượng trưng, anh là một phần của cái quê hương dày đặc kỷ niệm đó. Anh có thể khinh em đi, nhưng mà đừng phũ phàng với em.

– Anh không hề phũ phàng…

– Là em nói phòng xa thế. Người có nhiều lý trí bao giờ cũng nuốt gọn những tủi buồn mà chỉ để lộ ra vẻ đắc thắng. Em cũng thế. Em đắc thắng trước mặt mọi người. Chỉ buồn tủi với riêng anh.

Nàng im lặng và tiếng phi cơ thám thính rền từ góc này sang góc kia của khung trời, mất hút đi rồi lại trở lại rang rang trở lại. Hỏa châu sáng rực ở phía phi trường. Tôi nghĩ đến những trở ngại ở dọc đường.

– Hay là em đợi đến ngày kia có chuyến máy bay.

Tuyết lắc đầu:
Em thích đi xe “ca” cho đường dài hơn. Có gì hấp dẫn em ở đầu kia con đường đâu mà anh biểu em hấp tấp về nhà? Chán ngắt là những khuôn mặt mình sẽ gặp: chị bếp, con sen, bác tài xế… Khung cảnh cũng chán ngắt nữa: ngôi nhà đồ sộ và vắng lạnh, càng vắng lạnh bởi vì đồ sộ, những chậu cây, những bức tranh trên tường, những giường tủ lọ hoa. Em không muốn nhìn thấy chúng nữa. Nhưng mà em phải về.

– Ðường bộ không được an toàn lắm.

– Nhưng mà vui. Em thích ngồi xúm xít trong một chuyến xe với nhiều người. Tha hồ gật gù trên con đường thiên lý. Những cảnh lam lũ nghèo khó trên con đường làm em được an ủi hơn. Quê hương ta nghèo nàn, đồng bào ta cơ cực, nơi nào cũng thế, không đi trên đường thì không thấy được. Phi cơ bay cao quá nên nhìn xuống đất thấy cái gì cũng đẹp, cái gì cũng pittoresque, cũng nên thơ hết.

Khi chúng tôi chia tay đi nghỉ thì kim đồng hồ đã chỉ ba giờ. Tôi chuẩn bị để trằn trọc suốt đêm, bởi vì ngày mai sẽ bắt gặp tôi đối diện với nỗi cô đơn của tôi, nhưng không ngờ khi vùi đầu vào gối tôi chui ngay luôn vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau dậy trễ phải lật đật rửa mặt, cạo râu, thay áo và ăn sáng để đi làm, tôi chỉ kịp hôn Tuyết rồi lật đật nói:
Thôi lát nữa em ra xe. Ði đường khỏe mạnh. Khóa cửa rồi gửi chìa khóa xuống nhà dưới.

Tuyết ôm chặt tôi không nói gì hết. Khi xe tôi ra đến đầu phố, tôi tự trách: Ðáng lẽ mình có thể hôn Tuyết dài hơn, hôn thêm hai phút nữa. Ðến sở trễ hai phút thì có gì nhiều.

Trưa hôm đó ở sở ra, tôi không muốn về nhà vội mà cứ muốn đi lang thang ở dọc đường. Tôi cho xe chạy chậm trước rạp chiếu bóng để tò mò nhìn xuống các bức hình quảng cáo. Tôi ghé lại hiệu sách lơ đãng giở xem những tập báo ngoại quốc, xem hình những đàn bà đẹp có tô màu lộng lẫy. Tôi không muốn về căn nhà trống trơn, thiếu bóng dáng của Tuyết, nhưng buổi trưa không phải là giờ la cà nên tôi đành phải cho xe chạy về nhà.

Chiếc chìa khóa tra vào ổ khóa. Cửa mở. Mùi nước hoa quen thuộc của nàng. Tôi bước nhẹ vào phòng như sợ làm kinh động một cái gì thiêng liêng. Hơi thở của Tuyết vẫn còn phảng phất đâu đây. Chiếc pouf kia nàng ưa ngồi. Bức ảnh bán thân của nàng đặt trên bàn viết. Những lọ phấn và nước hoa xếp thành dãy. Tôi đi lại tủ áo để thay. Một chiếc áo dài của nàng còn treo đó.

Chiếc này, hôm nàng mặc đi phố với tôi, tôi khen:
Em mặc áo này trông đẹp bội phần.

– Anh có nói nịnh em không?

– Không.

– Thế thì ta giống sở thích nhau. Em cũng thích cái áo này nhất trong tủ áo của em.

Tôi không nghĩ rằng Tuyết đã vội vàng đến quên xếp đem theo chiếc áo đó. Hay là nàng muốn tôi giữ mãi nó để đừng quên nàng? Cũng như dãy lọ phấn và lọ nước hoa kia.

Tối đó, khi tôi lật tập agenda, tôi thấy một mảnh giấy có chữ viết nguệch ngoạc gài trên tờ lịch. Nét chữ của Tuyết.

“Em khóc mười phút trước khi ra xe. Nhớ viết thư cho em. Gửi về địa chỉ của chị Phúc. Ðừng thức khuya. Bớt hút thuốc lá. Em không tuyệt vọng đâu, anh yên tâm…”

Có chữ nét mực nhòe và giấy nhăn lại. Dấu vết của những giọt nước mắt.

Lương mai – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)

– Một cái siège[1] Italy. Tôi thích một cái siège Italy.

– À… siège Italy hổng có. Lâu lâu mới có. Thứ đó ít nhập cảng lắm. Ở Sài Gòn này thầy kiếm đâu cho ra!

– Đắt bao nhiêu cũng được mà! Tôi chỉ cần lấy một cái thôi.

– Tui biết mà! Tại tui hổng có. Tui với thầy là chỗ quen biết mà! Nói thiệt, chỉ còn mấy cái siège Ăng Lê. Quen lắm tôi mới dám giới thiệu.

– Ở đâu?

– Để ở nhà sau. Phải cất tuốt ở nhà sau. Để dành cho bà con quen lớn.

Ông Sử Cẩm Hưng tươi cười nhìn tôi, hai tròng kính trắng làm cho khuôn mặt thêm tròn.

Ông bước đi trước và tôi nối gót bước theo. Phải khéo tránh những đống sắt, những cuộn dây cao su, dây ni lông xếp thành bành cao, những hòn núi lon sơn, những thùng dầu, thùng bột màu. Thật là bề bộn lẩm cẩm.

Bước ra một khoảng sân hẹp. Những chậu hoa hồng: Brigitte Bardot, René Coty, Rendez-vous… Những giò phong lan: Bạch Ngọc, Tố Tâm…

– Đây, vô trong kho này, mặc ý thầy lựa. Ê! Bobby, nằm tránh ra.

Con chó mập như một con bê con, màu lông xám thẫm trên lưng. Nó lừ đừ đứng dậy đi ra sân. Tôi còn mải mê nhìn những chậu hoa hồng. Đóa hoa hai màu này chắc là giống mới ghép, chắc phải mang tên một nhân vật thời danh: De Gaulle, Christine Keller, Kennedy…

Con Bobby chầm chậm đi ngang qua chỗ tôi đứng. Chợt nó quay đầu lại ngoạm vào đùi tôi.

– Ái cha!

Tôi khựng người, ôm chầm lấy chân la lên. Ông Sử Cẩm Hưng cũng la lên:
Bobby!

Con Bobby lừ đừ đi vào nhà trong, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tôi bị chó cắn rồi. Đầu óc tôi choáng váng.

Ở nhà trong có nhiều người chạy túa ra. Tôi vén quần lên. Máu ri rỉ chảy ở hai vết cắn cách nhau đến sáu phân. Tiếng ông Cẩm Hưng la oang oang:
Sao bay không chịu xích chó? Tao dặn hoài. Ở nhà lo chuyện gì đâu đâu. Có sao không thầy? Đứa nào chạy vô lấy bông băng ra đây. Lấy thuốc tăng-câyđót. Lấy thuốc đỏ.

Tôi gác chân lên một trụ gạch cúi xuống nặn máu ở vết cắn. Thôi, không buồn để ý đến ai nữa. Mọi lời nói đều vô nghĩa. Tai nạn đến cho mình thì mình phải chấp nhận lấy, phải chịu lấy hậuquả. Ai cũng là bàng quan hết. Phải lo đi tiêm ngừa chó dại. Chao ôi, mười lăm, hăm mốt mũi kim sẽ đâm liên tiếp dưới da bụng hay dưới da lưng, nhức nhối làm cho người ta bỏ ăn, làm cho người ta bệnh hoạn hàng tháng. Thật buồn quá đỗi. Đáng lẽ mình không ghé lại hiệu ông Sử Cẩm Hưng để mua siège sáng nay! Nếu đi qua mà không gặp ông đứng trước cửa hiệu tười cười chào mình thì mình đâu có ghé? Chó cắn thật là phiền. Mười con cắn chỉ họa hoằn có một con dại, nhưng mình đâu có dám tin chắc con chó cắn mình thuộc thành phần chín con kia. Nhưng dù không tin chắc là nó dại mà vẫn phải mang lưng mang bụng đi lãnh sự đau đớn nhức nhối.

Anh Công vừa bị chó cắn, mới tiêm năm mũi mà trông anh hom hem như một cụ già. Trong mười phút ngồi nói chuyện mà anh hết nhăn nhó đến nhăn nhó. Nhức bên này. Nhức bên kia. Cái lưng trẹo hẳn ngồi không được. Mời thầy mằn về nắn xương. Nhức đầu. Lạt miệng. Sốt. Phải ăn cháo và uống sữa. Chị Công chạy te tái để lo săn sóc anh.

Đến lượt mình. Giận hết sức. Nhưng có thể từ chối không đi chích ngừa được không? Những trường hợp mắc bệnh dại cổ điển nhất đủ để làm mình kinh hãi. Một cậu học sinh đi học về bị một con chó rượt chạy theo cắn. Cậu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy, chạy thót vô nhà. Con chó vù tới táp một cái. Hụt. Cậu nhỏ đóng sập cổng lại. Cậu kể chuyện với mẹ. Mẹ con mừng rỡ. Cái quần bị chó táp trúng, tét đi, mẹ lôi ra vá. Vá xong, mẹ tìm cái kéo để cắt sợi chỉ. Cái kéo bỏ lạc đâu đó, mẹ cúi xuống cắn sợi chỉ. Chừng vài tháng sau, đột nhiên một hôm mẹ lên cơn dại và không có thuốc nào chữa được. Người ta giảng rằng tinh độc bệnh dại trong nước bọt của chó dính nơi miếng quần bị cắn rách. Khi mẹ cắn vào sợi chỉ, tinh độc vào máu theo một vết lở nào đó trong miệng mẹ.

Chị Lan trước làm ở nhà thương Grall kể lại trường hợp một bà mẹ dẫn cô con gái chừng mười tám tuổi, đẹp đẽ, quí phái đến nhà thương. Cô con gái bị chó cắn và đã lên cơn dại. Bà mẹ khóc lóc lạy lục bác sĩ xin cứu mạng con nhưng bác sĩ nói khoa học không có cách nào chữa được hết. Ông chỉ còn có cách giúp đỡ bà mẹ là cho cô vào phòng lạnh cho nhiệt độ thật thấp để cho cô con sẽ chết trong sự yên tĩnh khỏi những hồi vật vã đau đớn làm cho bà mẹ khổ tâm.

Anh Quế kể chuyện ở nhà thương tỉnh Bình Tuy, một hôm người ta đưa đến một trường hợp mắc bệnh dại. Đó là một thanh niên hai mươi tuổi. Anh ta làm thợ hồ. Trong giờ tỉnh táo nạn nhân kể lại: “Cháu nuôi một con chó con. Nó đùa giỡn với cháu. Nó cạp đùa tay cháu, trầy da chảy máu một chút rồi khô đi. Sau đó mươi hôm, con chó bỏ ăn rồi chết. Chẳng ai để ý đến cái chết tầm thường của nó. Nhưng chừng ba tuần lễ sau, một buổi trưa cháu đi làm về, ra nhà sau để rửa tay rửa mặt thì sao chợt thấy sợ nước. Sao cứ thấy nước là ngộp. Cháu bỏ ăn vô giường nằm. Đầu nhức. Cháu sợ ánh sáng, bắt người nhà đóng cửa lại.”

Sau chừng một giờ tỉnh táo như vậy, lời anh Quế, thì nạn nhân đập bàn giậm chân rầm rầm rồi la những tiếng “Trời ơi” thật to. Nạn nhân quằn quại lê lết trên giường. Nhưng nhà thương không có thuốc gì để chữa. Tôi thấy xót thương tìm hỏi ai có cách gì để cứu hắn không. Người ta mách một ông thầy thuốc Bắc. Tôi tìm tới và ông thầy bảo đảm chữa khỏi được. Tôi tiếp tay người nhà nạn nhân chở hắn đến nhà ông thầy. Phải trùm một cái mền bịt bùng lên đầu hắn vì hắn sợ ánh sáng rồi cho hắn ngồi lên xe ba gác. Chở đến nhà ông thầy, hắn xuống xe đi vào với cái mền chụp hùm hụp trên đầu. Người nhà ông thầy sợ quá, chạy túa ra sân, la như cắt cổ. Ông thầy cũng chạy ra sân luôn. Cả xóm nghe ồn ào chạy tới bao vây đứng coi. Tôi phải điều đình và ông thầy đặt điều kiện là phải chở hắn về nhà hắn và ông thầy sẽ đến đó chữa. Lúc bấy giờ hắn tỉnh, hắn khóc trong mền, giọng khóc nỉ non “Con không có điên mà! Con chó điên nó cắn con, chớ con không có điên mà! Con không cắn ai đâu. Lạy ông thầy cứu mạng cho con.” Tôi lại cho hắn lên xe ba gác bảo chở hắn về nhà và gọi một cái xe ba gác khác bảo chở ông thầy đi theo luôn. Nhưng liền trưa hôm đó thì xe ba gác chở ông thầy về. Ông nói hắn vừa chết được nửa giờ…

Những câu chuyện như thế lướt nhanh trong óc tôi. Tôi vừa nghĩ lan man đến những trường hợp lên cơn dại điển hình đó vừa nặn máu vết cắn. Chợt có một bàn tay nhỏ, trắng, gạt nhẹ bàn tay tôi ra và nặn máu hộ tôi. Tôi nhìn lại: một thiếu nữ Trung Hoa chừng hai mươi tuổi đã đứng cạnh tôi hồi nào tôi không haỵ Kề đó có một lọ thuốc đỏ, một hộp bông, ga, một cuộn vải keo. Tôi nhìn khuôn mặt. Khuôn mặt cúi xuống, tôi thấy đôi hàng mày dài, cái mũi và hàng mi cong. Những ngón tay trắng hồng nặn nhè nhẹ vết lên vết thương của tôi. Máu nhỉ ra, nàng nhẹ nhàng lau. Da mềm nơi ngón tay gây một cảm giác êm êm. Còn một vết cắn nữa, tôi chụm bốn ngón tay nặn thật mạnh. Máu đỏ vọt ra. Nàng lấy bông lau vết máu rồi gạt bàn tay tôi, nặn qua vết cắn đó.

Tiếng ông Sử Cẩm Hưng:
Con chó này hiền lành lắm mà! Lâu lâu nó… ngứa răng… nhưng mà nó cắn không độc. Bữa trước nó cắn chú tài phú nhưng cũng không sao.

– Dạ, nhưng tôi cũng phải đi chích ngừa.

– Chích làm gì thầy? Đau đớn trong mình. Không sao đâu. Bên Thú y họ có khám con chó rồi mà. Nó vẫn mạnh như thường.

– Họ làm gì mà khám được?

– Ậy, thầy không tin tui. Họ khám cẩn thận lắm. Họ thử máu.

Vì những ngón tay màu trắng hồng kia, tôi cố gắng giữ bình tĩnh để giảng cho ông Sử Cẩm Hưng rằng họ đã nói dối.

– Người nào nói với ông rằng đã thử máu rồi là người ấy bịp ông đó. Vi trùng chó dại là một loại siêu vi trùng, nhỏ lắm, kính hiển vi thường không nhìn thấy được. Phải có kính hiển vi điện tử mới nhìn thấy nó. Mà kính hiển vi điện tử thì làm gì bên Ty Thú y có? Vả lại, con siêu vi trùng đó không có ở trong máu mà ở trong hệ thần kinh. Không ở trong máu thì thử máu làm gì? Họ nói bịp ông đó!

Tôi nói một hơi thì cơn giận nổi lên. Ông Sử Cẩm Hưng coi tôi như một ông xã nhà quê nên đem việc thử máu ra để trấn an tôi.

Máu nóng hừng hực ở mũi, ở tròng con mắt, tôi không giữ được nữa:
Thú y chỉ giữ con chó lại để xem xét trạng thái bên ngoài của nó mà thôi. Chẳng hạn nó bỏ ăn, chẳng hạn nó bị bại. Khám xét nó chỉ có bên viện Pasteur. Phải chặt đầu nó, chặt đầu nó, ông rõ chưa, phải chặt đầu nó, phải…

Những ngón tay bấu mạnh vết thương của tôi. Tôi ngừng nói nhìn xuống. Đôi mắt đen ngước nhìn lên tôi dịu dàng.

Tôi hạ giọng:
Nhưng xin ông an tâm. Tôi sẽ đi chích ngừa. Chả sao đâu.

– Thầy đừng sợ mà! Con chó này không dại đâu. Chó dại thì ngó biết liền.

– Khó biết lắm, ông Sử ạ. Nhiều khi người và chó, – người bị cắn và con chó cắn, – cùng dại một lượt. Loại bệnh này phiền phức lắm.

– Con berger của tui cứ tiêm thuốc luôn.

Vừa lúc ấy có tiếng gọi to ở từ ngoài cửa hiệu vọng vào.

– Chú ơi. Chú. Chú ra cho tôi hỏi cái này một chút. Gấp lắm.

– À, à…, – Ông Sử Cẩm Hưng vỗ vai tôi, –… Thầy. Để tui chạy ra trước một chút. Thầy đứng chơi.

Đứng chơi! Tôi đang rối ruột lên đây. Thấy công chuyện đã êm xuôi, những người trong nhà tản đi dần. Người thiếu nữ vươn tay lấy lọ thuốc đỏ. Tôi giúp nàng mở nút lọ. Nàng thấm thuốc vào bông đặt lên vết cắn. Tôi giúp nàng, đè một ngón tay lên giữ cho khỏi rơi. Nàng lấy kéo cắt băng vải keo. Tôi giúp nàng xoa xoa cho đầu băng vải keo dính chặt vào da. Tôi cám ơn nàng và nàng không mỉm cười.

Nàng nhìn thẳng tôi rồi nói khẽ:
Ông nên đi xuống viện Pasteur mà chích thuốc ngừa đi.

Tôi ngạc nhiên vì lời đề nghị:
Ba cô mới nói…

Nàng không lưu ý đến câu nói của tôi, vẻ mặt xa vắng như đang nghĩ gì đâu đâu. Giọng nàng nhẹ nhàng:
Con chó chưa được… Ông nên đi xuống Pasteur chích thuốc ngừa đi.

– Thật không êm đềm chút nào hết. Ai cũng sợ hãi những mũi tiêm nhức nhối đó.

– Ông chịu khó. Con chó chưa được… Ông hiểu chứ?

– Vâng. Tôi hiểu.

– Ông đừng trách ba tôi.

– Không có. Tôi nghĩ rằng cụ muốn cho tôi an tâm nên cụ mới nói lạc quan thế. Cụ không quan niệm bệnh chó dại nguy hiểm ngang tầm mà chúng ta quan niệm.

– Ông đừng nên sợ đau. Tính mệnh quan trọng hơn một sự êm đềm nhất thời.

– Cám ơn cô. Tôi xin nghe lời cô.

Nàng thu dọn bông, băng, kéo, lọ thuốc… khẽ cúi đầu chào tôi rồi đi thẳng lên lầu. Bộ pyjama bằng vải hoa. Mái tóc mới cắt.

Bằng cách nào để lắng dịu những nỗi bực tức? Trên đường về nhà, tôi thấy chán nản lạ, mặc dù giữa những lúc buồn bã, những hồi xót xa, tôi gợi nhớ đến khuôn mặt xinh tươi đó, mười ngón tay trắng hồng đó, giọng nói êm đềm đó.

Bốn giờ chiều thì tôi đến viện Pasteur. Cô thư ký giải thích thể thức:
Không thể đột nhiên vào bệnh viện để xin tiêm ngừa. Phải có giấy giới thiệu của Ty Mục súc.

Ty Mục súc! Mình bây giờ thuộc quyền điều động của Ty Mục súc. Tôi buồn cười nghĩ rằng với một vết chó cắn, mình bây giờ được đồng hóa với heo bị dịch và với gà toi.

– Giấy giới thiệu, sẽ có trong một giờ đồng hồ. Bây giờ thì xin cô làm ơn cho tôi một mũi tiêm. Tôi xin nợ cô mũi tiêm đó.

Cô thư ký suy nghĩ rồi gật đầu đưa tôi qua phòng thuốc.

– Chị Triết, tiêm cho ông một mũi chó dại.

Cô y tá có khuôn mặt dịu dàng. Đôi mắt bồ câu mở to. Cô rút thuốc vào ống tiêm. Tôi nói:
Cô tiêm giùm vào lưng tôi. Tiêm ở dưới bụng đau lắm.

– Vâng. Tôi tiêm ở lưng cho ông.

Tôi ngồi xuống ghế, cuốn áo sơ mi lên. Cô y tá thoa rượu cồn và liền sau đó mũi kim châm nhẹ vào da. Chưa kịp đau thì đã nghe miếng bông xoa qua và ngón tay ra hiệu kéo áo xuống. Nhanh và nhẹ nhàng như vậy sao? Người ta vẫn sợ tiêm ngừa chó dại lắm mà? Nhức nhối, bỏ ăn, sốt, bệnh. Sao với tôi lại nhẹ nhàng êm ái như thế?

Tôi cám ơn cô y tá.

– Ông chịu khó đi chích hàng ngày. Độ này có dịch chó đấy. Đã tới bốn, năm trường hợp chó dại được xác nhận.

– Vâng.

– Vừa rồi có một em nhỏ ba tuổi bị chó đè cắn nát mặt. Đáng lẽ phải tiêm mỗi ngày hai mũi nhưng sức em đó yếu quá tôi không dám tiêm. Thật nguy hiểm.

– Tôi hy vọng rằng con chó cắn tôi…

– Tôi cũng mong vậy. Nhưng ông sẽ không tiêm dưới năm mũi tối thiểu rồi đợi chờ trong mười lăm ngày.

Buổi tối vết tiêm bắt đầu đau. Gây sốt. Tôi nằm nghiêng bên lưng lành mạnh và nhờ chị Ở cho một chai nước nóng. Giấc ngủ nhọc nhằn. Thức giấc nghe lưng nhức, mỏi nhừ vì chỉ nằm nghiêng một bên. Sáng ngày, miệng hơi lạt.

Tôi tiêm mũi thứ hai. Phản ứng nhẹ hơn mũi đầu tiên, ít sốt hơn nhưng cái lưng không còn chỗ để mà trở nữa. Bên trái và bên phải đều nhức, nhức cũ đậm đà hơn nhức mới, trải rộng trên bề mặt và ăn lún thâm vào bề sâu. A, đến bây giờ tôi mới biết mùi tiêm thuốc chó dại. May mà tôi chưa kịp ba hoa với ai rằng sao thiên hạ hay đồng thanh bi thảm hóa với một sự kiện hết đỗi tầm thường như thế.

Khi tôi nhận mũi tiêm thứ ba thì rõ ràng là bắp thịt ở lưng tôi cứ tự nhiên phản ứng bằng cách co rúm lại và những ngón tay của cô y tá dạo từng luồng mát trên da lưng tôi. Tôi biết là mình sốt, cơ thể mình đang chống cự mãnh liệt với bệnh.

Ngày tiêm mũi thứ tư nhằm vào ngày Chủ nhật.

Hôm thứ Bảy, cô y tá nói:
Ngày chủ nhật nhân viên nghỉ, chỉ có phòng trực làm việc đến chín giờ. Ông gắng đến trước chín giờ.

Sáng Chủ nhật mưa thật to, mưa như cầm chỉnh mà đổ. Lóp ngóp lội mưa để tới nhận lãnh một phát tiêm đau trong khi mọi người bình yên nằm trong giường đắp chăn tận cổ thưởng thức một buổi sáng Chủ nhật nhàn nhã, lúc đó tôi giận ông Sử Cẩm Hưng đến độ máu có thể sôi lên trong huyết quản. Nhưng liền khuôn mặt của cô con gái ông hiện ra, ngón tay dịu dàng vuốt lên vết thương của tôi, đôi con mắt nhìn êm đềm và giọng nói thanh tao ngập ngừng.

Bước vào hành lang viện Pasteur, tôi ngạc nhiên nhìn lũ bệnh nhân chó dại nam phụ lão ấu đủ hạng lôi thôi lếch thếch lớp đội nón lớp ôm áo mưa ngồi đứng lộn xộn. Những bạn đồng số phận của tôi đó. Mấy hôm trước tôi được đặc ân tiếp riêng một mình vào giấc bốn giờ chiều, – mọi người khác thì 9 giờ sáng, – nên không có dịp hòa mình vào một đại chúng lôi thôi như vậy. Họ nói chuyện to tiếng, hỏi thăm bệnh tình và hỏi thăm chuyện nhà, ồn ào tự nhiên như đang đi ngoài phố. Em bé bị chó berger vây cắn nát mặt đây! Ngoài những lớp bông băng trắng chằng chịt, khuôn mặt còn sót lại chỉ là những vết nhăn nhó đau đớn.

– Cụ tiêm được mấy mũi rồi? – tôi hỏi một cụ già ngồi cạnh.

– Mười sáu.

– Sao tiêm chi nhiều vậy?

– Không bắt được con chó để thử. Con chó bị chủ nhà đánh chết cho phi tang nên mình phải đi chích cho đủ hăm mốt mũi.

– Kìa chị. Bị chó nhà ai cắn đó?

– Chó nhà mình. Nó nổi điên, cắn bốn người hàng xóm, cắn con nhỏ ở, cắn luôn mình. Bồi thường thiệt hại mỗi người bốn ngàn đồng. Mỗi ngày mình xuống chích vừa lãnh năm phần thuốc kia đem về thuê y tá chích cho năm người kia.

– Còn con chó?

– Chận bắt không được. Không ai dám bắt. Phải nhờ mấy người Mỹ ở bên cạnh bắn chết giùm. Đem cái đầu xuống nhờ Viện thử. Chưa có kết quả.

Bắt chuyện vẩn vơ thấy vui, người nào cũng sẵn sàng nói chuyện với mình. Khi có chung niềm đau khổ, người ta dễ trở nên bạn bè, muốn giúp đỡ nhau, muốn hy sinh cho nhau. Viễn tượng của một cái chết bất-ngờ-và-có-thể đã tự nhiên hạn chế lòng tham, mọi người đều cúi xuống nhìn thân phận hữu hạn của mình. Giá lúc này mà đề nghị thành lập một hội Ái hữu, một hội Tương tế thì người nào cũng sẵn sàng chịu nhận làm ân nghĩa hội viên kiêm luôn hoạt động hội viên. Nhưng một tháng sau, khi đã chắc chắn tai qua nạn khỏi rồi thì người ta tham lam trở lại, rút gọn mình trong cái vỏ ích kỷ dày cộm.

Tôi nhận phát tiêm thứ tư, lội mưa mà về nhưng không thấy bực mình vì mưa. Mà cảm thấy sung sướng được sống để được gội mưa như thế.

Ngày thứ năm sau khi tiêm xong, cô Triết mời tôi qua phòng giấy. Tôi khai tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, ngày bị chó cắn, vị trí vết cắn, độ dài và chiều sâu vết cắn…

– Ông cho biết chó hoang hay chó có chủ?

– Có chủ.

– Tên người chủ chó và địa chỉ.

– Sử Tuyết Quân, 240 đại lộ Trần Hưng Đạo.

– Người Trung Hoa?

– Vâng. Người Trung Hoa.

Cô y tá vừa thoăn thoắt viết vừa nói:
Ông chịu khó đến thăm con chó luôn. Đáng lẽ ông phải bắt con chó đem gửi tại ty Mục súc để nhân viên nơi đó theo dõi, nhưng đằng này ông bảo là chỗ quen không muốn làm họ phiền lòng.

Vâng. Tha hồ cho ông Sử Cẩm Hưng phiền lòng, tôi không cần. Nhưng tôi không nỡ làm buồn cô Sử Tuyết Quân.

– … Nhưng ông phải căn dặn là họ đừng giết con chó.

– Vâng.

– Thôi, thủ tục như vậy là đủ. Kính chúc ông bình an.

– Xin cám ơn cô.

Một người đẹp đẽ và dịu dàng như Sử Tuyết Quân thì tôi khó lòng mà giữ cho khỏi tò mò tìm biết tên nàng. Cái tên dính liền với con người và mối thâm tình của mình đối với một người sẽ lợt lạt hết sức nếu mình không gọi lên được tên người ấy. Chiều hôm qua tôi đến thăm con chó để biết tình hình sức khỏe phòng hôm nay nhận phát tiêm chót hay cần tiêm thêm nữa. Buổi chiều chủ nhật, trời hửng nắng và ông Sử Cẩm Hưng lại tíu tít về siège, về lavabo, về gương năm ly, về sắt tám, về sắt sáu, về bình lọc nước.

– A, thầy mạnh giỏi luôn chớ? Hả? Thầy đi chích thuốc à?… Dạ, dạ. Cái lavabo đó hai ngàn tám. Dạ, có luôn miếng gương soi. Không mắc đâu, gương thiệt mà… Hì hì. Gương làm ở Chợ Lớn chớ không phải bên Tây, cái đó tui nói thiệt… À! thầy nói thầy đi chích thuốc hả? Bậy quá… tui đã biểu thầy đừng đi. Không sao đâu mà… Con chó hả? Thầy nói sao?… Nó mạnh như thần… Thầy muốn coi mặt nó… Dạ dạ, nếu thầy muốn. Thoòng ơi! Đưa thầy vô nhà trong.

A Thoòng đi xuống Nam Kiều hải vận công ty để nhận hàng. Công việc hướng dẫn tôi vô nhà trong thuộc phần Sử Tuyết Quân. Tôi chào nàng và xin lỗi đã quấy rầy nàng.

– Không có sao. Ông đi chích thuốc mấy hôm nay?

– Vâng, có. Tôi đi đều.

– Vết cắn của ông đã lành?

– Có lẽ.

Tôi kéo ống quần lên. Vẫn cái băng do nàng băng mấy hôm trước, tôi không thay và cũng không để ý đến nó. Nàng nhếch môi hơi mỉm cười, hai ngón tay ấn nhẹ lên lần bông băng.

– Ông còn thấy đau không?

Tôi trả lời mạnh dạn như mình là anh hùng vừa lập một chiến công.

– Không.

– Vậy thì có hy vọng lành rồi.

Nàng thoăn thoắt mở băng vừa nói:
Ít ai như ông. Có một vết thương nơi chân mà cũng không biết đã lành chưa. Trả lời “có lẽ”, làm như vết thương của ai!

Tôi cười theo:
Tôi lo phần nội dung hơn hình thức. Nghĩa là tôi sợ nhiễm độc bên trong hơn là vết thương lở bên ngoài.

– Cũng có lý. Vết cắn đã đóng vảy. Thôi, có thể tháo băng ra luôn.

Tháo băng? Tôi không muốn. Tôi muốn giữ một dấu tích gì của nàng. Tôi sẽ cảm thấy êm ái và an ủi.

– Có lẽ vết lành còn non. Có lẽ nên băng thêm vài hôm nữa.

– Nếu ông muốn. Nhưng để tôi thay băng mới cho.

Lại thuốc đỏ, lại bông, lại băng, lại ngón tay manh mảnh trắng muốt.

Tôi nói:
Xin lỗi, quý danh là Sử Tuyết Quân?

Nàng ngước nhìn tôi, mở to mắt:
Sao ông biết?

Tôi chỉ lên quyển vở đặt trên bàn.

– Tôi đọc trên bìa quyển vở kia.

– Ông đọc được chữ Trung Hoa?

– Tôi chỉ đọc được ba chữ đó mà thôi.

Nàng nhếch môi cười, có lẽ ngầm ý khen tôi trả lời thông minh.

– Cô học ở trường Trung học Hoa kiều?

– Vâng ạ.

– Học xong Cao trung mà muốn lên Đại học thì cô phải…

–… Về Đài Loan.

Tôi vụt đưa hai bàn tay giữ chặt mười ngón tay của nàng đang lần lăn cuộn băng trên làn da chân tôi. Tôi có cảm tưởng nàng sắp bước lên phi cơ đi về Đài Loan và tôi phải vội vàng nắm tay nàng giữ lại.

– Sao vậy? Ông thấy đau hả?

– Không. À, vâng… còn đau.

Cứ theo trình tự đó, Sử Tuyết Quân và tôi cứ mỗi ngày mỗi quen nhau thêm. Chẳng lẽ mỗi ngày mỗi đi xem tình hình sức khỏe của con Bobby, tôi hạn định sự cần mẫn tới mức ba ngày rồi sau đó không chịu nổi, tôi hạ xuống còn hai ngày. Con Bobby cứ hiền lành, cứ tha hồ nằm trầm tư mong đợi bữa ăn hoặc lừ đừ nhìn những con ruồi ranh mãnh cứ bò qua bò lại hoài trên mũi nó như cố ý trêu chọc nó. Nó không hề tỏ triệu chứng bỏ ăn, buồn bã, hay bại liệt một chân. Thật may cho tôi bởi lẽ có khi ba bốn kỳ liên tiếp tôi chẳng hề biết đến nó, chẳng hề hỏi xem nó nằm ở đâu, chẳng lưu ý chạy nhìn qua khuôn mặt nó một chút. Tôi chỉ biết có Sử Tuyết Quân.

Còn ông Sử Cẩm Hưng thì cứ loay hoay giữa bầy siège và lavabo, sắt tám và sắt sáu, sơn Bạch Tuyết và sơn Hột xoàn, đèn nê-ông sáu tấc và một thước hai. Ông vừa chào tôi vừa trách tôi đi chích thuốc chi cho đau đớn mình mẩy, vừa nói giá hàng cho khách và bảo đảm hàng ngoại quốc chính hiệu, rồi quay lại bảo đảm rằng con Bobby “có chích ngừa dại hẳn hoi mà!” Cuối cùng ông gọi A Thoòng đưa tôi vào nhà trong và A Thoòng cứ bận liên miên ở Nam Kiều Hải vận công ty.

Cuối cùng, khi thời hạn hăm mốt ngày chấm dứt, tôi buồn vì không cách nào lui tới để khám bệnh cho con Bobby được. Thú thật, là tôi có nói láo và ăn gian ông Sử Cẩm Hưng được hai chuyến. Một chuyến tôi giả vờ bỏ quên cuốn sách để liền hôm sau chạy tới tìm và chuyến chót, thay vì tôi cám ơn ông ngay trong ngày thứ hăm mốt tôi lại lấy cớ là hôm nay ông bận khách nên ngày thứ hăm tư tôi mới đến cám ơn ông.

Cố nhiên là tôi có nhã nhặn xin phép ông được vào nhà sau cám ơn cô Tuyết Quân đã có lòng tốt băng bó hộ cho tôi cái chân trước đây.

Câu chuyện đến đây tôi chưa muốn chấm dứt bởi vì quả tình là tôi chưa gặp một người thiếu nữ nào vừa đẹp vừa thùy mị như Sử Tuyết Quân. Nhưng tôi biết làm cách nào để được gặp nàng luôn? Chẳng lẽ đem cái chân đến dứ vào miệng con Bobby và năn nỉ nó cắn giùm? Tôi chỉ còn có cách là siêng năng mua bóng đèn, – cứ chừng nửa tháng là nói dối bóng đèn bị cháy, – đinh một phân và cuốc, xẻng, lưỡi bào, lưỡi cưa, lưỡi câu, ống ni lông, dây thép… Khi lại quầy trả tiền, tôi hay làm bộ chợt nhớ đến con Bobby và xin phép chạy xuống theo dõi sức khỏe của nó. Sử tiên sinh lại vồn vã minh xác rằng nó đã được tiêm ngừa “mới gần đây thôi, gần đây thôi mà…”

Cứ theo cái đà “theo dõi sức khỏe của con Bobby” đó, một năm sau thì hôn lễ giữa Sử Tuyết Quân và tôi cử hành. Một đại yến hai mươi thồi được tổ chức tại Đồng Khánh đại tửu gia. Hai dây pháo cao ngút từ lầu bốn chấm xuống đất nổ bưng tai, nổ tóe hào quang.

Sử Tuyết Quân không về Đài Loan để học lên Đại học nữa. Khi nàng tốt nghiệp Cao trung thì nàng đã có mang cho tôi đứa con đầu lòng, sau này tôi đặt tên là A Dành. Con Bobby cố nhiên từ đó chuyên môn vẫy đuôi mừng khi tôi lại gần. Trong bữa ăn, Sử Tuyết Quân thường lén gắp cho nó từng bún thịt bò bít tết hoặc giò lụa. Tôi bắt gặp, trừng mắt thì nàng mỉm cười đỏ mặt. Nàng nhớ ơn ông mai đó.

Tôi nhớ bài thơ của Vu Hựu với hai câu chót:

“Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn cố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai”

Quách Tấn dịch:

Lững lờ mấy vận trôi dòng bích
Thờ thẫn mười năm quặn mối tình
Loan phụng nay mừng duyên hợp lứa
Mới hay lá thắm chị mai lành

Tôi muốn sửa lại là: “Phương tri Bốp tử (nghĩa là con chó tên Bốp) thị lương mai”, nhưng chữ Bốp thì chắc Khang Hi tự điển không có, còn chữ “mai” viết thế nào, tôi định mở Vương Vân Ngũ tự điển ra tra mà rồi cũng lười chả bao giờ tra được. Vả lại, bây giờ tôi thường phải thay thằng A Thoòng đi xuống Nam Kiều Hải vận công ty hoặc thay chú tài phú cắt gương năm ly và chặt dây thép.

Còn siège Italy? Một hôm Sử Tuyết Quân mở cửa kho trên lầu chỉ cho tôi coi: trái với lời cam đoan chân thành của nhạc phụ tôi, số siège Italy chính hiệu Ý quốc nhập cảng đang nằm đó có thể đủ để trang bị một đại khách sạn có hai mươi phòng tắm.

– – – – – – – – –
[1] Bàn cầu vệ sinh.

Cuôi ba dùm – Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng, 1926- )

Những ngày sắp dời lên mạn Đông Đường, được biết đồng bào Thượng miền ấy có tục Cuôi Ba-Dùm là tôi bắt đầu ăn ngủ không yên. Thực ra, trong thời gian sống giữa chốn núi rừng hoang vu, lạnh lẽo thỉnh thoảng tôi cũng mơ tưởng đến những hình bóng nhẹ nhàng của các cô gái ở chốn quê hương. Nhưng sau những lần vọng tưởng như thế, kiểm điểm trở lại tôi thấy mình chẳng yêu một cô nào rõ rệt, bởi vì rõ rệt là chẳng cô nào yêu tôi rõ ràng. Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự thiệt thòi này là tại những khi đến gần phụ nữ, tôi thường làm bộ ta đây là bậc đàn anh, lên mặt dạy bảo những điều phải trái. Khi người ta là… cấp trên, chuyên môn nói chuyện đạo đức thì thực khó lòng hạ xuống cầu xin cấp dưới một chút ân huệ ái tình. Rốt cuộc, cấp dưới trở thành một thứ cấp trên rất cao, đến nỗi tôi không tin chắc có ngày mình sẽ đạt tới.

Nhưng không phải chỉ mình tôi gây ra cho tôi sự tình cô độc mà còn tại các cô nữa. Hình như hầu hết các cô miền xuôi đều không phát biểu chân thành, giản dị ý nghĩ của mình. Vì vậy, những người không sành về khoa tâm lý như tôi, khó lòng chiều ý các cô cho được lâu dài. Lại thêm, mỗi một cô gái vừa lớn là y như ở hàng xóm và mỗi góc đường đều túc trực sẵn một chàng trai trẻ để mà cười tình và trao những lá thư duyên. Cho nên tôi không chắc rằng con người tôi yêu có thực trong trắng tâm hồn, hay là trong khi yêu tôi nàng vẫn lẫn lộn với kẻ xóm giềng nào đó.

Tôi cứ cho rằng đến nông nỗi này có lẽ mình chỉ yêu được những cô gái Thượng mà thôi, vì tôi nghe nói phụ nữ miền Thượng bao giờ cũng rất giản dị và chân thành. Do những lẽ đó, ngày lên miền núi tôi vẫn ao ước gặp gỡ một cô gái Thượng thật đẹp để mà có dịp báo thù gián tiếp các cô miền xuôi, nhưng hình như tôi lên chốn núi rừng không nhằm mục đích đi tìm đàn bà, cho nên tháng ngày trôi qua tôi chỉ gặp toàn một thứ đàn ông. Thỉnh thoảng có gặp một ít thú dữ.

Đến khi được biết sẽ lên nghỉ ngơi nhiều ngày tại mạn Đông Đường và các cô gái miền này thường cuôi-ba-dùm – nghĩa là ngủ thân ái với người khách lạ – thì tôi bắt đầu nhận thấy núi rừng không phải chỉ là vắt sên hút máu, đèo dốc cheo leo, thác nước ồ ạt tuôn đi không kể tháng ngày.

Lên đường lần này tôi đã tỏ ra hết sức hăng hái, y như một người đeo đuổi trước mắt lý tưởng cao siêu. Nhưng đến cái dốc thứ chín, thì tôi cảm thấy rõ rệt, qua cặp đầu gối, rằng mỗi một món tình yêu chưa đủ khuyến khích con người. Tới lúc bước vào cái buôn đầu tiên, gặp hai cô gái đã già ngồi bên suối nước, phô cặp vú sệ gần chấm cái váy cụt ngủn nhạt màu, giương mắt đục lờ nheo nheo nhìn tôi rồi nở nụ cười ngây ngô giới thiệu cả hai hàm răng đã cà mòn nhẵn thì tôi ngơ ngác, và loay hoay mãi vẫn không nhớ thằng ngốc nào đã từng mơ ước kết duyên với cô gái Thượng.

Chúng tôi hạ trại dưới chân một ngọn núi lớn, cạnh con sông nhỏ nước chảy lờ đờ, luôn luôn chờn vờn những bầy muỗi rừng. Ở lưng chừng núi là một cái buôn khá lớn, điểm những những nét vàng lỗ chỗ giữa nền xanh sẫm. Mỗi sáng, mỗi chiều, khói lam vươn ra từ các đỉnh nóc, quyện trên sườn cao, rồi tan chìm trong sương mờ, y như những nỗi mơ mộng của tâm hồn tôi xóa nhòa trong một ý sầu ngan ngát dâng lên từ khắp núi rừng.

Một chiều, tôi đang lặn lội tìm nguồn một dòng suối nhỏ, chợt nghe tiếng hát vang lên ở giữa rừng sâu. Tôi không biết được câu hát nói gì, nhưng giọng mềm dẻo, thỉnh thoảng ngợ ngừng ngắt quãng, thu hút lấy tôi như chất nhựa cây chập vào một chiếc lá khô. Dần dần tôi quên nguồn suối đi tìm và bước lạc vào một vùng khác lạ có nhiều mô đá cheo leo rải rác dưới chân dốc núi.

Khi gặp tiếng hát thì tôi sửng sốt đứng lại. Một cô gái Thượng đang ngồi rửa rau bên một vũng suối. Không biết có người đến gần, cô vẫn say sưa ngồi hát, đầu cúi thấp xuống soi mình dưới nước, lắc lư nhẹ nhàng, hòa nhịp với bàn tay đang chao qua chao lại từng mớ rau rừng. Tôi ngồi bên này dòng suối, gần như đối diện với cô, yên lặng rất lâu như thế để quan sát một hiện tượng chưa từng băét gặp ở trong đời tôi từ trước đến giờ. Cô nàng bé nhỏ, da ngăm ngăm đen, vóc người tròn trịa, gọn gàng trong một tấm dồ và chiếc cà tiu xanh đậm, có một vẻ đẹp hết sức… núi rừng. Lời hát hình như ứng khẩu tuôn ra do nỗi dào dạt từ trong đáy lòng, theo một khuôn khổ âm điệu có sẵn tự bao nhiêu đời, nên nghe miên man tưởng không bao giờ dứt được.

Tôi đã từng nghe nhiều cô người kinh ca hát. Nhưng hoặc con người không hòa hợp với bài hát, hoặc là bài hát không hòa hợp với khung cảnh, và hoặc người hát không giữ được vẻ tự nhiên khiến trong khi nghe, ta có cảm tưởng chứng kiến một sự trình diễn rời rạc về con người ấy còn những bài hát chỉ là cái cớ phụ thuộc. Ở đây, cây rừng, nước suối, gió ngàn và người con gái, và cả tiếng hát đều là một sự hòa điệu thâm trầm. Tôi có cảm giác đứng trước lời ca từ thuở tinh khôi, một sự thổ lộ của núi của rừng như phát tiết ra từ trong hốc đá, khe sâu, từ trong lòng đất mênh mông thăm thẳm…

Tôi ngồi lặng yên, cặp mắt mờ dần bóng hình cô gái để cho thính giác đưa về một cõi hoang vu chập chờn sắc màu man rợ, giữa một không khí u uất lá già ủ mục ngàn năm. Rồi những tiếng chim lạ lùng cất lên, dòng thác ồn áo tuôn xuống, tiếng cồng, tiếng mõ, tiếng chiêng từ đâu bừng dậy, le lói ánh hồng bếp lửa rừng khuya…

Đột nhiên tiếng hát ngừng lại, cả cái sinh hoạt bao la của chốn núi rừng như chìm hẳn xuống hố sâu. Cô gái chợt trông thấy tôi, ngừng tay khuấy nước, cặp mắt bỗng sáng long lanh. Cô hỏi vọng sang:
Làm gì thế?

Tôi cười trả lời:
Ngồi nghe núi rừng ca hát.

Cô hơi ngẩng lên, ngây nhìn giây lát, có vẻ không hiểu tôi muốn nói gì. Rồi cô mỉm cười, cúi xuống quờ tay chao mớ rau rừng, dường như đã quên cả người đang ngồi trước mặt. Xong việc, cô đứng lên, tay xách giỏ rau thoăn thoắt leo lên dốc đá, về buôn. Tôi im lặng đi theo sau một quãng khá dài, rồi dừng bước lại, bâng khuâng tự hỏi đi đâu?

o O o

Từ đấy bóng hình người con gái Thượng luôn luôn ám ảnh lấy hồn tôi. Những giấc mơ đã chết tiệt ngày nào bây giờ dần dần sống lại. Tôi tin tưởng rằng một dịp nào đó tôi sẽ gặp người con gái trên buôn, và tôi sẽ ngủ thân ái một đêm với nàng.

Tôi vốn không quen phân tích tâm tư để hiểu vì sao tôi lại khát khao mãnh liệt như thế. Chắc rằng ngoài lòng ham muốn cuồng nhiệt và sự tò mò của tuổi thanh niên, tôi còn bị người lớn tuổi đầu độc bằng cái quan niệm phổ biến cho rằng trình độ từng trải về một nơi nào phải được chứng minh bằng sự tiếp xúc với người đàn bà bản thổ. Đối với số hạng người này, hình như linh hồn của một dân tộc bao giờ cũng bị kẹp trong đôi vế đàn bà. Nếu chưa thật sự mở được quyển sách hai trang ấy ra, thì dù quan sát bao nhiêu thắng cảnh, ngâm đọc bao nhiêu tác phẩm địa phương, cũng vẫn chưa am hiểu gì về địa phương ấy. Do đó, tôi cứ ngại rằng ngày sau, khi về đồng nội nói chuyện đường rừng, lỡ ai sốt sắng hỏi tôi đàn bà miền Thượng thế nào thì chắc tôi sẽ xấu hổ mà ấp úng rằng không biết.

Cái ý định ấy càng ngày càng nung nấu ở trong tôi đến một cường độ không sao tả được. Tôi không bao giờ tự hỏi ý định như thế, nếu thực hiện được, sẽ gây tác hại thế nào. Sức mạnh tinh thần của đồng bào Thượng là lòng tin tưởng phong tục. Đồng bào miền Thượng bám vào phong tục như những dây leo bám lấy thân cành, như loài hổ dữ nương vào hang đá. Tôi há chẳng biết kẻ nào xúc phạm tập tục miền rừng là phải chuốc lấy oán hờn trọn kiếp đó sao? Tôi chẳng đã học từng phong tục một như học hỏi từng ngón võ hộ thân trong rừng phong tục um tùm chằng chịt của đồng bào Thượng đó sao? Cái gì đối với đồng bào miền Thượng cũng có thể thành cấm kỵ thiêng liêng: một nhánh lá tươi cắm ở đầu buôn trong mùa gặt hái còn có giá trị ngăn cản hơn ngàn lớp cửa gài bằng khóa sắt; một cái xoa nhẹ thân yêu trên đầu đứa bé có thể coi như xúc phạm bàn thờ và làm bật lên bao nhiêu tia mắt thù hằn; một thân cây lụi dùng làm gậy chống trên đường, một chút quế thơm phòng vệ những khi bệnh hoạn, lỡ mang vào tận trong nhà thì chẳng khác gì đã dẫn theo loài ma quỷ, khuấy lên bao nhiêu nét mặt căm hờn…

Tôi đã nghĩ nhiều về điều ấy qua khá nhiều đêm thức ngủ chập chờn. Nhưng lòng nhiệt nồng của tuổi thanh niên khiến tôi hoài nghi phong tục có thể cưỡng lại ý thức tò mò lồng trong sức mạnh dục tình. Từ đấy tôi cố học tập tiếng nói đường rừng. Không biết những người đeo đuổi lý tưởng cao siêu khi học tiếng người thì phải chăm chỉ ra sao, chứ tôi vì chút mục đích xin ngủ một đêm mà đã hết lòng ra công đèn sách. Bạn hữu không biết thâm ý của tôi, đều khen tôi có ý thức “nghiên cứu văn hóa miền Thượng.” Còn tôi, tuy đã tự hiểu rõ ràng, tôi vẫn cho rằng mình đang chuẩn bị “tham khảo giá trị nhân bản ở trong phong tục của các chủng tộc đồng bào…”

Nhiều lần, nhân dịp anh em lên tiếp xúc trên buôn, tôi muốn đi theo để mong gặp lại cô gái hôm nào, nhưng vẫn không sao đi được, vì bận nhiều công việc khác. Thế rồi, y như mọi lòng ham muốn và mọi đợi chờ trên cõi đời này đều cũng có dịp toại nguyện, một hôm, vào độ cuối năm, chúng tôi được lệnh lên buôn tổ chức đêm vui.

o O o

Buôn trông gần gũi nhưng khi đến nơi thì trời tối mịt, mặc dù tôi đã khuyến khích mọi người lên sớm để cho “đồng bào” khỏi phải nhọc lòng chờ đợi. Một số anh em liên lạc đã lên từ trưa bố trí công việc. Toàn buôn nhóm họp đông đủ chung quanh một đống lửa to bốc cháy ngùn ngụt giữa vạt đất lễ, chiếu sáng một vùng rộng lớn, soi rõ khuôn mặt từng người.

Trong khi anh em xếp đặt các màn ca kịch thì tôi len lỏi đi tìm con người bên suối hôm xưa. Khuôn mặt tròn trịa thơ ngây của nàng nổi bật giữa các cô gái nên tôi không phải mất công lùng kiếm. Tôi lại gần nàng, nhìn nàng một phút, cố tình cho nàng có đủ thì giờ để nhận ra tôi.

Thấy nàng cứ mải ngây nhìn, tôi hỏi:
Có nhớ tôi không?

Nàng bỗng mỉm cười, gật đầu. Nhưng cặp mắt nàng vẫn cứ giương nhìn, tỏ vẻ không hiểu. Tôi bèn hỏi tiếp:
Xin hỏi… tên là gì à?

Nàng cười:
Y-Sao…

– Y-Sao! Tên hay quá há!

Tôi đứng yên, loay hoay lục lọi trong óc tìm những tiếng gì thích hợp để ghép thành câu nói chuyện cùng nàng. Nhưng một hồi chiêng vang lên. Đêm vui bắt đầu. Suốt mấy giờ liền tôi vẫn không quên thỉnh thoảng đưa mắt tìm nàng và thấy nàng vẫn ngồi y một chỗ, vẫn cười hồn nhiên, long lanh cặp mắt ngời trong ánh lửa. Tôi cố đóng trọn vai trò của mình, lòng không được vui vì nôn nao sợ những gì toan tính từ lâu đêm nay không thực hiện được.

Đến khi mãn cuộc, ngọn lửa đã tàn chỉ còn trơ lại một đống than hồng to lớn. Thay vội quần áo, tôi chạy đi tìm Y-Sao. Nàng cùng một số chị em xúm xít bên lửa, tíu ta tíu tít đun nước, nướng bắp. Ánh than hừng hực tỏa sáng lên người các cô gái Thượng mướt đẫm mồ hôi, trông có vẻ gì cổ quái lạ lùng. Y-Sao nhanh nhẹn bỏ bắp trên lớp than hồng trải rộng và nàng dùng tay thoăn thoắt lật trở nhịp nhàng từng trái, gan lì thành thạo một cách khác thường.

Tôi lại gần nàng, kêu lên:
Y-Sao! Dùng cây gắp chứ. Nóng tay lắm kìa!

Nàng ngẩng lên cười rồi lại cúi xuống rất nhanh, tiếp tục công việc và đáp:
Không có nóng đâu.

Muốn chứng thực thêm lời nói của mình, lần này nàng dừng tay lại rất lâu trên từng trái bắp, trước khi lật trở cho nó chín đều. Rồi nàng chồm sang bên cạnh, đưa hai tay nhỏ nhắn của mình nhắc lấy nồi nước đang sôi sùng sục trên một bếp lửa ngùn ngụt, đặt xuống một bên, rồi lại đặt lên như cũ, giữa những lưỡi lửa dữ dằn như nuốt tay nàng. Tôi kinh ngạc đứng yên tưởng mình chứng kiến những trò biến hóa của bà phù thủy. Cuối cùng tôi lại buồn rầu nghĩ rằng da thịt chai lì như vậy phỏng nàng còn biết xúc cảm là gì!

Lát sau, tôi tự trách mình đã quá lo xa và lại vui vẻ ngồi xuống bên nàng:
Y-Sao!

– Gì à?

– Xem kịch thế nào?

– Hay lắm.

– Thế ai hay hơn hết đấy?

– Ai cũng hay cả.

– À…

Tôi lại ngồi im, không biết mình phải nhập đề thế nào. Sau cùng tôi hỏi một cách lúng túng:
Y-Sao này…

– Gì á?

– Nướng bắp để làm gì thế?

– Để ăn…

– Cho tôi ăn nhé?

– Ừ, cho các anh ăn.

– Nhưng cho tôi thật nhiều nhé?

– Ừ, đói thì ăn nhiều. Có đói lắm không?

– Đói lắm, nhưng này…

– Gì à?

– Tôi mến Y-Sao lắm lắm.

Nàng cười vui vẻ:
Y-Sao cũng mến các anh lắm lắm.

Con đàng gần đến, nếu dừng bước lại thì hóa xa xôi, tôi bèn đánh bạo nói tiếp:
Đêm nay tôi ngủ nhà Y-Sao nhé?

Y-Sao gật đầu.

– Cuôi-ba-dùm nhé?

Y-Sao lại gật, mỉm cười tự nhiên, cúi xuống nướng bắp.

Thế là nàng chịu, cuôi ba-dùm moi măn[1] với tôi rồi! Không ngờ câu chuyện dễ dàng như vậy. Nhiều khi ta chạy hàng chục vòng tròn vô ích chung quanh chỗ ngồi dọn sẵn từ lâu.

Suốt buổi tiệc bắp vui vẻ thân mật, tôi làm bộ điệu rất là uể oải, đợi khi giải tán ra về tôi bèn báo cáo trong người khó ở xin được ngủ lại trên buôn. Anh em ai cũng ân cần khuyên tôi ngủ lại để mà giữ gìn sức khỏe. Có người cho rằng tôi vốn nhiệt tâm đối với văn hóa miền Thượng, ngủ lại một đêm cũng là dịp tốt để mà nâng cao trình độ ít nhiều.

o O o

Nằm bên bếp lửa chờ đợi Y-Sao, tôi đã cẩn thận bôi vào trên mũi nhiều dầu cù-là, nghĩ rằng mỗi dân tộc đều có mùi riêng mà chỉ tiếp xúc vội vàng về mặt vật chất không đủ tạo nên hòa hợp dễ dàng. Một lát, Y-Sao từ một gian nhà bên cạnh bước ra, miệng nở nụ cười tươi vui khác thường. Nàng đã thay chiếc cà-tiu mới tinh còn hôi nồng mùi lá nhuộm, và mặc một tấm áo chẽn may rất đơn giản bằng thứ vải thô điểm những sọc chỉ xanh đỏ còn tươi nguyên màu, chừng đó là áo dùng trong dịp lễ. Nàng trải xuống sàn ghép bằng những ống lồ-ô đập dẹp một tấm chiếu dày dệt bằng các thứ dây sợi lấy trong các vỏ cây rừng và bảo tôi nằm. Xong, nàng nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên kê vào một chiếc gối mây thắt rất công phu. Tôi nằm yên, ngoan ngoãn, mặc nàng sắp xếp, y như đứa bé nghe theo lời chị. Nhưng khi nàng lấy một tấm dồ rộng còn mới phủ lên mình tôi, thì tôi kêu lên:
Y-Sao ngủ với tôi chứ?

Nàng cười, gật đầu.

– Thế tôi không thích đắp đâu.

– Khuya lạnh lắm mà! Đắp đi! Đắp đi!

Nàng nói dịu dàng, có vẻ như lời nài nỉ.

Tôi đáp:
Ngủ với Y-Sao, tôi không thấy lạnh.

Rồi tôi gỡ tấm dồ ra.

Nàng lại ôn tồn:
Đắp đi.

Rồi nàng kéo dồ đắp lại cho tôi.

– Y-Sao chưa đi ngủ à?

– Ngủ chứ, ngủ chứ. Có đói cái bụng không đấy?

– Không đói. Không đói. Chỉ ưng ngủ với Y-Sao thôi mà!

– Có khát nước không?

– Không khát. Không khát. Chỉ ưng ngủ với Y-Sao đó thôi.

– Hút thuốc lá chứ?

– Hút thuốc không thích bằng nằm ngủ với Y-Sao.

Những ngày sống giữa núi rừng tôi đã tìm thấy trong cái thú tút xà reo[2] một nguồn an ủi lớn lao. Đó là lãng quên, vừa là tưởng nhớ, đó là ít nhiều hơi ấm trong cảnh lạnh lùng, ít nhiều khuấy động giữa chốn vắng vẻ… nhưng bây giờ đây khói thuốc làm sao quyến rũ được tôi?

Y-Sao loay hoay sửa soạn bếp lửa. Nàng tém gọn lại rồi rút một mớ củi khô thêm vào cho lửa sáng hồng rực rỡ hơn lên. Hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh của mối nhiệt tình nung nấu trong tôi.

Bây giờ, có lẽ đêm đã về khuya. Qua khung cửa hẹp tôi thấy bên ngoài tối đen dày đặc mênh mông, thỉnh thoảng lập lòe điểm sáng của bầy đôm-đốm. Tôi tưởng nghe trong yên lặng âm thầm núi rừng xao xuyến chỗi dậy gom góp muôn ngàn sinh lực biến đổi sự sống để cho ngày mai dưới ánh mặt trời muôn cành thêm lá tươi, non, muôn vật thêm màu lông mới.

Gia đình Y-Sao có lẽ ngủ yên từ lâu. Ban nãy, khi nàng chưa đến, tôi thấy hai người hiện ra ở phía cuối nhà, một bà cụ già, một người trai trẻ ý hẳn là mẹ và anh của nàng – cả hai nhìn tôi gật chào, cười rất thân mật rồi biến mất sau tấm liếp.

Tôi muốn bảo với Y-Sao hát cho tôi nghe, như tôi đã từng được nghe nàng hát hôm nào, để cho đêm vui thực sự hoàn toàn. Nhưng biết rõ mình không đủ bình tĩnh chờ đợi bất cứ một sự kéo dài nào nữa, tôi hối thúc nàng:
Khuya rồi, Y-Sao!

Y-Sao gật đầu:
Ừ, khuya rồi. Ngủ đi.

Và nàng nhanh nhẹn nằm xuống bên tôi.

Bây giờ tôi chỉ còn nghe quả tim của tôi liên hồi đập trong lồng ngực và hơi thở tôi gấp rút, nặng nề. Đầu óc vần vũ những mớ cảm giác rối loạn, tôi không biết rõ mình đang nghĩ ngợi những gì. Tôi thoáng nhớ lại những quyển tiểu thuyết mô tả tâm trạng của người đàn ông khi nằm cạnh người đàn bà và tôi nhận thấy không có quyển nào nói đúng tâm trạng của tôi lúc này.

Từ khi Y-Sao nằm xuống bên cạnh thì tôi bàng hoàng nằm yên giây lâu, không chút cử động. Sau cùng, định thần trở lại, tôi mới thấy rõ cái vẻ kỳ dị của việc tôi làm. Nhưng tôi nhớ lại tất cả công trình nghiên cứu, tổ chức, vận động của tôi lâu nay không phải để được nằm yên bên cạnh một cô gái Thượng. Nếu chỉ có thế thì tôi nên lựa bất cứ một khúc gỗ nào thật tốt ngoài rừng đem về ôm ngủ có lẽ yên ổn hơn nhiều!

Tôi bèn bỏ tay qua người Y-Sao, kéo nhẹ cho nàng xích lại thêm gần:
Y-Sao…

– Gì à?

– Tôi thương Y-Sao nhiều lắm.

– Y-Sao cũng thương các anh nhiều lắm.

– Sao lại các anh? Nhiều thế?

Y-Sao vẫn đáp nhẹ nhàng:
Ừ, nhiều lắm.

– Y-Sao chẳng hiểu gì cả! Tôi bảo Y-Sao… chỉ thương lấy một mình tôi.

Y-Sao giương mắt ngạc nhiên:
Sao thế?

Tôi làm thinh, không biết trả lời cách nào cho Y-Sao hiểu tình yêu là sự ích kỷ riêng của hai người. Nhưng tôi chợt nghĩ giữa tôi và nàng chưa hề có gì để chứng tỏ là tình yêu thì làm sao nói cho nàng hiểu được những điều đơn giản mà phức tạp ấy? Vả lại tôi không thông thạo tiếng nói của nàng, trình bày những điều khuất khúc tâm tình là việc khó khăn. Mới biết học nhiều ở trường mà thiếu một môn tiếng Thượng cũng có hại thực. Sau cùng, bắt chước ông bà từ đời thái cổ, tôi dùng bàn tay thông ngôn tình ý của mình.

Bắt đầu tôi thử vuốt ve đôi má Y-Sao. Y-Sao mỉm cười hết sức dịu dàng. Tôi hạ lần tay đặt trên ngực nàng. Tôi nghe tim nàng đập mạnh, người nàng tỏa ra hơi nóng khác thường. Khi bàn tay tôi không còn giữ đúng lễ độ con người bình tĩnh thì bị Y-Sao nắm chặt, và nàng kêu trong hơi thở:
Đừng thế!

Rồi nàng kéo tay tôi xuống, đặt nó cẩn thận ở trên mình tôi và còn giữ chặt như thế rất lâu, ý muốn tập luyện cho nó chịu quen tinh thần kỷ luật.

Sau cùng nàng bảo:
Ngủ đi.

Thở dài, tôi đáp:
Không ngủ được đâu.

– Sao thế?

– Nằm bên Y-Sao, tôi ngủ không được.

Nàng nhìn tôi, sửng sốt:
Thế à?

– Thực đấy.

Nàng chỗi ngay dậy, có vẻ hơi buồn:
Y-Sao đi ngủ chỗ khác.

Tôi kéo nàng lại:
Y-Sao đi ngủ chỗ khác thì tôi càng không ngủ được.

– Chẳng hiểu.

– Gì mà chẳng hiểu? Y-Sao hãy nằm xuống đi.

Y-Sao ngoan ngoãn nằm xuống. Tôi vuốt má nàng.

– Thương Y-Sao lắm.

– Y-Sao thương các anh lắm.

– Cứ thế! Không thương tôi à?

– Thương chứ. Thương nhiều lắm đấy.

– Y-Sao làm vợ tôi đêm nay nhé?

– Chẳng hiểu.

Tôi nghĩ: “Trời ơi! Gì mà chẳng hiểu, chẳng hiểu! Ngốc đến thế này thì thôi!” Và bèn đổi giọng nài nỉ:
Tôi mở cái cà-tiu nhé?

– Đừng!

– Không cho thì tôi chết đấy.

– Chẳng có chết đâu.

– Ghét Y-Sao lắm.

Y-Sao không nói. Mặt nàng đọng lại trong dáng trầm ngâm khó hiểu. Thấy dùng văn hóa chẳng ăn thua gì, tôi quyết định dùng quân sự. Tôi vỗ về nàng, rồi thừa dịp nắm cà-tiu của nàng và giằng mạnh xuống.

Lập tức, người đàn bà co lại như bị một sức điện truyền và nàng xô mạnh người tôi, kêu lên hốt hoảng:
Không được!

Tôi chồm người tới, cố gắng kéo nàng lại gần, nhưng nàng đã ngồi ngay dậy, xếp hai đùi lại và co hai tay trong một tư thế phòng vệ. Trong ánh lửa đêm, tôi thấy mắt nàng long lên sòng sọc, miệng nàng mím chặt, cương quyết lạ lùng.

Những ý nồng nhiệt trong tôi phút chốc đã tiêu tan hết. Nhưng lòng tự ái vội vàng thế vào chỗ trống, khuyến khích đừng nên bỏ cuộc. Tôi liền sán lại ôm choàng lấy nàng, siết chặt trong đôi cánh tay hung hãn cố làm ra vẻ tha thiết yêu đương. Để trợ lực sự chiếm đoạt, tôi bèn phát triển ý thức tò mò bằng cách khuyên mình cố gắng đến cùng để đo xem sức phản ứng của cô gái Thượng có thể chịu đựng đến mức độ nào mới phải đầu hàng. Hình như một thứ mặc cảm tự tôn của kẻ sống ở miền xuôi tự hào văn minh hơn dân rừng rú đã củng cố thêm cho tôi ôm chặt lấy nàng. Y-Sao chuyển hết sức mình cố đẩy tôi ra một cách tuyệt vọng, nhưng không kêu cứu lời nào, hình như nàng phải nhận lấy trách nhiệm đối với chính nàng cho đến phút cuối.

Tôi hổn hển bảo:
Y-Sao nghe lời tôi đi.

Nàng đáp phều phào:
Không đâu, không đâu, không đâu…

Nhưng nàng lả người, mềm hẳn cả sức kháng cự. Tôi nới vòng tay, đặt nàng nằm xuống, vừa toan cúi xuống mình nàng thì nhanh như con sóc rừng, Y-Sao đã lộn người lại, nhào tới phía trước. Tôi thấy nàng đứng thẳng dậy, rút vội trên sàn chiếc dáo, quỳ xuống chĩa mũi nhọn hoắt về phía ngực tôi, trợn trừng cặp mắt, nói như tiếng rít:
Đừng bắt Y-Sao làm xấu cái buôn… Y-Sao không quen, không biết anh đâu!

Bây giờ nàng không phải là Y-Sao dịu dàng bên suối hôm nào, cũng không phải là Y-Sao hiền lành ban tối vừa qua. Đây là Y-Sao uy nghi của cảnh núi rừng hùng vĩ, Y-Sao dõng dạc của những phong tục ngàn đời giữ vững lấy sự tồn tại con người giữa lòng thiên nhiên hiểm độc. Sự chống đối của nàng không phải là sự phản ứng của một người đối với một người, mà chính là sự bênh vực của nhiều con người tập trung trong cá nhân nàng. Thấp thoáng sau nàng Y-Sao yên lặng, hung dữ như một vị thần Bảo vệ, có cả cuộc sống âm thầm dai dẳng của nhiều dân buôn, và cả màu xanh tươi thắm của rừng núi trùng điệp.

Nàng cứ ngồi yên như thế hồi lâu, sắc diện dần dần dịu lại. Tôi ngồi thẳng dậy, cố nói bình tĩnh với nàng:
Y-Sao có giận tôi không?

– Không có giận đâu.

– Y-Sao giận đấy.

– Không giận đâu mà!

– Không phá Y-Sao nữa đâu. Ngủ với tôi, nhé?

Rồi muốn cho nàng yên tâm, tôi quờ tay lấy que củi bẻ đôi đưa lại cho nàng:
Tôi đã thề rồi.

Y-Sao lại nở nụ cười hiền dịu, nhẹ nhàng dựng chiếc dáo nhọn nơi liếp rồi nàng ngoan ngoãn nằm xuống cạnh tôi, kéo lấy tấm dồ phủ lên người tôi. Một lát, tôi ngủ thiếp đi.

Không biết ngủ được bao lâu thì tôi nghe lạnh giật mình tỉnh giấc. Tôi thấy Y-Sao đang cúi lom khom thổi trên đống lửa sắp tàn. Ngọn lửa từ từ sáng lại, gieo tỏa hơi ấm khắp nhà. Nàng thêm củi vào rồi nhẹ nhàng, rón rén như sợ kinh động giấc ngủ của tôi đi lấy tấm liếp che cửa để ngăn hơi lạnh rừng khuya ồ ạt ủa vào. Xong, nàng lại rón rén, nhẹ nhàng đi lại bên tôi. Tôi vờ ngủ yên. Y-Sao sửa lại tấm dồ cho tôi, vuốt trên tóc tôi, vỗ nhẹ lưng tôi y như người mẹ, người chị săn sóc giấc ngủ cho con em mình. Cử chỉ âu yếm của nàng thực là vụng về nhưng rất tự nhiên làm cho lòng tôi rưng rưng cảm động. Rồi nàng kéo trải một mí của tấm dồ ra sàn, nằm đè người lên, vòng một tay qua ôm lấy mình tôi. Tôi nằm trong một lớp vải bọc kín, một đầu có người của nàng chèn giữ, một đầu có bàn tay nàng bó lấy. Tin ở lời thề, Y-Sao vẫn luôn luôn phòng vệ cho danh dự nàng!

Tôi nằm yên, tâm hồn trở lại bình tĩnh. Nhìn cô gái Thượng xinh xắn đang nằm bên tôi, nhỏ bé hơn tôi rất nhiều nhưng cố ấp ủ lấy tôi bằng một tấm lòng bộ lạc rộng lớn, tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Sự hối hận này của tôi chẳng tốt đẹp gì, đây chỉ là sự phản ứng để hòng vớt vát thể giá sau khi thất bại, một cách che đậy những sự tầm thường trơ trẽn của mình. Nhưng tôi thấy mình trong giây phút này vẫn còn hiểu được phần nào Y-Sao là cả một sự an ủi. Bây giờ Y-Sao là hiện thân sự chiến thắng của phong tục đối với bản năng, hiện thân sức mạnh giáo hóa tập thể đối với sức mạnh hoành hành của con người ích kỷ. Trong khi tôi ép Y-Sao phải chìu theo sự thỏa mãn nhất thời và cố vẽ vời gọi là thương yêu thì Y-Sao vẫn cương quyết bảo vệ lấy danh dự nàng. Và nàng “chẳng hiểu” không phải là nàng ngu ngốc! Bởi vì bấy nhiêu tôi xem chẳng có nghĩa gì, chỉ là một sự tò mò khoác ở trên mình bộ lông da thú – nhưng đối với nàng lại là tất cả, là danh dự, là cuộc đời, là nếp sống tinh thần, là tập quán cổ truyền.

Một lát, Y-Sao chừng đã ngủ say, nhưng nàng vẫn còn ôm giữ lấy tôi, cánh tay vừa nói lên ý che chở, vừa nói lên sự đề phòng. Đợi cho hơi thở của nàng trở lại điều hòa, tôi khẽ trở mình gỡ nhẹ tay nàng, cẩn thận lật ngược mảnh dồ mà tôi đang đắp phủ lên mình nàng. Y-Sao nằm gọn ở trong tấm vải. Tôi bỏ tay qua, ôm trở lại nàng, như ôm núi rừng bao la cô đọng trong một thân xác nhỏ bé, và thấy rõ rệt từ trong đáy lòng nỗi niềm vui sướng của người yêu mến núi rừng, yêu mến vì có niềm tin…

Khi tôi thức giấc thì trên người tôi lại phủ tấm dồ và ở bên mình không thấy Y-Sao. Bên ngoài trời đã sáng rõ. Có lẽ nàng đi xuống suối lấy nước. Tôi vội ngồi dậy, gỡ liếp che cửa. Ánh sáng ùa vào tưng bừng. Núi rừng ngồn ngộn khoe khoang sắc lá tươi non, chim chóc phô màu lông mới trong buổi bình minh dạt dào sức sống của một khung cảnh thiên nhiên vĩ đại.

o O o

Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh lên đường. Anh em rủ nhau lên buôn từ giã đồng bào. Chúng tôi tìm đến Y-Sao, gặp nàng đang giã gạo ở cuối nhà. Thấy chúng tôi, nàng buông chày, chạy ra mừng rỡ kêu lên:
Đến rồi!

Tôi gọi:
Y-Sao ơi!

– Gì à?

– Tối nay tôi ngủ lại nhé?

– Ừ, ngủ lại buôn đi.

– Y-Sao cuôi ba dùm với tôi một đêm nữa nhé?

– Ừ, một đêm nữa đấy.

– Cuôi ba dùm ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa nhé?

– Ừ, ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa đấy.

Nàng gật đầu lia lịa trả lời, vừa nhoẻn miệng cười rất vui.

– Y-Sao ơi!

– Gì à…

– Cám ơn Y-Sao, chúng tôi nói đùa đấy mà! Hôm nay chúng tôi lên chào đồng bào, lên chào Y-Sao, sắp sửa đi rồi…

Nàng như kêu lên:
Đi à?

Rồi nàng đứng yên như thế rất lâu.

– Y-Sao ở lại cho mạnh giỏi nhé!

Y-Sao ngập ngừng:
Bao giờ các anh về lại cái buôn?

– Không biết bao giờ, không biết bao giờ, Y-Sao à… Nhưng chúng tôi không quên đồng bào, không quên Y-Sao, không quên cái rừng cái núi của chúng ta đâu.

– Y-Sao nhớ hết các anh, nhớ lắm lắm mà!

Khi rời khỏi buôn, chúng tôi gặp nàng đứng đợi ở lưng chừng dốc. Tôi nắm tay nàng:
Đi nhé, Y-Sao!

Nàng gật đầu, nhoẻn cười, nhưng trên đôi mi long lanh những giọt nước mắt. Nụ cười và giọt lệ, đó là tấm lòng đưa tiễn của Y-Sao.

(Chất Ngọc – NXB Cảo thơm 1964)

– – – – – – – – –
[1] Cuôi ba dùm moi măn: ngủ thân ái một đêm.
[2] Tút xà reo: hút thuốc. (BT)

Sông Gành Hào – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)

Hồi đó, ông kiểm lâm “Rốp” được dân chúng thương mến lắm.

Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi “rỏn” có bốn lần. Mỗi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng, ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi… đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắn khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.

Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này:
Ông “Rốp” hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn[1] hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao “Cọt”[2] cù lao “Kiệt” gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khô, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới tòa. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không có tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.

Người khác nói thêm:
Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện “An Nam” rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đó thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá!

Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:
Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết! Nghe anh “bồi” nói lại, trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho… Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.

Rốt cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.

Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm. Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.

Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:
Ghé lại! “Chéc” ghe hay là con “xáu”?

Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải.

Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:
Con “xáu” hay là “chéc” ghe? Ông lớn bắn đà!

Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng:
Chiếc ghe, quan lớn ơi… Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.

Ông Rốp càng trầm tĩnh:
“Chéc” ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử…

Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận “phú de” sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn bã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.

Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây mới là lần phạm tội đầu tiên thôi.

Chú Từ bèn làm núng:
Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.

– Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?

– Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.

Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:
Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.

Chú Tư Ðức cố nén cơn giận:
Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!

Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đậu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên “ky ninh” của ông Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đòi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu… báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.

Ðứa con trai khóc sụt sùi:
Mình phải về, ba à!

Chú Tư chép miệng:
Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.

Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.

Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.

Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:
Biết hình gì đây không? Quí lắm đó!

Chú Tư Ðức đáp:
Dạ, chưa biết, vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.

– Chú theo tín ngưỡng nào?

Chú Tư suy nghĩ hồi lâu:
Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.

– Nhiều thứ quá vậy? Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?

– Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người “An Nam” mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.

Ông Rốp cười đắc chí:
Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm! Theo đạo Phật mà sao không biết hình này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này…

Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:
Chữ Phạn gọi nó là “Mi lanh đa băng ha.” Chữ nho dịch lại… là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.

Mấy tiếng “băng ha, sơ na” khiến chú Tư Ðức rối trí quá! Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tức là nước Thiên Trúc.

– Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?

– Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.

– Tại sao vậy, quan lớn?

– Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hòng dạy lại tôi!

Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm “quốc sự!”

o O o

Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.

Dưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng cớ là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu.

Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:
Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ “ga sơ na, ma lanh đa” gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.

Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết.

Chú Tư Ðức nghĩ:
Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?

Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ, hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn “bin.” Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chú Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.

Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bảo rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.

Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên hóa bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: “Chéc” ghe hay là con “xáu!” Chú vào đồn kiểm lâm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.

Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.

Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm:
Ngay cô hồn các đẳng, sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt… Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần…

o O o

Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:
Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?

Chú Tư nói:
Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.

Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:
Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.

Ông Rốp hoảng hốt:
Dữ quá vậy! Con “xáu” là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con “xáu” ăn thịt nên tôn thờ nó.

Thầy hương quản nóng ruột quá:
Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.

Ông Rốp cảm thấy áy náy:
Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.

Thầy hương quản nói:
Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng? Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kìa.

– Sấu chạy lên bờ à?

– Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.

– Làm sao bây giờ, thầy hương quản?

– Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.

Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:
Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.

Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lủng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa, làm sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe.

Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp:
Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây “cà líp xây”[3], nó yếu lắm.

– Chiều nay, tôi sẽ tính.

Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi “rỏn” bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.

Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọng rằng “nuôi quân ba tháng, dụng quân một ngày.”

Chú Tư Ðức nói với ông:
Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Cô hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!

– Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.

Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.

Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp:
Bây giờ mình làm thế nào?

Tư Ðức hỏi ngược lại:
Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!

– Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không?

Chú Tư Ðức mỉm cười:
Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình? Chừng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì…

Chú Tư cố tình không nói dứt.

Ông Rốp nhướng mắt:
Thì sao?

– Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưỡi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà!

Ông Rốp hoảng hồn.

Chú Tư Ðức nói tiếp:
Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre làm bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân “An Nam” xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấu nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.

– Cách nào?

– Tôi móc con vịt vô lưỡi câu rồi tôi đứng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.

Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.

Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.

Hai hôm sau, chú nói:
Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. Tới giờ rồi.

Ông Rốp hỏi:
Lễ gì?

– Dạ, lễ cúng cô hồn.

Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đèn tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.

– Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.

Ông Rốp nói:
Thôi… tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.

Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, “bủa xua” hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai:
Thúng cơm khô con có đem theo không?

Nó đáp:
Dạ có.

– Nhiều hay ít vậy con?

– Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.

Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.

o O o

Ngày qua, ngày lại.

Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.

Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.

Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.

Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.

Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.

Thầy hương quản đã đến:
Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?

Rồi thầy quát to:
Hương ấp đâu? Hương tuần đâu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên… Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!

Nắng lên cao.

Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.

Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.

Chiếc bè từ từ nổi lên.

Dân chúng hai bên bờ la lớn:
Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau!

– Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.

– Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá! Thiệt cha nào con nấy!

Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:
Để tôi bắn con sấu!

Thầy hương quản vô cùng e ngại:
Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao?

Một người phía sau nói với tới:
Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.

Thầy hương quản day lại:
Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.

Hằng chục người, một tiếng thét to:
Giết chết nó đi!

Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.

Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.

Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay.

Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:
Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.

Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất!

Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rồi không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.

Sấu ta lại chìm.

Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên:
Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!

Thầy hương quản la lớn:
Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng coi hoài, quên hết phận sự. Tệ quá!

Một mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.

Hai cây lao phóng xuống.

Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.

Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.

Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏi, nằm lé đé.

Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Hắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.

Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.

Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:
Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!

Hằng chục chiếc xuồng và ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.

Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tíu tít:
Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà còn mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn.

Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:
Ðể tôi ở lại coi nó.

Ông Rốp nói:
Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe! Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.

Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.

– Rượu “cổ nhác” bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao “Cọt” gởi riêng qua cho tôi.

Chú Tư hớp một miếng:
Ðược rồi, quan lớn.

Ông kiểm lâm nói:
Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.

Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:
Hết sức giỏi! Người “An Nam” hết sức giỏi! Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học nghề với ai vậy?

Chú Tư nói:
Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.

Ông Rốp gật đầu:
Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.

Chú Tư suy nghĩ:
Không được đâu!

– Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.

– Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.

– Tội gì vậy, chú Tư?

– Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.

Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:
Dân “An Nam” giỏi quá, hiền từ quá! Chú Tư họ gì, mấy tuổi? Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức “bếp”, ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.

Chú Tư Ðức cười:
Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng[4].” Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ…

– Chi vậy?

– Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng… không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.

– Nghề gì?

– Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.

Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.

Ông chắp tay lại mà nói:
Tôi khen chú nhiều lắm.

Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:
Ông xá tôi, tôi ngại quá! Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm “bông đồ.” Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích “xơ lanh đa” gì đó…

Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt và máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.

Ông Rốp buột miệng:
Chú Tư Ðức là thầy tu Na Ga Sơ Na.

Chú Tư nói:
Trời ơi! Không dám, tội chết! Tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ “phú de” hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.

Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm “bếp” kiểm lâm.

Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.

Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:
Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm! Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỗng mặt đất lận kia!

(Trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, 1962)

– – – – – – – – –
[1] A Lơ Măn: tiếng Pháp là Allemagne, nước Đức. (BT)
[2] Kọt: Đảo Corse. (BT)
[3] cà líp xây: tiếng Pháp là calibre seize (calibre 16), tên một loại súng trường kiểu cũ. Số 16 chỉ số viên đạn được đúc từ mỗi pound (453g) chì, tức mỗi viên đạn nặng khoảng 28g. (BT)
[4] Thấy việc nghĩa không làm thì không phải là dũng, thấy người bị nguy không cứu thì không phải là hùng. (BT)

Hòn Cổ Tron – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)

Ông Từ Thông ra hòn Cổ Tron cất chòi mà nương náu không biết từ bao nhiêu niên kỷ rồi. Tóc của ông lốm đốm bạc, khi thì thả dài xuống khỏi lưng quần, khi thì bới thành búi to sau ót, gài lại bằng một cọng gai kim quít. Một bộ quần áo nghĩ cũng hơi dư mặc đối với ông! Nhiều khi năm ba tháng liên tiếp ông phơi lưng trần với nắng, bên mấy gốc săn đá cổ thụ, lá cành xơ xác vì những cơn gió triền miên của biển khơi. Khi trời nực thì có những khe suối trong veo đón mời. Ông cứ ung dung mà uống, mà tắm một cách tự nhiên, vô tình khuấy rối giấc mơ của đàn bướm trắng đang xao động bay lên chập chờn như muốn rời mấy nhánh mai hoằng lơ thơ cúi nghiêng mình chấm mí nước…

Hôm nào vui cho bằng hôm mười bốn, hôm rằm! Ông Tư Thông ra sau rẫy, đào lên củ khoai môn to lớn, đem luộc chín. Ngồi trên vồ cẩm thạch. ông chậm rãi ăn buổi chiều, thỉnh thoảng rứt từ miếng khoai thảy xuống nước. Loài cá nhỏ bu lại nhởn nhơ, mỗi con khoe một vẻ riêng. Tận dưới đáy biển, loại sò, loại ốc, loại nhúm đang há miệng, le lưỡi bò chậm chạp trên nền đá tím nổi gân vàng, trên nền đá vàng nổi gân trắng. Hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới nước ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm. Ðêm về, trăng mọc. Nơi thủy cung rộn rịp nào kém chốn trần gian! Từng đợt rong chìm lửng lờ mơn trớn, khoác thêm lớp xiêm lụa mỏng cho bầy cá hướng. Và muôn vì sao trên dải Ngân hà sa xuống đậu lấm tấm khắp nhánh san hô trắng bạc.

Ở hòn Cổ Tron giữa vời vịnh Xiêm La này, ông Tư Thông cơ hồ quên cả loài người và loài người cũng hầu như quên rằnh mình có một đồng loại ở ngoài mỏm đá chơi vơi kia. Ðiều ấy, chúng ta không nên trách ai cả, chẳng qua là… hải giác thiên nhai[1]. Không lẽ ông phải vượt bốn mươi cây số đường biển để tới công sở Lại Sơn, bên Hòn Rái mà trình diện? Chính quan chủ quận Châu thành Rạch Giá còn ngán đi kinh lý đến làng Lại Sơn! Từ dinh quận của ông đến công sở làng ít nhứt cũng là năm chục cây số đường hải đạo mênh mông sóng cồn. Mấy chiếc “ca nốt” oai hùng trong sông rạch chỉ là cái vỏ trứng vịt giữa biển. Nhà nước thuộc địa nào chú ý đến việc cung cấp tàu đồng, tàu sắt để quan chủ quận đi cai trị dân! Không lẽ ông quận lại cưỡi ghe bầu hằng trăm cây số! Vả lại ghe bầu nào phải như chim trời mà bay thẳng một đường ngay. Ghe chạy theo đường gãy. Ngoài biển khơi, đường gãy là đường gần nhất giữa hai điểm cách nhau; cái khoảng gần trăm cây số trên kia kéo dài gấp ba, gấp bốn.

Năm ấy, tháng ấy, ngày ấy… ông Tư Thông bỗng nghe chút gì băn khoăn, rạo rực trong lòng ông và ở ngoài đời. Từng đàn chim sắt đen ngòm như bầy quạ bay lượn quanh hòn Cổ Tron, rú lên, rít lên, lắm lúc như toan đáp xuống, đột nhiên đảo ngược, đi thẳng một mạch khuất trong mây khói.

– Bữa nay họ làm cái gì vậy cà?

Ông Tư Thông hối hả trèo lên chót đá mà ngóng. Hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc không có gì lạ. Duy có hướng Ðông: kìa, sừng sững dưới ánh nắng mai năm ba hòn đảo nhô lên, những hòn đảo mới lạ. Ông trố mắt liên tưởng đến phép dời non lấp biển rất nhiệm mầu của tay Thợ Trời khéo léo. Không thể lầm lẫn được! Hồi nào đến giờ, ông rất sành sỏi về vị trí mấy hòn đảo nhỏ án ngữ chung quanh đây. Từ hòn đảo mới nổi ấy, một đốm trắng ngời, một chiếc “ca nốt” rồi hai chiếc, ba chiếc đang rẽ sóng chạy phăng lại nơi ông đang ở. “Tự năm bảy năm nay, mình chưa mất lòng một con sâu, một con kiến, không lẽ bây giờ có kẻ báo oán mình? Oán nào đã gây ra mà báo?” Nghĩ vậy, ông trở xuống chân hòn sát mé biển, chờ đợi.

Chập sau, mấy chiếc “ca nốt” xáp gần bờ; họ đưa tay ngoắc ông.

Người Việt Nam nọ lên tiếng:
Ông già! Lại đây quan lớn hỏi.

Ông Tư Thông nhìn năm sáu người mặc võ phục trắng đứng gần thầy thông ngôn.

Mốy người mặc võ phục nói ríu rít. Ông đoán đó là “tiếng Tây.”

– Ông già! Ðây là Bu Lô Ða Ma?

Ông đáp:
Dạ không biết. Nó là hòn Cổ Tron. Chung quanh đây là mười hòn nhỏ khác. Không có nơi nào kêu là hòn Ða Ma…

– Vậy thì nó là hòn Nam Du. Trong bản đồ ghi rõ đường hoàng. Ông nói kỳ quá!

Ông Tư Thông lắc đầu:
Dạ, lời thật khai ngay. Tôi không biết. Xung quanh đây là hòn Mẫu, hòn Dài, hòn Cổ Sơn, hòn Móng Tay.

Chập sau, thầy thông ngôn mới đồng ý:
Ðúng vậy, Bu Lô Ða Ma hoặc hòn Nam Du là tên theo sách chữ nho, theo nhà binh. Hòn Cổ Tron là tên tục của nó. Nè ông lão! Quan lớn ra lịnh như vầy…

– Bẩm thầy, quan lớn là người của nước nào?, tôi chưa rành.

– Ông giỡn sao chớ? Hay là ông ngủ mê? Cỡ này, nhà nước thuộc địa Tây đánh với nước Xiêm.

– Bẩm thầy, đánh ở đâu? Tôi chưa được am tường.

– Ðánh tại nước Cao Miên. Ðánh luôn tại Bu Lô Ða Ma tức là cái hòn Cổ Tron này.

Ông Tư Thông cau mày:
Mô Phật. Cầu xin Phật Trời…

Thầy thông ngôn đắc ý:
Không sao đâu! Hễ làm con dân thì phải gánh vác nghĩa vụ. Quan lớn muốn biết hổm rày có tàu bè lạ nào chạy tới đây do thám không?

– Dạ, không thấy.

– Hòn này bao nhiêu dân đinh?

– Bẩm thầy, có một mình tôi thôi. Còn mấy hòn gần đây, tôi không rành. Chắc là năm bảy người, toàn dân “An Nam” mình.

– Ðược, thôi bây giờ quan lớn muốn ông kiếm dùm trái cây, nước ngọt. Rồi quan lớn cho chút ít tiền… Thời buổi này ông nên xài phí. Việc sống chết bất thường lắm!

Có lẽ sợ ông Tư Thông trốn luôn trên chót hòn nên thầy thông ngôn đi theo sát bên ông, sẵn sàng giúp ông quảy mớ chuối, mớ mít.

Trước lạ sau quen, ông Tư Thông dọ hỏi sơ qua về tình hình trong bờ:
Trận giặc này không biết dân “An Nam” mình hao nhiều không thầy?

– Hỏi làm chi vậy? Ở đây yên thân già của ông rồi. Nghe nói dân miệt Hốc Môn, miệt Long Hưng… nhộn dữ lắm. Tây không muốn nói chuyện đó.

Một mối buồn len vào tâm não ông Tư Thông. Ông nghe gió thổi bốn bề, lạnh lùng. Lương tri như rực sáng nhắc nhở ông món nợ gì đó đối với đồng bào, giang sơn. Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang. Ðôi mắt già của ông Tư Thông ngẩn ngơ nhìn muôn lớp sóng cồn. Chân trời u ám, mấy đám mây tang bay thấp là đà… Ông hổ thẹn, tủi bấy phận mình không bằng con đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải.

Thầy thông ngôn nói khiến ông giựt mình:
Quan lớn đi về. Ông muốn xin điều gì, vật gì không? Ổng tử tế lắm.

Ông Tư Thông chắp hai tay ra vẻ cung kính:
Tôi muốn vô trong đất liền, miệt Rạch Giá hay Cà Mau gì cũng được để thăm bà con. Nhờ quan lớn cho giấy phép chớ thời buổi chiến chinh này… Tôi không có giấy thuế thân, hồi nào tới giờ.

Vị quan hải quân gật đầu. Thầy thông ngôn viết lia lịa rồi vị quan ký tên. Ông Tư Thông cầm miếng giấy thông hành hộ mạng nọ, vô cùng mừng rỡ:
Chúc quan lớn đi bình yên. Mà… Quan lớn chạy “ca nô” về đâu?

Thầy thông ngôn nói:
Về tàu lớn. Mấy chiếc tàu binh… của tôi sơn có vằn có vện. Ông không thấy sao? Họ sơn tàu lại cho giống cái hòn giữa biển. Hồi sáng tụi tôi bỏ ống dòm thấy rõ ràng ông đứng trên chót hòn này. Nhờ vậy mà ông khỏi bị bắn. Ban sơ, quan lớn tưởng đâu hòn này là chiếc tàu binh của kẻ nghịch. Ông hiểu chớ?

o O o

Chưa vô tới bờ chợ Rạch Giá là ông Tư Thông cảm thấy cuộc đời đảo ngược, từ địa vị hoàn toàn tự do đến chỗ mất tự do. Ông trung thành với đất nước nhưng cớ sao đất nước đối xử với ông quá bạc bẽo, ghẻ lạnh? Từ hòn Cổ Tron, ông quá giang tàu buôn Hải Nam đi một mạch tới hòn Tre, nhờ chiếc ghe câu kiều đưa vào chợ. Dè đâu tàu của sở “đoan” xét hỏi. Miếng giấy thông hành nọ bị hồ nghi là giả mạo vì không có đóng mộc, vì đương sự không có giấy “lão” chứng tỏ rằng tên họ của mình đúng như trong giấy phép. Tàu “đoan” chở ông về giao cho ông cò Tây. Giam giữ ông được hai ngày, ông cò phú nội vụ qua dinh quận. Ông quận vốn là người mộ đạo Phật nên cho phép ông Tư Thông được tự do đi dạo chợ.

Ông Tư Thông bày tỏ lý do:
Dầu muốn trở về hòn Cổ Tron, không dễ gì kiếm được ghe xuồng mà quá giang. Gió thổi Nồm rồi. Phải chờ mùa Bấc…

Dạo chợ mấy buổi, ông Tư Thông phát chán. Cầm mấy cắc bạc (của ông chủ quận cho) ông không biết nên mua sắm, ăn uống những gì. Rốt cuộc, ông mua tiền xu khoai môn mà ngồi ăn ngon lành nơi góc chợ. Còn dư, ông vào tiệm hàng xén mua nhang đèn cầy để về cúng bà Chúa Hòn mặc dầu ngoài hòn không có chùa miễu gì cả. Ông cũng thích chí sực nhớ lại mua vài cây kim, nửa cân đường cát trắng.

Nhiều lần quan chủ quận viết thư qua bót ông cò hỏi thăm nhưng không được sự giải quyết nào dứt khoát. Chẳng lẽ giam giữ ông Tư Thông mãi mãi? Nhìn vào bản đồ vịnh Xiêm La, ông quận nảy sanh ý kiến:
Hòn Cổ Tron tuy thuộc quận Châu Thành nhưng nằm gần phía làng Ðông Hưng, quận An Biên. Ngày năm tây tháng tới, ta đón thầy xã trưởng Ðông Hưng mà gởi ông đạo này.

o O o

Rừng của làng Ðông Hưng âm u quá, khó mà nhìn ra xa quá vài công đất để tìm lại chân trời; chạng vạng là un khói lên, không như hồi ở ngoài hòn Cổ Tron, hồi ông ngủ trần không cần mùng mền. Thầy xã trưởng giao trách nhiệm gìn giữ ông cho thầy hương quản. Thầy hương quản lại đổ gánh nặng ấy cho người em vợ là hương tuần Hay.

Người giam giữ và người bị giam giữ lần hồi cảm thông nhau. Chú hương tuần lo đặt rượu đế. Ông Tư Thông đi cắm câu, kiếm “mồi” về nhậu.

– Ở đây vui quá phải không?

Ông Tư Thông gật gù:
Không được vui lắm. Coi bộ bà con mình nghèo hơn ở ngoài hòn Cổ Tron của tôi. Áo quần không có. Mình mẩy bị ghẻ khuyết ăn lở lói thâm niên. Nhà cửa xiêu vẹo, nay ở mai dời… Chắc là tại giặc Xiêm.

Hương tuần Hay trả lời:
Giặc đâu không thấy. Người ta đánh mà mình chịu cực mới đau thương cho chớ!

– Buồn quá, chú hương tuần à!

– Hơi đâu mà buồn. Xứ này chịu cảnh này không biết tự hồi nào, từ hồi chưa có giặc Xiêm lận. Riết rồi quen, yên tịnh.

Ông Tư Thông thích chí:
Thì ở ngoài hòn Cổ Tron của tôi, tứ bề sóng gió nhưng mà cũng yên tịnh. Cớ sao? Vì chung quanh có hàng chục hòn khác án ngữ. Tôi là người chạy giặc, vô trong đất liền này thăm bà con… Nhưng mà cũng yên tịnh. Nhờ bà con thương tình.

o O o

Ngày tháng trôi qua đều đều. Hôm ấy không nhớ rõ hôm nào, thầy hương quản đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn biết được tin trận giặc Xiêm đã chấm dứt. Tây và Xiêm dường như thủ huề. Thầy tự ý ra lịnh trả tự do cho ông Tư Thông.

Ông Tư Thông ngạc nhiên:
Tôi bị giam hồi nào?

– Ông chủ quận biểu tôi giữ ông lại để làm tù binh, chờ mãn giặc mới thả ông về Cổ Tron.

– Về thì về, không sao đâu – ông lẩm bẩm.

Thầy hương quản hỏi:
Hồi bị giam, ông có đồ đạc gì bị tịch thâu không? Tôi kêu nài giùm.

– Vài ốp nhang, đèn cầy, kim may quần áo, đường cát trắng… Nhưng mà thôi. Ở ngoải, dầu không có mấy thứ đó… nhưng cũng như có.

Gặp dịp thuận tiện, thầy hương quản tìm ghe cho ông quá giang ra hòn Sơn Rái.

Ông ra đi, hơi buồn.

Dư luận trong xóm nổi lên bàn tán. Người cho rằng ông muốn truyền bá một thứ tôn giáo mới, thí dụ như “Ðạo Tịnh”, bằng cớ là ông ưa nói hai tiếng yên tịnh. Kẻ khác hồ nghi rằng ông ở Côn Nôn thả bè vượt ngục trốn về.

– Nè, cha nội sành sỏi lắm! Cây đèn “măng sông” của Chệt Kỵ hư “béc” đốt không cháy, vậy mà cha nội sửa lại được trong nhấp nháy…

Lại còn nhiều giả thuyết khác ác độc hơn, cho rằng ông thường lân la mấy nhà có đàn bà góa, gái tơ, vân vân…

Nhưng thời gian là vị trạng sư hùng biện nhứt thanh minh cho ông Tư Thông. Dư luận bất chánh bị đánh tan, lãng quên. Kỷ niệm lần lần trở nên trong sáng, tươi đẹp. Chiều chiều, khi ra bờ biển để câu cua, đẩy xịp, người ta nhớ ông Tư Thông như nhớ một cái vỏ ốc xà cừ ngũ sắc tấp vào bãi bùn. Như nhớ vài trang sách Phong Thần tình cờ lượm được trong ngăn tủ bỏ quên, những trang sách rách nát hơi khó hiểu vì thiếu hồi thứ nhứt và không có hồi sau phân giải.

(Trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, 1962)

– – – – – – – – –
[1] Có nghĩa: góc biển chân trời. (BT)

Người thầy học cũ – Mai Thảo (Nguyễn Đăng Quý, 1927-1998)

Y gặp lại người thầy học cũ một ngày mưa lớn. Con đê chạy dọc hữu ngạn sông Đáy chỗ đó là giữa quãng Ba Thá, Vân Đình. Đường lầy. Kẻ đi ngược, người về xuôi. Cuộc kháng chiến gian khổ thu lại trong giây phút gặp gỡ bất thình lình một nỗi tủi mừng rưng rưng và cái hình ảnh buốt lạnh của con đường dài thẳm, trùng điệp hầm hố dưới mưa bụi trắng xóa. Xa xa dấu vết những làng xóm tiêu hủy còn lại.

Hai thầy trò nắm chặt tay nhau, mưa vẫn đổ lớn – cùng chạy đến trú dưới một gốc cây. Nhiều năm tháng qua đi từ ngày bỏ trường lăn mình vào cuộc đời, bây giờ y đã lớn, đứng cạnh thầy cao hơn thầy hẳn một cái đầu. Thầy thì tuổi già đã làm cho thân hình nhỏ lại. Nhưng giữa hai người vẫn không có sự thay đổi. Người thầy vẫn vững chãi và tự tin hơn. Thái độ gương mẫu và che chở bên trong cửa lớp ngày nào y vẫn nhận được.

“Thầy ở đâu xuống?”

“Tôi ở Ba Thá xuống.”

“Thầy vẫn dạy học?”

Người thầy học cười hiền lành: “Phải, tôi vẫn dạy học nhưng trường làng vừa bị bom đốt cháy chiều hôm qua. Hôm nay tôi phải về Ty báo cáo. Ty ở dưới Vân Đình. Tôi mất hết, chỉ chạy được những cái này.”

Những cái này: một cái bị cói, mấy bộ quần áo nâu và một cái gậy trúc.

Y nhìn cái cơ nghiệp nhỏ nhoi vô nghĩa, những đồ tùy thân cuối cùng còn sót lại của một cuộc đời đạo đức và liên tưởng tới hai hình ảnh: vị chân tu của một thời đại nào đi truyền bá trong khổ hạnh những tư tưởng đẹp cho nhân loại và hình ảnh một con đường mưa bay, buổi chiều xuống trên liên khu rộng lớn, người thầy học cũ lại một mình bước đi trên con đường đó mang trên mớ tóc bạc cái nghề đạm bạc cao quý, mang nặng nó trong đêm tối và mưa bão.

Mưa vẫn đổ lớn. Hai thầy trò đứng sát vào nhau hơn. Thầy nhìn trò, gật đầu: “Các anh đổi thay nhiều lắm. Trưởng thành cả rồi. Nhưng mà ở đâu và bao giờ các anh vẫn nhận ra tôi, tôi vẫn nhận ra các anh. Anh thì vẫn còn nguyên vẹn cái nhìn lơ đãng ra ngoài cửa lớp những buổi trưa mùa hạ.”

Y trả lời: “Vâng, con vẫn thế. Con vẫn nhớ con như thế.”

Giọng thầy trầm trầm trong tiếng mưa đổ rào rào: “Chúng ta vẫn thế.”

Đôi mắt sâu của thầy nhìn xuôi theo con đường dài, qua màn mưa về tận cuối đường, xa hơn cái xa của cuối đường: “Chiến tranh đổi thay hình thể những ngả đường trên đó chúng ta đi. Tất cả trở nên khó khăn cực nhọc và chua xót hơn cũ. Những ụ đất. Những hầm hố. Những chiếc cầu đổ. Hình như mưa bão cũng nhiều hơn.”

Và thầy thở dài: “Chúng ta là những con người cũ đang tập đi trên những con đường mới.”

Rồi thầy quay lại hỏi: “Còn anh, bây giờ anh làm gì?”

“Thưa thầy, con đi buôn.”

“Đi buôn?”

“Con bỏ học từ sau Cách mạng tháng Tám. Thuyền hàng của con chắc bây giờ đang ngược dòng đi lên ở giữa khoảng Rót Rét. Con sẽ đón thuyền ở vùng Bương Cấn và nếu đêm nay ngớt mưa sẽ đi thẳng tới Phú Thọ.”

Người thầy “Thế à” một tiếng nhỏ rồi không nói gì nữa. Tính thầy vẫn ít nói. Mưa ào ào trên đầu. Trước mắt họ dòng sông Đáy đục đỏ chảy đi hung dữ. Bãi xa mịt mùng bên kia. Người học trò đứng lùi lại phía sau và nhìn thấy sát tầm mắt, những sợi tóc bạc gió thổi lay tạt trên khuôn mặt mà trông nghiêng vẫn đựng đầy cái vẻ trầm lặng cũ, những ngày xưa nhìn xuống y trên một nền bảng đen. Những kỷ niệm, những hình ảnh của một lớp học vừa trở về lướt thướt và buốt lạnh trên khoảng đường này. Những chùm hoa mùa hạ đỏ chói chang trên góc cửa sổ, sự hé mở của những giấc mộng ban đầu nở từ những chùm hoa rực rỡ ấy, nhịp bồng bềnh đẩy đưa của tâm hồn chạy đến những chân trời những thế giới hoang vu. Cánh bướm mỏng của niềm rung động mới. Những tấm kính sáng trong. Tiếng giảng bài trầm trầm đi giữa hàng ghế. Tà áo thâm và cái đỉnh mũ trắng. Những bục gạch mưa làm mòn cạnh đi lên từng cửa lớp. Lối kiến trúc cổ kính của một mái trường xây cất trên nếp thành đổ nát cũ lượn vòng giữa những hàng cây và những ao đầm. Thành phố ở dưới với tiếng hú dài của một tiếng còi tàu kéo theo những vệt khói còn treo lâu trên nền trời. Ý niệm thứ nhất về không gian trong chuyến đi tưởng tượng. Vụ hè sắp tới thấp thoáng hình ảnh con đường mất hút dưới nắng.

o O o

Y nhớ thầy đã về sau một buổi tựu trường có nhiều thuyên chuyển. Cũng một buổi sáng mưa lớn. Có tiếng giày từ ngoài hành lang đi tới. Thầy vào, đứng lại một giây nhìn mọi người, nói: “Chào các anh”, đoạn đi thẳng lên bục cao. Giờ học thứ nhất được dành cho sự làm quen nhau. Người thầy bày tỏ nỗi vui riêng sau mười mấy năm ở rừng được đổi về một trường thành phố.

Thầy nói: “Trường cũ ở sát biên giới Hoa-Việt, học trò nửa Kinh nửa thiểu số. Trên ấy đêm rừng dài và buổi sáng nào cũng dầy đặc sương trong lớp học vừa mở cửa. Rừng thì trùng điệp ở chung quanh. Sân trường đôi khi còn in những dấu chân thú dữ. Và rét thì rét ghê rét gớm. Các học trò chân tay cũng cóng buốt và mặt mũi xám tái lại. Phải đóng kín cửa cho hơi nóng truyền đi một lúc sau mới làm việc được.”

Hình ảnh của một lớp học biên giới được gợi lên bằng giọng nói đặc biệt trầm trầm. Cái lối kể chuyện của thầy cũng khác. Và ngay lập tức, trong số bốn mươi lăm học trò chăm chú lắng nghe, từ một chỗ ngồi tận đáy lớp nhìn lên, y cảm thấy mến yêu ngay người thầy học mới. Một nỗi mến yêu đặc biệt chưa từng có. Tưởng như một khám phá, một đổi thay lớn.

Trong một cuộc đời học trò, từng năm học đi lên, mỗi năm lại gặp một người thầy, nhưng trong tất cả những người thầy đó, thường vẫn chỉ có một người mà về sau lúc đã giã từ cửa lớp, ở mãi chỗ sâu xa cách biệt trong cuộc đời, mỗi lần nhớ lại là người học trò lại nhớ trước nhớ ngay đến người thầy ấy. Tại sao? Có thể vì một nét mặt, một giọng nói, được khắc sâu hơn vào dĩ vãng. Có thể vì một sự bắt buộc nào đó, trừu tượng và siêu hình, khiến cho tương quan tình cảm vượt khỏi mức bình thường, chứa đựng một ý nghĩa rộng lớn hơn.

Bài luận đầu tiên của y được nhiều điểm nhất lớp. Một sự lạ. Ba hôm sau khi thầy trả bài, gọi đến tên, ngợi khen và mỉm cười bảo y hãy đọc cho cả lớp nghe một đoạn văn hay, y đứng dậy, tờ giấy trên tay run run, và giây phút đó đã là cả một dấu son rực rỡ trong cái lịch sử học trò của y từ trước đến nay vốn rất tầm thường tăm tối.

Y lười và lơ đãng. Trên tất cả các môn học, điểm số bao giờ cũng ở dưới cùng. Một sự đội sổ toàn diện. Suốt đời y nhớ mãi cái giờ học lịch sử ấy của một tên học trò đội sổ ngồi tối tăm ở cuối lớp, lần đầu đứng lên ngượng nghịu, hồi hộp đọc cho cả một lớp im sững thán phục thành công thứ nhất của đời mình. Ngồi xuống còn cảm động.

Cả lớp không tìm hiểu được nguyên nhân sự đổi thay đột ngột này. Chính y cũng không hiểu. Y đã viết bài luận ấy cho một người xem, nó là cái biểu tỏ cụ thể của một tình cảm chân thật và tốt đẹp gửi đến cho một người thầy đã tả được một cái trường học biên giới bằng “những dấu chân thú dữ” và “sương trắng dầy đặc cửa lớp buổi sớm.”

o O o

Mưa vẫn đổ lớn.

Buổi chiều như đã muốn đến từ bãi sông bên kia. Trời thấp và xám. Con thuyền đầy hàng ngược dòng ở giữa khoảng Rót Rét bồng bềnh trong ướt lạnh còn là điểm vui ấm bé nhỏ so với tâm sự của người thầy mất trường, không biết sẽ về một nơi nào trong mưa bay.

Hai người cùng cúi đầu suy nghĩ.

Thầy nói: “Anh vừa nói hiện anh đi buôn đấy nhỉ?”

“Dạ.”

“Các anh làm thật nhiều nghề. Mỗi người một đường. Cuối tháng trước tôi có gặp một anh không rõ đã học tôi năm nào, làm khẩn hoang ở một đồn điền Nho Quan. Vùng ấy lam chướng, nước độc, rất có hại cho sức khỏe. Trông anh ta xanh yếu đáng ngại. Cứ như anh đi đây đi đó trên một con thuyền, có lẽ lại hay hơn.”

“Kể thì mấy năm nay, từ ngày ra trường con chưa từng có dịp được đi nhiều, thấy nhiều như bây giờ. Nhưng nghề buôn không phải là một chí hướng thích hợp. Nhiều lúc con vẫn cảm thấy đang làm một việc vô ích.”

Người thầy đáp: “Tôi biết. Nhưng chúng ta bây giờ thường vẫn phải làm ngay cái việc nhìn thấy trong tầm tay với mà không có quyền từ chối, lựa chọn. Thế hệ các anh biết bao nhiêu người hiện đang đứng lạc vị trí, băn khoăn tìm đường. Ở tuổi các anh thật đau đớn. Chúng tôi thì không nói làm gì. Nhiều lúc cực nhọc vất vả, tôi vẫn thầm cảm ơn trời còn cho mình được cầm cái thước kẻ giảng bài. Tôi làm gì khác được nếu thôi dạy học?”

Thầy cười khẽ: “Thói quen của nghề nghiệp đấy: Thấy các anh là hỏi về dự định vào đời. Không thích đi buôn, anh muốn làm gì?”

“Có một lần trong giờ luận, thầy nói đùa con có thể trở thành nhà văn, con vẫn ao ước thực hiện được câu nói đùa ấy.”

“Thế ư! Tôi không nhớ nữa, nhưng nếu có nói thì nói thực đâu phải đùa. Phải rồi, Việt văn là môn học xưa kia anh ham thích nhất.”

Giọng thầy trở nên ân cần: “Cố gắng đi. Biết đâu chẳng một ngày tôi được đọc văn của một người học trò cũ là anh. Niềm an ủi lớn nhất của một người thầy vẫn là được thấy người học trò cũ của mình đi vào tương lai trên lối đi đã được phác định từ trong cửa lớp.”

Mưa bỗng ngớt đi, tiếng đổ ào ạt dừng lại. Mé sông bên kia, bờ bãi mịt mùng ban nãy nổi lên dần dần. Nhưng vòm trời thì vẫn thấp nặng và nghi ngút hơi nước. Trận mưa lớn vừa ngớt chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn khác sắp đổ xuống.

Hai người ra khỏi gốc cây. Người thầy nhìn lên trời: “Đã có thể đi được rồi. Tôi phải đi xuống Ty bây giờ cho kịp.”

Thầy quay lại, cánh tay gầy yếu đặt lên vai người học trò cũ: “Lâu lắm mới gặp nhau tôi cám ơn các anh còn nhớ đến tôi. Các anh bây giờ đã khôn lớn cả, đã tự trưởng thành trong những kinh nghiệm, tôi cũng không có điều gì phải khuyên bảo nữa. Thôi anh ở lại.”

Giây phút giã từ này thật là cảm động.

“Con ân hận không được gặp thầy lâu. Con theo thuyền độ nửa tháng bán hàng xong rồi sẽ trở lại vùng này. Xin thầy địa chỉ để con được lại thăm trường mới.”

Người thầy gạt đi: “Chính tôi hiện giờ cũng không biết rồi sẽ được thuyên chuyển đi đâu. Liên khu trong, một trường mới mở trong núi hay là nghỉ dạy vĩnh viễn không chừng. Chắc khó gặp lại, anh còn nhớ đến tôi là đủ và đừng băn khoăn về vấn đề tìm thăm tôi.”

Người thầy bước đi, cái bị cói nằm trên bờ vai gầy, gậy trúc chống xuống đường lầy. Y chạy theo thầy: “Con đi buôn cũng không đến nỗi túng thiếu lắm. Thật tình không dám nghĩ đến chuyện trả ơn, nhưng con có giúp thầy được điều gì không?”

Người thầy lắc đầu mỉm cười: “Tôi một thân một mình cũng không cần gì. Cám ơn anh. Thôi anh trở lại.”

Y đứng sững giữa con đê nhìn theo bóng dáng cổ kính của người thầy. Cái bị cói, cái gậy trúc, những sợi tóc bạc cứ nhỏ dần mãi. Rồi những cái điểm bé nhỏ ấy nhòa đi sau màn mưa.

Y gặp lại người thầy học cũ của y lần ấy là lần cuối cùng. Bán xong chuyến hàng, y lên bộ về thẳng Vân Đình. Hỏi thăm Ty Học chính ở đó, y được biết người ta đã nói với thầy là các trường bị phá hủy gần hết, phải đợi một thời gian để lập trường mới và người thầy đã bỏ đi không để lại địa chỉ.

o O o

Đến nay đã mười tám năm.

Viết văn, tôi thực hiện được cái ước vọng duy nhất của thuở nhỏ. Trong số những nguyên nhân thầm kín thúc đẩy tôi, tôi ghi nhận lời thầy khuyên nhủ cố gắng ngày nào trên quãng đường lầy.

Sự đổi thay quyết định một đời người thường vì những nguyên nhân nhỏ. Ở đây có thể vì lời khuyên của một người tôi kính yêu.

Từ đó tôi không gặp lại thầy, cũng không trở lại một cửa lớp nào nữa. Nhưng kỷ niệm còn giữ được của buổi học ấy, nỗi cảm động đứng giữa hàng ghế đọc bài luận ấy cho cả lớp nghe – nhớ lại – vẫn đưa tôi trở về được với thế giới học trò. Nó nằm trong chu vi một lớp học, nhưng rộng và riêng biệt đúng như một thế giới. Chùm hoa phượng, những phiến kính sáng trong, cái đỉnh mũ trắng, những ngày hè chói nắng. Câu văn đầu tay vụng dại, bỡ ngỡ. Trên tất cả, khuôn mặt trầm lặng của thầy ngó xuống như một nỗi bình yên.

Bây giờ đôi khi ngừng tay trên một trang bản thảo, lúng túng trước một danh từ, một ý tưởng diễn đạt khó khăn, tôi lại thấy những hàng chữ dập dập xóa xóa trước mắt bỗng phảng phất giống với trang giấy nháp của bài luận cũ. Hình ảnh người thầy lúc đó lại hiện lên. Tôi muốn được gặp lại, để nói, ít nhất cũng một lần, với thầy: “Những trang giấy này có được một phần lớn nhờ thầy.”

Nhưng mà những dòng chữ tôi viết bây giờ chắc không bao giờ được biết tới những dòng mực đỏ phê điểm ấy nữa. Buổi gặp mặt cuối cùng. Con đường xa hút dưới mưa trắng. Số tuổi chất nặng lên cuộc đời đã xế chiều. Giọng nói trầm trầm ấy đã chìm lặng, tôi linh cảm như vậy. Cái gậy trúc ấy chắc đã rời khỏi cánh tay gầy yếu, rơi xuống một nơi nào đó, ở ngoài kia.

(Trong tập truyện ngắn Chuyến tàu trên sông Hồng, 1969)

Những mảnh vụn – Ngô Ngọc Bội (1929-2018)

Truyện đã cách đây hơn hai mươi năm. Trong một buổi chiều trời bắt đầu se lạnh, từ cơ quan Mơ ôm về chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Nét mặt cô vừa sượng sùng vừa hân hoan, giơ trước mặt chồng:
− Em vừa mua được cái này. Cũng phải bình nghị mãi, nhà mình “hoàn cảnh” nhất mới được ưu tiên.

Biền đỡ cái vỏ chăn vội vàng giơ lên xem. Ðây là cái vỏ chăn hai lớp, can từ hàng trăm những mảnh vải vụn, mầu xanh công nhân. Những mảnh vụn từ xí nghiệp may nào đó, rồi một lớp người nào đó chắp vá thành chăn. Biền mừng và thốt lên:
− Thế nhà ta “hoàn cảnh” gì mà được ưu tiên?

Nét mặt Mơ chợt xịu xuống, dằn dỗi:
− Anh còn không biết hoàn cảnh gì à?

Biền sực tỉnh liếc nhìn vợ: Ôi… Mơ đã sắp tới ngày.

− Anh xin lỗi em. Hoàn cảnh công tác của anh. Cái nghề phóng viên quèn trong chiến tranh này, suốt năm, suốt tháng lang thang, hết Quảng Bình, Vĩnh Linh, lại Hàm Rồng, Long Ðại, ở nhà em tự lo như vậy, thật cảm ơn.

Nhưng còn nét mặt ỉu xìu trầm lắng của Mơ, không chỉ hàm chứa giận chồng về mặt vô tâm, nó còn khắc sâu nhiều điều khác nữa. Trong đó có một điều, từ khi vợ chồng cưới nhau, cho tới nay đã hai năm, việc sắm sửa đầu tiên cho cái tổ ấm sáu mét vuông này chính là cái vỏ chăn tiết kiệm. Nó cũng trị giá bằng một phần tư số lương tháng của vợ anh. Biền an ủi vợ:
− Thôi, đừng buồn nữa em. Có cái vỏ chăn này chúng mình cũng đỡ lo một phần.

Bốn tháng đi phục vụ chiến dịch Quảng Trị, khi quay về thì Mơ đã sinh cái Lợi được hai tháng. Lúc ấy trời vẫn còn lạnh. Biền ôm chiếc vỏ chăn ra bàn làm việc của cơ quan căng màn ngủ. Anh thầm nghĩ: nếu không có cái vỏ chăn này không biết tối nay anh sẽ chui vào đâu.

Chẳng biết cái vỏ chăn có bao nhiêu mụn vải, mụn lớn nhất bằng bao diêm, nhỏ nhất bằng lá lúa. Có lúc lẩn mẩn Biền đã đem ra đếm thử, nhưng lẫn lộn lung tung, nó chẳng ra hàng lối gì. Nó chỉ là cái vỏ chăn, nhưng nhờ những mép vụn còn ùn lại phía trong tạo thành một lớp mền dày, giữ hơi ấm tuyệt vời. Nó nặng tới bốn cân. Nó chẳng mỏng manh như vỏ chăn “con công” của các cô gái. Không đếm được rành mạch từng mảnh vụn, Biền lại nghĩ tới người nào đó, chẳng biết ở hoàn cảnh nào đã kỳ công khâu thành? Có phải là một cô gái đang “phục hồi nhân phẩm”, hay một bà già không có công ăn việc làm. Người ấy chắc phải có tính kiên trì lắm. Khéo tay và sắt se lắm mới làm nổi. Ðây là một công trình lao động. Công trình mỹ thuật, chứ không còn ở phạm trù “tiết kiệm” nữa.

Sống trên mặt bàn làm việc của cơ quan và cái buồng xép sáu mét vuông, vợ chồng con cái Biền cũng trụ được tới chín năm. Vì cơ quan xa, sáng ra Mơ phải đi rất sớm. Còn Biền trở dậy ôm tất cả chăn màn về buồng vợ. Nhưng rồi anh phát hiện ra ngay ở những kẽ tủ, kẽ bàn làm việc có thể nhét chăn màn vào đấy và khẽ nói với bà phục vụ cho anh để nhờ. Rồi anh tình nguyện riêng buồng này anh sẽ chịu trách nhiệm làm vệ sinh. Khi anh em trong phòng đến làm việc, thì Biền đã chững chạc ngồi tại bàn mình. Anh em khen: “Ông Biền lúc nào cũng là người giờ giấc nghiêm túc nhất!” Biền chua chát: “Tôi nhập được cách sống của loài chuột, loài gián đấy, ông ạ.”

Thế rồi năm thứ mười vợ chồng Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm, anh được cơ quan phân phối cho căn hộ mười tám mét vuông trên tầng năm − một ngôi nhà tập thể lớn, cạnh cái hồ nước mới đào của thành phố. Về nhà mới, hai năm đầu chưa có điện nước. Vợ đi làm xa, ngày nào Biền cũng phải đem quần áo của cả nhà xuống hồ giặt giũ, và gánh bảy gánh nước lên tầng đổ vào thùng phuy cho vợ con dùng.

Sống như thế nhưng đời đâu hết hoạn nạn. Mơ lâm bệnh tim. Ba năm trời anh đèo vợ đi hết bệnh viện Tây y lại sang Ðông y. Rồi Mơ qua đời. Chôn cất vợ xong anh không dám hủy bỏ thứ gì vợ chồng đã dùng. Kể cả những bộ quần áo tàu tàu của Mơ, anh đều giặt cẩn thận rồi gấp cất đi. Anh muốn giữ hơi hướng của Mơ mãi mãi. Cũng có thể những thứ ấy sau này cái Lợi sẽ phải dùng. Nếu không thì cho người thân của anh, của Mơ còn muôn vàn thiếu thốn. Cha con sống quá khổ cực thiếu thốn như vậy, Biền chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ bước đi bước nữa. Anh chỉ nghĩ chăm lo học hành cho con gái.

Mười bảy năm Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm cũng là cái Lợi vừa 17 tuổi, cái Lợi vừa học chữ lại vừa học máy khâu, đi khâu thuê. Một hôm nó ôm về cái vỏ chăn hoa vải Nam Ðịnh. Mặt cái Lợi tươi hơn hớn, chứ không ỉu xìu như mặt mẹ nó ngày xưa ôm cái chăn tiết kiệm về. Nó đưa cho Biền:
− Thôi, hôm nay thì bố phải vứt cái vỏ chăn đi, con biếu bố cái này.

Nó sầm sập ôm vỏ chăn tiết kiệm lao xuống cầu thang. Biền ngồi lặng đi, chẳng ra đồng ý cũng chẳng phản đối. Khi cái Lợi qua khỏi nhà, Biền quay ra ban công nhìn xuống bãi rác ở ven hồ. Nơi đó có hai ba người đang bới rác bằng cái cời sắt. Khi thấy cái Lợi ôm rác ra họ đều ngừng tay, ngóng chờ. Ðứng trên nhà Biền cũng thấy hồi hộp. Khi cái Lợi vứt cái vỏ chăn xuống bãi rác, mọi người xúm lại lấy cời bới tung tung ra. Biền nghĩ thế nào cũng có người nhặt. Dầu sao thì vẫn còn dùng được. Nếu không đem bán cho hàng giẻ rách cũng có giá. Nhưng lạ chưa, họ lại lấy cời cời lại lẫn với rác bẩn. Họ chỉ nhặt giấy vụn, ni-lông và những mảnh nhôm. Biền thấy ruột quặn đau. Khi cái Lợi quay lên, Biền khẽ nói với con:
− Con ạ, con vứt đi bố thấy băn khoăn lắm. Vì dầu sao nó vẫn còn dùng được. Hai nữa nó đã đi gần suốt cuộc đời của bố mẹ. Khi con mới là hòn máu trong lòng mẹ con.

− Thì dùng mãi rồi bố cũng phải “hóa kiếp” cho nó chứ?

− Không, nhưng mà bố còn một băn khoăn lớn nữa, bố chưa được gặp cái người khâu ra nó.

− Ôi dào, bố hay cả nghĩ. Coi chừng, bố lẩn thẩn rồi đấy. Cái người khâu ra nó chắc cũng đã được hóa kiếp rồi.

− Không, con phải xuống mang về cho bố. Nếu không bố sẽ không chịu nổi.

− Thế bố định giữ tới bao giờ?

− Bao giờ bố xuống lỗ thì con chôn theo cho bố. Về dưới ấy bố mẹ sẽ lại đắp chung.

Cái Lợi chạy xuống ôm vỏ chăn về, nó giao hẹn với Biền:
− Ðem về thì đem nhưng bố không được đắp nữa. Nhà mình trống trải chẳng có buồng, chẳng có màn gió. Bố đắp, khách khứa đến chơi, người ta cười con.

Vụ rét tiếp theo Biền đem trải lên chiếu nằm. Cái Lợi sắm thêm cho bố cái ga bằng vải hoa, mầu hoa cà phủ lên vỏ chăn cho khuất. Nó ý tứ vì biết bố rất yêu mẹ nó. Bố dùng mầu hoa cà mới hợp.

Con gái Biền học giỏi. Tốt nghiệp đại học nó được phân công đi phụ giảng ở trường Ðại học sư phạm hai. Cách chỗ ở hơn ba mươi cây số. Thế là niêu cơm của hai bố con Biền phải chia đôi. Lúc này Biền đã ở tuổi năm mươi, sức khỏe thuộc loại B. Mỗi lần về thăm bố, cái Lợi tỏ ra sốt ruột:
− Thế bố vẫn chịu sống thế này thôi à bố?

− Thế con bảo bố sống thế nào?

− Chắc phải hóa kiếp cái vỏ chăn kia đi thì rồi bố…

Nói thế, nhưng không bao giờ cái Lợi dám “xúc phạm” tới cái vỏ chăn tiết kiệm. Biền nói với con:
− Thôi thì con cố ở trên ấy vài năm, rồi dần dần xin chuyển về gần bố. Mà có yêu thằng nào cũng phải yêu cái thằng nó có hộ khẩu ở nội thành. Rồi đưa nhau về đây mà ở.

o O o

Thế là lại qua đi vụ rét thứ hai mươi hai Biền dùng chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Hôm nay trời nắng to, anh mang nó ra hồ giặt. Vừa mới xát bàn chải lên chăn thì từng đường chỉ khâu mủn tung ra. Hai mươi hai năm rồi còn gì nữa. Nhưng anh vẫn không chịu bỏ. Anh gượng nhẹ giặt cho sạch, rồi giăng lên bức rào gần đấy, phơi. Làm xong mọi việc vệ sinh trong nhà để đón mùa nắng ấm thì đã một giờ chiều. Anh hạ lưng nghỉ và chợp đi một giấc. Chợt có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ vừa rụt rè, nhút nhát vừa hấp tấp. Biền rút chốt hé cửa. Trước mặt anh là người đàn bà rách rưới bẩn thỉu. Ðầu đội nón mê, tay xách bị cói. Thấy Biền chị ta lắp bắp, sợ sệt:
− Em làm phiền bác quá!

− Ăn xin chứ gì? Biền đang định quay vào lấy ví thì người đàn bà nói nhanh:
− Vâng, em đi ăn xin, nhưng lúc này lên với bác em không phải để ăn xin. Bác là bác Biền có phải không ạ?

− Phải. Thế có chuyện gì?

− Cái vỏ chăn phơi ở dưới kia là của bác ạ?

− Ðúng. Thế thì sao?

− Có phải bác đã dùng hơn hai mươi năm nay?

− Ðúng. Làm sao mà cô biết?

− Chính tay em đã khâu ra nó!

− A…a… a! Thật à! Thế thì mời cô tạm vào trong nhà.

Người đàn bà len lén bước vào góc nhà.

− Cô ngồi xuống kia, tôi pha nước cô uống.

Người đàn bà trấn tĩnh dần. Và cố tranh thủ thanh minh để cho chủ nhà chóng tin:
− Nhìn thấy cái vỏ chăn ấy, người em sửng sốt nóng bừng bừng. Cứ thấy như cả cuộc đời đã qua của mình hiện lên. Em đi gõ cửa từng nhà, từ tầng một đến tầng ba. Có một bà già phúc hậu bảo vỏ chăn ấy là của bác Biền trên tầng năm, nên em mới tìm lên chỗ bác.

Biền cảm thấy có cái gì như mộng ảo, như huyền thoại. Nhưng anh vẫn chưa dám tin và đang nghĩ cách thẩm tra:
− Có gì chứng minh là cô đã khâu cái chăn ấy?

− Em làm thì em nhớ, mặc dầu đã hơn hai mươi năm rồi. Bác đem về bác đếm nó sẽ là 1.534 miếng vụn. Không đúng thì bác có quyền lột xác em.

− Làm sao mà đếm được, nó sẽ lẫn lung tung.

− Nếu vậy, em sẽ đếm cho bác coi.

− Chuyện lạ đấy. Vậy cô ngồi uống nước, tôi sẽ mang lên ngay.

Nhờ trời nắng to, cái vỏ chăn đã khô cong. Người đàn bà ôm vỏ chăn vào lòng nước mắt dàn dụa:
− Bác cho em xin một viên phấn.

Biền mở ô kéo chiếc máy khâu của con gái, đưa cho người đàn bà viên phấn mầu. Người đàn bà đứng lên:
− Bác cho em trải cái vỏ chăn lên giường của bác. Em cứ đếm đúng một trăm thì bác gạch một gạch vào mảnh giấy của bác.

Biền lấy giấy bút ra. Người đàn bà vạch phấn lên từng mụn vải một. Miệng đếm một, hai, ba, bốn… một trăm. Hiểu ra cách đếm của người đàn bà, Biền òa lên sung sướng. Người đàn bà thấy chủ nhà vui cũng hồ hởi dần:
− Ngày xưa khâu xong cái nào em cũng đều phải đếm như thế này để ghi công. Tý nữa đếm xong em sẽ dở cho bác xem con số mà em đã ghi ở trong lần trái cái chăn này, sợ lâu ngày thế, nó có còn nhìn thấy hay không. Xong rồi! Bác thử cộng xem có đúng với con số em nói với bác không?

− Cô bảo là bao nhiêu nhỉ?

− 1.534, bác ạ!

− Ðúng. Chịu “thầy!”

Người đàn bà lại hăm hở lật trái chiếc chăn. Tít mãi tận góc cuối cùng có miếng mụn bằng con tem vẫn còn ghi nguyên con số trên, bằng mực cửu long, khá rõ. Hai người nghỉ tay và cùng uống nước. Biền nhìn người đàn bà, trầm ngâm:
− Ở hoàn cảnh nào mà cô chịu ngồi khâu cái vỏ chăn như thế?

− Chuyện dài lắm chẳng biết bác có chịu nghe hay không?

Lúc ấy trời đã gần tối. Nỗi băn khoăn của Biền hàng chục năm nay, lần này có cơ tháo gỡ.

− Thôi được. Nếu vậy thì hôm nay cô nghỉ lại đây. Chắc bây giờ cô cũng chẳng còn biết đi đâu.

− Ở lại đây rồi bác gái về bác ấy xé xác em!

− Vợ tôi mất từ lâu rồi. Hôm nay thứ tư, con gái tôi nó cũng không về. Cô ở lại với tôi không vướng bận gì. Rồi cô kể cho tôi nghe câu chuyện của cô. à, hàng ngày thì cô ở đâu nhỉ? Tên cô là gì nữa?

− Tên em là Xuyến, Minh Xuyến. Quê em ở dưới đồng bằng. Dưới quê em có một túp nhà, mẹ em để lại, và ba sào ruộng khoán. Nhưng mẹ em đã chết lâu rồi. Quê em có tập quán xấu. Rỗi rãi là hay rủ nhau đi ăn xin. Ði ăn xin người ta bịa ra đủ mọi hoàn cảnh: Bị bão lụt, bị hỏa hoạn, bị nhỡ đường, bị trấn lột. Bị con ốm nằm bệnh viện lâu, bây giờ ra viện không có tiền về quê… Nghĩa là nói thế nào cho người ta xiêu lòng.

− Thế cô cũng đi “hành nghề” lâu rồi à?

− Cũng đã sáu bảy năm nay.

− Nhưng ở hoàn cảnh nào thì dễ xin nhất?

− Dễ nhất là có con mọn ôm trên tay.

− Thế lần này lên không có con thì cô nói thế nào?

− Cứ bảo là bệnh tật, là đi kinh tế mới, bị trấn lột ngang đường, cũng tùy cơ ứng biến. Nhìn từng đối tượng mình xin mà bịa ra cho hợp.

− Cô cũng nhiều kinh nghiệm đấy.

− Vâng. Nhưng lần này em lên là vì có con bạn nhắn lên. Nó tên là Thu. Bạn từ ngày còn ở thanh niên xung phong chống Mỹ. Nghe nói nó mới có con. Nhưng lên tới nơi thì buồng nó khóa cửa. Hỏi người ta bảo Thu bế con về thăm bà ngoại, em mới lang thang tới đây.

− Thế cô là thanh niên xung phong?

− Vâng. Cả cái Thu nữa. Chúng em đi đợt năm 1966. Hết đợt một, năm 1969 cái Thu quay ra đi học. Em đăng luôn đợt nữa đến năm 1972.

− Thế cô khâu cái chăn ấy vào dịp nào. Nhưng thôi, để đến tối kể.

− Ðời cái Thu cũng khổ cực lắm, anh ạ. Nhưng nó hơn em là có con và được ở thành phố. Hơn bốn mươi tuổi mà có con được thì mừng lắm. Nhưng nó có con rồi lấy gì mà nuôi con. Cái cơ quan của nó suốt ngày “đoán gió dò mưa” nghèo như xơ mướp.

− Thôi được. Cô đi tắm đi. Tôi chạy ra chợ kiếm thức gì về thổi cơm.

− Em không có quần áo thay. Ði ăn xin em chỉ mặc thế này thôi. Về với cái Thu em thay bằng quần áo của nó.

− Gớm ghiếc lắm, bẩn thỉu lắm. Người đã may cho tôi cái chăn tôi đắp hai mươi năm nay, không được bẩn thỉu thế này. Vừa nói Biền vừa mở hòm lấy ra bộ quần áo của Mơ − Ðây là quần áo của vợ tôi ngày xưa, cô mang thay. Trong buồng tắm có xà phòng, có nước bồ kết. Cô tắm gội cho sạch, tôi đi một lúc tôi về.

Ðường từ nhà ra chợ, trong lòng Biền khấp khởi: biết đâu đây chẳng là số kiếp. Ra phố, Biền cố ý loăng quăng để cho Xuyến có nhiều thì giờ. Khi về, Xuyến đã mặc bộ đồ của Mơ đang đứng trước gương chải tóc. Trông Xuyến đã thay đổi hẳn. Xuyến nguyên là một cô gái đẹp. Nhưng nay thì đã quá tàn tạ. Nhìn thấy Biền về, Xuyến tỏ ra bẽn lẽn:
− Trông em có giống chị ấy ngày xưa chút nào không anh?

− Chỉ giống đều là đàn bà thôi. Vợ anh ngày xưa đậm người, còn em thì mỏng như tờ giấy.

− Em ngày xưa to khỏe lắm, anh ơi. Ngày xưa em năm mươi ba ki-lô, bây giờ em chỉ còn bốn mươi ba ki-lô thôi.

Cũng là một cử chỉ rất tự nhiên, khi hai người khác giới cô đơn sống bên nhau, lại có những hoàn cảnh rất thuận lợi. Biền đi lại phía Xuyến, quàng vai Xuyến cùng ghé vào gương − “Chúng mình cũng vừa đôi đấy chứ nhỉ.” Xuyến liền ngả đầu vào Biền, hai người dìu nhau lại giường. Xuyến trơ ra như một khúc gỗ mục.

− Em làm sao thế?

− Em chẳng làm sao cả.

− Như khúc gỗ mục thế này à?

− Em không biết. Có bao giờ em…

Chợt có sự thức tỉnh của đạo đức, Biền buông Xuyến ra. Xuyến vùng lên ôm ghì Biền xuống:
− Em van anh, em lạy anh, anh đừng khinh em, đừng bỏ em. Gần chót đời em chưa biết thế này là thế nào. Anh cho em được làm đàn bà với. Chả nhẽ chết đi em vẫn là… Cái Thu nó đã có con. Nó đã mãn nguyện. Em tội lỗi gì mà đời hắt hủi em.

Thực tình Biền cũng không phải là người tuyệt đối đứng đắn. Các cụ bảo rằng: “Rắn đến nhà chả đánh cũng quái…” Anh lại ôm Xuyến và lăn lộn xoay xở đủ vành. Nhưng Xuyến vẫn cứ trơ trơ.

− Khốn khổ, em không còn là đàn bà nữa rồi.

− Ai bảo anh thế, em còn tất cả.

− Ðúng, nhưng nó chỉ còn là cái xác thôi. Không có cái hồn nữa. Ngực của em đã teo hết. Chỉ rõ hai cái núm nhỏ như ngực đàn ông. Nó vô dụng.

− Thế là hôm nay em được đắp chung với anh cái chăn tự tay em khâu. Ðây là cả đời con gái của em… Biết đâu trời phật đang định trả công cho em. Ðời em vất vả lắm, anh ơi. Bố em chết trẻ. Khi bị truy bức, bố em tự sát. Mẹ em ở vậy nuôi em ăn học. Bà ngầm thu vén em nên người để trả nợ cho đời. Năm mười lăm tuổi em đang học lớp tám nhưng người em đã phổng phao đầy đặn. Giữa lúc phong trào đi thanh niên xung phong, phục vụ chiến trường nổi lên rầm rộ. Em xin đi, mẹ em buồn nhưng không ngăn cản. Ông cậu ruột em lúc ấy là chủ tịch xã, khai tăng cho em hai tuổi để em được đi. Lúc đầu ra đi chúng em đóng quân ngoài Quảng Bình, sau dần dần chuyển vào tuyến trong. Những năm đầu em rất khỏe. Ba năm liền không phải thuốc thang. Nhưng từ năm thứ ba trở đi thì em ốm quặt quẹo. Mái tóc rụng gần hết, kinh nguyệt thất thường. Thế rồi mất hẳn. Hồi ấy bọn nữ chúng em một trăm phần trăm mất kinh nguyệt. Nhưng tuổi thanh niên đang hăng hái chúng em cứ ào đi. Không thấy có kinh nó lại giúp mình đỡ phiền hà. Vì ở chiến trường đâu đâu cũng thiếu nước, thiếu điều kiện làm vệ sinh. Em đã mất tới gần một năm. Rồi một chị bác sĩ vào khám sức khỏe. Chúng em nói ra chuyện ấy, chị bác sĩ nghe nét mặt cứ tái xám. Vội vàng đề nghị với cấp trên cho chúng em lui ra Quảng Bình điều trị. Hồi ấy chúng em gồm mười bốn chị em. Vì chúng nó mới bị nên chỉ vài tháng là phục hồi. Riêng em vẫn cứ trơ trơ. Trạm xá chuyển em ra điều dưỡng dài hạn ở đồng bằng. Trạm điều dưỡng toàn là người què cụt, hay thần kinh. Riêng em chẳng sao cả, chỉ thấy người dần dần khô đi. Ðiều dưỡng gần một năm thấy em ngán quá. Suốt ngày chỉ chực hai bữa ăn, lại ngủ, lại đánh tú lơ khơ. Nhiều lần em đòi ra viện, nhưng chị trạm trưởng nhất định không nghe. Chị động viên: “Em cứ phải kiên tâm. Nhiệm vụ thanh niên xung phong là vô cùng cao quý, và đầy sự hy sinh. Người chết thì đã chết rồi, ai thành thương tật thì đã có sở Thương binh ghi thương tật. Còn em, em xin ra chị chẳng biết ghi cho em thế nào. Lương tâm chị là phải trả lại quyền làm đàn bà cho em.”

Ðể cho chúng em đỡ nhàn rỗi dễ sốt ruột, chán nản, chị trạm trưởng bày cho chúng em tập máy khâu. Nhưng rồi lấy đâu ra vải mà khâu, trong chiến tranh cái gì cũng khan hiếm. Chị trạm trưởng liên hệ với xưởng may cũng sơ tán gần trại. Người ta cũng chẳng có vải cung cấp cho chúng em khâu. Xưởng may này chuyên may quần áo bảo hộ lao động, họ cung cấp cho chúng em những mụn vải, hướng dẫn cho chúng em can thành những cái vỏ chăn, cái áo gối… bán cho người tiêu dùng. Chính là cái vỏ chăn này đây.

Em ở trạm điều dưỡng hai năm, bệnh tình cũng chẳng khỏi. Hòa bình năm 1973, trại điều dưỡng giải thể, em xin về với mẹ em. Vì lúc đó mẹ em đã già yếu, mà chỉ có một mình em.

o O o

Thế rồi em nhận được thư của cái Thu gửi về qua địa chỉ của mẹ em. Nó cho biết, nó đã ra trường từ lâu. Về công tác ở cơ quan “Ðoán gió dò mây.” Nhà riêng ở khu tập thể X. Nó mong nếu em còn sống thì phải tìm lên chơi với nó. Ðường từ quê em lên Hà Nội là 90 cây số. Con gái nông thôn như em nói tới lên Hà Nội có khác gì như tìm đường lên cung trăng. Sáu bảy năm trời em không dám thò mặt đi.

Thế rồi trận bão lụt năm 1988. Mấy bà trong xóm em rủ nhau lên Hà Nội ăn xin. Em đòi đi theo, lúc đầu thấy em lành lặn mọi người không cho đi. Em kiếm được cái bị rách và mấy bộ quần áo rách của mẹ em để lại. Hình như ngày em còn đi vắng mẹ em cũng đi ăn xin. Ðoàn chúng em đi có bốn bà già và con mẹ Soạn có con nhỏ vừa tám tháng. Con bé cũng kháu khỉnh. Mẹ Soạn thì mới vừa ba mươi hai tuổi. Người nhẹ nhõm chắc lẳn da dẻ hồng hào. Nó vào loại “gái một con… mẩy mày sây hạt.” Nhưng ra đi nó chuẩn bị rất chu đáo. Trong bị nó toàn đồ rách rưới. Nó mang theo cả nghệ, lá han, phẩm xanh, nhựa xương rồng…

Từ nhà lên Hà Nội chúng em đi tập thể. Ðến nơi trụ lại ở gầm cầu Long Biên. Trao đổi hội ý xong mỗi người đi mỗi hướng. Em chưa thuộc thung thổ Hà Nội thì đi theo mẹ Soạn, em đóng vai chị gái Soạn đi trông nom cháu ở bệnh viện. Cháu gái được mẹ Soạn hóa trang băng hai mảnh băng. Riêng mặt thì mẹ nó xoa mỏng một lớp nghệ. Vào nhà ai cũng thiểu não kể lể: Trận bão lụt vừa qua con nó bị tai nạn. Lên nằm bệnh viện nhi hơn tháng nay, giờ ra viện hết sạch tiền gạo chẳng thể về được. Bà con “lá lành đùm lá rách, xin sinh phúc…”

Thế là gần như một trăm phần trăm người ta cho. Có người cho vài trăm. Có người hào phóng cho cả ngàn đồng. Tối về lại tụ nhau ở gầm cầu. Em và mẹ con nhà Soạn chủ yếu hoạt động ở các khu vực bệnh viện. Hết Bạch Mai, rồi Việt Ðức, Thanh Nhàn… vẫn cứ cái giọng điệu như thế.

Lần mò mãi em cũng tìm đến được chỗ cái Thu ở. Ðấy là một khu tập thể ba tầng. Tầng dưới là các gia đình. Hai tầng trên là độc thân. Mỗi gian mười sáu mét, ở bốn người. Bốn cái giường một, bốn cái hòm gỗ, bốn cái bếp dầu. Những thứ nồi niêu, thùng gạo thì lèn dưới gậm giường. Ðến bữa thổi nấu thì tíu tít. Bốn cái bếp dầu đốt bốn góc, khói bốc lên mù mịt sặc sụa. Em đã mò được tới buồng cái Thu. Nó ở một mình dưới gầm cầu thang lên tầng ba. Hôm ấy em nép vào một chỗ theo dõi nó. Ðã xa cách nhau mười chín năm nhưng cái Thu là loại xinh gái, lại biết ăn diện nên nó cũng chẳng già đi bao nhiêu. Hôm ấy em không ra mặt mà lại quay về gầm cầu Long Biên.

Hoạt động ở Hà Nội hơn 10 ngày. Cuối cùng bà nào cũng được một bọc tiền. Các bà rủ nhau về làm mùa, em xin ở lại ít ngày. Riêng mẹ Soạn bọc tiền càng lớn thổ lộ với em: “Lần này về nó em sẽ mua thêm ít sắt thép đổ nốt cái mái bằng. Từ sang năm trở đi thì không còn lo lụt bão nữa.” Em đưa tiễn mọi người ra bến xe, mẹ Soạn đưa cho em ba mươi ngàn đồng, bảo đấy là công của em. Số tiền ấy em đi sắm một bộ áo cánh cũng tạm tạm. Mua ít quà bánh, thuê xích lô đi thẳng tới chỗ cái Thu.

Hôm ấy cái Thu đang hí húi thổi cơm, em luồn tay qua đằng sau bịt mắt nó lại. Nó không cựa mà cũng chẳng kéo tay em ra. Nó hỏi:
− Ai đấy nhỉ?

Em ghé sát vào tai nó:
− Mày có còn nhận ra ai không?

− Ối cha mẹ, mày có phải là con Xuyến không? Tiếng mày thì thầm vẫn y như hồi còn ở Trường Sơn!

Thu giật bung tay em ra, nó quay lại ôm chầm lấy em:
− Ối trời đất, con Xuyến nó còn sống thật. Hôm kia nó đã giả làm ăn mày đến đây mà. Con Hảo nó nói: có một đứa ăn xin đến đây hỏi thăm tao. Con Hảo tả hình dáng, tao đoán đúng là mày. Ðã đến đây thì thế nào mày cũng quay lại.

Hồi ấy em ở lại chơi với chị Thu ba ngày. Ở cái khu tập thể này còn tới mười sáu chị em luống tuổi chưa chồng. Cái ngành “Ðoán gió dò mưa” này cũng có những thời kỳ lãng mạn. Ðào tạo ở trường xong nhiều chị em xung phong lên Mèo Vạc, Lũng Cú, Sa Pa… rồi thì hải đảo xa xôi, hết tuổi thanh niên trở về già người ta mới cho về xuôi. Cái Thu cũng là người “tốt” số. Vì có đôi chút nhan sắc, được ông trưởng phòng tổ chức bao thầu cho về công tác ở Hà Nội. Tưởng là nên vợ nên chồng. Ai ngờ anh ta bị tai nạn giao thông, chết. Cái Thu héo hắt mấy mất năm.

Thời nào thì con gái có nhan sắc cũng hay gặp cuộc đời lận đận. Xong đận người yêu bị tai nạn giao thông, Thu vẫn còn được nhiều chàng trai dòm ngó. Nhưng các chàng trai đến nhà chơi cứ thấy bốn cô gái độc thân nằm bốn góc nhà, anh chàng nào cũng ngán ngẩm bỏ đi. Cho đến năm ba chín tuổi, tuổi càng cao, má đào phai nhạt dần. Thấy nguy to Thu mới giở quẻ phá bĩnh, gây mâu thuẫn với mấy cô cùng buồng. Cày cục mãi ban quản lý cơ quan mới xếp Thu ở dưới chân cầu thang. Ở một mình Thu lại trở nên đắt khách.

Có một anh kỹ sư trạm trưởng trạm điện, tên là Sới tìm đến. Người anh ta thấp lùn cục mịch nhưng chân thực, thiết tha yêu Thu. Hai người đã cam kết. Sới đưa bạn đến, ra mắt người yêu. Anh này tên là Thắng. Thắng hào hoa phong nhã, đẹp trai, tiêu tiền như rác. Không ngờ Thắng bập ngay được Thu. Ðạp thẳng Sới ra ngoài. Hai người đã sắm sửa quần áo chuẩn bị làm lễ cưới, thì công an đến xích tay Thắng lôi đi. Một tên tù trọng án vượt ngục lẩn trốn mấy năm nay. Truyện ấy xảy ra Thu bị chị em chê bai hắt hủi cho là Thu “thả mồi bắt bóng”, đáng đời.

Nhưng rồi mới đây em lại nhận được thư của Thu báo Thu đã có con. Nhận được thư nó em khóc rưng rức. Ðời cái Thu thế là toại nguyện, còn đời em thì sao đây. Em chuẩn bị vội vàng lên với nó. Nghĩ là dịp may hiếm có này vì nhờ có trẻ con, em sẽ bắt chước mẹ Soạn, bế nó đi ăn xin. Thế nào cũng kiếm cho cái Thu một khoản vốn. Ai ngờ lên đến nơi thì cái Thu lại vừa bế con về thăm mẹ mất rồi. Em mới lang thang ra đây lại gặp ngay cái vỏ chăn của anh phơi.

Lần ấy, Thu cũng hỏi em về hạnh phúc gia đình. Em kể hết đầu đuôi, nó bĩu môi chê em là phong kiến, là cù lần. Em kể về bệnh tật, nó bảo như thế là chả có bệnh gì. Nó bảo cơ thể mình cũng giống như cỗ máy để rỉ lâu ngày, bây giờ phải tìm cách lau dần mà “khởi động” lại. Em hỏi thế khởi động bằng cách nào? Nó phá lên cười ngặt nghẽo. Nó hỏi lại em: Thế mày có biết ôtô người ta khởi động bằng gì không? Em trả lời là khởi động bằng bình ắc quy. Thế chẳng nhẽ lại đem bình ắc quy mà cắm vào người mình.

Nó ấn ngón tay vào trán em mà dằn dỗi:
− Sao mày ngu thế? Gần bốn chục tuổi đầu rồi mà còn ngu lâu. Mày là phải khởi động bằng những thằng đàn ông. Những thằng đàn ông hám gái: cổ to, ngực nở, lưng gù…

− Nhưng tao làm sao mà có được đàn ông?

− Chuyện đó là ở mày.

− Nhưng nào em có được như các chị. Ðôi lúc em cũng dùng đôi mắt để lườm liếc. Nhưng ánh mắt của em nó vô hồn. Muốn dùng nụ cười để quyến rũ. Những nụ cười của em nó méo mó gượng gạo. Muốn dùng lời nói ý nhị, thì câu nói của em cái giọng ồm ồm, sống sượng, vô duyên. Thế mà tại sao anh lại bỗng nhiên…

− Có thể vì em mặc bộ của vợ anh. Lúc đó anh tưởng là vợ anh hiện hình.

Biền cùng nằm với Xuyến, đắp chung cái chăn do Xuyến khâu. Mà cũng chẳng thấy có tác dụng gì. Cái chăn cũng là thứ vô sinh, đối với Xuyến. Nam nữ cùng nằm chung mà Biền thấy hoàn toàn nguội lạnh, y hệt như nằm với người bạn trai. Nhưng tình thương cảm của Biền đối với Xuyến lại càng dâng cao. Thấy mình phải có trách nhiệm đối với Xuyến. Phải thực sự đóng vai trò như một “Bình ắc quy”, hay như một thầy thuốc.

Thế rồi hai người sống với nhau tới bảy tám ngày, Biền đã sử dụng hết khả năng nhưng vẫn không giúp gì Xuyến được.

“Thôi đành vậy em ạ. Chúng ta chẳng được làm vợ làm chồng thì làm người thân trong nhà, như các cụ ta nói: ‘Chuyến đò nên nghĩa, buổi chợ nên quen’. Cuộc sống của anh cũng là cuộc sống cô đơn. Từ nay em sẽ về với anh như tình ruột thịt.”

Xuyến khóc và hứa với Biền: “Xuyến sẽ đưa cái Thu đến, để cùng nhận anh, nhận em với Biền.”

Cái Lợi về nhà nghỉ hè với bố. Nó cảm thấy có điều gì khác lạ trong nhà này. Thứ nhất nó thấy bố nó thay đổi tươi tỉnh, vui vẻ hơn. Nhà cửa gọn gàng ngăn nắp hơn. Nó thấy chiếc máy khâu của nó có ai sử dụng. Nó phát hiện ra cái vỏ chăn can hàng trăm miếng vụn đã có ai khâu lại từng đường chỉ đã mủn nát, gói gém cẩn thận, xếp gọn gàng trong ngăn tủ. Lợi gợi hỏi thì bố nó sẵn sàng kể lại hết. Lợi vội vàng bỏ thời gian đi tìm hiểu kỹ chuyện này. Thế rồi Lợi đề nghị với bố: cho mời cả dì Xuyến, dì Thu đến chơi. Lợi tổ chức bữa liên hoan.

Trong bữa ăn Lợi đem chiếc vỏ chăn tiết kiệm ra, nghiêm chỉnh nói: “Mọi chuyện con đã biết hết cả rồi. Cảm ơn dì Xuyến đã khâu nên cái vỏ chăn này. Nó đã đắp cho bố mẹ con. Cả khi con còn là hạt máu trong lòng mẹ con. Con xin suốt đời giữ gìn cái vỏ chăn này. Con nhận dì Xuyến là mẹ kế của con.”

Vừa nói, mắt cái Lợi vừa cháy bỏng lên, vì niềm hạnh phúc bất ngờ đem đến cho bố nó. Nhưng Biền thì não lòng. Biền không thể nói mọi điều sâu kín với con gái, vì nó còn ngây thơ quá. Nó chưa đến tuổi để nói hết những chuyện của đàn ông, đàn bà. Nó đang hồn nhiên dồn bố nó vào một bi kịch. Nhưng Xuyến đã đánh ánh mắt sang cho Thu, gỡ bí cho Biền. Nét mặt Thu cứ dần dần đỏ tấy lên.

Biền đứng lên nhận những lời tốt lành của con gái.

Hà Nội, tháng 3 năm 1992

Ánh trăng – Nguyễn Bản (1931- )

Hai lần tôi ly hôn và giờ đây vẫn độc thân. Tại tôi tất cả hay phần nào tại chị?

Chị hơn tôi năm tuổi, họ ngoại xa với tôi, theo luật hôn nhân bây giờ có thể lấy nhau.

Chị đẹp lắm, vì vậy lắm lời đồn đại những chuyện trăng hoa. Bố mẹ mất sớm, mười bốn tuổi chị đã xuống Hải Phòng làm thuê cho một hiệu tạp hóa, người cùng làng.

Mùa hè năm 1944, Hải Phòng khó sống, chị về làng ở với dì ruột. Thỉnh thoảng chị đến nhà tôi chơi. Tôi mới ở tuổi thiếu niên mà đã ngẩn ngơ trước sắc đẹp của chị. Chị thường mặc áo lụa mầu mỡ gà, ít khi vấn tóc, mớ tóc đen mượt chảy dài như suối qua đôi vai tròn và đầy đặn xuống sau lưng chị. Mỗi khi nói, chị thường hơi líu ríu, líu ríu nhưng giọng lại rung lên trong ấm lạ thường. Khi chị cười, mà chị thường luôn cười, tất cả mặt chị đều cười, miệng cười, mắt cười, đôi mắt đen cong lên, tóc và vai cũng cười theo. Da chị nõn nà, da và lụa như lẫn vào nhau, những đường cong lằn lên trên quần áo như đang chuyển động. Tạo hóa như không hề có chút khiếm khuyết nhỏ nào trên khuôn mặt và cơ thể chị.

Một hôm, chị bảo nóng quá, tối xuống ngủ ở nhà tôi. Cha tôi không ưa chị, không nói gì. Nhưng mẹ tôi vốn dễ dãi, bảo nhà rộng mát, chỉ có ba người, một dãy phản bỏ không, cả chục người đến ngủ còn rộng.

Tối chị đến, hình như vừa tắm gội xong. Tóc chị xõa ra để hong khô, thoang thoảng mùi hương sả và từ da chị vẫn còn tỏa ra thứ xà phòng thơm ngậy như mùi phấn rôm.

Bố mẹ tôi buôn bán, cũng có của, một mình tôi một chiếc màn tuyn trên phản gỗ lát gần ba chiếu, ở nhà trên năm gian hướng đông. Bố mẹ tôi ngủ ở nhà khách hướng nam. Chị mặc bộ đồ lót lụa, chẳng để ý gì đến tôi, coi tôi như trẻ con, mặc dầu tôi đã mười ba và đã đậu xéc-ti-phi-ca[1].

Ðã thế chị còn trò chuyện với tôi như không, mãi rồi mới ngủ, còn tôi thì bồn chồn xao xuyến trong lòng. Nhà hướng đông, nằm sát bậc cửa, ánh trăng tràn qua màn tuyn tưới lên mái tóc và cơ thể chị. Chị nằm nghiêng, quay về phía tôi, khuôn mặt tuyệt đẹp hơi ngửa lên như hứng trăng, hai tay vươn ra như đang đón ai, đùi nọ ấp hờ đùi kia, hơi thở nhẹ nhàng. Từ người chị tỏa ra mùi phấn rôm và ánh trăng cũng như tràn ra từ đấy. Tôi xao xuyến không hiểu từ làn da mịn màng của chị, hay do ánh trăng, hay do mùi phấn, hay tất cả đã hòa quyện cùng nhau, thậm chí tôi không còn phân biệt đâu là mầu lụa, đâu là ánh trăng, đâu là da thịt chị. Tôi như không còn biết mình là ai nữa, đắm đuối, mải mê, hồi hộp nhìn chị, đôi lúc nhìn lại thân thể da thịt mình buồn nản thấy mình vô nghĩa.

Mãi tôi mới chợp mắt được, nhưng rồi cứ chập chờn, thỉnh thoảng lại mở to mắt xem chị có thực không, còn ở bên tôi không hay đã biến mất. Tôi chợt ngủ, chợt thức, một lần bỗng rùng mình nhận ra đùi chị mịn như nhung, lúc ấm, lúc mát, gác lên đùi tôi. Tôi để yên không dám cựa quậy, sợ chị rút chân về. Lúc này trăng đã ra khỏi nhà. Tất cả chỉ còn nhờ nhờ, càng làm tăng cảm giác về làn da chị. Tôi không rõ mình ngủ thiếp đi lúc nào, nhưng chắc chắn, khi tôi bắt đầu thiếp đi, đùi chị vẫn còn trên đùi tôi.

Sáng ra khi tôi choàng tỉnh, chị không còn bên nữa. Tôi vùng ngay dậy tìm chị, xem tất cả mọi chuyện đêm qua là thực hay hư. Chị đã rửa mặt và đang chải tóc. Chị cười bảo tôi:
Ðêm qua chị ngủ ngon quá! Mà sao em hay nói mê thế?

– Thế à? Em nói mê những gì?

– Ú ớ, ú ớ… nhưng hình như có lần gọi chị.

– Chị có thưa không?

– Em đang ngủ biết gì mà thưa?

Không thấy chị đến ngủ nữa, tôi hỏi chị, chị bảo, hôm nào thật nóng và có trăng mới đến. Rồi tôi nghe phong thanh người ta làm mối cho chị một người làm khăn mũ. Sau đó là đám cưới của chị.

Cũng may lúc chị cưới tôi đã ra học ngoài Hà Nội, nếu không tôi sẽ buồn. Từ đấy gặp bất cứ người đàn bà đẹp nào tôi thường cũng đem so, nhưng chẳng ai có thể so với chị.

Hè năm sau, tôi nghe chị đã có con, nhưng được mấy ngày con chết và khoảng sau Cách mạng Tháng Tám, chị bỏ chồng, xuống buôn bán ở tỉnh Nam.

Mỗi năm tôi càng bước nhanh sang tuổi thanh niên, cùng với những biến đổi của giới tính, tôi càng hay nghĩ đến chị, đến cái đêm trăng chị ngủ cạnh tôi. Tôi đã học cùng bao nhiêu bạn gái, cùng lớp, dưới lớp, hầu hết con ông nọ, bà kia, chẳng ai có thể so với chị, trừ một cô con một ông phán, học dưới tôi hai lớp, khá đẹp, tôi đem lòng si mê ít lâu, nhưng tất cả mọi nét riêng, nét chung đều không thể nào mượt mà, hoàn chỉnh như chị, kể cả nước da cô có phần trắng hơn, hồng hơn, nhưng không thể lẫn vào lụa và trăng như da chị.

Ðôi lúc tôi lẩn thẩn tự hỏi, nếu như bây giờ chị lại nằm cạnh tôi, hắt trăng ra như thế, tôi sẽ làm gì, tôi có dừng lại mặc cho đùi chị gác lên đùi tôi để tận hưởng làn da vừa ấm vừa mát hay không? Tôi, một học sinh chuyên khoa đã mười tám, mười chín, tương đối đẹp trai? Tôi có còn cảm thấy mình vô nghĩa nữa không?

Mãi tới năm 1952, một lần đi công tác, tôi mới lại gặp chị. Gặp chị giữa đỉnh đèo Khế. Tôi từ phía Sơn Dương về. Chị từ phía Cao Vân sang. Chị mặc áo phin nâu, gánh đôi tay nải.

Chị nhìn thấy tôi trước:
Cậu Hoàng!

Tôi cũng nhận ra chị ngay, mấy ai có dáng người đẹp như thế.

– Chị Vân!

Chị bỡ ngỡ nhìn tôi:
Cậu lớn quá rồi, lại xinh trai nữa.

Không còn gì bằng được khen như thế, từ nay với chị, tôi không còn là trẻ con nữa. Như một chàng trai thực thụ, tôi rủ chị tới ngồi nghỉ dưới một bóng cây bên vách núi rìa đường.

– Cậu vẫn đi học đấy chứ?

– Em thôi rồi, em đi công tác.

Tôi khoe luôn đã đi công tác cho oai, cho chị biết tôi đã là người lớn. Ai ngờ chị lại hỏi tôi:
Cậu đã học hết lớp sáu rồi đấy nhỉ?

Thế đấy, tôi nóng cả mặt, tôi đã học xong tú tài, đã công tác ở một ban huấn học một cơ quan trung ương; chị vừa khen tôi xinh trai, lại hỏi tôi như thế, tất nhiên chị chẳng hiểu nghĩa lớp sáu thế nào, nhưng dù sao chị vẫn có phần coi tôi bé nhỏ, trong khi tôi vẫn hằng xao xuyến mỗi đêm có trăng lọt vào giường tôi, mà lại gặp nhau tình cờ giữa nơi thơ mộng ở rừng núi này. Tôi hơi giận, không trả lời chị. Ðã thế chị còn cho biết chị đã lại lấy chồng, hai vợ chồng hiện ở Ðồng Bẩm, Thái Nguyên.

– Anh ấy làm gì? – Tôi hỏi sỗ sàng.

– Anh ấy cắt tóc.

Tôi hết giận, bỗng thấy thương chị, sao tạo hóa trớ trêu, một tạo phẩm tuyệt mỹ như thế, cứ đặt vào những tình cảnh éo le. Tôi nhìn chị, chị lại còn đẹp hơn xưa, vẻ đẹp hoàn chỉnh của người đàn bà đã phát triển đầy đủ. Chiếc áo phin nâu càng làm tôn lên phần gáy trắng xanh thon thả, mắt chị càng như đen hơn.

Tôi buột miệng:
Chị đẹp thế, sao không kiếm một người xứng đáng, thiếu gì người!

Chị thở dài:
Các cụ bảo hồng nhan đa truân.

Tôi lại càng thương cảm chị hơn. Sao tôi không phải là người khác họ, không lớn tuổi hơn, hoặc ít ra bằng chị? Tôi đang nghĩ vẩn vơ thì một chiếc hen-cát[2] từ phía Cao Vân bay xoẹt qua đầu. Chị hoảng hốt ôm chầm và dúi đầu vào ngực tôi. Một chiếc nữa xoẹt qua. Tôi vòng tay ôm lấy chị như để che chở, thầm mong những giây phút này kéo dài. Nhưng chúng không quay lại. Chị gỡ tôi ra, búi lại tóc, chỉ nghĩ đến máy bay, không hề hay biết mấy phút vừa qua, một bên vú chị đã ép chặt ấm nóng trên ngực tôi.

– Thôi, chị em mình đi đi, chị thấy bảo nó bắn mấy người chết ở đèo này rồi đấy.

Chợt nhớ ra điều gì, chị hỏi tôi:
Ở chỗ cậu có bị sốt rét không?

– Có, nhưng em chưa bị.

Chị mở tay nải, bên trong là thuốc tây, dầu con hổ, xà phòng thơm, v.v… lấy ra một tuýp pa-u-đrin 100 viên đưa cho tôi:
Cậu cầm lấy uống phòng, không bị vàng da như ký ninh vàng đâu.

Tôi miễn cưỡng cầm, và khi chị đi khỏi, tôi cáu kỉnh vứt tung xuống vực. Tôi cần gì cái thứ ký ninh đắng này!

Hòa bình lập lại, tôi lại gặp chị ở Hà Nội. Chị đã lấy một người chồng khác, làm nghề thợ may ngồi chợ. Chị ở sâu mãi tít trong một ngôi nhà ở ngõ Hàng Cháo, phòng chị ở rộng chừng 15 mét vuông, vốn là công trình phụ.

Thỉnh thoảng tôi vẫn đến chơi với chị. Mỗi lần đến với chị về, gần như tôi lại thay đổi người yêu. Có lần suýt nữa tôi đã ngủ với một cô. Một cặp đùi và hông màu nâu hồng tuyệt đẹp, nhưng ngực hẹp và đôi vú nhỏ rất không cân xứng. Tôi lại nhớ đến dáng chị nằm như bơi trong trăng. Thế là tôi không ham muốn nữa.

– Anh thử em đấy thôi!

Và tôi kéo quần áo lại cho cô. Rồi tôi thôi không đến với cô.

Ba mươi tuổi tôi vẫn chưa lấy vợ.

Chị giục tôi:
Cậu cứ kén mãi, già mất thôi!

Rồi chị kéo tôi ra tủ gương, đứng sát vào người tôi:
Thấy chưa, cậu già hơn chị mất rồi!

Chị cứ đứng sát vào tôi như thế, nhìn gương, nhìn tôi, mớ tóc đen dày chảy như suối trên vai chị, đôi mắt đen như nhung cong lên, như thách đố. Và mùi phấn rôm. Tại sao vẫn cứ mùi phấn rôm? Mùi phấn rôm làm tôi nhớ tới ánh trăng. Tôi nhắm mắt lại.

– Kìa, cậu làm sao thế?

– Em hơi chóng mặt.

– Thế à, chị lấy dầu cho.

Chị thoa lên thái dương tôi. Dầu làm nóng bừng hai bên thái dương, nhức nhối.

– Thôi, em về đây.

– Ðừng, nhỡ sao dọc đường thì chết!

– Không sao, em ra đường thoáng hơn.

Tôi lấy vợ rồi tôi bỏ vợ. Chị hỏi tôi:
Tại sao cậu bỏ mợ ấy?

– Có nói chị cũng không hiểu được.

Chị cười, dí vào trán tôi:
Chắc lại phải lòng cô nào chứ gì? Ðẹp trai lại học cao như cậu là hay tệ lắm!

– Vâng, nhưng lại phải lòng người có chồng rồi.

– Dớ dẩn, thiếu gì người, phải đâm vào chỗ nạ dòng, để chị tìm cho, chị mà ưng, cậu cũng phải ưng.

Chị tìm cho tôi thật, ba bốn cô, nhưng làm sao chị biết được người tôi muốn lấy phải như thế nào?

Rút cục tôi vẫn lấy, rồi tôi lại bỏ, do không bao giờ tìm thấy cảm giác về làn da vừa ấm vừa mát khi xưa.

Chị cám cảnh cho tôi và chị:
Xem ra đường nhân duyên chị em mình đều vất vả như nhau.

– Vâng, nhầm cửa lung tung cả.

Nói rồi, tôi nhìn chị xem chị hiểu thế nào. Hình như chị lại hiểu khác, chị bảo:
Như cậu ngày xưa phải lấy được con quan.

– Còn chị, đáng ra chị phải là vợ một ông bộ trưởng.

Chị cười, mắng yêu tôi:
Chị nói thật tình, còn cậu lại trêu chị.

– Em không trêu đâu, chị còn đẹp hơn bà Máccốt[3] đấy.

Lời tôi nói thiêng một nửa. Chị trở thành cấp dưỡng cho một ông bộ trưởng. Chuyện đó xảy ra khoảng thời gian đầu sơ tán chống Mỹ.

Tôi đến nhà chị, tức tối:
Làm gì chẳng làm, sao lại nhận cái việc ấy?

– Thế cậu bảo chị làm gì? Văn hóa chẳng có, chữ nghĩa dăm ba câu, trước còn chạy chợ nhì nhằng, bây giờ sơ tán, làm gì?

– Tự chị đi xin à?

– Chán cậu! Chị biết đằng nào mà lần, mà tự dưng ai dám đến những chỗ ấy, một bà ở thực phẩm thấy chị cẩn thận, sạch sẽ, giới thiệu cho đấy chứ.

– Thế bà ta đâu, bà bộ trưởng ấy? Thường thường các ông ấy luôn dành tiêu chuẩn cấp dưỡng cho vợ mình kia mà!

– Bà ấy đi sơ tán với các con, thế mới đến lượt mình.

– Ra chỉ mình họ cần tránh bom đạn thôi ư?… Rồi yên, bà ấy về thì sao?

– Lúc ấy hãy hay, cứ biết làm là làm đã.

Chợt nghĩ đến việc vợ con ông ta đi sơ tán cả, đầu óc tôi tối sầm. Tôi mười ba tuổi còn ngẩn ngơ trước sắc đẹp của chị. Chả lẽ tôi là một ngoại lệ? Chả lẽ ông ta, một ngoại lệ nghịch đối?

– Chỉ mỗi mình ông ta ở nhà thôi à?

– Có bảo vệ nữa chứ.

Chị nói vậy, tôi nhẹ nhõm đi một chút, nhưng rồi vẫn băn khoăn:
Chị ăn uống luôn ở đấy chứ?

– Chị về ăn ở nhà, mình làm gì có tiêu chuẩn ăn ở đấy… Mà sao cậu cứ cật vấn mãi chị thế?

Ðiều tôi vẫn kìm giữ, chợt nổ tung ra:
Là bởi vì em không thích chị làm cấp dưỡng cho ông ta, thế thôi.

Rồi tôi lảm nhảm:
Nếu em có quyền, em sẽ cấm chị, nếu em hơn tuổi chị… nếu em…

– Chị biết rồi… – Chị nói bằng một giọng như người có lỗi. – Nhưng ông ta tốt lắm…

– Tôi thì kém gì họ, thậm chí học vấn còn hơn họ, tâm hồn tư cách, chắc ai hơn ai.

Tôi vừa nói vừa vùng vằng bỏ về.

Bẵng đi mấy tháng tôi không đến chị, nhưng tôi đâu có được thư thái. Tôi nghĩ ngợi lung tung. Nghĩ tới các ngoại lệ. Tôi suy diễn đủ chuyện. Rút cuộc tôi vẫn phải mò đến chị. Chị hơi đẫy ra, trắng hơn, càng đẹp, nhưng hơi buồn. Chưa bao giờ tôi trông thấy chị buồn. Với tôi, mắt chị bao giờ cũng cười, lần này mắt chị không cười.

Chị buồn buồn hỏi tôi:
Sao lâu cậu không đến chơi?

– Ðộ này em bận.

– Bận hay giận chị?

Chị nghĩ tôi giận nên buồn ư? Tôi chả còn mong gì hơn thế nữa. Tôi cố tỏ ra không phải tôi giận chị. Nhưng chị vẫn ít khi cười nữa. Khi cười, khi ưu tư. Về phía tôi, tôi cũng đâm ưu tư về nỗi ưu tư của chị.

Khoảng một năm sau, tôi thấy chị đeo cái vòng ngọc cẩm thạch. Cánh tay chị như cánh tay vũ nữ, chiếc vòng ngọc càng làm cho nõn nà hơn.

Tôi lạnh lùng hỏi chị:
Chị mới mua à?

Chị không trả lời câu hỏi mà lại giơ cánh tay lên hỏi tôi:
Cậu bảo có đẹp không?

Tôi bực mình:
Ðẹp là ở cánh tay chị ấy, đâu phải cái vòng, nó vướng thêm thì có.

Từ đó tôi ít đến chơi.

Mấy năm sau nữa, lúc Bắc Nam đã thống nhất, chị khoe chị được thưởng phiếu nghỉ ở Sầm Sơn và hỏi tôi đã lần nào đi Sầm Sơn chưa.

Tôi trả lời bằng một giọng hờn dỗi, pha chút mỉa mai:
Ði Sầm Sơn là phải có đôi, tôi có đôi đâu mà đi!

Sau đó mấy hôm, một buổi sáng, tôi đang đạp xe trên đường Phan Ðình Phùng, một chiếc vôn-ga đen lướt nhẹ qua tôi. Tôi vô tình nhìn vào trong xe. Nhưng xe lướt nhanh quá, tôi chỉ thoáng thấy người đàn bà ngồi ở ghế sau, tay đeo vòng ngọc tỳ lên cửa kính, cánh tay nõn nà như tay vũ nữ. Ngồi cạnh tài xế, ghế trước là một người hói trán, không rõ mặt, chỉ rõ chiếc kính râm và cái gáy u lên những mỡ.

Từ đấy tôi chỉ còn gặp chị trong ánh trăng. Mỗi khi trăng tràn vào trong màn, tôi lại tưởng như chị nằm nghiêng, quay về phía tôi, đùi khép hờ, hai cánh tay vươn ra đón tôi. Tôi nghe thấy như chị bảo:
Cậu trẻ con quá!

– Ðến bao giờ chị mới thôi coi em là trẻ con?

– Thì đã có lần nào cậu là người lớn đâu!

Tôi có yêu chị không? Chưa bao giờ tôi hỏi mình như vậy. Và có hỏi cũng khó trả lời. Tôi có yêu chị không hay tôi chỉ muốn tìm yêu một người như chị? Nhưng nếu tôi đã khẳng định không ai có thể so với chị, phu nhân tổng thống cũng không bằng, bao giờ tôi mới tìm được một người như thế?

Tuy nhiên, tôi vẫn đi tìm trong ánh trăng, ánh trăng từ chị hắt ra đêm hôm ấy, cái đêm tôi còn làm một thiếu niên trong trắng, ngây thơ, ánh trăng và mùi phấn rôm làm tôi xao xuyến, chơi vơi mãi trong đời.

Và chị có cho là tôi yêu chị không?

Ðêm 27-9-1991 – Trăng lên

– – – – – – – – –
[1] Chứng chỉ hết cấp tiểu học. (BT)
[2] Hen-cát: máy bay chiến đấu Hellcat của Hải quân Mỹ. (BT)
[3] Phu nhân Tổng thống Marcos của Philippines. (BT)

Vũ điệu của cái bô – Nguyễn Quang Thân (1936-2017)

Thế là không hy vọng gì nữa rồi. Nhà máy đóng giày phá sản. Cả năm nay Hảo sẽ không có việc làm. Ðề tài số tiền trợ cấp ban đầu và bản quyền bán cho nhà máy tan thành mây khói. Khách hàng đã tẩy chay thứ giày bong mũi của nhà máy trước khi loại keo dán tuyệt vời của Hảo qua được bát quái trận thủ tục.

Vậy mà cũng phải ăn, phải gửi tiền cho con gái lên Hà Nội học thêm, phải nuôi cái xe đạp cà tàng, hễ mó đến là ăn vạ tiền nghìn. Rồi chén cà-phê đen buổi sáng, quên nó một bữa là Hảo thấy mình đang mọc đuôi ra.

Thế nào cũng phải làm một cái gì! Nhưng ngoài cái chuyên môn được ghi trong mảnh bằng phó tiến sĩ, Hảo không biết làm gì khác. Cũng không thể như Tứ, họa sĩ ở tầng dưới. Tứ thường không biết ngày mai mình ăn gì, ăn ở đâu. Tứ nói: “Ðói là con hổ, đừng nhìn nó, nhìn là nó vồ ngay.”

Nhưng Tứ đã bước vào phòng đúng lúc Hảo đang nghĩ đến anh, nhem nhuốc như cái xơ mướp nhúng vào thùng bột mầu.

– Này cậu, có việc này hợp với cậu lắm. Nhưng pha cà-phê uống cái đã.

Hảo lóng ngóng múc cà-phê vào phin. Hay là Tứ rủ mình làm bạc giả? Trông mặt y như đang thu vén quần áo để vào Hỏa Lò.

– Việc gì thế?

– Giữ trẻ! Tháng một trăm, có ăn trưa. Ðược chưa?

Tốt quá – Hảo nghi ngờ, chùm rẻ quạt tóe từ mắt xuống đôi gò má. – Món thơm thế đâu đến phần mình. Với lại còn cơ quan…

– Thì đã bảo người ta cần mà! Chăn một thằng bé ba tuổi, nói tập tọe. Vừa chăn vừa dạy tiếng Anh để lớn lên biết đọc tên cái công ty trong phố và phân biệt được nhà vệ sinh nam nữ ở sân bay. Việc cơ quan thì để tớ gà cho. Ðăng ký một đề tài thật kêu, đại khái thế này: “Ném một cái nhìn vào quy trình chế tạo keo dán mũi giày ở địa phương ta”, nhớ là phải có chữ “ta”, không cần xin trợ cấp, xin hai năm ngồi nhà nghiên cứu, được chưa?

Không bị Tứ rủ đi làm bạc giả là phúc rồi. Hảo đăng ký đề tài, anh có chữa lại vài chữ của Tứ. Ném một cái nhìn, không được. Cuối cùng: Tiếp cận hyperbole tính duy vật biện chứng… song ngữ: Faire une hyperbola… (tiếng Pháp) và To take a hyperbole… cộng thêm hai trang đề cương (cũng song ngữ). Ðược rồi, rất có lý! Hảo qua mặt được chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật tỉnh vốn trước là giáo viên cấp III. Trong bản dịch đề cương tiếng Anh có mấy tiếng khó dịch, Hảo bịa ra, nhưng chắc là ông không biết. Ông thường bắt cán bộ làm thuyết minh song ngữ nhưng bản thân ông không phân biệt được tiếng Pháp với tiếng Anh, trừ tiếng Nga nhờ những chữ N ngược kỳ lạ của nó.

Ông nói: “Cậu khá lắm, tính tư tưởng, tính địa phương, đề tài của cậu ưng cái bụng mình lắm rồi. Nhưng có xin trợ cấp không đấy? Không hả. Tốt, nhớ khao nhé!” Ông ký một cái rẹt, chữ ký như con bọ cạp đang bò.

Thế là Hảo có hai năm rỗi rãi. Sẽ khao, sẽ khao. Ông chủ nhiệm và cả Tứ nữa, những nhà Mạnh Thường quân của khoa học.

o O o

Một chú chó Nhật sủa lách nhách rồi te tái luồn dưới chân hai người. “Ồ, Mi-mô-sa, ngoan nào… Xin mời hai bác…” Chị chủ nhặt vội con chó lên, nghi ngại nhìn cái ống quần lem nhem của anh họa sĩ dắt mối.

Tứ xăng xái:
Tôi dẫn anh Hảo đến như đã hứa với chị. Bây giờ tôi phải đi treo cờ mồng một tháng năm. Xin hai vị cứ tự nhiên.

Hảo nhìn chị chủ nhà. Chị đẹp, sang trọng và thừa thãi. Áo quần, mỡ phần, không gian và thời gian.

– Chắc anh Tứ đã nói với anh. Cháu cần một người có học trông nom, bố cháu nói ở Nhật người giữ trẻ đều phải qua đại học. Tôi giao cháu cho anh ban ngày, anh ở lại ăn trưa, ngủ với nó hai giờ mỗi ngày, nhất thiết phải cho nó ngủ hai giờ như ở nhà trẻ. Và dạy tiếng Anh cho cháu. Tôi định mướn một cô giữ trẻ. Nhưng chồng tôi lại muốn có một người đàn ông, anh ấy nói cháu phải có nam tính mạnh mẽ để đua ganh với đời.

Mọi việc đã xong xuôi.

Chị nói: “Ban đầu hẵng biết thế. Còn sau này…”

Rồi chị nhìn xoáy vào mắt anh (anh khẽ rùng mình). Khuôn mặt lặng lẽ, buồn chán và sung mãn của chị bỗng bừng sáng. Có lẽ chị cũng có học, không phải loại mướn vua về múa như anh nghĩ.

Anh hỏi: “Cháu đâu?”

Rõ ràng là chị đã quên mất thằng bé. Chị ừ hữ: “Tôi cho cháu về bên ngoại. Anh cứ gọi nó là thằng Cu. Chúng tôi vẫn gọi cháu thế cho dễ nuôi. Mai xin mời anh đến.”

Sáng hôm sau chị chủ nhà và thằng Cu đón anh ở cửa. Con Mi-mô-sa đứng cạnh. Nó có vẻ ngạc nhiên khi thấy anh dám dắt một chiếc xe đạp như thế vào cái sân rải sỏi. Chị thì nuột nà trong bộ mút-sơ-lin mầu thiên lý, thoa sơ sài một lớp phấn mỏng lên mặt.

Chị đẩy thằng Cu lại cho anh: “Nào, Cu chào bác đi, chào thầy đi!”

Cố gắng như một cái máy không nhạy, nó nói: “Cháu chào cô ạ!”

Chị chữa: “Chả là tôi đã cho cháu vào nhà mẫu giáo mấy ngày. Con nói lại đi, chào chú ạ!”

Chị dẫn anh và nó sang một phòng nhỏ cạnh phòng khách. Một cái bàn học cho trẻ. Chiếc đi-văng gỗ mà anh sẽ ngả lưng buổi trưa. Cốc và những chai nước lọc.

Chị nói: “Nghe anh Tứ bảo anh nói tiếng Anh như người Anh phải không? Hôm nào về mà hai bố con bi bô được với nhau là anh ấy mừng lắm. Anh ấy nói tiếng Anh như gió.”

Hảo định cải chính: “Tôi nói tiếng Anh như người Việt,” nhưng thằng Cu đòi ị. Nó nhăn mặt, duỗi ra và lấy tay bưng đít.

Chị chủ nhà nói: “Bác để tôi – chị nhăn mũi – “Quên đưa vào đây một cái bô, bà Mùi ơi!” Người nấu bếp chưa vào, chị đã bế thằng Cu ra ngoài.

Lát sau chị vào, tay thằng bé, tay cái bô. “Dọc hành lang một đoạn là toa-lét. Anh cứ đổ vào đó rồi giật nước là được.” Chị đặt cái bô vào góc nhà như người nhạc trưởng cất gậy lên giá.

Ðiệu vũ chấm dứt. Hảo nhìn cái biểu tượng nhà nghề trắng muốt, chỉ mong chị chủ nhà đi khuất. Năm năm trước đêm nào anh cũng nằm mơ thấy mình xúng xính trong bộ quần áo tiến sĩ cổ truyền.

Chị đưa anh hai chiếc chìa khóa: “Ðây là khóa phòng. Ðây là cổng. Thỉnh thoảng bác dẫn cháu đi chơi, tùy ý bác.”

Rồi chị lên lầu, vẻ tự hào đã hoàn thành nhiệm vụ người đạo diễn.

Hảo hỏi thằng Cu: “Oát xi-ô nêm?”

Nó nhìn anh trân trân một giây rồi tái mặt: “Ð… bu mày?” Nó tưởng anh vừa chửi nó. Phải nói là nó chửi rất du dương.

Ngày hôm nay phải dạy bằng được câu này cho nó. “Oát xi-ô nêm, tên cháu là gì chứ không phải câu chửi tục. Nhân loại chưa đổ đốn đến mức biến một câu vấn danh thành câu chửi.”

Chấm dứt buổi học tiếng Anh đầu tiên.

Mọi thứ dù phi lý đến đâu mà lặp đi lặp lại mãi thì vẫn chấp nhận được dễ dàng. Việc anh thành người giữ trẻ thì cũng chỉ cần một tuần để trở thành dĩ nhiên. Dĩ nhiên như một giáo sư nổi tiếng ốm đau kéo dài phải đốt sách để sưởi, như việc cái xe đạp nào cũng phải tòn teng một tấm biển số thời nào. Hai mươi tờ giấy năm ngàn đủ sức mạnh biến Hảo thành người giữ trẻ mẫn cán trong ba mươi ngày. Chị chủ nhà không chú ý đến anh hơn bà Mùi, người nấu bếp lầm lũi như cái bóng.

Từ ngày có anh đến làm, chị được giải phóng khỏi thằng con trai nên rỗi rãi hơn. Chị lên lầu xuống lầu, đọc sách, trong khi anh túi bụi trong phòng với thằng Cu và cái bô, đã bắt đầu nhớ cái giá sách, và những ngày nhàn rỗi đọc chữ thánh hiền. Thỉnh thoảng chị pha một cốc nước chanh mời anh với dáng vẻ của người làm việc thiện, rồi cũng tiện mồm kể lể chuyện nhà chuyện cửa. Chồng chị trước đây là thuyền trưởng viễn dương. Nhờ anh mà chị nhìn thấy đô-la xanh rờn đầu tiên và hình những tổng thống Mỹ quá cố.

Khi túi đã hơi nặng, anh tìm cách lên bờ. Anh bảo chị: “Thời nay chỉ leo được lên mới thắng, dưới đất bao giờ cũng thua.” Anh biết đầu tư chiều sâu và lên dần. Bây giờ anh phụ trách một văn phòng đại diện ở Hongkong, môi giới mua những con tàu hàng vạn tấn đến những chiếc nịt vú. Anh nói: “Một chuyến đi Nhật cứt đái cùng mình chỉ thắng một hai cây. Bây giờ ký xoạch một cái tôi có bạc triệu!”

Hảo không biết chị kể một cách thành thực những chuyện ấy với anh để làm gì, chị có tâm đầu ý hợp với người chồng ở xa hay không. Chị kể một cách buồn chán, mệt mỏi; là người tiêu tiền, chị không có cái say mê của những con sói săn mồi. Chị là con kền kền, cái lười biếng rỉa xác một con voi. Chồng chị thỉnh thoảng có viết thư, nhưng hai năm nay anh không hẹn ngày về.

Hảo cảm thấy, với chị thì anh vĩnh viễn không về nữa.

Thằng Cu có người trông, sạch sẽ hơn. Nó học tiếng Anh cũng khá nhiều và mến thầy. Ðể giải quyết chuyện cái bô, Hảo đã tập cho nó ra toa-lét mỗi khi có nhu cầu. Cuối tháng đầu chị trả lương cho anh, đưa luôn cả tháng sau, tặng thêm cho anh năm mươi ngàn.

Thấy anh lưỡng lự, chị nói: “Anh cầm đi. Chúng tôi giàu có lắm. Anh không tưởng tượng được chúng tôi giàu như thế nào đâu. Nhưng ở cái đất hay nhòm ngó nhau thế này mình cũng phải giữ ý.”

Một sáng, anh đang ở trong phòng với thằng Cu thì ông Vị đi xe máy đến. Qua cửa sổ anh nhìn thấy ông chải chuốt hơn ngày thường tuy ít đường bệ hơn so với những lúc ông đi lại dọc hành lang nghe một cán bộ khoa học thuyết minh cái gì đó sau lưng mình. Chị ngồi tiếp ông hàng giờ trong phòng khách.

Buổi chiều trước khi Hảo ra về, chị mời anh uống trà. Chị nói: “Ngày mai tôi phải vắng nhà mấy ngày. Anh giúp tôi ngủ lại và trông hộ cháu được không?”

Anh đáp được.

Suy nghĩ một lúc, chị hỏi: “Anh có biết cái ông hồi sáng đến thăm tôi không?”

Anh nói: “Không.”

Chị nhìn anh vẻ tin cậy: “Thôi, chẳng giấu anh làm gì, sợ anh nghĩ tôi không đàng hoàng. Ông ấy là bồ tôi đó.”

Thấy Hảo cảm động vì lời thổ lộ ấy, chị duyên dáng níu nhẹ vào ống tay áo anh: “Nhưng tôi đã quyết định dứt ông ấy ra. Ngày mai chúng tôi cùng đi Sầm Sơn. Lần cuối cùng rồi thôi. Anh giúp tôi nhé?”

Chị kể, trước đây mấy năm, chồng chị khéo léo đưa chị đến với ông ấy. Ðối với sự nghiệp của anh, cũng là của thằng Cu, chị không nề hà. Ông ấy giúp đỡ chồng chị đến nơi đến chốn nhưng không hề để mắt đến chị, món mỡ trước miệng mèo. Ðã có ai ở thành phố này dám coi chị như củ khoai cơ chứ? Lòng tự ái nổi lên, chị tìm cách khám phá con người mẫu mực kia và chị yêu ông ấy lúc nào không biết. Khi chị hiểu ra sự cao đạo của ông là một cái bẫy chinh phục nguy hiểm của những người có tuổi thì cũng là lúc chị chán ông ta.

“Cuối cùng thì chồng tôi thắng, nhưng tôi chẳng được gì. Anh giúp để tôi làm chuyện chia tay với ông ấy trót lọt.”

Anh đáp: “Vâng, tôi trông nhà hộ và kín miệng nữa.”

Chị cười buồn: “Chẳng cần đâu. Cả thành phố biết chuyện tôi với ông ấy rồi. Họ chưa đưa lên ti-vi là may.”

Hảo nói: “Chị đừng mang theo con chó nhé!”

Chị ngạc nhiên: “Vì sao vậy?”

Bỗng chị mỉm cười: “Tôi nhớ ra Sê-khốp rồi. Anh yên tâm. Thời nay không ai dùng chó làm môi giới cho yêu đương đâu!”

Ngừng một chút, lần thứ ba Hảo thấy khuôn mặt chị rạng lên.

Chị nói hấp hổi: “Tôi sẽ mang theo con chó. Tôi là một con mù mà lại muốn đi tìm ngọc quý. Mi-mô-sa sẽ dẫn đường cho tôi.”

Chị mang theo Mi-mô-sa thật. Chị còn tin có một người nào khác đang chờ chị ở Sầm Sơn ư?

Ba ngày sau chị và ông Vị về nhà. Một chiếc Toyota đậu trước cổng. Nghe tiếng, Hảo ra mở cổng như một người gác gian mẫn cán. Anh bất ngờ chạm mặt ông Vị. Nhưng cả hai không chào nhau, không nói gì. Ôi tiền giấy và sắc đẹp, những lá bài của số phận éo le.

Nhìn nét mặt cau có, dồn nén và thân thể sung mãn của tuổi già đang chín một lần trước khi rụng của ông Vị, Hảo biết là mấy ngày ở Sầm Sơn ông chỉ được xơi thịt thỏ. Túi tiền có thể vơi chút ít, nhưng cái túi tục lụy kia thì chắc vẫn còn nguyên. Nó làm ông cáu giận. Hảo nghe tiếng cãi cọ trên lầu ở phòng khách.

Nhưng rồi ông cũng phải ra đi. Chị gọi dây nói cho xe đến đón ông, tươi tỉnh, lịch sự đưa ông ra đàng hoàng. Ông thì hầm mặt vì tiền mất tật mang, chỉ biết tự an ủi là đã giữ gìn được phẩm chất trong chuyến đi biển đầy rẫy những trò ăn chơi tư sản.

Hảo biết không mấy người vui vẻ khi bị người tình buộc về hưu.

Chị chạy đến gặp Hảo sau khi ông đi khỏi, mời anh sang phòng khách uống trà. “Thế là trút được món nợ Liễu Thăng!” Chị nói, ve vuốt con Mi-mô-sa, nó liếm tay chị, kiêu hãnh vì đã giành lại được chị và tự hào vì ông già giàu có, oai vệ kia đã ao ước được một số phận như nó hôm nay mà không có: được chị ve vuốt, nâng niu. “Sao có một dạo ông ấy dễ thương thế – chị nói – bây giờ thì chỉ dạy dỗ, khuyên bảo suốt ngày!”

Chị lại vuốt con Mi-mô-sa, thì thầm: “Sầm Sơn năm nay đẹp lắm, mày có nhớ Sầm Sơn không con, Mi-mô-sa?”

Hảo thầm đoán ở Sầm Sơn con chó nhỏ này đã đóng được một vai trò gì rồi.

Anh không nhầm. Ba hôm sau một chàng trai, trẻ hơn chị vài tuổi, đến nhà. Anh ta dắt chiếc CBT 125 mầu nòng súng vào sân, cởi chiếc mũ mô-tô khỏi đầu rồi nhoẻn cười với ngôi nhà. Hảo vị nể nhìn chiếc xe mới thấy lần thứ hai trong đời; lần đầu Tứ giới thiệu nó cho anh ở bãi xe, nói rằng ở cái thành phố ăn chơi đồ Nhật này chỉ mới thấy xuất hiện vài cái. Anh gọi chị xuống, bàn giao khách cho chị rồi vào phòng với thằng Cu. Người khách nhìn anh không chút ngạc nhiên, như chính anh ta đã từng mướn vài chục thằng đầy tớ cỡ đó.

Họ nói chuyện với nhau trong phòng khách. Rồi chị thét bà Mùi ra chợ. Bữa trưa có bún chả, ốc nhồi thịt và một chai Giôn bộ giá nửa chỉ vàng khách mang tới và những gói kem vừa đông lạnh trong chiếc máy làm kem sau cốp xe. Hảo cùng ngồi ăn với họ. Hợp đồng đã ghi có ăn trưa. Chị uống vài hớp rượu quý, nói luôn mồm, cười luôn miệng; trông chị trẻ ra mấy tuổi so với ngày hôm qua.

Chị giới thiệu khách với Hảo: Anh X. đây là con ông Y. gọi ông Z bằng bác. (Hảo nghe tiếng họ từ lâu), tốt nghiệp đại học ở Ba Lan, mười năm nay đi đi về về, không quốc tịch, không hộ khẩu, hộ chiếu ba năm đổi một lần (Cái khoản này thì chính tôi cũng không biết vì sao mình có – anh nói – lúc cần cứ hỏi pa-pa); nay là nhà kinh doanh bự, nguồn vốn không xác định rõ nhưng lớn lắm và đảm bảo là “không có chuyện Nguyễn-văn-mười-hai”, buôn bán từ đầu video đến chổi đót xuất khẩu… Anh đây còn có một căn hộ ở Vác-xa-va, giữ thường xuyên một phòng ở Pa-lạt Sin-ga-po và vừa bay từ đó về tuần trước.

Chị nói: “Ở Sầm Sơn ông Vị tâm sự với tôi rằng không có các ông thì bọn trẻ bố láo đảo lộn cơ đồ lên mất. Nhưng khốn nỗi ông ấy không phân biệt được cá thu khô với cá thu tươi ở chợ cá Sầm Sơn, phải không Mi-mô-sa?”

Con chó vắt ngang trên đùi chị ư ử đồng tình. Chị bảo: “Theo tôi, những người như anh X. đây…”

Anh X. đây đưa bàn tay lên. “Hẵng khoan, hồi nãy em nói gì nhỉ? À, ông ấy đã đang và sẽ, còn anh thì ngay cả khi dùng tiếng Anh, anh không bao giờ chia động từ theo quá khứ và tương lai cả. Tôi đang nói, tôi đang sống. Thì hiện tại muôn năm.”

Anh hạ bàn tay xuống và nhón một con ốc nhồi thịt.

“Ðể em nói hết đã mà! Theo em thì chính những người như các anh sẽ đưa chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng. Có phải thế không, anh Hảo?”

Hảo nghĩ, không biết chị nói cuộc khủng hoảng nào, của đất nước hay của chị? Anh đáp: “Tôi không sành chính trị nhưng tôi chắc là muốn giải quyết vấn đề thì ai cũng phải cứng rắn.”

Chị là người thông minh. Chị cười hồn nhiên: “Anh nói đúng chóc! Phải thế, chứ như ông Vị thì… như con sứa ấy!”

Người khách tỏ ra kém thông minh và ghen tỵ nhỏ nhen khi thấy chị vừa khen anh người làm nói leo. Anh nhìn cái miệng đỏ hồng rất nóng, nhìn đĩa trứng vịt lộn chưa ai đụng tới rồi quay sang chị: “Vấn đề là tiền. Em mua quả vịt lộn này bao nhiêu? Bảy trăm à? Tôi hứa, nếu em ra lệnh, trong ngày mai tôi sẽ (lại sẽ rồi – Hảo nghĩ) có đủ tiền hạ giá trứng vịt lộn ở thị trường thành phố này xuống một nửa. Và tôi giữ giá đó trong một tuần, em chịu không?”

Chị lại cười ré lên, lần này vì lòng tự ái được ve vuốt.

Hảo nhăn mặt cố nghĩ xem vị anh hùng này làm cách gì và sẽ bỏ ra bao nhiêu để hạ giá trứng vịt lộn xuống còn một nửa. Nếu anh ta làm được thế, Hảo sẽ cố tranh thủ ăn lấy vài quả, mấy lâu nay anh quên mất thứ thực phẩm dành riêng cho những tay bán chủng heo nọc này rồi. Nhưng thật ớn những trò nói khoác! Suy cho cùng là do lỗi của đế quốc Anh. Chúng sản xuất ra thứ Jhonnie Walker ngon quá!

Sau khi chấm nước mắt do trận cười, và không ngừng bị ám ảnh bởi từ “cứng rắn” anh vừa phát hành, chị hỏi Hảo: “Còn anh, anh nói nữa đi, ý anh thế nào?”

Hảo đáp: “Xin lỗi, tôi không sành chính trị.”

Nhà kinh doanh giơ tay lên như ông giáo trẻ dạy cho chú học trò chậm hiểu: “Ðây không phải là chính trị. Ðây là chuyện làm cường dương cả một thành phố. Chúng ta xẹp như dán quá lâu rồi!”

Chị lại cười làm một cử chỉ e lệ gọi là rồi nói: “Anh yêu, thế thì anh hạ giá trứng vịt lộn đi!”

Hảo muốn tìm sự hưng phấn đang quá đà do chai rượu Anh gây ra. Anh hỏi ‘anh yêu’: “Bao giờ thì anh định cư hẳn trong nước để làm ăn?”

‘Anh yêu’ lấy khăn lau miệng, nói qua kẽ răng: “Khi nào chúng tôi có đại biểu trong quốc hội” – anh cười tinh quái – “Nếu không thì ai bảo vệ vốn liếng của chúng tôi chứ?”

Sau bữa trưa họ lên phòng của chị. Hảo trở về cái đi-văng. Thằng Cu đã ngủ, cạnh nó là một cái bô đầy. Anh múa tiếp điệu vũ của mình rồi nằm xuống cạnh nó. Tiếng nhạc êm dịu lọt qua bức trần xuống tai anh. Ðó là những bài hát tiền chiến rất quen thuộc. Anh nhớ mẹ lạ lùng. Cái hố trống trong ngực anh to dần ra, to mãi đến hư vô. Bữa cơm quá tải làm anh khó ngủ. Anh nhớ mẹ cũng giàu, cũng sang trọng, sang trọng cả lúc không còn giàu nữa. Cả trong những ngày chiến tranh liên miên. Tất cả vàng bạc, hạt soàn mẹ đưa anh, lúc đó mới ba tuổi, để tự tay anh thả vào khe của cái hộp gỗ sơn son trong Tuần lễ vàng. Mẹ bảo với bố: “Tôi gánh gạo đường xa cho các con.” Miếng vườn cả nhà vỡ hoang ven bờ suối dưới sự chỉ huy của mẹ, tiếng vo gạo buổi sáng, nước gạo chảy men bờ như sữa. Chim họa mi hót sau mấy cây ổi mẹ trồng, con rắn mai gầm lâu lâu lại xuất hiện, chạy qua sân rồi biến mất trong đám hương nhu, làm thành một sự kiện trọng đại.

Rồi cái tang đầu tiên: bố chết vì bom bi trong một trận oanh kích. Cái tang thứ hai, người anh cả ở Trường Sơn. Ðến lượt anh, đứa con yêu của mẹ cũng biến mất ở chân trời Ðông Âu, mang theo hy vọng về một cuộc sống tử tế của cả nhà. Lúc anh về thì mẹ đã mất. Và cùng với mẹ là cả một vũ trụ đáng kiêu hãnh và nuối tiếc cũng mất nốt. Hảo như đui mù. Anh không được chuẩn bị cho sự nghèo khổ và bệ rạc, không được chuẩn bị để sống với người vợ trước đây, để sống trong cảnh ngộ hiện nay. Không chuẩn bị để thành người ở, làm công cho người đàn bà thông minh nhưng tinh quái, có lương tri và dâm đãng nữa. Anh cố nghĩ một tính từ khác nhưng không được.

Thú thực là anh ghét và ghê tởm khi chị dám cả gan và sai lầm khi đồng lõa đánh giá nền chính trị thông qua những người đàn ông liệt dương trên giường mình, dù trong đó có cả một ông xếp không ra gì của Hảo. Và cũng thật khó chịu thấy mắt chị sáng lên khi con dê con dằm đô-la kia đòi có ghế trong quốc hội của nền vô sản chuyên chính. Khi đó anh tưởng nếu có cuộc bầu cử thì chị sẽ bỏ cho y ta mười phiếu một lúc. Nhưng tại sao chị vẫn phát tiền công cho anh hàng tháng? Tại sao chị vẫn làm cho anh có cảm tình và nhiều lúc thèm muốn chị nữa? Tại sao chiếc CBT 125 giá ba mươi triệu ở ngoài sân kia vẫn đè cái bóng cao cả của nó lên những giấc mơ nghèo khổ của anh? Tại sao cái thế giới êm dịu và lung linh những ước mơ của mẹ, và cũng cả của anh nữa, lại biến mất dễ dàng đến thế? Phải chăng sau một sự kiện kinh hoàng năm đó lời lão thày bói đã ứng nghiệm?

Mùa hè ấy thời tiết bình thường, mẹ cho ấp một ổ gà, khi nhắc xuống, trong ổ lúc nhúc một bầy rắn con, còn mấy cây ổi sau nhà thì ra mười ba quả bứa chua lóet. Hôm đó, một lão thày bói ôm tay nải qua làng. Mẹ làm thịt một con gà giò, ông ta xem chân gà rồi nói: “Ông tổ nhà này ngày xưa nhiều thất đức. Bà hãy cẩn thận. Trong nhà này rồi sẽ có người đi ở.”

Ông ta còn nói những chuyện nhảm nhí khác.

Dân quân xóm trói ông vào một cái cọc, phơi nắng nửa ngày rồi mới cho đi. Năm đó bố chết, rồi đến anh cả. Gia đình trĩu nặng tang tóc. Bây giờ đứa con út của mẹ đi ở.

Tiếng nhạc buồn phòng trên ngừng bặt. Cái đầu video bắt đầu rền rĩ những pha phim xếch (trước đây chị vẫn dùng cái hộp nhựa Nhật Bản ấy để khởi động nhà đạo đức luống tuổi của chị). Rồi tiếng rên điện tử cũng im nốt nhường chỗ cho nhạc đời hang động. Con Mi-mô-sa bị bỏ rơi buồn bã vào phòng, liếm bàn tay Hảo thõng xuống đi-văng. Anh nhắc nó lên, kéo tai nó. Tên ma cô mất dạy, thằng mối lái vô phúc, những con chó nhỏ vô tích sự thời Sê-khốp hay thời hiện đại đều thế cả. Nằm trong lòng Hảo nó nhìn lên trần như anh, có thể nó còn thấu suốt hơn anh bằng bản năng chó của nó.

Một tuần lễ liền ngôi nhà yên tĩnh ở góc phố ròn rã tiếng CBT 125. Những bữa cơm trưa quá tải với sự đồng lõa tội lỗi của những chai rượu Anh và kỹ nghệ vi mạch Nhật Bản. Nhưng chủ nhật anh ta không đến. Chị đưa tiền lương cho Hảo, tăng lên hai trăm ngàn (để bù trượt giá, chị nói) và giữ anh ở lại ăn cơm tối với chị. Chị buồn, nét mặt căng thẳng tuy vẫn kiêu sa.

Hảo đã nếm mùi những cơn cớ tâm sự của chị. Họ lấy ghế vải ra ngồi ở sân sau.

Chị nói: “Anh tiên tri tài thật. Giá không mang Mi-mô-sa đi thì tôi đâu có rước ngữ ấy về nhà!”

Chị nhìn anh với đôi mắt của người vừa thoát khỏi tai nạn. Như một nhà thám hiểm Nam cực sống sót, chị kể cho Hảo nghe chuyện mấy ngày ở Sầm Sơn.

o O o

Hôm ấy, chị để Mi-mô-sa trên bờ biển để xuống tắm với ông Vị. Họ tìm một góc vắng. Vì hễ hai người mặc áo tắm đi vào đám đông là y như lũ trẻ la lối: “Bố ơi, bố nhường chúng con đi bố!” Tuy khó chịu vì thứ ngôn ngữ máy nước ấy, nhưng từ cái góc vắng kia chị vẫn nhìn về phía một bộ phận nhân loại trẻ trung và thô bỉ một cách chân thành ấy. Còn ông Vị thì tìm mọi cách để sử dụng đôi bàn tay vàng. Ông càu nhàu: “Tại sao em lại không mặc bộ bi-ki-ni hai mảnh của Thái ấy?” Ông vẫn thường phàn nàn mốt Hà Nội dạo này quá hở hang, nhưng trong một chuyến đi Băng Cốc về, chính ông đã mua tặng chị hai bộ bi-ki-ni ấy.

Hôm đó, chị cố ý mặc bộ đồ tắm cổ điển được mậu dịch quốc doanh đứng đắn của chúng ta phát hành những năm bảy mươi sau khi mẫu đã được sở văn hóa xét duyệt. Một bộ đồ tắm có thể cấp bằng tiết hạnh khả phong. Ông Vị đành phải đầu hàng bộ đồ ông từng duyệt mẫu trước đây. Bực bội vì ông lão sắp bị giảm biên chế ngầy ngà, chị quên mất con Mi-mô-sa. Trời lại đổ một trận mưa nữa. Thế là họ lạc mất con chó.

Ðến chiều tối, sau khi ăn cơm xong, khi ông Vị đang càu nhàu lên án bộ đồ tắm khốn nạn, trút lên đó những từ người ta thường chỉ dùng trong các cuộc tranh luận triết học và đạo đức, thì anh ta đến. Anh ấy ôm con Mi-mô-sa trên tay. Trong khung cảnh biển sau cơn mưa, chàng trai thật tuyệt vời.

Chiều hôm sau, trong khi ông Vị đi nói chuyện về vai trò người phụ nữ mới (bài tủ của ông) cho công đoàn công ty du lịch thì chị với anh đi vào rừng thông. Chị cám ơn anh vì đã tìm hộ con Mi-mô-sa. Anh cám ơn vì chị đã làm cuộc đi biển cô đơn của anh có ý nghĩa. Anh gọi chị là “bà” làm chị kiêu hãnh, sau đó là “chị” làm chị ấm lòng, và cuối cùng là “em” làm chị sung sướng. Cuộc cách mạng về xưng hô ấy chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Phút thứ mười sáu thì anh nói là anh đã thuê hai héc-ta rừng thông chiều nay để không ai được phép lai vãng qua. Phút thứ mười bảy thì lưng chị đã lấm đầy cát và sau đó chị bắt đầu cuộc hành trình vào thiên đường lần đầu tiên trong đời. Trước đây ông Vị chỉ mô tả cái thiên đường ấy cho chị bằng lý thuyết. Những pha mô tả của bọn nhà văn ba xu thường thay bằng những dấu chấm chấm cũng không làm thỏa mãn chị.

Tối đó, chị sang phòng ông Vị (họ vẫn thuê hai phòng từ lúc đến Sầm Sơn). Ông rất mừng vì chị đã tự nguyện nộp xác, vì buổi diễn thuyết thành công, “chị em nuốt từng lời” và theo cá nhân ông thì cần phải khôi phục khí thế của phong trào ba đảm đang trước đây.

Chị ngắt lời ông: “Anh yêu em đi!”

Chị quyết định tặng ông một bữa tiệc chia ly no xôi chán chè như bữa cơm người ta vẫn thường cho tử tù ăn trước ngày ra trường bắn. Ông sững sờ vì hạnh phúc, cũng như kẻ tử tù kia đang nằm mơ thấy cái cọc thì bỗng thấy trước mắt mình một con gà mái quay, nghẹn ngào nhìn nhưng không ăn được. Ông cũng không ăn được. Ông đổ tội cho tính đãng trí, bỏ quên chai rượu tắc kè ở nhà, chửi sự quản lý khách sạn xuống cấp vì cái giường cứ kêu cót két, chửi rủa cả cái váy ngủ của chị, làm gì mà phải dùng đến hai cửa ra vào làm ông lầm lẫn lung tung, sự xa xỉ điển hình của nền dân chủ tư sản!

Cũng như mọi lần, ông chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về bất kỳ sự thất bại nào. Tuy vậy ông vẫn trấn an chị: “Em hãy tin tôi, tôi đã, đang và sẽ cố gắng…”

Sáng hôm sau chị giục ông ta về để kịp ngày hẹn với anh ấy, người đã mua hai héc-ta rừng thông một chiều cho chị.

o O o

Chị thở dài:
Nhưng tôi lại chán ngấy anh ta rồi! Thằng tư sản mới cũng chẳng hơn gì lão đạo đức giả! Sao cái số tôi nó nhọ thế này?

Hảo tự chửi mình vì quả thật trong anh có lóe lên một chút hả hê dễ hiểu. Anh đứng lên, xin phép chị ra về.

“Ðừng vội, anh – Giọng chị thân mật khác lạ – Anh về bây giờ thì tôi chết buồn mất. Tại sao tôi chỉ gặp phải lũ dở hơi? Chúng chui ở đâu ra lắm thế hả anh?”

Hảo cảm thấy sự chán chường của chị là thành thật. Nó lan tỏa trên da thịt anh cùng mùi nước hoa Pháp và hơi thở thơm tho của chị. Suy cho cùng thì chị cũng đáng thương. Ít nhất chị cũng có cái can đảm và hào phóng làm việc phân phối lại của cải đã trấn được của những thằng dại gái. Chị đã nuôi được một phó tiến sĩ bằng ba lần số lương chính của y, vớt y ra khỏi cảnh thất nghiệp dài dài được mã hóa bằng cụm từ “nghiên cứu có tính chiến lược” trong cái vỏ những đề tài không ai cần đến. Nhưng anh cứng rắn trở lại, kiên trì sự đố kỵ muôn thuở của người nghèo, sự ghê tởm của hàn sĩ bị phỉ báng.

Rồi anh khôn khéo đứng lên.

Số phận xô đẩy anh theo hướng khác. Mấy tuần sau chị ốm. Thóc mách như một thằng ở thực thụ, anh đoán thầm nhà kinh doanh không quốc tịch đã kịp đầu tư một “vật lạ” vào nội địa trước khi bị trục xuất. Anh lên thăm chị, vừa là phải phép vừa bị lòng nhân ái thúc bách. Chị nằm bất động trên giường, tay duỗi ngoài chiếc chăn mỏng. Chị đập nhẹ bàn tay như cánh bướm bảo anh ngồi xuống mép giường cạnh mình. Vì mấy cái ghế xếp Nhật Bản đã bị thu lại và cũng không thể ngồi lên cái “táp-đờ nuy”, vật duy nhất có thể ngồi lên trong phòng, anh đành chiều ý chị. Tay anh run lên khi nắm cái mép giường.

Chị nhìn thấy tất cả trong một cái liếc mắt rồi cầm lấy tay anh, bàn tay chị dịu dàng như cánh bướm cầu xin sự giúp đỡ. Chị nói: “Anh có thể thu xếp đi với tôi một vài ngày không?”

Anh nhìn con Mi-mô-sa nằm dưới chân không đáp.

Rồi anh đi với chị sau khi hai người đã thu xếp được người trông thằng Cu và nhà cửa. Anh sẽ phải đưa chị về một bệnh viện nhỏ nào đó ở Hà Nội. Ðúng như anh đoán, chị cần tống khứ nhanh chóng giọt máu được đầu tư một cách vội vã của nhà kinh doanh trẻ. Chị cần anh đóng vai một người chồng cho đỡ tủi thân và hợp lý. Từ khi mới đi lại với nhau, ông Vị đã yêu cầu chị làm việc này ở bất kỳ chỗ nào cũng được trừ thành phố ông đang nổi tiếng và có quyền lực. Bởi vì dù đứa con trong bụng chị là của ai thì dư luận cũng sẽ nghi là của ông, điều ấy rất bất lợi cho ông trong những cuộc bầu cử. Vậy là quá đủ lý do để anh phải đưa chị đi.

Họ xuống tàu vào lúc xẩm tối, rồi vào một khách sạn gần nhà ga. Cô tiếp tân nhìn họ một cách tình tứ, bảo họ có thể thuê một phòng cũng được. Chị thuê hai.

Anh ghi nhận với chị cách làm ăn thoáng của ngành du lịch. Rõ ràng mọi việc đang đổi mới.

Chị nói: “Nhà trống thì phải thoáng!”

Họ ở đêm đầu tiên trong bầu không khí hòa hoãn, không xâm lấn biên giới của nhau.

Hôm sau, chị vẫn không vào nhà thương ngay. Chị đòi anh đưa đi thăm các địa điểm nổi tiếng của Hà Nội. Anh đưa chị đi Văn Miếu để tỏ lòng yêu mến văn hóa nước nhà, đến cầu Thăng Long để ngưỡng mộ tình hữu nghị Xô-Việt. Cuộc đi chơi kết thúc ở hàng chả cá nổi tiếng giữa những ông Tây bà đầm trả bằng đô-la. Thế là nhờ chị mà anh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 9 năm trước thời hạn. Anh định đúng vào năm 2000 sẽ tập trung toàn lực đi ăn một bữa chả cá đầu tiên và cuối cùng trong đời. Ăn xong uống cà-phê xong, cái hóa đơn đặt lên bàn làm anh suýt ngất tưởng như mình vừa mua cả tháp Ép-phen. Nhưng chị rút ví ra kịp thời, trên bộ mặt hơi xanh xao không chút cảm xúc. Anh nhẹ nhõm thầm nhận xét rằng, chị là người đàn bà đầu tiên đi ăn với anh mà anh không phải mó tay vào ví lần nào.

Chị đòi đi Hồ Tây. Họ lên Hồ Tây. Cô bán hàng mang đến cho họ hai cái ghế mây cạnh gốc cây tù mù và hai chai nước ngọt do Viện kiểm sát nhân dân thành phố X. sản xuất.

Chị nắm tay anh: “Anh mệt không?”

Anh nói: “Văn hóa chỉ khác tình dục ở chỗ nó làm con người ta hào hứng mà không mệt!”

Chị mỉm cười: “Thế thật! Ở Hà Nội có người đã chi cho tôi hai triệu một ngày nhưng không hề dẫn tôi đến một di tích văn hóa. Trí thức các anh dễ thương thật!”

Anh nghĩ: Có lẽ công thức trước đây của họ là: Quán đặc sản – giường ngủ. Còn trí thức: Văn Miếu – Nhà triển lãm Ngô Quyền. Vào cửa hai trăm đồng một vé, kem que cạnh đó cũng hai trăm mà những ba màu. Trí thức nói chung là ít phải trả tiền dù đi với mỹ nhân. Chỉ hơi tốn nước bọt mà thôi. Thời nào cũng vậy.

Chị không để anh có thì giờ suy nghĩ lan man. Chị xiết mạnh tay anh, bàn tay chị ấm nóng: “Vậy mà tôi chưa bao giờ lọt được vào mắt xanh một anh trí thức!”

Anh nói: “Vì chị quá đẹp, còn họ thì quá nghèo. Thánh nhân đãi khù khờ chứ đâu có phù hộ người hay chữ.”

Chị bình luận: “Thánh ghen tỵ đấy mà! Chắc cũng có một nữ thánh nào đó ghen ghét tôi. Tôi cố tìm lấy một người mà không thấy…”

Chị thở dài. Cái khuynh hướng phủ nhận sạch trơn ba bốn mạng đàn ông một lúc của chị làm anh khó chịu.

Nhưng anh thấy mủi lòng, bản chất hay giao động của trí thức. Anh nói: “Rồi chị sẽ tìm thấy.”

Chị đột ngột nhìn vào mắt anh: “Anh có biết tại sao chồng tôi cứ nằm lỳ ở Hong Kong không về? Anh thử đoán xem?”

Anh im lặng.

Chị nói:
Anh ấy bị SIDA! Thật tồi tệ. Hành động yêu nước cuối cùng của anh ấy là đề nghị HU[1] đăng ký mình vào danh sách bệnh nhân của Hong Kong, chứ không phải nước ta. Gian lận thêm cho bọn tư bản một người sa đọa cũng chẳng oan gì!

Anh cảm thấy chạm được vào xúc giác nỗi đau khổ của chị.

Giọng chị trở lại bình thường:
Tôi đòi ly dị, nhưng ông Vị khuyên tôi: “Ðừng có đánh mất lòng tin. Khoa học sẽ chữa được cái bệnh tai quái đó, rồi ngày nào đó chồng em sẽ về. Như thơ Xi-mô-nốp vậy.” Tôi thì biết thừa tim đen của ông. Nếu ly dị, lỡ tôi đòi lấy ông, như thế thì sự nghiệp ông tan tành. Vả lại ngân sách ái tình của ông ấy được tư bản Hong Kong trợ cấp một nửa, nửa kia moi ruột nhà nước thì tiện bao nhiêu! Tôi nói về ông ấy như vậy anh có coi thường tôi không?

Anh đáp: “Tôi là nhà khoa học. Tôi thích có dữ kiện trong mọi vấn đề.”

– Tôi căm ghét ông ấy còn vì câu chuyện khủng khiếp này nữa. Hôm đó chúng tôi đi xem xi-nê với nhau. Lúc chen chúc vào rạp, một bà nọ dẫm guốc bảy phân lên chân tôi. Tôi la trời. Ðáng lẽ một câu xin lỗi là xong, chị ta lại chối bay biến và còn chửi tôi nữa. Chúng tôi túm tóc nhau lời qua tiếng lại. Không biết vì vô tình hay cố ý, chị ta chửi tôi là “con đĩ non xí xớn với thằng dê già!” Ông Vị tím mặt. Người ta mời chúng tôi vào phòng vé. Khai tên tuổi nơi làm việc và xin lỗi nhau. Tối hôm ấy, trên giường nhà tôi, ông ấy chỉ vặn hỏi tôi về người đàn bà ngoa ngoắt nọ. Ông rút sổ tay ra ghi. Ba tháng sau, tôi gặp lại chị thân tàn ma dại ngồi bán rau. Chị buộc phải thôi việc, chồng chị nghỉ “bảy mươi phần trăm”, hai con nhỏ. Tôi hỏi chị vì sao nên nỗi thế. Chị làm thủ kho, để thất thoát hai mươi mốt miếng xà phòng bảo hộ lao động. Tôi thì tôi biết con nhện nào đã giật tấm lưới bắt con ruồi cái ốm đói kia. Tôi van xin ông ấy. Nhưng ông chỉ cười gằn: “Phải nghiêm để nâng cao dân trí.” Thế đấy. Ông trả công tôi bằng cái quyền chính là thứ tôi và anh, cả chị thủ kho kia nữa đã cho ông ấy. Còn thằng cha đầu tư? Nó làm tôi sung sướng nhưng nó trả tiền tôi từng ngày, có khi hàng triệu, nhưng trả từng bữa, nghĩa là trả theo sản phẩm!”

Rồi chị vòng tay qua cổ anh, chị hôn anh.

Ðêm ấy, chị sang với anh. Ngon lành và thơm như một múi mít, và thanh thản nữa. Anh không dối mình là đã hơn một lần anh thèm muốn chị. Nhưng giờ đây, anh lạnh băng. Cũng chẳng phải anh trinh bạch như gã chăn cừu của Ðô-đê nâng niu giấc ngủ của cô chủ trên vai mình. Chị cũng không phải là một vì sao lạc. Chị phô bày cái bản năng dữ dội nhưng bao giờ cũng hồn nhiên của một người đàn bà. Nhưng anh không thèm chị. Giá chị để cho anh bình tĩnh, anh sẽ an ủi chị như một người anh.

Nhưng chị đã quýnh lên và cáu: “Trí thức chỉ là thế này thôi à? Trong sách người ta không dạy anh ư?”

Chị hạ mình trước anh, làm cả những điều chị chưa hề làm với người khác. Nhưng anh chỉ rúm ró lại trong nỗi đau của một hàn sĩ.

Chị trần truồng đi ra cửa để về phòng mình, ném đại mảnh vải Thái Lan nhỏ xíu vào mặt anh rồi rít lên trong cơn giông bão đàn bà: “Lại một con sứa nữa? Tôi còn căm ghét anh hơn cả ba thằng kia!”

Một tháng sau, khi đã bình phục sau trận ốm, chị cho một anh xích-lô gửi nhờ xe. Anh ta kể: nhà, vợ con anh bị cháy thành tro, hai tháng nay anh ngủ trong xe ở sân ga, chân cầu.

Bà Mùi thầm thì với Hảo: “Cứ cách một đêm hắn lại lên phòng ngủ của cô. Thằng khốn nạn!”

Hảo bảo bà: “Ơ-rê-ka! Cô chủ đã tìm thấy!”

Bà ta chưa được học tiếng Hy Lạp, tưởng anh điên, chạy biến vào bếp.

Tiếng Anh cuối cùng Hảo dạy cho thằng Cu là ‘The man’ – người đàn ông.

Hôm sau, anh thôi việc. Anh lững thững đi bộ về nhà. Trời sẩm tối. Một đoàn tàu hàng dừng lại sân ga. Anh nhìn thấy công nhân xếp dỡ đang chuyển xuống đất mười hai toa tàu trứng vịt lộn. Những sọt trứng tỏa ra một vòng hào quang, những quả trứng nhú khỏi đám cọng rơm như đầu dương vật của một loại người hùng mạnh chưa từng có. Cũng chưa từng có công ty nào ở thành phố này buôn về một số lượng trứng nhiều ghê gớm như thế.

Sáng hôm sau trên các phố nhan nhản biển hàng viết bằng phấn: “vịt lộn – hạ giá năm mươi phần trăm!”

Người ta lo ngại xì xào rằng, một năm nữa dân số của thành phố chắc sẽ phát triển vô tội vạ.

(Giải nhì truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1992)

– – – – – – – – –
[1] HU: đọc theo “WHO”, World Health Organization: Tổ chức Y tế Thế giới. (BT)

Đêm cỏ tuyết – Kiệt Tấn (Lê Tấn Kiệt 1939- )

Anh nói với em nhiều tiếng thâm trầm
Nằm đêm nghĩ lại nát bầm lá gan
.
Ca dao

Tôi dắt Tuyết xuống bờ đê. Mùa gặt đã qua từ lâu, ruộng khô chỉ còn lác đác một vài gốc rạ. Trăng lưỡi liềm kín đáo ngọt ngào. Tình nhân yêu nhau, trăng yêu tình nhân, từ muôn thuở. Nhưng có chắc tôi yêu Tuyết? Có lẽ. Nhưng điều đó nào có quan trọng gì với tôi lúc này. Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu.

Tôi tìm một lùm cây có bãi cỏ kéo Tuyết ngồi xuống. Trước mặt là con rạch nhỏ. Nước nhiều hay ít, tôi không để ý. Có lấp lánh ánh trăng hay không, tôi cũng không biết. Tôi chỉ có một mục tiêu duy nhất: Tuyết.

Khi nãy trên đường từ cầu Bắc chạy về, Tuyết biểu tôi dừng vespa, vì nàng mắc lắm rồi. Trước đó hai đứa tôi ăn cháo trắng hột vịt muối, uống trà đá ly cối, hèn gì. Tôi còn đang loay hoay dựng xe thì Tuyết đã chạy ù xuống ruộng. Xong, nàng ngồi chồm hổm mà giải thủy tỉnh bơ. Tôi bị kích thích, tim đập mạnh như bước hụt, chới với. Chẳng phải riêng tôi. Mấy chiếc xe hơi chạy ngang, thắng gấp, tiếng bánh xe cày trên mặt đường rít nghe ê răng. Không có tai nạn. Cũng may. Khi sắp trở vào thành phố Vĩnh Long, tôi quẹo xe ở ngã ba và trực chỉ hướng Cần Thơ. Tôi đậu xe lại ở gần ruộng dưa gang và dắt Tuyết xuống bờ đê. Tuyết ngoan ngoãn đi theo, thỉnh thoảng cười rúc rích. Còn tôi thì chẳng biết gì đến cười nói, thần kinh bị kích thích căng thẳng, có lẽ mặt tôi lúc đó hắc ám lắm.

Tôi tìm lùm cây khuất, từ mặt đường ngó vào không thấy phía sau. Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Mê mẫn, sung sướng, hạnh phúc. Cứ gọi là hạnh phúc, dù tôi chẳng có định nghĩa nào về hạnh phúc. Cả người tôi cháy thành một khối đê mê. Tôi đã biến mất.

Sau cơn cảm xúc mãnh liệt, tôi vội vã, hấp tấp. Loay hoay, luống cuống, bộp chộp. Tôi trật ngã, thiếu chút nữa lăn xuống rạch nước. Tuyết kịp nắm vai áo tôi giữ lại.

Và cơn dục tình của tôi đã được thỏa mãn. Khi đó tôi mới nghĩ tới hôn nàng. Tôi áp môi trên má nóng hổi của Tuyết và hít chùn chụt. Nàng vuốt ve lưng tôi, trách mát: “Anh này đồ quỉ! Đã chưa?” và nàng cười rúc rích. Tôi ngồi dậy. Ánh trăng mát mẻ trên thân thể nàng thật tuyệt vời và hấp dẫn. Mùi ân ái còn thoang thoảng. Tuyết hối tôi:
− Thôi mình đi về, không có chị Tư chỉ la em. Hồi nãy xin phép đi có một giờ mà đi quá mạng, hết lên cầu Bắc rồi lại ghé đây.

Tôi cố tình chọc Tuyết:
− Em nóng ruột thì ra đón xe đò về trước đi.

Nàng la:
− Đồ quỉ! Thôi đừng cù nhây, đưa em về sớm, mơi mốt chị Tư còn cho phép đi chơi. Tối nay thứ bảy đông khách mà quán chỉ có mình chỉ với con Liên, lo hổng xuể.

Tôi vừa cặp xe vào hông quán, quả nhiên chị Tư Tùng đã cất tiếng:
− Dữ thần hông! Đi đâu mà mất biệt làm chị lo muốn chết. Cậu chở nó đi đâu vậy?

Tôi phịa đại:
− Thì cũng chạy gần gần đây thôi. Nhưng hồi nãy lên tới cầu Tân Bình thì xe bị bể bánh…

− Thôi cậu đừng có nói dóc. Cái tuồng đó tui rành quá mà!

Rồi chỉ vào bánh xe sơ-cua gắn trên chiếc vespa, chị hỏi:
− Vậy chớ cái gì đây? Còn mới tinh mà nói bể.

Tôi giả lả:
− Thôi mà chị. Em biết trễ sợ chị la nên nói gỡ gạc vậy thôi, chị thông cảm.

− Ai mà dám la cậu. Mà thôi mấy người cũng lớn hết rồi, muốn mần gì đó thì mần. Hồi nãy tui sợ không biết có tai nạn dọc đường gì không mà đi lâu quá, cả hơn hai tiếng đồng hồ nên mới nói vậy… Cậu cũng biết tui thương con Tuyết lắm, coi nó như em ruột, gia đình không có nên…

Lúc đó khách quen tới, chị đon đả chạy ra chào khách. Tôi thừa dịp thoát thân, chạy qua phía bên kia quán, kéo ghế ngồi ở bàn đặt cạnh bờ sông. Gió từ bên cù lao An Thành thổi qua mát mẻ. Những dề lục bình chỉ còn là những khối đen lững lờ trên dòng nước. Nhìn Tuyết chạy lăng xăng khui nước, chặt dừa, xay rau má, lòng tôi tràn đầy hạnh phúc mến thương. Thỉnh thoảng nàng liếc tôi và cười ỏn ẻn, đồng lõa. Chập sau nàng đem tới cho tôi một ly cối nước cam-sô-đa với hai tròng đỏ hột gà nổi lờ đờ:
− Anh uống đi, bổ lắm!

− Bổ là có chuyện nữa!

− Đồ quỉ!

Chị Tư cưng Tuyết cũng phải. Nhan sắc nàng cũng đại khái thôi, nhưng thịt da mơn mởn dễ nhìn, cười lúm đồng tiền có duyên tuy hai răng trước có kẽ hở. Nàng hay cười nói vui vẻ nên kéo khách cho chị Tư cũng bộn – trong đó có tôi. Khi đó tôi vừa đậu xong tú tài đôi, về Vĩnh Long nghỉ hè. Ban ngày tôi họp bạn đánh đàn, đi thăm người yêu nữ sinh, hoặc ngủ li bì. Ban đêm tôi la cà. Chị Tư thì tôi biết từ hồi còn học đệ tứ, thuở tôi bắt đầu mặc quần đa-cờ-rông láng coóng, thắt dây nịt nhỏ, chải đầu trét bi-dăng-tin, đi giầy mỏ vịt. Hồi đó xuống quán là để uống nước dừa, ăn cơm gà rô-ti, tán dóc với bạn bè. Và theo dõi đàn anh tán gái để chờ ngày xuống núi hành đạo (hay hành lạc?) Nói quán nghe rườm rà chớ thiệt ra đó chỉ là một cái chòi bằng thiếc, khi giương thì mở ra bốn phía, khi sập xuống thì kín mít. Tuyết nằm ngủ bên trong với Liên, trên một diện tích khoảng hai thước nhơn hai thước. Quán nằm phía cuối chợ cùng với ba quán khác, hai quán bán cơm, một quán bán nước cạnh tranh với chị Tư. Bàn ghế bắc xung quanh quán, không có vị trí nhất định. Tôi thường xuống quán rà rà để được ngửi mùi nem nướng hay thịt bò xào. Mùi thơm ngọt ngào sực nức, khói tỏa mịt mù mà thú vị biết bao! Tôi không ăn vì sợ ăn sẽ đâm ngán cái thú ngửi mùi đó. Tôi như một cô hồn thưởng thức đồ cúng. Tôi hạnh phúc mà không hay. Có lẽ nhờ vậy mà hạnh phúc. Khi hay, hạnh phúc tan biến.

Sống như con nít ngây thơ, ngơ ngác, lúc nào cũng khám phá, khám phá nào cũng tuyệt vời. Tôi khám phá đàn bà như con nít trước một rương đồ chơi bí mật. Lắm lúc tôi cười, nhiều khi tôi khóc. Tôi mê đàn bà, tôi tội nghiệp tôi, thằng ngốc tử. Tôi tội nghiệp các nàng đã trót yêu thằng ngốc tử.

Dĩ nhiên, nếu chỉ ngửi thôi thì làm sao sống nổi. Tôi cũng có ăn. Tôi khoái nhất món hủ tiếu “đầu trọc.” Không phải ăn vô rồi là rụng tóc trọc đầu, mà bởi món này do một ông chệt đầu trọc gánh đi bán dạo, gõ nhịp lắc-cắc-cụp trên hai miếng tre ngắn đã lên nước. Hủ tiếu khô của ông có nước sốt gì nâu nâu sền sệt chan lên ăn là hết sẩy. Xế trưa tôi một tô, Tuyết một tô, ních vô là thấy hạnh phúc nằm trong tầm tay, đâu cần gì phải đi hành hương xa xôi trắc trở. Lại thêm giọng cười rúc rích của Tuyết giữa trưa nắng rạng rỡ miền Nam, với ngần ấy thứ mà không ngửi thấy hạnh phúc thì dù có tu chín kiếp cũng coi như huề cả làng. Chị Tư không thích hủ tiếu nên thường làm một tô mì hai vắt, cũng mì khô có nước sốt mầu nhiệm đó chan lên. Chị buôn bán nhưng tánh chị thật thà. Da chị ngăm đen, môi dầy, mũi lân và… đa tình. Tụi tôi biết vậy nên dụ dỗ kép Thế xuống quán. Kép này là một tay tứ chiếng giang hồ, lấy đĩ làm vợ, cao lớn đẹp trai, có nụ cười lém lỉnh như Gene Kelly. Chị Tư chíp lắm. Mà khi chị đã chịu đèn rồi thì tụi tôi dễ bề làm ăn với Tuyết và Liên. Có quá quắt thì chị cũng làm ngơ. Có chở đi quá giờ thì chị cũng xí xóa. Dẫu giận mấy, có “anh Thế” xuống là xong ngay. Thành thử tôi cũng được rảnh chưn rảnh tay “một mình thong thả mần ăn, khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu giầm…”

Lúc đầu tôi xuống quán bên kia. Một tối Tuyết ngó tôi nheo mắt cười tình mấy cái là tôi di cư luôn qua quán chị Tư. Tuyết làm bộ hỏi:
− Anh ghé chơi một chút rồi dọt qua bên kia hả?

− Không, anh lấy cơm tháng ở đây luôn.

Nàng cười rúc rích:
− Anh giỏi tài ba xạo!

Tôi cũng chỉ biết nhăn răng ra cười trừ. Rồi tôi tán tỉnh Tuyết ra sao tôi cũng không nhớ rõ. Tôi vốn đã ít nói. Mà cuộc trao đổi văn nghệ giữa một cậu tú mới toanh và một em bé bán nước dừa chắc cũng không có câu nào đáng đi vào văn học sử. Nhưng hai đứa cũng khắng khít nhau ra rít, đâu cần gì phải vô vọng cổ hay thao thức viết thư tình. Có lần tôi tò mò hỏi Tuyết:
− Em có yêu anh không?

− Em hổng biết, nhưng em khoái anh!

− Khoái ở chỗ nào?

− Tại anh có hàm răng bẹt-lông, cười có duyên thấy ghét.

Perlon là hiệu kem đánh răng đang được quảng cáo thời đó, với một nụ cười duyên dáng và hàm răng đẹp. Tôi có ngó vô kiếng cười thử, thấy răng cửa của mình lớn và hơi gie ra đằng trước, không có gì đáng ca ngợi. Anh tôi bảo mày hô ống điếu (?) nên cười có duyên ngầm (!). Chắc tại tôi có cái duyên “ống điếu” nên Tuyết đâm mê.

Còn tôi, tôi thèm muốn Tuyết. Yêu? Gọi thế nào cũng được. Có đặt tên cho tình cảm hay không thì nó cũng vậy thôi. Riêng tôi, tôi không quan niệm tình yêu mà không có tình dục. Nếu ép tôi bỏ bớt một thứ, có lẽ tôi sẽ giữ lại tình dục. Tôi thường ngạo mấy cô tình nhân khi các nàng từ chối tình dục: “Em yêu anh bằng linh hồn, còn xác thịt em để cho người khác? Nếu vậy hãy cho phần thứ hai, anh xin trả lại em tình yêu.” Kết quả tôi lại bị rầy: “Anh khôn thấy mồ!” Té ra yêu bằng linh hồn là ngu lắm sao? Tôi bị rầy là nàng đã hiểu. Xong. Thành thử tôi chỉ có một tình yêu duy nhứt không có tình dục: đó là lúc tôi học tú tài một ở Mỹ Tho và yêu Hoa. Không phải tôi thánh thiện mà vì lúc đó tôi chưa thành quỉ. Chưa gặp dịp, có lẽ.

Cùng lúc dâm lụy với Tuyết, tôi lại thánh thiện với Ánh, người yêu nữ sinh. Tôi tới nhà Ánh ngồi chơi, rất mực là thư sinh ngoan ngoãn. Nói chuyện gì tôi cũng không nhớ rõ. Nhưng nghĩ cũng phục tôi luôn. Nói gì mà nói nhây hàng giờ, ngày này qua ngày nọ, mà không sờ mó mân mê gì cả. Phục lăn. Nhưng xét ra cũng chẳng có gì đáng phục. Tôi đã no nê dục tình với Tuyết, hơi sức đâu mà mơ ước chuyện gì khác. “Phàm một con hải cẩu…” nhưng tiếc thay tôi chưa bằng được con hải cẩu. Tôi chẳng bao giờ hẹn Ánh nơi tối tăm nào khác, bên lùm bên bụi hay (người hẹn cùng ta tới) bên lùm chuối…

Mỗi tuần tôi phải dắt Ánh đi xem phim Ấn Độ một lần, với bà má vốn mê phim Ấn Độ. Tôi thường bẻ một chùm bông thiên lý đem theo. Khi trên màn ảnh hoàng tử và công chúa bắt đầu nắm tay nhau ca múa và lắc lắc cái bụng cà ri là tôi ngủ gật với mùi thơm ngầy ngật của hoa lý ở đầu mũi. Nhưng tôi được an ủi lúc ra về. Ánh theo má đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Trăng lên cao, ngọn dừa dật dờ lấp lánh, dáng Ánh gầy gầy, bóng Ánh ngã trên đường nhẹ hổng như vết chim bay. Tôi nghĩ nàng chỉ cần đập cánh là có thể bay lên trời, bỏ tôi lại cõi trần gian dâm dật này cho Tuyết với đôi mông trắng mát. Có lẽ tôi sẽ khóc, nhưng rất bằng lòng. Tình thực tôi cũng chẳng giấu giếm gì Ánh. Tôi nói tôi ngủ với mấy cô bán quán. Ánh không tin và cho rằng tôi nói vậy để lấy le. Đến một hôm, Ánh bắt gặp tôi chở Tuyết chạy ngang nhà, nàng mới bắt đầu ngờ vực là tôi nói… thiệt.

Mà trong cái tỉnh nhỏ xíu nầy, đi một vòng là gặp nhau hết, nói gì đi quanh quẩn năm này tháng nọ. Một đêm gần Tết, tự dưng Tuyết nổi hứng thay áo dài mới xanh lè quê một cục, nhứt quyết đòi tôi chở đi chơi. Tôi thấy Tuyết vui nên cũng chiều ý. Tôi chạy lòng vòng lạng quạng. Bỗng Tuyết đòi đi nhà thờ gần cầu Cái Cá. Nhà của Ánh ngay dưới dốc cầu. Tôi bấn quá, mà từ chối thì sợ em buồn. Tết nhứt rồi, ai nỡ làm vậy. Nhưng lỡ Ánh bắt gặp, chạy ra níu áo rồi mới tính sao đây? “Di nhân nan! Di nhân nan!” Gần tới cầu tôi nảy ra sáng kiến (nhờ ơn trên?) Tôi khóa ga xăng, giả bộ xe lên dốc không nổi. Tôi biểu Tuyết xuống và đi bộ qua cầu vô nhà thờ trước chờ tôi. Chùi bu-di xong xe sẽ vọt ngon lành như trước, tôi qua sau. Tôi rất ghét nói dóc. Nhưng nói dóc với Tuyết tôi không thấy lương tâm bị cắn rứt một chút nào hết. Làm như thể…

Tuyết bỏ gia đình đi hoang năm mười sáu tuổi. Tuyết cùng một tuổi với tôi. Gia đình Tuyết ở Gò Công. Tôi không rõ lý do ra đi của nàng, hay nàng đã kể rồi mà tôi không nhớ. Tôi cũng chẳng để ý. Ôm được Tuyết, vật lộn với Tuyết trên bờ cỏ đối với tôi là quá đủ. Nếu có ai dọa sao chổi xẹt xuống làm tan băng hà ở Bắc cực, nước sẽ dâng lên cao ba thước khắp địa cầu, tôi cũng coi như pha. Chỉ cần bụi cỏ đen và đôi vú trần của nàng, kỳ dư tôi chẳng ăn nhập gì với quả đất quay nhanh hay chậm. Tôi là một vệ tinh vô danh tiểu tốt quay chung quanh ngực và mông nàng, quay điên cuồng và hạnh phúc. Cho đến ngày nổ tung trên trục quay, hay đến lúc tôi lạc quỹ đạo đâm sầm vào hành tinh mẹ và cả hai đều bốc cháy tan tành, trả lại bụi sao cho ngân hà, cho nguyên thủy, cho khai thiên lập địa, không có âm, không có dương, không có tôi, không có nàng, không có đam mê, không có dâm luyến, tôi với nàng chỉ là một. (Bởi duyên cớ nào khiến ta thành hai?).

Khi trước tôi ở nhà má tôi, gần rạp hát. Mùa hè năm đó tôi dời đô về nhà ba tôi ở dốc Cầu Lộ cho dễ bề hành hiệp. Nhà ba tôi là tiệm mộc nên giường chõng tha hồ. Đi chơi khuya về thấy mùng giăng sẵn, giở lên không thấy ai là cứ chun vô ngủ. Tối tối tôi đi đón Tuyết về. Có lúc trời nóng, gặp ba tôi còn ngồi ngoài hàng ba phơi bụng hút ống vố, nàng khẽ cúi đầu:
− Dạ, chào bác.

Ba tôi cười khì khì đồng lõa, hỏi vớ vẩn:
− Tiết đó hả? Lóng rày bán khá không cháu?

− Dạ khá.

− Cháu khá mà bác coi bộ thằng Kiệt nó hơi xanh.

− Dạ… − Tuyết ấp úng.

Tôi đỡ lời:
− Tuyết có cho tui uống cam-sô-đa hột gà hoài đó chớ.

Tuyết quay lại la tôi:
− Đồ quỉ!

Một bận tờ mờ sáng chúng tôi còn mê mệt ôm nhau ngủ thì ba tôi lay dậy:
− Mau mau! Vọt! Má mầy tới!

Tôi còn đang lính quýnh, ba tôi kéo Tuyết chạy ra nhà sau, giấu nàng trong cầu tiêu. Tôi giả bộ ngủ tiếp. Má tôi (có lẽ ai mét) ập vào kinh lý. Bà giở mùng thấy thằng quý tử say ngủ chèo queo một mình nên yên bụng ra về. Tôi ra cầu tiêu kiếm Tuyết. Sau hồi chới với chúng tôi ôm nhau cười ngất.

Nàng hỏi:
− Sao má anh khó quá vậy?

Tôi vớt vát:
− Chắc bả canh ông già chớ đâu phải rình anh.

− Vậy mà làm em cũng hết hồn.

Ba tôi trấn an:
− Ôi! Hơi sức nào mà lo! Bề gì đã có tao đứng mũi chịu sào. Cùng lắm là bả bắt thằng Kiệt về nhà dưới ngủ, không cho ngủ ở nhà tao nữa.

− Ý! Đâu có được!

Tôi phản đối tức khắc. Nhưng cũng may, mọi việc vẫn cứ tiếp diễn như trước, đêm đêm tôi đi đón Tuyết về. Đêm nào tôi ngủ quên thì Tuyết tự động ngồi xe xích lô về. Tuổi mười tám sao hăng quá sức, đêm nào cũng như đêm nấy. Tôi thấy đời tôi quá đầy đủ, không dư không thiếu một chỗ nào hết. Đôi khi quá hăng say, tôi đã được một anh thợ của ba tôi lưu ý:
− Thầy Sáu ác quá! Cái đi-quăng bữa nay giao cho người ta mà thầy làm sao ố hết trọi, báo hại tui phải cạo sơn lại.

Rồi anh chỉ mấy vết vân vân trên mặt gỗ sơn làm tôi cũng hơi quê, nhưng cũng hãnh diện ngầm, sự hãnh diện ích kỷ của con thú đực.

Một đêm, xảy ra chuyện “trục trặc” với Lộc, anh tôi. Tuyết giận, lẵng lặng bỏ về.

Buổi trưa tôi xuống quán gặp Tuyết đang ngồi ăn cơm với chị Tư và Liên. Chị Tư mời lơi:
− Cậu Kiệt ăn cơm.

Được lời như cởi tấm lòng, tôi kéo ghế xáp vô bàn ăn liền. Để kiểm điểm, tôi gọi thêm một dĩa phá lấu. Tôi gắp một miếng ngon bỏ vô chén của Tuyết. Tuyết cũng gắp lại cho tôi một miếng và cười rúc rích. Nàng cười là coi như tôi đã được tha thứ. Như vậy là huề. Tôi được thể kể thêm chuyện tiếu lâm cho mọi người cười cho vui bữa.

Ăn xong, Tuyết kéo tôi ra bàn gần bờ sông ngồi hóng mát. Tuyết đi thẳng vào chuyện đêm qua:
− Sao hồi hôm anh làm kỳ vậy? Em mắc cỡ muốn chết.

Mặt Tuyết đỏ gấc, cả vành tai cũng đỏ.

− Em thương anh mà sao anh làm kỳ vậy?

Tôi sượng trân, không biết trả lời sao. Tôi ấp úng:
− Anh cũng thấy kỳ thiệt… Nhưng chuyện xảy ra quá bất ngờ, anh đâu có muốn như vậy. Em giận anh lắm hả?

Nàng ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu. Tôi cảm động nắm lấy tay nàng. Nàng liếc tôi mỉm cười:
− Thôi bỏ qua chuyện đó. Mà anh đừng có làm vậy nữa nghen. Em thương anh chớ đâu có thương anh Lộc, bộ anh không biết sao?

− Anh biết chớ… Thôi anh xin lỗi em.

Tôi nói tôi biết chớ thiệt ra tôi chẳng biết khỉ mẹ gì hết. Tôi là thằng ngốc tử. Cho đến bây giờ, khi tổng kết tình hình quốc tế, tình hình quốc nội và tâm lý ái tình đời mình, tôi cũng chẳng biết là tôi có yêu ai không nữa. Tôi đam mê, nhiều lúc muốn tự vận thì có. Yêu? Còn phải hỏi lại. Biểu tôi định nghĩa tình yêu tôi cũng bí luôn.

Sau lúc con thuyền tròng trành, tôi và Tuyết trở lại khắng khít nhau như trước. Như không có chuyện gì xảy ra. Tôi lấy thêm một quyết định sáng suốt: Nếu thằng cha anh tôi còn dở trò lạng quạng là tôi sẽ quyết liệt mời hắn đi chỗ khác chơi. Bằng võ lực nếu cần. “Ối thôi tôi mời cậu đi ra cho lẹ, nếu còn ở đây ắt sanh tử với tôi!” Hắn cũng nằm lòng câu hát đó.

Sau nhà tôi là một sàn nước, trên có để mấy cái lu. Thợ thuyền thường mặc quần xà lỏn tắm lộ thiên trên sàn nếu làm biếng tắm sông. Lần nào Tuyết về với tôi cũng quá nửa đêm, lối xóm ngủ hết. Tuyết tắm lộ thiên. Tôi có cái thú đứng ngắm Tuyết tắm. Thân thể Tuyết trắng muốt, ngực Tuyết no tròn, đứng sững đẹp tuyệt. Đã bao lần tôi ngã chết trên đó. Mà rủi có chết luôn tôi cũng không hối tiếc. Canh khuya dế kêu rỉ rả. Khi nàng xối nước ào một cái thì lũ dế êm tiếng. Khi nàng kì cọ thì tiếng dế lại trỗi lên. Có nhạc, có mỹ nhân, nghê thường là đó. Nếu Tuyết biết ăn nói văn chương và biết khảy đờn, tôi sẽ ngờ nàng là hồ ly tinh. Ôi con hồ ly yêu dấu! Tiếng em kỳ cọ trên thân ngà nghe sao mà dâm tuyệt!

Tôi khổ sở nhứt là lúc mỗi tháng Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến mấy ngày. Vào thời kỳ này đàn bà hay quạu cọ mà tôi còn quạu hơn Tuyết. Tôi đứng ngồi không yên như bị táo bón, nhăn nhăn nhó nhó như khỉ ăn ớt. Khi nàng hạ cờ xuống là tôi mừng quýnh như con nít má đi chợ về. Nàng lại có dịp la tôi: “Đồ quỉ, làm gì dữ vậy?” Nàng treo cờ, tôi khổ sở. Nhưng nàng không treo cờ, lại là một nỗi bận tâm khác.

Một lần nàng nói nhỏ với tôi:
− Sao tháng này em trễ quá, có hơn hai tuần rồi. Lỡ em cấn rồi làm sao hả anh?

Đã không lo, trái lại tôi còn thấy vui:
− Cấn rồi thì mang bầu.

− Mang bầu kỳ chết!

− Mang bầu thỉ đẻ chớ kỳ gì!

− Đẻ rồi làm sao?

− Đẻ rồi thì nuôi chớ làm sao?

− Anh nầy nói nghe dễ ợt. Lấy cái gì mà nuôi đây chớ?

Tôi đặt tay lên vú nàng:
− Thì lấy cái nầy…

Nàng hất tay tôi ra:
− Đồ quỉ!

Thấy tôi cười khì khì nàng cũng tủm tỉm cười theo, hai má đỏ rực.

Cách tuần sau, một đêm tôi thiếp ngủ, khi giựt mình không thấy Tuyết bên cạnh, tôi hơi lo sao đêm nay nàng không về. Trưa hôm sau, xuống quán thấy có một mình chị Tư. Tôi hỏi Tuyết đâu.

− Tuyết nó đang nằm trong quán

Tôi chui vào quán thấy Tuyết nằm co quắp. Tôi đỡ Tuyết dậy, hỏi:
− Em bịnh hả?

Tuyết xanh ẻo thều thào:
− Em mệt.

Chị Tư nói thêm:
− Tuyết nó bị thuốc hành nên mệt.

Cách đây mấy bữa tôi nghe chị Tư bàn lén với Tuyết về vụ đó. Tôi nắm vai Tuyết lắc lắc:
− Em phá thai phải không?

Tuyết cúi đầu không nói. Cơn giận đột nhiên bốc dậy trong tôi bừng bừng. Tôi xáng Tuyết một bạt tai ngã chúi vô góc quán rồi đứng dậy. Tuyết gục đầu, nước dãi nàng chảy ra ở miệng. Biểu diễn xong màn tạc-dăng nổi giận, tôi nhảy lên vespa rồ ga phóng thẳng. Chạy lòng vòng một hồi rồi trực chỉ ngã ba Cần Thơ. Chui vô một cái nhà sàn gọi bia ra uống. Bà chủ quán còn trẻ. Mặc quần áo xốc xếch, một tay bồng nách thằng con lem luốc, một tay bào nước đá. Tôi vụt hối hận chua xót. Tôi bỏ chai bia rồi phóng xe trở lại quán chị Tư.

Nghe tiếng xe đậu lại, Tuyết lồm cồm bò dậy ra đứng vịn ở cửa quán. Mắt nàng đỏ hoe. Tóc tai bù xù. Tôi ăn năn quá đỗi. Tôi chỉ muốn chạy thẳng ra bờ sông và nhảy ùm xuống dòng nước đục (không phải để tự vận). Tôi muốn lội băng qua con sông lớn, tới cù lao An Thành bên kia. Tôi leo lên đó trốn hết mọi người, ẩn dật ở cù lao, biến thành con xà niên hay con dã nhơn gì đó. Cho không còn ai nhận ra tôi, cho Tuyết không còn bao giờ nhận ra tôi, gã bạch diện thư sinh sau cái bộ mặt lông lá. Môi Tuyết khô queo, tay nàng run rẩy. Trời nắng chang chang. Hai đứa ngó nhau rưng rưng nước mắt.

Rồi mùa hè qua. Nắng hết vàng rực. Phượng vỹ hết đỏ. Dế hết còn gáy ở sàn nước. Tuyết hết còn khỏa thân tắm lộ thiên. Và tôi cũng bị đuổi ra khỏi nghê thường. Hai đứa vẫn còn khắng khít, nhưng nàng ở lại quán, còn tôi lên Sài Gòn bước vào đại học. Sau khi đậu tú tài, tôi thi rớt liên miên. Thi công chánh: rớt. Thi trường điện: rớt! Thi sư phạm: rớt! Thi quân y: đậu. Và đậu hạng nhứt, ngành nha khoa.

Ba tôi vốn ghét nghề “nhổ răng và thiến heo” của đám hành nghề dạo trong xóm nên ông chửi tôi tàn canh gió lạnh vì tôi thi đậu ngành nhổ răng. Ông nói:
− Tao với má mầy gia tài còn có mấy cái răng ăn cháo, bộ mầy tính học về nhổ luôn cho hết hả? Rồi bà con đau bụng đẻ, rước mầy tới, mầy nhổ răng cho chết luôn hay sao? Mầy học cái nghề gì mà ác ôn quá vậy?

Tôi nản quá nên bỏ ngành quân nha. Tôi lêu bêu vào năm đầu đại học khoa học. Tôi lạc lõng mất hướng. Tôi chỉ mong cuối tuần để vọt về Vĩnh Long. Có lúc kẹt xe, tôi về tới thành phố thì trời đã tối mò. Tôi ghé nhà Ánh trước vì gần bến xe. Nhà nàng ngủ sớm (ông già làm thầy giáo). Một tay gõ cửa mà tay kia tôi còn lận theo khúc bánh mì thịt chưa kịp ăn.

Chị nàng ra mở cửa la lên:
− Ánh ơi! thằng Kiệt nó về.

Ánh chạy ra mừng rỡ. Tôi ghé vào nói chuyện láp dáp một chút rồi vọt, hẹn bữa sau trở lại. Tôi kêu xe lôi đi thẳng xuống quán. Trên đường, tôi tạt ngang báo cho ba tôi biết tối nay tôi ghé ngủ nhà để ổng cho đem mùng ra tối về có mà giăng. Thấy tôi về, Tuyết cũng mừng lắm. Lại một tô hủ tiếu “đầu trọc”, một ly cam-xô-đa hột gà. Và tôi lại chết thiếp trên ngực hồ ly, bằng lòng, hạnh phúc.

Có dạo bận học quá, cả tháng không về được, tôi nhận được thư Tuyết. Nàng viết: “… Anh biết hông, mỗi bữa chiều em bắc ghế ra ngồi trước quán ngó ra đường thấy người ta đi qua đi lại, em nhớ anh thấy mồ. Chừng nào anh học thuộc bài hết rồi thì anh mau mau về đây cho em thả mãn…”

Trong thơ nàng kèm theo một tấm hình sau lưng có viết mấy chữ: “Em xin tặng anh một đá hoa hồng để làm kỳ nhiểm. Tuyết.”

Kỳ nhiễm? Hay kỷ niệm? Tôi đoán lờ mờ. Chữ nghĩa không làm tôi bận tâm, nhưng khi nhìn tôi đâm lo. Thường thì mấy cô nữ sinh cầm nhánh bông hay đóa hoa để làm duyên khi chụp hình. Đàng nầy Tuyết cầm hẳn chậu bông đưa thẳng ra một bên, phía trên có cụm hoa hồng bằng nhựa màu. Tôi chỉ sợ nàng mỏi tay buông ra bất tử thì đổ nợ. Thà nàng giả bộ leo lên máy bay ló đầu ra chụp hình như anh tôi mà coi bộ còn khá hơn. Chớ cầm chậu bông kiểu này là kiểu chết con người ta. Bữa nọ thằng bạn lục bóp tôi, lôi ra tấm hình Tuyết, ngắm xong, đọc xong, nó bèn ngửa mặt lên trời cười hô hố, chảy cả nước mắt nước mũi. Tôi quê quá nên từ đó giấu biệt hình nàng.

Trở lại việc học vấn của tôi. Trong cái rủi mà còn có cái may. Một bữa nọ, nhờ phất phơ trong Chợ Lớn tôi gặp một thằng bạn cũ khá thân. Nó kéo tôi về nhà ở đường Da Bà Bầu tán dóc. Khi mở hộc tủ kiếm cây viết, nó chợt à một tiếng rồi lôi ra một xấp giấy đưa cho tôi. Đó là đơn xin du học Canada. Nó nói tao quá tuổi rồi xin không được, mầy nhỏ hơn tao hai tuổi, đậu hai tú tài hạng bình nên xin có hi vọng lắm. Tôi nhắm mắt điền đơn, nạp đại rồi quên bẵng. Ba tháng sau, đùng một cái tôi được mời khám sức khỏe, làm thủ tục xuất dương: tôi đã được chọn. Tôi cầm tấm giấy mời chới với. Có bao giờ tôi nghĩ tới hay mơ ước chuyện xuất dương. Nhà tôi đủ ăn, ba má tôi dốt nát. Tôi là một thứ cao bồi hương thôn. Dù tôi có bận quần jean’s cỡi bò đi chăng nữa, là cũng để chà lết ở miệt vườn. Thế giới của tôi có cù lao An Thành, có cây đa Cửa Hữu, có cái miễu Bà, có cầu Cái Cá, có bến xe đò. Và có cái quán nước của chị Tư Tùng. Và trong quán nước có Tuyết, dĩ nhiên. Tôi không muốn đi đâu hết.

Tấn thối lưỡng nan. Ông anh thứ ba (không phải Lộc) của tôi biết vậy nên đặc cách cho một lâu la của anh dắt tôi đi làm hết mọi giấy tờ. Thành thử tôi kẹt cứng. Tôi chẳng biết gì về Canada hết ráo, từ nguồn gốc cho tới ngôn ngữ. Má tôi hỏi: “Nghe anh Ba mầy nói mầy sắp đi Cá Bá Đại há? Nghe nói ở đó ngập nước quanh năm, mầy qua bên đó mần chi vậy?” Tôi bí. Phải chi bà hỏi ở chợ Vĩnh Long có mấy cái quán cóc, quán nào bán cơm quán nào bán nước, quán nào có mấy cô, tên gì, mấy tuổi… Tôi bảo đảm sẽ trả lời rót rót, đúng đến chín chục phần trăm.

Nhưng rồi mọi việc cứ tuần tự diễn tiến, theo một trật tự bất kham. Bánh xe du học cứ lăn tới và kéo tôi ra cái cứ địa “cao bồi hương thôn”, mặc tình cho tôi trì kéo lại. Còn ba tháng nữa sẽ xuất dương, rồi hai tháng, rồi một tháng, rồi nửa tháng. Rồi chỉ còn một tuần lễ. Tuyết có theo dõi tình hình quốc nội do Lộc báo cáo nên nàng cũng khăn gói lên Sài Gòn để gặp tôi, vì tuần chót tôi kẹt luôn ở thủ đô để lo giấy tờ, thủ tục, thông hành, hối đoái v.v… Một tối, nàng hẹn gặp tôi trước rạp Khải Hoàn, không phải để coi hát, mà là để giã biệt. Đúng hẹn, tôi dắt Tuyết qua chợ Thái Bình ngang rạp hát. Nàng đi guốc mộc xanh, bận quần sa-teng trắng, áo xá xị màu hường lợt. Lần đầu tiên tôi để ý nàng vẽ mắt đen, tô son lợt và đeo bông tòn teng. Coi cũng hấp dẫn lắm. Nhưng tôi thích Tuyết tắm truồng xối nước ở sàn nhà hơn. Tuy nhiên, tôi cũng khen nàng một câu lấy lòng.

Tôi đề nghị nàng kiếm gì ăn cái đã, vì lúc đó đã hơn mười giờ đêm mà tôi chưa ăn gì từ chiều. Nàng đồng ý. Tôi hỏi nàng muốn ăn gì, nàng đáp tùy ý anh, em không đói. Không có hủ tiếu đầu trọc, tôi đề nghị nàng ăn mì ở một cái xe đẩy trong chợ. Xe cẩn kiếng đủ màu kể lại sự tích Tam Quốc có Quan Công mặt đỏ, sau nồi xúp nghi ngút là một xì thẫu bụng phệ, không trọc đầu nhưng tôi tin tưởng. Tôi kêu một tô mì đặc biệt có mì và hoành thánh trộn lẫn. Còn nàng, một chai xá xị Con Nai.

Bụng đói nên tôi cúi gằm đầu ăn một mách gần hết mới ngửng lên gợi chuyện:
− Em lên đây hồi nào?

− Hồi chiều hôm qua.

− Lên đây em ở đâu?

− Ở đậu nhà bà dì con Liên trong chợ Bàn Cờ. Còn anh, bữa nào thì đi Da… Da… Cá Đại, hay cái gì Da Da đó?

− Bữa nay thứ ba. Còn đúng một tuần nữa thì anh đi. Đi Gia Nã Đại.

− Cái gì Gia?

− Gia Nã Đại.

− Ờ, vậy hả? Gia Nã Đại! Cái tên gì kỳ thấy mồ, nói muốn trẹo bản họng. Nghe nói bên đó đất thấp nước ngập dữ lắm phải hông?

Không biết ai đồn cắc cớ như vậy. Tuyết cũng hỏi một câu y chang như má tôi. Tôi giải thích: Em đừng có lộn Gia Nã Đại với xứ Hòa Lan. Nàng càng mù tịt nên tôi lảng sang chuyện khác.

− Em có tính ở lại Sài Gòn để đưa anh lên máy bay luôn không?

− Ý, đâu có được! Chị Tư bị cúm hổm rày nằm liệt địa. Quán chỉ có mình con Liên coi, bê búi lắm. Sáng mai em phải về. Hơn nữa…

Nàng ngập ngừng:
− … Hơn nữa gia đình anh, em chỉ biết có ba anh và anh Lộc. Má anh lại khó nữa, khi không em nhào vô đưa anh đi coi kỳ chết.

Thiệt ra nếu nàng đòi đưa tôi ra tới tận phi trường mới là đổ nợ. Vì hôm đó sẽ có Ánh tiễn tôi, chương trình đã in như vậy rồi, cáo phó đâu có kịp nữa. Tôi dò dẫm:
− Em về dưới rồi tính làm cái gì ăn?

− Thì bán quán chớ làm cái gì?

− Bộ em tính bán quán hoài sao?

− Không bán quán chớ anh biểu em làm cái gì bây giờ?

Tôi ỡm ờ:
− Thì chờ anh học thành tài về nước cưới em.

Nàng ngó tôi hoài nghi:
− Anh đừng có nói giả ngộ. Bản mặt anh mà cưới em!

Tôi kênh kênh:
− Thiệt chớ! Em mà dám chờ thì anh cũng dám cưới cho mà coi.

Nàng nghiêm mặt (ít khi tôi thấy nàng nghiêm như vậy) làm thằng nhỏ hơi teo:
− Hồi thuở giờ em có biểu anh cưới em lúc nào đâu mà bữa nay anh phát thinh nói kỳ cục vậy?

Mắt nàng hoe đỏ. Tôi sợ nàng khóc bất tử nên gạt ngang:
− Em không tin thì thôi, anh không nói nữa.

Nàng ngó tôi ngần ngừ:
− Mà em hỏi thiệt, anh có thương em hông?

− Có nói em cũng không tin nên anh không nói.

Nàng nài nỉ:
− Hồi nào tới giờ em đâu có hỏi, bữa nay em mới hỏi thiệt anh chớ: có thương em hông đó?

− Thương chớ, thương đứt ruột.

Thấy nàng chưa chịu tin, tôi đưa một ngón tay lên thề:
− Đứa nào nói láo cho ông Táo đội nồi cơm.

− Anh thiệt là ba xạo!

Nàng cười, tôi cũng cười theo. Nàng cười là tôi đỡ lo. Nàng cười là tôi đã được tha thứ, chấp nhận. Tôi nắm tay nàng ngó trân trân:
− Bữa nay em đẹp lắm… Anh muốn ngủ với em một đêm chót.

Nàng ngần ngừ:
− Bộ anh tính đem em về ngủ nhà anh hả?

− Anh tá túc nhà anh Ba. Má anh cũng ngủ ở đó… Anh về nhà em được không?

− Ý, nhà dì con Liên em đâu có quen. Hơn nữa nhà có chút xíu, dì ngủ trên gác còn em ngủ bộ vạt ở dưới với mấy nhỏ. Anh tới đó làm quỉ đâu có được!

Chợt ngó lên trời tôi đề nghị:
− Hôm nay có trăng lưỡi liềm, hay anh chở em dạo một vòng ra Bình Điền, ở đó có cây cối…

Nàng gạt ngang:
− Ở dưới mình khác, ở đây khác. Anh làm bậy bạ lính bắt là hết có đi Gia Cái Đại luôn đó. Anh ẩu tả, bữa đó ở Cầu Bắc về anh thiệt thành quỉ… Em mà níu anh không kịp là anh lọt tuốt xuống mương rồi!

Nàng cười rúc rích. Lời Tuyết nói vô tình càng kích thích tôi mãnh liệt. Tôi nhớ rõ lắm, tôi nhớ rõ hết, tôi nhớ đóa hoa thầm kín của nàng lần đầu tiên dưới bàn tay tôi mân mê, sục sạo, tôi nhớ bụi cỏ đen, tôi nhớ ánh trăng mát mẻ trên thân dưới lồ lộ của nàng. Tôi thèm muốn điên cuồng, tôi thèm thuồng muốn chết. Tôi cúi đầu tiu nghỉu, như những lần Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến.

Nàng ngó tôi một hồi coi bộ không êm. Nàng kêu tính tiền, trả tiền rồi nói:
− Thôi mình về anh, khuya rồi.

Thấy tôi cứ ngồi đực mặt ra đó, nàng nắm tay tôi kéo đi, nói nhỏ:
− Thì anh về với em, về Bàn Cờ.

Tôi riu ríu theo nàng. Về tới đầu xóm, nàng biểu tôi dừng xe lại, tắt máy, rồi dắt xe theo nàng. Đi quanh co một hồi tới một căn nhà lợp tôn, nàng ra dấu là đã tới. Tôi dựng xe, theo nàng đi vòng cửa sau mở khóa vào nhà. Bên trong chỉ có một bóng đèn nhỏ thắp tù mù. Bốn phía vắng lặng. Nàng chỉ lên gác, đưa một ngón tay lên môi ra dấu cho tôi giữ im lặng. Tôi tuột giày ra. Nàng nắm tay tôi dắt vào nhà tắm nhỏ hẹp, bên trong kê một cái lu nước và một cái khạp thấp. Nàng khép cửa lại tối om, tôi không thấy gì hết. Tôi nghe tiếng sột soạt. Tôi cũng trút bỏ quần áo theo nàng. Tôi mở hờ cửa cho ánh sáng đỏ lọt vào. Ánh sáng đỏ trên da lụa càng tăng thêm kích thích, tôi muốn cắn lên đó. Tôi mở rộng cửa phòng tắm cho ánh sáng tù mù vào đầy. Tôi hạnh phúc muốn phát điên. Tôi sắp nổ tung như một bóng đèn quá cường độ. Tư thế bất tiện mà tuyệt vời. Ngực nàng rung rinh, đôi bông tai nàng lắc lư, đôi mắt nàng khép hờ mở nửa cánh thiên đường cho tôi lọt vào (và lạy trời cho tôi đừng lọt ra nữa). Trong trận mưa dục tình, tôi hôn nàng khắp mình mẩy (tôi chưa hề hôn nàng như vậy). Hai đứa ôm riết, không muốn rời, không nỡ rời, không chịu rời. Tuyết! Tuyết! Tuyết!

Buổi chiều hôm sau, đứng một mình ở bao lơn, tôi chợt nhận thức Tuyết đã lọt khỏi tầm tay tôi biệt mù. Nàng đang ở đâu đó bên bờ Tiền Giang có gió mát, trăng thanh, hay đang nằm dật dựa trong quán. Nàng đang chặt dừa, xay rau má xôn xao giữa đám khói tỏa mịt mù của sườn nướng. Tôi chợt lo sợ vu vơ. Tôi lo sẽ không bao giờ còn gặp lại nàng nữa.

Nhà anh tôi ở đường Hùng Vương, cạnh đường rầy xe lửa. Bên kia đường là dãy bàng cao, rất cao, lá lớn xào xạc. Buổi chiều sắp hết, trời chạng vạng. Cơn mưa chiều vội vã đến, rồi vội vã đi. Gió không có hướng nhất định, lay lắc lá bàng, nước rơi lộp độp. Tôi chợt sợ hãi, ruột quặn thắt. Bên tôi không có Tuyết, không có Ánh. Mai mốt đây không có người tình quán nước, không có người yêu nữ sinh, chắc tôi không sống nổi (tôi nghĩ vậy). Trong cơn bàng hoàng, đầu tôi chợt lởn vởn bài thơ tôi muốn viết tặng người yêu và người tình:

Tôi đã khóc như thành đô đã khóc
Mưa chiều nay đánh đắm ngõ đi về
Dãy bàng cao u đọng chút sầu tê
Và rỏ lệ như lòng tôi đã khóc

Tôi sẽ chết như hoàng hôn đã tắt
Mây bay đi không cuốn được u hoài
Chớm đêm về mưa gió sẽ chia tay
Cho lá nhớ mưa buồn dâng ướt mắt..
.

Rồi tôi đi du học. Những năm lang thang ở xứ người, tôi đã yêu những cô gái khác, ôm ấp những bộ ngực khác, mân mê những bụi cỏ sắc màu khác, chết giấc bên cạnh những hồ ly khác. Tôi quên bẵng Tuyết. Có lúc tôi yêu đời, có lúc tôi muốn tự vận. Nhưng may mắn tôi còn sống sót về nước sống giai đoạn bi thương của xứ sở − cùng những hồ ly khác nữa của quê hương, giữa cái chết và cái sống dằng co mỗi giờ mỗi phút.

Ngày về, một nửa những người khi trước đưa tiễn tôi lên đường đã ra đón tôi. Có ba tôi, có má tôi, có Ánh, có Lộc, v.v.. Dĩ nhiên không có Tuyết. Mọi người kéo về nhà anh Ba tôi ăn mừng. Tôi mệt quá lăn ra ngủ một giấc, mơ thấy những chuyện trên trời dưới đất.

Bữa chiều, tôi đang đứng bên đường rầy xe lửa, chợt ba tôi tới bên cạnh tôi hỏi:
− Ờ Kiệt, mầy còn nhớ con nhỏ Tiết không Kiệt?

Tôi giựt mình:
− Nhớ chớ ba. Tui nhớ chớ. Bộ nó còn bán quán hả?

Ba tôi lắc đầu:
− Nó đã đi lấy chồng.

Tim tôi chợt nhói. Ba tôi nói tiếp:
− Tội nghiệp! Con nhỏ đó có lòng lắm. Nó ghé thăm tao hoài và bận nào nó cũng hỏi thăm mầy. Hai năm trước, lúc đi lấy chồng nó có lợi nhà mình lựa mua cái tủ ba buồng chở về Tân Bình. Chồng nó có tuổi, góa vợ, buôn bán coi mòi cũng khá. Năm rồi nó mang bầu nhưng rủi ro có chửa ngoài tử cung. Khi hay được đem vô nhà thương thì trễ quá cứu không kịp…

Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt, xây xẩm. Tôi băng qua bên kia đường Hùng Vương, đi dọc hết dãy bàng cao rồi chui vào một quán nhỏ. Bên ly bia tôi ngồi khóc lặng lẽ. Tôi muốn dằn cơn khóc mà nước mắt cứ vọt ra. Tay bưng mặt, tay ôm bụng, tôi tưởng chừng như ruột gan mình đang đứt ra từng đoạn một. Tôi giận tôi, tôi giận đời sống, tôi giận đủ thứ. Sao đành để Tuyết nhận chịu bất công như vậy? Trong lúc nàng đi lấy chồng đàng hoàng (không phải với thằng giỏi tài ba xạo như tôi), muốn làm ăn đàng hoàng, muốn có con đàng hoàng thì nàng lại lăn đùng ra chết. Chết tức tửi. Dãy bàng cao còn đó, bài thơ học trò tôi tính tặng nàng hãy còn đó, dù chẳng bao giờ nàng đọc, có đọc cũng chẳng bao giờ nàng thích:

Đốt hoàng hôn vỡ thành theo khói thuốc
Ai dày vò mà khói thuốc cong queo
Gió cuốn vội vàng mây phải bay theo
Và tôi gục ngã như hoàng hôn giẫy chết.

Nhưng không phải tôi, mà là “nàng đã gục ngã như hoàng hôn giẫy chết.” Tôi thương Tuyết bạc phước của tôi, tôi nghĩ tới những người con gái bất hạnh. Không bao giờ tôi còn được cái thú viết vớ va vớ vẩn để tặng nàng như thuở còn là học trò nữa. Tuyết ơi là Tuyết ơi!

Thôi nhé em về yên Xóm Cỏ
Sự đời đã trải cuộc yêu đương
Nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió
Cho nắm xương tàn được nở hương[1]

– – – – – – – – –
[1] Thơ Trần Huyền Trân

Mưa không ướt đất – Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái, 1944- )

“Năm 1956 tôi vượt tuyến vào đây với hai bàn tay trắng. Nói là vượt tuyến thì không đúng. Thực ra tôi vào đây với sự thỏa thuận của ông Hồ, sau khi chịu thế chân bằng những sản nghiệp tôi có dạo ấy. Nếu tôi không trở về thì coi như mất cả sản nghiệp đó. Cố nhiên là tôi chẳng dại gì trở về. Tôi ở lại đây, vay tiền buôn bán làm ăn và tạo nên cơ nghiệp như ngày nay. Năm nay tôi ba sáu tuổi đầu rồi mà vẫn chưa lập gia đình. Tôi không được may mắn như các anh các chị được học hành. Ðiều mà tôi ân hận là đã không làm sao mang được mẹ tôi vào để cùng hưởng với tôi…”

Tiếng người đàn ông chủ nhà tan loãng vào trong bầu không khí cô tịch của buổi chiều nơi cư xá. Xa xa có tiếng trẻ con hát líu lo trong một cuộc rước đèn. Mặt trời đã lặn nhưng bóng tối chưa kịp buông xuống.

Thư dựa đầu vào thành ghế, lơ đãng nghe. Những âm thanh vội vã hấp tấp của người đàn ông có giọng nói đặc biệt của những người Bắc sinh sống trong các trại định cư, thỉnh thoảng có đá vào một đôi tiếng Nam với một pha trộn ngây ngô vụng về – những âm thanh ấy rơi xuống khô khan, không đủ khơi dậy một hào hứng nào. Thư xoải chân trong một dáng ngồi thoải mái, đôi mắt khép hờ nhìn về phía Phấn, góp chuyện một cách uể oải:
Chưa lập gia đình, chắc tại anh còn kén đấy chứ phải không ạ?

Người đàn ông đối diện với Thư hơi có vẻ lúng túng. Duẩn quay nhìn Thư bắt gặp cái cười mỉm trên khuôn mặt trắng im lìm trong bóng chiều chạng vạng. Tự nhiên anh có cảm tưởng đó là khuôn mặt của một pho tượng. Cái ý nghĩ đó Duẩn có từ dạo quen biết Thư khi hai người còn học ở dự bị Văn khoa. Thuở ấy còn có cả Cương. Dạo ấy thật vui. Mỗi người đều như có điều gì muốn nói nhưng họ muốn nói lảng sang những chuyện khác để vui nhộn và quên đi những xao động mà chính họ không biết phải đặt tên cho chúng là gì. Duẩn, như tất cả những người đàn ông mập mạp khác, ưa giễu cợt, mặt luôn đỏ gay (có lẽ vì cười nhiều?) và không có ác ý. Anh quen với Thư qua lời giới thiệu của Cương. Về sau anh được biết hai người yêu nhau. Nhưng anh không hiểu được vì sao họ có thể yêu nhau, vì theo Duẩn nhận xét, họ như hai thái cực. Cương yếu ớt, hơi giống con gái, mặc dù nhiều lúc anh tỏ ra là một người trầm tĩnh – thực ra, Cương thiếu tính chất nóng nảy của một người đàn ông thật sự và vì người anh quá mảnh khảnh. Thư, ngược lại, tính nết cứng cỏi, hơi lạnh nhạt, mặc dù vẻ dịu dàng của những đường nét trên khuôn mặt và thân hình. Rồi Cương du học. Duẩn mất tin Thư. Bây giờ gặp lại, bắt chợt cái vẻ im lìm cố hữu trên nét mặt người con gái, Duẩn tưởng mọi sự chả thay đổi bao nhiêu. Có lẽ trông Thư trầm hơn, ở vẻ đẹp và lối nói chuyện. Ba năm rồi còn gì.

– Tôi đã gặp nhiều cô, nhưng họ làm tôi thất vọng. Tôi mong lấy được một người vợ làm cô giáo, làm cô giáo thì hẳn là biết dạy con hơn…

Duẩn cười trong cổ, có vẻ ngơ ngẩn:
Thật hả anh?

Phấn, người chủ nhà cười hờ hờ. Thư tự hỏi không biết Phấn có biết là Duẩn đùa anh ta không. Thư có ý nghĩ mỗi lần gặp lại Duẩn, nàng thấy anh béo hơn và giễu hơn – phải chăng những người béo thường hay giễu? Thư không tin như vậy. Ông cụ nàng béo, nhưng ông chẳng giễu bao giờ. Lúc nào cũng lầm lì. Có lẽ ông không giễu được vì tuổi già và cái chết đang chờ ông. Những lúc về sau này ông đánh bạc nhiều hơn và thua đậm hơn, lầm lì và buồn bã hơn. Thư sống trong gia đình với cái bóng của ông đè nặng trong tâm hồn. Nói như vậy không có nghĩa là Duẩn hay giễu vì Duẩn trẻ và cái chết còn ở xa tầm tay anh.

Vài đứa trẻ cầm lồng đèn đi qua, gọi nhau ríu rít, mắt nhìn bọn người ngồi bên trong hàng rào, vẻ tò mò. Thư nhìn quanh lơ đãng:
Có lẽ nên có vài cái đèn xếp treo lủng lẳng cho nó có vẻ…

Phấn bảo:
Tôi quên mất vụ đó. Nhà có trẻ con thì tự nhiên mình nghĩ đến điều đó…

Giọng anh ta có vẻ bùi ngùi. Thư kiếm một cái cớ để đi ra ngoài. Nàng thấy thèm đi tung tăng – vẫn thèm đi tung tăng.

– Duẩn đi ra chợ Thủ Ðức với tôi đi. Hình như nhà cũng không có đèn cầy phải không anh? Chả lẽ lại ăn và nhảy dưới ánh đèn tube hoặc trong bóng tối mò?

Duẩn:
Ðịnh chơi lumière hay sao?

Tuy vậy anh cũng đứng dậy, bảo Khánh đưa chìa khóa xe và theo Thư ra ngoài. Một đôi người trong bọn ngồi hoặc đứng rải rác trên nền đất lẫn lộn gạch vụn và cát, hỏi Duẩn đi đâu đấy.

– Ra chợ mua đèn, – Duẩn đáp.

Lúc hai người ra khỏi cư xá trời đã bắt đầu tối. Thư ngồi sát vào người Duẩn. Duẩn nhấn ga cho xe vọt đi. Con đường dẫn vào Thủ Ðức cong cong. Những cây thánh giá trắng nhờ nhờ trong một nghĩa địa bên đường. Những ánh đèn dầu le lói trong một vài mái tranh. Tòa nhà cao của một trường đạo đối diện với những bức tuờng dài của trại lính bên kia đường. Chợ Thủ Ðức tưng bừng dưới những ngọn đèn sáng. Những buổi chiều tan học kéo nhau lên đây cả bọn bốn năm đứa duy có mình Thư là con gái. Tại sao thích tham dự vào những buổi họp mặt của bọn con trai hơn là gần gũi với các bạn gái mà Thư thường cảm thấy quá e dè ngại ngùng? Duẩn nhớ rằng mình vẫn chỉ coi Thư là một người bạn trai, dù Thư là người yêu của Cương. Cương vừa thích có Thư tham dự vào những cuộc họp mặt này vừa không. Ở người con trai ấy có nhiều điều u ẩn và hơi lãnh đạm. Từ ngày anh đi ngoại quốc, trong những lá thư gửi về, Thư chợt “nhận ra” Cương. Người ta (không?) yêu người khác vì những tương đồng mà vì những điều có thể rất trái ngược. Thư sống như một con mèo hoang thì Cương khép mình trong khuôn khổ mực thước, hoàn toàn lệ thuộc gia đình. Cố nhiên chẳng phải vì người này hay người kia muốn thế, hay có muốn thì cũng chỉ một phần. Ðứng trước Cương, Thư cảm thấy quá cô đơn nhưng không thể không yêu. Cương thương và yêu người con gái với một lý do gần giống thế.

– Thư nghĩ gì vậy?

Thư cười một tiếng ngắn:
Ngày xưa dạo bọn mình thường kéo nhau lên đây ăn và bây giờ tôi thấy đói. Có lẽ mình nên ăn một cái gì đi.

Duẩn tán thành. Hai người vào một quán ăn trong chợ.

– Duẩn còn nhớ anh chàng Vĩnh không nhỉ?

– Nhớ, nhớ quá ấy chứ. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp hắn ở phố.

– Còn sống với “ma-đàm” kia không không biết?

– Hình như còn. Không thấy nói đến. Hắn vào biệt kích rồi.

– Tôi không thấy ghét anh ta một mảy may. Tôi phục tài hoạt bát của anh ta. Làm sao mà anh ta đóng kịch giỏi thế?

– Thư còn nhớ một hôm anh ngồi ở trên xe đi chơi suối Lồ Ồ, anh ta giảng cho Thư nghe về danh từ “biên tế” không?

– Nhớ. Tôi chỉ thấy mơ hồ hơn sau khi nghe anh ta giảng – mơ hồ như… biên tế vậy! Nhưng tôi lại nghĩ những người học cao thường có một lối định nghĩ tối tăm nên tôi vẫn tin được. Ðâu ngờ anh ta chỉ là một thứ mật vụ quá tài tình! Chính vì cái tài tình đó tôi lại thấy quí anh ta mới lạ chứ! Tôi còn nhớ một hôm anh ta cho tôi xem lá thư tình của một cô mà anh ta bảo là fiancée, cùng học lớp với bọn mình. Anh ta trỏ cho tôi cô gái ấy. Tôi cũng có dịp đứng ở xa nhìn thấy anh đi cặp kè và nói chuyện với cô nàng. Cô ta là một cô gái e lệ, tóc thề buông xỏa vai, lúc nào cũng ngậm góc khăn tay. Ở xa nhìn vào, làm gì mà không tin là nàng e thẹn trước vị hôn phu. Nghĩ cũng buồn cười. Tôi thấy thương bọn mình dạo ấy lạ, thương cái quá khứ hồn nhiên đến thơ ngây đó. Sau vụ phát giác đó, tôi thấy như có một mối nghi kỵ rơi xuống giữa bọn mình… Không biết Duẩn ra sao, tôi thấy Cương có vẻ buồn thành thật. Anh ta vốn sẵn tính đăm chiêu…

Những kỷ niệm kéo về chập chùng chập chùng và ô hợp. Giọng Duẩn trầm hẳn xuống:
Cũng may hắn chưa khai thác gì được ở bọn mình. Mà nói cho ngay mình có hoạt động gì đâu mà khai thác?! Toàn một bọn chỉ đấu láo phất phơ…

Ừ tại sao mình chưa hề một lần tham dự? Mình sống như một kẻ đi dạo vậy. Một kẻ đi dạo không mấy chút hăng hái hay thảnh thơi. Làm như thể sinh ra thì phải sống, sống cho hết cuộc sống để chết. Và sống trở thành một bổn phận. Một bổn phận? Phải chăng tôi khất lần việc lấy Thục cũng chỉ vì sợ không dám chuốt thêm một thứ bổn phận nào khác? Tại sao không đủ can đảm hủy bỏ lễ đính hôn để cho Thục đi lấy chồng? Tôi không yêu nàng, không hề yêu nàng. Tôi không hủy bỏ lễ đính hôn vì có lẽ tôi chẳng đủ can đảm và cố gắng làm một việc như vậy. Tôi có hèn nhát lắm không? Tôi có bi quan không? Bạn bè thấy tôi cười nhiều – mặt tôi lúc nào cũng đỏ gay, hiện tượng của một người nhiều sinh lực? Buồn cười thật thôi! – chúng nó tưởng tôi không lo âu. Thực ra, tôi ngao ngán quá đấy thôi, ngao ngán hơn cả là mỗi bữa cơm tôi về nhà, thấy mâm cơm úp lồng bàn phần tôi trên bàn và mẹ tôi đi với một trăm hai chục quân, thằng em mười bốn tuổi bỏ đi lang thang. Chẳng có gì giữ tôi ở trong gia đình cả. Tôi cũng thiếu một cái điều mà tôi cho là đẹp và đáng theo đuổi ở ngoài đời. Tôi đi dạy như một cái máy, mê học trò con gái (một cách thầm kín cố nhiên vì bắt buộc thế) như một cái máy và không thấy điều đó là quan hệ, lê la các tiệm cà-phê quen tán dóc với tụi bạn như một cái máy, và đây chính là điều tôi cần. Duẩn nốc cạn ly ba ba, nhìn người con gái đối diện, đôi mắt cận thị không đeo kính – (Duẩn kỵ đeo kính cận) – hồn buồn bã…

o O o

Duẩn bước ra hiên, mở banh khuy áo ngực và thở ra: một ly sec làm anh chuếnh choáng. Thư ngồi bó chân trên bậc thềm, ngẩng lên, thấy anh, mỉm cười. Không biết có phải rượu làm Duẩn thấy Thư đẹp lạ thường hay vì khuôn mặt trắng của Thư hiện trong bóng mờ mờ trông đẹp như một pho tượng. Duẩn có cái cảm giác như một người sống ở ngoài thời gian. Mọi sự vật như ngưng đọng lại, ngưng đọng lại trên khuôn mặt im lìm của Thư. Anh hỏi mà như không nghe tiếng mình hỏi:
Ngồi ở đây à?

– Trong ấy ngột ngạt quá.

– Có lẽ vì thế mà vừa nhảy với tôi cô Thủy vừa quạt… Cũng có lẽ cô ấy quạt hơi rượu…

Thư cười nhẹ, ngồi nhích sang một bên khi thấy Duẩn ngất ngưởng bước xuống khỏi thềm nhà. Tự nhiên Duẩn có cái ý thích ngồi dưới chân Thư. Ðiều đó gây cho anh một cảm giác vỗ về. Ðiều đó làm cho Thư cảm thấy diệu vợi…

– Còn nói được như vậy à?

Duẩn ngơ ngẩn một lúc, rồi bật cười:
Thư tưởng tôi say à?

Thực sự là Duẩn chuếnh choáng. Mấy lần trong khi ôm Thủy, anh giẫm phải chân nàng. Duẩn tưởng tượng lại lúc ôm Thủy trong vòng tay. Ở Thủy có một vẻ mộc mạc của một cô gái miền Nam. Nàng không tỏ vẻ bực bội mỗi lần Duẩn giẫm phải chân, cũng như Duẩn coi việc nàng phe phẩy chiếc quạt trên tay là một điều thú vị. Ý nghĩ đó làm cho Duẩn bật cười một mình.

Bên ngoài, tiếng hát của bọn trẻ rước đèn quanh cư xá đã ngưng từ hồi nào. Trăng đã lên cao. Ánh sáng như có màu xanh. Trước giậu, vài ba cái đèn xếp bị cháy xém còn treo lủng lẳng.

– Trông Thư có vẻ buồn?

Duẩn rút điếu thuốc xòe lửa châm hút. Anh đưa bao thuốc mời Thư.

Nàng mỉm cười lắc đầu:
Tôi bỏ thuốc từ gần mấy tháng nay vì tự nhiên sợ mùi khói thuốc.

– Tôi hút có phiền không?

– Không, không…

Thư nói như cố không nói ra một điều mà trong thâm tâm nàng muốn nói, muốn khoe, với tất cả sự hân hoan. Duẩn cất bao thuốc vào túi áo, thở ra từng vòng tròn khói nhìn theo chúng uốn éo dưới ánh trăng thành từng sợi mỏng dài và tan loãng. Một sự im lặng bao quanh hai người. Tiếng một bản nhạc có tên Adieu Tristesse từ trong phòng vẳng ra hòa lẫn tiếng giày đi trên sàn nhà của những người khiêu vũ. Máy hát cũ quá. Tiếng kèn nghe rè rè.

– Bao giờ thì mình có thể “adieu tristesse” được?

Thư lên tiếng. Duẩn quay lại (anh có giọng nói hơi cao, như có một cái gì vừa gay gắt vừa giễu cợt ở trong đó), nhìn dáng Thư chao động:
Hết buồn thì còn vui thế quái nào được!

– Nói là nói vậy thôi… Nỗi buồn thực ra tô điểm cho cuộc sống…

– Tối nay Thư vui chứ?

– Vui. Và thanh thản nữa… mặc dù bữa tiệc có phần nào luộm thuộm. Tôi tưởng Duẩn quen với anh Phấn.

– Quen gì. Tôi mới biết ông ta sáng nay.

– Nhân vật ấy cũng hay hay.

– Bây giờ ông ta chỉ thiếu có một cái, là một cô vợ có học thức một chút để cho ông ta có cái cảm giác là mình cũng có dính dáng tí chút trí thức.

Thư cười một tiếng ngắn:
Kể ra việc đó đâu khó gì, đối với một người có của như ông ta. Nghĩ cũng buồn cười. Không biết ông ta nghĩ sao… Theo tôi, báu gì cái trí thức, nhất lại là một người đàn bà trí thức.

Duẩn quay nhìn Thư:
Sao có vẻ chửi bới ghê thế?

– Nhiều khi tôi có ý nghĩ giá đừng học, đừng đọc nhiều, mình lại sống dễ hơn. Suy nghĩ lắm đầu óc đâm trì trệ. Lỡ rồi, đành chịu. Tôi có con, sẽ để nó sống hồn nhiên, như cây cỏ… Nói vậy, cũng khó làm như mình muốn. Có thể, rồi thế hệ con mình sẽ khác, không như bọn mình. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng thế hệ bọn mình sinh ra để chịu một cuộc thí nghiệm…

– Thư nói như thể là Thư sắp có con rồi ấy!

Thư bỗng im, xúc động. Một lát nàng cười nhẹ:
Tôi sắp có con thật, chẳng phải “như thể” đâu.

Duẩn không tin. Thư cảm thấy không thể không bộc lộ niềm vui vẫn lo âu của mình với Duẩn.

– Không tin tôi nói thật à? Hai tháng rồi…

Thư nói giọng run run, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Duẩn nhìn Thư, vẻ ngạc nhiên pha lẫn nét vui mừng trên khuôn mặt. Anh đặt tay lên bụng Thư giản dị, tự nhiên như Thư là người yêu của anh, và dường như đó là điều anh mong đợi.

– Thế… sao trông Thư… tỉnh thế?

Hỏi xong, Duẩn mới thấy mình có vẻ ngây ngô.

Giọng Thư ráo hoảnh, thật nhỏ:
Không tỉnh, thì say à?

Duẩn rút tay về, nói như nói một mình:
Vui nhỉ?

Trong phút giây, Duẩn có cái ao ước được úp mặt vào lòng Thư và được Thư lùa những ngón tay vào trong tóc anh, cái cử chỉ của những người yêu nhau thường làm. Nhiều lúc cảm thấy quá thiếu thốn. Duẩn cần một thứ tình yêu pha lẫn tình bạn trong đó. Ðiều đó nghe thật giản dị. Nhưng sao trong thực tế thật hiếm.

Duẩn nghĩ đến Thục. Mặc dù đã đính hôn với nhau, Duẩn vẫn nghĩ đây là một việc làm trái với ý muốn của anh. Tại sao Thư không là Thục nhỉ? Và tại sao Duẩn không là người đàn ông đã cho Thư đứa con nhỉ? Duẩn lẩn thẩn tự hỏi.

Tiếng Thư nghe xa vắng:
Tôi giữ đứa nhỏ lại, dù tôi biết mình sẽ phải trả một giá rất đắt. Tôi nghĩ biết đâu sự có mặt của nó sẽ thay đổi cuộc sống và những suy nghĩ của mình phần nào chăng? Có thể nó sẽ là sợi dây ràng buộc tôi vào cuộc sống mà nhiều lúc tôi thấy quá chán ngán?…

Thư cảm thấy bị lôi cuốn bởi chính những điều nàng vừa nói ra. Mình có đang ngụy biện? Nàng thầm hỏi. Thực sự Thư không biết những gì đang chờ đón mình ở cuối cùng chặng đường này. Mặc, nàng cứ dấn bước.

Duẩn cảm thấy bất cứ câu hỏi nào đặt ra bây giờ cũng là thừa. Anh hút hơi thuốc cuối cùng, khum hai ngón tay cái và ngón giữa, búng điếu thuốc văng ra xa sang bên kia hàng rào, điếu thuốc đụng phải bức tường của ngôi nhà trước mặt, những tia lửa tóe vỡ như từ một quả pháo bông tí hon, và rơi xuống trong đám cỏ dưới chân tường. Anh đứng dậy:
Thư vào nhảy với tôi bản này đi?

– Không. Tôi muốn ngồi nghỉ. Tôi muốn được yên tĩnh. Duẩn vào nhảy đi.

Duẩn tần ngần một lát, rồi quyết định đi vào nhà:
Tôi đi kiếm rượu uống… Thư uống một ly nhé?

Tiếng Duẩn ngập đi trong tiếng nhạc dồn dập ồn ào…

o O o

Chiếc xe rời đường Võ Di Nguy rẽ qua đường Chi Lăng. Trời về khuya, đường phố xe cộ thưa thớt. Thư tưởng tượng cách đây vài tiếng, từng bầy trẻ náo nức cầm đèn lồng đi tung tăng trên các đường phố, và trên những sân thượng, từng mâm cỗ trông trăng được bày ra với bưởi, cam, hồng, bánh nướng bánh dẻo, và những con giống xinh xắn đủ màu. Xa rồi những ngày rằm cùng anh chị em náo nức mua sắm. Thư nhớ lại mùa trung thu dạo nào, mấy bố con xúm lại làm một cái đèn kéo quân. Thư có bổn phận vẽ và cắt những hình người – những hình người vẽ lại những mẫu chuyện cóp nhặt trong thần thoại cổ tích. Ông Lư và Thức vót tre làm đèn và dán giấy. Ðèn đốt lên, ba vòng tròn đầy những hình người quay tròn quay tròn. Bố con cùng ngắm tác phẩm hoàn thành và đang sinh hoạt. Cô bé Lọ Lem đuổi theo nàng Bạch Tuyết và những chú lùn nối đuôi cô bé quàng khăn đỏ, xen vào đó là những nàng công chúa thủy cung nửa người nửa cá, những hoàng tử cưỡi ngựa uy nghi… Cả một thế giới thần thoại được dựng lên, đúc kết, sống động. Bây giờ là những buổi tối trống rỗng cần sưởi ấm bởi một ngọn lửa từ bên ngoài, từ những người bạn, từ một vòng tay của người khác phái. Nhưng những tìm kiếm đó chỉ khơi thêm lỗ hổng cô đơn. Vẫn mặc. Như bị lôi cuốn bởi cơn thác lũ, Thư vẫn tiếp tục lao đầu vào, với một đam mê cuồng nhiệt không tên.

Bất giác Thư đặt tay lên bụng. Giọt máu này cũng giống như cơn đam mê kia. Nó chưa có hình dạng, chưa có giống, chưa có tên gọi. Và chưa được nhìn nhận bởi một ai ngoài người mang nó. Và Thư nhìn nhận nó với một nỗi ngây ngất kỳ diệu. Phải chăng đó chính là cái bản năng đầy nữ tính? Cử chỉ của Thư làm Duẩn thôi nhìn về phía trước quay nhìn theo bàn tay của Thư rồi nhìn Thư, mỉm cười. Thư tìm đọc trong nụ cười đó một ý nghĩa. Nàng chỉ thấy trong đó một sự bao dung có pha lẫn vẻ lạ lùng.

– Nó… đạp chưa?

Duẩn hỏi nhỏ vừa đủ cho Thư nghe. Thư lắc đầu, cười nhẹ:
Làm gì mà mau thế?

Phấn im lặng lái xe không nghe những lời đối thoại giữa hai người. Với hắn, buổi họp mặt vừa rồi coi như lui vào dĩ vãng. Hắn không đạt được điều mà hắn mong muốn, là tìm được một cô vừa ý hắn. Có lẽ hắn thích Thư. Khuôn mặt có vẻ trong sáng. Cái nhìn khôn ngoan lanh lợi. Lối nói chuyện chứng tỏ người có học. Tính nết thâm trầm. Nhưng từ lúc Thư nhận lời đi với Duẩn, hắn tự ý loại nốt Thư khỏi đầu óc.

Thư cảm thấy bàn tay Duẩn vỗ vỗ nhẹ lên vai nàng. Và chiếc xe rẽ vào một ngõ hẹp đường Chi Lăng. Ðường hẻm vẽ một hình cong, vắng ngắt, không một ánh đèn. Lờ mờ một vài bóng cây màu đen sậm. Chiếc xe quẹo thêm một lần nữa về tay trái và nằm lọt giữa hai dãy nhà có những bức tường cao, vôi loang lổ, ít những khung cửa sổ. Hẻm có vẻ một nơi gồm những xưởng – xưởng gì Thư không rõ – nhưng Thư có cảm tưởng như vậy. Vành trăng hiện ra trên bờ một bức tường cao đổ xuống lòng hẻm một ánh vàng nhạt mờ mờ. Thư có cảm giác đang đi vào một thế giới xa lạ không tên gọi. Ðiều đó gây cho Thư một thích thú như người tham dự vào một cuộc phiêu lưu. Thư có thể hỏi Phấn và sẽ được giải thích. Nhưng nàng im lặng để giữ cho mình cái cảm giác ban đầu. Thư cũng có thể bảo với Phấn và Duẩn nàng muốn về nhà và nàng sẽ trở về nhà, sẽ dùng chìa khóa riêng mở cửa, sẽ bỏ giày leo lên căn gác nhỏ bé thiếu khí trời, sẽ thay quần áo trong im lặng, sẽ nằm sấp trên chiếc giường sắt một người của nàng và sẽ tiếp tục nghe ngóng cái sự sống nhỏ bé đang nẩy mầm trong thân thể nàng với một niềm lo-âu-pha-lẫn-thích-thú-riêng-tư-không-chia-xẻ, không-thể-chia-xẻ.

Nhưng một sức lôi kéo làm Thư vẫn cứ tiếp tục yên lặng. Bất giác Thư tự hỏi mà mình mong mỏi gì ở họ, ở Duẩn chứ? Thư biết rằng nếu nàng cứ tiếp tục im lặng, như thế có nghĩa là ngày mai trở về nhà, nàng phải chịu đựng cái nhìn trách móc và dò hỏi của bà Lư. Tại sao từ bao giờ đến giờ hai mẹ con vẫn vô cùng cách biệt? và dường như bà Lư cũng chẳng tỏ vẻ buồn bã, hay ít ra, ý thức về sự cách biệt này. Bà chỉ có một mối bận tâm: đi nhà thờ và cầu nguyện, cầu nguyện như một cái máy cho bà và cho phần hồn của cả gia đình đang dần dần phân tán, mỗi người một ngả. Từ đó Thư có ý tưởng cầu nguyện là một chứng tỏ của sự bất lực. Và Thư khước từ sự bất lực đó. Thư muốn được tin tưởng ở tương lai, tương lai của cuộc sống này, chẳng phải cuộc sống ở bên kia cõi sống phân cách bằng sự chết.

Phấn cho xe dừng lại trước một khung cửa sắt. Ánh đèn từ bên trong hắt ra đổ dài trên mặt hẻm thành một vệt sáng mờ. Một con chó bẹc-giê từ bên trong nhảy xô ra sủa vang. Âm thanh chát chúa như chợt đánh thức Thư dậy cùng với tiếng máy xe vừa tắt ngấm. Không gian tĩnh mịch của con hẻm bị xé toang, kéo theo vài tiếng sủa khác đáp lại từ xa. Phấn mở cửa xe xuống, quát khẽ:
Ky Ky! Im nào! Ði vào trong nhà!

Con chó nghe tiếng chủ, im bặt, nhưng vẫn còn gầm gừ trước hai người khách lạ lúc ấy cũng vừa bước xuống xe. Tiếng giày đi, lết trên sàn xi-măng. Phấn loay hoay mở cửa sắt. Tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa và đoạn xích sắt đập vào cửa vang lên những tiếng động khô khan. Con chó quýnh quít đập đuôi phía bên trong. Nhưng cửa vừa mở nó thoát ngay ra ngoài. Phấn quát gọi:
Ky Ky! Ði đâu? Vào nhà mau!

Con chó không nghe, làm một vòng quanh chiếc xe đậu trước cửa rồi cuối cùng theo ba người vào nhà, lúc quấn bên chân chủ, lúc theo đánh hơi hai người khách.

Thư bước chậm chậm, nhìn những khung gỗ la liệt trong ánh đèn vàng kệch hắt lại từ một ngọn đèn tù mù treo lủng lẳng cuối xưởng. Nàng đoán chừng đây là một xưởng dệt. Ðồ đạc lộn xộn chật chội. Phấn bước vội vào phía trong bật thêm một ngọn đèn nữa rồi trở ra loay hoay tra chìa khóa vào ổ khóa một cái cửa ăn thông sang căn bên mặt. Thư đứng lại trong bóng tối. Bây giờ nàng mới cảm thấy mỏi rã rời, chỉ muốn được ngả lưng xuống một cái giường nệm nào đó. Nàng ngó Duẩn lúc ấy đang nhìn quanh dáo dác, vẻ chán chường.

Tuy nhiên Duẩn đã có vẻ tỉnh táo hơn lúc ngồi ở tiệm cà-phê. Anh thọc tay vào túi tìm diêm quẹt lửa châm điếu thuốc. Bàn tay run run. Ánh sáng rung động hắt lên khuôn mặt nhiều thịt, lúc nào cũng đỏ gay của anh và mái tóc bơ phờ. Các bạn thường gọi đùa Duẩn là “Tây say.” Duẩn nhận biệt hiệu đó không phản kháng, không buồn phiền một cách dễ dãi như anh đã dễ dãi chấp nhận nhiều sự việc khác, như việc đính hôn với Thục, chẳng hạn. Tất cả chỉ là một lô những sự tình cờ đến nỗi đôi khi làm Duẩn ngơ ngác mỗi lần nghĩ lại. Duẩn còn nhớ những lý lẽ người ta đưa ra để buộc anh phải làm lễ đính hôn với Thục. Giá Duẩn đừng ra thăm Thục khi nhận được điện tín của nàng báo tin mẹ nàng chết…

Thật ra mùa hè đó Duẩn cũng muốn có một lý do để rời Sài Gòn. Những người như Duẩn có thể làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi nào không cần lý do. Nhưng đôi lúc để thi vị hóa cho một chuyến đi, Duẩn mong có một cái cớ. Và không có cái cớ nào mà lại thi vị cho bằng ra thăm người yêu và chia sẻ với người yêu nỗi buồn mất mẹ. Sự hiện diện của Duẩn trong đám tang đó ngày hôm sau được truyền đi khắp cái thành phố nhỏ bé nơi ông cụ thân sinh ra Thục giữ một chức vụ quan trọng, để rồi tiếp đó là một cuộc đính hôn giữa Duẩn và người con gái hơn anh đến ba tuổi. Vì thể diện của gia đình Thục và cá nhân Thục, Duẩn về Sài Gòn với chiếc nhẫn đính hôn trên ngón tay mà bà cụ Duẩn đã nghiêm trang đeo vào tay anh, chiếc nhẫn cưới của bà. Bà mẹ anh lại quí Thục vì tính nết hiền lành, ngoan ngoãn. Duẩn chỉ ý thức một điều là anh không thể yêu Thục và ngược lại anh không thể làm trái ngược với ý muốn của mẹ anh. Anh thường ngơ ngẩn mỗi khi nhắc lại cuộc đính hôn bất đắc dĩ này. Duẩn chỉ còn một cách là kéo dài thời kỳ đính hôn để có thể tự do sống với mấy người bạn trai mà anh thương hơn bất cứ ai, ngoài mẹ anh, ở trên đời, kể cả những người con gái mà anh đón nhận bằng một đam mê cuồng nhiệt nhưng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi vài ba tháng để rồi lại nguội lạnh. Mặc dù Duẩn ý thức mình sống không thể không đam mê một hình bóng, nhưng đồng thời không thể sống mãi với một đam mê. Duẩn nghĩ mình là một nguời tình nhân không chung thủy song không thể không yêu đương.

Cái gì đã thúc đẩy Duẩn muốn đổi mới mãi? Có lẽ vì mỗi ngày anh mỗi phải tiếp xúc với bầy học trò con gái lúc nào cũng náo nức trong lứa tuổi dậy thì, những người con gái mang đầy sức sống, những người con gái chứa đựng trong họ sự tươi mát mà cuộc sống nhàm chán và tù túng đang tước đi dần ở người con trai hai nhăm là anh, là những người bạn đồng nghiệp còn trẻ của anh. Chỉ ở họ, ở những người con gái mới lớn, nhiều mơ mộng ấy còn mang cái nguyên vẹn, không âu lo về thời cuộc về trận chiến đang cướp đi dần của anh những người bạn, những người bạn hôm nay còn cười nói trong một kỳ nghỉ phép, ngày mai ngày mốt đã nghe tin chết hay bị cụt tay cụt chân trong một trận đánh nào đó trong trăm ngàn những trận đánh đang diễn ra mỗi ngày.

Tuy nhiên Duẩn cũng tự hào là anh chưa để khổ cho một người con gái nào. Bởi tình yêu của anh dành cho họ đến mau rồi cũng rụng mau, trước khi nó đưa đến những liên hệ sâu xa. Ðiều mà anh quan tâm, mà anh tha thiết, vẫn là những người bạn trai, cái đám bạn trai còn sót lại, đi học, đi dạy, tụ họp, đấu hót, giễu cợt – nhất là giễu cợt – và càng giễu cợt mỗi khi cuộc sống dồn họ vào ngõ bí, khép họ vào những mặc cảm nặng nề, không lối thoát, hoặc có, thì cũng là một ngỏ thoát để rồi lại rơi vào một bế tắc khác.

Thỉnh thoảng, một đôi người trong bọn anh, như Cương, may mắn, có một lối thoát không phải là lên đường nhập ngũ, mà là du học. Và trong những lá thư họ gửi về, Duẩn đọc thấy một chán nãn khác mọc rễ, một thứ mặc cảm khác nẩy sinh. Trong bọn có người, như Quảng, đi xây dựng lại một mớ giá trị đã bị vuột mất, đã bị giễu cợt hóa, bằng cách đi xa, nhận việc huấn luyện những lớp người từ các nông thôn về theo học các lớp đào tạo một căn bản chính trị, tại Vũng Tàu. Quảng đã thành công một phần nào trong việc đi tìm lại những giá trị cần thiết đó. Nhưng phải nhận là Quảng trước đó, vẫn còn ít nhiều quan niệm đứng đắn trong đầu, nhờ giáo dục của ông bố.

Duẩn bỗng nhớ đến cái nhìn tha thiết của Quảng lúc anh quyết định lên xe với Thư về đây và nhờ Quảng sáng mai đến trường xin phép hộ. Duẩn, mày về tao ngủ đi sáng mai mọi sự sẽ bình thường lại, hoặc mày sẽ đi dạy, hoặc mày sẽ nghỉ và ở chơi với tao. Duẩn nói như gắt, sáng mai nếu tao chưa về kịp mày cứ đến trường bảo là tao ốm, tao chán lắm nếu mai phải nhìn mặt tụi học trò, vì thực sự tao cũng đang chán tao nữa đây này. Khi nói điều đó, Duẩn nghĩ là đêm nay sẽ được nằm trong vòng tay Thư, có thể chỉ nằm trong vòng tay Thư hoặc anh sẽ ôm Thư vào vòng tay vuốt tóc nàng, an ủi nàng để nghe như chính mình an ủi mình. Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Duẩn có cảm tưởng từ mấy năm nay quen biết với Thư, lần đầu tiên anh biết nàng.

Lúc ấy Thư im lặng trong xe nhìn Duẩn và Quảng dằng co nhau trên hè đường sau khi cả bọn ra khỏi tiệm cà-phê. Cuối cùng Duẩn lên xe, đóng cửa lại, bảo Phấn anh cứ lái đi. Phấn cho xe chạy đi. Tiếng Quảng gọi với theo Duẩn và mất hút ở phía sau. Có lẽ chính Quảng cũng đang cần sự có mặt của Duẩn. Qua tấm kính chiếu hậu, Duẩn thấy Quảng lầm lũi băng qua đường. Tự nhiên Duẩn thấy thương Quảng xót xa.

Phấn xô cánh cửa mở rộng. Duẩn bước theo Phấn vào phòng. Căn phòng bừa bãi những sổ sách và thư từ. Ðằng cuối phòng có một khung cửa che rideau thông vào một căn buồng phía trong, Duẩn thả người xuống một chiếc ghế xa-lông kiểu cũ không có nệm đặt ngay chỗ ra vào, thở ra, đôi mắt nhắm lại.

Phấn bật đèn ở trong buồng trong rồi quay ra nói với Duẩn:
Trong này có giường màn, anh với cô Thư có thể nằm nghỉ.

Duẩn ôm lấy đầu bắt đầu nặng chình chịch. Mỗi lần uống rượu vào, Duẩn thường bị nặng đầu khi cơn say bắt đầu nhạt. Biết vậy nhưng Duẩn vẫn không thể không uống.

– Anh nhức đầu à? Có thuốc đấy. Hồi nãy uống có nhiều không? Nhảm quá. Lẽ ra phải có soda. Tôi quên khuấy mất chỉ vác có chai whisky lên… Ðể tôi lấy thuốc anh uống.

Duẩn xua tay, nói và cảm thấy xa lạ với giọng mình:
Không sao đâu. Anh cứ để bọn này tự nhiên. Làm phiền anh quá đi.

– Có gì mà phiền. Bây giờ tôi để hai người ở đây. Cần gì cứ tự tiện. Có nước lạnh ở phía sau…

Thư bước vào phòng ngồi xuống trên chỗ tì tay của chiếc ghế Duẩn đang ngồi bóp trán:
Anh không ở lại với tụi này? Anh đi đâu bây giờ? – Giọng nàng bình thản, hơi mệt mỏi.

– Không, tôi phải trở về Thủ Ðức.

– Bây giờ có lẽ đã tới giờ giới nghiêm anh về tận Thủ Ðức, làm sao kịp?

– Kịp mà. Mới có mười một giờ rưỡi. Cô đi ra phía sau với tôi, tôi chỉ cho một vài nơi cần thiết…

Thư rời chỗ Duẩn, đặt chiếc ví tay lên mặt bàn, bước ra sau với Phấn. Phía sau là một cái xưởng lớn hơn chiếm cả hai căn, nhưng trống hơn. Những khung cửi đặt ngổn ngang. Thư ngước nhìn mái nhà cao, xung quanh gần như không có gì che đậy từ mép tường cao hai thước lên đến mái. Phấn trỏ tay về phía một khung cửa nhỏ nằm tận cuối xưởng:
Nếu cô cần đi ngoài, lại đó…

Thư nói cám ơn anh.

Thấy nàng nhìn cái máy điện đặt ở giữa xưởng, Phấn giải thích:
Ở đây chúng tôi dùng điện để chạy máy.

Thư bắt gặp cái cảm giác lạc lõng giữa khung cảnh của một xưởng dệt vào lúc ngưng hoạt động. Nàng thấy mệt mỏi. Thoạt tiên là một bữa tiệc, rồi Duẩn say rượu và yêu cầu nàng ở lại với anh. Thư nhận lời với ý nghĩ là Duẩn đơn độc và cần sự có mặt và săn sóc của nàng. Thư đã từng có những lần say rượu nhưng lần say rượu làm Thư nhớ hơn cả là hôm đi ăn với Cương và Duẩn sau khi tan học ở Văn khoa. Lâu rồi. Hôm ấy Cương đã thức cả đêm với Duẩn, để săn sóc cho nàng. Trong cơn nửa say nửa tỉnh Cương đã hỏi nàng nhiều lần lý do khiến nàng khóc sướt mướt trong khi say. Làm sao có thể nói được? Một nỗi cô đơn thình lình úp chụp xuống và tôi bị mất hút trong đó, và cái thế giới vô thức trong phút chốc được cởi tung như một đoàn quân ô hợp kéo vây kín mọi ngả tâm hồn. Từ đó mở đầu cho một rạn nứt trong tình yêu giữa Cương và tôi. Tôi tưởng sự có mặt của mình có thể làm gì được cho Thư nhưng bây giờ tôi thấy rõ là mình chẳng làm được gì cả tôi bất lực hơn tôi tưởng. Thư cố níu kéo, anh nhầm rồi em không thể nói chẳng phải vì cố tình muốn giữ cho mình sự riêng tư, lỗi không ở anh, đừng nói như vậy. Nhưng dù muốn dù không, họ đã xa nhau.

Một hôm, Cương đến cho Thư biết anh sắp đi Pháp. Họ trải qua với nhau một ngày trong dịp Cương có việc phải đi Kiến Hòa và đến rủ Thư đi cùng cho biết. Thư vẫn thích những chuyến đi xa gọi là “giang hồ vặt” như vậy. Thư nhớ lúc hai người ngồi ở bờ một cái hồ ở Kiến Hòa và tưởng tượng như đó là hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội – cái kỷ niệm cuối cùng họ có với nhau trước khi Cương lên đường sang Pháp. Chúng mình đã ngu xuẩn đâm đầu đi tìm cái tuyệt đối. Nhưng lạ là tôi chẳng hề hối tiếc. Mỗi một vấp ngã của tuổi trẻ là một kinh nghiệm, một kỷ niệm đáng yêu, nó giúp cho cuộc sống thêm sâu thêm phong phú. Có lẽ một đôi khi tôi thèm cái tuổi trẻ bình thản của nhiều người con gái bình thản và an phận. Nhưng tôi cũng còn kiêu hãnh về cuộc sống nhiều gai góc của tôi hơn. Phải chăng vì điều đó làm tôi thấy tôi là “một-người-nào-đó” chẳng thuộc về cái số đông?

Thư quay lại:
Xưởng này của anh?

– Vâng.

– Ở tuổi anh mà gây dựng được một cơ nghiệp như thế này, thật là giỏi. Bọn chúng tôi bị chữ nghĩa, sách vở làm mụ đi và mất hẳn vẻ hoạt bát linh động cần thiết…

Phấn nói:
Nhưng cô và các bạn cô có tuổi trẻ, có học thức…

Phấn có vẻ thành thực mến phục bọn Thư. Thư bật cười lên một tiếng ngắn, nói và biết là chẳng bao giờ Phấn nghĩ và thông cảm với điều nàng nói:
Tuổi trẻ và học thức như bọn tôi mà làm gì, hả anh? Ra đời, có lẽ còn thua những người tháo vát như anh.

Thư bắt gặp một nỗi chua chát. Hình như chính mình cũng còn thích làm ra vẻ chua chát như vậy nữa? Thật khôi hài. Mình có đang sống thực tại hay thật ra đây chỉ là một lớp kịch? và Thư cũng ý thức là tra hỏi xem mình có thực không, chỉ làm cho mình trở nên không thực, mơ hồ hơn.

Thư hỏi mượn Phấn khăn mặt. Gã đàn ông sốt sắng một cách không ẩn ý, chạy đi lấy khăn mặt và không quên mang ra cho Thư một bánh xà-phòng thơm.

Thư nói:
Cám ơn anh. Thật phiền anh quá!

Rồi nàng nói luôn, không đợi Phấn lên tiếng:
Có lẽ Duẩn vẫn còn say. Duẩn là bạn thân với tôi từ dạo ở Văn khoa. Tôi không muốn để Duẩn nằm một mình đêm nay…

Thư ngừng lại, bỗng thấy sự lố bịch của mình. Việc gì phải phân trần với Phấn? Ðêm nay mình sẽ trải qua một đêm ở đây với Duẩn, ngày mai rời đây, không cần tìm hiểu nơi này, và gã đàn ông này rồi sẽ chẳng bao giờ mình gặp lại, hắn không có gì để mình lưu luyến bận tâm, thì việc gì phải phân trần làm chi vô ích? Thư múc nước, xấp tay cho ướt rồi xát xà-bông và rửa tay. Nàng tưởng tượng khi vục nước lên rửa mặt, mùi thơm của xà-bông còn vương lại trên hai bàn tay sạch sẽ sẽ tỏa ra ôm lấy khuôn mặt mệt mỏi của mình, và làm dịu đi những suy nghĩ day dứt đang xâm chiếm tâm tư nàng. Thư rửa sạch nước xà-bông ở tay, múc một gáo nước khác và thực hiện ý nghĩ trên. Nước lạnh thấm vào da mặt, thấm vào đầu óc, thấm vào tâm hồn! Nàng nghe người nhẹ nhõm. Nàng muốn cứ tiếp tục vục nước lên mặt như vậy hoài hoài. Thư nhớ có một dạo nàng thích tắm buổi sáng, và ra phố với những hạt nước lấm tấm trên da thịt. Từ cái ý thích đó, ở nàng nảy sinh ra cái thú đầm mình dưới mưa cho nước mưa ngấm vào tận tâm tư. Nhưng từ hai tháng nay, Thư mất thói quen tắm sáng. Nàng đâm sợ nước.

Tiếng giày của Phấn đi lên đi xuống thu xếp một vài vật dụng. Có tiếng hắn bảo Duẩn đi rửa mặt cho mát. Tiếng Duẩn đáp lại vâng anh mặc tôi, phiền anh quá bây giờ anh lại về Thủ Ðức à. Tiếng Phấn đáp thường tôi về trên ấy ngủ đêm, nhưng nhiều khi bận công việc tôi cũng ngủ lại dưới này, anh thấy bớt chưa. Dạ cũng khá ạ. Tiếng Phấn, chắc hồi nãy ở tiệm cà-phê anh ói ra hết. Duẩn nói vâng cũng nhờ ói ra hết với ly nước chanh nên mới khá thế này, không hiểu sao lần này tôi uống rượu tồi thế, bậy thật. Phấn nói may mà lúc nãy không gặp gió; anh có nóng cứ bật cái quạt này nó tự động, mà cứ chạy một giờ thì nó ngừng lại, tôi gắn thêm cái đồ tự động này để đề phòng đêm mình có ngủ quên đi cũng không sợ, à tôi dặn anh và cả cô Thư đừng đụng gì đến những lọ thuốc này của tôi. Duẩn hỏi sao thế anh. Phấn nói dặn là dặn phòng hờ vậy vì có thể nguy hiểm. Duẩn cười, được mà anh yên trí…

Thư đổ gáo nước xuống hai bàn chân trong khi dùng khăn mặt lau khô nước trên da mặt, và cọ hai chân vào với nhau gượng nhẹ, cố không gây tiếng động.

Phấn trở xuống nhà:
Tôi phải xem xét lại một vài thứ máy móc xem buổi chiều họ đã tắt đi chưa…

Tiếng giày của Phấn đi về phía cuối xưởng. Thư chống tay lên miệng lu nước, một nửa người nghiêng về phía trước, nàng soi bóng mình trong nước. Mái tóc xõa về phía trước. Mặt nàng là một khoảng tối tăm. Trong cái khoảng tối tăm ấy, những ý nghĩ ngổn ngang. Mình đến đây trong đêm nay, làm gì nơi nầy. Nơi đây là sự xa lạ. Duẩn cũng trở thành một kẻ xa lạ. Thư nhớ lại ngày nào còn có cả Cương. Bây giờ hình ảnh đó không còn đủ sức gợi cho nàng dù một chút thương nhớ. Lâu quá rồi. Sau Cương đã có những khuôn mặt khác đến thay thế. Họ đến rồi đi như những cái bóng. Thư chấp nhận dễ dãi và cũng dễ dãi buông lỏng vòng tay khi thấy đã đến lúc không thể lưu giữ. Buồn chán ngập tràn, tình yêu chẳng phải là một phép mầu. Nhưng mình vẫn cố sục sạo tìm kiếm ở mỗi một người đàn ông – tìm gì? một mảnh bản ngã chưa chịu tìm lấy đường về? Cũng phải có một thay đổi nào đó. Thư đã lựa chọn, dù biết rằng mình sẽ phải trả một giá rất mắc về sự hiện diện của đứa con trong tương lai. Vả lại, có gì đâu mà phải băn khoăn kia chứ? Thư mơ hồ cảm thấy như chính mình cũng muốn nhận một thử thách. Thư nhớ dạo còn ở bậc trung học, mỗi lần phải lựa một trong những đề tài giáo sư ra, Thư thường chọn những đề tài khó và phức tạp. Ðôi khi phải bỏ dở và lựa một đề tài khác dễ hơn. Nhưng Thư biết lần này không thể bỏ cuộc. Thư đã đánh cuộc và nàng sẽ phải đi đến cùng.

Phấn trở ra, móc túi đưa cho Thư mớ chìa khóa:
Tôi đưa cho cô chìa khóa cổng sắt. Sáng mai khi rời đây cô mở cổng rồi để chìa khóa lên nóc cái hộp đựng công-tơ điện ở bên tay mặt – tôi sẽ chỉ cho cô thấy cái hộp đó – rồi cứ thế dập cửa vào. Nếu mấy người thợ của tôi lại, cô cứ để cho họ vào nhưng nhớ là để chìa khóa nơi tôi dặn cô…

Thư gật đầu nói vâng vâng. Hai người cùng lên nhà. Thư có ý nghĩ giá hồi nãy cứ đóng kịch với Phấn và biết đâu… Nàng mỉm cười với ý nghĩ đó. Hắn có của nhưng không phải là type người của mình và nhất là hắn có nhiều cái tinh ranh nhỏ nhặt và buồn cười. Vả lại, dẫu chưa có ý niệm gì về giọt máu trong người, Thư cũng cảm thấy không muốn đứa nhỏ sẽ có một ngộ nhận về người cha của nó. Mình đã, đang và sẽ còn nhìn thẳng vào cuộc sống với đôi mắt mở lớn, không lý gì đứa con làm bằng xương bằng thịt bằng máu của mình lại có thể mang trong nó một sự ngộ nhận lớn lao như vậy về cái thân thế của nó. Hãy phán đoán tôi, hãy xa lánh, nếu cần. Nhưng xin cho tôi được sống chân thực. Thư cúi mặt nhìn xuống hai chân, nghe xót xa dâng lên.

Phấn đi rồi, Thư dập và khóa cổng xong bước chầm chậm trở vào nhà. Duẩn đã bỏ ra sau rửa mặt. Tiếng nước rơi lã tã trên nền xi-măng vỡ. Thư nghe cả tiếng súc miệng sục sục của Duẩn. Nàng kéo chiếc rideau che cửa thông vào buồng trong sang một bên và bước vào. Bên trong đồ đạc cũng gồm những sổ sách và chai lọ lộn xộn bừa bãi. Một chiếc tủ gương kê tại cuối phòng. Các bàn kê gần bên. Không có ghế. Nơi duy nhất có thể ngã lưng là một chiếc divan. Một đống chăn màn xếp tại góc divan. Không có chiếu. Thư ngó chiếc divan, nàng vừa thất vọng vì đó không phải là một nơi nằm mà nàng mong muốn, vừa ngượng ngập. Thư vẫn thường có những ngượng ngập như vậy mỗi khi nhìn vào nơi nằm nghỉ của một người đàn ông. Thư chưa làm quen được với hình ảnh về nơi sinh hoạt thân thiết đó của người đàn ông, dù người đó là một người bạn thân hoặc có thể là một người tình. Thư cũng biết là nỗi ngượng ngập của mình có vẻ vô lý. Thư không xa lạ gì với người đàn ông cả. Nhưng nàng cũng không cố gắng bỏ sự ngượng ngập đó. Ðối với nàng đó là sự nguyên vẹn duy nhất nàng còn giữ được.

Thư bước lại đứng trước gương. Nàng nhìn vào đôi mắt mình rồi thả cái nhìn xuống thân thể đang nẩy nở hơn lúc bình thường. Thư đưa tay vuốt bụng. Nàng rời chỗ đứng lại divan ngồi khi nghe tiếng chân Duẩn bước vào phòng. Duẩn vừa đi vừa lau mặt lau cổ bằng khăn mùi-xoa riêng. Anh dừng lại nhìn quanh căn buồng rồi đến ngồi xuống bên Thư. Một bầu không khí im lặng bao phủ lên hai người. Duẩn úp hai bàn tay lên đầu gối.

Một lát Thư lên tiếng:
Duẩn thấy đỡ chưa?

– Còn mệt. Ðầu nhức như búa bổ.

Anh ngó chung quanh, như chợt ngạc nhiên về sự có mặt của mình giữa một nơi hoàn toàn xa lạ này. Duẩn bật cười một tiếng ngắn, tiếng cười nhuốm vẻ chua chát thoát ra từ một bất lực. Những cố gắng để thoát ra khỏi cuộc sống chật chội tù túng chỉ làm cho con người ngột ngạt hơn và muốn phát điên. Chấp nhận không phải là một ổn định cho tất cả. Ðó chỉ là một giải pháp tạm thời để rồi đến một lúc nào đó… Duẩn nắm lấy bàn tay Thư áp lên má. Những giọt nước lạnh còn lấm tấm nơi chân tóc anh.

Tiếng Thư hỏi nhỏ:
Cười gì vậy?

Duẩn lắc đầu từ chối trả lời. Anh khép đôi mắt lại trong giây lát, nghe sự êm ả thoát ra từ lòng bàn tay người con gái.

– Duẩn biết tôi đang nghĩ gì không?

Duẩn đáp không, vẻ chờ đợi.

Thư nói, mắt ngó thẳng về phía trước, giọng mơ hồ:
Tôi nghĩ giá mình đang sống ở miền biển lúc này đây tôi sẽ chạy ra bãi biển, sẽ bỏ dép chạy chân không trên nền cát ướt lạnh và đôi khi đứng lại lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại như những lời thì thầm đầy bí mật.

– Còn tôi, tôi tưởng như ngày mai mà phải thức dậy, phải vác bộ mặt mô phạm vào lớp, phải nhìn bọn học trò chắc tôi chịu không nổi. Nhiều buổi sáng thức dậy, chỉ còn mười lăm phút để rửa mặt đánh răng mặc quần áo và uống vào một ly cà-phê pha vội, tôi thấy ngao ngán kinh khủng. Nhưng vẫn không đủ can đảm thay đổi lại cuộc sống. Cuộc sống mà tôi hiện đang sống tuy cũng đòi hỏi sự cố gắng, nhưng là những cố gắng thụ động. Có lẽ tôi hèn nhát. Có lẽ…

Duẩn chặc lưỡi, ngưng nói. Nét mặt anh đăm chiêu, buồn bã. Anh ngửa bàn tay lên đùi và nhìn vào đó bất động.

– Ðộ nhỏ tôi có một giấc mơ, cho đến bây giờ mỗi lần nghĩ đến tôi vẫn còn tưởng như mới đêm qua mình nằm mơ vậy thôi. Tôi mơ thấy tôi trôi giạt vào một hòn đảo nhỏ xíu ở giữa biển sóng lớn nước mênh mông. Ở giữa đảo là một cái cây trụi lá, lớn như một cây cổ thụ và rễ chiếm hết đảo. Tôi như không thấy mình đâu nữa. Và tôi mơ hồ lo sợ một lúc nào đó cái cây bị sóng biển đánh bật rễ và mình sẽ không còn nơi nào để bấu víu…

Duẩn im lặng nghe Thư kể. Anh cảm thấy một nỗi xúc động mãnh liệt đang xâm chiếm người con gái.

– Rồi ra sao?

– Chả ra sao cả. Những giấc mơ vẫn vậy. Duẩn tưởng tôi nghĩ đó là một cái điềm gì à? Không đâu. Tôi vẫn nghĩ và tin là cuộc sống của tôi do tôi tự tạo một phần lớn. Tôi kể lại giấc mơ đó vì thấy là đã lâu rồi mà cái hình ảnh đó vẫn có thể làm tôi thấy sởn gai ốc mỗi khi nghĩ đến.

Duẩn châm điếu thuốc, hút một hơi, rồi sực nhớ ra cơn nhức đầu của mình, anh dụi điếu thuốc, đứng dậy đi vòng quanh phòng nhìn vào đống chai lọ nhiều màu sắp lộn xộn trên các kệ đóng sát vào tường. Thư trải một tấm mền lên divan và ngã lưng nằm xuống, tâm hồn lãng đãng. Một tay nàng để sau đầu làm gối, tay kia đặt trên bụng. Mong con sẽ là con trai, làm con trai để chịu đựng, chịu đựng cuộc đời, và nhất là để thương mẹ.

Ðôi khi tôi cũng tự hỏi mình có đang bi thảm hóa cuộc sống? hay thực sự tự nó cuộc sống đã có cái vẻ bi thảm? Tôi băn khoăn và thường chọn thái độ dửng dưng. Chả ích gì. Tất cả chả ích gì. Tôi nhắm mắt lại và tôi tự nhủ với tôi tạm thời hãy quên đi hết cả. Tôi cảm thấy Duẩn đang đến và ngồi xuống bên tôi, cúi nhìn tôi. Tự nhiên tôi muốn khóc lạ. Tôi lấy tay bưng mặt và cười lên một tiếng ngắn, nghe khô và buồn, như tiếng một viên sỏi bị vất xuống lòng giếng cạn nước, mất hút trong bóng tối của đáy sâu.

o O o

Vào cái lúc người con gái chờ đợi nhất để sẵn sàng buông thả vào trong cơn sốt rạo rực của cơ thể, Duẩn bỗng ngừng lại, im lặng, đăm chiêu. Hơi thở anh bớt dồn dập hơn trong một cố gắng tự kìm hãm. Duẩn mím môi, thở một cách khó khăn như người bị nghẹt mũi. Khoảng cách còn lại thật dễ dàng để vượt qua. Duẩn ngừng lại, ngơ ngẩn, chợt nghe buồn bã. Anh khẽ buông tiếng thở dài, gục đầu xuống vai người con gái, mắt nhắm lại.

Rất lâu, trong bóng tối, anh nghe tiếng người con gái cất lên, rụt rè:
Sao thế?

Có một cái gì như hờn tủi và cũng thật ráo hoảnh trong giọng nói. “Tôi cũng không hiểu sao tôi lại ngừng lại. Tôi tự thấy mình không có quyền tiến xa hơn.” Duẩn đáp và cũng nghe giọng mình thật ráo hoảnh:
Tại… không muốn…

Duẩn bỏ lửng câu nói, một sự im lặng rơi xuống giữa hai người. Duẩn mơ hồ thấy mình khổ sở, day dứt: Trong phút giây tôi muốn được gọi Thư là “em” và xưng “anh” với em, Thư ạ. Em im lặng, có thể em đang hờn giận. Nhưng anh không muốn anh sẽ ân hận bởi anh bắt đầu cảm thấy yêu em. Ðiều đó có vẻ khôi hài. Nhưng điều đó làm anh xúc động. Cũng như anh vẫn khôi hài trong cuộc sinh hoạt của anh đồng thời cảm thấy một xúc động sâu xa. Hình như trong khi mình giễu cợt là mình ý thức rõ hơn cả về cái thân phận của mình giữa cuộc sống ồ ạt xô bồ này, giữa cuộc sống mà cá nhân chẳng nghĩa lý gì và người ta bị cưỡng bức phải làm những việc mà mình không muốn. Và anh, anh muốn không làm cái việc mà anh rất đang tha thiết. Ðể mọi sự còn nguyên vẹn.

Vả lại, cái giọt máu mà em đang mang trong người với anh đã là một cái gì, một con người mà anh tự thấy mình không được quyền xúc phạm. Cho anh được quý trọng. Ðó là điều duy nhất anh muốn giữ lại, một cách tự nhiên, không cố gắng, như một thứ báu vật.

Thư trở mình, vuột khỏi tay anh, xoay lưng lại phía Duẩn. Duẩn cảm thấy có một sự vùng vằng. Lẽ ra anh phải kéo em lại, ôm chặt lấy em, vuốt ve và nếu cần giải thích. Nhưng anh sợ chính anh rồi sẽ không giữ nổi bởi thằng người phá phách trong anh đang trổi dậy, đòi hỏi. Duẩn nằm yên lặng nhìn khoảng da thịt trắng hiện ra mờ mờ dưới mắt thành một vệt chảy dài bất động. Một nỗi nghẹn ngào chận ngang cổ. Tự nhiên anh thấy thèm vô cùng được gục vào chỗ trũng nơi chiếc gáy trắng mờ mờ kia, và nếu có thể, để khóc lặng lẽ…

o O o

Thư mở mắt. Phải một lúc nàng mới định thần và nhớ ra mình đang nằm ở đâu. Bên cạnh gã con trai đã thiếp ngủ, lưng trần lớn quay lại phía nàng trong một dáng nằm rút cong như con tôm, hơi thở đều đều của một người say ngủ. Thư nghe cổ họng mình khô ran. Thư cảm thấy muốn ra sau vô cùng. Nhưng nàng nằm nán lại, ngần ngại khi nghĩ đến lối đi chật chội, lỗ mỗ và tối mò của xưởng dệt. Trong yên lặng có tiếng vó ngựa gõ lóc cóc và tiếng xe thổ mộ lăn uể oải qua trước nhà. Có lẽ vào khoảng bốn năm giờ sáng gì đó. Thư cảm thấy rã rời và nghe cô đơn kỳ lạ. Hình ảnh những đêm thao thức bên người đàn ông thiếp ngủ một cách thoả mãn đến trong trí nhớ. Tại sao không bao giờ mình thấy thoả mãn cả? Luôn luôn là một khoảng trống sau đó với những dày vò không nguyên do không đối tượng. Và với một biến đổi một mình mình biết một mình mình hay. Tôi bỗng cảm thấy tất cả cái cô đơn mênh mông của một Grégoire khi hóa thân thành con bọ để rồi chết khô trong sự cô đơn và bị ruồng bỏ. Tôi đã khủng khiếp khi đọc đến đoạn Grégoire tuyệt vọng nhìn xuống sự thay đổi của thân thể mình. Có lẽ tôi tuyệt vọng và bàng hoàng, nhưng tôi còn cảm thấy một-cách-không-thể-tự-kiềm-chế-được một sự rung động kỳ lạ…

Tôi đang hóa thân để trở thành một người mẹ, một người đàn bà thực sự. Có lẽ tôi đang tìm về tôi, cái TÔI thực sự…? Thư khóc lúc nào không hay.

o O o

Thư mở mắt lại vào lúc có những tiếng động đổ xuống, thoạt tiên từ từ, đều đều, rồi nhanh dần, và nàng bỗng cảm thấy bị vây tỏa trong một thứ âm thanh dồn dập của một cơn mưa rào. Trời mưa…! Thư nhẩm với mình. Căn phòng vẫn tối om. Thư nghe một cảm giác lành lạnh. Nàng kéo tấm mền lên ngang ngực, lần hồi nhớ lại những việc đã xảy ra. Thư thấy hai má mình khô. Nàng nhớ ra vào lúc gần sáng hình như nàng đã khóc. Cũng có lẽ mình khóc trong giấc mơ. Trời mưa…! Trời mưa làm Thư thấy nhẹ nhõm hay chính vì những giọt nước mắt trong đêm…? Thư chỉ thấy một sự thanh thản. Bên cạnh Duẩn vẫn thiếp ngủ. Vẫn dáng nằm cũ. Và một hơi thở đều đặn, mệt nhọc.

Thư cảm thấy tức bụng. Nàng lần mò trở dậy, vén màn bước ra, lấy chiếc áo sơ-mi của Duẩn vất trên bàn mặc vào rồi lặng lẽ vén rideau đi ra. Trời đã sáng rõ. Thư sững sờ nhìn qua lớp cửa sắt. Bên ngoài trời khô ráo. Thư chợt nhận rõ ra tiếng rào rào mà nàng nghe lúc còn nằm trong màn thực ra là tiếng của những chiếc khung cửi bắt đầu hoạt động ở xung quanh hàng xóm. Thư bước nhanh ra phía sau. Những khung gỗ nằm bất động. Lát nữa đây bọn thợ sẽ đến và bắt đầu làm việc một cách ồn ào… Thư bỗng cảm thấy bị tràn lấn bởi những tiếng động đều đều dồn dập xung quanh. Nàng súc miệng rửa mặt, rồi trở lên nhà. Duẩn vẫn còn ngủ. Thư mặc áo quần, chải đầu xong vén màn lay bạn dậy. Duẩn ú ớ một lúc rồi tỉnh hẳn. Sự mệt mỏi còn nặng trĩu trên đôi mắt đỏ ngầu. Anh ngáp dài, nhận ra Thư.

– Sáng rồi à? A… Trời mưa?!…

Thư bật cười:
Không phải đâu! Tiếng máy dệt đấy. Lúc nãy tôi cũng có cảm giác như Duẩn…

Duẩn nhỏm dậy, hai tay vòng lấy đầu gối, vẻ ngơ ngẩn, giọng anh đặc sệt:
Thế à?

Thư nói:
Duẩn dậy sửa soạn đi. Bọn thợ sắp đến bây giờ. Mình nên rời đây trước khi họ đến.

Duẩn uể oải đứng dậy, bước ra sau. Khi Thư đang loay hoay thu dẹp chăn màn thì có tiếng gọi và đập vào cửa sắt. Tiếng Duẩn trả lời tôi ra đây. Thư đứng trong phòng ngó ra, Duẩn mình trần loay hoay. Một tốp bốn, năm người đàn ông kéo vào, tiếng nói chuyện giọng ngái ngủ, đứt quãng…

Lúc Duẩn trở vào, Thư đang dở xem một tập hình trên bàn. Anh nhìn mái tóc nghiêng của Thư và cảm thấy một bông hoa nhỏ vừa hé nụ trong anh. Anh đứng lại bên khung cửa, bỡ ngỡ ngây ngất. Anh tự hỏi tại sao từ mấy năm nay, bây giờ anh mới cảm thấy thế, từ dạo quen Thư đến giờ. Người con gái có cảm giác bị nhìn. Nhưng nàng vẫn giữ nguyên thế đứng cũ, không nhìn thấy gì trong những tấm hình trên tay – như thể nàng biết là quay lại sẽ làm cho bông hoa e thẹn không nở nữa.

(Trong tập truyện Mưa không ướt đất, 1967)

Khi biết thương màu lá – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)

Suốt buổi chiều tôi đi qua dưới những tàn lá vệ đường. Từ lúc mặt trời ban trưa đổ lênh láng trên da thịt rám nắng ướt mồ hôi, cho đến khi hoàng hôn lần xuống, màu xám xanh của trời phơn phớt cùng những ngọn gió mát thổi hây hây từ con sông quen thuộc. Tôi đi hái những trái bàng xanh, đè nghiến nó trên mặt đường, dùng đá nhọn hay chiếc guốc mộc đập vỡ nát lớp vỏ ngoài xơ xác, đôi chút hột bàng không còn nguyên vẹn, từng mảnh nhỏ béo bùi trong miệng. Hồi đó, tôi chưa biết thương màu lá. Tôi chẳng hề quan tâm đến lá cây, lá non, lá vừa xanh hay lá chết vừa lìa cành. Tôi chỉ chú ý đến những trái chín.

Và có lẽ không nơi nào bằng được vườn nhà tôi, quanh năm cây đầy trái. Mùa nào cũng có một thứ trái cây vừa ửng chín, thay phiên nhau cống hiến quả ngọt cho tôi không bao giờ thiếu vắng. Hết nhãn lồng đến mãng cầu, trứng cá, trứng gà, cam, quýt, thanh trà, mít, khế ngọt, ổi, “chay”… và một vài thứ khác nữa, tưởng có thể bày một cửa hàng trái cây ngay trước cổng. Nhưng nhà tôi không phải là một nhà buôn bán. Nhà sống êm đềm tĩnh mịch, dành những căn phòng cổ kính với bàn thờ ông bà nghi ngút khói hương cho người lớn. Còn khu vườn hoàn toàn dành riêng cho trẻ thơ.

Và trẻ thơ thì không thích đổi chác. Trẻ thơ xẻ từng múi bưởi ngọt đem chia sớt cho bạn bè. Đêm đêm khi đói bụng trẻ thơ đến trước cổng nhà bạn, huýt sáo ra hiệu rồi xúi bạn xin mẹ vài đồng để hai đứa dắt tay nhau ra chợ ăn chè đông sương. Trẻ thơ, thường là một kẻ hào hoa, đôi khi phải làm hành khất… “đại hiệp”, nhưng chẳng bao giờ là một nhà doanh thương mại bản.

(Đến nay, khi đã lớn, tôi vẫn còn là một kẻ hành khất hào hoa và cũng là một khách hào hoa… khất thực).

… Vườn nhà đến mùa trăng, tôi bỏ quên vườn. Vì một ngày lễ Trung thu tưng bừng đang được tổ chức ở trường học.

Trường nằm bên bờ sông, năm ấy thay vì phát quà bánh Trung thu chán phèo như thường lệ, thầy giáo dạy môn sử ký đề nghị dựng lại một chiến tích lịch sử oai hùng trên sông: Hưng Đạo Vương đại thắng Ô Mã Nhi. Cả trường bận rộn tập dượt liên tiếp mấy ngày. Áo mũ xênh xang, gươm giáo sơn phết hoa hòe, pháo khói màu cũng xoay được đủ cả. Ông hiệu trưởng chạy đi thuê mấy chiếc đò, thầy giáo lật lại cuốn Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim để tìm thêm vài chi tiết.

Thế rồi chiều mùa thu hôm ấy, nước sông Hương gợn sóng, là Bạch Đằng Giang dậy sóng.

Đáng buồn thay, tôi bị xếp vào phe quân Tàu, lại phải thủ vai Ô Mã Nhi mới chết chứ! Tụi được làm quân Việt bây giờ đang hớn hở múa tay múa chân hăng hái xuống thuyền ở bờ sông bên kia. Cái thằng bạn cùng lớp được vinh dự và may mắn làm Hưng Đạo Vương lăng xăng sửa râu sửa nón, tay cầm kiếm gỗ hứng chí vung vẩy.

Quân tàu phù như bọn tôi thì ngồi trên đò mặt mày rầu rĩ, những bộ mặt bôi phấn vẽ râu khi méo xẹo bất mãn trông như những thằng hề. Chưa ra quân mà biết chắc đã thua trận rồi, làm sao cãi lại lịch sử được!

Bên kia bờ, đại quân Việt đã từ từ chèo đò tách bến, “khí thế” coi dũng mãnh gớm. Quân Tàu chưa chi mà đã thấy bủn rủn tay chân. Tôi phải vén cái mặt nạ Ô Mã Nhi lên một chút, hớp một miếng “bia lây” để lên tinh thần, rồi thúc hối “quân lính” chèo thuyền xung phong. Đúng như chương trình, bọn tôi được tấn công tưng bừng một lúc, Hưng Đạo Vương ra lệnh lui binh để dụ địch. Quân địch chèo đò tại một quãng, rồi thi nhau ầm ĩ la hét thách thức quân Tàu đuổi theo.

Tôi đang ngần ngừ. Tiếng thầy giáo cố vấn đang chạy dọc theo trên bờ sông gân cổ trong máy phóng thanh:
Đuổi theo đi… Còn chờ gì nữa?

“Phó tướng” của tôi, một thằng chuyên môn đứng nhất về Việt sử, lên giọng “quân sư” ngăn cản:
Đừng dại. Coi chừng trúng kế, tụi nó dụ mình đến khúc sông có đóng cọc sắt để phục kích đó.

“Ô Mã Nhi” bực mình, càu nhàu:
Ai mà không biết. Nhưng thầy đã dặn mình là phải đuổi theo để tụi nó bao vây bắt sống. Làm sai chương trình là chủ nhật bị cấm túc liền.

Thế là quân Tàu cũng phải chèo đò đuổi theo, dầu biết trước là sẽ đi vào “cửa tử”. Khi những chiếc đò của hai phe chạm sườn vào nhau, một tiếng pháo hiệu nổ vang cùng lúc với tiếng reo hò “Sát Đát! Sát Đát!” inh ỏi. Quân Việt tới tấp nhảy qua thuyền bọn tôi, vung gươm sát phạt. Đã được lệnh trước, tụi tôi chưa xáp trận mà đã phải buông gươm giả vờ lăn ra chết.

“Hưng Đạo Vương” hùng hổ nhảy tới trước mặt tôi, định đánh bay thanh kiếm gỗ, nhưng hắn đánh trật vào cườm tay tôi một cú đau điếng. Tôi cáu sườn vung mã tấu quất vào ống quyển hắn một cái “cộp”, thằng nhóc ngã lăn ra. Kêu oai oái mà chẳng thấy thằng lính hầu nào thèm đỡ dậy. Quân Tàu thấy chủ tướng đột ngột phản công một cách lý thú vỗ tay khoái trá reo hò rồi lượm gươm giáo lăn vào chiến đấu. Thế là sai hẳn với chương trình, quân Tàu giờ đây lại sắp thắng thế.

Quan khách (trong đó, trời ơi… có ông hiệu trưởng!) đang đứng trên bờ chắc ngạc nhiên lắm. Tôi lại nghe tiếng thầy giáo khàn giọng la hét:
Ô Mã Nhi! Mi làm gì kỳ vậy? Bọn mi mau vất gươm đầu hàng… nhảy xuống sông làm bộ chết mau lên!

Thằng phó tướng của tôi lại lên giọng… Tam Quốc Chí:
Mi đừng thèm nghe. Tướng đã ra quân có khi không thèm tuân mệnh vua!

Trời ơi, tôi phải làm sao đây? Một bên là thầy giáo cứ bắt đầu hàng khi mình đang sung sức như cọp dữ, một bên là tên quân sư quạt mo với bầy lính cứ muốn choảng nhau một trận tận tình rồi ra sao thì ra…

“Hưng Đạo Vương” bây giờ mới lồm cồm bò dậy được một tay nắn bóp ống chân, xuống giọng năn nỉ với tôi:
Thôi mi chịu thua đi. Không cả hai đứa đều bị phạt hết.

Tôi đành phải nghe theo lời nó. Không tuân mệnh vua thì chưa biết sao chứ cãi lệnh thầy thì ốm đòn là cái chắc… Và kết quả trận đánh đúng theo như lịch sử, quân Tàu lớp bị bắt sống, lớp chết trôi đầy sông, chỉ có tên phó tướng của tôi là cứng đầu hơn cả, hắn bực tức đòi nhảy xuống sông “tuẫn tiết” (nhưng tôi biết hắn sẽ bơi một mạch lẻn trước lên bờ sông, chỗ đang có hàng bán xi-rô và đá chanh muối).

… Tôi về đến nhà khi trời đã tối. Mâm cỗ Trung thu đã được bày ra trước sân, bánh nướng, bánh dẻo, trà Tàu… Bà ngoại tôi cùng mấy ông cậu, bà dì ngồi trầm ngâm trong vườn, mọi người đều nhìn lên trời thưởng trăng.

Trăng đêm nay sương đầy vằng vặc, loang loáng trên sân làm trời có vẻ như một sớm mai còn nằm trong sương chứ không phải là đêm.

Tôi không thích nhâm nhi trà Tàu. Tôi lủi thủi đi quanh quẩn trong sân để thích thú nhìn thấy bóng mình chập chờn đi theo dưới đất.

Tôi nhìn trăng và cũng thấy trăng đi theo tôi. Tôi đi tới đi lui khắp cả, vừa đi vừa nhìn lên trời, đi đâu tôi cũng thấy trăng chậm rãi theo mình. (Ước gì suốt đời tôi được sống gần bên trăng xanh bình yên đó nhỉ).

Một ngọn gió từ đâu trong đêm thổi hơi mạnh làm cây lá chập chờn lung lay. Dì N. khẽ kêu lên với tôi:
Trời ơi, cháu nhìn lá rơi kìa. Coi tội nghiệp và đẹp không?

Không, tôi không thấy đẹp gì cả. Hồi đó, tôi chưa biết nhìn lá, chưa biết thương màu lá, chưa biết buồn cho đời lá.

o O o

Khi biết thương màu lá, là biết mình đã lớn.

Tôi đã lớn. Nhưng không phải từ tốn nhẹ nhàng lớn lên trong khu vườn địa đàng, mà lớn lên trong gió cát bụi mù giữa dòng đời lang bạt. Tôi đã qua tuổi hai mươi, không phải qua trên hai tay chăm sóc của mẹ hiền, mà qua suốt hành lang trắc trở của cuộc đời hai mặt dối lừa.

Tôi đã lớn… và tôi đã trở về. Không còn tuổi nhỏ để leo hái những trái bàng cho hàm răng nhai ngon, mà giờ đây, suốt buổi chiều tôi thẫn thờ lặng ngắm tàn lá thay màu. Trên cùng một khóm cây, trên cùng một chiếc lá, mà những màu sắc đã dần đổi thay khác biệt. Đến mùa lá rụng, mùa thu, chỉ còn một chút màu xanh non dại trên cành, lấm tấm lẻ loi trong màu nâu, màu vàng, màu đỏ sẫm và màu chết úa… những màu sắc sống động kỳ diệu của loài cây chan hòa tan loãng trong nhau, mắt mình nhìn chăm thật lâu, mình sẽ thấy nhòa đi sau màn lệ mỏng cả một màu lá xôn xao rung động, từ đó, có lẽ mình mới biết thích những bức tranh phong cảnh tuyệt tác của Monet, vì trong những tảng màu nhạt nhòa đầy ánh sáng chan chứa với nhau đó, đã biến hình vĩ đại, đã gợi hứng lớn lao cho tâm hồn mơ ước cùng thắm hòa với thiên nhiên nguồn đẹp vô ngần của trái đất. Từ đó, có lẽ mình mới bồi hồi day dứt hơn vì một câu thơ ngắn mơ màng: Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san…

Từ đó… Từ lúc biết thương màu lá, là cho dù vào một đêm thu, trăng có rực sáng trong lành vẫn không còn tìm được chú Cuội ngồi gốc cây đa, chị Hằng cũng không thấy đâu trên trời. Mà ngay ở dưới trần gian này… ôi thôi, biết bao nàng Hằng Nga cứ lần lượt thay nhau cười cợt đời mình, không chịu múa khúc Nghê thường mà chỉ giẫm nhẹ gót chân vào lòng mình nhói đau rồi tung bay mất hút.

Từ lúc biết thương màu lá, là không còn rước đèn kéo quân đi trong sân hồn nhiên hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi…”, mà chỉ vang vang thăm thẳm trong tim nhạc khúc âu sầu của Đoàn Chuẩn. “Thu đi cho lá vàng bay… lá rơi cho đám cưới về. Ngày mai người em nhỏ bé… ngồi trong thuyền hoa… tình duyên đành lỡ…” và cho dù lá không rơi, đám cưới cũng về. Những hôn lễ chẳng đợi mùa thu hay mùa xuân, những đám cưới choàng áo cô dâu cho những người em nhỏ bé của mình hết em này đến em khác mà mình suốt đời làm chú rể với mấy ngọn đèn đêm vất vưởng.

(Ch. của tình đầu ở thị trấn Buồn Muôn Thuở; L. của giảng đường và thư viện mà có lần chúng ta vào đó không phải để tìm sách đọc, chúng ta lật từng trang sách của hồn nhau; V. của những xoa dịu sẻ chia trong một thời lo âu bất trắc… Và trên hết, sau hết, tôi biết trước rằng một ngày kia, N. sẽ bẻ gãy ngọn cỏ chong chong của em để quên tất cả mà an lòng qua cầu, rồi có lẽ tôi sẽ một lần về đó, một mình đi qua cây cầu nhỏ của em, khẽ hát bài ca của một nhân vật trong đời Tam Quốc: “Cưỡi lừa qua cầu nhỏ… thương tiếc khóm mai gầy…” Cả N. nữa, cô bé đôi khi kéo dài “giờ ra chơi” cho đến chiều tối, cũng có ngày em sẽ quên lược gương bỏ rớt đâu đó vào một thuở nào, vào một ngày nào, vào một túi áo nào, để nhẫn vàng thay cho nhẫn cũ bạc màu thô sơ).

Thôi… một lời ca đã kéo tôi đi quá xa rồi. Bây giờ tôi xin trở về trong khu vườn, vườn tôi hay vườn nhà ai cũng được.

Nửa đêm trăng, có nhiều bạn hữu. Mọi người đều đã lớn, rượu và đồ nhậu thay cho bánh trà. Quỳnh hoa lan hương thoang thoảng, rượu Bách Nhật say ngọt uống mềm môi. Người xưa Thu ẩm Hoàng Hoa tửu, ngày nay, tôi được uống một chai la ve trong bầu không khí thân ái này là cũng thỏa mãn lắm rồi.

Tôi và người thiếu nữ đi xa dần tiếng nói chuyện cười đùa của người khác. Tôi và nàng đứng trước một hòn non bộ, lặng lẽ ngắm cảnh núi non sông nước thu nhỏ lại như một chiếc hộp, mà vẫn gợi lên cả một bầu trời bao la. Những hòn đá chồng chất bên nhau, lâu ngày mọc đầy rêu xanh, có những hốc nhỏ, có những lùm cây trông không khác gì một hoang đảo thực sự, có vài mô hình giả làm con đò neo bến, có cả lão già ngồi câu cá. Một chút đất đá, một chút cây cỏ, một chút nước hòa hợp khéo léo trong một không gian nhỏ, chờ thời gian dần qua, đến đêm nay trong màu trắng bàng bạc biến thành cả một vũ trụ có linh hồn, một thế giới xa lánh tất cả phiền muộn để dành riêng cho ai đó.

Nhưng không dành riêng cho tôi và người thiếu nữ. Vì khi tôi chỉ tay vào một tịch cốc nằm sâu trong núi, và hỏi:
Em có thích ở đây với anh không?

Thiếu nữ hất mái tóc bối rối che lên má, nhưng đã mỉm cười lắc đầu. Thế là từ đó, tôi biết tâm hồn tôi và người thiếu nữ, dần dà sẽ chia xa. Mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản và trọn vẹn từ một cái gật đầu. Nhưng vì một cái lắc đầu, tôi sẽ trở thành một con ngựa chứng lưu lạc, mãi mãi rông chạy hoang đàng.

Tôi biết. Dầu nàng thường thích những vòng khói, và tôi đã thổi cả triệu vòng khói thuốc đeo vào tay nàng, nhưng những vòng khói trắng mờ ấy sớm bay loãng, tan tành rồi hoàn toàn mất biệt khỏi đời nàng. Từ đêm ấy, cả nàng và trăng đều lắc đầu với tôi. Từ đó, tôi sống quay cuồng dưới mặt trời đỏ lửa. Tôi đã đủ trí khôn để biết rằng không phải mình đi đâu trăng cũng đi theo, trăng ở lại muôn đời vì tiếng nói lạnh nhạt của nàng và mình thì cứ ra đi, ra đi đi mãi mãi. (Ôi, thế thì có trí khôn làm chi!).

Mọi người thấy đó. Đừng biết thương màu lá, hãy ham hố nhai lấy trái ngon, nuốt cho hết vị ngọt dại khờ. Chứ đừng rộng rãi tình cảm, thương cho ngọn lá yếu đuối hay tan tác trong vòm trời hoang mang trăm lối.

Nhưng tôi đã trót là một người nhiệt tình rộng lớn.

Đừng đến sân ga – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)

Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.

Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Toàn châm chú nhìn người bẻ ghi cúi xuống đường rầy chuyển con đường sắt lắp vào đường đi truớc mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng, khói không còn bay mạnh nguợc chiều, bốc lên tan lõang chậm rãi.

Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những người bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phương. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên trong những vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm đậm đà và làm Toàn chảy nuớc miếng.

Toàn xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách ruới đụng phải anh, chắn lối bực thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.

– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thuợng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.

Toàn mỉm cuời:
Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.

Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cuời nói ồn ào của hành khách.

Một vài người vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi buớc vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì đến điều khiếm khyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh anh như thường lệ. Anh thấy mình rõ ràng buớc đi khập khễnh, chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều truớc mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Ahh cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn người đi. Không biết có ai nhìn xuyên đuợc qua lớp vải quần của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.

Toàn liếc nhìn mọi người nhưng chẳng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên xếp ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen to tuớng trên bàn. Toàn mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.

Băng qua con đường cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xùm xít với nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm toàn là những mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài luới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã trường hay Quận truởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khỏang sân mát mẻ duới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng toàn mường tuợng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ trường tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái trường tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang buớc chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng người như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.

Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:
Thưa cô Hiệu truởng, có khách hỏi cô.

Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:
Phụ huynh của em nào hả?

Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:
Thưa cô không biết… ông này… lạ hoắc ạ.

– Đuợc rồi.

Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và truớc khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp lại chị Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô Hiệu truởng trường tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.

Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:
Trời ơi! Toàn đó hả?

Anh chỉ biết nhe răng cuời sung suớng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạng rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chầm lấy Toàn nếu không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tường như một tín đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:
Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không?

Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình đuợc tha vì cô Hiệu truởng có khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.

Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng truớc kia của lão Hiệu truởng cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tường và quả địa cầu xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học trò biếu chị.

Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:
Cái chân…

– Sao?

– Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.

Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn:
Trời ơi… trời ơi…

Và toàn thấy bàn tay anh lạnh uớt nuớc mắt.

– Thôi… Toàn không chết là may rồi. Toàn đuợc về là may rồi. Ở mãi đây nghe.

Anh mỉm cuời:
Tôi biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.

– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc truớc, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ… và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.

– Cái chân…

– Toàn!

– Trường Lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài huớc cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.

Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và thân mật tự nhiên như lúc truớc, chị dìu vai Toàn đi vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một người đàn bà độc thân. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với chân giường ngủ. Toàn còn nhớ trường này có hai phòng học bỏ trống, đuợc chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi truớc cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu truởng nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:
Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nuớc dừa không?

Toàn mỉm cuời, cảm giác yên lành ngập tràn người anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như cũ.

Anh thiếp đuợc một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ… truớc kia chị Lục và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bóng đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh thường bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi đuợc làm trọng tài. Anh bật cuời. Có lần bóng trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti.” Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gỗ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá luới” sáng chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển.

Rồi còn gì nữa… Anh bị gọi đi lính. Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thường cùng thấy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.

Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hoàn toàn vì mái trường cũ và chị Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.

… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. Anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừa thở hào hển trên bãi biển, đuổi theo chị Lục. Chị ở truớc mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cuời cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống úp mặt uớt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình anh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét lên…

– Toàn!

Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tuơm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nuớc dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:
Chiều rồi. Sao chị không dạy học?

– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à?

Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Anh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.

– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.

Anh lắc đầu. Anh tìm thấy duới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nuớc Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh… thư viện trường tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:
Thôi, đọc cái này vui lắm.

Chị Lục cũng bật cuời. Chị nói:
Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tuơi lắm…

Chị mở cánh cửa:
Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.

Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc đuợc gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.

Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc dương rũ là xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran duới chân người.

Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều đuợc dọn ra trong cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai người. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ đuợc nấu chin vội vàng trong những chiếc thùng đen dơ bẩn.

– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.

Chị Lục nhúng bánh tráng sơ sài vào nuớc cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm bôc lên, những khoanh cá chín ngã sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tuơi chẻ nhỏ đuợc tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nuớc chấm đuợc làm bằng nuớc cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tuơi, mát mẻ dòn tan của rau xanh, mặn mà của nuớc cá và vị ớt cay cay… Gió biển lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút trong người vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.

Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cuời và khẽ nuốt nuớc bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình thường và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nuớc cho bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh dòn. Anh mãi miết ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:
Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.

Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên luỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nữa cho chị Lục.

– Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.

Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh:
Uống lỡ say rồi sao? Tôi đâu biết uống ruợu.

– Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.

Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển:
Ờ… mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.

– Có ‘chương trình’ gì vui không?

– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì đuợc! Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tuơi về luộc ăn với nuớc tương. Không biết mùa này có ‘nuốc’ không… ‘nuốc’ ăn mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.

Anh nhìn chị Lục, mỉm cuời khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thường ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống ruợu tai hại như thế nào.

Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá, mọi người đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần trường học, một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.

Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy long lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi long mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh, với một nụ cuời thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tuởng tuợng quá nhiều nụ cuời của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn đuợc lờ mồ khuôn mặt chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp.

Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:
Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ…

Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát lương và ngày hết tiền cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đường chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, trường học và chị Lục. Một ngày chủ nhật…

Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nuớc. Biển Lăng Cô không phải là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng người, một vài đứa trẻ con lội nuớc đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài luới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm.

Tiếng chị Lục đằng sau:
Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không?

– Đâu biết đuợc, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.

Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng mội phút giây. Nhưng làm sao anh biết đuợc. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.

Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm, nằm trong lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Trường Sơn. Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên đỉnh núi. Con đường đèo Hải Vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mâ trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ải cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây?

Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tuởng tuợng. Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như luớt nhẹ chứ không phải là nghiến bánh trên đường rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt nguợc chiều, bay lõang rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyên tàu đó. Anh lẩn bẩm:
Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô… rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn… rồi lại lên đừờng…

– Toàn định đi đâu nữa?

Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da tuơi sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rãnh rang và tốt trời.

Toàn đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đường đèo xa, nhưng bây giờ không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả lời:
Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở Lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.

Giọng chị ân cần:
Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao?

Anh im lặng nhìn về phía nhà ga.

Chị Lục nói tiếp:
Tuần nào đến chủ nhật là bỏ trường phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu truởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao nhiêu lần…

Chị Lục cuời:
Trong trường, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi chứ!

Anh cũng mỉm cuời, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một nữa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm duới mái trường này quá! Và kỷ niệm đẹp chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại đuợc những gì tương tự như thuở truớc.

Có tiếng cuời đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài luới làm Toàn và chị Lục đều giật mình. Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai người nãy giờ đã ngồi sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu truởng nghiêm trang đáng kính của chúng.

Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả hai đều có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai người đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là chủ nhật, bọn trẻ con đuợc nghỉ học đều ùa ra bãi biển nghịch cát, té nuớc hay sửa soạn leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai người.

Chị Lục và Toàn đành phải về trường. Bây giờ chỉ có sân trường và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ: Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi nguớc nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng, trong phòng mờ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tường đã thay đổi, lúc truớc Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt của rừng già Phi Châu: cá sấu, ngựa vằn, sư tử… Trên góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.

Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cuời để giả vờ làm một cô học trò chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một ‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm trang nói lớn:
Trò Nguyễn Thị Huyền Lục!

Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ:
Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à?

Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn:
Nguyễn Thị Huyền Lục!

Chị Lục bậm môi, lên tiếng:
Có mặt.

– Lên bảng mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.

– Thưa thầy, đêm qua… em phải khâu luới dùm cho ba em nên em quên học bài.

– Zê-rô! thôi bây giờ lên bảng làm toán.

Chị Lục mỉm cuời, rón rén cầm viên phấn đứng truớc bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thấy nữa.

Anh chậm chạp nói:
Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy nguợc chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là… viết đi chứ…

Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ờ trên chuyến tàu đó, nghe không

– … Năm muơi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sáng…

Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của ‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm gì, chị đang làm bài toán gây go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa

Toàn thẩn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:
… Hỏi hai xe gặp nhau trên đường lúc mấy giờ?

Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết… Tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn

Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi mấp mấy và đôi mắt gần như sắp ứa nuớc mắt. Chị có vẻ như một cô học trò nhỏ chịu bí truớc bài toán khó, khổ sở truớc đôi mắt nghiêm khắc của ông thầy.

Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê man. Nuớc mắt chị Lục uớt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi hương dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi uớt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn mầm sống.

Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con người tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi đuợc không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bong cái chân hằn vết sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn truớc mặt anh.

Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của Toàn cuống quýt trên người. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, lả người trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút đuợc tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát ruợi hơi ươn uớt mồ hôi duới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mảnh áo quần của hai người vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của chị Lục duới thân người anh… và lúc đó… ngay giây phút cuối, ngay truớc cánh cửa hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng người, thân thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…

Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị Lục, nhưng không thể nào đuợc nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn người anh như một gáo nuớc lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi người, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không dằn đuợc sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đường khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt đuợc khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tuởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tởm trong ánh mắt chị.

Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:
Sao thế, Toàn?

Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy người anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh thoảng chị hôn vào đường rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh hơi rùng mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả thân thể dường như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.

o O o

Vết thương cũ đã lành, nhưng một liều độc duợc giờ đây đột ngột tác hại khắp cơ thể và đầu óc, chói lòa truớc mắt anh…

Cái chân què quặt còn làm liên tuởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến trường. Tất cả như một màn luới đen dày đặt trói buộc tâm hồn làm người anh rũ ruợi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy… Hình như nuớc mắt của chị Lục đang thấm uớt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng người anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chường khổ sở thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào người, mở cửa ra phòng truớc.

Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc, tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh người, dễ chịu đôi chút trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào đuợc nữa.

Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu, mồ hôi… Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận… Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh. Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc súng, chúng vẫn còn âm ỉ lúc nhúc trong người anh như một thứ vi trùng độc địa.

– Toàn!

Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ ruợi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sáng, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến trường. Chị phải trở lại với công việc, với bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu truởng.

Toàn lầm lũi đi từng buớc nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ để trên vai nhưng người anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh huớng về phía sân ga Lăng Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa tàu, và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi trường nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.

Nhà ga thưa thớt người, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh ngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh, nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một kẻ thương binh không phục hồi đuợc cuộc sống bình thường, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị truớc trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một người đàn ông bất toàn, vô dụng, anh không đem lại gì đuợc cho chị Lục, món quà yêu thương đã thất lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thương tích và quá khứ.

Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại truớc nhà ga. Vài hành khách buớc xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khễnh leo lên toa tàu. Một người nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toàn làm anh bực mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên… chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt chị uớt đầy mồ hôi hay nuớc mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại duới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cuối đầu truớc chị Lục.

Giọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:
Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi… không thể không có Toàn đuợc…

Anh quay mặt đi, run rẩy:
Tôi chỉ là một người tàn tật… Tôi không thể…

Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai người. Từ trường học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tuơm tất như thường lệ cho xứng với một cô Hiệu truởng. Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặt trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.

Toàn nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con.

Chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:
Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một người tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.

Toàn thấy người đuợc đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đường sắt, giọng chị thủ thì bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:
Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…

Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung suớng bồi hồi khi đuợc tận huởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thương.

Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nỗi. Có vị danh y nào, liều thuốc tiên nào cứu chữa đuợc vết trọng thương sâu đậm ngay chính trong tâm hồn? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thương cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời đuợc? Trong anh, một con người dằn vặt sẽ truy nã một con người đầu hàng yếu đuối đến ký cùng.

Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng người, còn có cách nào khác hơn là phải dấn mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp dầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở huớng về trần gian tuơi đẹp?

Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đường rầy, để lại một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.

Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những buớc chân của anh chậm rãi nhưng cương quyết nguợc chiều với sân ga mãi mãi.

– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Toàn phải… đền cho tôi cái gì đi…

– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ đuợc nghe rất nhiều bản tình ca.

Chị Lục mỉm cuời. Giờ đây với một người thương luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khóat hẳn với những ám ảnh bệnh họan trong người. Từ hôm nay cho đến ngày mai hồng sáng sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với Toàn. Không súng đạn, không ảo tuởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến buớc trên mặt trận cuối cùng này.

Giao Thừa sao quên – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)

– Ông đừng nhắc đến ngày Tết nữa. Cứ xem lịch là biết chứ gì, đêm mai là đêm Giao Thừa… Nhưng tôi không muốn nghe những chuyện đó…

Nàng nói một cách lạnh lùng, môi nàng bình thản nhấp một chút rượu. Chàng để ý ly này là ly Martini thứ năm mà nàng uống. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, nàng vẫn ngồi bất động trên chiếc ghế bành đặt sát góc tường. Trong phòng chỉ có ánh sáng mù mờ vì được thắp bằng đèn cầy, mỗi bàn một cây nhỏ. Ban nhạc chơi không ngừng nghỉ, đều đặn những điệu chậm chạp nhẹ nhàng, chập chờn từng cặp ôm nhau khiêu vũ trong bóng tối.

Những ngày cuối năm, người ta tổ chức tiệc tùng ăn nhậu liên miên, ở đâu cũng tưng bừng náo nhiệt. Bởi thế đêm dạ vũ tại ngôi nhà sang trọng này, thật hiếm có và khác hẳn những chỗ ồn ào khác. Một bầu không khí lịch sự và êm ấm, khách khứa đều trông có vẻ tươm tất đứng đắn. Tấm thiệp mời ký tên bởi một ông nhà giàu nổi tiếng và sành điệu.

Một người bạn đưa chàng đến đây. Rồi y biến mất trong đám người để tìm một người đàn bà y đã hẹn trước. Chàng tìm một chỗ ngồi khuất lấp kín đáo nhất, chỉ gọi người bồi đem rượu một lần, rồi chàng không lui tới xê dịch gì nữa, không chào hỏi gì một hai người quen mà vì say mê nhảy họ cũng không để ý đến chàng.

Khi mắt chàng đã quen với bóng tối, đã nhìn thấy rõ ràng một vài khuôn mặt, chàng nhìn thấy nàng. Một người đàn bà chưa hề quen biết. Nàng cũng ngồi một mình như chàng, cũng uống rượu, nhưng không hút thuốc lá. Chàng không thấy rõ chiếc áo dài của nàng màu gì nhưng có lẽ là một màu vàng sẫm. Tóc nàng bới cao, trông có vẻ là một người đàn bà đã có chồng, nhưng có lẽ là không phải, bàn tay nàng một khi cầm chiếc ly đưa lên môi không thấy mang nhẫn cưới. Thỉnh thoảng một cô gái đến nói cười với nàng một chút rồi bỏ đi, chắc là cô bạn của nàng. Một vài người đàn ông đã đến mời nàng khiêu vũ, nhưng chàng thấy nàng nhẹ lắc đầu từ chối.

Khi chàng gọi người bồi rót thêm rượu cho nàng, nàng nhìn chàng nói: “Cám ơn.” Chàng trả lời bằng một câu nói thông thường, rồi chàng gợi chuyện bâng quơ một vài câu thông thường, nàng trả lời vắn tắt theo điệu xã giao thông thường. Và hết, chỉ có thế. Khi chàng muốn nói chuyện nhiều hơn một chút, như nhắc đến ngày Tết sắp tới, nàng có vẻ khó chịu và buồn bực.

Nàng ra dấu không bằng lòng với đề tài loại đó. Chàng im lặng không biết nên nói thêm một lời nào, chàng hút một điếu thuốc và chợt nhớ cái câu nói thật chán ngắt:
Xin lỗi… khói thuốc có làm cô khó chịu không?

Nàng lắc đầu.

– Chắc cô cũng biết hút thuốc?

Nàng vẫn lắc đầu, nhưng nhẹ đưa tay tỏ ý muốn nắm lấy bao thuốc lá. Nàng cầm một điếu. Chàng nghiêng mình gần lại định quẹt lửa cho nàng nhưng nàng đã châm thuốc bằng đốm lửa nhỏ của ngọn nến.

Nàng chợt nói:
Lúc nãy ông vừa nói gì?

– Cô đã nói là không muốn nghe.

– Ông cứ nói lại đi.

Giọng chàng đều đều:
Tết, mọi người đều về với gia đình. Cả nhà thao thức suốt đêm trong đêm Giao Thừa. Rồi sáng sớm mồng một, những ngày nghỉ ngơi thong thả, uống rượu và đánh bài suốt mấy ngày đêm…

Nàng hơi mỉm cười:
Ông thích những thứ đó lắm sao?

– Ai cũng thích cả.

– Tôi tưởng khi mình còn nhỏ mới thấy thích.

– Lớn rồi cũng thích chứ. Nhưng sợ không có được nữa.

Nàng dịu tắt điếu thuốc, hỏi nhanh:
Thế bây giờ ông còn có được những điều đó không?

– Điếu thuốc của cô chưa hết sao đã…

– Ông còn có được cái Tết như hồi xưa không?

– Không.

Chàng lặng lẽ uống một hớp rượu, hơi hối hận vì đã mở đầu cho những chuyện về ngày Tết. Thật ra, chàng cũng không thích đề tài loại này. Nhưng bây giờ, nàng có vẻ không chịu ngừng lại:
Tôi cũng thế.

Chàng hỏi:
Bao lâu rồi?

– Bao lâu… cái gì ạ?

– Cô hiểu mà… Nghĩa là đã bao nhiêu năm rồi cô không được…

– Tôi hiểu. Có lẽ gần mười năm.

– Lâu quá nhỉ!

Nàng lắc đầu, chàng không hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó.

Người bạn chàng bỗng trở lại, đem theo giới thiệu một cô gái cho chàng, nhưng chàng nói chàng không muốn khiêu vũ, chàng cám ơn và nói hãy để chàng ngồi yên một mình.

Khi người bạn đi khỏi, nàng nói:
Ông định ngồi đây có lâu không?

– Chắc là lâu. Khi nào người ta về hết.

– Ông có ý định tìm một người bạn nào để trò chuyện hay nhảy với ai không?

– Không. Cô vừa biết rồi.

Nàng lặng yên có vẻ suy nghĩ đắn đo một điều gì. Rồi nàng bỗng hỏi thật bất ngờ:
Ông thích nghe tôi kể chuyện không?…

Chàng mỉm cười:
Thích chứ! Hồi nhỏ tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể chuyện cổ tích đến mê mẩn. Trước khi đến đây, tôi cũng vừa đọc một cuốn truyện…

– Như thế nào?

– Đại khái có một người đàn ông khi biết được người tình của hắn, một người đàn bà có chồng, hết lòng yêu hắn thì nàng đã chết. Trước đó, hắn tưởng người đàn bà ấy yêu người khác, hắn xa nàng vì quá ghen tương, ghen với cả chồng nàng. Chìa khóa của câu chuyện là một tập nhật ký của nàng mà hắn đọc được khi đã muộn…

Nàng có vẻ lưu ý:
Rồi sao nữa?

– Còn gì nữa! Đến đó là hết chuyện. Như thế là “Kết Thúc Một Chuyện Tình”, truyện của Graham Greene.

Nàng thở dài:
Thế là ly kỳ hơn chuyện của tôi sắp kể rồi.

– Tôi không thích những gì “ly kỳ, éo le” đâu.

– Thế thì được. Nhưng gần Tết rồi, ông có ngại nghe chuyện buồn không?

Chàng lắc đầu. Nàng quay sang nói một cách tự nhiên:
Ông cứ ngồi gần lại tôi… Tôi bắt đầu dây, ông có thể ngủ gục nửa chừng nhưng đừng ngắt lời hoặc hỏi gì cả.

Chàng nghe theo lời nàng, nhưng khi sắp nhìn thấy mặt nàng rõ hơn, nàng bỗng thổi tắt ngọn nến cắm trên bàn. Nàng trở thành một bóng đen. Chàng không còn nhìn thấy gì hết.

Chỉ có giọng nói của nàng, và tiếng kèn đồng của người nhạc công dã dượi lan đi khắp căn phòng.

– Cũng kỳ cục thật. Tại sao tôi lại kể cho ông nghe… Tôi đâu quen biết gì ông…

o O o

Năm đó, tôi được mười tám tuổi, học lớp đệ nhị tại một trường nữ tư thục ở tỉnh X… Thuở làm học trò thật là vui. Mỗi khi tan trường, tôi và vài ba đứa bạn gái thân nhất còn dạo một vòng ven bờ sông. Thế là bao nhiêu gã thư sinh lò dò theo sau một đoàn, xầm xì bàn tán, mà tôi chắc đó chỉ toàn là những lời trầm trồ ca tụng. Thỉnh thoảng một anh chàng nào đó bạo miệng nhất thốt lên vài lời bâng quơ. Tụi tôi chỉ khúc khích cười hay bĩu môi chế diễu, cặp sách nặng trên tay nhưng người vẫn thấy nhẹ nhàng lâng lâng nhờ ngọn gió mát thổi từ bến sông. Những tà áo trắng của bọn tôi quấn quýt vào nhau. Hồi đó, tôi chỉ thích mặc áo dài trắng.

Trong nhà, tôi là đứa con gái út. Anh đầu của tôi chừng hai mươi bốn tuổi, theo học năm cuối ở Đại học Sư phạm. Kế đến là chị tôi, lớn hơn tôi ba tuổi, chị học Văn Khoa nhưng ghi danh cho vui chứ ít khi đến trường, chị phải lo mết mọi công việc nội trợ trong nhà vì mẹ tôi mất sớm. Ba anh em chúng tôi thân nhau như bạn bè, anh tôi chẳng hề mở miệng la mắng tôi một tiếng, còn chị tôi thì săn sóc cho tôi từng ly từng tí. Bao nhiêu kiểu quần áo nào đẹp nhất in mẫu trong báo Pháp, chị đều sưu tầm để may cho tôi. Từ ngày mẹ tôi mất, ba tôi trở nên trầm ngâm, ít nói. Miệng ông không bao giờ rời ống vố đầy khói thuốc lá, cái thú thứ hai còn lại là đánh bài. Ba tôi đã xin về hưu nhưng gia đình tôi sống khá sung túc nhờ huê lợi của một căn nhà lớn cho thuê ở phố, nhà tôi dọn về một nơi yên tĩnh hơn.

Trong căn nhà nhỏ ấm cúng, gia đình tôi sống quây quần với nhau thật hạnh phúc. Mỗi đêm, ba tôi đánh bài với mấy người quen thân, gồm vài ông công chức trong Tòa Tỉnh. Trong những người này, tôi chỉ biết có anh Lê, vì anh là giáo sư ở trường tôi, mặc dầu anh dạy ở lớp trên.

Anh Lê thân với mấy anh em chúng tôi nhất. Anh đã lớn, khoảng gần bốn mươi nhưng có lẽ nhờ làm nghề dạy học, anh vẫn còn hiểu biết khá nhiều về lớp người trẻ, anh nói chuyện rất vui, thường chọc chúng tôi cười luôn và thỉnh thoảng anh còn chỉ vẽ thêm bài vở cho hai chị em tôi.

Ba tôi rất khó tính nên tôi ít bạn, cũng ít khi được đi chơi đâu ra khỏi nhà mà không có chị đi kèm. Bạn gái, tôi chỉ có một hai đứa lâu lắm mới lại chơi một lần, còn bạn trai thì hoàn toàn không. Thỉnh thoảng vài anh chàng gửi thư cho tôi theo địa chỉ nhà con bạn, tôi đọc thấy hơi thích thú nhưng dĩ nhiên không bao giờ trả lời, tôi cất tất cả vào một chiếc hộp bánh nhỏ. Chị tôi cũng biết chuyện này, chị nói đùa cứ cất dành để lúc nào làm luận lấy ra mà “tham khảo”, nhưng đến khi nào đi lấy chồng thì nên đốt hết. “Đàn ông hay ghen vặt lắm”, chị nói thế với cái điệu từng trải làm tôi nhạc nhiên, tôi thấy chị đã có ông “bồ” nào đâu.

Đó… tôi sống bình thản với khung cảnh gia đình như thế. Mỗi đêm, khoảng chừng mười hai giờ là sòng bài “thân mật” của ba tôi bế mạc… Khách khứa kéo nhau ra về, chỉ còn lại anh Lê. Tôi chạy lại anh reo lên:
Anh Lê ăn nhiều không?, “lì xì” cho em đi.

Anh Lê gượng cười lắc đầu. Trông anh thật tội nghiệp, đầu bù tóc rối, mắt đỏ sâu vì thiếu ngủ, anh chơi bài thường đêm nào cũng thua, may lắm mới huề. Anh chậm chạp đến ngồi thu mình trong chiếc ghế bành lớn, co hai chân lên đầu gối, miệng ngậm ơ hờ một điếu thuốc lá. Lúc này, trông anh thật khác với vẻ nghiêm nghị chững chạc khi ở trường học. Nhưng nhìn anh dưới dáng vẻ thứ hai này, tôi cảm thấy mến anh hơn.

Anh Lê mỉm cười với tôi, chậm rãi nói:
Khui cho anh một chai bia đi Út.

Anh vẫn gọi tên tôi như các anh chị thường gọi. Tôi hăng hái mở tủ lạnh, làm cho anh một ly bia, rồi bắc ghế ngồi cạnh anh. Đợi anh nhấp một chút bia xong, anh sẽ nói chuyện với chị em tôi thật hào hùng cho đến khuya. Tôi đã học thuộc bài và chưa thấy buồn ngủ, tôi rất thích có người trò chuyện cho vui. Ba tôi thì thường lặng lẽ đi ngủ khi hết đánh bài, anh trai tôi suốt ngày cứ cắm đầu vào sách, chị em tôi thì ngày nào mà không thủ thỉ tâm sự, rồi cũng hết chuyện.

May mà có anh Lê, là người thông cảm với tôi nhất, anh lại khéo nói chuyện, khéo gợi chuyện nên lâu ngày anh là người tôi thân nhất trong nhà. Không những chuyện học hành thôi, mà có những “tâm sự” gì về tình cảm tôi cũng kể cho anh Lê nghe. Anh mỉm cười, còn đùa tôi thêm mấy câu hay khuyên răn vài điều. Anh rất sành tâm lý bọn trẻ nên đôi khi anh giải thích, phân tách những tâm trạng còn mơ hồ băn khoăn của tôi thật hay và tế nhị.

Mấy lúc sau này, vì thường đánh bài đến khuya và nhà anh Lê ở xa, nên anh ngủ lại nhà tôi. Ba tôi cũng rất quý anh Lê. Ông nói anh ấy là người tài cao, học rộng, đạo đức nhưng vì liêm khiết và hơi cao ngạo nên khó thích hợp giữa thời đại bon chen tranh giành này. Ba tôi cũng hài lòng khi thấy mấy anh chị em tôi thường thân mật với anh Lê. Ba nói anh Lê có thể chỉ vẽ cho chúng tôi nhiều điều bổ ích. Anh “truyền lại” những kinh nghiệm trong đời dạy học của anh cho anh tôi, anh giảng giải những đoạn khó hiểu trong “cours” văn chương và triết của chị tôi, và sau hết, anh kèm cho tôi môn Toán. Tôi học ban B, năm nay lại phải thi Tú Tài I nên tôi rất chuyên chú đến môn chính này.

Cứ thế, tôi cảm thấy đầy đủ sung sướng trong gia đình. Gia đình tôi bây giờ có lẽ phải kể thêm anh Lê mới đúng, anh gần như là người trong nhà, một ông anh thứ hai của tôi ngoài anh ruột tôi.

Nhưng rồi một ngày kia, đời tôi thay đổi. Chàng đến…

Anh trai tôi xưa nay ít thấy chơi thân với người bạn nào. Bỗng dưng một hôm anh dẫn về nhà một người bạn trai, nói là học cùng lớp với anh. Ở nhà lúc đó thật vắng, ba tôi nằm trong phòng riêng, chị tôi bận bịu bên chiếc máy may, đo cắt áo. Trên phòng khách chỉ còn lại một mình tôi. Tôi phải “đại diện” chào người bạn của anh tôi, pha trà rót nước mời hắn uống theo đúng phép lịch sự.

Không hiểu sao, anh tôi lại nói:
Út, mày ngồi đó tiếp chuyện với anh Trần một chút. Tao đi tắm cái đã, nóng quá.

Và anh tôi bỏ đi vào nhà sau. Tôi hơi lúng túng một chút, nhất là chưa gì mà gã con trai xa lạ này lại nhìn tôi mỉm cười có vẻ như là thân mật lắm. Nhưng tôi cũng phải ngồi xuống ghế, gần hắn, không biết phải “tiếp chuyện” như thế nào. Gã tên Trần và tôi ngồi một lâu mà không ai lên tiếng, tính tôi vốn ít nói và dè dặt trước người lạ. Tôi nhìn lơ đi tận đâu đâu rồi bỗng nhiên tôi có cái cảm giác hơi nhột nhạt tôi quay lại và bắt gặp đôi mắt của Trần nhìn chăm chăm vào tôi. Bị bắt “quả tang” đang nhìn trộm, đáng lẽ hắn phải nói câu gì để chữa thẹn, nhưng không, hắn vẫn im lặng nhìn tôi. Tôi thấy nóng mặt, ngượng ngùng lẫn hơi khó chịu. Tôi gượng thản nhiên nói:
Mời anh uống nước kẻo nguội…

Lần này Trần mới tỏ vẻ lúng túng, vì nhìn lại trên bàn tôi mới biết hắn đã uống sạch tách trà to tướng từ lúc nào rồi, chưa đợi ai mời cả. Tôi cầm bình trà định rót thêm cho Trần, tôi muốn làm bất cứ một cử động gì để không khí khỏi ngột ngạt. Tôi ngạc nhiên, bình trà nhẹ bỗng.

Bây giờ Trần mới lên tiếng sau một cái đằng hắng:
Thôi… tôi uống hết rồi…

Thì ra nãy giờ trong lúc tôi không để ý, Trần tự động rót nước trà ra tách và uống hết tách này đến tách khác, đến sạch cả bình. Không biết ông tướng này mới đi đâu về mà khát nước thế! Tôi nhìn Trần và thấy bộ mặt hắn có vẻ khôi hài, tôi không nhịn được cười. Hắn và tôi cùng bật cười lên một lúc.

Bây giờ, không khí có vẻ dễ thở hơn, tôi hỏi:
Chắc anh thích uống trà lắm…

Trần mỉm cười lắc đầu:
Không… nhưng tại tôi… không biết phải làm gì cả.

Tôi cười thầm. Thì ra Trần cũng bối rối không kém gì tôi, hắn không dám gợi chuyện, cũng không biết phải làm gì nên cứ ngồi uống trà liên miên. Thế mà, lúc mới nhìn đôi mắt hắn chăm bẳm nhìn vào tôi, tôi tưởng anh chàng này “ghê” lắm.

Tính trẻ con của tôi trở lại, tôi cảm thấy tự nhiên hơn và bắt đầu nói chuyện với Trần một cách thoải mái như với anh tôi. Thỉnh thoảng, Trần nói đùa mấy câu làm tôi phá lên cười, tôi cũng nghịch ngợm không kém. Chẳng mấy chóc, tôi và Trần đã trò chuyện với nhau rất vui vẻ và thú vị.

Khi anh tôi trở lại phòng khách, tôi cũng không biết vì mải mê nghe Trần kể chuyện hắn và anh tôi cũng “theo” một cô hoa khôi trong trường.

– Chà, hôm nay chắc trời mưa lớn. Cóc mở miệng rồi.

Giọng anh tôi vang lên làm tôi giật mình. Trần cũng ngưng bặt câu chuyện có vẻ tiếc rẻ. Tôi xấu hổ chạy lại nắm lấy tay anh tôi, véo mấy cái hết sức mạnh.

– Anh nói ai là cóc, hử?

Anh tôi cười chống chế, chỉ vào Trần:
Tao đâu có nói mày, thật là có tật giật mình. Cóc là Trần đó, trong lớp cả năm nay tụi tao đánh cá xem hắn là người Bắc, người Trung hay người Nam mà chưa có kết quả…

Tôi hơi ngạc nhiên nhìn Trần. Nãy giờ hắn nói với tôi thao thao bất tận. Anh chàng này mà ít nói sao, và tôi đỏ mặt khi chợt nghĩ thầm chắc chỉ có tôi là “hợp chuyện” với hắn. Trần mỉm cười lần nữa, mắt không rời tôi. Tôi vùng bỏ chạy vào nhà trong, sút mất một chiếc guốc trong tiếng cười ha hả của anh tôi.

Hôm sau, Trần đến nhà tôi hỏi anh tôi có ở nhà không. Chị tôi nói không và hắn lúng túng bỏ về. Hôm sau nữa, Trần lại đến, lần này cùng với anh tôi. Hôm sau nữa… và hôm sau nữa. Thế là suốt trong một tháng, Trần gần như đến nhà tôi ngày một. Nhờ anh tôi, bây giờ hắn đã quen biết hết với tất cả những người trong nhà. Lúc này gặp anh Lê, hắn cũng lễ phép chào: “Thưa thầy.” Rồi một hôm, hắn mang cả sách vở đến cùng học chung với anh tôi.

Trần trạc tuổi anh tôi, nghĩa là hơn tôi khoảng bốn năm tuổi nhưng tính hắn còn rất trẻ con như tôi, đôi khi tôi nói đùa hắn trông như một cậu công tử bột mười bảy tuổi, và phải gọi tôi bằng chị. Nói thế chứ bây giờ khi nói chuyện, Trần đã tự xưng là “anh” và gọi tôi bằng “em” nghe rất tĩnh, kể ra thì cách xưng hô ấy cũng không có gì quá đáng.

Tính tình gần giống nhau: ham trò chuyện không biết mệt, thích nói đùa, thích phá nghịch, thích cãi bướng… Trần và tôi dần dần hợp nhau hơn ai hết.

Anh tôi lại có dịp nói đùa:
Bây giờ không những là trời mưa thôi mà còn có bão tố nữa. Cóc và cóc cùng nhau mở miệng…

Bão tố, có thể gọi là bão tố… nhưng tôi muốn gọi bằng một chữ dịu dàng hơn. Tôi muốn gọi đó là những hạt mưa phùn đầu mùa xuân, lăn nhẹ nhàng trên tóc mà vẫn lắng sâu vào người thấm thía.

Yêu. Cái tiếng thật sáo và kỳ cục, nói ra thấy ngượng miệng và nghe có vẻ chướng tai nữa. Nhưng tôi biết dùng chữ gì bây giờ. Tôi thương vô cùng ba tôi, anh tôi, chị tôi nhưng tôi thấy rõ tình cảm đó khác hẳn lúc tôi đối với Trần. Ngày ấy, tôi mới mười tám tuổi, tôi không bao giờ dám dùng đến chữ “yêu”, không dám nói, cũng không dám nghe lời đó. Nhưng bây giờ tôi đã già dặn lắm rồi. Nhớ lại ngày xưa, tôi không còn e thẹn gì mà không nói thẳng một cách vắn tắt: Tôi yêu Trần.

Tôi yêu. Nhưng làm sao nhớ được bắt đầu từ lúc nào và cũng đâu lo xa chi đến một ngày tan vỡ. Không phải là “tiếng sét.” Là một cánh cửa mở nhẹ nhàng mời gọi tôi bước vào, chân rón rén dẫm run rẩy như hồn bàng hoàng rung động.

Tôi biết kể những gì về Trần. Tôi yêu chàng ở điểm nào, tôi có gì cho chàng yêu… Tôi cũng không biết rõ. Có lẽ nẩy mầm từ một điều giống nhau đầu tiên: tâm hồn cả hai đều trẻ dại và nhiều mơ mộng. Chúng tôi cùng yêu cái đẹp, yêu những niềm vui đơn giản, yêu những thú tiêu khiển thật tầm thường như bao nhiêu người khác… Yêu âm nhạc bềnh bồng dịu dàng, sách hay, phim ảnh mới có những cặp tình nhân trẻ… Cũng như tôi, Trần thích màu sắc, tiếng cười đùa, bánh kẹo ngon, những tràng chuỗi hạt lóng lánh rực rỡ… Chàng nhớ từng màu áo của tôi, nhớ rõ tôi có bao nhiêu áo mặc trong nhà, và màu nào chàng thích nhất. Chàng yêu màu vàng cúc nở và vì tôi chàng yêu thêm màu lụa trắng. Chàng thích tôi để tóc dài, và mỗi lần tóc tôi cắt ngắn bớt, chàng cùng tôi chờ đợi mỗi ngày từng sợi dài thêm đôi chút. Tôi thích thấy chàng mặc áo màu xanh nhạt, tôi nói chàng đừng hớt tóc ngắn kiểu “gáo dừa”, cứ để tóc dài đến gáy nhưng cũng đừng rậm rạp quá như người rừng. Mỗi lần chàng sắp đi hớt tóc đều phải ý kiến tôi:
Tóc anh dài quá, anh đi hớt nghe!

– Khoan đã. Như thế là vừa rồi, đợi thêm một tuần nữa.

Tuần sau, chàng cố ý mang mái tóc rối bù xù, hớt hải đến tìm tôi:
Đầu anh ngứa quá rồi. Em cho tiền anh đi hớt tóc mau lên.

Tôi phì cười:
Ai bảo anh không gội đầu. Xem tóc em đây, dài hơn anh gấp đôi…

Chàng giả vờ cãi:
Tại em là con gái. Tóc em càng dài càng đẹp, óng ánh như suối.

– Anh xạo!

Tôi bĩu môi thích thú, và tôi cũng nghịch không kém:
Tóc anh cũng đẹp lắm. Để em chải lại cho đàng hoàng.

Mặt chàng tươi lên. Nhưng:
Út ơi, pha cho tao một ly cà phê.

Giọng anh trai tôi vang lên cắt đứt giây phút thích thú. Kể ra cũng nhờ anh tôi, Trần mới có dịp thân với tôi hơn. Anh tôi rủ Trần đến học chung mỗi tối ở phòng sau, tôi cũng ngồi học bài gần đó. Anh tôi dễ tính và cưng chiều tôi, anh cũng mến Trần nữa, bởi thế lúc nào cũng cắm đầu vào cuốn sách học, giả vờ như quên Trần và tôi. Chúng tôi tha hồ nói chuyện với nhau, miễn là nói nhỏ đừng để lọt lên phòng khách là nơi ba tôi đang đánh bài. Chỉ đôi khi, có lẽ thấy câu chuyện của chúng tôi sắp đến chỗ “thân mật” quá, anh tôi mới lên tiếng “phá đám” bằng cách sai tôi làm một cái gì đó hay hỏi Trần một câu vớ vẩn.

Nhà tôi và nhà Trần cách nhau có mấy con đường mà chúng tôi gởi thư cho nhau một tuần đến hai ba cái. Gởi bằng bưu điện nữa mới thật buồn cười. Vì tỉnh này chỉ có một nhà bưu điện nên có lần chúng tôi đụng đầu nhau trước thùng thư. Hôm đó tôi đi với con bạn nên Trần không dám trò chuyện gì nhiều. Chúng tôi giả vờ như hai người không quen trước thùng thư, nhưng thay vì bỏ vào thùng, tôi và Trần nhanh nhẹn đổi thư cho nhau. Về sau chàng nói bưu điện Việt Nam nên hãnh diện vì chưa bao giờ có một vụ chuyển thư với thời gian nhanh chóng như thế, phá hết mọi kỷ lục trên thế giới.

Tôi đã nói Trần vốn thích nói đùa. Chàng nói đùa nhiều khi quá lố làm người khác dễ giận, riêng tôi thì không. Có lần nhà tôi làm đám giỗ thật trọng thể với đầy đủ khách khứa lớn tuổi, Trần đến ăn uống no say, rồi nói nhỏ với tôi bằng cái giọng đầy mùi rượu:
Nhà tổ chức tiệc tùng gì mà lớn quá, chắc là đám hỏi của em?

Tôi “suỵt” chàng một tiếng bảo nín ngay, rồi tôi vờ nghiêm nghị gật đầu:
Ừ, đám hỏi của em đó. Có sao không?

Chàng nheo mắt hỏi:
Của em và ai?

Tôi im lặng. Trần bốc đồng hứng chí nói tiếp:
Chắc là của em với anh.

Tôi đỏ mặt, nguýt chàng một cái dài rồi vội bỏ đi chỗ khác vì sợ nghe thêm những lời ẩu tả của chàng. Sinh nhật tôi, Trần đem đến một bó hoa hồng đỏ tươi. Chàng tặng tôi đủ thứ nhẫn vòng, chuỗi hạt, và một chiếc trâm cài tóc. Chàng còn nói:
Từ nay, anh tình nguyện lấy ngày sinh nhật của em làm sinh nhật của anh luôn. Ăn mừng một lần cho tiện.

Tôi cười, nhìn chàng âu yếm, rồi nói:
Cũng được. Thế hôm nay là ngày sinh nhật của anh hả?

Tôi không biết đã mắc mưu Trần. Chàng chỉ đợi tôi nói thế là lên tiếng ngay:
Sinh nhật của anh, em phải tặng cho anh cái gì đi.

Tôi cũng khôn không kém:
Bây giờ em mới biết. Làm sao đi mua đồ kịp nữa?

– Thì cho cái gì có sẵn trong nhà. Cho anh chiếc “ruban” cột tóc em cũng được.

Tôi lắc đầu. Mặt chàng nặng xuống có vẻ giận. Lát sau, khi Trần về, tôi đưa tặng chàng món đồ mà tôi quý nhất. Đó là cuốn sách dày tự tay tôi khâu đóng với giấy xanh, từ hai năm nay tôi chép trong đó những bài thơ tôi thích nhất. Tôi đã cố ý gấp nếp đánh dấu ở một trang, bài thơ của Huy Cận mà giờ đây tôi chỉ còn nhớ đôi câu:

Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng
Trí vô tư như da thở hương tình

Tôi vẫn muốn Trần và tôi sống mãi những ngày đầm ấm vô tư, tươi sáng rực rỡ như ánh nắng, say đắm mà giữ gìn kín đáo, nồng nào bên nhau mà lặng lẽ cho nhau.

Và hạnh phúc thay, ngày ấy tình yêu của Trần và tôi đã êm đềm trong sạch như tôi mơ ước. Chúng tôi trao nhau những cái nhìn nồng cháy đắm đuối, chúng tôi nói những lời chan chứa ẩn tình, chúng tôi cười bên nhau ròn rã như đôi uyên ương… Nhưng chúng tôi chưa hề dám có với nhau một nụ hôn, điều khởi đầu của những cặp tình nhân như tôi thường nghe nói. Đôi khi chúng tôi câm lặng nhìn nhau mắt không rời mắt, tôi như đã hôn đôi mắt chàng trong trí óc, chàng như đã uống lấy đôi môi tôi trong tâm hồn chàng.

Chúng tôi chưa có một lời ràng buộc rõ ràng nào với nhau, nhưng tôi biết cả hai đều tự nhủ kết ước đời mình với nhau mãi mãi. Chỉ một lần, Trần bạo gan buồn buồn hỏi:
Sau này dầu em có làm gì hay em “ở” với ai, em sẽ thấy là không có ai thương em bằng anh cả.

Tôi muốn khóc. Chàng yêu tôi nhưng sao không tin tưởng vào lòng tôi vĩnh viễn. Tôi giận dỗi nói:
“Ở” với ai là sao?

– Là đi lấy chồng.

– Em không muốn lấy chồng gì cả.

Trần chợt nắm lấy bàn tay tôi. Tôi nhẹ nhàng khéo léo rút ra khỏi bàn tay của chàng. Giọng chàng ngần ngại bên tai tôi:
Vài năm nữa em có muốn “ở” với anh không?

Tôi hờn mát:
Để nuôi vợ con anh à?

– Anh cũng không lấy vợ. Anh “lo” gả chồng cho em trước rồi mới lấy vợ sau. Đám cưới của em trước rồi mới đến đám cưới anh.

Trần ngừng lại một lát như để lấy thêm can đảm, rồi run run nói:
Nếu hai đám cưới cùng tổ chức vào một lần thì tiện hơn. Nếu rút gọn lại được thành một đám cưới, chỉ một… của anh với em…

Chúng tôi im lặng giây lâu. Tôi biết lời chàng thành thật, tính chàng hay bông đùa nhưng vì đã quen thuộc, lúc nào chàng nói đùa là tôi biết. Và lần này, sự thành thật đã làm chàng nói một cách khó khăn, ấp úng như đứa trẻ. Trần nhắc lại:
Em bằng lòng không?

Tôi cúi đầu. Tôi mong được chàng hiểu cho tôi cả những điều không thể phát thành lời nói. Tôi ngập ngừng tháo chiếc nhẫn vàng xưa của mẹ mà tôi thường đeo ở ngón áp út, tôi nắm chặt giấu kín trong lòng bàn tay và hướng về phía chàng.

Cả hai bàn tay tôi đều nắm lại, còn e dè đặt trên bàn. Có tiếng chân của anh tôi trên nhà đi xuống. Trần trở lại với thói quen tinh nghịch, chàng vui vẻ nói lớn như trẻ con đố:
Xầm xì may rủi… Bửa củi nấu ăn… A… tay này.

Và chàng gỡ những ngón tay của tôi ra, lanh lẹ cầm lấy chiếc nhẫn cất ngay vào túi. Ngày hôm sau, tôi thấy Trần lúc nào gặp người khác đều bỏ một tay vào túi quần, chàng sợ người ta biết. Chiếc nhẫn của tôi hơi nhỏ nên chàng đeo ở ngón út bàn tay phải.

Cứ thế, tháng ngày qua đều đặn nhưng không còn tẻ nhạt nữa. Mỗi ngày của tôi đều mang một màu sắc mới sống động. Rồi mùa xuân gần tới…

o O o

Đến với nhau vì cùng trẻ tuổi, nhưng chúng tôi dần dần khổ sở với nhau vì tôi và Trần đều quá trẻ người non dạ. Chúng tôi có nhiều tự ái, bướng bỉnh, mau nóng giận và hay nghi ngờ không ai thua kém ai. Nhất là Trần, chàng bồng bột phóng lớn tình yêu của chàng biến thành một cái gì thật vĩ đại và toàn bích. Chàng nói đến những điều tuyệt đối, lý tưởng, tuyệt vời gần như ảo mộng. Chàng đòi hỏi quá nhiều, chàng muốn nhận được tất cả vì nghĩ rằng chàng đã cho tất cả. Rồi không khi nào chàng cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện hài lòng về tôi. Chàng tìm những lý do để tự vò xé chàng. Một cử chỉ vô tình thờ ơ của tôi cũng trở thành nặng nề như một vết thương làm đau lòng chàng. Chàng trở nên khó tính, nóng nảy, ngờ vực gần như si dại. Chàng ghen thật vô lý. Chàng ghen với tất cả những người đàn ông nào không phải là ba tôi hay là anh ruột của tôi. Chàng ghen với cả anh Lê. Sau này khi gặp anh, chàng chỉ lạnh lùng gật đầu chào rồi đi thẳng, không nói một tiếng. Và thế là, trong tình yêu, nụ cười vui đã dần dần bị thay thế bằng những nét nhăn sâu buồn bực trên trán và đôi mắt đỏ.

Và để “trả thù” tôi, Trần úp mở nói cho tôi biết đời sống tình cảm bừa bãi của chàng. Chàng nửa đùa nửa thật kể cho tôi nghe những chuyện chàng đi tán tỉnh cô này cô nọ. Chàng giả vờ thành thật nói chuyện một cách tự nhiên, và dễ ghét, rằng chàng đang có một hai cô bồ nào đó.

Tôi cảm thấy giận và khó chịu, nhưng ngoài mặt vẫn bình thản như thường. Tính tôi vốn dấu diếm tình cảm rất giỏi. Tôi còn cười cười ra vẻ thích thú, hỏi thêm về những “người yêu” của chàng, tôi cũng không ngớt lời ca tụng những người đẹp ấy. Không ngờ vì thế mà Trần giận thêm, chàng nói rằng tôi có trái tim bằng sắt, rằng tôi coi thường chàng quá và chàng bực tức dọa rằng chàng sẽ chứng minh cho tôi thấy “sắt” không bao giờ được yêu thương cả.

Trần lớn hơn tôi vài tuổi, dĩ nhiên tôi cũng biết chàng có thể có người yêu nào đó trước khi gặp tôi. Tôi không phải là tình đầu tiên của Trần, nhưng tôi tin tưởng rằng hiện nay chàng chỉ yêu có mình tôi. Chỉ có tôi là người duy nhất của chàng, và chàng sẽ không bao giờ yêu ai khác ngoài tôi nữa. Không biết vì lý do gì mà tôi tự tin một cách vững chắc như thế. Không phải vì lý do sắc đẹp. Trong trường, trong lớp, tôi biết mình không phải là người đẹp nhất. Ở nhà, tôi cũng nhìn nhận chị tôi có dáng dấp yêu kiều, quyến rũ hơn tôi. Huống gì tỉnh này còn biết bao người đẹp khác nữa. Trần là đàn ông, chàng có thể quen biết một vài cô. Nhưng… tôi vẫn tin chàng chỉ có mình tôi, chỉ nhìn thấy tôi, chỉ nhớ chỉ nghĩ về tôi, ngay cả khi chàng giận dữ nói chàng “sắp sửa” quên tôi rồi. Có lẽ nhờ tình yêu nồng nàn bộc lộ không hề che dấu của chàng mà tôi tin như thế. Một gã sở khanh có thể tán tỉnh nhiều người bằng những lời nói lặp đi lặp lại giống hệt nhau. Nhưng không ai có thể nhìn đến hai người với chỉ một ánh mắt. Trần lặng lẽ cho tôi hết tất cả màu mắt chan chứa yêu thương, say đắm, hân hoan, hờn dỗi của chàng… Chàng không thể lặp lại ánh sáng sống động xôn xao ấy cho một người nào khác.

Chỉ tiếc là chúng tôi yêu nhau, nhưng vẫn đi trên hai lối khác. Tôi che dấu bớt tình yêu của mình còn chàng thì say sưa bộc lộ quá nhiều tình yêu của chàng, để rồi chàng tính toán một cách trẻ con mà bảo rằng chàng “thua lỗ.”

Như đã nói, tính tôi cũng bướng bỉnh không kém gì Trần… Khi nghe nói đến những người yêu nào đó − tưởng tượng hay có thật − của Trần, lập tức tôi nói chuyện về những người bạn trai của tôi cho Trần nghe. Thỉnh thoảng nhắc đến tên của người nào đó, tôi mỉm cười một cách bí mật. Thế là Trần nghi ngờ hỏi:
Tại sao em cười?

– Bộ anh cấm em cười à? Thích cười là cười.

– Nhưng tại sao khi nói đến tên “thằng” X… em lại cười có vẻ thích thú lắm? Còn anh…

Và Trần nói lớn một tràng dài:
Trần, Trần, Trần, Trần… Đó, sao em không cười đi?

Chàng đã vô lý như thế làm sao tôi nói gì được? Tôi im lặng và lạnh lùng không nói gì nữa. Trần lại tìm thêm một cớ khác:
Chắc em có nhiều bạn trai gởi thư cho em lắm?

Tôi đáp:
Không nhiều. Vừa thôi.

– Vừa là sao? Ngoài thư anh ra, em còn nhận thư hay viết thư cho ai nữa không?

– Có chứ!

Trần như nổi điên:
Em trả thư anh hết lại cho anh.

Tôi cắn môi, lắc đầu:
Em không trả. Ai bảo anh không chịu suy nghĩ kỹ trước khi gởi cho em! Gởi rồi là không được quyền đòi lại.

– Chữ của anh viết tại sao anh lại không có quyền? Trả lại cho anh.

Trần nói với giọng như người đòi nợ làm tôi tức, tôi trả lời:
Em làm mất hết rồi.

Trần sững sờ giây lát, rồi chàng bỗng nói một cách dịu dàng:
Thôi, cũng không sao. Để mai anh đem trả lại cho em tất cả thư từ gì em gởi. Anh không muốn nhận, không muốn giữ cái gì của em nữa.

Những lời nhẹ nhàng đó làm tôi nhói đau nhè nhè, mắt tôi cay nóng và hình như tôi đã khóc. Tôi quay đầu đi, nói nhỏ:
Khỏi cần trả. Anh đốt hết đi.

Trần có vẻ ngần ngại rồi lấy ra trong túi một lá thư. Chỉ nhìn sơ qua ngoài bì tôi biết ngay là lá thư tôi vừa gởi cho chàng tuần trước, tôi còn nhớ trong đó tôi viết cho chàng những chuyện thật vớ vẩn: “Hôm qua em đi học về, trời mưa lớn và đường trơn quá, em suýt trợt té xuống ao đó… Anh biết không?”, và “… Mấy ngày nay trời mưa hoài thích quá. Tự dưng em muốn anh đến thăm em ngay bây giờ, nếu đến chậm quá lỡ… em chết đi thì sao. Anh biết không… chà, anh mà biết gì… anh vẫn nói anh ghét trời mưa lạnh lắm, thật trái với em… Anh nhớ không. Và ở xứ này, dầu anh ghét hay thích, trời vẫn cứ mưa mãi…”

Trong khi tôi đang mơ màng nghe lại những lời cũ của chính mình, Trần bỗng đột ngột đưa cho tôi lá thư, chàng lạnh lùng nói:
Em đốt trước một cái cho vui.

Tôi khóc. Tôi không còn muốn nhường nhịn gì Trần nữa. Tôi đi đến bên cánh cửa sổ, quẹt diêm đốt lá thư và nhìn tro tàn bay tan tác theo gió dần xa mất biệt.

Và thế là, tôi, có lẽ cả Trần nữa, chúng tôi đã đốt cháy nhiều thứ lắm.

Chúng tôi tránh mặt nhau trong nhiều ngày. Xa cách thật giá lạnh như mùa đông, và làm mùa đông của chúng tôi kéo dài bất tận.

Nhưng bên ngoài, tiết trời vẫn tuần tự. Dù muốn dù không, mùa xuân vẫn tới.

Đêm Giao Thừa, hai chị em tôi sửa soạn ủi mấy chiếc áo dài mới. Những chiếc áo len lấy từ trong rương thơm mùi long não. Tuy không còn mẹ, nhưng nhà tôi vẫn có đầy đủ những thứ cho ngày Tết. Bánh chưng, bánh tét, mứt me, mứt sen, mứt dừa, trà rượu… Chị tôi đang dọn sẵn sàng. Một cành mai nở hoa vàng do anh Lê đem lại biếu cho ba tôi, rực rỡ trong chiếc bình cổ được chùi rửa bóng loáng. Mấy ngày gần đây, không hiểu sao anh Lê có vẻ buồn, anh ít nói hơn với chị em tôi. Và nhất là với tôi, thỉnh thoảng tôi bắt gặp đôi mắt của anh lén nhìn một thoáng nhanh rồi quay đi. Anh Lê vẫn đánh bài hằng đêm ở nhà tôi, anh vẫn thua luôn như thường lệ, nhưng dạo này anh uống rượu nhiều hơn trước. Cứ mỗi khi sòng bài tan, anh ngồi lầm lì uống rượu li bì đến khuya mới uể oải đi ngủ.

Gần mười một giờ tối. Đêm nay, ba tôi nghỉ đánh bài sớm, ông rút vào phòng đóng kín cửa. Anh tôi ở trong phòng riêng, dọn dẹp sách vở và cũng chịu khó chải lại bộ Veston bảnh bao của anh để ngày mai “diện” vào. Chị tôi ở trong phòng tắm, chị đang gội đầu “tất niên” bằng nước bồ kết và nói có để dành cho tôi một ít.

Trên phòng khách chỉ còn lại anh Lê và tôi. Tôi đang đọc một tấm thiệp chúc Tết “làm hòa” của Trần, chàng nói chàng sẽ đến xông đất nhà tôi vào sáng mồng một hay có thể là trong đêm Giao Thừa, trước khi mọi nhà đều đóng kín cửa.

Anh Lê ngồi hút thuốc liên miên, chai rượu Mai Quế Lộ trước mặt anh đã vơi một nửa. Tôi tiến lại gần bên anh, gợi chuyện cho anh vui nhưng anh chỉ thở dài, lặng câm không nói.

Đôi mắt anh đỏ sâu lờ đờ nhìn không chớp vào mắt tôi. Tôi hơi sợ và bối rối. Hôm nay anh có vẻ gì thật khác lạ. Bỗng anh Lê cầm lấy tay tôi. Tôi để yên, thỉnh thoảng anh Lê vẫn xem chỉ tay cho tôi. Anh vẫn thường vuốt tóc tôi, véo má tôi hay cầm tay tôi đùa nghịch như anh trai vẫn thường đùa với tôi.

Nhưng lần này, anh Lê nắm tay tôi thật lâu và không có vẻ gì đùa giỡn cả. Anh còn siết chặt mấy ngón tay tôi thật đau. Tôi mỉm cười, nhẹ gỡ tay anh ra nhưng anh vẫn không buông. Cánh tay kia của anh bỗng quàng lên vai tôi kéo lại gần, tôi cảm thấy mái tóc của tôi bị những ngón tay của anh lùa vào quấn quýt. Anh bỗng run run nói, tôi chỉ nghe mập mờ vì trống ngực tôi đang đập thình thịch lo sợ, nhưng tôi vẫn nghe và hiểu rõ những lời nói của anh. Anh nói anh yêu tôi. Tôi bàng hoàng như nằm trong mơ. Không phải là một cơn ác mộng, cũng không phải là một giấc mộng đẹp. Tôi sững sờ. Anh Lê lớn hơn tôi gần hai mươi tuổi, và anh cư xử một cách tự nhiên trong nhà tôi khiến không ai có thể gán ghép anh với chị tôi nữa chứ đừng nói với tôi.

Tôi bất động, không biết phải làm gì hay nói gì cả. Trong lúc đó, anh Lê ôm chặt lấy tôi, anh hôn vào má tôi…

Bỗng có tiếng cửa mở và tiếng chân chạy vào. Tôi bừng tỉnh, vội giằng anh Lê ra… nhưng không kịp nữa. Trần đã nhìn thấy. Khuôn mặt Trần tái xanh, kinh ngạc, đau đớn lẫn hung dữ. Chàng ném mạnh bó hoa huệ trắng đang cầm trên tay, bỏ chạy ra khỏi nhà.

Tôi kêu lên:
Trần! Trần! Trần! Không phải… không…

Nhưng Trần không trả lời. Tôi chạy vội nhìn ra ngoài cửa sổ. Trần đang chạy như người điên băng qua đường và biến mất trong bóng tối.

Tôi bật khóc, đứng suy nghĩ một lát rồi vội vàng xuống mở cửa nhà. Tôi không kịp mặc thêm áo choàng hay áo mưa gì cả, tôi đi gần như chạy đến nhà Trần. Tôi biết chỗ Trần ở, cách nhà tôi không xa, chàng ở chung với một người dì góa chồng và chàng có phòng riêng.

Trời đêm cuối năm mưa lất phất nhưng rét căm căm. Tôi lầm lũi đi, lạnh run rẩy, tóc tai ướt mèm, bóng tối hoang mang dễ sợ và có vài tiếng chó sủa nghe thật ghê rợn.

Tôi nhìn thấy phòng Trần còn ánh đèn. Tôi không e dè như mọi khi, mở cửa bước vào. Một quang cảnh hỗn độn bày ra trước mắt. Trần xáo tung, đạp đổ sách vở áo quần vứt bừa bộn trên nền nhà. Chàng đang tìm một cái gì đó.

Tôi nắm lấy cánh tay chàng, khóc lóc:
Trần… anh nghe em nói đã.

Chàng hất mạnh tay tôi ra, mắt chàng long lên sòng sọc điên cuồng khiến tôi lùi lại. Chàng hét lên:
Còn nghe gì nữa? Anh đã nghe người ta đồn đại lâu rồi mà không tin, giờ mới thấy tận mắt…

Tôi ôm lấy mặt, lắc đầu. Trần lục tìm được một xấp thư của tôi viết cho chàng. Chàng xé tan từng lá rồi ném những mảnh giấy bay tung vào mặt tôi. Chàng gằn giọng nói:
Anh ghê tởm em!

Tôi chỉ biết khóc. Mọi khi tôi vẫn không giải thích được cho chàng hiểu một điều gì, huống chi là lúc này, chàng gần như quẫn trí.

Trần bỗng chợt nhớ chiếc nhẫn của tôi đeo ở ngón tay út chàng, chàng nóng nảy tháo ra nhưng không gỡ được. Chàng nắm tay, đấm liên hồi trên mặt bàn, bàn tay chàng rướm máu sưng vù nhưng chiếc nhẫn chỉ trầy trụa chứ không gãy ra. Chàng như điên dại, đấm tay vào mặt kính ở cửa sổ. Tôi hoảng sợ la lên, bàn tay Trần bị mảnh kính cắt tươm đầy máu trong tiếng vỡ của thủy tinh loảng xoảng, chiếc nhẫn vẫn không rời ra. Chàng đấm mạnh vào mặt kính vỡ một lần nữa. Tôi rú lên, định ngăn chàng nhưng không kịp… nắm tay của Trần đã đập mạnh vào một cạnh sắt nhọn của mảnh kính chỉa ra… chàng la lên một tiếng đau đớn… Ngón tay út của chàng ngập đầy máu đỏ, có lẽ là bị đứt lìa, chàng ôm lấy bàn tay quỵ ngã xuống đất…

o O o

Vài năm sau, anh tôi có dịp đi Saigon. Anh về kể cho tôi nghe tình cờ có gặp được Trần trong đó. Anh buồn bã nói Trần bây giờ đã khác hẳn hồi trước, chàng sống hết sức bê tha và trác táng, chàng dính dấp với những người đàn bà tồi tệ, và đêm nào chàng cũng say khướt qua những quán rượu. Anh tôi gặp Trần ở một quán nước đường Tự Do, chàng rất vui mừng khi gặp lại anh tôi nhưng tuyệt nhiên chàng không nhắc nhở đến ngày xưa nữa.

Tôi chẳng đổ lỗi cho ai, tôi cũng không có lỗi gì trong chuyện tan vỡ này. Năm sau, chị tôi đi lấy chồng. Đến năm hai mươi tuổi, tới lượt tôi, lấy một người mới quen sau này do nhà chọn lựa. Hai năm sau, tôi ly dị. Và từ đó đến nay, tôi sống một mình, đi làm việc và sống tự lập. Tôi cũng không trở về với gia đình nữa, ngay cả trong lúc Tết đến.

Tôi thường nghe nói đến những cuộc hôn nhân tốt đẹp không cần có tình yêu. Riêng tôi thì không thể. Đối với tôi, tình yêu khởi đầu cho tất cả mọi sự, nuôi dưỡng được tất cả mọi sự. Đàn bà không phailúc nào cũng trẻ đẹp mãi mãi, thời gian sẽ làm chóng tàn tạ. Chỉ nhờ có tình yêu, chút nhan sắc mong manh của người đàn bà mới được nhìn thấy, được gọi tên, được trở thành cái đẹp vĩnh cữu.

Nhưng tôi chỉ yêu Trần. Mất chàng, là tôi mất hết tình cảm lớn lao đó.

Tình yêu, niềm tuyệt vời và bí ẩn ấy tôi không biết và cũng không muốn biết đến hai lần. Thật kỳ lạ… Tình yêu… là cái gì nhỉ? Kính trọng hay thương hại cũng không phải là tình yêu. Có lẽ chẳng bao giờ hiểu rõ hay định nghĩa được, chỉ có thể ví dụ. Tình yêu, như tôi đã yêu Trần. Và tôi tin rằng ở một nơi xa nào đó, đến nay, Trần cũng sẽ nói như thế. Tình yêu đối với chàng, có nghĩa là… như chàng đã yêu tôi.

o O o

Nàng uống cạn ly, nói tiếp:
Đã gần mười năm qua kể từ đêm Giao Thừa năm ấy. Ông thấy đó, như thế làm sao tôi còn có thể sung sướng hân hoan gì trong mấy ngày Tết? Hàng năm, cứ đến Giao Thừa là tôi sợ hãi, uống rượu đến say mèm để không nhớ gì đến kỷ niệm. Nhưng làm sao quên Giao Thừa đó được. May mà đêm nay gặp ông, tự dưng tôi kể ra hết mọi chuyện, tôi hy vọng là đêm mai tôi sẽ nhẹ lòng bớt mà ngủ yên. Còn Trần… tôi không hề gặp lại một lần. Và nếu chỉ gặp thoáng chốc vội vàng, chắc chúng tôi cũng không nhìn ra nhau. Chúng tôi đều đã thay đổi nhiều. Năm tháng, nhất là sự đau đớn, làm người ta chóng già cỗi…

Chàng thở dài, im lặng một lát rồi nói:
Cô có thấy người bạn hồi nãy mới đi với tôi không? Hắn hiện là chủ bút của một tờ báo. Tôi sẽ giới thiệu cô với hắn, cô nên viết lại chuyện của cô thành một cuốn truyện…

Nàng cười nhạt, lắc đầu:
Không… chuyện của tôi đã động chạm đến nhiều người nếu người ta đọc được. Có người sẽ bất bình, trách móc…

Chàng nói:
Người bạn của tôi bắt đầu viết văn cũng vì tình yêu. Truyện đầu tiên của hắn in ra, người yêu cũ của hắn, hiện đã có chồng, viết thư đến trách móc. Tôi còn nhớ câu hắn trả lời cho cô ấy: Đừng trách móc những chữ được viết ra bởi sự đau đớn… Có thể trách những điều đùa giỡn, cười cợt nhưng phải tha thứ cho những người đau đớn. Họ có thể làm tất cả mọi chuyện để cứu sống chính họ. Một nhà thơ… Goethe, ông ta viết xong cuốn Những nỗi đau của chàng Werther mới dứt bỏ được ám ảnh tự tử. Tôi nhớ mãi lời nói của bạn tôi: Đừng trách móc những chữ được viết ra bởi sự đau đớn… Cô đâu có vui gì khi kể lại chuyện đó…

Nàng vẫn lắc đầu:
Thôi, bỏ chuyện ấy đi.

Và nàng chợt rùng mình:
Tôi cảm thấy ớn lạnh. Có lẽ vì tôi đã uống nhiều rượu quá.

– Để tôi nắm tay cô cho ấm.

Chàng vội nắm lấy bàn tay nàng. Nàng nghiêm trang nói:
Đừng… Ông đừng làm thế.

Chàng vẫn giữ chặt tay nàng trong tay mình. Giọng chàng bỗng run rẩy thốt lên, nghe đều đều âm u:
Cô cứ nắm lấy tay tôi một lát thôi, rồi sẽ thấy tại sao tôi làm thế. Đó… cô cứ nắm như thế… đan tay vào những ngón tay tôi… và đếm… nào một… hai… ba… bốn… tôi chỉ… thiếu một ngón tay út.

Nàng bật la lên, mắt trừng trừng nhìn vào mặt chàng, tay nàng lạnh ướt mồ hôi trong tay chàng. Nàng bắt gặp một cái gì gần như là một nụ cười quen thuộc lẫn xa xăm, âu yếm và đau thương trên khuôn mặt chàng.

Lúc đó, người bạn của chàng lảo đảo trở lại, y lè nhè nói với chàng:
Khuya rồi. Thôi bọn mình về đi, Trần.

Loài hoa biến sắc – Dương Thu Hương (1947- )

Tôi khoá cửa, cẩn thận móc thêm mấy chiếc móc sắt và thả những tấm rèm xuống. Xong xuôi, tôi mở sắc lấy ra thỏi son Nữ hoàng Ê-li-da-bét. Ống son mạ vàng in hình đầu một người đàn bà đẹp mê hồn.

Tôi đặt thỏi son lên môi, hôi hộp và náo nức. Trong tấm gương, một khuôn mặt xa lạ nhìn tôi: Đôi mắt, đường cong lông mày, món tóc lưa thưa sau cơn sốt phủ xuồng trán, làn da tái xanh với những chấm tàn nhang mờ mờ hai bên má… Những thứ đó chẳng ăn nhập gì với cặp môi tô son nhem nhuốc. Đôi mắt trong gương nhìn tôi với vẻ lạ lùng.Và một đôi mắt khác, một đôi mắt vô hình nhìn tôi với cái nhìn nóng bỏng. Tôi đặt thỏi son xuống. Cơn gió đi qua thổi lật những trang sách trên bàn. Đó là cuốn “làm đẹp,” một cuốn sách dày ngót sáu trăm trang mà tôi mới tìm mua được ngày chủ nhật trước. Những dòng chữ in nghiêng nổi lên: Trang điểm xong, bạn hãy ngồi trước quạt dăm phút cho khô kem rồi hãy sang phòng chọn áo. Mùa hè nên chọn hàng mỏng. Thứ bóng hay mờ tuỳ theo người gầy hay béo. Màu thanh thiên, hoàng yến, lòng tôm lợt hay màu hoa cà là những màu thường được ưa chuộng… Những người đàn bà ở đây mới sung sướng làm sao!… Một sự thèm muốn xâm chiếm lòng tôi, từ từ và đau rát như một dòng chì lỏng tưới vào.

Sau những năm tháng ở rừng, cuộc sống ở nơi đây làm tôi choáng váng. Phố phường, nhà cửa, lầu gác, hàng hóa, ánh đèn chất ngất, tiếng ồn ào vô tận như dòng suổi chảy trên bờ phố, nhịp điệu của tiếng đàn ghi ta trong những tiệm cà phê thắp đèn hồng… Nhưng điều lôi cuốn hơn cả vẫn là những người đàn bà ở đây. Họ mở ra trước mắt tôi một thế giới của cuộc sống phồn hoa, một thế giới chúng tôi chưa từng thấy, chưa từng nghĩ đến, một thế giới choáng lộn màu sắc và ngào ngạt hương thơm của các mỹ phẩm. Mỗi người đàn bà ở đây có hàng tá áo dài áo len đủ màu và đủ kiểu. Những hộp nữ trang đồ sộ, các loại phấn son, các thứ chì kẻ mắt… Chỉ những đồ dùng vặt vãnh của họ cũng đủ làm cho tôi mê mẩn.

Tuổi thanh xuân đi qua trên những cánh rừng ngút ngàn của giải Trường Sơn. Những năm ấy, làn da đã trôi mất màu hồng tươi thắm vì sốt rét. Mái tóc ong ả đã trút dần trên những con suối độc ngâm đầy lá lim. Bàn tay quen với choòng cuốc dân chài cứng. Và chúng tôi trở về thành phố với chiếc ba lô sau lưng, tấm khăn dù quấn quanh cổ và với vẻ vụng về ngơ ngác của những người quen ở miệt núi non.

Đoàn quân chiến thắng đổ về các thành phố. Chúng ta đã sống những ngày đầy tự hào, những ngày vui sướng đến gây ngất. Nhưng rồi sau đó chỉ những người con trai vô tư là giữ được trọn vẹn niềm hân hoan đó. Tôi thì có khác, bên hạnh phúc của người chiến thắng, tôi còn những nỗi xao xuyến khác, một thứ tâm sự rất đàn bà. Tôi thường nhìn những người con gái đi qua mặt mình, những người con gái được trang điểm lộng lẫy, áo quần sang trọng, dáng điệu đài các. Họ đi đến đâu, không gian sực nức mùi nước hoa quyến rũ.

Rồi tôi cũng lại tự ngắm mình trong gương, trong các tấm kính cửa, và tôi thấy ở đó một cô gái đen đủi, ăn vận xoàng xĩnh. Có một cảm giác gần như ghen tị, và bên dưới sự ghen tị đó là một nỗi tủi buồn mờ nhạt, không rõ nét nhưng dai dẳng xâm chiễm tâm hồn. Mỗi khi có người đàn bà nào đó đi qua không thèm ngoái lại, ném sang một cái nhìn chế diễu hoặc khinh mạn, lòng tôi cộm lên và nỗi uất ức làm nóng ran đầu óc…

Tôi nhìn vào tấm gương. Một khuôn mặt khác vẫn còn trong đó, với đôi môi đỏ chót.

Gian phòng thênh thang vắng lặng. Trên bàn, chếc máy ghi âm đang phát ra một đoạn nhạc không lời, một giai điệu nhợt nhạt buồn bã nhưng tiếng đệm của bộ gõ lại quá chát chúa và rậm rịch. Đoạn nhạc kéo dài, rồi nó chợt tắt đi và tiếng đọc thơ vang lên, một giọng nam trầm ấm áp:

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm…

Bài thơ tha thiết, như một cơn gió đột ngột ùa đến, nó tràn đầy trong tôi, xóa sạch những nỗi buồn bực, day dứt.

Tôi nhắm mắt lại. Không còn nhìn thấy khuôn mặt ngơ ngác có cặp môi tô son, không còn nhìn thấy bóng dáng những người đàn bà thành phố, không còn cái đầu mê hồn của nữ hoàng Ê-li-da-bét mạ vàng. Không còn những ao ước những khát khao mới lạ…

Những cánh rừng rung lá trên đầu tôi. Những cánh rừng xanh rì, dây leo nở đầy hoa, những tán cây xum xuê như chiếc dù thần bí. Trảng cỏ non bốc lên làn khói màu lam… Rồi đường 20, con đường lầy như cháo đổ, những con ngầm nước réo. Đèo Phu-la-nhích trong sương. Làn khói vòng vèo trên mái nứa binh trạm. Tôi cùng đồng đội đứng làm cọc tiêu trong mưa. Trận bom bên kia đèo. Trong cái hang Cóc Chúa sặc sụa khói, chúng tôi ngồi gác chân bên đống than hồng, vắt mái tóc ướt sũng nước mưa và gào lên những câu hát tinh nghịch:

Hết xuân rồi, anh có lấy em không?…
Những ngày gian truân và vui sướng
.

Tôi chìm sâu trong những hồi ức chiến tranh, lòng mát mẻ êm dịu và thấm đẫm những giọt sương mai, những giọt sương của một cánh rừng tiền duyên, chúng nối nhau rơi xuống từ những chiếc lá hình thoi, màu xanh sáng. Trên chót những vòm lá, một chùm hoa tím đung đưa. Những giọt sương rơi lộp độp, tiếng vang động như tiếng nứt của những quả thông khô…

Ai gõ cửa rất lâu và dồn dập. Tôi sực tỉnh. Việc đầu tiên là lấy khăn ướt lau cho sạch son trên môi rồi chạy ra mở khoá. Chiếc chìa khoá vừa xoay một vòng thì hai cánh cửa đã bật tung ra, và Khánh đứng trước mặt tôi với nụ cười hết cỡ:
Nhóc con, ngủ hay sao mà lâu thế?

Tôi chưa kịp trả lời thì anh đã mắng té tát luôn:
Coi chừng đó, về thành phố là đâm lười ra, chưa tối đã lên giường ngủ.

Tôi cười chống đỡ và vội vàng đứng tựa lưng vào chiếc bàn trang điểm để che đi hộp son còn nằm lăn lóc.

Nhưng Khánh không để ý đến điều đó, anh giục tôi:
Chải đầu rồi đi ăn với anh.

– Em ăn cơm chiều rồi.

– Đi chơi, ăn bánh trái là chủ yếu chứ ai bắt ăn cơm! Con gái ở rừng về có khác, ngốc thật!

Tôi ngại ngùng:
Thôi, để khi khác.

Khánh nhìn quanh phòng, anh cười trìu mến:
Này, đây có phải cái đền đâu mà em làm ông từ coi bàn thờ Phật!

Khánh cùng cơ quan với tôi nhưng ở khác bộ phận. Tôi được vào làm phóng viên báo là do anh. Hồi trước tôi ở C bảy. Trong một đợt đi công tác dọc đường 20, Khánh đã đến đơn vị tôi. Anh đọc báo liếp chi đoàn rồi cứ nằng nặc đòi tôi cho xem nhật ký. Anh đi được nửa tháng thì có lệnh gọi tôi lên ban chỉ huy. Ở đó người ta làm thủ tục chuyển tôi sang tòa báo và chỉ nói một câu cụt lủn:
Đồng chí sang bên đó hợp với khả năng hơn.

Đeo ba lô đến cơ quan mới, tôi vẫn cứ tấm tức không hiểu vì cớ sao người ta lại cho tôi ra đi một cách vội vàng đến thế. Tụi bạn gái khóc sướt mướt, chúng dúi vào ba lô tôi từ chiếc mùi xoa, cây kim móc đến mấy sợi chỉ thêu và chiếc hộp đựng xà phòng gò bằng ống pháo sáng.

Đến nơi mới thấy Khánh đứng cười ha hả, tay cầm phong lương khô đem làm quà cho nữ phóng viên mới. Khánh đã có vợ con và hơn tôi bảy tuổi. Anh đối với tôi và những bạn đồng nghiệp khác có cái săn sóc của người gia trưởng. Trong con mắt anh, tôi là một con bé tỉnh lẻ, lớn xác và ngốc nghếch, vì thế anh hay để ý chăm chút hơn.

Tôi chải tóc và lấy chiếc túi nhựa bỏ vài thứ lặt vặt vào. Khánh đã khởi động chiếc Honda ngoài sân. Tiếng máy nổ lục bục, tắt nghịn rồi lại ròn rã.

– Nào, ngồi lên, ôm cho chắc kẻo ngã vỡ đầu đấy!

Khánh ra lệnh, anh chờ tôi ngồi yên rồi mới dận ga. Chiếc xe lao đi. Đường phố buổi tối rất đông. Tuy bớt đi vẻ ồn áo nóng bức ban ngày nhưng lại thêm cái chói chang, lấp lóe hoa, mùi rác rưởi, vỏ cây lá bánh ngoài cửa chợ và mùi xào nấu trong các tiệm ăn bốc lên.

Khánh đưa tôi đến một tiệm ăn Hoa kiều. Một thanh niên chờ sẵn ở đó, chạy ra nắm lấy tay Khánh tươi cười:
Sao lâu vậy?, làm mình chờ hoài.

Anh ta quay sang tôi:
Chào chị.

Tôi gật đầu chào lại.

Khánh giới thiệu:
Đây là cô Sửu, em út trong cơ quan tôi. Còn đây là anh Hoàn, vừa là anh con bác vừa là bạn của anh.

Tôi cười.

Hoàn nhã nhặn chìa tay ra dáng điệu lịch thiệp và duyên dáng. Anh bận áo ni lông cát trắng và chiếc quần vải mềm màu xám nhẹ. Hoàn có nụ cười tươi, môi mỏng và hồng, nó làm người ta quên đi nước da nhợt rất khó ngó với khuôn mặt quá dài, nhất là chiếc cằm giống hệt một chiếc bánh mì chưa nướng.

Hoàn là anh em con chú bác ruột với Khánh, nhưng hai người ngoài mối quan hệ ruột thịt còn gắn bó với nhau bằng tình bạn hữu. Cả hai cùng ở phố Trần Xuân Soạn Hà Nội. Năm 54, họ còn là những chú bé tám tuổi sáng sáng xin mẹ hai trăm rưỡi ra ngõ I Hàm Long ăn phở Tàu, đến trường chia nhau từng quả táo dầm muối ớt. Sau đó, gia đình Hoàn di cư. Hai người đứng trong xó tối buồng tắm khóc thút thít. Khánh đã dốc vào túi anh tất cả số tiền lấy trộm được của mẹ với một gói ô mai. Ngày ấy cách đấy đã hai mươi năm rồi… Cả hai người đã lớn và khác xưa.

Nhưng Hoàn vẫn nhớ Khánh rất thích ăn phở Tàu và tối nay anh đã đặt cơm tại đây, một tiệm ăn Hoa kiều nổi tiếng. Trên chiếc bàn gỗ mun cổ lỗ trải khăn trắng, món ăn, đồ nhắm, bia rượu va nước ngọt bày la liệt. Chúng tôi ngồi vào bàn. Nhưng bữa ăn vẫn chưa bắt đầu vì còn phải chờ một vị khách nữa, theo như Hoàn giới thiệu thì đó là bồ của anh. Tôi dựa lưng vào tường, lơ đãng nhìn những cánh quạt đang xoay tít trên trần nhà. Những người bồi mặc áo trắng đi lại, mấy tấm gương đục ố nước thủy tinh bầu dục phản chiều bóng người và xe cộ ngoài đường phố. Các bàn ăn chật ních, có những người hình như đã ngồi đó từ sáng đến giờ và còn có thể ngồi đó cho đến nửa đêm. Một cặp trai gái cắm chiếc nĩa lên lưng một con gà quay và cứ ngồi chuyện rì rầm mãi. Ở đây người ta sẵn thì giờ thật. Thì giờ ở những tiệm ăn, tiệm giải khát, những phòng uốn tóc và những mỹ viện, những chiếc ghế xích đu và những đi văng. Không hiểu vì sao tôi lại theo đuổi những ý nghĩ tản mạn và thấy buồn. Cái âm hưởng của những câu thơ quen thuộc vẫn còn ngân nga trong tôi. Nó ngân lên những âm thanh trong suốt, âm thanh của những nguồn suối trên non cao.

Hoàn bỗng đứng dậy và phác một cử chỉ như vẫy gọi. Ngoài cửa, một cô gái đang lách giữa đám khách ăn chật ních tìm lối đi vào. Hoàn ra hiệu cho cô ta lần thứ hai. Cô gái nhận ra anh và cười. Phải chăng cô chính là người chúng tôi chờ đợi?… Cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi. Nhưng mặc dù cô còn rất trẻ, tôi không thấy cô có dáng dấp của một cô gái, mà lại có vẻ từng trải của một người đàn bà sớm biết lo toan. Người cô gầy, dáng mảnh dẻ, cô bận chiếc áo dài hở cổ màu Ca-ra-men in hoa chuỗi, quần bằng thứ sa tanh mỏng, nổi lấm tấm những hạt dâu bóng. Cô xách chiếc xắc giả da cá sấu, khoá mạ vàng hình tròn, kiểu rất lạ. Hoàn đứng dậy giới thiệu. Chúng tôi chào nhau rồi cô gái kéo ghế ngồi xuống, ngay cạnh tôi. Vạt áo dài cô rơi xuống chạm vào chân tôi mát lạnh, êm ái đến nỗi ta hình dung ra ngay sự mịn màng của chất lụa. Cái cảm giác ấy lại gợi cho tôi sự thèm muốn đã bị dập tắt. Từ áo quần cô gái tỏa ra mùi nước hoa mát mẻ, mùi nước hoa kêu gọi người ta đến gần.

Hoàn đứng dậy nói vài lời trước bữa ăn. Tôi nhân dịp đó mà ngắm nghía cô gái. Cô không đẹp nhưng cũng dễ coi. Nét mặt đều đặn, cặp môi tròn và chiếc mũi thanh. Còn đôi mắt đờ đẫn và cặp lông mày tỉa nhỏ trông có phần tẻ nhạt. Cô dùng phấn son khá hợp màu da, mắt kẻ chì nâu và chải lông mi bằng thứ gôm tốt. Việc trang điểm đã tôn nhan sắc của cô lên khá nhiều, nếu không cô cũng chỉ có một khuôn mặt như bất cứ khuôn mặt một cô gái nào mà ta có thể gặp ngoài đường. Bàn tay cô nhỏ, mềm mại, đeo nhẫn bạch kim có gắn những mảnh đá li ti. Mỗi khi giơ tay kéo áo hoặc vén mớ tóc lòa xòa trước trán, những mảnh đá phản chiếu ánh đèn sáng óng ánh khiến cô giống một nàng công chúa trong màn cải lương.

Bằng tính tò mò đặc biệt của đàn bà với đàn bà, tôi nhận ra là sau mấy phút dè dặt ban đầu cô ăn uống rất ngon lành, thận chí còn hơn thế nữa. Rượu uống cạn từng chén đầy, mặt không hề biến sắc. Tôi đã gặp những bà nạ dòng có thể uống hết hàng lít rượu, nhưng chưa hề gặp người con gái nào ung dung uống hết cốc rượu này đến cốc khác tựa hồ ta uống nước lạnh trong mùa hè. Kinh ngạc, tôi ngồi im thầm lén theo dõi. Bên kia bàn, Khánh và Hoàn đang sôi nổi chuyện trò. Câu chuyện đã chuyển qua vấn đề màu sắc trang phục.

Tôi thấy Hoàn đặt tay lên bàn ngắm nghía, hai bàn tay anh ta trắng như tờ giấy, và nhướng cao đôi mày lên:
Không hiểu vì sao mà mấy anh chị ngoài Bắc vô ưng màu blơ marin và màu boóc đô thế! Đi đâu cứ gặp người mua len, mua áo hai màu đó là biết liền.

Cô gái góp chuyện:
Hai màu đó quê quá hà!

Rồi lại cúi xuống đĩa thịt bằm bọc tôm chiên.

Khánh cười, anh ngẩng cao mái đầu chớm bạc:
Vì chúng tôi ở rừng lâu quá mà! Ở rừng lâu quá hóa mê rừng. Màu blơ marin gợi nhớ núi non.

Hàm răng Khánh ngời lên dưới ánh điện đều đặn và trẻ trung.

Biết mình lỡ lời, Hoàn khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác:
Anh có biết ngày xưa ai hay mặc màu đó không?

– Vân tóc đuôi mèo.

Cả hai cùng cười và cùng lắng lại. Đôi mắt Hoàn trở nên xa xăm.

– Vân đẹp thật. – Anh nói – Hồi đó chúng mình còn nhỏ xíu mà tôi vẫn nhớ như ngày hôm qua. Vân có đôi mắt nhung, miệng cười rất tươi có một chiếc răng khểnh. Vân hay mặc áo len màu blơ marin cài hoa trắng và tóc thắt một chiếc nơ đỏ rất to… Anh có nhớ chúng mình đã chắn đường cướp của cô ấy quả nhót không?… Ngày trước ngõ Hàm Long ấy mà.

– Tôi vẫn nhớ. – Khánh trả lời thong thả. – Ngày ấy đúng là tôi yêu Vân. Mê thì đúng hơn. Buổi học nào vắng cô ấy là mình không ngồi yên được. Đúng là tình yêu thời còn trẻ nó không bao giờ thành công và cũng không bao giờ chấm dứt.

– Anh vẫn còn yêu Vân chứ?

Khánh hỏi và cười, đuôi mắt anh nheo lại riễu cợt.

Hoàn cũng cười, anh gỡ kính xuống lau và trầm ngâm:
Không. Cũng không phải là không mà cũng không hẳn là có. Anh biết đấy, chúng ta đã trưởng thành. Tôi có nhiều người đàn bà, nhiều cô gái, tôi kiếm họ chẳng khó khăn gì. Nhưng chưa ai làm tôi phải hồi hộp như Vân ngày ấy.

Anh ta mơ màng một giây rồi hỏi Khánh, giọng thấp xuống:
Vân còn không anh?

– Còn, chị ấy bây giờ là phó tiến sĩ hóa học, vẫn ở ngõ Huyện thôi.

– Cô ấy có chồng chưa?

Hoàn hỏi tiếp, hấp tấp nâng cặp kính, chăm chú vào miệng Khánh!

– Chị ấy hai cháu rồi.

– Thế à…

Hoàn bật ra một tiếng thở dài, anh co cẳng chân dười gầm bàn lại, nhún vai:
Ai cũng yên bề gia thất rồi, chỉ còn mình là chưa nên tấm nên đẫn gì cả.

– Sao cơ?

Khánh giả bộ hỏi lại, anh cười rất to và lúc sau, anh liếc nhìn cô gái một cách trêu cợt, vui vẻ nói:
Thì anh cũng sắp nên tấm nên đẫn rồi, có gì mà phải than thở!

Tôi cũng cười hưởng ứng và nhìn cả hai người. Nhưng trước thái độ của chúng tôi, Hoàn không nói gì cả. Đang bần thần nghĩ ngợi, anh ta bỗng “hả?…” một tiếng. Rồi lại im lặng suy nghĩ điều gì đó, nét mặt dửng dưng, hoàn toàn không chú ý gì đến chuyện của chúng tôi. Tôi và Khánh sững sờ. Chúng tôi nhìn nhau, và nhìn cô gái. Ở địa vị của cô, có lẽ tôi đã phải thăng thiên hay độn thổ vì ngượng ngùng. Nhưng trái lại với mọi sự lo ngại, cô vẫn điềm nhiên lấy nĩa chọc vào một miếng bánh bơ. Bây giờ thì chính thái độ của cô lại làm chúng tôi kinh ngạc.

Tôi nhìn Khánh dò hỏi. Nhưng anh lắc đầu. Anh cũng không hiểu biết gì hơn tôi. Sự im lặng kéo dài một lúc lâu, Hoàn mới sực nhớ ra bữa tiệc đã xong, đến phần ăn đồ ngọt và uống trà. Ngồi xuống, Hoàn đưa tay lên túi lấy thuốc theo thói quen. Thuốc đã hết. Anh rút từ giấy bạc một ngàn và bảo cô gái:
Mỹ Dung mua hộ anh bao thuốc, chịu khó nghe cưng!

Cô gái đứng dậy đi ra. Chờ cho cô đi khuất, Khánh mới trách Hoàn:
Tại sao anh lại có thái độ như vậy?

– Tôi làm sao cơ chứ?

Hoàn hỏi lại, cặp lông mày nhướng lên theo thói quen. Khánh nhắc lại câu nói đùa ban nãy và thái độ hờ hững của Hoàn, nhất là khi cô gái ngồi ngay đó.

– À, xin lỗi, xin lỗi…

Hoàn cười ngất và gật đầu lia lịa:
Tôi hiểu rồi, hiểu rồi, nhưng các bạn phải để tôi nói cho hết đã. Mỹ Dung là bồ của tôi, nhưng tôi không có ý định cưới cô làm vợ. Trước tôi, cô ấy cặp bồ với người khác. Tôi cũng vậy. Mỗi tháng tôi chỉ cho Mỹ Dung hai mươi ngàn, cô ấy chỉ đòi hỏi ở tôi có vậy thôi. Ngoài ra không cần gì hơn nữa. Tôi không muốn Dung ràng buộc gì với đời tôi. Cả hai chúng tôi đều tự do…

Ngừng lại một chút, Hoàn nói tiếp:
Mỹ Dung làm bồ cho tôi là trúng số. Dẫu sao tôi cũng biết điều và rộng rãi. Còn nếu đi dạy học thì cùng lắm cỡ giáo viên tiểu học như cô ấy một tháng chỉ được tám chín ngàn là hết sức. Ông bà già cô ấy nghèo, không buôn bán chi hết. Tôi bao Mỹ Dung mới được gần một năm nay, so với những người trước cặp bồ với Dung, tôi bận bịu nhiều công việc, nên mỗi tháng cô ấy chỉ mất với tôi trên dưới một tuần thôi. Các bạn cứ hỏi mà xem, cô ấy nói cặp bồ với tôi là dễ chịu nhất…

Hoàn ngừng lại. Và để minh họa cho cái quan hệ sòng phẳng giữa hai người, anh ta rút ra một xấp giấy bạc đã đếm sẵn, được chằng lại bằng một sợi giây cao su. Chiếc ví của cô gái vẫn để trên bàn, Hoàn kéo lại, mở khoá để xếp tiền vào trong. Nhưng đúng lúc anh xách ngược chiếc ví đã mở nắp thì cô gái bước vào, cùng lúc đó mấy đồng xu lăn ra cùng với một vật gì đó. Cô gái kêu một tiếng rồi đứng sững. Mặt cô như tái đi dưới lần phấn mỏng. Tôi cúi xuống nhặt mấy đồng xu. Cô gái hấp tấp xô mấy chiếc ghế sang một bên để lượm gói đồ đã nằm giữa lối đi sáng trưng ánh điện. Trong lúc luống cuống, cô đã làm tuột lần giấy bọc ngoài, một vật rơi ra. Đó là một mẩu bánh mì nhỏ vẫn bán trong những quầy bánh ven đường. Cô gái cuộn tờ giấy bọc một cách vội vã giấu diếm. Tôi biết cô đang run vì mặt đá chiếc nhẫn bạch kim cứ lóng lánh rất bất thường. Mái tóc cô rũ xuống bên vai, hở ra một khoảng gáy rất sâu, màu xanh tái. Tôi kéo cô ngồi xuống. Khánh im lặng. Hoàn cũng lặng thinh, nhưng anh ta có vẻ ý tứ hơn khi xếp tiền vào trong ví cho Mỹ Dung.

Xung quanh người qua lại, ăn uống vẫn nhộn nhịp, không ai hay biết tấn kịch vừa xảy ra. Chỉ riêng chúng tôi là chứng kiến nỗi ê chề của cô gái. Cô ngồi bên tôi, thỉnh thoảng lại giơ tay vén tóc. Nhưng cử chỉ của cô không còn vẻ duyên dáng, đàng hoàng nữa, nó có gì tội nghiệp. Tôi xóc một miếng bánh bơ đưa cho cô.

Cô khẽ cúi đầu:
Cảm ơn chị.

Từ lúc đó về sau, tôi không nhìn ai nữa. Tôi không nỡ nhìn thẳng vào mặt cô gái. Tôi cũng không muốn nhìn Hoàn, điều đó lúc này thật khó chịu. Tôi cứ ngứa cổ nhìn lên bức tường quét vôi vàng qua những làn khói thuốc dày đặc, tôi thấy bóng những chiếc cánh quạt in lên những vệt đen dài, gẫy khúc. Một cảm giác nóng ran lan trên mặt tôi. Tôi nhận ra mình đang ngượng ngùng. Không phải riêng biệt nỗi ngượng ngùng của cô gái bị mất thể diện, mà là nỗi ngượng chung, thay vì cho cả hai người đó, hai kẻ gọi là bồ của nhau.

Bên kia bàn, Khánh và Hoàn vẫn đang chuyện trò. Hình như họ nói đến những kiểu áo dài cách tân ở miền Nam, về thời trang của thế giới. Hai người đàn ông trao đổi những nhận xét về một thiếu phụ đẹp lộng lẫy đi qua. Rồi họ tiếp tục uống trà và hẹn gặp nhau vào một ngày trong tuần tới.

Khi chia tay, cô gái vội vàng chào tôi rồi đứng nép vào một bên cửa chờ Hoàn, đôi mi tô chì cụp xuống.

Hoàn ôm lấy Khánh cao giọng:
Tuần sau nhé!

Họ nói với nhau một tràng tiếng Pháp. Rồi Hoàn nhã nhặn chìa tay cho tôi, miệng nở nụ cười tươi tắn. Nhưng với tôi, lúc đó, nụ cười của anh đã nhạt nhẽo và cái cằm dài thượt ra trông thật vô duyên. Tôi lặng lẽ đáp lễ và quay đi.

Khánh đưa tôi về nhà. Chiếc xe Honda lách giữa dòng người hai chiều đông nghịt. Thành phố càng về đêm càng đông hơn, tiếng động làm nhức óc và mệt mỏi. Tôi bảo Khánh rẽ sang đường bờ sông cho mát mẻ. Anh đồng tình ngay. Chúng tôi đi dọc sông Hàn và trở về đường Lê Thánh Tôn vào lúc chín giờ tối. Khánh đưa tôi vào cửa rồi về ngay, anh còn có bài phải sửa cho số báo sắp tới.

Còn mình tôi ngồi với cái bóng của mình. Căn phòng vắng. Không làm sao mà ngủ được. Chiếc quạt vẫn xoay, gió vẫn thổi những trang sách bay loạt soạt và hộp son vẫn nằm lăn lóc trên bàn. Chiếc đầu nữ hoàng Ê-li-da-bét trông như một hạt ngô bóng loáng. Tôi nhìn ra ngoài: thành phố chất ngất ánh đèn, có một cái gì tự tan vỡ ra nơi đó. Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng đầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù. Và trong tôi, một tình yêu, một niềm tự kiêu hãnh lớn lên, vững vàng, cứng cáp, với một sức mạnh khôn cùng. Ngoài sân, những cây trứng cá đang lắc lư chùm lá. Những bóng lá chợt sáng chợt tối giao nhau in lên ô cửa kính giống như những bộ mặt đổi hình.

Hiện tại, quá khứ. Quá khứ, hiện tại… Cuộc sống ùa đến tôi trong cùng một lúc. Xa kia là một con đường thăm thẳm, một con đường đầy bóng xanh che phủ. Có người con gái nào đang đi đến với tôi và hát. Người con gái ấy là tôi.

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *