Người đàn bà trong phố cổ – Phan Thái Yên
Tiếng hát của nàng – Đoàn Thạch Biền (1948- )
Đâu phải cái gì cũng mong manh – Đoàn Thạch Biền (1948- )
Bảy ngày ngà ngọc – Hoàng Lan Chi (Đinh Quỳnh Giao)
Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp (1950- )
Những người thợ xẻ – Nguyễn Huy Thiệp (1950- )
Nắng đã tàn rồi – Hàn Song Tường (Nguyễn Thị Minh Tâm, 1950-2018)
Một ngày không thể quên – Phương Lan (Lưu Phương Lan)
Bất chợt một buổi chiều – Quan Dương (Dương Công Quan)
Mẹ chồng tôi – Nguyễn Minh Chính
Con Gấu – Nguyễn Quang Huy
Bầu bí một giàn – Tràm Cà Mau (Nguyễn Thiệp)
Gió thoảng Tây Hồ – Trần Quang Thiệu
Tiên bay về trời – Nguyễn Đông Thức (1951- )
Giang – Bảo Ninh (Hoàng Ấu Phương, 1952- )
Hoa oải hương – Phạm Thị Ngọc Liên (1952- )
Điều chưa nói với tình yêu – Khuê Việt Trường (1952- )
Thương nhớ Hoàng Lan – Trần Thùy Mai (1954- )
Biển đời người – Trần Thùy Mai (1954- )
Ốc mượn hồn – Nguyễn Đức Thọ (1955- 2001)
Người đàn bà trong phố cổ – Phan Thái Yên
Chuyến bay từ Bắc Kinh đến trễ hơn lịch trình. Phi cảng Đà Nẵng nóng bức chật chội càng ngột ngạt hơn vì đám hành khách của vài chuyến bay bị dồn lại đang nôn nóng chờ nhận hành lý. Khách từ Sài Gòn ra đa số là Việt Kiều về thăm gia đình. Đám người tha hương, ăn mặc sang trọng có khi kệch cỡm, hăm hở ồn ào đẩy từng xe hành lý chất cao như núi về phía cửa kiểm soát. Người thanh niên với túi hành lý trên vai đứng kiên nhẫn ở góc phòng đợi, mắt lơ đãng nhìn quanh. Hàng cây kiểng mới trồng bên ngoài phi cảng lá to xanh bóng như những chiếc quạt xếp vào nhau đều đặn. Màu lá xanh làm dịu đi phần nào ánh nắng gay gắt của buổi trưa mùa hè Đông Nam Á. Đám thân nhân bên ngoài đứng ngồi hỗn độn nhìn ngóng chờ đợi. Dưới hàng hiên, bóng họ tối sẫm vì nền nắng trưa chói chang.
Đôi mắt người thanh niên quay về dừng lại trên hai đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứng cách chàng không xa, đang tò mò nhìn nhau. Chàng mỉm cười nhìn cô bé nguýt dài quay lưng trong lúc cậu bé đứng nhịp chân, hai tay thọc sâu trong túi quần jean kênh kiệu. Cô bé kiêu sa trong chiếc áo dài màu vàng thổ rất thời trang, cổ đeo kiềng, đầu đội chiếc nón cối Đông Dương kiểu cách cùng màu với áo. Cậu bé thì ngổ ngáo trong chiếc nón Texas rộng vành, chân đi boot cao cổ bằng da cá sấu.
Chàng thanh niên bước đến gần vẫy tay chào hai đứa bé. Câu hỏi thăm bằng tiếng Việt chỉ được trả lời bằng hai đôi mắt mở chăm trong im lặng.
Cô bé liến thoắng trả lời khi người thanh niên hỏi chuyện bằng tiếng Pháp trong lúc đôi boot Texas chỉ im lìm xê dịch tới lui trên nền xi măng. Cậu bé chờ đợi được hỏi bằng ngôn ngữ quen thuộc mà cậu đã học nói từ lúc mới sinh để đắc chí nhìn con bé khó ưa, đôi mắt nâu ấm ức sau vành nón cối. Người thanh niên quên bẵng đám đông ồn ào chung quanh, phấn động với vai trò mới của mình, vui vẻ nhìn hai đứa bé bắt đầu cuộc đối thoại qua sự phiên dịch của mình. Những câu nói chê bai lẫn nhau về cái nón đang đội trên đầu khiến chàng không cầm được tiếng cười.
Hai đứa bé thân mật vẫy tay chào người bạn lớn rồi chạy về phía cha mẹ đang đứng chờ. Người thanh niên đến nhận xách hành lý duy nhất của mình rồi theo đoàn người đi về phía cửa kiểm soát. Chàng ngỡ ngàng bước dần qua hàng rào người đang ồn ào chồm kiếm thân nhân hoặc đón mời khách doanh thương của hãng xưởng trong khu vực. Những tấm bảng cầm tay đủ cỡ viết bằng tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Việt la liệt tên người chen lẫn tên công ty nhảy múa rối mắt.
Đứng tách rời khỏi đám đông là một cô gái dáng dấp mảnh mai, tay ngần ngại cầm tấm bìa giấy với hàng chữ in tên người thanh niên và trường đại học anh đang theo học ở Hoa Kỳ. Chàng mỉm cười đọc tên mình bằng chữ Hoa được cẩn thận chú thích bên dưới hàng tên viết theo lối Mỹ. Ánh mắt cô gái vẫn chăm chú hướng về phía đám đông tìm kiếm, không để ý đến người thanh niên đang chậm bước về phía nàng. Đôi mắt nâu to không cân đối với khuôn mặt xương gầy thanh tú. Sự không cân đối vướng vất nỗi mong manh quyến luyến nào đó khó cầm lòng cho một ngoái nhìn.
Cô gái bối rối bắt tay người thanh niên rồi trả lời chàng bằng tiếng Anh rất lưu loát:
– Xin lỗi ông. Tôi đã không nhìn thấy ông đến. Tôi đang lo ông không thể về được chuyến bay này.
– Vâng, có lúc tôi đã nghĩ vậy. Tôi phải chờ ở phi trường Bắc Kinh hơn hai tiếng đồng hồ. Cô là…
– Tên tôi là Sông Hương, Đỗ Thị Sông Hương. Nhân viên trường Đại học Đà Nẵng.
Người thanh niên buột miệng hỏi:
– Sông Hương chứ không phải Hương Giang sao?
Cô gái ngạc nhiên, mở lớn đôi mắt sâu lắng như hồ:
– Ông biết…?
Người thanh niên gật đầu, trả lời bằng tiếng Việt:
– Me tôi là người Huế. Có lẽ cô cũng là người Huế?
Cô gái lắc đầu:
– Mẹ tôi có thời học ở Huế. Gia đình tôi ở Hội An, cách đây khoảng ba mươi cây số.
Cô gái đỏ mặt xấu hổ:
– Vậy mà nãy giờ tôi bắt anh phải nghe hoài mớ Anh ngữ què quặt của mình.
– Cô đừng quá khiêm nhường. Hai tháng vừa qua ở Bắc Kinh tôi chưa hề gặp người Hoa bản xứ nào nói tiếng Anh giỏi như cô. Xin cô cũng rộng lượng cho mớ tiếng Việt nghèo nàn của tôi.
Cô gái hướng dẫn người thanh niên ra xe, miệng vẫn phân trần chuyện không nhận ra chàng sớm hơn.
Người thanh niên bỡn cợt:
– Sông Hương nói thật đi mà! Tôi đến từ Bắc Kinh. Chắc cô mãi tìm một người Mỹ gốc Hoa ăn mặc lịch sự sang trọng nên không thấy anh chàng Việt kiều ba lô này chứ gì?
Cô gái chẳng vừa:
– Thấy người rồi thì phải nói là tài tử Hồng Kông mới đúng.
– Cô quá lời! Tôi chỉ mong cuối năm này bảo vệ được luận án, bắt đầu sự nghiệp để khỏi báo cha mẹ là mừng lắm rồi!
Dọc theo con đường từ phi trường vào thành phố thẳng tắp hàng cây mới trồng. Trên đường tấp nập người đi, xe đạp xe gắn máy xao xác ngược xuôi. Hình ảnh khá quen thuộc sau mấy tháng sống ở Bắc Kinh, sao lòng người thanh niên vẫn ngập tràn nỗi bồi hồi xao xuyến. Đi vào lòng quê hương chưa một lần gặp mặt mà chàng ngỡ như đang từ một mộng mị nào đó trở về. Có lẽ giọt nước mắt nhớ nhà của Mẹ, có lẽ hình ảnh quê hương lãng mạn trau chuốt trang trải trong nhiều truyện viết của Bố đã là vốn liếng tinh thần giúp chàng có được cảm giác quay về. Phố biển. Chuyến phà qua sông. Con dốc hẹn hò. Cha mẹ đã lớn lên, đã yêu nhau trong thành phố này. Họ đã bỏ đi và vẫn quay quắt nhớ về sau hơn nửa đời người xa xứ.
– Đường về trường có qua con dốc nào không, Sông Hương?
– Có mà không. Chính phủ đã san bằng dốc Cầu Vồng để làm đường Xuyên Á từ năm ngoái.
Sông Hương quay nhìn người thanh niên, nụ cười nở trên đôi mắt thuyền nâu.
– Em chợt có cảm tưởng như anh đã từng sống ở thành phố này.
– Tôi cũng muốn được nghĩ vậy. Bố Mẹ tôi lớn lên ở đây.
Xe chạy qua khu phố đông đúc rồi rẽ theo con đường ôm dọc bờ sông. Hàng cây ven bờ nở bông đỏ rực.
– Bông phượng đó anh. Hồi nhỏ ở Hội An, mùa hè em thích theo ghe qua Cẩm Nam thơ thẩn dọc theo bờ sông hái phượng với bạn. Cuống hoa chua chua nhai rất vui miệng.
Nhìn những cành phượng đầy hoa thắm nghiêng mình la đà soi bóng trên mặt sông, người thanh niên nôn nao nghĩ đến xấp hình cũ Mẹ vẫn ấp ủ giữ gìn. Cô học trò tóc ngang vai, áo dài trắng, đi thơ thẩn với bạn bè đâu đó bên khoảng sông này. Những gốc phượng già theo năm tháng vẫn đơm bông cho thắm từng mùa hạ đỏ. Dòng nước chở chuyên xác hoa tàn úa vẫn lặng lờ trôi như một ước nguyền. Thôi hãy cùng nhau ôm ấp giấc mơ đời, dắt díu nhau qua từng nỗi truân chuyên ở cuối trời xa quay quắt thời gian!
Xe dừng lại trước một khách sạn. Lúc người thanh niên nhận phòng thu xếp hành lý xong trở ra, cô gái đang đứng chờ trước sân khách sạn. Cô quay mặt giấu vẻ ngượng ngùng khi chợt nhận ra mình vừa trong một khoảnh khắc đã lén nhìn người thanh niên dáng dấp lịch sự trong trang phục làm việc. Cô chỉ tay về phía cuối đường.
– Trường cách đây không xa, chỉ vài phút đi bộ.
Người thanh niên khoác chiếc xách đựng máy vi tính lên vai.
– Ở Bắc Kinh họ cho tôi nối máy lên mạng rất dễ dàng, không biết ở đây thì thế nào?
– Trường ở đây đã họp tới họp lui mấy lần vì chuyện này. Sau đó trường của anh đã can thiệp nên anh tha hồ mà lên mạng.
Cô gái nhìn đồng hồ.
– Sông Hương mới gọi về trường. Ông Khoa Trưởng đang chờ anh. Chiều thứ Sáu nên ai cũng nóng lòng về sớm.
Hai người bước dọc theo bờ sông. Gió sông thổi lên làm đôi tà áo màu thiên thanh cuống quít theo nắng chiều. Dãy nhà mới xây cho hãng xưởng ngoại quốc thuê mướn nằm cao ngạo trên nền đất cũ. Mấy khẩu thần công từ hơn hai thế kỷ xưa nằm quên lãng bên khóm cây lấm tấm hoa vàng. Cả một ấu thời của cha mẹ được đúc kết từ nhiều buổi tối thủ thỉ bên Me hoặc học lịch sử với Bố đang hiện rõ ra trước mắt người thanh niên. Màu vàng vương đế của vùng trời Đông Á đã bị sạm đen vì khói tàu chạy bằng than đá đến từ trời Âu. Văn hóa nghìn xưa phong kín trong nhân lễ nghĩa trí tín, trong tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, đã bị hà hiếp bởi những giá trị mới còn phôi thai mờ ảo trong hơi nước của cuộc cách mạng kỹ nghệ phương Tây. Kẻ sĩ mà không bảo vệ được nhà, không làm tròn điều trị quốc, nên biết bao người đã tuẫn tiết để trọn thân quân tử.
– Tòa nhà nầy trước đây có phải là Trung tâm Văn hóa Pháp không cô?
Sông Hương lắc đầu tỏ vẻ không biết.
– Bố tôi hay nhắc về chuyện sau lớp học ở Trung tâm Văn hóa Pháp vẫn thường với bạn ra chơi đánh đu quanh mấy khẩu thần công để chờ lớp Anh văn ở Hội Việt Mỹ phía bên kia đường. Bố nói khoảng hai thế kỷ trước Nguyễn Tri Phương lập đồn ngăn tàu Pháp mà thất bại nên sau đó đã tuẫn tiết theo thành.
– Anh ở xa mà biết nhiều quá! Em lớn lên ở trong nước mà không rành mấy về lịch sử nước nhà.
– Có lẽ ở đây chỉ chú trọng dạy cho học sinh về những phần lịch sử có lợi cho chủ thuyết của họ. Lịch sử, sau khi bị bóp méo, chỉ là phương tiện để biện minh cho cuộc đấu tranh giai cấp bạo động và vô luân. Lịch sử như thế không còn là sự thật mà chỉ là lối lý luận hồ đồ.
Cô gái ngoái nhìn về phía sau, nói lảng sang chuyện khác:
– Em sẽ học tiếp với anh về chuyện ông Nguyễn Tri Phương trong dịp khác. Bây giờ nói cho em biết về lịch trình làm việc của anh trong tuần tới đi.
– Tôi đang ở giai đoạn cuối của luận án khảo cứu về vấn đề người Hoa ở Đông Nam Á. Tôi rất mừng được xa giảng đường thư viện vài tháng. Được đi lại thăm viếng học hỏi qua sự gặp gỡ giao dịch giữa con người với nhau là điều rất phấn khởi.
– Anh ở lại Việt Nam lâu không?
– Chỉ được một tháng thôi cô, hai tuần sau đó ở Tân Gia Ba. Ba vùng khảo cứu chính ở Việt Nam là Hội An, Chợ Lớn Sài Gòn và vùng Bạc Liêu, Hà Tiên.
Sông Hương nhìn người thanh niên nói như reo:
– Vậy là tiện lắm rồi! Ngày mai cuối tuần em về thăm nhà. Má em dạy ở trường trung học. Má biết nhiều người Trung Hoa ở phố cổ Hội An lắm.
– Bố tôi thường nhắc về Hội An. Ngày trước ông là sĩ quan hải quân đồn trú phía cửa biển.
– Em có lần nghe bạn bè nói, rủ nhau đi ra tận doi biển tìm xem mà không thấy dấu tích gì về căn cứ đó nữa.
– Bố nói, về Việt Nam nếu không có thời gian đi thăm hết các nơi thì nên tìm cách thăm cho được Hội An. Bố vẫn gọi Hội An là Thị trấn Miền Đông.
– Miền Đông…?
– Tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ ý Bố muốn nghĩ đến Hội An như một nước Việt Nam thu nhỏ, ở phía Đông Châu Á.
Trường Đại học Đà Nẵng tọa lạc trên khu đất lớn không xa bờ sông. Con đường trước trường im bóng cây vắng vẻ. Vài người phu xích lô uể oải đạp xe không khách về phía phố chợ, bóng họ rã rời ngã dài trên đường. Bên trong trường, những dãy nhà cổ kính xây theo lối kiến trúc Châu Âu nằm im lìm ngái ngủ dưới bóng mát mấy hàng cây xum xuê lá. Trên cổng trường dưới lớp vôi dày lờ mờ tấm bảng đá khắc mấy chữ Lycée Pascal.
Chỉ một vài giờ ngắn ngủi mà chàng đã cảm thấy gần gũi với thành phố này. Vết tích kỷ niệm của Bố Mẹ gia đình qua từng câu chuyện kể tưởng đã ngủ quên trong trí nhớ như tiếng còi lãng đãng sa mù. Chàng náo nức sờ mó, nhìn ngắm, hít thở từng dấu vết điển tích trên mỗi bước chân tìm về. Bà Nội từng là giáo viên dạy cho đám học trò nhỏ của ngôi trường Tây. Ngã tư cuối góc trường từng là bãi chiến trường giữa học trò trường Ta trường Tây ngày Bố còn ở trung học. Trò chơi chiến tranh vô hại của mấy cậu học trò mới lớn chỉ làm quấy rầy buổi tối tưởng đã yên lặng của bác cảnh sát vô tình đạp xe qua.
Sông Hương dựng xe gắn máy trước văn phòng làm việc của người thanh niên. Chiếc mạng che bụi cùng màu thiên thanh với áo làm đôi mắt đẹp và huyền bí hơn bội phần.
– Thầy Khoa Trưởng rất tốt bụng, hy vọng anh đạt được hết những điều yêu cầu.
– Vâng, ông ta hứa sẽ giúp tôi hết lòng trong việc khảo cứu. Ông là giáo sư Hoa văn và Khoa học Chính trị nên tôi rất mừng.
Cô gái nhìn ra khu công viên nhỏ trước văn phòng, cười chúm chím:
– Văn phòng của anh ở chỗ rất trung tâm. May đang giữa mùa hè chứ không thì anh không thể nào tập trung tư tưởng để làm việc được…
– Sao vậy?
– Công viên đàng kia là nơi lui tới của sinh viên nữ giữa giờ học. Bận ngắm người đẹp thì giờ đâu nữa mà làm việc!
– Trễ rồi! Từ lúc ở phi trường, đôi mắt Sông Hương đã chiếm hết một nửa hồn tôi rồi!
– Còn nửa kia…?
– Nửa kia cũng dại khờ theo nên chỉ còn một cách là…
– …
– cô phải hướng dẫn tôi đi thăm phố đêm Đà Nẵng và chọn quán ăn tối nay.
Sông Hương giấu vẻ thẹn thùng, chào theo kiểu nhà binh.
– Xin vâng lệnh ông chủ!
Người thanh niên khóa cửa văn phòng, bước theo cô gái ra đường.
Sông Hương đeo chiếc mạng lên mặt, nổ máy xe, đôi mắt đẹp long lanh:
– Anh có đủ can đảm ngồi xe gắn máy không, Sông Hương đưa anh về?
– Cám ơn cô. Tôi muốn được đi bộ dọc theo bờ sông…
Người thanh niên chưa chịu buông tha:
– …để nghĩ về đôi mắt của Sông Hương và tìm cách khỏi bị té chìm trong hồ thu lạnh lẽo.
o O o
Quãng đường Đà Nẵng đi Hội An chỉ hơn ba mươi cây số mà chiếc xe đò cũ kỹ chạy chuyến đầu ngày phải mất hơn một tiếng đồng hồ mới tới. Cô gái trấn tĩnh nỗi thẹn thùng bước khép nép bên người thanh niên cao lớn đi vào phố nhà thân quen của mình. Buổi sáng mùa hè cuối tuần vẫn còn quá sớm cho khu phố cổ đang ngái ngủ. Bên dưới hàng hiên dãy nhà mái lợp ngói âm dương, lác đác quán hàng ăn bắt đầu dọn mở. Mùi thức ăn thơm lừng bay trong gió sớm. Trên đường rải rác vài khách du lịch Tây Phương đang rảo bước về phía cuối phố.
– Những người khách này muốn ra Cửa Đại tắm biển sớm đó anh.
– Cửa Đại cách đây bao xa hở Sông Hương?
– Khoảng năm cây số thôi anh. Mùa hè em và Má thỉnh thoảng đạp xe ra biển thật sớm, không tắm, chỉ ngồi bâng quơ một lúc rồi về.
Nhà Sông Hương ở cuối khu phố không xa trường trung học. Ngôi nhà vườn cổ kính nép mình kín đáo sau bức tường gạch bao quanh. Cổng nhà có mái che lợp ngói kiểu cách, giàn bông giấy đỏ rực phủ hờ trên cánh cửa đóng im lìm. Trong sân xum xuê hàng cây ăn trái trồng đã lâu năm. Ngoại trừ lối mòn từ cổng vào tới hiên nhà khoe màu gạch đỏ, lớp gạch quanh sân cũ kỹ màu xanh xám rêu phong. Mùi hương trầm từ trong nhà tỏa ra thơm ngát lẫn trong tiếng tụng kinh nho nhỏ trầm đều. Từ đầu thềm, chú chó đen bỏ chỗ nằm bên cạnh chiếc ghế xích đu màu xanh biển, sủa ăng ẳng quẫy đuôi cuống quít mừng chủ.
Cô gái ngồi xuống ôm chú chó con vào lòng, vuốt ve lớp lông đen bóng trên lưng.
– Mực bắt tay chào ông chủ của chị đi! Má đi ăn đám giỗ trong Điện Bàn tháng trước xin con Mực về. Em xin đem đi Đà Nẵng mà Ngoại không cho.
Con Mực ngẩng đầu nhìn người thanh niên, chân trước quơ ngập ngừng. Chàng đưa tay cầm chân con Mực, tay kia xoa lên chiếc đầu nhỏ nhắn.
– Cái thân mi đó, ăn chưa no lo chưa tới. Đem con Mực theo bỏ quên bữa đói bữa no, giỏi lắm thì được vài tuần rồi cũng trả về cho Ngoại.
Bà lão vóc người nhỏ nhắn, tóc bạc màu muối, áo dài lam rộng khổ, từ trong nhà bước ra hiền từ nhìn cháu.
– Con về chuyến xe đầu hay sao mà sớm quá vậy? Đi sớm rứa cho mát cũng được.
– Dạ. Đây là ông chủ của con ở trường về Hội An có việc cần.
Người thanh niên cúi đầu kính cẩn chào bà Ngoại của cô gái.
– Sông Hương nói quá lời. Cháu chỉ làm khảo cứu ở trường một thời gian ngắn, cần nhờ cô Hương giúp đỡ về việc đi lại giấy tờ.
– Mời cậu vào nhà chơi. Con Hương rót nước mời anh rồi đem áo quần dơ xuống nhà dưới chút nữa Ngoại giặt cho.
Sông Hương mắc cỡ nhìn người thanh niên, rùn vai làm mặt xấu.
– Trợn mắt trợn mũi gì!? Ngoại biết tụi bây quá mà!
Cô gái theo bà Ngoại đi khuất vào nhà sau. Người thanh niên đứng tần ngần nhìn quanh gian phòng khách nghi ngút khói hương. Giữa nhà là bộ ghế trường kỷ và tủ chè làm bằng gỗ cây sơn chi màu nâu đậm lên nước bóng ngời. Trướng liễn hơn trăm năm cũ phóng thảo bằng nét bút điêu luyện từ một triều vua Nguyễn được treo dọc theo những thân cột tròn mun bóng thời gian. Công đức của tiền nhân mà tên tuổi còn ghi tạc trên mấy tấm bài vị đỏ lung linh ánh nến đã được tán dương bằng những câu thơ đối chỉnh tuyệt. Địa linh nhân kiệt. Vùng đất của Ngũ Phụng Tề Phi.
Chàng ngước nhìn tấm hoành phi sơn son thếp vàng treo bề thế trên trần thượng giữa gian nhà. Người tiên trưởng của dòng họ là một trong những con phụng hơn trăm năm trước đã sải cánh trên vùng đất oai linh có núi có sông xứ Quảng. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đã say.
Cô gái ló đầu khỏi tấm rèm trúc, mời người thanh niên xuống nhà sau uống trà. Chàng tò mò dừng chân trước bàn thờ nhỏ ở hông nhà. Bên cạnh tấm hình đen trắng của một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi, nét mặt khắc khổ, là hình một cậu bé chừng mười tuổi đang cười rạng rỡ. Bấc giác người thanh niên đốt một nén hương cắm vào bát đã đầy ngập chân nhang.
– Mời anh uống trà. Má em đang bận nấu thức ăn sáng dưới bếp.
Chàng đưa tay đón tách trà nóng thơm ngát hương sen, mắt ngước nhìn tấm hình chân dung cô gái rọi lớn treo ở góc nhà.
– Nhà Sông Hương gần trường quá, chắc các anh chàng Hội An không thích lắm đâu!
– Sao vậy anh?
– Thì sắp hàng đi theo người đẹp vừa được mấy bước thì nàng đã khuất bóng, cửa đóng then cài, tức lắm chứ!
Cô gái mắc cỡ cúi đầu bước nhanh xuống bếp:
– Anh này thật… xạo quá trời!
Khoảng sân nối nhà sau với bếp lót gạch cao, trên có mái che. Cạnh nhà bếp là giếng nước, xi măng tráng quanh. Bà Ngoại cô gái đang giặt áo quần bên bờ giếng. Dưới bóng mấy tàng lá chuối cong dài xanh mướt, dáng bà ngồi nhỏ thó ân cần.
Người thanh niên cất tiếng chào người thiếu phụ đứng tuổi đang bận với nồi thức ăn trên bếp. Bà tươi cười, đôi mắt to dưới đôi mày cong thanh thoát, chào người thanh niên rồi quay qua trách nhẹ con gái:
– Sao con không mời anh ngồi ở nhà trên, xuống bếp làm chi cho khói?
– Dạ không sao đâu cô. Cháu muốn đứng ngoài này cho mát.
Nhìn chàng luống cuống xách gàu nước chỉ còn lại một nửa lúc kéo lên khỏi giếng, Sông Hương được dịp cười chế diễu:
– Má ra coi ông Việt kiều múc nước giếng nè Má!
Bà Ngoại ngồi móm mém cười chờ người thanh niên giúp múc nước giếng đổ vào thau giặt. Đôi mắt bà trong sáng so với tuổi đời chồng chất trên mái tóc bạc trắng thời gian. Đứng nhìn ba người đàn bà, ba thế hệ, tươi cười bên nhau, lòng người thanh niên dâng lên nỗi xúc động diệu kỳ. Ba đôi mắt đẹp, bao nỗi truân chuyên trải dài giữa mấy chặng tuổi đời cách biệt? Đôi mắt người đàn bà Việt Nam. Mắt Mẹ tha hương rưng rưng nỗi nhớ nhà. Đôi mắt thuyền xưa lung linh bến nước buổi chiều qua sông cuống quít lụa là. Ánh mắt ngọc lan trong vườn khuya thơm bóng trăng vàng.
Chàng nghĩ đến ánh mắt chất chứa sắc màu kỷ niệm trong truyện viết của Bố. Đôi mắt luôn có ánh nhìn cong như cánh lá. Những đôi mắt sâu lắng âm thầm, sống can đảm với phận đời mình. Chàng muốn được lắng nghe, được tìm biết nỗi vui hay niềm cay đắng tiềm tàng đâu đó sau ánh mắt bình thản mà đẹp tuyệt vời.
Trong bữa ăn sáng, bà Mẹ hỏi nhiều về cha mẹ, về chuyện học của người thanh niên. Bà chăm chú nghe chàng kể chuyện Bố Mẹ những năm tháng đầu vất vả ở xứ người.
– Tên ba mẹ cháu nghe quen nhưng chắc chỉ là trùng tên. Hai người có lẽ không học ở Huế?
– Bố Mẹ cháu gốc người Huế nhưng thời trung học ở Đà Nẵng. Mẹ cháu sau đó về lại Đà Nẵng đi dạy. Bố cháu học ở Sài Gòn, năm sau cùng trước khi đi lính có ra Huế học. Ông tốt nghiệp trường Hải quân Mỹ rồi về nước sông hồ hết mấy năm. Đơn vị cuối của Bố ở cửa biển gần đây.
Bà Ngoại vuốt tóc cô cháu gái, trầm ngâm:
– Mới đó mà đã ba mươi năm. Hồi đó mỗi lần vô Duy Xuyên chở lụa, đi đò trên sông Thu Bồn gặp tàu tuần chạy ngược chiều là Ngoại sợ muốn chết! Tàu bè gì mà phóng như bay, sóng gió nổi lên làm chiếc đò máy cứ hụp lên hụp xuống muốn chìm!
Người mẹ im lặng loay hoay dọn dẹp thức ăn thừa trên bàn:
– Sông Hương, con bưng mâm chén bát ra giếng rửa cho xong rồi đi chợ với má.
Bà nhìn người thanh niên dò hỏi:
– Anh muốn đi thăm phố sáng nay hay ghé chùa Tàu trước?
Cô gái nhanh nhảu:
– Để chiều nay con dẫn ảnh đi thăm phố. Đi với Má ai cũng biết, chào trả mệt lắm!
– Ở đây có năm bang hội người Hoa, hội Phúc Kiến lớn nhất. Hy vọng có đủ tài liệu để anh thu thập.
– Dạ, cháu xin theo cô đi gặp hội người Hoa trước. Giấy bút, máy chụp hình, máy ghi âm, mọi thứ đã sẵn sàng.
– Nếu anh cần gặp các nhóm người Hoa khác, tôi sẽ giới thiệu giúp. Mời anh cứ tự nhiên ở lại nhà, khi nào xong việc thì ra lại Đà Nẵng, chứ đi về hàng ngày tốn thời giờ và bất tiện lắm.
Chàng lưỡng lự hồi lâu rồi gật đầu cám ơn.
Người thanh niên sánh bước cùng Sông Hương và bà Mẹ qua khoảng sân lấm tấm nắng mai. Đầu thềm, con Mực nằm lơ đãng trong tiếng mõ trầm đều của bà Ngoại từ trong nhà vẳng ra. Lời kinh nghe như một điệu buồn xa vắng. Hai người đàn bà đứng lại dưới cổng nhà theo lời yêu cầu của người thanh niên. Qua ống kính màu, hình ảnh của một cơ ngơi Đông Phương cổ xưa và con người trắc trở trong cảnh sinh ly quay bước đẹp mà buồn diệu vợi. Dù sao, mái cổng chào khép hờ và sắc thắm của những chùm hoa có dáng hình của trái tim cho dù rạn vỡ đã như một ước hẹn trở về.
Người đàn bà vấn tóc cao quý phái trong chiếc áo dài lụa màu mỡ gà. Sông Hương hồn nhiên đi bên mẹ, đẹp rạng rỡ như nắng mai. Nhiều người trẻ tuổi đi ngược chiều trên đường kính cẩn cúi đầu chào cô giáo của họ.
Sông Hương quay nhìn người thanh niên cười chúm chím:
– Học trò của Má hết đó. Anh thấy Má em chào trả mệt chưa?
– Học trò tôi có người đã ngoài bốn mươi. Tỏ lòng kính nể người trên kẻ trước là điều nên làm. Văn hóa mình hay ở chỗ đó.
Đường phố trở nên tấp nập hơn. Khách du lịch tò mò thăm viếng đi lại trên đường. Cây thiên tuế lâu đời, có lẽ đã hơn trăm năm, dày kín những bè lá mọc tua tủa như bàn tay xòe khổng lồ. Tàng cây chiếm khoảng trời rộng che mát ngôi nhà cổ bề thế được dùng làm quán ăn và tiệm bán hàng lưu niệm cho du khách. Trong nhà, khách ăn người mua kẻ bán chật ních. Người thanh niên hấp tấp theo hai mẹ con đi băng qua bên kia đường.
Người đàn bà phân bua:
– Tôi có thói quen đi tránh ngôi nhà đó từ gần hai mươi năm nay. Bà Ngoại con Hương thì từ luôn cả con đường, không hề đặt chân đến. Ngôi nhà trước đây là từ đường chính của dòng họ Ngoại.
Cô gái ngoái nhìn đài hoa thiên tuế hiếm hoi trắng nõn trên tàng lá xanh.
– Bây giờ có lẽ anh đã hiểu vì sao gian phòng khách ở nhà la liệt bàn thờ không có chỗ đi rồi chứ gì?
Người anh độc nhất của bà Ngoại, đứa con trai một của dòng họ, theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Từ thời con gái, Ngoại đã ngược xuôi trên mấy dòng Ô Lâu Thu Bồn buôn lụa. Cô gái Duy Xuyên phải lòng ông sĩ quan Bảo An Đoàn trẻ tuổi. Đất Quãng sông núi bao l,a Điện Bàn, Chợ Được, Hà Lam, Thăng Bình, Quế Sơn… và biết bao vùng tiêu thổ kháng chiến phải đi qua. Đoàn quân đến rồi đi, bướm đậu rồi bay. Người đàn bà một mình nuôi con và lo toan việc nhang khói ngôi từ đường cho ấm lòng tiên tổ. Mẹ tần tảo để con ăn học nên người. Mẹ nở mày nở mặt ngày mẹ gả con gái lấy chồng. Đám cưới xôn xao, cô dâu chú rể, nhà trai nhà gái xúng xính lọng tàn. Mẹ vui nhìn con có tình yêu và có cả lễ nghi ngày xưa mẹ thiếu.
Sau năm bảy lăm, Mẹ tuy lo lắng cho con cháu nhưng trong bụng cũng mừng. Người anh độc nhất của mình đã sống sót sau cuộc chiến tranh tàn khốc trở về. Từ nay ngôi từ đường sẽ có người trưởng nam lo việc hương khói. Niềm vui sum họp không được bao lâu, gia đình đã có chuyện khó xử. Bà chị dâu tham lam muốn giành cả ngôi nhà tộc làm của riêng. Cô nông dân đảng viên nghèo đói lạc hậu của thời cải cách ruộng đất, hai mươi năm trước đã dẫn đầu hò hét những đêm đấu tố địa chủ dưới ánh đuốc loang máu vùng Nghệ Tĩnh, thì giờ đây sá gì cái lư nhang bài vị, tấm liễn ngoằn ngoèo hàng chữ Nho vô ích của mấy tên phong kiến đã chết tiệt thời nào! Người anh nghe lời vợ và mấy đứa con thô lỗ thiếu văn hóa, dọn bàn thờ từ đường xuống nhà sau, nơi mà một góc nhà đã biến thành chỗ nuôi heo, để lấy nhà trước cho thuê.
Mẹ quá tức giận, đã từ chối nghĩa ruột thịt với người anh duy nhất, thỉnh nơi thờ tự gia tiên về ở với con gái và người rể có hiếu đạo. Gần hai mươi năm nay, Mẹ lại làm thêm bổn phận trưởng nam như Mẹ đã làm tròn mấy mươi năm trước đó, từ ngày còn con gái.
Bà Mẹ cô gái cười nhẹ, nói như tự trách:
– Không hiểu sao tôi lại kể chuyện nhà không vui cho anh nghe như vậy.
Sông Hương dí dỏm:
– Tại Mẹ băng qua đường gấp quá nên phải kể câu chuyện dài đến hai mươi năm để giải thích.
– Chuyện gì cũng có nguồn cơn của nó con à! Ngần ngại một chuyến đi, lỡ một chuyến đò qua sông, một phút dại khờ… cái nguồn tưởng nhỏ nhoi mà có khi cơn tiếc nuối ân hận theo đuổi mình đến suốt đời.
Chùa Tàu tấp nập khách du lịch. Cổng tam quan có mái che cong vút với hình tượng long phụng chạm trổ công phu. Ba người len lỏi qua sân vườn chùa công phu hai hàng sứ kiểng già rồi đi theo ông già người Hoa vào nhà sau.
Lúc ông Bang Trưởng cùng người thanh niên đứng dậy tiễn Bà Giáo ra cửa, Sông Hương quay lại cười hỏi chàng:
– Anh có cần Sông Hương ra dẫn anh về ăn trưa không?
Người thanh niên lắc đầu:
– Cám ơn cô. Tôi định làm việc đến chiều, buổi trưa hoặc khi nào đói thì quanh quẩn trong phố ăn vội chút gì đó cho đỡ tốn thời giờ.
Dáng hai mẹ con lẩn khuất trong đám đông khách du lịch đi về phía chợ. Người thanh niên quay vào ngồi đối diện với ông Bang Trưởng người Hoa trên chiếc trường kỷ chạm trổ công phu. Chồng sách cổ đặt trịnh trọng trên án thư. Ông già người Hoa mừng rỡ ra mặt vì hiếm khi được nói chuyện văn hóa lịch sử của dân tộc mình bằng tiếng mẹ đẻ. Hai người khách chủ vong niên, kẻ nói người nghe, chuyện trò tâm đắc. Người thanh niên từ chối lời mời, ngồi lại một mình trong thư phòng, làm việc qua trưa. Chàng chăm chú ghi chép làm việc quên cả thời gian đang trôi nhanh.
Mặt trời đã xế bóng lúc người thanh niên rời ngôi chùa đi thơ thẩn thăm phố rồi thả bước về phía bến sông. Cồn cát màu mỡ giữa sông xanh tươi từng đám ruộng bắp khoe mình trong nắng chiều. Bao thế hệ con người đã cần mẫn cơ cực hàng năm, hàng ngàn năm trên vùng đất nhỏ nhoi. Từng năm mưa trên nguồn đã thành cơn lũ giận dữ trôi xuôi về vùng đất cách biển không xa. Cơn lũ đi về biển rộng để lại đổ nát cho người và lớp phù sa mới nuôi lớn mầm hy vọng sống còn. Vùng đất nhỏ, nơi giao lưu giữa nước nguồn và nước biển Đông đã chứng kiến sức sống của con người và mối hận mất nước của cả dân tộc Hời. Những ngôi tháp Chàm đổ nát ở Trà Kiệu Mỹ Sơn chỉ còn là di tích của nền văn hóa Sa Huỳnh một thời vang bóng. Con người của nền văn hóa Đông Sơn, trong lưu vực sông Hồng, với sức sống mãnh liệt đã giành được độc lập từ phương Bắc và gầy dựng cho mình một xã tắc riêng. Giấc mộng mở mang bờ cõi không dừng ở đất Thuận Hóa cho dù thân quế Huyền Trân phải chịu cảnh Mán Mường.
Xứ Đàng Trong, tên gọi vùng đất mới sao nghe quá xa xôi! Âm thanh lửng lơ buồn như tiếng chim cuốc kêu thương cho thân gái dặm trường và nỗi sầu cố quốc. Đàng Trong, Đàng Ngoài. Phải chăng vì chuyện phân tranh giữa hai ông Chúa, vì Phố Hiến Đàng Ngoài tấp nập tàu thuyền thương khách phương xa nên ông Chúa Đàng Trong đã mở rộng cửa biển cho phép người ngoài vào dựng phố mới Hội An?
Dù sao thì đất mới đã chiều đãi người xa trọng hậu. Đám người Tàu người Nhật bị bạc đãi ở bản quốc hay phải tha phương cầu thực đã chọn Hội An làm quê hương mới. Khoảng sông rộng Thu Bồn, không xa biển lớn đón mời thương khách từ trời Tây đến, đã biến Hội An thành thương cảng lớn nhất của Xứ Đàng Trong vào thế kỷ thứ mười sáu. Món quà văn hóa lưu truyền giữa những nhóm người khác nhau qua hàng thế kỷ đã xây dựng Phố Hội An với những nét kiến trúc Đông Tây đặc thù mà hài hòa. Khu phố cổ êm đềm mà tinh tế như con người đang sống quây quần trong đó.
Nhìn những chiếc thuyền đánh cá từ biển về, người thanh niên nghĩ đến cuộc sống hải hồ của Bố thời trai trẻ. Phải chăng bóng đoàn tàu hùng dũng trên dòng sông êm ả đã khiến lòng cô gái ven bờ cuộn sóng? Phải chăng dáng con tàu từ biển về đã làm rộn ràng hồn người trong thành phố? Chàng nghĩ đến ánh mắt xa vời của Bố khi ông quẩn quanh trong khu vườn nhỏ sau nhà và cảm thấy thương vô cùng người cha trầm lặng của mình.
– Anh đứng ngắm mây nước ở đây mà nãy giờ Sông Hương đạp xe đi kiếm muốn chết!
Cô gái dựng chiếc xe đạp, má hồng lên vì nắng.
– Chút xíu nữa là em gọi về trường báo cáo anh bị mất tích rồi đó!
– Không mất tích nhưng rất đói bụng!
– Buổi trưa anh không ăn gì sao?
Người thanh niên chỉ tập giấy dày cộm trên tay lắc đầu:
– Tôi làm việc qua trưa. Mừng quá! Tài liệu nhiều nhưng sách được giữ cẩn thận nên rất dễ đọc. Ngày mai tôi sẽ trở lại khoảng vài giờ nữa là xong.
Cô gái lúng túng ôm hờ lưng người thanh niên lúc chàng lấy thăng bằng đạp xe.
– Anh đói bụng, về nhà tha hồ ăn. Má nấu cao lầu, bún quảng. Ngoại làm hến xúc bánh tráng. Ngon lắm!
– Còn Sông Hương thì nấu gì?
– Sông Hương phụ anh ăn cho hết mấy món Ngoại với Má nấu, sau đó dẫn anh đi ăn chè bắp bên Cồn.
– Vậy là cô muốn giấu tài nấu ăn của mình rồi!
– Anh chỉ đúng một nửa thôi. Em giấu tài nấu, còn tài ăn có muốn giấu cũng không được. Dù sao thì tuần tới về Đà Nẵng thế nào em cũng trổ tài nấu mì gói cho anh biết!
Tiếng Sông Hương cười hồn nhiên khiến người thanh niên cảm thấy vui lây. Nỗi vui dịu dàng đằm thắm như làn khói ấm vươn lên từ một thân tình nào đó chưa tên mà đã xao xuyến hồn người.
– Sông Hương chỉ cho anh con đường xa nhất để về nhà đi!
Cô gái cười trêu chọc.
– Em có nhiều câu hỏi để hỏi về câu hỏi của anh trước khi trả lời. Đường nào? Nhà nào? Từ đó sẽ có thêm câu hỏi chẳng hạn như thế nào là xa? Rồi vì nói đến xa nên chúng ta đụng chạm đến gần. Khi nào thì gần, lúc nào thì xa? Xa theo nghĩa xa mấy cây số hay là chia xa, xa xôi, xa nhau, xa vời vợi? Còn gần là gần thế nào? Gần gũi, gần trong gang tấc, gần kề, gần sát hay là gần thiệt gần, gần đến nỗi hòa nhập nhau, hai trở thành một, một mà hai…? Đó là chưa nói đến xa thì nhớ, nhớ vì thương, thương ai, nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai? Mà nếu không nhớ tức là đã quên, quên ai, ai quên, quên nhớ, nhớ quên? Quên thì mất, mất còn, còn mất, mất ai, ai mất…?
Cô gái thao thao bất tuyệt. Người thanh niên bối rối không hiểu kịp những âm từ gần nhau tuôn như nước. Chàng cười lớn ngăn lời cô gái.
– Thôi, tôi xin chịu thua! Cô biết vốn liếng tiếng Việt của tôi nghèo đến mức nào rồi. Cô muốn giấu không chịu chỉ đường thì thôi đành vậy!
Cô gái chưa chịu buông tha:
– Đường là đạo. Đạo thì phải thiền, phải ngộ. Sông Hương không thể chỉ cho anh được. Em có thể chỉ giúp cho anh chùa để tu nhưng ngại chỉ trăng anh lại chỉ thấy bàn tay chỉ trăng nên thôi; anh phải tự kiếm chùa lấy. Tội nghiệp một điều là anh phải biết đường lên chùa nên đường và đạo vẫn là một vấn nạn lớn cho anh!
– Thôi, thôi! Xin Sông Hương tha cho anh đi!
– Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Sáng nay Má ngạc nhiên khi thấy em lục sách lịch sử cũ đọc chăm chú. Má quở chắc chiều nay trời sẽ mưa. Ngồi đọc truyện ông Nguyễn Tri Phương, em chợt nghĩ là phải tìm cách trả miếng anh về cái tội làm em xấu hổ vì dốt lịch sử nước nhà.
– Cô mà dốt thì ai thông minh?
Sông Hương bước xuống xe đạp, mở cổng nhà, quay nhìn người thanh niên. Trong bóng chiều đôi mắt ngước nhìn chan chứa khoảng trời xanh thẳm.
– Về câu hỏi của anh lúc nãy: Sáng mai Sông Hương dẫn anh ra biển. Con đường từ biển về lúc nào cũng xa.
– Chia xa hay xa vời vợi?
Cô gái duyên dáng háy người thanh niên, đuôi mắt dài như lá.
o O o
Người thanh niên chăm chú đọc lại bài viết trên máy vi tính. Mãn nguyện với công trình làm việc suốt buổi tối của mình, chàng đứng dậy làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt. Trời đang vào khuya. Bên ngoài cửa sổ, một thứ ánh sáng huyền hoặc vàng như lụa trải mịn màng lên khu vườn đêm. Chàng mở cửa bước ra ngoài. Bầu trời không mây cao thẳm. Chàng chưa hề thấy vầng trăng nào sáng như trăng đêm nay. Ánh trăng vàng lóng lánh ướt trên từng bóng lá đang say ngủ im lìm. Chàng bước chậm trong vườn khuya lắng nghe tiếng đêm quanh mình. Từ phía trước nhà, tiếng nhạc thật nhẹ nương theo cơn gió thoảng dặt dìu vọng lại. Giọng hát liêu trai lãng đãng mơ hồ quyện lướt trong hương đêm đằm thắm mùi hoa bưởi.
Dưới bóng trăng chênh chếch đầu thềm, người Mẹ ngồi lặng lẽ nghe nhạc từ chiếc máy cassette nhỏ. Bà ngồi nhìn trăng. Chiếc ghế xích đu khẽ lay động làm long lanh ánh trăng trong đôi mắt mở lớn. Chàng chợt hiểu tại sao Bố đã viết được những dòng văn sinh động khi diễn tả đôi mắt đẹp người xưa trong vườn khuya của một mùa trăng cổ điển.
– Có lẽ cô vẫn thường thức khuya?
– Người già ít ngủ, nhất là vào những đêm trăng sáng.
Người đàn bà nhích người chừa chỗ trên chiếc ghế xích đu rộng.
– Cháu ngồi xuống đây đi. Thềm nhà con Mực quậy phá suốt ngày dơ lắm.
– Bài hát cô đang nghe hay quá! Hầu như người lớn cùng thời Bố Mẹ cháu ai cũng thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn.
– Chúng tôi lớn lên trong chiến tranh. Tình ca Trịnh Công Sơn hát lên được tình tự chia xa đổ vỡ của quê hương và những thất thoát ngóng trông của tình yêu bằng tất cả sự trau chuốt có thể có được của ngôn từ nên dễ lắng sâu vào hồn người.
– Và sau đó đã trở thành máu thịt của mình…
Người đàn bà gật đầu mỉm cười:
– Cháu ngộ rồi đó. Tôi cũng định nói vậy.
– Cháu chưa hiểu lắm đâu, chỉ nhớ lời Bố mà nói ra.
– Tôi cũng nghĩ như ba cháu. Khi hình ảnh âm vọng trong nhạc là kỷ niệm của chính mình thì sự cảm thông sẽ đến rất sâu đậm.
Giọng người đàn bà trở nên xa vắng nghe như lời tự trầm. Đã ba mươi năm mà hình ảnh hai người đạp xe qua cầu, hàng cây long não buổi chiều qua phố, vạt áo bay luống cuống, mắt ai nhìn trên chuyến đò ngang, vẫn lảng vảng trên từng dòng nhạc mỗi khi nghe. Mỗi bài hát như khung cửa sổ khép hờ trong căn nhà kỷ niệm chắt chiu cất giữ từng nỗi nhớ. Nghe lại bài hát cũ như nghe bước chân mình trở về mái nhà xưa, mở rộng cửa, thu xếp hong phơi lại mớ tàn y còn vướng vất hơi hám yêu thương ngày cũ.
– Có lẽ vì vậy mà tôi vẫn nghe hoài những bài hát cũ.
– Cháu nghe cô nhắc hai người. Người kia là…
– Người bạn trai đầu đời. Người tập cho tôi uống cà phê nghe nhạc rồi bỏ Huế mà đi. Tôi ở lại, cắt tóc ngắn, đạp xe qua cầu đi học một mình. Qua phố một mình. Những sáng tinh sương mùa đông Huế, tôi mặc hoài chiếc áo len cao cổ màu tím than người ấy khen đẹp. Ngày nhận thư từ phương xa, tôi mừng quýnh đọc dòng chữ quen thương. Vậy mà tôi đã ngại ngần một chuyến đi. Mẹ tôi ngồi không nói. Ánh mắt xa xôi trải dài theo phần đời hai mươi năm của Mẹ, một mình lặn lội nuôi con mà vẫn ôm ủ trong lòng nỗi vọng tưởng mong manh về người đàn ông đành đoạn đã làm chùng bước chân mình.
– Có phải vì… người trong tấm ảnh…
Người đàn bà lắc đầu.
– Chúng tôi gặp nhau sau này. Cha của chị em Sông Hương ngày trước dạy cùng trường.
Mẹ mừng ngày con lấy chồng sống đời lứa đôi đằm thắm. Tình nghĩa vợ chồng cao quý đã giúp gia đình sống còn những năm đầu sau giải phóng. Sông Hương ra đời vào năm đói kém nhất của thời kỳ đó. Hai năm sau thì Sông Hương có em. Sinh kế khó khăn mà gia đình ai cũng mừng, nhất là cha của Sông Hương. Ông đã có người nối dõi tông đường. Nhìn con lớn lên trong xã hội đong chia vụn vặt ráo cạn tính người, vợ chồng chỉ biết nhìn nhau buồn khổ mà không biết làm sao hơn.
Vì tương lai con, đứa con để nối dõi tông đường, cha mẹ đã lén lau khô nước mắt tươi cười vẫy tay lúc cha con đứng trên chiếc tàu đò từ từ rời bến chợ để đi Cù Lao Ré. Con tàu vượt biên ra đi từ hòn đảo nhỏ đó đã không tìm đến được bến bờ tự do. Số phận của mấy chục con người đã quá mong manh như con tàu nhỏ nhoi dập vùi trong cuồng nộ đại dương. Tội nghiệp Sông Hương, tuổi thơ của con là những ngày buồn. Những sáng những chiều, hai mẹ con ra bờ biển Đông ngồi lặng lẽ chờ đợi một mầu nhiệm nào đó không bao giờ đến. Con đường từ biển về lúc nào cũng quá xa xôi. Tóc Ngoại bạc hơn trong chiếc áo dài lam khổ hạnh. Lời kinh Ngoại buồn hơn trong làn hương khói lắt lay tấm hình con hình cháu.
Thời gian âm thầm trôi. Hai người mẹ và cô gái nhỏ sống lặng lẽ trong ngôi từ đường không có trưởng nam để nối dõi tông đường. Cửa Đại ngày càng đông người ra đi được nay trở về thảnh thơi tắm gội. Biển sớm với con sóng ân cần an ủi bước chân nhỏ cô đơn đã không còn nơi để chia sớt chỗ ngồi cho một nỗi sầu.
Có lần nhìn đám người xa về nô đùa trên bãi, Sông Hương nói với Mẹ: “Nếu Ba và em đi được, có lẽ bây giờ cũng đang tắm biển với họ.” Câu nói chất chứa chút nghi nan len lấn nỗi buồn rất lạ. Con đường từ biển về hình như xa hơn buổi chiều hôm đó. Có còn không giấc mơ dài đợi người về, người lính Bảo An đã bỏ Ngoại đi từ lâu lắm, từ thuở đầu đời con gái âu sầu trên bến lụa Duy Xuyên? Những người đàn ông đã đi xa khỏi đời mình, sao lòng Mẹ mãi dằn vặt về sự ngại ngần thiếu nữ của một chuyến đi rất cũ hay những bổn phận chưa tròn! Họ đã bỏ đi và để Mẹ lại một mình. Trách móc chi số phận! Hãy làm lành với nỗi buồn của mình để được sống vui với những kỷ niệm đằm thắm.
Sông Hương lớn khôn, chăm ngoan, hồn nhiên với bè bạn. Bãi biển Cửa Đại tràn ngập tiếng Sông Hương cười đùa với sóng. Trăng sáng đầu thềm, Mẹ ngồi lắng nghe từng bài hát cũ, lòng thật bình yên. Cây trứng cá trước nhà, già nua, rũ lá ngủ im lìm dưới vầng trăng mới về.
Đêm trăng xưa, vợ chồng ngồi đong đưa trên chiếc ghế xích đu, chị em Sông Hương leo trèo cười đùa trên cây trứng cá không bao giờ kịp ra trái chín. Dòng nhạc đưa người đàn bà có khi về trên một dòng sông, chân bước qua bóng Cổ Thành mát rượi, có khi là đôi bước chân vui buổi chiều qua phố lòng rộn ràng say.
Và như thế, ba người đàn bà sống những ngày bình yên trong thành phố cổ, trong ngôi từ đường mà những đứa con trai đã bỏ đi xa.
Người thanh niên ngồi im sững, lặng nhìn đôi mắt ngấn lệ.
Bà Mẹ đứng dậy, vuốt tóc người thanh niên rồi mỉm cười hôn nhẹ lên trán chàng:
– Có người biết về tôi nhiều hơn Sông Hương rồi đó! Thôi cháu sửa soạn đi ngủ để sáng mai Sông Hương đưa ra biển.
Người thanh niên ngồi lại thật lâu dưới mái hiên nhà. Trong đêm, chàng ngồi ôm lòng mình lắng nghe từng câu hát lãng đãng sương khói trần gian… Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về…
o O o
Người thanh niên đứng tựa thành cầu bâng khuâng nhìn xuống dòng sông. Thời gian trôi nhanh đến không ngờ. Suốt buổi tối đi lang thang dọc theo bờ sông, chàng buồn bã nghĩ đến ngày mai phải rời xa thành phố này. Chiều hôm trước, lúc Sông Hương chào để về Hội An nghỉ cuối tuần với Mẹ và Ngoại, chàng định theo về nhưng vì công việc bề bộn nên ngại ngần, bây giờ lại vơ vẩn ngóng trông. Chàng quay bước về khách sạn.
Lúc đi ngang qua văn phòng, người làm việc ở quầy đêm gọi anh lại:
– Cô gái vẫn đến đây hàng ngày…
– Vâng, Sông Hương làm việc ở trường Đại Học…
Người gác đêm khách sạn ý nhị:
– Cô tìm đến nói có việc cần muốn chờ ông. Người quen nên tôi đã mời lên phòng ông chờ.
Người thanh niên nói vội lời cám ơn rồi hấp tấp đi về phòng. Sông Hương thẹn thùa mở cửa đón chàng. Đôi mắt nàng long lanh đẹp lạ thường dưới mái tóc còn ướt hương tắm gội:
– Lần đầu tiên em chạy xe gắn máy đường xa ban đêm, sợ quá!
– Tôi đang buồn lo không biết làm gì cho hết đêm. Lang thang dọc theo bờ sông suốt buổi tối, trách mình sao không cùng về với Sông Hương để thăm cô và Ngoại trước khi đi.
– Ăn tối xong, ngồi với Má trước hiên nhà, em chợt ôm Má khóc như mưa. Má khóc với em mà mắt Má vui. Má nói, trời chưa tối lắm đâu con. Rồi Má đùa, tôi biết thế nào rồi cũng tới ngày Sông Hương bỏ Má mà đi.
Người thanh niên xúc động đứng lặng nhìn giọt lệ rưng vui trong mắt Sông Hương.
– Ngoại gởi anh chai dầu khuynh diệp. Thư này của Má.
– Còn Sông Hương cho tôi cái gì?
– Em đem cả Sông Hương về cho anh đây.
– Tôi chỉ dám xin đôi mắt thôi. Nhờ em gìn giữ giùm Sông Hương cho tới khi tôi trở về.
Người thanh niên mở phong thư dán kín người Mẹ gởi. Trong thư vỏn vẹn tấm ảnh nhỏ rất cũ. Tấm ảnh quen thuộc chàng đã thấy nhiều lần trong quyển album gia đình. Tấm ảnh Bố thuở còn là sinh viên trước khi vào lính. Chàng nghĩ đến Mẹ mình, đến người đàn bà ở lại trong thành phố cổ, những người đã bỏ đi xa hay quay về. Mỗi người đều long đong chật vật trên từng nỗi hội ngộ chia xa để cuối cùng bằng lòng với hạnh phúc cầm giữ được. Rồi quen đi. Ngay cả những cơn sầu. Có lẽ người Mẹ đang quay quắt vì tấm ảnh kỷ niệm ba mươi năm ôm giữ đã không còn. Có lẽ bà đã không nói rõ hơn về người bạn đầu đời với chàng vì biết nói ra sẽ không cầm giữ lại được giọt lệ quen.
Người thanh niên cảm thấy mắt mình cay.
– Mẹ viết thơ từ giã buồn lắm sao anh?
– Ồ không, Mẹ chỉ căn dặn không được làm Sông Hương khóc đêm nay.
Người thanh niên mở xách hành lý, bỏ tấm ảnh nhỏ vào cuối quyển truyện Bố viết.
– Của Má. Để Má đọc cho đỡ buồn.
Cô gái nhìn tựa đề quyển sách và tên người viết, tò mò hỏi.
Người thanh niên lắc đầu cười:
– Sông Hương nhắn với Má, tôi nhờ Má trả lời giùm câu hỏi của em.
– Em chợt nhớ ra là anh chưa hề hỏi tên Má em.
Người thanh niên ân cần cầm tay cô gái.
– Anh biết tên Má từ lâu lắm rồi. Tên Má là Người Đàn Bà Trong Phố Cổ.
Tiếng hát của nàng – Đoàn Thạch Biền (1948- )
Một nữ phóng viên đồng nghiệp nói với tôi: Ông chỉ chuyên viết về áo trắng thôi sao! Xã hội này còn nhiều người mặc áo màu khác. Ông hãy đi thực tế một quán bia ôm và viết về thân phận của các cô gái ấy.
Tôi đã đi thực tế và viết được truyện này. Có lẽ truyện còn ôm… đồm quá, nhưng biết làm sao được. Dưới ánh sáng mặt trời rạng rỡ, người ta còn chưa nhìn thấy hết góc cạnh của một sự việc, huống chi dưới ánh đèn mờ.
Truyện này đã được đăng trên báo Sóng Nhạc. Tôi nghĩ không phải vì nó có “nhạc” mà có lẽ vì nó có một chút “sóng.”
o O o
Khi chúng tôi bước vào quán Linh Thảo chỉ còn có hai bàn trống. Một bàn trải khăn trắng có đặt một bình hoa cúc vàng, còn bàn kia có một nụ hồng nhung cắm trong một chiếc ly cao. Tôi chọn bàn có bông hồng, chẳng phải vì trông nó sang trọng hơn mà vì nhìn bông hồng tôi thường dễ dàng tưởng tượng ra đủ thứ các món ăn ngon: heo sữa quay, cá chép sốt cà, thỏ nấu rượu chát. Và như thế sẽ đỡ tốn… tiền “mồi.”
Một người phục vụ nam mặc áo trắng quần đen bước vào hỏi:
– Các anh uống bia gì?
Tuấn nhìn người phục vụ nói:
– Cho nửa… nửa thùng Heineken là bao nhiêu lon?
– Dạ mười hai lon.
Tuấn trợn mắt nói:
– Bộ không biết làm tính chai sao mày? Nửa của nửa thùng là sáu lon.
Người phục vụ cười nói:
– Dạ, em hiểu. Các anh có cần gọi cô nào quen?
– Mới vào lần đầu chưa quen ai. Mày tìm cho tao em nào ốm ốm xinh xinh.
Nhân ngồi cách Tuấn một ghế nói:
– Gọi cho tôi một em ít trang điểm và không xài dầu thơm.
Người phục vụ quay qua hỏi tôi:
– Còn anh hai?
Tôi lắc đầu. Tuấn vỗ tay xuống bàn:
– Thôi cha nội, cha nội “ăn chay” ai dám “ăn mặn.”
– Thì từ từ.
Thú thật tôi thích ngồi uống bia với một bông hồng câm nín còn hơn phải ngồi nói chuyện với một cô gái mà mình không hợp gu, dù chỉ là ngồi để giải trí trong chốc lát.
Một lúc sau người phục vụ đem vào sáu lon bia và hai cô tiếp viên cầm ba cái ly có quai đặt lên bàn. Tuấn và Nhân mỗi người một cô tiếp viên ngồi kế bên. Người phục vụ hỏi:
– Các anh ăn gì không?
Tuấn nói:
– Cho con khô mực.
Tôi nói:
– Một đĩa táo xanh và nhiều muối ớt.
Người phục vụ kéo tấm bình phong che bàn chúng tôi, chỉ chừa một lối đi nhỏ rồi bước ra ngoài. Một cô gái tóc ngắn xách xô đá bước vào, gắp đá bỏ vào ly. Cô mặc áo pull trắng sát nách, chiếc váy dài có in hình những bông hoa màu đen trên nền vải nâu. Đôi mắt to đen của cô có vẻ buồn não ruột dù miệng cô luôn mỉm cười. Bỏ đá xong, cô gái xách xô đá đi ra ngoài.
Tôi hỏi cô gái ngồi bên Tuấn:
– Ai vậy?
Tuấn cười:
– Rồi, trúng “hệ” của chàng rồi!
Cô gái nói:
– Chị Kim đó. Chị ấy chỉ phục vụ chứ không được ngồi bàn tiếp khách.
Tôi tự khui lon bia rót đầy ly rồi bưng lên uống hết nửa ly. Tôi nhìn bông hồng trên bàn và cố tưởng tượng ra đôi mắt buồn não ruột của cô gái. Chắc cô là thân nhân của chủ quán nên không được tiếp khách.
Một người đàn ông ló đầu qua khe bình phong hỏi:
– Các anh có cần ca nhạc?
Tôi nhận ra Khoa, một người quen ở quán cũ. Tôi vẫy tay gọi:
– Vào đây.
Khoa đẩy bình phong bước vào, bắt tay tôi:
– Chào anh Tiến. Lâu quá mới gặp lại anh.
Tôi kéo ghế cho Khoa ngồi rồi rót đầy ly bia mời:
– Uống năm mươi đi. Bỏ quán Bảo Sơn bao lâu rồi?
– Dạ, em về làm quản lý ở đây đã hơn ba tháng. Xin phép anh.
Khoa uống cạn nửa ly bia rồi nói:
– Để em gọi cho anh một cô mới vô làm, ngon lành lắm.
– Thôi khỏi. Ông ra gọi cho tôi cô Kim.
Khoa trợn mắt:
– Cô Kim? Không được đâu!
Tôi nhíu mày:
– Ông là quản lý mà điều động cô ta vào đây không được thì quản lý cái quái gì?
– Không phải vậy. Em chỉ sợ anh buồn.
– Tự tôi yêu cầu, tại sao tôi còn phải buồn?
Khoa ôm vai tôi nói nhỏ:
– Để em trình bày cho anh Tiến thông cảm. Kim trước kia là ca sĩ số một ở quán này. Rất nhiều khách đã say mê tiếng hát của cô ấy. Bia và thuốc lá đã làm cho cô ấy khan tiếng. Rồi một đêm đi làm về khuya. Kim bị trúng mưa và bị bệnh. Khi lành bệnh thì Kim cũng bị tắt tiếng luôn. Bà chủ thông cảm hoàn cảnh cô ấy phải một mình nuôi cha mẹ già, nên đã nhận cô ấy vào làm phục vụ như nam chứ không cho ngồi tiếp khách, sợ khách chê quán có tiếp viên câm.
Tôi vỗ vai Khoa:
– Ông ra mời Kim vào đây. Mọi chuyện để tôi lo.
Khoa đứng dậy. Tuấn nói:
– Ông gọi người đờn để mấy em ca cho vui.
Khoa đẩy bình phong bước ra. Một lát sau Kim cầm đĩa khô mực và đĩa táo xanh bước vào. Đặt hai đĩa trên bàn, Kim định bước ra ngoài thì tôi níu tay nàng:
– Em ngồi xuống đây.
Kim mỉm cười lắc đầu. Tôi kéo Kim ngồi xuống ghế và choàng tay qua vai nàng.
Tuấn vỗ tay cười ha hả:
– Hết “ăn chay” rồi hả?
Tôi rút tay trên vai Kim xuống rồi nắm lấy tay nàng nói nhỏ:
– Em như một nụ hồng cầu mong chẳng lạnh lùng. Em biết bài hát đó chứ?
Kim mím môi nhìn đóa hồng trên bàn, lắc đầu. Tôi nói:
– Tôi không yêu cầu em hát. Tôi chỉ hỏi em có “hiểu” bài hát đó?
Kim gật đầu.
– Tốt. Nào mời em uống.
Tôi đưa ly bia cho Kim, nàng cầm lên uống nhấp một ngụm. Một người đàn ông có râu cầm đàn ghi ta bước vào. Anh cúi chào chúng tôi rồi kéo ghế ngồi một góc sát tấm bình phong.
Cô gái ngồi bên Tuấn nói:
– Em xin hát tặng các anh bài Chuyện ba người.
Anh nhạc công dạo đàn. Tuấn gõ tay xuống bàn theo nhịp điệu Rumba. Cô gái hát: Một người đi với một người, một người đi với nụ cười hắt hiu…
Kim nhìn chăm chăm vào cây đàn. Đôi môi nàng khẽ mấp máy. Nàng cố tìm lại giọng hát đã mất. Rồi nàng gục đầu xuống bàn, hai tay bịt chặt đôi tai…
Bài hát dứt. Mọi người vỗ tay. Đôi mắt Kim ngấn lệ.
Tôi vuốt mái tóc ngắn của nàng và nói nhỏ:
– Đừng buồn, rồi giọng hát sẽ trở về với em.
Kim buồn bã lắc đầu, cầm ly bia lên uống cạn.
Tôi lấy một trái táo xanh, chấm thật nhiều muối ớt rồi đưa cho nàng.
– Em hãy tập chịu đựng ăn đủ thứ chua chát cay mặn, để vươn lên trong cuộc đời. Khi nào từ bỏ được nơi chốn này, giọng hát sẽ tự động về với em.
Kim gật đầu, nhìn tôi mỉm cười. Nàng cắn mạnh vào trái táo đầy muối ớt. Tôi mượn người nhạc công cây đàn. Dù giọng hát không hay, tôi cũng muốn hát tặng nàng. Không phải để nàng thưởng thức giọng ca của tôi, mà để nàng hiểu lời ca: Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời…
Gần 12 giờ đêm, tôi đưa Kim về nhà nàng. Trời vừa mới ngừng cơn mưa nên thành phố mát lạnh. Kim ngồi sau thỉnh thoảng đưa tay chỉ đường mỗi khi xe chạy đến một ngã tư. Đến một con đường nhiều cây sao cao vút, nàng vỗ vai tôi ra dấu cho xe ngừng lại. Nàng xuống xe, chỉ vào một con hẻm sâu hun hút rồi ra dấu cho tôi đừng đi theo vào nhà nàng.
Đường phố im lặng, tôi nghe rõ tiếng lá rụng chạy đuổi nhau trên mặt đường. Tôi ôm lấy vai nàng, nàng im lặng. Tôi vuốt mái tóc nàng, nàng im lặng. Và khi tôi cúi xuống hôn nàng, lạ lùng thay đôi môi nàng mấp máy rồi khẽ hát Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi. Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời…
Tôi đã nghe rõ ràng tiếng hát thanh thoát của nàng. Chắc các bạn cho rằng lúc đó tôi “xỉn” nên mới nghĩ vậy. Làm sao một người đã bị tắt tiếng có thể hát được?
Như vậy bạn chỉ tin tình yêu nói được bằng miệng lưỡi. Không, tình yêu cũng có thể nói được bằng trái tim. Và nàng đã hát bằng trái tim.
Tôi không tin cơn bệnh nàng mắc trong đêm mưa đã làm nàng tắt tiếng. Chính khói thuốc và rượu bia trong căn phòng tù túng, dù có được gắn máy lạnh, đã làm tắt tiếng hát của nàng. Tôi tin tình yêu sẽ giúp nàng thoát khỏi nơi chốn tù túng đó, và tiếng hát sẽ trở lại với nàng. Khi hai con tim hòa cùng một nhịp, chúng sẽ giúp nhau hát lên một bài ca mà chỉ riêng chúng hiểu.
Nhưng ai sẽ giúp nàng có lại tiếng hát?
Thật đáng tiếc tôi không thể giúp nàng chuyện đó. Tôi không muốn nàng sẽ bị tắt tiếng luôn khi khám phá ra đứa con gái đầu lòng của tôi vừa tròn một tuổi. Nó đang cần tiếng hát của tôi dù tôi hát không hay.
Đâu phải cái gì cũng mong manh – Đoàn Thạch Biền
Mỗi chiều tan sở ra, tôi đều đi bộ đến chợ huyện xây cất ở gần bờ biển, ghé mua thực phẩm cho bữa ăn tối, trước khi trở về nhà. Bữa ăn trưa, vì thì giờ eo hẹp, tôi thường ăn vội vã một dĩa cơm ở quán gần sở, rồi trở vào căn phòng ngồi ngả lưng ở ghế dựa ngủ một giấc ngắn, trước khi làm việc lại vào lúc một giờ. Bữa ăn tối, tôi thích tự tay mình làm lấy hơn là đi ăn cơm ngoài. Người dân ở đây thường nấu các món ăn bằng cá biển bỏ thật nhiều ớt. Những món ăn như thế chẳng hợp với bệnh gan của tôi.
Buổi chiều nay khi đến chợ, tôi ngạc nhiên thấy một đống bắp cải bày bán ở ngoài sân cát. Thực phẩm này vốn là thứ tôi bị bó buộc phải ưa thích vì nó cần thiết cho lá gan trục trặc. Mỗi khi đến chợ, tôi phải đến hàng rau tìm nó trước nhất rồi mới đến hàng thịt và chẳng bao giờ tôi bước chân đến hàng cá biển. Ở chợ này, bắp cải bán rất đắt, đắt vì phải chuyên chở từ Ðà Lạt xuống, thường thường một ký bắp cải giá từ ba đến bốn trăm đồng. Vậy mà chiều này, khi đi ngang qua đống bắp cải xanh tươi, tôi đã nghe cô bé rao “Trăm đồng một bắp cải đây.” Tôi không hiểu cô bé nói thật hay mình nghe lầm.
Những người bán rau ở chợ này, tôi đều quen mặt (nếu không quen mặt thì sức mấy mà họ dám bán thiếu cho tôi mỗi khi tôi kẹt tiền), nhưng cô bé đây trông lạ hoắc. Ở xứ nắng chói chang này mà em vẫn mặc áo len, thế mới kỳ. Tôi đứng sững nhìn em một lát và cô bé cất tiếng mời:
– Dịp may hiếm có. Ông mua bắp cải đi, giá rẻ rề.
Tôi nói:
– Chắc bắp cải này hư nên em mới bán giá rẻ rề chứ gì?
Cô bé cúi xuống lấy một bắp cải đưa cho tôi.
– Ông xem này. Còn tươi nguyên, mới đem ở Ðà Lạt xuống mà.
Tôi cầm lấy bắp cải, lật lớp lá xanh bao bên ngoài, bên trong những lá cải trắng nõn cuốn chặt chẳng có dấu vết hư thối nào, nó thật tươi đúng như cô bé nói.
Bắp cải nặng gần hai ký.
Tôi hỏi cô bé:
– Bao nhiêu đây?
– Em bán giá đồng hạng, một trăm một cây.
Ðể chứng tỏ mình cũng là người rành chuyện buôn bán, tôi nói:
– Thôi tám chục đi.
Cô bé lắc đầu.
– Một trăm là rẻ rồi, ngày thường ông phải mua ba trăm là ít.
– Thôi chín chục đi. Tôi sẽ mua một cây rưỡi.
– Em không bán một cây rưỡi. Cứ một trăm một cây, giá nhất định.
– Thôi chín lăm đi. Em bán không?
– Trời đất ơi! Ông kỳ kèo trả giá còn hơn đàn bà! Bộ ông sợ mua hớ về vợ ông la hả?
– Không. Tôi sợ mua hớ em sẽ cười tôi ngu.
Cô bé bật cười:
– Ông cứ mua một trăm một cây đi. Em không cười ông ngu đâu.
– Vậy chứ em vừa cười cái gì vậy?
– Em cười ông thật thà. Em khuyên ông nên mua hai ba cây để dành. Ngày mai sẽ không còn bắp cải rẻ như hôm nay.
Tôi “thật thà” hỏi:
– Tại sao vậy?
Cô bé chớp mắt nói:
– Ba em chở một xe bắp cải, định đem vào Sài Gòn bán; nửa đường xe hư, ba em phải chở vào đây bán giá rẻ. Nhưng ba em đã đi thuê xe khác, vì vậy em nói ngày mai giá bắp cải sẽ đắt.
Nghe cô bé giải thích xong, tôi nói:
– Vậy em bán cho tôi năm bắp cải.
Cô bé đi vòng quanh đống bắp cải, bới tìm những cây khá lớn, rồi em lấy dây cột chúng lại đưa cho tôi.
– Em đã lựa cho ông những bắp cải chắc nhất.
Vì đã tự giới hạn, mỗi ngày chỉ được chi tiêu ba trăm tiền chợ; nên mua bắp cải xong, tôi khỏi mất công đi đến hàng thịt hay bất cứ hàng nào khác.
Bữa ăn tối đó, tôi đã ăn bắp cải trừ cơm. Rất may, bắp cải không làm tôi đau bụng phải thức giấc vào lúc nửa đêm.
Buổi chiều hôm sau đi chợ, tôi thấy cô bé vẫn còn đứng bán bắp cải. Em vẫn mặc chiếc áo len xanh dài tay, dù cho trời nắng gắt. Mặc áo len có lẽ là thói quen của dân Ðà Lạt, nên họ ít khi chịu rời bỏ. Khi tôi đến gần, nghe em rao: “Ðại hạ giá. Hai trăm đồng ba bắp cải đây.” Tôi lại tự hỏi, cô bé nói thật hay mình nghe lầm?
Thấy tôi, em nói:
– Mời ông mua bắp cải.
– Mua gì nữa? Hôm qua tôi đã mua năm bắp cải rồi.
– Ông nên mua thêm. Hôm nay giá rẻ hơn hôm qua.
Nghe cô bé liến láu, tôi nổi sùng nạt:
– Sao hôm qua em nói giá hôm nay sẽ đắt hơn?
– Em đâu có ngờ, ba em chưa thuê được xe chở bắp cải vào Sài Gòn. Hôm nay em bị bắt buộc phải bán giá rẻ, vì xứ nóng bắp cải mau hư.
Tôi thở dài:
– Vậy là tôi đã bị hớ rồi, em có cười tôi ngu?
– Không. Vì em cũng đã bị hớ.
– Em hớ cái gì?
– Cảm tình dành cho ông.
– Dành cho tôi?
– Phải. Em tưởng ông thông cảm sẽ không kỳ kèo về chuyện mua bắp cải với giá đắt. Nào ngờ…
Cô bé bỏ lửng câu nói, thở dài, rồi ngoảnh mặt rầu rầu nhìn đi nơi khác. Tiếng thở dài của người lớn thật đáng ghét như lốp xe xì hơi. Nhưng tiếng thở dài của mấy cô nhỏ như ngọn gió mùa Thu nghe thật thê lương và trái tim tôi, một chiếc lá vàng úa, tránh sao khỏi rung động.
Tôi vội nói:
– Này nhỏ, tôi thông cảm với em rồi. Hôm nay tôi mua thêm ba bắp cải nữa.
Cô bé quay nhìn tôi cười:
– Ðể em lựa cho ông ba bắp cải chắc nhất.
– Hôm qua em đã lựa cho tôi năm bắp cải chắc nhất rồi, còn đâu bắp cải chắc nhất nữa.
– Em vẫn còn những bắp cải chắc nhất dành cho ông chiều nay.
Biết mình bị cô bé lừa, nhưng tôi chỉ cười trừ. Nếu một bà già nói với tôi như vậy, chắc tôi sẽ giảng “moran” cho bà nghe điếc con ráy, nhưng với một cô bé tôi đành nín thinh. Chẳng bao giờ tôi thích cãi tay đôi với một cô bé. Giành giật “thắng lợi” với một người nhỏ tuổi hơn mình, nào có thích thú gì.
Khi cô bé đưa cho tôi ba bắp cải đã được cột dây cho cẩn thận, tôi hỏi:
– Này nhỏ, bây giờ gia đình em ở đâu?
– Gia đình em ăn ngủ luôn trên xe, đậu ở khoảng sân trống trước rạp hát.
– Tôi cũng ở gần đó. Tối nay em rảnh không?
– Ông định mời em đi xem cải lương?
– Em thích cải lương?
– Thích lắm. Em xin ba hoài nhưng ba không cho đi xem.
– Vậy tối nay tôi sẽ đến xin phép cho em đi xem.
Cô bé reo lên.
– Ông hứa chắc nghe?
Tôi cười.
– Chắc như bắp cải của em.
Sau khi rửa bát đũa xong, đúng bảy giờ, tôi đi bộ đến rạp cải lương. Mùa hè ở đây ban ngày trời rất khó chịu, chẳng ai muốn ra ngoài đường, vì nắng chiếu rát da mặt, lại thêm những ngọn gió thổi cát ào vào mắt nhắm không kịp. Nhưng đêm đến, gió từ biển thổi vào mang theo hơi nước, khiến người ta thấy dễ chịu hơn khi rời khỏi nhà. Trên vỉa hè đông người qua lại, họ đi mua sắm vật dụng hay đi xem hát. Ða số dân ở đây rất mê cải lương, nhưng chẳng mấy khi được xem tận mắt, họ chỉ được nghe các vở tuồng truyền thanh hay trên những chuyến xe đò mở nhạc cải lương oang oang câu khách. Vì vậy mỗi khi có đoàn cải lương về huyện hát, con phố nhộn nhịp hẳn lên.
Tôi đi thẳng ra sân cát rộng trước rạp hát. Có khoảng chục chiếc xe hàng đậu nơi đây. Không biết gia đình cô bé ở xe nào, tôi đi vòng quanh tìm kiếm.
Chợt có tiếng kêu:
– Chào ông.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Cô bé đang ngồi với hai em nhỏ trên một mui xe và em đưa tay vẫy. Tôi đưa tay vẫy lại. Cô bé bám vào một chiếc thang nhỏ leo xuống. Vẫn mặc chiếc áo len màu xanh dài tay. Cô bé đứng trước mặt tôi đưa tay vuốt lại mái tóc.
– Em đợi ông từ sáu giờ.
Tôi giải thích:
– Tôi phải nấu cơm và rửa chén bát xong mới đi được.
– Vợ ông đau à?
– Tôi chưa hân hạnh gặp bà ấy ở đời này.
– Trời đất! Vậy ông mua bắp cải làm gì mà nhiều quá vậy? Bộ ông có nuôi heo hả?
– Nếu có nuôi heo, tôi sẽ sạt nghiệp. Tôi nuôi tôi còn ốm nhách thế này, nuôi heo bán ai mua?
Cô bé cười, chỉ dưới chân tôi.
– Tại ông lo chăm sóc cái bóng của ông nhiều quá. Ông thấy không, nó mập hơn ông.
Tôi cười nói:
– Ba em đâu? để tôi xin phép ông cho em đi xem cải lương. Họ sắp trình diễn rồi.
Cô bé gọi lớn vào khoang xe:
– Bố ơi, có ông khách mua bắp cải.
Từ trong khoang xe tối om, một người đàn ông mặc áo vét sờn cũ bước ra. Ðứng ở thành xe, ông hỏi tôi:
– Ông muốn mua sỉ bắp cải?
Cô bé xua tay.
– Con bán cho ông ấy nhiều ở chợ rồi, ông ấy đến để…
Cô bé quay sang tôi:
– Ðể làm gì ông nói đi!
Người đàn ông từ thành xe nhảy xuống bắt tay tôi.
– Cậu làm việc ở huyện?
– Dạ phải.
Bây giờ tôi mới nhận ra người đàn ông này buổi sáng tôi đã gặp ở văn phòng hành chánh huyện. Ông đến xin phép thuê xe chở bắp cải vào Sài Gòn. Tôi đã giúp ông có giấy phép sớm. Tôi không ngờ ông là ba cô bé.
Tôi nói:
– Bác thuê được xe chở bắp cải chưa?
– Cám ơn cậu. Ðược rồi, bốn giờ sáng xe chở bắp cải sẽ chạy. Còn chúng tôi ở lại sửa xe xong vào sau.
Cô bé reo lên:
– Vậy ông hên nhé! Ngày mai bắp cải sẽ đắt.
Người đàn ông nói:
– Cậu muốn mua bắp cải nữa, tôi vẫn để cho cậu giá đặc biệt.
Trước lòng tốt của người đàn ông, tôi phát hoảng, vì đã hai tối rồi tôi phải ăn bắp cải trừ cơm. Tôi vội từ chối:
– Cám ơn bác. Tôi còn sáu bắp cải ở nhà. Dư ăn một tuần.
Thấy cô bé nháy mắt ra hiệu, tôi biết em đã nôn nóng muốn đi xem cải lương. Tôi vội kết thúc câu chuyện bằng một câu quen miệng: “Sau cơn mưa trời lại sáng, chúc bác may mắn.” Rồi tôi ngỏ ý muốn mời ông và cô bé đi xem cải lương “giải buồn.”
Ông nói:
– Cám ơn cậu. Lúc này tôi chẳng còn hứng thú xem cải lương, nhưng con nhỏ này mê lắm, vậy nhờ cậu dẫn nó đi xem.
Tôi bắt tay chào ông và dẫn cô bé đi. Khi chúng tôi đi khuất chiếc xe vận tải, cô bé nói:
– Em không ngờ ông cũng thuộc tên tuồng cải lương dữ!
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Tôi có thuộc tên tuồng cải lương nào đâu?
– Hồi nãy ông nói với em “Sau cơn mưa trời lại sáng”, đó không là tên một tuồng cải lương sao?
Tôi không hiểu cô bé nói thật hay đùa, nên đành nín thinh.
Sắp đến giờ trình diễn, khán giả đã vào rạp, chỉ còn bọn con nít bu đông bên ngoài chực vào ké. Tôi đến phòng vé hỏi mua hai vé hạng ba. Họ nói hạng nhất, nhì, ba đều đã hết, chỉ còn thượng hạng, tám trăm một vé. Cũng may tôi mới lãnh lương hồi chiều; nếu không, tôi phải nói dối với cô bé là đã bị bọn móc túi lấy bóp và dẫn em về.
Trong rạp đông nghẹt khán giả, thở không nổi. Nhờ mua vé thượng hạng, chúng tôi đã được ngồi ngay dưới một hàng quạt trần. Có vậy tôi mới đủ sức chịu đựng ngồi ở đây suốt ba tiếng đồng hồ.
Hồi chuông thứ tư vang lên. Ðèn trong rạp tắt hết và loa phóng thanh kêu oang oang. “Kính thưa quí vị khán giả. Hôm nay đoàn Hoa Mai chúng tôi xin trình diễn ra mắt quí vị vở tuồng Duyên tình mong manh. Một vở tuồng tình cảm xã hội đặc sắc nhất và mới lạ nhất của soạn giả Ðức Thịnh. Với sự có mặt của các danh tài…” Và tôi ngáp, mặc dù theo thông lệ, ở nhà mỗi tối đúng 10 giờ, tôi mới đi ngủ.
Chắc tôi đã ngủ thẳng một giấc trong rạp, nếu không có những tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Trên sân khấu, anh kép chính và chị đào thương đang ôm nhau ca những lời mùi mẫn, diễn tả mối tình trong trắng và mong manh như giấy pelure của họ. Tôi ngạc nhiên thấy những người ngồi chung quanh và cô bé đã khóc dễ dàng. Em đưa ống tay áo lên thấm những giọt nước mắt lăn trên má. Tự dưng tôi đâm “thù” những người đang ca hát trên kia, vì họ đã giúp cho người khác khóc. Tự người ta khóc chưa đủ buồn sao mà còn phải giúp người ta!
Cho đến khi tấm màn khép lại, nhạc ò e tạm biệt lên và đèn trong rạp bật sáng, tôi cũng không hiểu họ đã diễn cái gì trên sân khấu. Tôi giữ cô bé ngồi lại trên ghế, chờ khán giả ra bớt để đỡ chen lấn.
Cô bé hỏi tôi:
– Ông xem hay không?
Tôi lắc đầu nói:
– Họ diễn thua tôi nhiều.
– Còn khuya. Ông mà biết diễn tuồng?
– Ðừng vội chê, nhỏ. Tôi mời em tối mai đến xem tôi trình diễn vở tuồng “Bữa ăn tối tại nhà trọ.”
Ðạo diễn xong bữa ăn tối, tôi đi đón cô bé đến xem. Trong căn phòng chật hẹp, dưới ánh đèn néon sáu tấc, chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhỏ. Trên bàn, bày bắp cải bảy món, do tôi nấu theo quyển sách: Tự học làm bếp. Gồm có: bắp cải luộc, bắp cải trộn giấm, bắp cải xào mì chay, bắp cải bằm chiên trứng, bắp cải nấu canh thịt mỡ, bắp cải hầm xương heo, bắp cải muối dưa và món tráng miệng đặc biệt là bắp cải sống.
Cô bé quan sát kỹ lưỡng món ăn rồi em hỏi:
– Sao toàn bắp cải vậy?
Tôi phân bua:
– Thì em có bán cho tôi món gì khác ngoài bắp cải đâu?
– Ăn xong, có đau bụng không?
– Ðau bụng hay không chắc em biết rõ hơn tôi, vì bắp cải này của em mà!
Bữa ăn tiến triển một cách chậm chạp, nhưng thành quả rất tốt đẹp; vì sau cùng, chúng tôi đã thanh toán hết các món ăn. Tôi thu dọn bát dĩa vào chậu rồi đi pha trà. Cô bé nói:
– Ðể em rửa bát chén giúp ông.
Tôi xua tay.
– Em làm giúp, tôi sẽ mất thói quen và tối mai tôi không còn can đảm rửa chén nữa.
– Sao ông không lập gia đình? Một người vợ sẽ giúp ông nhiều chuyện.
– Tôi đã biết giặt quần áo, biết đi chợ trả giá, biết nấu ăn, biết rửa chén, vậy khỏi phải lấy vợ.
– Ông vẫn cần phải lấy vợ như thường.
– Tại sao?
– Ai săn sóc khi ông đau ốm?
– Nhà thương thí.
– Ai cằn nhằn ông khi ông về khuya hay say sưa?
– Trời đất quỉ thần ba má anh chị ơi! Bộ cần phải có một người cằn nhằn mình, mình mới sống được sao?
– Ðúng vậy. Ông thấy đó, ai cũng ghét tiếng động nhưng thiếu tiếng động người ta sẽ buồn chán và hoảng sợ ngay.
Nghe cô bé nói cũng có lý, tôi không biết bắt bẻ thế nào nên chọc tức em:
– Vậy chắc em cũng rành chuyện cằn nhằn lắm hả?
Cô bé trả lời tỉnh bơ:
– Dĩ nhiên. Ðàn bà con gái ai không rành chuyện đó!
– Vậy em làm ơn cằn nhằn tôi một hồi đi.
Cô bé trợn mắt nhìn tôi.
– Bộ ông điên rồi hả?
– Tôi nói thật mà! Em cằn nhằn cho tôi thâu băng, rồi khi nào cảm thấy cần tiếng cằn nhằn, tôi sẽ mở băng ra nghe. Như thế tôi khỏi cần phải lấy vợ nữa.
Cô bé bật cười rũ rượi.
– Ông đúng là vua lười.
– Tôi mà lười? Nếu lười tôi đã không tự tay nấu những bữa ăn tối.
– Những người đàn ông sợ lập gia đình đều là những người lười biếng. Ông hãy tưởng tượng, nếu tất cả đàn ông đều sợ lập gia đình thì thế giới này sẽ ra sao?
– Ồ! thật tuyệt diệu. Thế giới này sẽ trở thành thiên đàng ngay.
Cô bé kéo ghế đứng dậy.
– Thôi chào ông, em về.
Tôi chưng hửng nói:
– Gấp vậy? Còn sớm mà!
– Em không muốn ở trong thiên đàng của ông nữa. Ngột ngạt quá!
Mặc dù tôi năn nỉ, cô bé vẫn đòi về.
Khi đưa em đến gần chỗ gia đình em đậu xe, tôi nói:
– Em xem có hay không?
– Xem gì đâu?
– Vở tuồng “Bữa ăn tối ở nhà trọ” do tôi diễn.
Cô bé cười.
– Dở ẹc! Ông nấu nướng nuốt không vô.
Tuy vở tuồng của tôi “dở ẹc”, nhưng tôi vẫn cảm thấy sung sướng. Tôi không làm cho cô bé tốn nước mắt mà trái lại đã giúp em có được nụ cười.
Một buổi tối từ nhà người bạn trở về, tôi thấy cô bé đã ngồi đợi tôi ở trước thềm nhà trọ. Em ngồi bó gối gục đầu, tóc buông xõa, dáng điệu ủ dột.
Tôi hỏi:
– Em ngồi đợi lâu chưa?
– Hơn nửa tiếng rồi.
– Mời em vào nhà.
– Em ngồi đây được rồi.
Tôi nghĩ vào phòng giờ này cũng nóng bức nên ngồi xuống thềm nhà với em. Căn phòng khi đi tôi đã đóng kín các cửa nên ánh sáng đèn điện bên trong không hắt ra ngoài. Trước mặt chúng tôi khoảng sân rộng lát gạch, sáng rực ánh trăng đêm mười sáu. Hai cây dừa trồng trong sân vươn cao với những tàu lá ánh bạc và im sững. Ðêm không gió, không khí ngột ngạt khó thở.
Chợt cô bé ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi, em nói nhanh:
– Em đến từ biệt ông. Ngày mai em đi, xe của ba em sửa đã xong.
Tôi biết chuyện này rồi sẽ xảy ra. Ðã biết trước nhưng tôi cũng không ngăn được tiếng thở dài.
– Ông đừng buồn.
– Ừ.
– Ông còn nhớ vở tuồng chúng ta cùng xem?
– Nhớ.
– Tên tuồng là gì?
– “Bữa ăn tối ở nhà trọ.”
– Không phải vở tuồng dở ẹc đó đâu. Em muốn nói vở tuồng chúng ta cùng xem ở rạp.
– “Duyên tình mong manh.”
– Ðúng rồi. Không phải ở trên sân khấu mà ở ngay đời này, mọi thứ cũng đều mong manh.
– Ðâu phải cái gì cũng mong manh. Có những thứ rất chắc chắn.
– Thứ gì đâu?
– Những bắp cải của em rất chắc chắn.
– Chúng chỉ chắc chắn đối với ông.
– Ðối với em cũng có một thứ rất chắc chắn.
– Thứ gì?
Ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt cô bé, tôi nói chậm rãi:
– Tình cảm của tôi dành cho em.
Ðáng lẽ tôi phải đồng ý với cô bé là mọi thứ ở đời này đều mong manh. Ngày mai em đi, chẳng bao giờ chúng tôi có dịp gặp lại, tôi không nên để em còn những ràng buộc với nơi chốn này. Không ràng buộc, em sẽ sống dễ chịu hơn ở một nơi chốn khác. Vậy mà vì ích kỷ, tôi đã nói lên tiếng nói của lòng mình và làm cho cô bé khóc. Hơn những thứ khác, những giọt nước mắt rất mong manh, tôi biết vậy.
Nhưng chắc suốt đời tôi sẽ ân hận vì chỉ một phút yếu lòng, tôi đã giúp cho cô bé biết ở đời có một thứ không mong manh.
Bảy ngày ngà ngọc – Hoàng Lan Chi (Đinh Quỳnh Giao)
Saigon bắt đầu có những ngày mang hơi hướng mùa đông. Với một chút lạnh giá vào sáng mai hay khi hoàng hôn buông rủ. Những cô gái Saigon với áo len hồng, khăn voan trắng làm phố phường như mềm mại hơn, tha thướt hơn… Tháng chạp của Saigon không giống tháng chạp của bất cứ nơi nào…
Nàng đứng đợi ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Một bó hoa thạch thảo tím trên tay. Đó là dấu hiệu của nhau.
Em
Anh biết là em yêu hoa hồng nhất. Nên nếu đón em sẽ là những bông hồng BB mà em hằng yêu thích. Nhưng anh xin được nhìn thấy em – đón anh – với thạch thảo tím. Những bông hoa bé nhỏ và màu tím thủy chung. Là những gì em dành cho anh và ngược lại. Phải thế không?
Ừ, thì có gì đâu! Chút chiều nhau cho tháng chạp ngát huơng mùi thạch thảo!
Nàng nhìn lên màn hình TV. Chuyến bay… từ San Francisco sẽ đến sân bay Tân Sân Nhất vào 11 giờ khuya. Giờ Tý. Cũng là tuổi của nàng.
Tháng chạp ngày n+1
– A lô, anh dậy chưa?
– Anh đâu có ngủ mà dậy!
– Sao thế?
– Không biết. Tự nhiên không buồn ngủ. Anh ra lan can và ngắm Saigon về đêm. Lạ quá em à!
– Lạ gì cơ?
– Saigon như không ngủ. Đường phố xe cộ tấp nập cho đến khuya. Nghe những hàng quà rong rao, anh như sống lại thuở xưa. Mà bầu trời thì đỏ hồng. Không có đêm đen!
– Ừ, bây giờ dêm đen ít thấy. Nhưng nếu anh ở lâu, anh sẽ chán vì tiếng xe cộ ồn ào, tiếng rao hàng… Anh sẽ thèm những giây phút tĩnh lặng.
– Có thể. Nhưng hiện nay thì anh đang thú vị với những cái đó.
– Em đến đón anh đi ăn phở nhé!
– OK.
Nửa giờ sau.
Chàng mở cửa. Nàng khác hôm qua. Dường như khi đón chàng, vào khuya, nàng có vẻ huyền bí như đêm đen Ai Cập. Bởi đôi mắt sâu. Phụ nữ VN ít ai có mắt sâu. Nàng thì như thế. Cũng như đa số phụ nữ VN mắt đen nhưng nàng thì nâu. Ở nàng cái gì cũng có vẻ khang khác với đám đông.
Em muốn là em, không trộn lẫn
Giữa muôn hồng nghìn tía ở chung quanh
Ừ thì nàng là đóa quỳnh và không trộn lẫn với bất cứ đóa hoa nào dưới ánh nắng mặt trời…
Còn bây giờ? Nàng có vẻ mềm mại hơn với chiếc khăn voan tím choàng quanh cổ, với áo khoác trắng và chiếc jupe dài mầu xanh lá…
– Anh đoán là ngày xưa em…
Nàng cười lớn:
– Thôi cho I can you! Anh đoán là ngày xưa em đẹp lắm? Anh định nói thế chứ gì?
Chàng phật ý:
– Thì sao nào?
– Chẳng sao cả! nhưng em muốn nghe những gì khác cơ! Chẳng hạn, có lẽ ngày xưa em buồn lắm?!
– Ai lại nói thế bao giờ!
– Thì có thế mới lạ!
– Thôi không cãi nữa. Mình đi ăn phở 2000 nhé!
– Phở gì có 2000?
Nàng cười:
– Anh tôi ơi, phở 2000 là một tiệm phở của một Việt kiều Mỹ. Mở năm 2000. Nhưng giá thì đắt. Đến 14 hay 16.000 đồng cơ. Tuy vậy thịt khá mềm và ngon. Nước thì tàm tạm. Nhưng tiêu chuẩn vệ sinh thì chàng Việt kiều tự hào. Hồi đó khi khai trương vào năm 2000, anh ta đã tuyên bố “Mong rằng có ngày tổng thống Mỹ ghé VN, anh ta sẽ giới thiệu phở 2000.” Báo chí và không ít người đã cười anh ta… điên. Vì làm sao tổng thống Mỹ thăm VN được? Thế nhưng…
– Thế nhưng năm 2001, Bill Clinton đã sang VN và…
– Đúng thế. Cả bầu đoàn thê tử chàng Bill đã ăn phở 2000 này.
– Em làm anh có chút tò mò!
– Em thích vậy. Tò mò sẽ làm phong phú cuộc sống hơn, anh đồng ý không?
– Anh lúc nào cũng đồng ý với em!
– Xạo ke!
Chàng phá ra cười. Chàng đã cố tình trêu để nghe nàng nói những từ mà đã lâu lắm chàng thèm biết mấy. Ơi, cô gái Bắc kỳ dễ thương của tôi ơi, chúng tôi những chàng trai đất Việt dù xa quê bao năm vẫn nhớ mãi tóc thề, guốc mộc, áo lụa Hà Đông và răng khểnh ai đó chúm chím “gì cơ!”
Phở 2000 nằm ngay trung tâm Saigon, trên đường Lê Lợi rất gần chợ. Chàng kêu phở chín nạm. Nàng cũng vậy. Muốn có hương vị phở thì nên ăn nạm chứ tái thì chẳng có mùi phở.
– Em ăn ít thế? Nhỏ nhẻ như con mèo!
– Thế mà không xuống ký đấy. Than ôi, thời… năm chục ký nay còn đâu!!
– Em quả là có óc khôi hài! Thế em muốn xuống mấy ký?
Nàng duyên dáng đưa ba ngón tay:
– Ba! Chỉ xin ba mà sao khó thế! Em mà 52 ký thì chuẩn hơn!
– A ha! Chuẩn hơn! Em tôi ơi, em dùng từ VC hơi bị nhiều đấy!!
Nàng phì cười.
– Bây giờ đi một vòng quanh Saigon nhé!
– Anh muốn đi bằng gì?
– Xích lô! Được không?
– Hai chiếc nhé?
– Không, một thôi. Em chỉ hơi thừa cân và anh thì hơi thiếu cân. Anh muốn mình ngồi chung. Để anh ngồi trước nhé!
Nàng mủm mỉm. Ừ thì chiều nhau một tí. Có gì đâu! Có nghĩa gì đâu một chút chiều! Tình như sương khói quá hoang liêu! Bên nhau một thoáng đời hư ảo. Biền biệt một mai, nhớ nỗi chiều!
Chàng lên trước. Nàng vén jupe lên sau. Nàng biết âm mưu của chàng chứ!
Em
Có những đêm trời buốt giá. Tiếng mèo kêu làm anh thức giấc. Anh bỗng thèm có em bên cạnh. Có thể là gác đầu lên tay anh. Có thể là ngồi trong lòng anh. Vì em vẫn nói là em thèm được che chở! Anh muốn bù đắp cho em. Em xứng đáng được hưởng những hạnh phúc nhỏ nhoi ấy. Anh thề là anh sẽ rất vô tư và trong sáng vô cùng khi em ở trong lòng anh như vậy!
Chàng đã giữ lời thề. Nàng ngồi nép một bên nhưng vẫn rất gần chàng. Chàng nghe phảng phất mùi phấn em bé.
– Này em!
– Gì cơ?
– Đa số phụ nữ thích nước hoa. Họ coi đó là một công cụ để dụ dàn ông. Vì sao em thích phấn trẻ con?
Nàng nghiêng đầu cười.
– Anh đã nghe mùi phấn trẻ con mà không biết vì sao ư?
– Thì em không dụ dàn ông bao giờ! Chỉ đàn ông dụ em thôi! Vả lại, em đã nói rồi, ngày xưa có người đã nói em là típ femme enfant! Nên em thích mùi phấn rôm trẻ con. Em muốn là em bé!
Chàng vòng tay qua vai nàng:
– Thế cho anh “thơm” em bé một cái được không?
– Bậy nào!
Đường phố Saigon thật náo nhiệt. Xe cộ như mắc cửi. Chàng hoa cả mắt. Sao mọi người chạy xe hay thế nhỉ? Chẳng có luật lệ gì cả! cứ len lỏi, luồn lách mà đi!
– Anh biết không, mấy năm trước họ định xây mới chợ Saigon, nhưng may quá báo chí và dân chúng lên tiếng đả kích. Chợ Saigon đã từng được coi như một biểu tượng của Saigon. Xây chợ khác đi sẽ làm đau lòng những người ở lại và cả những người đã ra đi! Khi về lại, biết tìm đâu hình bóng cũ? Nhờ thế Saigon đã tồn tại như anh thấy, không khác gì so với thuở anh đi, đúng không?
– Ừ!
– Thế nhưng chợ hoa Nguyễn Huệ đã không còn anh ạ!
– Sao?
– Họ đã dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ. Dân chúng Saigon cũng phản đối vì chợ hoa Nguyễn Huệ là một nét văn hóa độc đáo của Saigon, nhưng cuối cùng dân chúng thua. Chợ hoa đưa về bờ sông. Năm đầu tiên ế thê thảm. Bây giờ chợ hoa được đưa vào công viên ở Hai Bà Trưng, nơi nghĩa địa cũ, anh nhớ không?
– Nhớ! Nhưng như vậy thì chán quá! Anh thích chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ. Ngày xưa, bọn anh hay đi dạo vào dịp Tết để ngắm hoa không biết nói và cả hoa biết nói. Ngắm đã đời xong là rủ nhau vào Nhà thờ Đức Bà. Vui lắm. Thế Nhà thờ Đức bà có bị đổi mới không?
– Không. Vẫn như cũ. Nhưng chung quanh, nhiều cao ốc đã mọc lên và Nhà Thờ đã bị nuốt chửng! Họ không biết một cảnh quan hài hòa là như thế nào! Họ chỉ biết cho phép xây dựng vì một công trình xây dựng là làm giàu cho một số người! Người Saigon cũ rất buồn nhưng biết làm sao!
Không khí bỗng chùng xuống. Chàng nắm tay nàng bóp nhẹ. Em ơi, sao trời xanh luôn quen thói má hồng đánh ghen!
Chàng đánh tan không khí buồn:
– Chợ Saigon hình dáng như cũ nhưng cao ốc chung quanh nhiều quá!
– Ừ thì đã nói, cứ mỗi một công trình được xây dựng là nhiều kẻ vơ thêm tiền, nên họ đâu cần đến cảnh quan của đất nước. Ôi, thà làm đầy tớ người khôn còn hơn làm chủ đứa ngu…
Chàng bẹo má nàng:
– Thế mà em tôi, một tư tưởng lớn đang làm đầy tớ kẻ ngu!
– Anh…! Chọc em goài!
Goài! Cô bắc kỳ lai mất rồi. Nhưng chàng thấy vui vui. Như áo lụa Hà Đông năm xưa chỉ thổi hồn thơ dưới nắng Saigon!
Xích lô vòng qua Nhà thờ Đức Bà. Vẫn như thế. Con đường Thống Nhất vẫn thênh thang so với những con đường khác trong thành phố. Thênh thang. Chàng mỉm cười. Ừ thì ngày xưa là thênh thang. Bây giờ hơn hai mươi năm sống ở xứ người với những con đường mênh mông, chàng bỗng thấy Thống Nhất nhỏ bé vô cùng. Bên hông Nhà thờ, một đám đông đang bu quanh các cô gái trẻ nhảy nhót.
Chàng:
– Gì vậy em?
– À, một nhóm nhạc trẻ thu hình ngoại cảnh.
– Các cô bé VN bây giờ ăn mặc mát mẻ nhỉ!
– Thì thời trang yếm đang thịnh hành. Yếm và hở rốn!
– Quả là thay đổi! Anh nhớ năm 75, mọi người đua nhau ăn mặc chân quê!
Nàng cười lớn:
– Thì nói làm gì! Anh biết không sau 75, em bỏ hết áo dài. Mặc quần đen áo thường. Khi em mặc áo bà ba, các chị ở phòng học vụ trố mắt nhìn!
– Vì sao? Anh thấy em mặc áo tứ thân cũng đẹp lắm mà!
– Nhưng xưa nay mọi người quen nhìn em diện mode! Nên bây giờ bỗng thấy em thùy mị nết na với quần đen áo bà ba, ai cũng thấy ngộ!
Chàng dụ khị:
– Hôm nào em mặc áo bà ba, quấn khăn rằn đứng dưới bóng dừa chụp một tấm đi!
– Ha ha, để xem em có giống cô gái xung phong đi tải đạn không chứ gì? No! Em sẽ mặc áo bà ba nhưng không có khăn rằn nhé!
– Thế có gì?
– Nón lá! Em sẽ đứng bên bờ sông có tàu lá chuối và nón lá nghiêng nghiêng!
– Chỉ tưởng tượng thôi anh đã muốn làm thơ rồi! Nhưng cái mặt em mặc áo bà ba anh nghi chẳng giống ai?
– Lại chọc em goài!
– Thật mà! vì em mắt nâu. Mắt Á Đông đen mà!
– Chê mắt nâu há?
– Mắt nâu không chung tình!
– Có thể lắm. Với em, tình có đâu mà chung! À mà có!
Nàng quay sang nhìn chàng. Đôi mắt nâu nghịch ngợm. Chàng muốn cắn một cái! Khi nhìn nàng trên màn hình computer, lúc nào chàng cũng có ý nghĩ muốn cắn một cái!
– Tình nào? Anh nhé?
– No. Đừng tưởng bở! Anh hư lắm!
– Anh hư lâu rồi. Hư kể từ khi biết em! Nhưng thôi nói anh nghe đi, tình nào?
Nàng mủm mỉm:
Em chỉ có một tình yêu thứ nhất
Em trao cô cùng với những bông hoa
Cô không lấy và tình em bay mất
Tình em cho, không có lại bao giờ?
(Nhái thơ NB)
– Em cứ lãng mạn mãi thế!
– Lãng mạn là một hình thức trang điểm cho tâm hồn!
– Đồng ý. Nhưng giả dụ em cho anh một tình yêu thứ cuối, anh vồ ngay không từ chối bao giờ! thì… lãng mạn hơn là tình yêu thứ nhất em dành cho cô giáo!
– Anh cù nhây lắm.
– Anh cù nhây từ khi biết em!
– Nghỉ chơi anh ra!
– Haha!
Chàng cười sảng khoái. Nhớ một thuở xa xưa, những cô bé Trưng Vương cũng chu mỏ “nghỉ chơi anh ra!”
– Thực ra, anh biết không, hôm kia là sinh nhật ngày ta của em. Cô nhớ. Cô đã gửi cho em những bông hồng BB và vài vần thơ… Cô bảo năm ngoái về Saigon, khi nghe em phone, cô đã nói “Ngày xưa em làm tôi khổ quá!” Rồi cô viết “Được yêu mà khổ! Ừ, thì được yêu đâu chưa chắc là hạnh phúc!”
– Không, giả dụ bây giờ em yêu anh thì anh không khổ!
– Anh lại “cù là” nữa rồi! Thì phụ nữ giàu tình thương. Khi họ thấy ai đó yêu họ mà họ không đáp được thì họ khổ! Cô khổ vì học trò yêu cô. Nhưng bây giờ thì…
– Thì sao?
– Cô sung sướng được gặp lại em. Cô và em đều đã qua bao nỗi gập ghềnh, đã Tri thiên mệnh, đã Lục thập nhi nhĩ thuận. Nhưng trên hết, thầy trò chung một niềm riêng: cổ vũ cho sự gìn giữ văn hóa dân tộc và thích làm việc thiện.
Chàng thở dài:
– Em cứ như con sò muốn ôm cả sóng đại duơng vào lòng. Em hãy đơn giản tí đi cho anh nhờ!
Nàng phật ý:
– Bộ em rắc rối lắm sao?
– Còn hơn thế. Cứ như tắc kè! Này em, anh chỉ thích tiếng em cười. Khi em cười, thấy em rất hồn nhiên và trẻ thơ. Anh khoái cái đó. Anh không thích cái lãng mạn tình yêu thứ nhất của em, anh cũng chẳng thích cái ôm đồm gìn vàng giữ ngọc của em. Vì sao em biết không? Vì nó làm em già lắm, vì nó làm em khắc khoải, vì nó làm em đau khổ. Mà anh, anh chỉ muốn em được hạnh phúc!
– Cám ơn!
À, nàng giận. Được thôi. Thì chàng và nàng cũng đã từng cãi lộn xuyên đại dương bao lần! Bây giờ ngắm nàng giận ngay trước mắt, chàng thấy vui vui.
Em
Trời sinh phụ nữ để được nuông chiều và sống hạnh phúc. Nhất là những phụ nữ hiền lương như em. Anh vẫn nghĩ, giá như ngày đó anh biết em, anh sẽ tìm cho em một ông chồng đúng như em mơ ước! Một con người khoa học nhưng tâm hồn văn chương. Một người rất thực tế nhưng cũng rất lãng mạn. Nhưng để được thế, em cũng đừng ôm đá cho nặng bụng. Xã hội, thế sự, em hãy gác ngoài tai. Lịch sử sẽ được viết như giòng chảy định sẵn. Lịch sử không vì em mà xấu hay đẹp hơn!
– A, xổ số kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta vẻ vang quá trời!
Chàng reo lên khi xích lô đi ngang công ty xổ số cũng trên đường Thống Nhất. Nàng phì cười. Đặt tên người và sửa lời hát thì nàng thuộc loại… nữ hoàng!
– Này em, ngày xưa em có vào đây bao giờ không?
– Có chứ. Năm tú tài thì phải, em vô cho biết thế nào là quay lồng cầu. Hôm đó em được xem nàng Thanh Tuyền. Nàng mới từ Đà Lạt hạ san nên eo ơi mập quá xá quà xa! Em thích Hoàng Oanh chứ không thích Thanh Tuyền.
Chàng bĩu môi:
– Thì ai chả biết em ủng hộ gà nhà?
– Nói bậy nhe! Gà nhà mà dở thì cũng không ủng hộ nhe! Hoàng Oanh hát khá hay mà ngâm thơ hay. Lại đứng đắn nữa!
Chàng năn nỉ:
– Cho anh xin đi! Em sắp sửa ca con gái Gia Long ngoan nhất nước phải không?
Nàng giận dỗi:
– Thì đúng là như thế! Coi bộ anh kê tủ đứng em hơi nhiều đó!
– Tại vì anh muốn biết khả năng cãi của em ở mức nào!
Nàng im lặng. Ai đó nói nàng rất thông minh nhưng cũng rất dại khờ. Nhưng nàng chẳng dại gì đối đầu với dân Chu Văn An! Họ thông minh, lém lỉnh, bẻm mép. “Ngoan nhất nước” làm sao địch nổi! Họa may có mấy cô gái Bắc kỳ Trưng Vương! Bắc kỳ lai như nàng thì chịu thua trước cho xong chuyện!
– Này em, Sở Thú cũng không thay đổi!
– Ừ, thì bề ngoài vẫn như cũ! Họ không thay đổi cổng làm gì! Nhưng cấu trúc bên trong thì có! Tùm lum chuồng trại và khu vui chơi…
Xích lô đang bon bon và chàng nhìn trực diện Sở Thú. Tên hoa mỹ là Thảo Cầm Viên nhưng dân Saigon có mấy ai gọi như vậy bao giờ!
– Anh muốn quẹo trái hay phải?
Chàng cười lớn:
– Này cô bé Gia Long khờ khạo! cô tưởng qua mặt tôi được sao! Tôi đã từng trồng cây si trước cổng trường Trưng Vương mười chín năm nhé! Xin mời nàng ra lịnh quẹo phải dùm tôi!!
Nàng cười khi biết không bịp được chàng:
– Ăn nói ngoa ngoét. Mười chín năm! Chắc mười chín tháng!
Xích lô quẹo phải. Con đường Nguyễn Bình Khiêm vẫn như xưa. Hẹp và nhiều bóng cây cao. Tiếng vượn hú văng vẳng. Chàng im lặng. Thả hồn về dĩ vãng. Nơi đây ngày xưa, có một cô bé tóc thề… Con gái Bắc hay để tóc thề. Chàng thích tóc thề…
– Anh nghĩ gì thế?
– Hồi học Gia Long, em có để tóc thề không?
– Nếu bỏ xõa là thề, nhưng cột lên thì là đuôi gà!
– Thế em thề hay gà?
– Gà!
– Có lẽ vì thế em không gặp được anh!
– Nói như bố con chó xồm!
Chàng phá ra cười:
– Này em! ngày xưa mẹ anh cũng hay mắng tụi anh vậy lắm. Bố con chó xồm! Em mà dùng từ ấy thì em sẽ là bà già Bắc kỳ khăn đen mỏ quạ đấy nhé!
– Thì có sao!
– Thì chán chết chứ sao? Xem em kìa, tóc thì tém, da thì trắng, mặt vênh vênh lên mà làm bà già mỏ quạ chẳng hay tí nào!
Nàng im lặng. Ta không chấp với nhà ngươi! Xe đi ngang trường Trưng Vương. Chàng nhảy xuống chụp hình.
– Bây giờ anh muốn đi đâu?
– Còn đâu nữa? Trường xưa lớp cũ em ơi!
– Vậy thì xích lô sẽ đạp lâu lắm.
– Kệ! Anh sẽ được ngồi bên em suốt sáng nay!
Xe đi thẳng và vòng cua theo bờ sông. Con đường êm ả và có chút gì đó thanh bình. Ngang bùng binh, chàng thoáng ngậm ngùi. Ngày đó, dân Saigon đã đùa “Đức Thánh Trần chỉ tay ra hướng sông là ý bảo hãy vượt biên đi!”
Rồi cũng đến trường xưa của chàng. Nơi đây ngày xưa đã sản sinh ra bao nhân tài cho đất nước. Ngày nay đã bị xếp vào thứ yếu. Nhưng có sao đâu! Danh tiếng con trai Chu Văn An vẫn còn đó! Có một cô Gia Long luôn viết bài về con trai Chu Văn An kia mà!
Tháng chạp ngày n+2
– A lô, tối qua anh ngủ được rồi chứ?
– Anh ngủ từ 9 giờ. Nhưng nửa đêm thức giấc. Anh đi bộ ra Ngã Sáu và làm tô cháo trắng hột vịt muối. Ngày xưa đi chơi khuya về, bọn anh hay ghé ăn quà như vậy lắm… Bây giờ ăn cháo đêm khuya, anh nhớ ngày xưa quá. Mới đó mà đã mấy chục năm…
– Rồi anh về lại khách sạn ngủ tiếp hả?
– Ừ.
– Anh chuẩn bị nhé! Nửa giờ sau em có mặt đó.
– Tuân lệnh cô em!
Nửa giờ sau. Khách sạn gọi phone báo. Chàng xuống. Nàng ngồi trên xe Dream mầu nho chín ở lề đường. Quần jean xanh, áo thun đỏ, kính đen, mũ cao bồi. Trông nàng thật trẻ trung, khoẻ khoắn trong trang phục ấy. Chàng trèo lên ngồi phía sau.
– Hôm nay anh được đi xe ôm nhé!
– Ok. Mà tài xế lại là một cô…
– Bà chứ không phải cô!
– Bà với ai chứ với anh là cô! Mà có cho anh ôm eo không?
– Không, anh vịn vô thanh sắt ấy!
– Eo ơi, thò ra sau vịn! khó lắm! cho anh ôm em tí mà! Anh té xuống đường chết bỏ em lại một mình sao?
– Trước anh, em một mình. Sau anh, em cũng một mình. Đừng lộn xộn!
Chàng thở dài. Ngồi sau lưng nàng mà không được ôm eo nàng thì… tức quá đi.
Nàng chạy rất chậm. Chỉ 20km/giờ. Chàng ngoan ngoãn thò tay ra sau vịn vào thanh sắt. Buổi sáng trời Saigon hơi lạnh nhưng với chàng thì mát.
– Này em!
– Gì cơ?
– Ngày xưa em có hay ngồi cho anh nào đó chở không?
– Thì cũng có. Thỉnh thoảng.
– Em có ôm không?
– Không bao vờ!
– Ngoan nhỉ!
– Thì đã nói ngoan nhất nước mà lỵ!
Chiếc xe thắng gấp vì một cặp trai gái quẹo cua gắt ngay đầu xe nàng. Chàng chúi vào nàng và vội vàng ôm ngay eo nàng:
– Giời ơi!
Nàng ngoái lại phía sau cười:
– Ơi! Giời bảo anh bỏ tay ra!
– Ối anh sợ lắm! Nếu anh không nhanh tay ôm em thì anh lọt xuống đường rồi!
Nàng ngẫm nghĩ. Ừ, chàng đâu có quen ngồi xe ôm! Lại lóng ngóng. Thôi cho chàng ôm một tí!
– Sao con gái Saigon bây giờ kỳ ghê em!
– Kỳ sao?
– Mặc áo dài mà ngồi chàng hảng hai bên! Kỳ vậy?
– Ừ, chướng vậy đó! Em cũng ghét hình ảnh đó lắm! Khi mặc áo dài hay đầm, em ngồi một bên. Chỉ khi mặc tây, em mới ngồi hai bên. Bọn nữ sinh bây giờ kỳ cục lắm! Đi học mà nện giầy cao gót lộp cộp thật chướng. Em mà là giáo viên chủ nhiệm chúng, em phạt con bé nào dám đi giày cao!
– Em khó như bà già trầu!
– Hiển nhiên rồi!
– Thế con gái em đi học ra sao?
– Nó phải mang sandal như mẹ nó ngày xưa!
– Em có vẻ phát xít gớm!
– Hiển nhiên. Con gái em cũng chỉ ba bộ như mẹ ngày xưa, cũng không nữ trang gì cả, cũng tóc thề. Em chúa ghét còn đi học mà nhuộm tóc chứ, đeo nữ trang tùm lum chứ, đi giày cao chứ… Tưởng tượng lớp học đang im lặng, thầy kêu và nữ sinh lên bảng nên gót giày lộp cộp! Coi sao được! Chưa kể đi giày có vẻ như ăn chơi, không có vẻ học trò gì cả! Mà khốn thay bây giờ nữ sinh đi giày cao nhiều lắm anh ơi!!
– Hoan hô em, một tiêu biểu cho nền văn hóa cổ truyền Việt Nam!
Nàng quay lại cấu một cái rõ đau vào tay chàng. Chàng chỉ xuýt xoa.
Phở gà Hiền Vương vẫn như xưa. Chàng thích thú nhấm lá chanh xắt nhỏ. Lá chanh VN vẫn có mùi vị khác lá chanh Mỹ.
Nàng quẹo qua Hai Bà Trưng.
– Chợ Tân Định cũng vậy em nhỉ!
– Nhờ rút kinh nghiệm các chợ đi trước đấy! Các chợ kia xây xong thì… ế rề. Nên khi nhà nước kêu tiểu thuơng đóng góp thì họ cương quyết không chịu. Họ chỉ cho làm nền gạch hoa thôi.
– Anh thích chuối Tân Định lắm. Loại chuồi già chính trứng cuốc ấy! Còn ngon như xưa không em?
– Vẫn.
– Ô, nhà thờ Tân Định vẫn xinh em nhỉ!
Nàng mỉm cười. Tâm lý người đi xa về, cứ thấy cái gì còn như cũ là reo như trẻ nhỏ!
Chàng ôm eo nàng nhưng cũng có ý, chỉ ôm hờ không dám chặt. Cho mười điểm! nàng thầm nghĩ thế. Ngày xưa nhìn tướng nàng, nhiều người đã lầm tưởng nàng thuộc típ ăn chơi, bay bướm… Nhưng không, trái lại. Do đó nàng không biết nhẩy, không biết đánh bài… Nàng tập hút thuốc, uống rượu cũng chỉ muốn cho dàn ông biết tay (!) chứ bản thân nàng chỉ ghiền cà phê sữa đá! Nàng không thích khiêu vũ vì không thích dàn ông đụng vô người mình. Nàng chỉ thích nói chuyện văn thơ! Thuở sinh viên, một người bạn trai đã gọi nàng là lãng mạn con nhà giáo. Nàng cười khẽ khi nhớ lại chuyện xưa…
– Em cười gì thế?
– Lãng mạn con nhà giáo! Ngày xưa bạn trai nói em thế. Anh hiểu không?
– Anh cũng có cảm tưởng vậy. Em lãng mạn nhưng bên ngoài thì khe khắt như bà già trầu thứ thiệt! Kể ra anh nào đặt cho em là lãng mạn con nhà giáo nghe cũng hay đấy!
– …
– Em này, sao lại có công viên nào lạ thế?
– Đất thánh tây cũ. Họ sửa thành công viên lâu rồi.
– Eo ơi, thế thì nhiều ma lắm! Ban đếm mấy cô cậu vào đây tình tự, tha hồ cho ma… bóp cổ!
– Anh này!
– Ừ nhỉ, anh quên là em sợ ma!
Xe quẹo vào đường PhanThanh Giản, bon bon ra ngã tư Hàng Xanh.
– Đường gì bé quá! Xe cộ phát khiếp! Em định đi đâu?
– Đến Bình Qưới. Anh sẽ thích.
Bình Qưới nằm gần cuối đường. Chàng thích thật. Một con thuyền hoa. Một xe ngựa. Ôi xe thổ mộ! Nhớ ngày xưa còn bé, chàng vẫn cùng bạn bè nhảy xe thổ mộ đi học. Tiếng vó ngựa lốp cốp trên đường nghe thật vui tai.
Saigon ơi, thuở ấy mới thanh bình làm sao! Những con đường êm ả với lá me bay. Những người dân Nam bộ hiền hòa chất phác. Những bà mẹ Bắc hay Huế vẫn đi chợ với áo dài tha thướt… Những bà mẹ quê sáng ngời hạnh phúc với lúa trĩu cánh đồng. Nhưng rồi chiến tranh. Đã tàn phá…
Chàng và nàng chọn một góc nhỏ. Phía trước là thảm cỏ xanh. Xa hơn chút là khu tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Cây đa bóng rũ. Một bức tượng bán thân. Một bình hoa. Giản dị đến vô cùng. Một hàng mẹt tre với những hòn sỏi nhỏ.
Ngày sau sỏi đá cũng còn có nhau
– Em thích nhạc Trịnh không?
– Có bài thích, bài không.
– Bài nào không?
– Bài nào được xếp là phản chiến.
Chàng năn nỉ:
– Anh đã nói rồi. Trời sinh ra đàn bà dễ thương để được hạnh phúc, không phải để lo chính sự!
– Em không hề lo chính sự! Nhưng em yêu quê hương! Và vì thế em không thích khi những người lính đang chiến đấu thì lại có người…
Chàng im lặng. Gió từ bờ sông thổi lên mát rượi. Tiếng sáo nhạc vi vu. Xa xa, vài cặp cô dâu chú rể đang chụp hình.
– Em nghĩ gì khi thấy đám cưới?
– Kỳ lạ! cứ mỗi khi nhìn thấy một đám cưới, em lại có một ý nghĩ hết sức bậy bạ!
–???
– Em nghĩ là: rồi lại có hai kẻ điên! Cô dâu chú rể mà đọc được tư tưởng em, chắc họ… uýnh em quá!
– Em như con chim, bị tên một lần và khi nhìn cành cây cong đã ngỡ là cung. Cuối năm chắc là mùa cưới?
– Vâng. Đến cuối năm, nhiều người mệt mỏi vì đóng tiền cưới phí, vì phải đi ăn mà thực đơn đám cưới thì na ná… Em may mắn không bị vì hầu như họ hàng, gia đình không còn ai ở đây. Vài bạn em còn ở đây thì con đang đi học như con em.
– Thế thì Tết đến, em buồn lắm nhỉ!
– Vâng. Tết là ngày đoàn tụ. Với em không có gì cả. Canh Cô Mậu Quả. Chấp nhận thôi!
Chàng rón rén cầm tay nàng. Bàn tay đã gân guốc với những tháng năm đói nghèo, đã nhăn nheo với thời gian. Nàng đã không may mắn và chịu bao điều cơ cực trong cả một khoảng thời gian dài…
Em
Xưa Thúy Kiều so bề tài sắc lại là phần hơn nhưng Ngu si hưởng thái bình nên Thúy Vân đã hưởng tất cả và Kiều thì truân chuyên. Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao… Kiều đã nhảy sông Từ Đường nhưng con đường đoạn trường chưa đi hết nên đã được cứu để đi cho trọn…
Có một lần em viết rằng, với em bây giờ là Tri thiên mệnh nên em không còn oán trời giận đất hờn người… Nhìn sự cam chịu của em, anh xót xa biết bao…
Anh, lúc nào anh cũng nghĩ rằng em hiền lương vô cùng kể, và em xứng đáng được hưởng những gì mà lẽ ra em phải có.
Tháng chạp ngày n+3
– Alô, tối qua vui không anh?
– Vui. Gặp lại đám bạn cũ Chu Văn An thích lắm em à! Tụi anh nhìn nhau cười quá xá vì đứa nào cũng bảo nhau “sao trông mày già thế?”
– Các anh đã làm những gì?
– Đi ăn buffet ở Bình Qưới!
– Anh lại đến Bình Qưới?
– Ừ thì anh đâu biết gì! Về đây, chỉ nhắm mắt theo em và bạn bè… Bình Qưới ban đêm thích hơn nữa em ạ. Họ thả hoa đăng trên giòng sông. Anh thích những hình ảnh cô bán hàng với áo bà ba, chõng tre có nước vối, chè xanh, bắp nướng. Đố em biết anh gặm bao nhiêu bắp nướng?
– Sức anh chỉ một thôi!
– Lầm to nhá. Anh gậm ba trái đấy. Anh cũng thích cháo lươn và bánh xèo
– Thế anh có ăn nai đồng quê không?
– Ban đầu không dám. Lũ bạn nài nỉ. Anh ăn thử. Thấy cũng ngon ngon. Này em!
– Gì cơ?
– Em đáng đánh đòn!
– Vì sao?
– Tại sao ban sáng em không dắt anh đi cầu khỉ, không đu dây với anh?
– …
– Buổi tối anh và lũ bạn như trẻ con. kéo cả đám đi qua cầu tre. Không lắc lẻo gì cả. Rồi tụi anh cũng đánh đu. Ôi, được làm trẻ nhỏ thú vị ghê. Mà em ơi!
– Ơi!
– Hoa súng đẹp quá em ạ! Ban dêm những bông súng trong ao và cả trong chậu nở đẹp quá! Anh ước ao phải chi có em, nhất định anh sẽ phải chụp em với hoa súng!
– Em cũng thích hoa súng!
Dọc đường đất quanh co. Hai bên đầm ngòi dài. Cuối thu…
Ai bảo sen là hoa quân tử. Còn ta, ta bảo súng là hoa tiên tử…
(TTM)
Em
Anh cũng yêu hoa súng như em. Ai thích hoa sen chứ anh thích hoa súng hơn. Mầu hoa trắng pha chút vàng chanh và có gì đó giông giống hoa quỳnh. Nhà văn đã ví hoa súng là hoa tiên tử. Anh cũng muốn ví như vậy. Và em, hoa súng của anh, em là một đóa hoa tiên tử.
– Chuơng trình hôm nay là gì hở em?
– Về miền Trung!
– Ok, về miền Trung miền thùy dương với ngàn đồi thông, thuyền ngược xuôi suốt một giòng sông dài…
– Hôm qua anh có đi hát karaoke không mà sao còn dài hơi đến hôm nay?
– Có chứ! Sau khi ăn buffet ở Bình Qưới, bọn anh về Saigon leo lên tầng lầu 33 ở gần Sở Thú đó. Eo ơi, họ bán kem đắt kinh khủng! Đến 5 US một ly!
– Mua chỗ ngồi mà! Chỉ có đó là cao nhất Saigon!
– Ngắm Saigon từ trên cao cũng rất thú vị em ạ. Sau đó kéo nhau đi hát karaoke.
– Anh hát bài gì?
– Em PY!
– Cái gì? Em PY là cái gì?
– Hì hì! em tôi thông minh nhưng hơi chậm hiểu. Em tôi là PY!
– PY là ai?
– Là em!
– Là em?
– Thì là em!
– Dóc. Nghỉ chơi anh ra. Lại trêu em rồi!
– Không hề nhé! PY là Phượng Yêu! Em hiểu chưa nào?
Em
Tên em mang đến hai loài hoa mà anh đều yêu quý. Một loài hoa gắn với tuổi học trò của tất cả những ai được cặp sách đến trường. Và một loài hoa chỉ nở vào đêm.
Cành phượng vĩ là tuổi em mười sáu? Một nhà thơ đã viết như thế. Đóa hoa quỳnh là duyên số em mang? Hoa phượng vĩ chỉ mùa hè khoe sắc. Quỳnh hoa ơi, đến sáng đã tàn rồi…
Em, Phượng Quỳnh, tôi vừa tìm được
Một buổi chiều trên net lang thang
Văn em như gió thổi bạt ngàn
Làm mê hoặc hồn tôi không lối thoát
– Thế ra anh hát bài Phượng yêu?
– Ừ.
– Anh hát giống gì?
– Ống bơ rỉ!
– Có lẽ!
Chàng và nàng đến Ban Mê vào quá trưa. Thành phố khá yên tĩnh và đẹp. Ngày xưa gọi là Ban Mê Thuột nhưng bây giờ thì đổi lại là Buôn Ma Thuột. Nhưng lời bài hát vẫn là ly cà phê Ban Mê chứ phải Buôn Ma!
– Chắc em thích Ban Mê Thuột?
– Vì sao?
– Vì em thích cà phê!
– Lý luận nghe cù là quá!
– Em có những ngôn ngữ không giống ai! Cù là!
Nàng mỉm cười. Đó là những cái rất riêng của nàng. Đó là những cái làm nên Phượng Quỳnh. Và ai đã tiếp xúc, dù chỉ một lần cũng khó quên…
Ban Mê lạnh hơn Saigon. Chàng và nàng vào quán cà phê Thương Thương nằm trong khuôn viên dinh Bảo Đại cũ. Bầu trời cao trong xanh. Ly cà phê hơi đậm. Nàng khẽ nhăn mặt.
Chàng mỉm cười:
– Anh vẫn còn nhớ cô bé Hòa Bình chỉ thích cà phê ngọt? Hòa Bình thì phải dịu ngọt chứ không đắng cay! Phải không em?
Chàng kêu quán đem đến ly sữa đặc và nước sôi. Tự tay chế thêm, rất chậm rãi, chút sữa vào tách của nàng. Rồi chút nước sôi. Nếm thử. Chàng làm với tất cả sự tỷ mỉ, say sưa như một họa sĩ đang chăm chút tác phẩm của mình.
Xin anh đừng làm em xao xuyến
Đã lâu rồi em khép chặt lối vào
Hoàng hôn cuộc đời đang buông rủ
Hãy để sóng bình yên cho đến hết đoạn đời
Chàng đưa tách cà phê:
– Anh nghĩ là em sẽ hài lòng. Nhìn mặt và pha cà phe đúng gu thì có lẽ chỉ có người ấy! Còn anh, anh chỉ biết pha theo cảm nhận của anh về em…
Nàng cầm tách cà phê. Một ngụm. Chàng nheo mắt nhìn nàng. Đôi mắt nâu còn phảng phất một thời xưa cũ. Cái răng khểnh rất hiếm khi nhìn thấy. Chỉ hơi khểnh. Và như thế, chỉ những ai làm nàng cười, cười nhiều, mới nhìn được cái răng khểnh ấy. Nàng ngước mắt nhìn chàng. Chàng hỏi –cũng bằng ánh mắt.
Chúa ơi! Đã bao lâu rồi mới có người nói chuyện với tôi bằng mắt? Nhớ thuở sinh viên, trong giảng đường nho nhỏ, em ngồi cuối lớp nheo mắt trêu ai. Ai đã luống cuống khi nhìn thấy em đang chống cằm khiêu khích? Ai đã mím môi và dọa em bằng ánh mắt tình nhân? Em thích thú với trò chơi thơ trẻ. Thầy luống cuống, bài bỗng dưng tùng phèo tất cả. Đám sinh viên ngơ ngẩn không hiểu vì sao. Chỉ mình em và Ai, cũng là Thầy biết vì sao Thầy bối rối… Ôi những ánh mắt ngày xưa!
Nàng chớp nhẹ mắt. Chàng reo:
– Thế là anh có thể mở tiệm bán cà phê được rồi nhé! Chỉ nhìn mặt và pha cà phê đúng gu! Hay thật!
Ừ. Thế là đủ. Chàng đã pha đúng ý nàng.
Buổi tối chàng và nàng đến quán thịt rừng. Quả là ngon, nhất là nai. Nhím nhiều xuơng, ít thịt, không ngon.
– Đi uống cà phê với em thì thú vị. Còn nhậu thịt rừng thì không!
– Tại sao?
– Em đâu biết uống bia! Ai đời uống Seven Up với chút bia! Chẳng thể cụng ly hay chén tạc chén thù với em!
– Thôi nhé, đừng tham lam. Đàn ông chúa tham lam! Bản thân mình không hoàn hảo mà đòi bạn phải vừa bợm nhậu vừa lãng mạn cà phê.
Buổi tối, trung tâm thành phố khá tấp nập. Chàng và nàng đi loanh quanh. Ban Mê chứ không phải Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên má em ướt. Nên em mềm như mây chiều trôi. Phố núi cao, phố núi trời gần. Phố xá không xa, nên phố tình thân. Đi dăm phút đã về chốn cũ. Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng… nhưng cũng đi dăm phút lại về chốn cũ…
Em
Anh không phải là một quá khứ của em. Phải chi anh được như thế. Thì bây giờ… bao năm tháng lại về bến cũ… có lẽ sẽ thơ mộng hơn chăng? Hay như em đã một lần viết, thời gian đã xóa mờ và cuốn trôi tất cả. Có những quá khứ, khi gặp lại chỉ thêm thất vọng? Một quá khứ nào đó bàng bạc trong văn em đã làm em vô cùng chán ngán… với những lá mail nhạt nhẽo vô vị. Thì anh lại có đôi chút thú vị khi chúng ta đã không từng gặp nhau bao năm trước!
Tháng chạp ngày n+4
– Alô, anh dậy đi!
– Sao lúc nào em cũng là người đánh thức anh?
– Ý anh nói gì?
– Em như cô vợ ngoan đánh thức mỗi sáng “anh ơi dậy đi làm!”
– Nhảm nhí!
– Nhảm nhí từ khi biết em!
– Không cù cưa với anh. Phải đi sớm đấy.
Xe đi buôn Jun. Trên đường đi, nàng đòi xuống vườn cà phê.
– Để làm gì?
– Em chụp hình. Chưa bao giờ em thấy cây cà phê cả!
– Em đúng là quê quá!
– Phải nói là em tỉnh quá mới đúng! Vì tỉnh quá nên không biết cây cối vùng quê ra sao!
Cây cà phê chỉ thấp ngang tầm người. Hoa cà phê trắng muốt. Những nụ hoa trắng và trái đen.
– Em có biết sự tích cà phê không?
– Không.
Chàng vênh mặt:
– Nghe anh kể này… Nghe nói ngày xửa ngày xưa, ở buôn làng nọ có một người chăn ngựa. Anh ta ngạc nhiên khi thấy một con hay tách bầy và khi trở về bỗng linh hoạt hơn hẳn. Anh ta theo dõi và khám phá ra ngựa nhấm một loài cây… Anh ta đem trái về cho một nhà trí thức. Ông ta mầy mò. Đun trái. Thấy ra nước đen. Uống thấy đắng nhưng cho tí đường thì rất ngon. Nhưng điều kỳ diệu là mỗi khi uống chất nước đó thì thấy người sảng khoái hẳn… Từ đó cà phê được biết đến…
– Cũng thú vị đấy!
Chàng phật ý:
– Em đúng là con gái Bắc kỳ của Nguyễn Tất Nhiên! Chuyện anh kể hay thế mà…
Nàng mỉm cười. Ừ, những cô gái Bắc kỳ răng khểnh tóc đuôi gà đã là nguồn cảm hứng cho những vần thơ tuyệt tác…
Buổi trưa. Đến buôn Jun. Nơi đây có hồ Lăk rộng mênh mông như Hồ Tây Hà Nội. Trời tháng chạp, sóng và gió lồng lộng nên chiếc thuyền độc mộc chỉ dám đi ven bờ và cả hai đều được trang bị áo phao.
– Này em?
– Gì cơ?
– Nếu bây giờ thuyền lật em sẽ làm gì?
– Thì em sẽ bơi vào bờ!
– Thế em không cứu anh à? Em thì biết bơi, anh thì không!
– Không!
– Một phụ nữ độc ác!
– Em ác kể từ khi biết anh!
Nàng nhại giọng chàng. Cả hai phá ra cười vui vẻ làm chiếc thuyền chòng chành. Nàng vẫn thản nhiên. Năm 78, tìm đường vượt biên nàng đã đi học bơi. Nhưng mới được vài tuần thì con đau nên bỏ dở. Cho mãi đến 84, nàng mới học thuần thục. Bỏ bao năm nhưng xuống nước nàng vẫn bơi được. Nàng thích bơi nhưng không có bạn đi cùng. Lúc nào nàng cũng phải một mình.
Chàng và nàng vào buôn. Tại địa điểm cho thuê voi cưỡi, có xây bệ cao. Từ bệ này, du khách sẽ trèo lên chiếc ghế tre cột trên lưng voi.
Nàng nghịch ngợm:
– Anh cứ ngồi trong ghế nhé!
– Em đi đâu?
– Em ra ngồi sau lưng nài!
– Ôi trời ơi! Em tôi!
Nàng phá ra cười. Rồi thản nhiên trèo ra ngồi sau lưng nài. Ghồ ghề quá. Nhưng nàng thích. Chú voi đi chậm rãi trên con đường làng. Mỗi khi có xe máy, voi biết đi tránh xuống đường.
Nàng hỏi:
– Này chú, tự nó biết tránh hay chú làm dấu hiệu cho nó?
– Làm dấu hiệu!
Chú voi chắc đói hay sao mà trên đường đi đã ghé vào cây và quật ngã vài cành nhỏ… Nàng thú vị nghe tiếng cành cây răng rắc khi vòi voi cuốn gãy…
Một vòng trên đường làng rồi voi đi xuống đất bùn ven hồ Lăk. Những bước chân voi nặng nề in dấu thật rõ.
– Em ơi, nói họ cho voi vào đi!
– Sao vậy?
– Anh sợ lắm! Lỡ nó đổ, mình té xúông hồ!
– Có chết đâu mà anh lo! Voi đi có vững họ mới cho xuống sình chứ! Em nghe nói mùa cạn, nó còn băng ngang hồ nữa kìa!
– Không lo, nhưng nhìn nước ven hồ bẩn quá. Anh sợ em té xuống sẽ xấu lắm. Mà anh không muốn nhìn thấy hình ảnh em xấu xí lấm bùn bê bết!
– Xạo ke!
Nhưng nàng cũng yêu cầu chú nài cho voi đi vào đường trong khô ráo. Kể ra cảm giác chòng chành trên lưng voi khi đi trên đất bùn ven hồ làm nàng cũng hơi ngan ngán…
Tháng chạp ngày n+5
Trời tháng chạp Kontum lồng lộng gió. Lạnh như Đà Lạt ngày xưa mà chàng còn giữ trong tâm tưởng. Trên sân thượng của khách sạn, dưới giàn hoa lan, hoa đậu biếc, chàng đã yêu cầu khách sạn cho một ngọn nến lung linh nằm kín gió trong ống tre. Chàng thích được nói chuyện dưới ánh nến huyền ảo. Mọi việc và mọi sự dường như đẹp hơn dưới ánh nến…
Hôm nay là giao thừa tây. Một ché rượu cần cho đúng hương vị Tây nguyên, một ổ bánh nhỏ và chỉ độc một ngọn nến xanh lá. Vậy thôi. Chàng và nàng đã đón giao thừa như thế.
– Em lạnh không?
Chàng trìu mến hỏi.
– Nếu em nói có, anh sẽ làm gì?
– Thì anh sẽ “rủ rê” em qua ngồi cạnh anh thay vì đối diện như bây giờ!
Thế đấy. Những anh chàng Chu Văn An lúc nào cũng lém lỉnh. Dù ở tuổi nào! hay vì tâm hồn chàng trẻ mãi với thời gian! có thể lắm! Thật đáng tiếc cho những kẻ đã chai sạn theo năm tháng, chỉ còn biết chạy theo đồng tiền, công danh phù du và đã lãng quên một thời lãng mạn dễ thương của tuổi trẻ.
– Rồi sao nữa?
Chàng mỉm cười:
Vai ấm xin cho đầu em tựa
Một chút tình thôi, biết có không?
(Hoàng Lan Chi)
– Em đã viết như thế, đúng không nào?
Nàng hơi ửng hồng. Chỉ là những vần thơ trong phút giây xúc cảm… Anh nhớ để làm gì?
– Anh thích em dựa đầu vào vai anh. Và nếu như em còn lạnh, xin cho anh được ôm em trong tay anh. Anh đã thề là sẽ rất trong sáng khi em ở trong vòng tay anh như thế, em nhớ không?
Nàng bật cười. Thề cá trê chui ống! Ở tuổi này nàng mới dám làm thế. Chứ thuở sinh viên thì đừng hòng. Ngày ấy, nàng luôn nhớ lời mẹ dặn: Những khung cảnh trữ tình, mờ ảo là khơi nguồn cho tội lỗi… Cho dù ban đầu hai người hoàn toàn trong sáng nhưng trước sự quyến rũ của ngoại cảnh, sa ngã là điều không tránh khỏi… Và nàng, cô bé Gia Long ngoan nhất nước, luôn tránh xa những hoàn cảnh đó. Chưa ai dám đụng vào người nàng. Ngày ấy, nàng như đóa hoa quỳnh khiến ai cũng chỉ muốn nâng niu, trân trọng và không chút sàm sỡ…
– Vi sao anh để độc một ngọn nến trên ổ bánh?
– Tại sao chúng ta lại phải phân thành hai? khi mà chúng ta đang là một! Anh nghĩ có lẽ không bao giờ chúng ta có dịp như thế này nữa! Mai mốt em đi xa. Con đường ấy rồi nhiều chông gai. Em sẽ bị cuốn hút. Và mỏi mòn… Khó có dịp chúng ta lại bên nhau nơi quê nhà như thế này.
– Thế mầu xanh lá?
– Em mạng Hỏa. Mộc sinh Hỏa. Những mầu phù hợp với em là hồng và xanh lá… Anh muốn ngọn nến xanh lá này sẽ là ngọn đuốc soi sáng cho con đường còn lại cho em. Anh biết em sẽ phải đuơng đầu với nhiều khó khăn khi ra đi muộn màng. Thì anh biết làm sao hơn ngoài sự cầu nguyện cho em vững vàng!
Nàng lặng thinh.
Anh chăm chút từng cái nhỏ nhặt! Anh đã nhớ cả đến mạng Hỏa của em để tế nhị chọn nến mầu xanh lá. Nếu khen anh dễ thương thì đúng là dễ thương. Nhưng có phải người ta chỉ dễ thương khi không thuộc về nhau vĩnh viễn?
Một cơn gió mạnh. Nàng rùng mình nhẹ. Chàng đứng dậy, vòng qua bên nàng, giọng như gió thoảng:
– Qua với anh đi em!
Nàng như chìm trong cơn mê. Hoa Lan trên giàn đẹp quá. Ánh nến lung linh quá… Chàng âu yếm quá! Nàng để chàng dìu qua…
Rất trân trọng, chàng ôm đầu nàng đặt trên vai mình:
– Em ơi hãy tựa, anh hầu quạt đây!
– Giờ này hầu quạt thì chết em rồi!
Cả hai phá ra cười vui vẻ.
– Mấy giờ rồi anh?
– Còn chín phút rưỡi nữa!
– Anh lúc nào cũng dóc tổ. Đếm ở đâu đến chín phút rưỡi?
– Dóc chứ chưa tổ!
Rồi giao thừa cũng điểm. Lặng lẽ. Chàng và nàng cùng chúm môi thổi nến.
Tôi hạnh phúc vô cùng. Trên Tây nguyên lộng gió. Giao thừa. Rượu cần ngọt lịm. Và nàng, người đàn bà tắc kè! Khi đọc văn nàng một chiều lang thang trên net, tôi như cảm nhận được rằng đây chính là người đàn bà cuối cùng trong đời ta. Trước nàng, tôi cũng đã say đắm bao người và cũng lãng quên chừng ấy… Nhưng với nàng, tôi như tìm lại được tuổi trẻ của tôi, hình ảnh ngày xưa thân ái. Từ nàng, tôi như thấy bóng mẹ, bóng em, bóng chị và cả bóng người yêu đầu tiên, người vợ xưa của tôi. Nàng khắt khe như mẹ già của tôi ngày xưa. Nàng ngoan hiền như cô em út hay dỗi hờn của tôi thuở tôi là sinh viên và cô em mới chập chững đệ thất. Nàng chua ngoa như bà chị cả hơn tôi mười tuổi mỗi khi la mắng cậu em đoảng vị. Nàng ngây thơ như người yêu Trưng Vương mười sáu tuổi của tôi ngày tôi mười tám. Và nàng đảm đang như người vợ vắn số của tôi… Nhưng trên tất cả là nàng lãng mạn như tôi. Hai cái lãng mạn gặp nhau thì sẽ thành gì nhỉ? Lãng mạn con nhà ma thay vì lãng mạn con nhà giáo của nàng?
– Nếu cho một điều ước, anh…
– Tất nhiên anh ước anh là người yêu của em!
– Nhảm nhí!
– Tại sao nhảm? Tại sao em cứ khăng khăng bắt anh dậm chân tại chỗ? không cho anh thừa thắng xông lên?
– Ê, thắng ở chỗ nào mà anh đòi xông lên?
– Không phải sao? Anh đoan chắc, chưa bao giờ em đi chơi với một người đàn ông nào như hiện tại em đang đi với anh!
– Lêu lêu! Chẳng qua em tội nghiệp anh về VN cu ky không có thân nhân!
– Vớ vẩn. Chỉ là một cái cớ!
Nàng giận dỗi:
– Nếu vậy ngày mai em về Saigon ngay. Kệ anh ở đây.
– Ối cho anh xin. Bỏ anh bơ vơ ở đây là cái tội lớn nhất trong đời của em đấy!
– Em nhiều tội rồi, thêm một cũng không sao!
A, cô nàng Bắc kỳ bắt đầu giở thói đỏng đảnh.
Chàng xoa đầu nàng:
– Không có đâu. Mỗi sợi tóc là một tội. Tóc em thưa thế này, em ít tội lắm!
– Hết chê mắt nâu đến chê tóc thưa!
– Đâu có! Nếu em cái gì cũng đẹp cả thì chán chết! Nếu anh nhớ không lầm, Albert Camus nói “Hạnh phúc chỉ có giá trị khi có sự hiện diện của đau khổ!”
– Ăn nhậu gì đến điều chúng ta đang nói?
Chàng ký đầu nàng:
– Ăn nhậu! Xấu lắm! Đàn bà con gái không nên nói như thế! Thì anh suy diễn thêm. Ví dụ cái đẹp chỉ có giá trị khi có sự hiện diện của cái xấu!
Nàng phì cười. Thật thú vị khi nói chuyện với những anh chàng Chu Văn An dí dỏm và cù là!
– Này em, rượu cần thế nào?
– Giống rượu nếp của người bắc!
– Em thích không?
– Hơi hơi!
– Em thì chỉ cà phê sữa đá!
– Ngoan thế còn chê! Không thích gì, chỉ có cà phê. Kiếm được một bà vợ như em hơi hiếm đấy!
– Ối, anh biết mà! Cho anh nộp đơn đi!
– Không. Cho dù một ngày nào đó em thay đổi ý kiến, định lấy chồng thì em cũng không bao giờ nhận đơn của anh!
Chàng thở dài:
– Vì sao?
Nàng nói mà như thủ thỉ:
– Em thích anh chỉ là bạn của em thôi. Lấy nhau rồi, nhiều chuyện lắm anh ơi! Mà em, em thích mỗi đêm được nghe tiếng anh gọi cho em “Em ơi, hôm nay có ai làm em buồn không? Nếu có thì bán cái buồn đó cho anh nhé! Và cho anh hôn lên trán em một cái nè. Chúc em ngủ ngon nè.” Như vậy lãng mạn, chả thích hơn ư?
– Ối, anh OK tất cả những cái lãng mạn khác của em. Riêng cái vừa rồi thì anh phản đối. Anh cũng chỉ là đàn ông tầm thường thôi em ơi. Anh thương em và anh chẳng muốn em lấy thằng nào hết!
– Lại nhảm nhí nữa rồi!
– Thưa cô!
Nàng rời vai chàng:
– Gì đó, em?
– Có người tìm cô!
– Tôi? Tôi đâu có quen ai trên này!
– Dạ xin cô xuống dưới một chút. Nếu lầm thì thôi!
Chàng xen vào:
– Phải đấy, em xuống đi! Còn trong giao thừa mà em!
Nàng theo chân cô bé tiếp tân.
Hòn non bộ thật xinh, giòng suối nhỏ lững lờ. Một chiếc thuyền giấy nhỏ trên giòng nước.
– Em xin lỗi cô. Không ai tìm cô cả. Nhưng chiếc thuyền giấy này là của cô!
Nàng mỉm cười thay lời cám ơn. Cô bé tiếp tân đi vào. Nàng quỳ gối, nâng nhẹ chiếc thuyền giấy. Chỉ là một chiếc thuyền giấy của thuở học trò… Ngày xưa trời mưa, nàng từng xếp thuyền giấy thả với người bạn…
Thuyền có mui. Nàng nghiêng người nâng cao thuyền trên bàn tay và nhìn vào trong. Một bông hồng BB nằm nghiêng. Tuyệt đẹp. Và một cánh thiệp. Nàng nhẹ tay mở thiệp.
Gửi em, Vương Ngọc Yến
Anh xin làm Đoàn Dự kể từ hôm nay
Nàng mỉm cười.
– Sao em?
Chàng đứng sau lưng. Nàng ngước nhìn lên. Vòm trời cao xanh đen. Hôm nay giao thừa tây nhưng mười sáu ta. Nửa đêm ánh trăng vàng rực rỡ. Ai yêu hoa quân tử – còn ta – ta xin yêu nàng hoa tiên tử. Ai yêu trăng rằm – còn ta – xin vầng trăng mười sáu…
Chàng quỳ gối đối diện nàng. Một nụ hôn rất nhẹ trên trán.
Em
Đã bao lần chúng ta cãi nhau xuyên đại dương về nụ hôn. Anh – người đàn ông tầm thường như muôn vàn đàn ông khác – chỉ thích hôn môi. Còn em, em chỉ muốn được hôn trán. Em bảo anh trần tục. Anh bảo em ngớ ngẩn.
Nhưng đêm nay! Trời Kontum. Tây nguyên phả hơi thở núi rừng. Đêm giao thừa. Anh tình nguyện xin làm Đoàn Dự. Và một nụ hôn trán. Như em hằng thích.
Tháng chạp ngày n+6
– A lô, em dậy chưa? Đàn bà con gái ngủ muộn là xấu lắm!
– Em dậy lâu rồi. Nhưng vì anh bảo em cứ như vợ anh “anh ơi” mỗi sáng nên em không thèm gọi nữa!
– Ối, bây giờ anh khám phá ra em có tính thù dai!
– Ở lâu thêm đi! sẽ khám phá thêm vô số tính xấu khác!
– Thế thì anh không ở lâu! Anh qua em nhé?
Chàng gõ cửa phòng nàng. Chiếc quần lửng ngang đầu gối và áo thun ngắn. Trông nàng giống trẻ con.
– Hôm nay chúng ta ra biên giới nên em phải bận cho gọn.
Nàng giải thích.
– Thì anh có nói gì đâu? Trúc xinh trúc mọc bờ mương, em xinh em mặc áo Mường cũng xinh kia mà!
Nàng bĩu môi. Bẻm mép là cá tính của con trai Bắc kỳ.
Quốc lộ 14 ra Ngã ba biên giới không xóc lắm. Xe đi qua những vùng cà phê, hoa trắng xóa…
Sân bay Phượng Hoàng. Chàng và nàng xuống xe đi bộ. Trải dài trên sân bay là những lát khoai mì phơi khô.
– Em nghĩ gì thế?
– Buồn!
– Vì sao?
– Tất cả những gì gợi nhớ đến chiến tranh đều làm em buồn.
– Thế ngày xưa em có người yêu là lính hay sao?
– Không. Em chẳng yêu ai cả. Nhưng người yêu em thì có gần khắp các binh chủng. Tất nhiên em thích hải và không quân.
– Anh biết. Vì em lãng mạn mà!
– Đúng. Hải quân với hoa biển trắng xóa. Không quân với những đám mây như vồng cải quê nhà.
– Anh nhớ em kể cái anh chàng không quân nào đó đã viết cho em về những đám mây xếp lớp như vồng cải… Vồng cải xanh dỗ ong bướm về sân. Anh nằm đấy buổi trưa và bóng nắng (Thơ NĐT)
– Nhớ dai nhỉ!
– Cái gì của em, anh cũng nhớ dai cả!
– Anh!
– Gì cơ?
Nàng phì cười. Con trai mà “Gì cơ” nghe ngồ ngộ!
– Anh hát cho em nghe bài Anh ở lại Charlie đi! Hồi nẫy chúng ta đi ngang đồi Charlie đó!
– Anh không thuộc.
– Chán anh!
– Đừng chán. Vì anh thuộc cái khác hay hơn!
– Ví dụ?
– Áo nàng vàng, anh về xin hoa cúc. Áo nàng xanh, anh vẽ lá trên rừng! (nhái thơ NS)
– Áo nàng đen?
– Áo nàng đen, anh xin vầng trăng lụa. Rải tơ vàng cho óng ả áo ai!
– Xạo ke! Áo đen thui lấy đâu ra óng ả?
– Thì anh mới xin ánh trăng mười sáu cho áo đen óng ả!
– Anh bẻm mép lắm!
Ngã ba biên giới. Vùng đồi cao và bầu trời trong vắt. Bên kia là đất Campuchia. Nàng và chàng đứng cạnh nhau trên đồi cao, mỗi người đeo đuổi một suy nghĩ
Em
Anh biết dù anh có xin làm Đoàn Dự thì ngã ba biên giới vẫn là nơi dành sẵn cho đôi ta. Vì sao? Không biết? Anh cảm nhận thế. Ở tuổi này bỗng nhiên lười suy nghĩ, cứ để mọi chuyện đẩy đưa và theo cảm nhận. Mà cũng có thể vì anh mơ hồ rằng ừ, hãy để em là bạn, biết đâu sẽ tuyệt vời hơn?
Nàng nhìn quanh. Bao giờ những vuông lúa dợn sóng, những cánh cò bay lả, những cánh diều vi vu… đều làm nàng yêu thích,
Quê huơng ơi! Tiếng sáo diều ai thổi
Buổi chiều vàng ngọn trúc khẽ đong đưa
Thanh bình quá! Mẹ già cười móm mém
Lá trầu xanh mẹ nhổ thắm góc hè
Áo nâu non như mầu gạch ngói
Sứt đường tà, mẹ chăm chỉ ngồi khâu
Hiền hòa quá! Giòng sông đang uốn khúc
Vòng lũy tre ôm gọn cuối đường quê
Thuyền lan nhỏ lững lờ xuôi dòng chảy
Em trên bờ mắt liễu khép lối về
Quê huơng đó một đời tôi ao ước
Tiếng sáo diều và đồng lúa xanh non
Trẻ ê a và cuộc sống vuông tròn
Cho tất cả tất cả những người
Tôi gọi là… cùng một mẹ sinh ra…
(Hoàng Lan Chi)
Lúc nào nàng cũng trĩu nặng tình quê hương. Nhớ những ngày sôi động cuối tháng 4 lịch sử, nàng và cậu em cùng tuổi, nên ngoài tình chị em còn có tình bạn hữu, đã nắm tay nhau mắt ngời sáng:
– Dù có ăn rau muống cũng không đi đâu. Quê hương là tất cả!
Rồi sao? Cậu em đi học tập và đã thoát năm 85. Nàng còn ở trên đỉnh núi – lối ví von của một người bạn. Giờ đây, nàng cũng đang đứng trên núi đồi, nhìn ra xa, vùng biên giới sáng nay trời xanh lắm… Nước tôi là một giải giang sơn gấm vóc từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau…
Tôi đi từ Ải Nam Quan
Ơi người ơi…
Trường ca Con đường Cái Quan đã một thời làm nàng xúc động. Tuổi mười bốn, con gái thích nhạc tình, còn nàng thích nhạc tình tự quê hương. Tuổi mười lăm, con gái viết thơ tình, còn nàng viết thơ quê hương…
Đất Mẹ
Vượt trùng duơng con đã trở về đây
Tìm đất mẹ mà con hằng yêu dấu
Ôi quê huơng xứ dân nghèo có thấu
Nơi phuơng trời em gái vẫn chờ mong
Vẫn còn đây mầu áo tím Gia Long
Mầu nhung nhớ trong nỗi buồn trẻ dại
Đất mẹ ơi con về không ái ngại
Lối đường xua lại in bước chân con
Con sẽ đi trên khắp nẻo đường mòn
Nghe hơi mẹ vang lên từng nhịp thở
Nghe đất lành cuộn phù sa mầu mỡ
Nghe tin yêu dâng rộn rịp lòng dân
Mẹ yêu ơi con thuơng mẹ vô ngần
…
(Hoàng Lan Chi 1963)
– Ở đây không có cái cầu nào em nhỉ!
– Ý anh?
– Anh sẽ hát cho em nghe Chiếc cầu biên giới.
– Thì tưởng tượng!
– Tưởng tượng cầu? không bao vờ. Giá tưởng tượng anh là người yêu của em thì anh dễ tưởng tượng hơn!
– Lại nhảm nhí!
Tháng chạp ngày n+7
Này em tháng chạp qua rồi đó
Áo lụa xong chưa để đón xuân
Guốc mộc nếu mòn, anh mua nhé…
– Em không đi guốc mộc nữa đâu!
– Ôi trời, sao em lại làm cụt nguồn thơ của anh?
Nàng cười ròn rã như pha lê. Những ngày bên nhau, chàng thích trêu nàng và ngược lại. Chỉ là những tiếng cười, chưa một giọt nước mắt nào kể cả khi nàng đón chàng ở sân bay.
Nàng nhanh nhẹn đóng thùng đồ cho chàng. Chàng mỉm cười thích thú ngó nàng. Bàn tay thoăn thoắt buộc dây rất đúng và chắc.
– Em đa đoan vì em biết nhiều đấy!
– Gì cơ?
– Nhìn em đóng thùng đồ, anh ngỡ dân chuyên nghiệp!
– Dạ bẩm ông, năm… em phải trông dùm tiệm sơn mài cho cậu em trong một năm. Do đó em phải biết cách làm sơn mài, cách gói đồ…
Nàng thắt ruban mầu xanh lá vào quai va ly.
– Chi vậy em?
– Cho anh dễ nhận ra. Va ly đa số giống nhau. Anh khỏi mất công nhìn. Em chán đôi mắt cận của anh lắm. Làm cái nơ cho anh nhìn ra nhanh hơn
– Mắt cận là biểu lộ của thông thái! Nông dân ít cận lắm!
Nàng bĩu môi.
– Thế em có cận không?
– Không bao vờ. Em mê đọc sách. Hè, em mải mê dọc, không chú ý trời tối. Bố dập đầu cái bốp “đôi mắt là hai viên ngọc trời cho! Phải giữ kỹ. Xem con gái đeo kính, có đẹp không?” Em thấy có lý. Và em giữ. Báo cho biết hiện nay em nhìn xa còn tỏ hơn nhiều bạn cùng tuổi nhé! Nhưng em không giữ nổi cho con gái. Chúng bây giờ học nhiều quá. Cũng may nó đã đi nước ngoài. Chứ cứ ở VN, với chính sách giáo dục không giống ai thì…
– Mai mốt về Mỹ, anh đập bỏ kính!
– Đừng. Em thấy con trai đeo kính cũng được lắm. Chỉ con gái thôi! Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn mà! Để cửa sổ bị kính che thì cũng hơi buồn! Em thích nói chuyện bằng mắt lắm!
– Còn anh thích bằng tay!
– Lại nhảm nhí!
Chàng thở dài:
– Mai mốt về Mỹ, anh sẽ buồn lắm vì chẳng còn được nghe mắng “nhảm nhí” nữa! Mà sao qua phone, em đâu có bắt nạt anh như bây giờ!
– Tiên trách kỷ nhé! Qua phone thì “em ơi, cười đi cho anh nghe nào. Anh chỉ thích nghe tiếng cười của em thôi. Tiếng em cười rất hồn nhiên.” Còn bây giờ? Lúc nào cũng… nhảm nhí!
Chàng nghiêm chỉnh:
– Này em, qua phone thì anh chỉ tưởng tượng thôi. Mà cái hình em mặc áo tứ thân thì trông giống con nhà lành trăm phần trăm. Còn bây giờ, em cứ khiêu khích thế kia, làm sao anh nói chuyện bằng mắt được!
Nàng dơ nắm tay dọa:
– Không nói nhảm nhé! Em lúc nào cũng ngoan nhất nước (!), không hề khiêu khích nhé! Anh chỉ giỏi vu khống! Rồi, xong!
Chiếc va ly đã cột gọn.
– Đi đâu bây giờ em?
– Ăn cơm niêu! Gần trưa rồi.
Con đường Tú Xương bây giờ không như xưa. Ngày xưa đây là con đường quý tộc. Hàng cây cao, bóng mát. Những villa xinh đẹp. Giàn hoa giấy tím. Hay ti gôn hồng. Nhưng khi những đỉnh cao tiếp thu thì villa được biến thành nơi chăn heo. Và bây giờ là những căn nhà được cơi thêm, mất hết nét sang trọng hài hòa của phố Saigon xưa…
Niêu cơm nhỏ bé. Người tiếp viên tung niêu. Xoảng. Chiếc niêu vỡ. Một vồng cơm cháy vàng rụm bao tròn. Vồng cơm cháy được tung hứng vài vòng trên không như làm xiếc.
Chàng chấm miếng cơm cháy vàng rụm với muối vừng. Tuyệt.
– Sao anh?
– Ngon lắm! Lâu lắm anh mới được ăn cơm cháy muối vừng. Mà này, sao em không trổ tài nấu món gì đó cho anh mà toàn đưa đi nhà hàng vậy? Có lẽ gia chánh em rất tệ! Thông thường như thế. Đàn bà dễ thương, lại học giỏi thì thường ẹ về nấu nướng!
Nàng phì cười:
– Có lẽ em phải bầu anh là quán quân trong việc khiêu khích, chọc tức người khác.
Chàng ngây thơ:
– Đâu có! Bạn anh đa số quý anh lắm vì tụi nó bảo anh hiền như bụt ấy!
Nàng bĩu môi:
– Hóa ra đi với bạn, anh mặc áo cà sa còn đi với em anh mặc áo giấy!
– Oan lắm em ơi. Anh chỉ có một bộ mặt thôi, ai mà tắc kè như em! Nhưng thôi, nói đi em biết nấu ăn không?
Nàng vênh mặt:
– Xin báo cho “chàng” hay, con gái tôi đoạt giải nhất nấu ăn, giải ba cắm hoa nhé! Báo đăng dàng hoàng nhé!
Chàng gật gù:
– À ra vậy! Nhìn mẹ biết con. Còn bây giờ nhìn thành tích con để suy ra mẹ!
– Chứ sao!
Cả chàng và nàng cùng cười.
Những giây phút cuối đang được đếm. Nàng huyên thiên. Chàng cũng huyên thiên. Như không hẹn mà cả hai như cố làm ra vẻ bình tĩnh. Ra vẻ mọi chuyện bình thường.
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất – nửa dêm.
Chàng đã về quê hương vào nửa dêm. Và cũng ra đi vào nửa dêm. Về khuya, trời Saigon có phần hơi lạnh.
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách…
(CTT và PD)
Ngày xưa, ga Lyon đèn vàng. Chàng đã tiễn nàng về xứ mẹ. Chàng đã nói bằng tiếng hôn…
Còn bây giờ sân bay Tân Sơn Nhất không buồn hiu hắt. Và nàng thì tiễn chàng đi. Đi hay về? Với bao nhiều người Việt, rời khỏi VN là đi hay về? Ôi quê hương, nỗi đau này bao giờ mới khỏi?
Nàng nhìn xa xôi. Mới đó đã hai năm trôi qua. Phi trường Colorado thật đẹp.
Anh đã rủ em đi một vòng. Khi khuất mắt mọi người, anh lại dịu dàng choàng vai em. Lúc nào anh cũng ân cần và dịu dàng quá đỗi.
Nàng lại nhớ vườn hoa Nhật. Từng đàn cá Koi đủ mầu. Buổi sáng San Jose hôm ấy, trời Cali cũng thật trong xanh.
Khu vườn Nhật
Trưa hè nắng gắt.
Đàn cá Koi lơ đãng nhìn người.
Yêu Em qua môi như thú tìm mồi.
Những đàn cá vàng, hồng, xanh, tím
Biết quậy, biết rong chơi bên ghềnh đá.
Mi Em cong vút chân trời.
Mơ hồ bọt nước nghiêng nghiêng bóng người.
Price Cosco, một chiều vắng,
Em hôn Anh như một tình nhân,
Trong mùa cưới.
Tình yêu từng bước vong thân,
Có gì như thể cảm quan đong đầy.
San Jose, 09-17-2000.
VIỆT BẰNG
Em,
Hãy gửi hình cho anh. Anh chỉ làm thơ được khi có hình trước mặt. Hãy gửi bức hình có anh và em ở Las Vegas…
Nàng không gửi. Sang Mỹ, vùng đất một thời nàng mơ ước, quá khứ ngày xưa của nàng, nàng không muốn gặp. Quá khứ của cuộc tình ngàn trùng, nàng cũng không muốn gặp. Những luyến lưu lại là của những người anh…
– Em nghĩ gì thế?
– Không nghĩ gì!
– Em đang nghĩ lung tung. Khi lung tung thì đồng nghiã với không có gì!
Nàng im lặng. Gió thổi rì rào. Chàng choàng tay qua vai nàng.
Em
Còn bao lâu nữa? Chúng ta còn gặp nhau lần nữa không hay muôn trùng xa cách? Cuộc đời làm sao biết trước được?
Đã bảy ngày bên nhau. Cám ơn em đã cho anh những giây phút ngọc ngà. Cám ơn em để chuyến về quê của anh như hoa gấm. Rồi đây trong quãng đời còn lại, anh có tìm được những giây phút như những ngày qua? Duyên kỳ ngộ, mấy ai có được!
Rồi em cũng sẽ đi xa. Nơi vùng trời ấy, chỉ mình em lại đương cự với bão táp phong ba ở tuổi xế tà. Anh thương lắm! Thánh giá trên vai em quá nặng. Muốn san sẻ cùng em nhưng ngã ba biên giới vẫn còn đây!
Biết làm sao hơn! Thôi thì mỗi tối lại vỗ về: Em ơi, xin trao cho anh những nỗi buồn của ngày hôm nay. Anh sẽ giữ dùm cho em. Và hãy ngủ đi, cô Bắc kỳ “nhảm nhí” của anh. Ngủ đi, mộng hãy bình thường. Ru em, anh vượt trùng dương gọi về…
Nàng nhìn đồng hồ:
– Đến giờ rồi. Anh vào đi!
Chàng xoay người nàng. Đối diện. Nàng cúi xuống. Mông mênh… Chàng dịu dàng hôn nhẹ lên trán nàng. Nàng ngẩng lên. Một giọt nước mắt lăn tròn trên gò má…
Đêm Saigon vẫn mênh mông…
Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp (1950- )
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.
Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chẳng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một; tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi. Ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại.
Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng.
Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo: “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!”
Tôi bảo: “Vâng.”
Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp.
Vợ tôi bảo: “Không để thế được.”
Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình.
o O o
Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lú lẫn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà.
Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: “Cháu chẳng ăn thế bao giờ.”
Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
o O o
Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình.
Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?”
Tôi bảo: “Viết hồi ký.”
Cha tôi bảo: “Không!”
Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem.”
Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim họa mi, chim vẹt.
Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?”
Vợ tôi không trả lời.
Cha tôi bảo: “Để xem đã!”
Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế.
Tôi cười: “Cha bình quân!”
Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống.”
Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại.”
Mọi người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại mẹ lẫn.” Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận.
Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc.”
Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?”
Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc.”
Hai đứa bảo: “Thế thì không có.”
Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui.
Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Ông bảo: “Ông Cơ và cô Lài vất vả quá! Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?”
Tôi bảo: “Để con hỏi Thủy.”
Vợ tôi bảo: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ.”
Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú.
Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức.”
Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ: ‘Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v… Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậu v.v…’ Cha viết như thế được không?”
Tôi bảo: “Được.”
Vợ tôi bảo: “Không được!”
Cha tôi gãi cằm: “Người ta nhờ mình.”
Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái.
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
o O o
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân, con trai ông, làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là ‘hoa nhài cắm bãi cứt trâu.’ Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi ‘một giọt máu đào hơn ao nước lã,’ giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền.
Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược.
Ông Bổng rất ức, ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ.” Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả.
Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là ‘môn đăng hộ đối’. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì!”
Cha tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
Ừ ê cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ừ… e… cái con gà rù…
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng những ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba.
Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì. Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.
o O o
Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: “Cha muốn nói chuyện với con.” Tôi pha cà phê, cha tôi không uống.
Ông hỏi: “Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn.”
Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi.
Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này.”
Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà.
Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!”
Ông Cơ bảo: “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ.”
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo: “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn.”
Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây.”
Tôi hỏi: “Về đâu?”
Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó, bố của Kim Chi, một ngày. Ông này vừa đi công tác ở Ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao.
o O o
Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi: “Cháu xin cậu mợ một việc.”
Vợ tôi hỏi: “Việc gì?”
Ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. Ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. ‘Nghĩa tử là nghĩa tận.’ Ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này ‘cáo chết ba năm quay đầu về núi.’
Vợ tôi cắt lời: “Thế bao giờ đi?”
Ông Cơ gãi đầu: “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết.”
Vợ tôi tính: “Được. Anh Thuần này (Thuần là tên tôi), anh có nghỉ phép được không?”
Tôi bảo: “Được.”
Ông Cơ bảo: “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch.”
Vợ tôi bảo: “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?”
“Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu.”
“Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?”
“Cháu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm.”
“Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được.”
Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu: “Chị Lài xinh nhất.”
Cô Lài cười thỏn thẻn: “Chả phải. Mợ mới xinh nhất.”
Vợ tôi bảo: “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe.”
Cha tôi bảo: “Hay thôi không đi?”
Ông Cơ giãy nảy: “Chết, cháu đã điện rồi: Mang tiếng chết.”
Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà mang!”
o O o
Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật.
Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch,” vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi.
Thủy bảo: “Mẹ già rồi.”
Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra.
Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn, ăn được cơm.
Tôi bảo: “Mừng rồi.”
Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc.
Tôi hỏi: “Chuẩn bị à?”
Vợ tôi bảo: “Không.”
Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm.
Vợ tôi bảo: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ.”
Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế.
Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo: “Tùy anh.”
Ông Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!” Lại hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”
Mẹ tôi bảo: “Có.”
Lại hỏi: “Thế em là ai?”
Mẹ tôi bảo: “Là người.”
Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người.”
Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.
o O o
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất.
Ông Cơ và cô Lài nói: “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất.”
Vợ tôi bảo: “Nói nhảm.”
Cô Lài khóc: “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?”
Ông Bổng cười: “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván.”
Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng: “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?”
Ông Bổng bảo: “Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, ‘đòm’ phát là sướng.”
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước.
Ông thợ mộc quát: “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?”
Ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?”
Tôi bảo: “Bốn phân.”
Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông! Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván.”
Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn.
Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi.”
Vợ tôi hỏi: “Mấy cân gạo hả chú?”
Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân!”
Vợ tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ.”
Ông Bổng hỏi tôi: “Nhà này ai chủ trì kinh tế?”
Tôi bảo: “Vợ cháu.”
“Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế?”
“Vợ cháu.”
“Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé?”
“Ông để con.”
“Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?”
“Mười mâm.”
“Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm.”
Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà.
Vợ tôi bảo: “Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm.”
Tôi bảo: “Ông Bổng cầm bốn nghìn rồi.”
“Buồn anh lắm!”
“Anh đòi lại nhé?”
“Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo.”
Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo: “Để đi đò.” Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo: “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc.”
Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền.
Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó.”
Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi.
Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?”
Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?”
Tôi khóc: “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín.”
Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần.”
Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.
o O o
Từ nhà tôi ra nghĩa địa đi tắt chỉ năm trăm mét, nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài.
Có người nằm lăn ra, nói: “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối.”
Ông Bổng bảo: “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm!”
Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ ‘cha đưa mẹ đón.’
Ông Bổng bảo: “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó.”
Cha tôi bảo: “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?”
Ông Bổng nín bặt, lại khóc: “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi…”
Tôi nghĩ: “Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lừa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?”
Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi: “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt.
Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc: “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?…”
Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo.
Cô Lài lại khóc: “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?”
Vợ tôi bảo: “Đừng khóc.”
Tôi cáu: “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?”
Vợ tôi bảo: “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?”
Tôi bảo: “Sát.”
Ông Bổng bảo: “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?”
Cha tôi bảo: “Bùa con khỉ! Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này.”
Ông Bổng bảo: “Thế là sướng, ‘đòm’ phát là xong.”
Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò.
o O o
Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh, đại úy cần vụ, đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn.
Ông Chưởng hỏi cha tôi: “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón.”
Cha tôi bảo: “Được.”
Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm.”
Cha tôi bảo: “Con tôi làm đấy.”
Tôi bảo: “Đấy là vợ cháu.”
Vợ tôi bảo: “Cô Lài chứ!”
Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: “Chả phải.”
Cha tôi đùa: “Thế thì do mô hình V.A.C.”
Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn.
Cha tôi hỏi: “Thằng Tuân có thư từ gì không?”
Kim Chi bảo: “Không.”
Cha tôi bảo: “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa.”
Vợ tôi bảo: “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết.”
Kim Chi ngượng.
Tôi bảo: “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật!”
Kim Chi khóc: “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm! Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan!”
Vợ tôi bảo: “Tôi còn hai con gái cơ!”
Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?”
Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục… Tâm càng lớn, càng nhục.”
Vợ tôi bảo: “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết.”
o O o
Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi.
Khổng bảo: “Thơ siêu nhất.”
Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay.
Vợ tôi bảo: “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?”
Tôi lắc đầu.
Vợ tôi bảo: “Anh già rồi.”
Bất giác tôi thoáng rùng mình.
Một hôm, bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón ở cổng, ông bảo: “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá.”
Tôi bảo: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?”
Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác.
Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực.
Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi: “Ông anh ơi, có đi chơi không?”
Tôi lắc đầu.
Khổng có ý tránh mặt tôi.
Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi: “Cháu đánh nó nhé?”
Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ: “Thôi.”
Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi?
Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình.”
Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò đùa lắm.”
“Anh cho là trò đùa à?”
“Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng.”
Sao tôi cứ như lạc loài?
Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi: “Anh đi nhé?”
Vợ tôi bảo: “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi.”
Vợ tôi òa khóc: “Em thật có lỗi với anh, với con.”
Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng: “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”
o O o
Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run.
Thư viết: “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép.”
Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa, nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây.
Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch.
Cha tôi không nghe, ông bảo: “Cho vào ba lô.”
Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia đá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ.
Cha tôi lại gọi cô Lài đến bảo: “Cháu lấy chồng đi.”
Cô Lài òa khóc: “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa.”
Cha tôi nghẹn ngào: “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?”
Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi.
Ông bảo: “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem.”
Cái Mi, cái Vi chào ông.
Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?”
Cha tôi bảo: “Ừ.”
Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”
Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”
o O o
Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang.
Ông Bổng thích lắm: “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao một chum.”
Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt, trong chẳng có gì.
Ông Bổng bảo: “Chắc còn nữa.”
Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát.
Ông Bổng bảo: “Thôi chết, tao nhớ ra rồi! Ngày xưa tao với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao.”
Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc.” Cả hai đã chết mục xác từ thuở nao thuở nào.
Ông Bổng bảo: “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ.”
Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình.”
Khổng bảo: “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!”
o O o
Điện của ông Chưởng: “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày…, mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày…”
Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy.
Vợ tôi bảo: “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại.”
Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ.
Ông Chưởng bảo: “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình.”
Tôi bảo: “Không phải thế. Đời người có mệnh.”
“Cha anh là người đáng trọng.”
“Theo nghi lễ quân đội hả chú?”
“Cụ ra trận địa, đòi lên chốt.”
“Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa.”
Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.
Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm.
Ông bảo: “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả.”
Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội.”
Ông Bổng bảo: “Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù!”
o O o
Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó, nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn.
Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ.
Những người thợ xẻ – Nguyễn Huy Thiệp (1950- )
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì về cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú tí…
(Hát dỗ em)
Ít năm trước đây, tôi theo một toán thợ xẻ lên miền ngược kiếm ăn. Chúng tôi có năm người, do anh họ tôi tên là Bường đứng ra làm cai. Bường là một tay anh chị khét tiếng. Trước kia Bường đi bộ đội, ở một đơn vị đặc công thủy. Năm 1975, anh dây dưa vào một vụ trộm phân đạm ở huyện, bị tù ba năm. Ra tù, Bường chẳng chịu làm ăn gì, mở một quán rượu thịt chó nhưng được hơn một năm thì phá sản. Thời gian Bường mở quán, trong làng tôi nhiều nhà bị mất trộm chó hết sức thần tình. Có nhà, dù chó đã được đóng cũi, cũi lại để trong buồng, buồng lại khóa, thế mà vẫn mất. ủy ban xã ngờ Bường là thủ phạm các vụ trộm này nhưng không có bằng chứng nên anh vẫn vô can. Sau này, vì thua bạc, chán đời, Bường phóng hỏa đốt quán. ít lâu sau Bường chuyển sang nghề buôn cây. Nhà nào có cây nhãn, cây mít, cây hồng xiêm… mới ra hoa anh đã đến đặt tiền cọc mua trước. Được hai năm, anh bỏ đi buôn bè trên mạn ngược. Lần này, Bường về lập một toán thợ xẻ theo anh lên rừng kiếm ăn. Bường biết, ở miền núi, nghề thợ xẻ là nghề rất có triến vọng.
Trong toán thợ chúng tôi có hai anh em sinh đôi là Biên và Biền, đều mười bảy tuổi, khỏe như trâu mộng. Anh Bường và tôi họ Đặng, còn Biên và Biền họ Hoàng, nhưng chẳng biết quan hệ họ hàng thế nào mà Biên và Biền gọi anh Bường là bá, còn gọi tôi là ông trẻ. Biên và Biền là con ông Hai Dung. Ông Hai Dung là thầy dạy võ trong môn phái Thiếu Lâm Hồng Gia ở quê tôi. Trước, tôi có theo học ông Hai Dung hai năm. Tôi thuộc thế hệ đàn anh của Biên và Biền. Trong toán thợ, ngoài bốn anh em còn có cu Dĩnh là con thứ hai anh Bường, thằng bé mười bốn tuổi, đi theo chúng tôi để hầu cơm nước.
Tôi là một thanh niên khỏe mạnh. Tôi học xong đại học, do thi trượt tốt nghiệp nên phải ở nhà, để đợi năm sau thi lại. Nhà tôi đông anh em, bố mẹ tôi sinh được những chín người con. Các anh chị đều làm ruộng, ai cũng chân chỉ hạt bột, chỉ có tôi ngỗ ngược hơn cả.
Anh Bường bảo bố mẹ tôi: “Thằng Ngọc (Ngọc là tên tôi) có máu giang hồ, sao Tử vi đóng ở cung Di, ra ngoài thì Tả phù, Hữu bật, ở nhà chỉ ngộ độc mà chết, chú thím thương nó thì cho nó lên rừng với tôi một chuyến.”
Bố tôi bảo: “Tôi chỉ sợ nó làm lỡ việc của anh.”
Anh Bường cười khà: “Lỡ việc, tôi đánh bỏ mẹ. Giang hồ có luật giang hồ. Chú thím cho nó đi với tôi, vừa đỡ tốn cơm nhà, vừa có tiền, một năm sau tôi trả nó về nguyên vẹn là được chứ gì?”
Bố tôi bảo: “Hỏi nó xem.”
Anh Bường bảo tôi: “Đi chứ? ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn?”
Tôi bảo: “Đi thì đi, nhưng. anh dánh tôi là tôi đánh lại đấy”
Anh Bường cười nhạt: “Được rồi. Anh em họ hàng đối xử với nhau phải nhũn nhặn chứ?”
Ăn tết Nguyên đán xong được mười ngày thì chúng tôi lên đường. Hôm đi, chị Bường làm cơm.
Năm người chúng tôi, ai cũng hăng hái. Thức ăn chẳng có gì: một đĩa lòng lợn, một đĩa dưa muối với hai bát khoai tây nấu cổ cánh gà. Đĩa thịt gà lèo tèo ít miếng xương xẩu vì bao nhiêu miếng nạc chị Bường phải lọc ra để làm thức ăn cho bố anh Bường đang ốm nặng bệnh viện.
Anh Bường bảo: “Chúng mày thông cảm. Tao cũng muốn ra quân cho oai nhưng ngặt nhà nghèo quá! Bằng ngày này sang năm, ngồi ở đây, tao xin hứa mỗi thằng một con gà tần.”
Chúng tôi ăn uống xong thì lên đường. Mỗi người một ba lô con cóc đeo vai đựng gạo, đựng quần áo. Cu Dĩnh thì đeo nồi xoong bát đĩa. Dụng cụ có hai bộ cưa xẻ, mấy cái choòng, mấy ái dũa, ngoài ra chẳng có gì cả.
Chị Bường dắt theo ba đứa con đưa tiễn chúng tôi.
Anh Bường bảo: “Thôi mẹ đi về đi, bảo vệ an toàn cái hĩm, chờ tớ một năm sau tớ về.”
Chị Bường nửa cười nừa khóc: “Đồ phải gió! ở trên ấy nước độc lắm đấy! Đừng có tắm đêm mà ngã nước đấy!”
Anh Bường bảo: “Nhớ rồi! Khổ lắm! Đêm ai lại đi tắm nước lã bao giờ? Thôi về đi! Thương anh giấu ở trong lòng. Xin em chớ có lòng thòng với ai.”
Chị Bường bảo “Các con chào bố đi.”
Ba đứa con anh Bường líu ríu: “Con chào bố.”
Anh Bường bảo: “Vâng! Chào các ông các bà! Các ông các bà ăn no ngủ khỏe. Bố phải xa mẹ lăn lóc trên đường.”
Chị Bường bảo: “Dĩnh ơi, con nấu cơm, nhớ đổ nước thì đo một đốt rưỡi tay là vừa đấy.”
Cu Dĩnh bảo: “Con nhớ rồi. Ở nhà mẹ đừng đánh em Tín nhé. Con có mấy trăm đồng giấu đằng sau cái gương, mẹ cứ lấy mà tiêu.”
Anh Bường bảo: “Đủ rồi đấy, các nhà tình cảm chủ nghĩa ạ. Cứ thế này văn học nước ta chảy nước ra mất.”
Chúng tôi đến Hà Nội tìm bến xe đi Tây Bắc. Anh Bường có vẻ rất thạo. Biên, Biền và cu Dĩnh lần đầu mới được đi xa nên thấy cái gì cũng lạ.
Anh Bường bảo: “Chúng mày cẩn thận. Ở Hà Nội ăn cắp như rươi. Nó thỉnh mất bộ cưa thì ăn mày đấy.”
Đường đi Tây Bắc lắm dốc đèo. Biên và Biền bị say ô tô, nôn cả ra mật xanh, mật vàng. Hai ngày liền ngồi xe, tôi cũng lử lả cả người.
Xuống xe, chúng tôi ăn uống qua quýt, nghỉ ngơi ở thị trấn H. một buổi rồi theo anh Bường vào sâu trong vùng núi thuộc đất của đội Bình Minh nông trường X. Hai bên bạt ngàn là ngô và bông. Những dãy núi đá vôi trập trùng cao ngất. Chúng tôi đi men ở dưới chân núi, vừa bé nhỏ, vừa cô đơn, lại liều lĩnh, mà bất lực, thậm chí vô nghĩa nữa. Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng thế không?
Anh Bường bảo: “Cái thằng nào nghĩ ra cái tên Bình Minh ở đất khỉ ho cò gáy này thật là một thằng bịp bợm khốn nạn.” Lại bảo: “Cái tên hiệu nó ghê lắm nhé. Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân Lập, Đoàn Kết, Tự Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ lại đặt tên là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc bắc nạo thai con gái lại đặt tên là Hồi Xuân với Cứu Thế! Văn học nước mình rôm rả thật!”
Chúng tôi cười, vừa đi vừa nói chuyện lan man. Khoảng gần tối, chúng tôi gặp một cặp vợ chồng đang đẩy một xe củi, người vợ cầm càng xe, còn anh chồng đẩy phía đằng sau. Anh chồng đeo kính, ra dáng trí thức, cô vợ thon thả, trắng trẻo, trông rất dễ mến. Anh Bường ngỏ lời:
Thạch Sanh đốn củi trên rừng.
Để nàng công chúa kéo càng lệch vai.
Cô vợ đáo để, dừng xe lại ngay: “Có thương thì đẩy giúp, chứ làm thơ thì công chúa chẳng cần!”
Anh Bường cười khà: “Khá lắm! Chú Biền, chú giúp cô ấy một tay. Xin lỗi hai bác, hai bác về đâu mà đến giờ này vẫn còn vất vả thế này?”
Cô vợ bảo: “Chúng em về đội Bình Minh. Các bác đi xẻ ở đâu thế?”
Anh Bường bảo: “Nào đã biết xẻ ở đâu? Tối nay còn chẳng biết ngủ ở đâu nữa là.”
Anh chồng xởi lởi: “Hay các bác về nhà chúng tôi? Nhà chỉ có mỗi hai vợ chồng son, củng rộng rãi.”
Biền cầm càng xe, chúng tôi đẩy phía đằng sau. Cả bọn vừa đi vừa nói chuyện. Anh chồng cho biết tên là Chỉnh, là bác sĩ ở bệnh viện nông trường, còn cô vợ tên là Thục, là giáo viên cấp hai. Hai vợ chồng có nhà ở đội Bình Minh, lấy nhau được hơn năm nay nhưng chưa có con. Hai người đều quê ở Hà Nam Ninh.
Ăn cơm xong, chúng tôi ngồi nói chuyện phiếm.
Anh Chỉnh bảo: “Trong Tạ Khoang có cây chò chỉ bị đổ, ông Thuyết phó giám đốc nông trường xin xẻ làm nhà, các bác đến hỏi thì có việc đấy.”
Chị Thục bảo: “Dào ôi, xẻ cho cái lão người khu Bốn ấy thì ăn cứt sắt, lão ấy keo kiệt lắm.”
Anh Bường bảo: “Chó ngựa thì có chọn chủ bao giờ. Bà chị ơi, bà chị có thương chúng em là loài súc vật thì mách đường đi đến nhà ông Thuyết ấy.”
Chị Thục bảo: “Đi thì đi. Cách đây dăm nhà chứ mấy.”
Anh Bường đi theo chị Thục, lát sau về bảo: “Mai quân ta kéo vào Tạ Khoang.”
Chị Thục bảo: “Em chịu bác Bường, bác nhũn thật đấy. Anh Chỉnh này, có ai công xẻ gỗ rừng lại đi tính như công thợ mộc mướp của nông trường không? Thợ nông trường còn có gạo cấp, các bác là dân tự do lấy gì mà ăn?”
Anh Bường bảo: “Bí kế phải nhận thôi, tôi cũng chẳng nhũn gì đâu. Kéo cưa lừa xẻ mà…”
Chị. Thục bảo. “Dân khu Bốn ghê thật. Gì thì gì, cái đất cằn nó làm ti tiện con người dến sợ. Ngồi nói chuyện, chủ nhà không mời được hớp nước nóng.”
Anh Chỉnh bảo: “Cô thành kiến lắm. Người ta chỉ xét gốc tích quê quán của bọn người thường, ở bậc cao nhân điều ấy có quan trọng gì.”
Chị Thục cười nhạt: “Ông Thuyết là cao nhân chắc?”
Anh Chỉnh bảo: “Gì thì gì, đã làm đến phó giám đốc nông trường thì đừng có bỉ người ta.”
Chị Thục bảo. “Vâng, anh thì lấy lễ làm trọng.”
Anh Bường bảo: “Tay ấy cũng cao nhân đấy, bà chị ạ. Hắn nói chuyện với mình hệt như nói với thằng Không, thế là hắn cũng đắc đạo. Hắn có cho em cãi hắn một câu nào đâu?”
Chị Thục phì cười: “Đạo gì mà đạo lạ thế?”
Anh Bường bảo: “Nước ta lắm dạo lắm. Trong miền Nam có đạo thờ cả ông Quan Công, lẫn ông Victo Huygô thì mới quái dị.”
Chị Thục bảo. “Thế thì tôi biết ông Thuyết thờ đạo gì rồi.”
Anh Bường cười tủm: “Em cũng biết.”
Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm nấu cơm ăn rồi đi gặp ông Thuyết.
Chị Thục bảo: “Tôi thấy các bác nấu canh suông, cầm lấy gói mì chính mang đi chế vào cho nó có chất.”
Anh Bường giãy nảy không nhận.
Chị Thục bảo: “Các bác khinh vợ chồng em, lần sau đừng có qua đây nhé.”
Anh Bường phảỉ nhận. Anh Bường bảo: “Chúng em cám ơn.” Rồi thở dài: “Nghĩa này phải trả đây.”
Anh Chỉnh cười: “Bố thợ xẻ này khó chơi thật. Bố cứ kỹ tính thế thì chóng già đấy.”
Chúng tôi gặp ông Thuyết ở đầu ngõ. Tôi rùng mình vì trông thấy khuôn mặt ông ta: mặt đen mà tái như da ở bìu dái, lông mày rậm, răng vẩu mà vàng như răng chó.
Ông Thuyết bảo: “Đi bộ mất mấy cây số.” Nói xong đi liền, suốt chặng đường chẳng nói năng gì.
Cây gỗ chò chỉ bị bão đánh bật gốc nằm vắt ngang suối cạn, dài phải đến ba mươi mét, vòng gốc phải bốn người ôm mới xuể.
Ông Thuyết bảo: “Chơi được không?”
Anh Bường bảo: “Ghê cả răng.”
Ông Thuyết có vẻ khó chịu.
Anh Bường bảo: “Chỗ này xa nhà nhỉ!”
Ông Thuyết bảo: “Tớ đây chỉ có gấu với khỉ thôi. Các bác làm lều mà ở. Chiều tôi cho người mang chăn chiếu đến. Tự túc, tự cường, làm việc thật lực nhé. Kích cỡ phân khối tôi ghi cả trong tờ giấy này.”
Ông Thuyết đưa cho anh Bường một tờ giấy kín đặc chữ. Anh Bường cầm lấy đưa cho tôi.
Anh Bường bảo: “Thưa bác, nhỡ chúng em bị chó sói ăn thịt thì sao?”
Ông Thuyết bảo: “Không có chó sói đâu. Ở đây chỉ sợ rắn thôi. Các bác phải cẩn thận loại rắn màu xanh lục, nó đớp một phát là toi đời đấy.”
Anh Bường cười nhạt: “Cám ơn bác chỉ bảo. Thế mấy ngày bác cho đưa thức ăn một lần?”
Ông Thuyết bảo: “Cũng còn tùy, nhưng cứ yên tâm, tôi sẽ cung cấp đều. Tôi về nhé!”
Anh Bường bảo: “Bác lại nhà. Cho em gửi lời cám ơn bác gái với các cháu.”
Ông Thuyết đi, còn lại trơ trọi năm người chúng tôi giữa cánh rừng hoang.
Anh Bường chửi: “Tiên sư đời, khốn nạn chưa! Các con ơi các con, các con đã biết đời là gì chưa?”
Tôi bảo: “Cái ông Thuyết trông kinh nhỉ?”
Anh Bường bảo: “Làm việc đi chúng mày! Thằng Biên thằng Biền chuẩn bị cưa! Tao với thằng Ngọc làm lán. Dĩnh ơi, mày đi xung quanh đây xem chỗ nào có nước không?”
Chúng tôi bắt tay vào việc. Anh Bường chặt tre, đánh gianh, loáng cái là xong. Biên và Biền cưa khúc ngọn trước, xẻ ra mấy tấm ván làm phản nằm. Đến chập tối thì xong mọi việc. Cu Dĩnh đang nấu cơm thì thấy một cô gái gánh đồ lúng củng đến. Cô gái xưng tên là Quy, mười bảy tuổi, là con gái đầu của ông Thuyết. Quy trắng hồng, khuôn mặt trông rất dễ ưa.
Anh Bường bảo: “Em ơi, bà chúa của anh ơi, em mang những gì cho các anh đấy?”
Quy bảo: “Thưa bác, bố cháu bảo mang cho các bác hai cái chăn bông, năm cân thịt lợn, một chai nước mắm với hai chục cân gạo.”
Anh Bường bảo: “Được rồi. Thế có mang cho các anh cái đèn không?”
Quy bảo: “Thôi chết, cháu quên mất. Cháu tưởng các bác ở giữa rừng thì cần gì đèn.”
Anh Bường bảo: “Sống dầu đèn, chết kèn trống. Tưởng gì mà tưởng lạ thế!”
Quy bảo: “Thôi được, ngày mai cháu lại vào, cháu về đây.”
Anh Bường bảo: “Sao lại về? Ngủ đây với các anh. Anh bảo thằng Ngọc kể chuyện trinh thám cho mà nghe.”
Quy bảo: “Phải gió! Cháu về đây Trời sắp tối rồi.”
Anh Bường bảo: “Ngọc! Tiễn cô bé một đoạn.”
Tôi đi theo cô gái. Tôi hỏi: “Em tên là Quy à? Tên hay nhỉ?”
Quy cười: “Có gì đâu mà hay? Con gái tên là Quy vất vả lắm. Có người bảo em có cái tên rất chi là a dua.”
Tôi bảo: “Cái tên ấy kể cũng lạ. Hình như cũng là một thứ thần trùng. Hồi tôi học đại học, những cô nào tên Quy đều nhạt thếch và bạc bẽo.”
Quy ngạc nhiên: “Anh học đại học, sao còn đi làm thợ xẻ?”
Tôi cười, học lối nói của anh Bường, tôi bảo: “Đấy là vì tình đấy, em ạ. Tình bao giờ cũng lung tung. Người ta chỉ xót nó khi nó buột khỏi tay thôi.”
Quy bảo: “Anh nói hay nhỉ? Em chẳng hiểu gì.”
Tôi bảo: “Em chẳng hiểu gì đâu.”
Trong lòng tôi một nỗi căm giận vô cớ bỗng dưng vụt đến, khiến tôi đắng khô miệng lại. Tôi rít khe khẽ: “Chỉ có một anh thôi, còn lại là chúng nó.”
Quy ngạc nhiên, hốt hoảng.
Chúng tôi chia tay nhau như người dưng. Mà người dưng thật! Người dưng ơi người dưng, một triệu người tôi gặp trong đời có ai là máu của máu tôi? Là thịt của thịt tôi? Có aị sẽ sống vì tôi và chết vì tôi? Có ai không? Có ai là hoàng đế của tôi? Cũng là thần tử của tôi? Ai là tâm phúc với tôi? Là hy vọng của tôi? Cũng là địa ngục của tôi?
Tôi quay lại lán. Cả bọn ăn cơm thầm trong bóng tối.
Anh Bường hỏi tôi: “Thế nào? Mày có hôn con gái tay Thuyết được cái nào không mà mặt mày u ám như mặt khỉ ấy?”
Tôi cáu: “Anh đừng đùa kiểu ấy.”
Anh Bường bảo: “Thôi ông trí thức con ơi, các ông cứ đâu đâu về mặt đạo đức, điều ấy chỉ có lợi cho chính trị thôi, còn đàn bà thì không có lợi gì cả.”
Tôi ăn cơm mà thấy miếng cơm nhạt thếch. Tôi cắn tan cả một hòn sỏi trong miệng. Có gì đâu, hồi học đại học, tôi đã từng yêu và chịu đau đớn. Tôi sẽ kể lại việc này ở một đoạn khác. Ban đêm, sương xuống lạnh chúng tôi đốt một đống lửa rồi chui vào chăn nằm.
Nửa đêm, có một con hoẵng tác rất thảm thiết ở bên kia núi, tôi không sao ngủ được.
Anh Bường thức dậy bảo: “Này công tử bột, nhớ nhà hả?”
Tôi bảo: “Không. Con hoẵng nó kêu thương quá! Nó lạc mẹ hay sao hả anh?”
Anh Bường bảo: “Mày không nên đa cảm như thế. Cuộc đời còn cực nhọc lắm con ạ. Chúng ta phải làm kiệt sức để kiêm miếng ăn, đa cảm làm yếu người đi. Ngày mai khối lượng công việc rất nặng. Mày mất ngủ vì một tiếng hoẵng kêu, điều ấy có hại vô cùng. Tao đưa mày lên rừng làm việc chứ không phải để mày tu dưỡng.”
Tôi thở dài: “Hoẵng nó kêu suốt đêm… Bao giờ nó sẽ gặp mẹ… Anh cứ ngủ đi. Anh kệ em! Ngày mai em không làm mất việc đâu.”
Anh Bường cáu: “Thằng khỉ ạ, những nhạy cảm vô lối sẽ làm tan nát cuộc đời mày mất thôi. Làm gì có chuyện hoẵng đi tìm mẹ? Con ơi, đấy là một con hoẵng cái trụy lạc, nó đi tìm hoẵng đực. Vô phúc cho nó, vớ được một con hoẵng đực Sở Khanh. Con hoẵng đực này chơi bời nhiều quá! Hoẵng cái bị đổ bệnh. Đơn giản là như thế.”
Mãi mãi là như thế. Tất cả những tiếng kêu trong đêm đều là tiếng kêu bệnh hoạn của dục vọng suy đồi. Tình mẫu tử không bao giờ gào toáng lên thế. Tình mẫu tử là thứ nước màt chảy ngược vào lòng, nó bào tan nát ruột gan ra, hoặc nó biến thành máu để bắt cơ thể làm việc, buộc phải đẻ ra một sản phẩm vật chất cụ thể thiết thực, không hề phù phiếm.”
Tôi ngủ thiếp đi trong những chập chờn mộng mị. Tôi biết anh Bường không có khả năng lý giải gì về sự sống. Mà nói chung, không ai lý giải được gì về nó, cái sự sống vô cùng vô tận ấy. Hễ tối tăm và đói kém là nó sẽ tác ầm lên.
Sáng hôm sau, cơm nước xong là chúng tôi vào việc. Biên với Biền một cặp. Tôi với anh Bường một cặp. Chúng tôi dùng cưa ngang cắt cây gỗ ra từng đoạn ngắn dài theo kích cỡ ông Thuyết định sẵn. Chò chỉ là loại gỗ rất cứng và giòn, cưa ngang thì dễ, xẻ dọc thì thật cực nhọc. Thân gỗ to, chúng tôi phải xẻ theo lối Thanh Hóa, tức là cứ để khúc gỗ ngang dưới đất mà xẻ chứ không kê kích gì cả. Không hiểu cây chò chỉ này ra sao mà nhựa gỗ rất cay, cả bốn chúng tôi ai cũng nước mãt nước mũi giàn giụa.
Anh Bường bảo: “Loại gỗ này vua Thủy Tề dùng làm nhà dưới nước, khó nhằn lắm. Mẹ khỉ, kiếp trước lũ chúng ta nợ thằng cha Thuyết một vạn quan đây.”
Theo giấy tờ ông Thuyết ghi sẵn, chúng tôi phải xẻ cái cột nhà 40x40x320, đấy là chưa kể các cây quá giang với vì kèo.
Anh Bường bảo: “Lão Thuyết này làm nhà kiểu gì mà lắm cột cái thế không biết? Hay là nhà sàn?”
Buổi trưa có một anh công nhân nông trường đi kiếm củi qua chỗ chúng tôi Anh Bường níu lại nói chuyện. Anh Bường phàn nàn phải xẻ 36 cái cột nhà to tướng, anh công nhân cười: “Nhà năm gian trên này chỉ đến 12 cái cột là hết mức. Tay Thuyết này ranh lắm, chắc chắn hắn xẻ để bán cho cánh lái xe dưới xuôi đây mà. Họ thích cột nhà bằng gỗ chò chỉ lắm.”
Anh Bường bảo: “Ông anh này, phiền bác dụ cánh lái xe vào đây, bọn này sẽ bán trực tiếp, không cho tay Thuyết biết, có được không?”
Anh công nhân bảo: “Được, nhưng có mầu không?”
Anh Bường bảo: “Dứt khoát chứ? Bác tên là gì? Em tên là Đặng Xuân Bường.”
Anh công nhân bảo: “Tôi tên là Trần Quang Hạnh.”
Anh Bường bảo: “Bác có cái tên đẹp thật. Đừng làm xấu cái tên nhé!”
Anh công nhân cười: “Được rồi, bốn hôm nữa sẽ có ô tô vào đấy.”
Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi chờ mãi nhưng không thấy Quy đến.
Anh Bường bảo: “Con ranh con, lại nói dối rồi. Đàn bà ấy, chúng mày ạ, không nên bao giờ đặt lòng tin vào chúng. Chúng tàn bạo trong chính sự ngây thơ trong trắng của chúng. Chúng gây ra cho người ta hy vọng, ham muốn, chờ dợi; rất cuộc, ta cứ mòn mỏi đi cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.”
Hôm sau nữa thì Quy đến. Cô mang cho chúng tôi hai cái bắp cải với cây đèn dầu.
Quý bảo: “Eo ôi, các bác làm nhanh nhỉ. Được bao nhiêu là gỗ rồi. Mai cháu phải bảo bố cháu vào xem mới được.”
Anh Bường bảo: “Đừng bảo ông cụ vào, bọn anh chỉ mê em thôi. Ông cụ vào là bọn anh lãn công đấy. Lao động chân tay, em ạ, không thể lấy chính trị động viên được, chỉ lấy tiền và gái thôi, đấy mới là thuốc bổ chứ. Chủ nghĩa tư bản nó có cái đểu là lấy tiền và gái để bóc lột giá trị thặng dư, nó làm cho các bác vô sản nhà ta mất hết của cải và tinh lực. Đả đảo chủ nghĩa tư bản thối nát.”
Trước khi Quy về, anh Bường bảo: “Ngọc ơi, mày lấy giấy bút ra biên cho tao cái thư. Em Quy ra bưu điện gửi cho anh nhé.”
Quy bảo: “Bác cứ viết thư đi.”
Anh Bường đọc để cho tôi chép. Thư như sau:
Rừng Tây Bắc ngày… tháng… năm…
Kính nhớ gủi ông Hai Dung (tức là bố của Biên và Biền), bác cả Điều (tức là bố tôi, mẹ cu Dĩnh (tức là vợ anh Bường).
Tôi là Bường, thay mặt anh em thợ xẻ báo tin đã có việc làm, công trả khá, mọí người đều khoẻ. Đồng bào miền núi ai cũng tốt, người ta đều giúp đỡ chúng tôi hết lòng hết sức. Tuần sau tôi sẽ gửi tiền về mẹ cu Dĩnh chia cho nhà chú Biên, chít Biền ba phần, nhà bác cả Điều một phần, còn giữ lại nhà ta một phần. Thuốc thang cho ông cụ tùng tiệm thôi, bệnh già thì chẳng gì chữa được, cốt là cho mấy đứa trẻ có áo mặc, đừng chết đói. Tôi chỉ thương mấy mẹ con không có cái nhà tử tế mà ở nên quyết tâm xông pha lặn lội trên rừng. Nhờ giời có phương hướng đúng, chỉ hai năm là nên danh giá. Tôi xin mẹ cu Dĩnh giữ trọn chữ hiếu, chữ tình, còn mọi thứ ở đời đều phù vân cả. Giấy vắn tình dài. Ký tên: Đặng Xuân Bường.
Quy bảo: “Bác Bường viết thư hay nhỉ.”
Anh Bường cười khà: “Cũng là trò mị dân thôi, cô em ơi. Tráng sĩ xa nhà, cốt nhất cái hậu phương phải ổn định.”
Chúng tôi giữ Quy lại ăn cơm nhưng Quy không nghe.
Anh Bường bảo: “Phiền cô em vất vả quá! Em ngồi đây, anh bảo chúng nó vật nhau mua vui cho mà xem.”
Anh Bường bảo chúng tôi cởi quần áo ra rồi làm bốn cái thăm bằng giấy, người nào bốc phải thăm có dấu cộng thì phải vào xới vật nhau. Tôi và Biền bốc phải thăm có dấu cộng.
Anh Bường cười khà: “Hay quá, tao chỉ sợ thằng Biên, thằng Biền bốc phải thăm, hai anh em sinh đôi vật nhau thì chẳng khác “Củi đậu đun hạt đậu, hạt đậu khóc hu hu, cùng sinh ra một gốc, thui nhau nỡ thế ru?[1]. Bây giờ bắt đầu vào cuộc, thằng nào thắng chiều nay được nghỉ.”
Tôi với Biền vào xới. Biền ít tuổi nhưng to con hơn tôi, hắn nặng những 62 cân. Tôi và Biền đều học thầy Hai Dung nên các ngón nghề đều chẳng lạ gì nhau. Biền tính rất cục, hắn đã cáu lên thì bất chấp, anh em họ hàng hắn cũng chẳng nể. Tôi biết vậy nên bước vào xới tôi phải tươi cười như hoa như nụ, đi những miếng nhẹ nhàng để đẩy hắn vào thế không chơi ác được. Hai chúng tôi vờn nhau độ ba phút tôi đã dụ Biền theo nhịp những miếng trò hào hoa vô thưởng vô phạt của tôi. Tôi giơ chân, Biền cũng giơ chân. Tôi giơ tay, Biền cũng giơ tay. Anh Bường, Quy, Biên và cu Dĩnh vỗ tay hò hét rầm lên. Tôi bổ miếng thượng, Biền cũng bổ miếng thượng. Tôi bổ miếng hạ, Biền cũng bổ miếng hạ.
Tôi nghĩ thầm: “Số thằng này, trời bắt ăn đất, không phải lỗi ở mình.”
Tôi phục xuống, vận nội công bất thần hai tay tóm lấy cổ chân Biền ngay chỗ mắt cá, vừa bóp vừa tuốt thẳng lên quá đỉnh đầu. Biền bị đau, lại mất thế, ngã oạch một cái. Tôi sấn vào, gịân đầu gối vào chỗ bọng đái, lấy cùi tay chặn ngay cổ Biền khiến hắn không thở được nữa.
Mọi người vỗ tay rầm lên.
Biền ngồi dậy, lắc đầu: “Ông trẻ đểu thật, tưởng chơi đùa hóa ra chơi thật.”
Tôi cười, vỗ vai Biền: “Mình xin lỗi, miếng này ông cụ dạy thêm nên Biền không biết đấy thôi.”
Quy có vẻ thích, hai má đỏ lựng.
Anh Bường bảo: “Bây giờ đến lượt anh.”
Anh Bường nhảy ra bãi cỏ, đi bài Xà quyền, là một bài võ nổi tiếng trong môn phái võ Vịnh Xuân, vừa đẹp mắt, lại biến hóa khôn lường. Chúng tôi nhìn, ai nấy đều nín thở, thót tim lại vì căng thẳng. Tôi đã thấy nhiều người múa quyền nhưng ít thấy ai chuyên tâm vào bài quyền như vậy. Chúng tôi như bị hút hồn. Chỉ đến khi anh Bường dừng tay bái tổ, cả mấy anh em chúng tôi rnới thở phào nhẹ nhõm. Chiều hôm ấy trời nắng chang chang.
Tôi hỏi anh Bường: “Em tự do chứ?”
Anh Bường dứt khoát: “Không.”
Tôi bảo: “Thằng nào được vật thì nghỉ cơ mà?”
Anh Bờng kéo tôi ra góc để Biên và Biền khỏi nghe thấy. Anh bảo: “Tao nói cho mày biết, mày bỏ cái trò lưu manh ấy đi. Mày dụ thằng Biền chơi giả để hạ nó thật. Lối vật của mày là lối vật của quân trí thức, mày bịp con Quy thì được chứ không bịp được tao đâu.”
Tôi cười: “Anh biết không:, người cách mạng chỉ chú tâm vào mục đích cuối cùng mà thôi.”
Anh Bường bảo: “Đừng có bẫy tao vào chính trị tư tưởng, mày đểu lắm.”
Tôi bảo: “Anh còn lạ gì thằng Biền nó khỏe thế, nó bẻ gãy tay tôi anh có thương không?”
Anh Bường bảo: “Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! Cút mẹ mày đi.”
Tôi bảo: “Anh là một thằng tù hình sự, một tên lưu manh “gin”, tại sao anh không chịu nổi tôi?”
Anh Bường nhổ nước bọt vào mặt tôi.
Anh bảo: “Mày tự do. Nếu cần, sáng sớm mai tao đi vay tiền cho mày về xuôi.”
Tôi nằm úp mặt xuống bãi cỏ. Gió thổi một lúc làm khô bãi nước bọt trên mặt tôi. Bàn tay tôi sạn chai và rớm máu, bàn chân tôi nứt nẻ. Suốt một tuần nay tôi không tắm giặt, da thịt tôi bẩn thỉu, ngứa ngáy. Tôi bỗng thấy thương xót mình ghê gớm. Một nỗi thương xót khủng khiếp bóp nghẹt tim tôi. Tôi hộc lên như chó. Tôi lăn lộn trong đám cỏ gianh, đá nhọn và gai góc. Tôi nhắm mắt lại để cố hình dung khuôn mặt cô gái tôi đã từng yêu.
Nàng bé nhỏ, mặt tròn, lông mày rậm, có một nốt ruồi sau cổ cách tai phải chừng bốn phân. Tất cả đường nét trên khuôn mặt nàng đều khá rõ ràng: đôi môi, cánh mũi, cả những đường viền… Nàng không hiểu tôi có thể mang lại cho nàng điều gì đó hơn cả tình yêu (làm gì có tình yêu?) Nàng dã đánh mất đi sự kính trọng và thương xót trong tôi. Mãi mãi. Vĩnh viễn. Không gì cứu chuộc được. Tôi chỉ căm giận, căm giận những phù vân trong toàn bộ hoàn cảnh sống của thời dại tôi. Những giáo điều đạo đức bao giờ cũng giản dị, ngây ngô, buồn cười, sơ lược, thậm chí còn đểu giả nữa. Ác nhất là những giáo điều ấy đúng. Bởi nó cần. Nó là sợi xích tròng cổ để giữ hình ảnh tương đối về mỗi chúng ta. Nếu không sẽ là hủy diệt…
Tôi đi vào rừng tìm nước tắm. Suối cạn khô. Những cánh bướm trắng lả tả, chập chờn trong hộc đá. Ngược suối mãi, tôi mới tìm được một mó nước khả dĩ tắm được. Tôi cởi trần truồng, đầm mình trong vũng nước giống như trâu đầm. Nước xanh lè, hơi nhơn nhớt vì đáy nước nhiều lá mục quá. Tôi không dám tắm lâu vì sợ ốm, sợ ngã nước. Hai mươi mốt tuổi đầu mà chết thì thật phí đời. Cần phải sống, cho dù cuộc sống ngàn lần khốn nạn, đầy rẫy xấu xa cũng như cực nhọc.
Tôi quay trở về lán xẻ. Anh Bường kê chéo khúc gỗ đang cùng cu Dĩnh kéo cưa. Anh Bường đứng trên cao, còn cu Dĩnh ngồi phệt xuống đất. Thằng bé rán sức, mồ hôi mồ kê đầy trên lưng trông rất tội nghiệp. Tôi đến gần cu Dĩnh, lẳng lặng cầm lấy tay cưa. Tôi và anh Bường không nói năng gì, cứ thế lầm lụi xẻ hết khúc gỗ này đến khúc gỗ kia đến tận tối mịt.
Sắp sửa nghỉ, lúc ấy tôi đứng dưới đất, dé chân chèo, tôi chuẩn bị dừng cưa thì “xoẹt” một cái, tay cưa chạm sát ngực tôi. Tôi kêu một tiếng thảm thiết rồi ngã lăn ra. Không biết vô tình hay hữu ý, anh Bường đã để lưỡi cưa bật thia lia qua mạch gỗ, bập vào đầu ngón chân tôi. Chỗ khớp ở đầu ngón chân trái của tôi trồi ra một đoạn đầu xương trắng nhởn. Máu xối ra ướt đẫm. Tôi đau đến nỗi cơ hàm của tôi ríu lại, giật liên hồi như thể động kinh, mồ hôi rịn ra đầy mặt, trong khi đó toàn thân tôi lạnh toát. Tôi lăn lộn trên đất. Biên và Biền phải nằm đè lên, áp người tôi xuống đất. Anh Bường tái mặt đi, dùng một sợi dây cao su buộc ga-rô giữa bàn chân tôi để cầm máu. Anh Bường rối rít gọi cu Dĩnh lấy nước nóng hòa muối để rửa vết thương cho tôi. Tôi tê dại vì đau đớn. Hai hàm răng lập cập, mặc dầu tôi đã gắng sức nhưng không thể khép hàm lại được. Mãi đến nửa đêm tôi mới thiếp đi có lẽ vì tôi hoàn toàn kiệt sức. Tôi sốt miên man ba ngày liền, chân sưng tấy lên. Vết thương thật kinh khủng: lưỡi cưa phạt mất hai phần ba ngón chân, lủng là lủng lẳng. Phần thịt ở đầu ngón chân đen lại, chắc bị thối. Anh Bường đập nhỏ những viên tétraxyclin rắc lên vết thương, mặc dù tôi rửa nước muối nhưng chỗ khe nứt vẫn có mủ trắng.
Buổi chiều, anh công nhân nông trường tên là Trần Quang Hạnh dẫn vào một xe “Zin” bốn tấn. Anh Bường bán phắt mười hai cái cột nhà với cả mấy hộp gỗ to dài 2m20, dày 8 phân, rộng 60 phân. Lái xe trả tiền sòng phẳng. Anh Bường chia cho người dẫn mối hai chục nghìn.
Anh Bường bảo: “Bác Hạnh ạ, bác phải đổi tên là Trần Đức Hạnh.”
Anh Chỉnh và chị Thục đi lấy củi qua chỗ chúng tôi. Thấy chân tôi sưng to, chị Thục rất thương xót.
Chị Thục chỉ tay vào mặt anh Bường mắng: “Bác thật dã man, chân nó thế này mà không chạy chữa gì à?”
Anh Bường cúi mặt, thút thít khóc: “Bà chị bảo em làm gì được?”
Anh Chỉnh xem xét vết thương của tôi. Anh bảo: “Phải cắt phần đầu ngón chân bị thối. Để lâu sẽ hoại thư, chết người! Khổ quá, tôi không mang dụng cụ y tế đi theo.”
Anh Bường lau nước mắt hỏi: “Chặt bằng dao rựa được không?”
Anh Chỉnh bảo: “Được. Nhưng còn thuốc men thì sao?”
Chị Thục bảo: “Để tôi về lấy.”
Nói rồi xăng xái ra đi. Anh Chỉnh bảo: “Em lấy cái túi treo ở trên tường. Mang cả bộ kim tiêm nhé.”
Anh Bường bảo: “Dĩnh! Đi với cô Thục.”
Anh Chỉnh sai Biền đun nước nóng luộc dao rồi rửa vết thương cho tôi. Anh Chỉnh bảo: “Các bố thợ xẻ liều thật. Coi mạng người như mạng muỗi.”
Khoảng một tiếng sau chị Thục với cu Dĩnh về. Chị Thục xách theo một con gà mái ở nhà, bắt Biên và Biền đi làm thịt nấu cháo cho tôi ăn.
Anh Bường bảo tôi ngồi kê chân lên một súc gỗ. Anh bảo: “Bình tĩnh nhé, bây giờ chặt chân đấy.” Lại bảo: “Bác Chỉnh cầm hộ em con dao, đặt vào đây. Em lấy chầy táng cho một phát, đứt ngay.”
Chị Thục ôm mặt: “Khiếp! Tôi sợ quá!”
Anh Chỉnh cười: “Trong đời bác sỹ của tôi, hành nghề thế này thì đây là lần thứ nhất.”
Anh Chỉnh đặt dao vào chỗ dầu ngón chân tôi. “Uỵch” một phát, chưa chi anh Bường đã lấy chầy nện xuống sống dao.
Tôi bật người lên vì đau quá.
Anh Chỉnh bảo: “Chưa chi đã chặt, lưỡi dao đã khớp đâu nào?”
Tôi bảo: “Thôi thôi, đau lắm, chặt nữa thì chết chân tôi.”
Chị Thục giằng lấy chầy trong tay anh Bường: “Cút đi! Định giết người ta hay sao?”
Chị Thục bảo anh Chỉnh: “Bao giờ được, anh bảo em.”
Anh Chỉnh bảo: “Được rồi đấy! Chặt đi”
Chị Thục vung chầy: “khự” một cái, chỗ thịt thối ở đầu ngón chân tôi văng ra.
Tôi cắn chặt răng vào bàn tay, hoa mắt đi…
Anh Chỉnh tiêm thuốc, băng chân lại cho tôi. Anh bảo: “Tốt rồi, khoảng vài ngày là ổn.”
Anh Bường cầm mẩu thịt thối ở đầu ngón chân tôi ném vào đống lửa. Anh bảo: “Tôi chỉ ước toàn bộ chất lưu manh trong con người nó cũng cháy như cục thịt này.”
Chị Thục bón cháo cho tôi, sau lại lấy cả một con sâm Triều Tiên trong túi thuốc của anh Chỉnh đưa cho tôi ngậm.
Anh Bường bảo: “Thằng Ngọc sướng nhé! Đời tao chưa bao giờ được ai hầu hạ săn sóc tận tụy thế này.”
Chị Thục bảo: “Đưa chân đây, tôi chém cho một nhát rồi tôi săn sóc cho.”
Anh Chỉnh cười: “Vợ tôi ở nhà thì kèn kẹt, nhưng ra thiên hạ thì xởi lởi hào phóng lắm anh ạ!”
Anh Bường bảo: “Đàn bà lạ lắm. Cái gì thuộc về họ thì họ hành hạ đến nơi đến chốn, họ chỉ quý thứ tình gió đưa thôi. Bởi vậy, sống ở đời, khốn nạn nhất là thằng đàn ông nào trở thành vật sở hữu của đàn bà.”
Anh Chỉnh bảo: “Ừ, có thế thật.”
Chị Thục bảo: “Thế thì anh sống với tôi làm gì? Hay là ly dị?”
Anh Chỉnh cười: “Lại tự ái rồi!”
Anh Chỉnh với chị Thục định về. Anh Bường bảo Biên và Biền xếp lên xe ba gác của anh Chỉnh hai hộp gỗ.
Anh Bường bảo: “Chúng em biếu hai bác bộ phản mang về nằm. Của thiên hạ, mình là người tốt không được hưởng, để bọn người xấu nó hưởng thì xót xa lắm. Chị Thục nhất định không nhận.
Chị Thục bảo: “Không được đâu! Gỗ này thuộc quyền sở hữu của ông Thuyết rồi.”
Anh Bường bảo: “Hôm qua chúng em đã bán cho cánh lái xe một nửa. Sợ gì đời!”
Anh Chỉnh cười: “Các bố thợ xẻ liều thật, bán giời không văn tự. Tay Thuyết nó hạch thì sao?”
Anh Bường bảo: “Các bác yên tâm. Chúng em có cách. Tay Thuyết nó trả công rẻ như thế, chúng em không lừa xẻ mà chỉ kéo cưa thì sống làm sao?”
Chị Thục bảo: “Gì thì gì, tôi không nhận đâu.”
Anh Bường gọi Biên, Biền và cu Dĩnh đến: “Tất cả chúng mày quỳ xuống lạy hai bác đây bốn lạy. Hai bác không nhận thì tất cả đập đầu vào đá tự tủ cho tao. Người ta không coi chúng mình là người nữa đâu.”
Cả mấy anh em thợ xẻ quỳ xuống chắp tay. Cả cu Dĩnh cũng quỳ xuống, mặt úp xuống đất.
Chị Thục khóc: “Thôi thôi, các bác làm gì lạ thế. Tôi xin nhận một hộp gỗ vậy.”
Anh Bường sướng lắm, cầm tay chị Thục lắc lấy lắc để: “Thế là bà chị thông cảm cho chúng em rồi. Bà chị không coi chúng em là súc vật! Chúng em phận hèn, của cải chẳng có, chúng em mắc nợ nghĩa tình thì khốn nạn lắm!”
Biên, Biền đẩy xe đưa tiễn anh Chỉnh với chị Thục đến tận cửa rừng.
Mấy hôm sau, chân tôi đỡ hẳn, lại xẻ được gỗ, anh Bường mừng lắm. Anh Bường bảo: “Hôm nay tay Thuyết vào đây, hứa sẽ khao quân. Đời lại tươi rồi.”
Chiều hôm ấy ông Thuyết và Quy vào. Tưởng khao quân có gì hóa ra chỉ có hai bao thuốc lá với cân mắm tôm.
Ông Thuyết bảo: “Đây là mắm xuất khẩu, ông bạn tôi ở ngoại thương Hải phòng mang lên.”
Anh Bường bảo: “Em biết rồi. mắm tôm này xuất sang Nhật Bản chứ gì?”
Ông Thuyết bảo: “Không biết, nhưng dân châu âu nghiện mắm tôm nước ta lắm.”
Ông Thuyết xem xét cây gỗ, phàn nàn: “Tôi tưởng cây chò chỉ này xẻ ra phải được vài khối, hóa ra cũng ít nhỉ?”
Anh Bường bảo: “Bác tính, một nửa cây gỗ rỗng ruột, được thế là khá đấy. Bác làm nhà, bác phải hạ thêm ít nhất hai cây nữa.”
Ông Thuyết bảo: “Tôi tính rồi, cây gỗ này chỉ làm cột với quá giang thôi, vì kèo với cầu phong, li-tô phải hạ thêm cây dâu nữa. Tôi cũng mụốn xẻ ít ván, nhưng cạn tiền quá.”
Anh Bường bảo: “Bác gắng lên là được.”
Ông Thuyết bảo: “Xẻ xong cây gỗ này thì xẻ tiếp cho tôi cây dâu. Cây dâu này mọc hơi cheo leo. Lại ở xa nữa.
Anh Bường bảo: “Tiền làm được hết.”
Ông Thuyết bảo: “Cây dâu này có hai chủ, tôi chỉ ké vào thôi. Chủ chính là ông Sông, người Thái ở bản Vược. Sáng mai ông ấy vào đấy.”
Ông Thuyết lấy giấy bút ra tính toán rồi bảo: “Bây giờ tôi thanh toán tiền công. Theo thỏa thuận, xẻ cây gỗ này tôi phải cấp 50 cân gạo, 10 cân thịt với từng này… từng này… tiền. Thế nhưng các bác xẻ không đủ số lượng, tôi trừ từng này… từng này… tiền. Hai cái ruột chăn bông, từng này tiền… các bác cần thì tôi bán lại.”
Anh Bường bảo: “Như thế là bác chỉ trả một phần ba số tiền thỏa thuận thôi à?”
Ông Thuyết bảo: “Đáng ra tôi còn phải trừ cả một hộp gỗ các bác tự tiện bán cho nhà Thục, nhưng vì cô ấy tự giác mang trả lại cho tôi nên thôi.”
Anh Bường bảo: “Hộp gỗ ấy tôi không bán, tôi biếu người ta đấy. Bác làm như thế là nghĩa lí gì?”
Ông Thuyết bảo: “Bác làm như gỗ của mình không bằng. Đáng ra tôi còn sai tự vệ nông trường bắt giam nhà Thục vì xâm phạm quyền sở hữu cá nhân của tôi.”
Anh Bường bảo: “Thôi. Vợ chồng cô Thục không có lỗi gì ở đấy Bây giờ bác tính tiền đi. Bác không trả tiền như tôi thỏa thuận, tôi mời bác xơi nhát dao này. Đùa ai thì đùa, đừng dùa với Đặng Xuân Bường.”
Ông Thuyết cười gằn: “Này, giở thói lưu manh ra đấy phải không? Đất có lề, quê có thói. Lề thói ở đây không thế đâu nhé. Tôi nói cho biết, tôi chỉ phẩy tay là chú tan xương. Chú muốn yên ổn hành nghề hay muốn thôi nào?”
Anh Bường bảo: “Gớm, hung hăng nhỉ!”
Giữa lúc ấy, đang nắng chang chang, bỗng ở trên cao trong xanh vang lên một tiếng sấm rền. Tất cả chúng tôi lạnh toát cả người.
Ông Thuyết châm điếu thuốc lá, khẽ mỉm cười: “Chịu chưa?”
Anh Bường lắc đầu: “Chịu.”
Ông Thuyết bảo: “Cầm lấy tiền. Sáng mai tôi cho xe vào chuyển gỗ ra đấy.” Ông bảo Quy: “Con về trước đi. Bố còn vào bản Vược, đến nhà bác Sông.”
Ông Thuyết với Quy về.
Anh Bường mang tiền ra đếm. Anh bảo: “Theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đợt xẻ này phải đạt từng này… từng này tiền… Ký với tay Thuyết, hóa ra bọn mình lỗ 70%. Được cái tao đã linh dộng bán đi mười hai cái cột với bảy hộp gỗ, được từng này, từng này… tiền. Hóa ra so với chỉ tiêu, bọn mình vượt 220%. Đời xôm thật! Thế mới gọi là hạch toán kinh tế chứ!”
Anh Bường bảo: “Chiều nay nghỉ ngơi, sáng mai tao với cu Dĩnh ra bưu điện gửi tiền về quê. Lão Sông với lão Biển gì mà vào, tao cử thằng Ngọc đứng ra đại diện.”
Chúng tôi rủ nhau đi tắm. Anh Bường bảo: “Tao có việc, đi vắng. Cứ ăn cơm trước đi nhé.” Nói rồi mắt trước mắt sau ra đi. Tôi thấy điệu bộ anh Bường đáng ngờ nên quyết định không đi tắm nữa, tìm cách rình xem.
Anh Bường đi rất nhanh về phía nông trường, tôi thấy anh Bường đi tắt chứ không đi đường thẳng nên càng ngờ tợn. Đến cánh đồng bông, tôi thấy anh chui vào, một lát sau chui ra, thấy người khác hẳn, trên người buộc đầy cành lá, mình mặc mỗi chiếc quần đùi. Đến chỗ ngoặt cừa rừng, anh Bường chui vào một bụi cây rậm không thấy ra nữa.
Tôi băn khoăn: “Thằng cha này giở trò gì vậy?”
Bất giác bàn tay tôi xiết chặt lại, linh tính báo rằng tôi sẽ chứng kiến một việc chẳng lành.
Quả nhiên, lúc sau, từ trong rừng tôi thấy Quy đi ra. Ánh hoàng hôn buổi chiều hắt lên cảnh vật một thứ ánh sáng mờ mờ buồn không thể tả. Quy cầm một nhành củi, vừa đi vừa đập đập vào những bụi cây ven đường. Tôi không thích dáng vẻ tự tin vô tư của Quy. Điều ấy ngu xuẩn biết bao. Phải, ngu xuẩn. Cả cô gái tôi đã từng yêu cũng thế. Nàng cứ tưởng tự tin và tự do là điều hay hớm cho mình. Trăm lần không, vạn lần không. Với phụ nữ, tự tin với tự do nghĩa là bất trắc, là hiểm họa, là thiếu thốn, thậm chí còn có khả năng bất hạnh và điếm nhục. Với riêng tôi, nhân cách của người phụ nữ trước hết là sự phụ thuộc của nàng đối với chính tôi. Mãi mãi. Vĩnh viễn là như thế. Bởi tôi là đàn ông, là tôi. Không ai thay thế được. Khi Quy đi qua chỗ anh Bường nấp thì vụt một cái, anh Bường chồm dậy. Tôi nghe thấy tiếng Quy kêu thất thanh. Anh Bường bịt miệng, bế thốc cô gái vào trong bụi rậm.
Tôi hiểu ra được tình thế. Một nỗi căm giận khiến tôi đau đến thót tim. Tôi ngã vật xuống, tắc nghẹn cả cổ. Tôi chồm dậy, vừa chạy vừa ngã, tôi lao đến chỗ bụi cây. Quy bị lột truồng, hai bắp chân trần rối rít khua lên trời. Tôi kéo anh Bường ra, đấm thẳng vào khuôn mặt méo xệch của anh ta. Anh Bường nhận ra tôi, “a” lên một tiếng ngạc nhiên. Chúng tôi lao vào nhau như hai con thú. Khoảnh đất chúng tôi đánh nhau rất hẹp, xung quanh là những bụi cây gai. Chúng tôi không thể lùi, không thể tiến, cả hai nắm chặt tay nhau thủ thế, ở ngoài trông vào chắc buồn cười lắm.
Ghìm nhau một lúc, anh Bường rít lên: “Đồ chó, nếu muốn đánh nhau thì ra ngoài kia, chứ trong bụi gai thế này, thì làm gì được?”
Nói rồi, anh Bường buông tay, tìm cách nhảy ra bãi trống.
Tôi nhảy theo anh.
Anh Bường vừa lùi vừa bảo Quy, buồn hẳn: “Con ranh con, mặc quần vào! Có thích xem đánh nhau thì đứng mà nhìn. Chúng ông đánh nhau vì mày đấy.” Nói rồi, anh Bường thản nhiên đứng ngoáy lỗ mũi, tựa hồ như việc chúng tôi đánh nhau là việc tất nhiên, điều ấy hoàn toàn vô nghĩa và không có giá trị gì.
Thú thực là tôi bối rối. Anh Bường mỉm cười khuyến khích: “Thế nào? Tiến lên đi chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng Tôbôdô! “
Tôi điên tiết. Một thoáng tự nhiên tôi nghĩ đến tình yêu đầu tiên trong cuộc đời tôi. Dù cô gái ấy trăm lần phù phiếm, dối trá và vô luân, dù sao tôi đã yêu nàng. Tôi biết chắc chắn sau nàng, trong tôi không còn tình yêu nào khác. Người phụ nữ mà tôi sẽ gặp sẽ chẳng bao giờ khiến tôi vui sướng hoặc đau đớn nữa. Tôi lao vào người anh Bường với tất cả sự căm giận và xót xa từ đáy lòng tôi. Chắc hẳn anh Bường không thể ngờ rằng bất giác tôi lại trở nên hung hãn, tàn nhẫn đến mức ấy. Cú ra đòn của tôi mạnh và độc đến nỗi nếu như dính đòn, địch thủ sẽ chết hoặc tàn phế suốt đời. Anh Bường hét lên một tiếng để nhảy tránh đòn. Chúng tôi đánh nhau ác liệt. Tôi vốn theo học môn phái Thiếu Lâm Hồng Gia, còn anh Bường theo học môn phái Vịnh Xuân. Hồi ở bộ đội anh Bường cũng có học thêm nhiều môn phái khác, vì vậy cách đánh của anh biến hớa khôn lường. Tôi luôn luôn dính đòn. Có lẽ anh Bường không muốn hạ ngã tôi ngay nên cố tình đi chuyển vòng tròn để tôi dần dần giảm bớt sức lực. Gần tiếng đồng hồ, cả hai chúng tôi mệt lả, phải buông nhau ra.
Đêm buông xuống. Ánh trăng rạng rỡ khắp cả núi rừng. Tôi và anh Bường nằm lăn trên cỏ, thở hồng hộc.
Được một lúc, anh Bường ngồi dậy bảo tôi: “Mày có thấy thậm ngu không, hai thằng đàn ông tự dưng lại đi đánh nhau vì một con đàn bà. Chẳng ra sao cả.”
Anh Bường nói tiếp, giọng lạc hẳn đi: “Ngọc ơi, mày đừng đau khổ đến thế, mày có biết vì sao cái ấy của phụ nữ các cụ gọi là cái bướm không? Nó là một thứ có cánh, phấp pha phấp phới. Nó là lộc của trời. Nó đậu vào chỗ nào thì chỗ ấy được. Có khi người ta phải bắt nó đấy.”
Tôi ngồi dậy, hộc ra một bãi máu lớn. Tôi nói mà giọng run lên: “Anh khốn nạn lắm, con bé còn ít tuổi.”
Anh Bường bảo: “Mày chẳng hiểu gì. Ai lại đi tính tuổi cho bướm bao giờ. Một bà già hay một cô gái đều hệt như nhau.”
Tôi bảo: “Anh đểu cáng và độc ác lắm.”
Anh Bường cười nhạt: “Con ơi, thế Giêsu Crit có đểu cáng và độc ác không? Như Lai có đểu cáng và độc ác không?”
Tôi bảo: “Con người – sự cao cả hình như chính ở giới hạn của nó.”
Anh Bường bảo: “Đúng thế đấy! Mày có thấy khi con Quy bị lột truồng không? Với cách quặp đùi của nó, nó hoàn toàn cao cả về mặt tinh thần.”
Sương xuống lạnh, chúng tôi lầm lũi đi về lán xẻt cả hai mặt mày thâm tím.
Anh Bường bảo: “Mày đánh ác lắm, đánh vỗ mặt. Như thế, võ công của mày chưa phải đã cao. Bậc cao thủ đánh nhau kiểu khác. Khi kẻ địch ra đòn, bậc cao thủ tìm cách hòa kết năng lượng của chính kẻ địch với mình. Tất nhiên, điều ấy phải được thực hiện bằng các động tác kỹ thuật. Bậc cao thủ dẫn dắt kẻ địch theo những vòng tròn. Vòng tròn bao giờ cũng là mô hình tuyệt hảo nhất trong toàn bộ không gian sống. Thay cho việc dùng sức giải tỏa mâu thuẫn, bậc cao thủ buộc kẻ địch hiểu rằng chỉ có nhẹ nhàng, mềm mỏng, lịch thiệp, tình thương, hòa hợp, yên ổn… mới khép kín được quan hệ giữa những con người và quan hệ giữa từng con người với toàn thế giới. Về kỹ thuật có thể tàn bạo nhưng về chiến lược phải dung hòa, đúng hơn là phải ổn định, cân bằng. Đấy là toàn bộ lý luận của bậc cao thủ.”
Tôi cười thầm trong bóng tối. Cái tay Bường này, tôi biết, khi hắn lý giải về sự sống nói chung, bao giờ hắn cũng minh triết, bao giờ hắn cũng cố gắng để giữ cất cách thanh cao về mặt nhân cách. Thế nhưng đời thực của hắn thì như cứt chó. Không sao ngửi được.
Sáng hôm sau, chúng tôi chuyển chỗ vào nơi xẻ mới. Ông Sông người Thái là một ông già sáu mươi hai tuổi, có khuôn mặt rất thật thà. Ông bảo: “Gian khổ đấy, chịu được không?”
Anh Bường bảo: “Đằng nào chẳng đến địa ngục.”
Cây dâu vàng mọc cheo leo ở lưng chừng núi, ngả về phía vực. Điều cốt yếu làm sao phải hạ được để nó khỏi rơi vào giữa khe núi. Chúng tôi mất nửa ngày bàn bạc, cuối cùng tìm ra cách tốt nhất, một mặt phải cưa bớt cành, làm dây níu, một mặt phải đào cả đất, dọn một mặt bằng để hạ cây gỗ xuống an toàn. Mất đến chục ngày chúng tôi mới hạ được cây gỗ xuống. Ông Sông thích lắm, mời chúng tôi về bản thết đãi.
Anh Bường bảo: “Tôi ở lại trông đồ đạc. Mọi người cứ đi đi.”
Biên, Biền, tôi và cu Dĩnh theo ông Sông về bản Vược. Bản Thái này ở ngay đường cái, có chửng năm chục nóc nhà sàn. Những người trong bản ai cũng hiền lành và đều tỏ ý thân thiện với chúng tôi. Chúng tôi ở lại nhà ông Sông uống rượu đến chiều mới về. Về tới lán xẻ, chúng tôi hoảng hốt thấy chăn màn quần áo lung tung khắp nơi, không thấy anh Bường dâu cả. Chúng tôi bổ đi tìm. Qua bờ vực, cu Dĩnh tinh mắt phát hiện thấy những bụi cây dạt ra như thể có người lăn xuống. Tôi, Biên, Biền mỗi người cầm một con dao bèn lần mò xuống.
Vực sâu khoảng hơn trăm mét, dưới lòng vực là một con suối cạn khô. Những âm thanh ở dưới lòng suối vọng lên như thể có người dánh nhau, chúng tôi ai cũng đoán chắc anh Bường dưới dó. Quả nhiên, ở một đoạn suối hẹp, chúng tôi trông thấy anh Bường đang quần nhau dữ dội với một con gấu to tướng. Con gấu đứng dựng bằng hai chân sau tìm cách tấn công anh. Bường, miệng hộc nhữnủng khiếp. Anh Bưởng tay cầm một đoạn tre ngắn, cố gắng tránh đòn.
Lưng tựa vào vách đá, anh Bường cố đẩy con gấu ra xa, không để cho nó ép vào thế hiểm nghèo. Đoạn tre tì vào ngực con gấu cong lại, bởi sức con gấu khỏe quá. Anh Bường có vẻ núng thế, một bên bả vai nhòa máu, mồ hôi trên mặt đầm đìa. Biên, Biền và tôi cùng hò hét xông vào. Biền nhanh tay chém được một nhát vào vai con gấu. Con gấu quay lại, chồm người về phía chúng tôi. Bốn chúng tôi đứng thành vòng tròn ở dưới lòng suối. Con gấu đứng giữa, điên cuồng tìm đường thoát thân. Biên, Biền và tôi, trên tay mỗi người chỉ có một con dao găm ngắn lưỡi. Còn anh Bường vũ khí chỉ là một đoạn gậy tre. Con gấu ngựa rất khỏe, nặng chừng hai tạ, vì bị thương nên hung hãn lắm. Những cú vả của nó thật khủng khiếp, cũng may cả bốn chúng tôi không ai dính đòn.
Biền rất khôn, Biền thường chém dứ trước mặt con gấu để tạo thế cho ba chúng tôi đâm từ bên sườn và sau lưng gấu. Một lần, lợi dụng khi gấu phục xuống, tôi đâm một nhát dao vào trúng gáy nó. Nhát dao đâm mạnh đến lút dao. Con gấu bật ngửa ra sau, Biền xô theo đà, cắm thẳng lưỡi dao vào giữa tim nó. Con gấu hộc lên một tiếng khủng khiếp rồi ngã lăn ra, hai bên khóe mép sùi máu. Biên đâm tiếp vài nhát nữa vào hai mạng sườn của nó. Sau mấy lần giãy, con gấu chết hẳn. Cả bốn chúng tôi mệt lả, bủn rủn hết cả chân tay. Anh Bường mặt mũi tái mét, há miệng cười như mếu. Sau này, tôi đã chứng kiến rất nhiều nụ cười chiến thắng ở nhiều trường hợp khác nhau, tất cả những nụ cười ấy cũng đều như mếu, bao giờ điều ấy cũng gây cho tôi một nỗi sợ hãi và cảm động khôn lường…
Anh Bường dùng dao rạch bụng con gấu lấy mật. Chiếc mật lõng thõng những nước, to bằng bốn đốt ngón tay. Anh Bường thích lắm, lấy một sợi dây buộc mật gấu đeo ngay vào cổ. Ngay hôm ấy, chúng tôi dọn dẹp đồ đạc rồi khênh con gấu quay về nông trường đến nhà chị Thục. Chúng tôi gõ cửa nhà chị Thục lúc hai giờ sáng. Hàng xóm kéo đến, đông như hội.
Anh Chỉnh bảo: “Chịu các bố thợ xẻ thật. Hạ được con gấu đáng kể quá!”
Anh Bường bảo: “Bây giờ lột da gấu rồi làm bữa chén, mời tất cả xung quanh đến dự, được không chị Thục?”
Chị Thục bảo: “Còn gì bằng! Ở xóm này có chục nóc nhà, đến dự tất cả thì vinh cho nhà này quá!”
Mọi người xúm lại làm thịt gấu. Thịt gấu rất nạc và bùi. Chị Thục nấu một nồi cháo, tống vào tất cả xương xẩu với bốn cái chân.
Anh Chỉnh bảo: “Ăn một bát cháo này giá trị bằng cả một lạng cao hổ cốt đấy nhé!”
Ông Thuyết cũng đến dự, mang theo một can mười lít rượu trắng.
Ông Thuyết bảo: “Chiều nay xuống đội T, không hiểu sao tôi lại rước can rượu này về. Đúng số trời thật, ngày thường nếu ai mời rượu, tôi còn mắng cho ấy chứ.”
Anh Bường bảo: “Em lạy bác, bác đừng mắng những người hối lộ. Họ lòng thành nhưng lại ngu ngốc, nếu là bậc cao nhân phải tự xót xa mà thương lấy họ.”
Mọi người uống rượu rất vui.
Anh Bường càng uống rượu càng hăng. Anh bảo: “Tôi đang ngồi trong lán thì con gấu đến. Nó cứ xồng xộc đi vào, tôi hoảng quá, tôi vớ được cây gậy cứ vụt lia lịa.”
Chị Thục bảo: “Thế bác không sợ à?”
Anh Bường bảo: “Sợ chứ, nhưng rồi lại nghĩ: mẹ khỉ, đời chán lắm, sống cũng vậy mà chết cũng vậy, cứ quyết tâm biết đâu chẳng giết được con thú ác. Đấy cũng là kỳ tích trong đời, chẳng phải ai cũng làm được.”
Mọi người cười.
Em trai ông Thuyết tên là Kháng ở Hà Nội lên chơi cũng ngồi uóng rượu, hỏi đùa anh Bường: “Thế là bác làm việc thiện, việc nghĩa hoàn toàn chỉ do chán đời, có phải không?”
Anh Bường vặn lại: “Thưa bác, bác hỏi em thế là hỏi thật hay hỏi xỏ?”
Ông Kháng cười: “Tôi hỏi thật.”
Anh Bường nghiêm nét mặt lại: “Em hỏi khí không phải, thế bác làm nghề nghiệp gì?”
Ông Kháng bảo: “Tôi giảng dạy mỹ học ở dưới Hà Nội.”
Anh Bường bảo: “Đấy cũng là nghề nghiệp hay sao? Theo tôi, khoa học về cái Đẹp là thứ hết sức vô hình, không có thực. Về thực chất, chuyên môn của bác là thứ bịp bợm. Hồi trước, tôi có đọc quyển sách của một tay Trecnôbưn nào đó (Anh Bường nhầm, thực ra đấy là N. G. Tsecnưsepxki), hắn nói: “Cái Đẹp là cuộc sống”, điều ấy ẩn chứa một nụ cười lớn lao trong đó. Bác giảng dạy mĩ học, thế bác có nhận ra nụ cười ấy không?”
Ông Kháng bảo: “Xin lỗi, tôi không được trang bị kiến thức giống như của bác.”
Anh Bường bảo: “Bác Kháng ạ, mời bác về bú tí mẹ.”
Chị Thục bảo: “Thôi thôi, ông Bường ơi, tôi xin ông lấy chữ “dĩ hòa vi quý” làm trọng.”
Anh Bường cười: “Em xin nghe lời bà chị.”
Ông Sông đến. Mọi người mời vào uống rượu.
Ông Sông cười: “Thế các chú có vào xẻ tiếp nữa không hay hạ được gấu thì thôi?”
Anh Bường bảo: “Chúng em giúp bác hạ cây gỗ xuống, thế là xong. Còn kéo cưa lừa xẻ, bác là dân lao động, chúng em biết bác cũng tự làm được.”
Ông Sông bảo: “Phải.”
Chị Thục bảo: “Tôi biết có một nơi xẻ gỗ dựng miếu thờ thần, cứ cơm no rượu say đi đã rồi tôi sẽ bảo.”
Anh Bường bảo: “Chúng em lòng thành, tâm thành, được xẻ gỗ cho đấng thần linh, đấy là may phúc, lại thêm dày nghĩa tình, lấy gì chuộc được?”
Chị Thục bảo: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến dáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người.”
Anh Bường bảo: “Ngọc ơi, mày chép lấy câu này. Nó tù mù về hình thức, nhưng hình như chứa ẩn nội dung gì đấy.”
Cơm rượu xong chúng tôi lăn ra ngủ. Giấc ngủ. đến ngay với mơ, tôi thấy năm anh em thợ xẻ chúng tôi đi trên một cái cẩu vồng bảy sắc. Những thiên sứ chạy ra đón chúng tôi, áo xanh, áo đỏ tung bay phấp phới. Một thiên sứ có khuôn mặt trông rất giống Quy. Những người thân thiết của tôi đứng hai bên đường. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy nàng, cô gái tôi đã từng yêu trước kia. Nàng chạy về phía tôi, hai tay giang ra chào đón.
Gục đầu vào ngực tôi, nàng khóc: “Anh Ngọc ơi, sau bao đau đớn ê chề em đã hiểu rằng: chỉ có một anh thôi, còn lại là chúng nó.”
Tôi mỉm cười, tôi gỡ bàn tay bé nhỏ của nàng ra khỏi tay tôi và bảo: “Em lại cực đoan rồi, hoàn toàn không phải thế. Anh chỉ là hạt cát bé nhỏ và bất lực thôi… Cũng có thể anh chẳng mang lại điều gì hay hớm cho em dâu. Em hãy đi đi, đi theo con đường số phận đã định cho mình.”
Tôi đẩy nàng ra, tôi hốt hoảng thực sự vì sự lãnh cảm dửng dưng của trái tim tôi.
Chúng tôi cứ đi trên cái cầu vồng bảy sắc. Bạt ngàn là hoa ban trắng bên đường, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm sau thì mày có trắng thế không? Chúng tôi cứ đi, đi mãi… Tôi biết chắc ở trước mặt tôi đấy là cổng Trời, là cổng Thiên đường…
Sau lần ấy, số phận đẩy tôi sang bước ngoặt khác, tôi không đi xẻ gỗ nữa, chuyển sang làm việc khác.
– – – – – – – – –
[1] Thơ Tào Thực.
Nắng đã tàn rồi – Hàn Song Tường (Nguyễn Thị Minh Tâm, 1950-2018)
Tôi ngập ngừng mãi rồi cũng cho Đông biết, tôi có một đứa con gái sau khi chàng bỏ đi, Đông nghe im lặng, tôi tránh mắt Đông, nhìn sang khóm cây bên kia đường đang vật nghiêng bởi cơn gió mạnh, cơn gió nào đã thổi chàng về đây, có điều tôi muốn hỏi Đông khác kìa không phải nhìn thấy Đông vững chãi thế này. Tôi hỏi: “Anh có lạ lùng? Hay thật!”
Chàng nắm tay tôi kéo mạnh vào hàng hiên: “Con người ta em nuôi, con anh em giết.”
Câu nói như một gáo cường toan đổ xối lên người tôi xính vính. Tôi lặng người khi nghe bước chân Đông chạy hối về phía trước. Một khoảng khắc bỗng trầm thống và lo sợ bủa vây lấy tôi như hàng trăm mũi nhọn đang đâm vào da thịt – tôi vụt chạy theo Đông, gọi chàng ầm ĩ nhưng không nhìn thấy Đông nữa…
Chẳng hiểu sao tôi lại cho chàng hay những biến đổi quá rõ về quãng thời gian Đông đi biệt mà chi. Sự trở lại của chàng không làm ấm lại những ngày tháng nhớ nhung cùng vơi đi hết niềm thù hận hay sao… “Người đàn bà có quyền chọn lựa một đứa con.” Người nữ bác sĩ nói với tôi, sau khi tôi đã làm xong một việc, việc từ chối một đứa bé, bà ta nói chuyện qua rồi, cô còn khóc mà chi, ở đời thiếu gì cảnh như cô, cô là đàn bà, cô sẽ có một đứa con khác, cô có biết, đàn bà mình hơn đàn ông ở chỗ, chắc chắn nó là con mình, nó nằm trong người mình mà, còn đàn ông hả. Có khi họ nhận vơ đó… Tôi gặp bà bác sĩ này, sau khi tôi nổi cơn tảo trí, bất thường khi Đông đi được nửa năm, ngày tháng đó tôi như con thú nhỏ đầy thương tích, khốn cùng, chị Anh bỗng xuất hiện trong đời sống tôi, người nữ bác sĩ tâm lý, độc nhất.
Mở phòng mạch trong cộng đồng người Việt, ế khách quanh năm, nhưng chị có vẻ thích hoạt động trong lãnh vực xã hội. Tôi gặp chị qua sự giới thiệu của chương trình y tế địa phương. Ngày đầu tiên khi Mỹ Lan cô bạn gái đem tôi đến phòng mạch, tôi dẫy nẩy không chịu vào, tôi nói với Mỹ Lan tôi sợ bị bà ta lầm tống tôi vào nhà thương điên. Nhưng khi chị Anh ra đem tôi vào ghế, tôi nhìn thấy nét tin cẩn trong đôi mắt chị. Ngày đó, tôi nhớ, chị nhìn tôi dò xét rồi chê bai cả con người tôi, nhìn kìa, quần áo cô luộm thuộm, áo đỏ mà cô mặc quần xanh, cô có điên không? Tôi lắc đầu – không điên – Chỉ nhức đầu, không ngủ. Không nhớ gì mấy. Mỹ Lan thì kể lể thêm ngọn ngành, nó thêm bớt là tôi nói lộn xộn dữ lắm. À cô ấy biết mình nói lầm mà vẫn nói chứ gì. Như cái mũi mà gọi là con mắt, cái tay cô gọi cái chân, ai chả vậy, có khi tôi cũng bị lầm lẫn như thế, bây giờ cô phải tập lại, tập nói cho đúng…
Sau những ngày tập nhớ lại, tập không nhức đầu, tập đi ngủ, phòng mạch chị tôi đã bớt dần đi lại, tuy vậy hình ảnh Đông vẫn đâu đó, chập chờn trong lòng tôi như cơn mưa thinh… hoặc rơi lộp độp trên mái nhà, xa hơn nữa là tiếng cười nói của chàng còn y như ly rượu vang dụ hoặc. Bệnh nhức đầu, mặc cảm, tự khổ đã không còn trong tôi nữa, tôi chắc chắn với chị Anh vậy, có chăng tôi bỗng thèm muốn một đứa con. Sau hai năm Đông đi khỏi, để giảm đi lòng hối hận, dày vò, tôi muốn làm một việc, kể ra cũng hơi khó nhưng mà vào tháng tám năm đó, chị Anh giúp tôi hoàn tất. Chị bảo chị chẳng làm cho ai, chỉ vì tôi. Buổi sáng chị bơm cho tôi đầy một ống nhỏ, Mỹ Lan thì đứng cạnh chị dặn dò – Cẩn thận nghe không con Mỹ là bỏ mẹ nó. Tôi nói, tôi muốn đứa con nguyên chất Á Đông, giống như Đông vậy. Chị Anh bực bội khi nghe tôi nhắc đến tên Đông, còn Mỹ Lan thì che mặt cười. Chị Anh bảo đảm khi xong việc, mọi sự sẽ hơn là điều mong ước nữa kìa.
Quả đúng như lời chị nói, khi bé Hạ ra đời nó xinh đẹp lắm. Chị Anh mê nó hơn tôi, chị không nói ra nhưng nhìn chị, tôi hiểu chị đã coi mình như người sáng tạo ra nó, giờ tôi không còn là bệnh nhân mà thành người thân thuộc của chị. Chị nhận bé Hạ làm con nuôi, chị săn sóc, cấp dưỡng cho nó, có lần tôi hỏi, chị đào đâu ra ống lăng quăng đó. Con bé có vẻ giống Nhật hơn Việt Nam. Chị bảo không, nó giống tôi, rồi chị đẩy tôi đứng trước gương chỉ trỏ. Nhìn kỹ nhé, mỗi thứ nó đẹp hơn cô một tí, nên nó thành đẹp hơn chứ nó giống y hệt cô, chẳng có gã chết tiệt nào làm ra nó được, chỉ có cô, một mình cô thôi, hiểu chưa? Dạ hiểu. Tôi trầm mình vào lời dạy dỗ của chị, chị nói gì tôi cũng thấy đúng cả. Bé Hạ ra đời bằng sự nhiệt tâm của người nữ, bác sĩ tâm lý và tôi, bé hoàn toàn không dính líu vào một người cha.
Thời gian không phải mãi nhốt kín nỗi u hoài, mà để lướt qua bao sóng gió, cho tôi còn tồn tại với tình thương nỗi nhớ. Bên cạnh tôi bé Hạ vươn lên tươi trẻ. Mỗi tuần tôi đến chị Anh đón con về một ngày. Hai mẹ con dẫn nhau ra vườn, chỉ cho nó xem từng chiếc lá mới mọc và dạy nó nói, mới hai tuổi bé Hạ đã biết nói khá sõi… Cho đến một ngày, có trời mà hiểu khi Đông ở đâu hăm hở trở về tìm tôi, sau khi chàng kiếm cớ và vu cho tôi bao chuyện oan nghiệt để ra đi. Khi thấy Đông ở phòng khách, tôi đã giật mình kẻ mà tôi thù hận, đang đứng mỉm cười. Tôi nhớ rõ mấy năm về trước, Mỹ Lan còn treo ảnh Đông lên tường rồi bảo tôi phóng những mũi tên lên người cho nát bấy. Ai dè Đông vẫn còn sống hiên ngang. Ghê chưa!, thế mà chị Anh và Mỹ Lan quả quyết Đông đã không còn, “này nhé mày cứ băm nó, nguyền rủa nó cả năm trời, nó sống sao nổi”. Một mối tình có đoạn kết đau thương đến thế, người đàn ông bạc bẽo, bị cô nhân tình phóng hàng trăm mũi tên lên người, mũi nào đã trúng tim anh – tôi nghĩ đến hàng đêm rồi buồn day dứt.
Bình minh đã chiếu sáng khắp nơi, vài tia sáng dọi vào chỗ Đông nằm, tôi bước thật nhẹ về phía phòng khách, Đông ngủ ở đó đêm hôm qua, tôi cúi xuống, cầm tay Đông áp vào mặt, hơn bốn năm dài còn gì, trong tôi vẫn còn lưu luyến vô cùng. Khi Đông tỉnh dậy, chàng hỏi: “Mấy giờ rồi em?” Tôi không nói, Đông đưa tay vò rối làn tóc tôi vừa rũ lên mặt, hình như Đông đang suy nghĩ điều gì, ý nghĩ này khiến tôi lo ngại, lý do nào chàng lại tìm về, niềm hối hận, bị kẻ khác ruồng bỏ, đang bị thất nghiệp, những câu hỏi kể ra toàn là những điều đáng thương xót phải không… Cơn mưa dai dẳng cả buổi sáng, cũng may khi cùng Đông ra phố thì mưa cũng vừa dứt hẳn, chàng cầm tay tôi hôn – anh rất nhớ em. Câu nói tỏ ra âu yếm nhất của chàng khi cuộc gặp gỡ trở lại và trước vài giờ khi tôi kể cho Đông nghe về bé Hạ, đứa con gái ra đời bằng cách chọn lựa của tôi. Chàng nói thẳng không tin và tôi trở về nhà nằm vùi hai ngày trời, xung quanh phòng đầy những câu hỏi, tôi học ở đâu những thắc mắc về thân phận con người, của nợ nần, của trả kiếp, ai nhồi vào đầu tôi bao câu hỏi to tát như vậy.
Tôi lẩm bẩm đọc lại bài thơ Mỹ Lan làm, bài thơ có câu kiếp xưa, người ta có kiếp hay sao, và bao nhiêu kiếp thì lạc nhau vĩnh viển, không, tôi đã lạc chàng ngay từ kiếp này… Tôi lại mò đến phòng mạch chị Anh xin thuốc ngủ, rồi đi lang thang trong công viên, nhìn bầu trời cao vời vợi, lơ lững đám mây xanh vờn nhau lặng lẽ và đám hoa tường vi nở rộ một màu hồng, một vài người da đen ngồi im lìm nơi ghế đá, không khí tỉnh mịch, dễ chịu, tôi thơ thẩn trong công viên cho đến chiều tàn. Khi bước vào nhà trời đã sâm sẩm tối, mùi thuốc lá Đông hút như còn đâu đó, cả cái gạt tàn còn bừa bộn, tôi ngồi thừ người cố gắng tập không nghĩ gì cả, dù cây sầu đông, cây cau, cây chuối bỗng mọc um tùm trong óc tôi, quái nhỉ mỗi lần tôi tập trung để quên điều gì thì lại thấy mấy loại cây mọc đầy sau sân nhà bà ngoại tôi hồi thủa bé…
Tôi ngủ thiếp đi rồi choàng dậy sau một cơn mơ quá hãi hùng, thằng bé con ai chạy quấn theo tôi gọi là mẹ, mắt nó sưng tím như quả cà, tôi đẩy nó văng tuốt xuống đất, vậy mà một hồi nó lại nằm bên tôi dang hai tay, mắt sáng như lân tinh, tôi hét lớn rồi chạy ra khỏi phòng. Lại thức cho đến sáng (mẹ đừng khóc) bé Hạ nói rồi xoa lên mắt tôi, tôi bật cười ôm chặt nó vào người. Anh tôi dẫn nó đi chơi mới về, nó còn nhỏ vậy mà cũng hay để ý, chắc nó thấy tôi buồn, anh tôi la, tôi với Đông vớ vẩn làm phiền sang mọi người, đã vậy tôi lười biếng không chịu giúp đỡ anh trông nom cửa hàng, anh than công việc chỉ có một mình anh, bố mẹ giờ già cả, tôi cúi mặt xin lỗi. Rồi lấy quyển sách thiếu nhi, đọc cho bé Hạ một đoạn, nó lặng nghe thích thú…
Bây giờ trời đã cuối xuân, bầu trời như trong hơn và nắng nhiều hơn thêm, hai bên đường của khu Briar Forest những cây hoa dogwood trổ một màu trắng hoang tàng là lạ, hàng hoa dài suốt cả dọc đường, đã bao năm qua, tôi vẫn lái xe đi ngang qua đây để biết hôm hoa nở rộ, để nhớ các cành hoa cao thấp và để lòng ủ ê nỗi khát khao vì đâu, mỗi tuần tôi làm bốn ngày ở tiệm bán vải của bố mẹ, khi bước vào tiệm thân thể còn váng vất với thuốc ngủ. Cô bé phụ việc cằn nhằn tôi đến trễ, tôi cười trừ rồi ngồi vào bàn tính toán cộng số tiền thu nhập, ngoài đường chợt ầm ĩ tiếng động, ai biết động đất nơi nào mà bọn Lesbian đang hùng dũng xuống đường đòi được lập hôn thú, họ ăn mặc lạ kỳ, có vài kẻ tôi không nhận rõ ra đàn bà hay đàn ông, họ đứng chắn ngang giữa đường tay cầm cái bảng viết lằng nhằng những chữ, nhóm nhà báo cầm máy ảnh, chạy qua chạy lại như giặc, khi nhóm phụ nữ thứ hai đòi tự do phá thai đi từ bên đường, xiêm áo luộm thuộm, gào to với chiếc loa “xin đừng đạo đức giả, chết đi bọn giả hình.”
Cái khung cảnh bất ngờ làm tôi hoa mắt, cho dù nhóm chống phá thai mặc toàn màu trắng đứng lặng lẽ ở một góc, tôi đứng thừ người nơi cửa kính, thiên đường, địa ngục, nơi đâu, một phụ nữ áo trắng chạy xồ ra đứng vẫy tôi rối rít, trời đất ai xui khiến Mỹ Lan cũng tham dự cuộc xuống đất vậy kia, tôi nhắm mắt, ngồi bệt xuống, chiều vội tàn, một góc phố như chìm lắng vào cõi khác, tiếng chân người thưa thớt, lẫn tiếng xe uể oải xa dần, tôi mở cửa tìm Mỹ Lan nhưng không thấy nàng, có lẽ Mỹ Lan đi theo họ về con phố khác, đàn bà coi vậy mà muôn mặt, họ có kém gì đâu.
Một lần tôi hỏi Mỹ Lan sao không đi theo họ, nàng cười – không được, tao muốn lập một giáo phái nữ thánh mà con cái phải theo họ mẹ – hay chưa, đàn bà mỗi ngày một khôn hơn, và xã hội đang cần tạo ra vài điều khác mới mẻ để nếp sống đỡ nhàm chán, thật không?
Tôi vẫn đồng ý với bạn, riêng tôi thì cứ ù lì, Mỹ Lan bảo tôi lười biếng, ỷ y, thây kệ tôi là lớp hoa lục bình, mặc nước cứ đẩy đi xa tắp, xa tắp, ai hay… … Tôi lại tìm Đông vào cuối tháng Chạp trong năm. Con đường đến nhà chàng ở, hàng cây bên đường còn vàng úa màu lá, Đông đứng đợi tôi ở đầu ngõ, khuôn mặt đẹp đẽ, tôi che mắt cười. “Thôi, em đừng cười nữa.” “Sao?” “Anh biết rồi.” Tôi mỉa mai – đừng lo, chúng ta còn vài chục năm để kiếm chuyện. Đông cầm tay tôi, bàn tay chàng lạnh ngắt, anh dẫn tôi đi dưới các mái hiên thẫm tối.
Cả một buổi bên nhau, anh nói tôi thay đổi nhiều, và khó tính, không giống hồi xưa. Hồi xưa để anh ăn hiếp hay sao – thôi bỏ qua đi em – tôi cúi mặt cắn môi, cảm giác đau đớn, thú vị, làm sao ai hiểu, tôi muốn nhìn anh buồn phiền và cô quạnh như, như thế này, căn apt nhỏ xíu, để vừa cái giường, bàn viết và tủ sách, những quyển sách ngổn ngang trên bàn và nằm đầy dưới đất, cái tựa lạ lẫm với tôi, tác giả ở mãi đâu đâu và tập giấy chàng viết dở dang, ừ Đông cứ chết dấp trong cõi sách vở của chàng, những cuốn sách làm đau đớn con người thì nhiều, khôn thay Đông cứ ngụp lặn với nó, tôi lấy chân đá chồng sách tuốt vào gầm bàn, em ghét nó – đừng em – Nó lấy hết thì giờ, mấy năm qua cũng chỉ vì đống giấy này đây, thôi em – em cứ đổ thừa, chàng cúi xuống ôm lấy chân tôi năn nỉ – đâu có gì là quá đáng. Có phải vậy không?…
Khi Đông dẫn tôi ra khỏi rạp hát, phố đã lên đèn, nhân vật trong phim làm rộn lòng tôi, người đàn ông chết vì một lưỡi gươm của thằng con nít, người đàn bà chết vì người đàn ông, rốt cuộc người ta chết vì nhau mà có ai ngờ. Tôi ôm tay chàng nói nhỏ: “Em rất buồn!” Chàng vỗ về, thật ra chàng chưa hiểu trong tâm hồn tôi đã quá nhiều uẩn khúc dù tôi đã cố gắng, kể cả tìm ra một đứa con để xếp đặt lại tất cả. Khi chia tay ở trước cửa, Đông im lặng hôn lên môi tôi, bỏ về, có tiếng chim kêu thảng thốt trong bóng tối, con chim gọi bạn hay vừa lẻ bạn, điều nào cũng day dứt lòng người, quanh tôi giờ vẫn là ngày ngày lẻ bạn, đi làm và nhớ Đông, tìm kiếm và xa lánh…
Vào giữa năm Đông phải đi làm ở một tỉnh xa, tôi nghe tin bỗng đau nhói, linh tính cho tôi biết, tôi sẽ mất chàng, khi đứng nhìn xe Đông chạy khuất khỏi quãng đường, tôi bật khóc cho dù tôi biết tôi muốn thế, có những chuyện người ta đau khổ vì nhau nhưng không thể sống bên nhau, người ta thương nhớ nhau, người ta mãi mãi tiếc nhau mà người ta vẫn cứ xa nhau, tôi đã chọn con đường mất anh, để mãi mãi ôm ấp trong tim nỗi day dứt bí mật, thà như vậy…
Mỹ Lan hỏi: “Có phải mày lỡ xem Đông như một kẻ thù? Có phải mày không thể sống với kẻ thù hay là mày trả thù?”
Tôi không nói, nước mắt tuôn xuống tay bạn. Một năm như thế, cho đến ngày tôi đi lấy chồng. Kiên, người đàn ông giản dị, anh chẳng cần tìm hiểu mấy về tôi, anh chỉ biết tôi là của anh, im lặng và chịu đựng, yên vui và đồng tình, khi về ở với Kiên, sống đầy đủ đến nỗi Mỹ Lan bảo nàng ghen tị, tôi đề nghị – Vậy mày ở lại đây, mày có thể chia xẻ tất cả, kể cả ông chồng – Mỹ Lan cười ầm lên ôm chầm lấy tôi – Mày đùa dai quá, tao là bà thánh mày quên sao…
Khi tôi sanh đứa con trai, bé Hạ đã tám tuổi, chị em vẫn có nét giống nhau, Kiên đổi khai sinh cho bé Hạ để chị em có cùng một họ. Kiên tốt lắm, anh biết tôi có một mối tình và người ấy đi biệt, mỗi ngày tôi tìm cách tĩnh lặng một mình, cho niềm riêng tư được sống còn, khi tôi lặng lẽ đứng ở căn phòng trên lầu cao nhìn theo ánh mặt trời về chiều vàng vọt chiếu hắt lên mặt kính cửa sổ, cho đến khi biến mất, giây phút thầm lặng ấy là của tôi nhớ Đông, cho dù tôi không bao giờ mong mỏi gặp Đông nữa, cả đời này và kiếp sau. “Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau”, lời bài hát ai viết loen trên giấy học trò, còn nhớ, rùng mình như vệt máu, thỉnh thoảng Mỹ Lan lại chơi, hai đứa kéo lên cái phòng riêng trên lầu này… Vừa rồi Mỹ Lan đem đến hai quyển truyện Đông vừa xuất bản, có vài câu chàng ghi (đoạn này cho Th) tôi hiểu tôi là một đoạn của chàng, một đoạn chông gai, những quyển sách được Mỹ Lan xếp bên cạnh lọ hoa ở góc bàn, tôi sẽ không đọc lại nữa đâu… …
Hơn chín năm qua nữa, hai đứa con tôi đã lớn, bé Hạ vừa bước vào đại học, tháng trước tôi và Kiên có dẫn con đi xem trường, con gái tôi xinh đẹp, thông minh, chị Anh, tôi và cả nhà đều thương nó. Bấy lâu nay tôi ít đi đâu, nghe nói cơn bão nhỏ tháng trước làm tơi tả dẫy hoa Dogwood trên đường Briar Forest, những cành hoa gẫy rụng làm trắng suốt mặt đường… Và Mỹ Lan giờ đã về ở hẳn với Đông. Nàng bảo Đông không muốn viết lách, tốt thôi. Tôi cười dò xét, tôi muồn kiếm ra điều gì bất ổn ở Mỹ Lan vì đâu nàng làm được điều ấy, Mỹ Lan có thể sống bên Đông ư – còn tôi – nàng không nhớ đến sao – khi tôi cầm chặt tay Mỹ Lan chạy lên lầu, hậm hực. Nàng dằng co, nói rên rỉ – mày đừng ghen với tao, chúng mình già cả rồi, tất cả chẳng còn gì để mà giận hờn, để mà phóng đãng – Tôi ngồi thụp xuống bậc thang ôm mặt, Mỹ Lan thì thầm – Tao thương yêu cả hai. Cả mày và Đông – Không – Tôi không muốn nghe Mỹ Lan nói nữa, tôi chạy về phía cửa sổ, dang tay ôm lấy vạt nắng, ánh mặt trời vẫn còn đó, còn đó chưa tàn, nhưng Mỹ Lan đã chiếm đoạt mất của tôi kỷ niệm còn đâu… …
Tôi lại một mình lên căn lầu cao nhìn về phía mặt trời, thời gian đến rồi đi vùn vụt, chìm theo những cơn mưa và gió lạnh, thỉnh thoảng mặt trời trốn tránh về mãi nơi xa, ánh nắng yếu ớt rọi chẳng thấu lòng đời, tôi vẫn chờ đợi cơn nắng chói ngất ngây trên mặt cửa sổ cho mồ hôi ẩm trên mặt tôi thấm lên cửa kính, ôi, những cơn nắng Houston cháy bỏng trên da người, tôi say nắng như tôi say quá khứ, cho dù Mỹ Lan cố tình làm mờ đi dấu tích đời tôi, hôm qua Mỹ Lan giữ tôi thật chặt không cho tôi nhảy xuống lầu này, trên má tôi còn hằn dấu tay nàng, nàng khóc – Tao làm vậy cho mày tỉnh, mày ích kỷ, mày thù dai quá. Cả chục năm, mày chẳng nghĩ đến ai, không, tôi đang nhớ đến mọi người đây, nhất là Mỹ Lan, bà thánh dẫn Đông ra khỏi nỗi cô đơn, nàng nói thế cho dù tôi có nhốt Đông bằng chục lần cửa khóa, nàng vẫn tìm cách mở cho Đông ra, Mỹ Lan thì thầm chẳng có bóng nắng nào cứu được con người, câu nói nằm ngất trong lòng tôi xúc cảm… Còn có ai, nào có ai tìm thấy những tia nắng hắt vỡ vụn trên hiên cửa cùng tôi ngoài Mỹ Lan.
Nhưng nàng đã lấy đi tất cả rồi, tôi bàng hoàng chạy xuống nhà. Kiên đã về tự lúc nào, đang chờ tôi ở dưới chân thang. Tôi ôm chặt lấy anh sợ hãi. Bàn tay Kiên vuốt trên mắt tôi ứa lệ. Cơn say nắng như dừng lại, chập chờn ẩn miết vào tâm trí. Mặt trời lặn mất từ lâu, có điều tôi muốn nhắn với Mỹ Lan những tia nắng cũ giờ nàng đã đem nó về đâu.
Một ngày không thể quên – Phương Lan (Lưu Phương Lan)
Hôm nay là ngày quyết định sẽ đưa mẹ vào Viện dưỡng lão.
Cả đêm qua thao thức không ngủ được, Phượng trằn trọc xuốt đêm, nghĩ ngợi lan man hết chuyện này sang chuyện khác, lòng rối như tơ vò. Gần sáng nàng mới mệt mỏi thiếp đi, nhưng vừa chợp mắt được một lát, Phượng bỗng choàng tỉnh dậy vì một mùi khét từ nhà bếp xông lên làm nàng tỉnh hẳn ngủ. “ Thôi chết rồi, mẹ lại quên tắt bếp “ Phượng nói thầm như vậy, rồi không kịp xỏ dép, nàng hốt hoảng chạy thật nhanh xuống nhà dưới. Căn bếp mù những khói, hơi khét từ cái nồi đang nấu trên bếp bay tỏa khắp căn phòng, lửa xanh vẫn liếm quanh đáy nồi. Phượng vội vàng tắt bếp gas, bê cái nồi đặt qua một bên, rồi mở tất cả các cửa cho khói bay ra, may quá, nàng xuống kịp, nếu không cả nhà lại bị một phen hoảng vía.
Từ khi mẹ bị bệnh lú lẫn, Phượng phải khoá ống gas mỗi khi đi làm, nhưng hôm nay nàng ở nhà nên không khóa, vì có dè đâu bà cụ lò mò xuống bếp sớm thế. Phượng đứng im, định thần một lúc cho tim bớt đập, rồi mới chậm rãi bước ra cửa sau.
Nàng gặp mẹ từ ngoài vườn đi vào, tay cầm một nắm lá gì dài dài, xanh xanh. Thấy con gái, bà Trình mỉm cười vui vẻ:
– Sáng bảnh mắt rồi, giờ này mới ngủ dậy à? May cho cô, tôi là má ruột, nếu là má chồng, thể nào cô cũng bị rầy.
Phượng nhìn lên bầu trời trắng đục, vừng đông chưa ló dạng, bóng đêm còn lảng vảng, cô khoan khoái hít một hơi thật sâu làn không khí mát mẻ của buổi ban mai, rồi quay sang mẹ, hỏi:
– Má ra vườn chi sớm thế?
– Má ra hái ít hành ngò để bỏ vô nồi cháo…
Vừa nói bà vừa đưa nắm lá lên khoe, Phượng suýt bật cười, nhận ra đó chỉ là một nhúm cỏ, nàng thở ra một hơi dài:
– Má lại quên tắt bếp, mà má định nấu món gì vậy?
– Má nấu cháo gà. Lâu lâu cũng nên đổi món, sáng nào cũng ăn bánh mì hoài, khô khan quá.
Phượng nhìn vô trong nồi, chỉ thấy lổn nhổn một ít gạo sống, và hai con gà bằng nhựa, đồ chơi của mấy đứa nhỏ, mẹ nàng đã bỏ tất cả vô một cái nồi với một chút nước, và bật bếp… Bây giờ tất cả đều cháy thành than, nhưng còn nhận diện ra được, Phượng nhăn mặt:
– Sao má để lửa lớn thế?
– Má muốn nấu cho lẹ để ba ăn xong còn kịp đi làm. Thôi, con lên lầu đánh thức ổng đi, má ở dưới đây pha cho ba ly cà phê.
Thấy Phượng vẫn đứng im, bà dục:
– Sao không đi đi, còn đứng đó? Trễ giờ rồi.
Phượng đau xót nhìn mẹ:
– Má, nhớ lại đi! ba đi xa rồi mà, ba đâu có nhà!
– Thiệt à? Ba đi xa thiệt à?
Bà mẹ lập lại một cách ngớ ngẩn, nét mặt trùng xuống, rất buồn. Bà cố nhớ lại, trong ký ức đã phai mờ của bà, những hình ảnh cũ vẫn hiện ra, nhưng lộn xộn, không theo một thứ tự nào hết. Bà nhớ hôm đó không biết là ngày gì mà nhà bà đông người lắm, khách khứa ra vô tấp nập, đủ mặt bà con họ hàng và cả những người bạn bè. Gia đình hai đứa con trai lớn của bà từ hai tiểu bang khác cũng về họp mặt đông đủ. Lũ cháu nội, con của Sơn, Hải hiệp cùng hai đứa cháu ngoại con của vợ chồng Phượng thành một đám giặc, rượt đuổi nhau lung tung khắp nhà, làm bà chóng cả mặt. Nhưng bố mẹ chúng trái lại, rất khẽ khàng, họ chỉ thì thầm bàn tán, người nào cũng có vẻ mặt quan trọng, người nào cũng mặc quần áo trắng lùng thùng, trông chẳng ra làm sao. Phượng cũng đưa cho bà một bộ quần áo trắng bằng vải sô, và biểu bà mặc vô. Bà hỏi chi vậy? nó nói mặc áo vô để đi tiễn ba. A! bà hiểu rồi, đây là lúc tiễn ông lên đường, vì ông sắp phải đi xa…
Bà nhớ mấy hôm trước, bệnh ông có mòi thuyên giảm, không thấy ông rên rỉ, những cơn đau hình như cũng rút lui, không còn hành hạ ông như mọi ngày. Bà ngồi bên giường, canh cho ông ngủ. Ông nằm im lìm, mắt nhắm nghiền, một cái mền mỏng đắp lên tới ngực, che thân hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương thấy tội quá, căn bệnh ung thư quái ác đã lấy đi của ông hết da thịt. Ông ngủ không yên, lúc tỉnh, lúc mơ, thỉnh thoảng lại ú ớ…
Nhưng đến trưa, thì ông hoàn toàn tỉnh táo, ông cầm tay bà dặn dò:
– Tôi sắp phải đi xa, bà đừng khóc nhé? Hãy can đảm lên…
Ông còn nói nhiều nữa, nhưng bà nghe tiếng được, tiếng mất, vì ông nói không rõ, ông chỉ thều thào… Bà tưởng ông nói sảng, chứ đang đau mà đi đâu? vợ chồng chưa bao giờ xa nhau, lần nào đi xa, ông cũng cùng đi với bà, chẳng lẽ cuộc hành trình lần này, ông lại đơn độc một mình? Bà khuyên ông nằm nghỉ, không nên nói nhiều, ông nhìn bà lờ đờ, rồi ông thở ra một hơi dài, nhắm mắt lại. Sau bà, đến lượt các con xúm quanh giường nghe ông dặn dò, đứa nào mắt cũng đỏ hoe. Rồi ông thôi không nói nữa, ông nằm im, từ từ chìm sâu vào giấc ngủ, giấc ngủ cuối cùng của đời người, mắt ông khép kín, nét mặt thanh thản không chút ưu phiền. Các con lặng lẽ rút kui, để mẹ riêng tư với cha. Bà nghĩ chắc ông mệt nên ngủ say lắm, không thấy ông trở mình. Bà sờ thử, thấy tay chân ông lạnh ngắt, bà vội vàng lấy thêm mền đắp cho ông, trời mùa đông rét mướt, những người già thật khổ, nhất là ông lại đang bệnh…
Bà chờ ông tỉnh dậy, để nghe ông xác nhận rằng ông chỉ nói chơi thôi, nhưng ông cứ ngủ hoài. Bà rón rén, không dám cử động mạnh, sợ phá giấc ngủ của chồng, chả mấy khi ông ngủ được yên giấc. Bà muốn ngồi đây hoài, không muốn rời ông, để khi ông tỉnh, trông thấy bà, ông yên tâm. Tội nghiệp, từ dạo đau nặng, ông đổi tánh giống như con nít, hay hốt hoảng, sợ hãi, hơi một tí là giận hờn…
Bà ngồi bên ông không biết bao lâu, cho tới khi một đứa con kéo bà đứng lên, nói:
– Má ơi! gần tối rồi, má phải đi ăn, từ sáng tới giờ má chưa ăn gì cả.
Bà đâu có thiết ăn! bữa cơm không có ông mới buồn làm sao, bà nói:
– Tụi bay và mấy đứa nhỏ cứ ăn trước đi, đừng để phần cho má. Má không thấy đói, má muốn ngồi đây với ba thêm một lúc nữa.
Nhưng chúng nó cương quyết kéo bà ra khỏi phòng, nói ba mệt để cho ba nghỉ. Thằng Sơn còn kéo cái mền phủ kín cả mặt ba nó, cái thằng thiệt vô ý, vô tứ quá, trùm kín thế làm sao ông thở được?
– Trời ơi! Có bỏ ra không? Ba bây ngộp mất thôi.
Bà la lên phản đối, bắt Sơn phải kéo cái mền xuống như cũ, bà mới chịu ra khỏi phòng. Từ lúc đó, tụi nó thay phiên nhau canh gác, không cho bà vô với ông nữa, nói đã có tụi con…
Bà vẫn không tin rằng ông sẽ đi xa, vậy mà ông đi thiệt mới lạ chứ? sự thật mà cứ ngỡ như trong một giấc mơ. Cuộc tiễn đưa khá long trọng, có cả kèn trống. Bà và các con mặc áo trắng tiễn ông đi. Trời mưa sụt sùi, các con đi cạnh bà cũng sụt sùi, bà không bằng lòng, gắt:
– Ba không bao giờ bỏ má đâu, ổng đi rồi ổng lại về, tụi bây khóc lóc chi vậy? để ba bây nóng ruột.
Thiệt tình bà không trông thấy lúc ông đi, và ông cũng chẳng bao giờ thơ từ về nhà. Nhưng bà biết ở một nơi xa xăm nào đó, ông vẫn hướng về bà, vẫn nhớ đến bà, vợ chồng đầu gối, tay ấp mấy chục năm trường, đi xa sao khỏi vấn vương? Bà kiên nhẫn đợi ông về, chỗ ngồi của ông trên bàn ăn, bữa nào bà cũng bầy chén, đũa, để ông nhớ rằng ông vẫn còn chỗ trong gia đình này. Nhưng sao ông đi đâu mà lâu quá? Bà ngậm ngùi nói với con gái:
– Dạo ba con ở nhà, sáng nào ba cũng chở thằng Thái đi học, còn má ở nhà coi con Uyên…
Rồi sực nhớ ra điều gì, bà hối:
– Con lên coi tụi nhỏ dậy chưa? bồng con Uyên xuống đây cho má thay tã.
Phượng nhìn mẹ thương xót, Uyên đã chín tuổi rồi, mà sáng nào bà cũng đòi bồng đi thay tã, trí nhớ của bà dừng lại ở ngày ông vĩnh viễn ra đi. Phượng ôm vai mẹ đi vô trong nhà, nàng bật TV lên rồi nói:
– Chắc cháu Uyên còn ngủ. Má ngồi đây coi chương trình truyền hình Việt Nam, đừng xuống bếp nữa nghe má? để con lên lầu coi tụi nhỏ ra sao.
Bà Trình gật đầu, vơ lấy cuộn len và cái áo đan dở lên ngắm nghía:
– Được, con đi đi! má vừa coi TV vừa đan nốt cái áo cho ba. Mùa đông sắp tới rồi, ba cần có áo ấm, mấy cái kia cũ cả rồi.
Tánh bà tham công tiếc việc, chẳng muốn ở không, bà coi việc chăm lo miếng ngon, áo ấm cho chồng, cho con, cháu là bổn phận và cũng là một thú vui của bà. Ông mất đã tám năm, mà ngày nào bà cũng đan áo cho ông, đan gần xong, rồi lại tháo ra đan lại, như vậy cả mấy chục lần.
Phượng lên lầu, vào buồng mẹ, kiểm soát lại một lần chót cái va li lát nữa sẽ đem theo. Va li đựng toàn quần áo và những vật dụng cá nhân của bà Trình. Khi biết chắc không còn quên món gì, Phượng đóng nắp lại, ngồi thừ người rất lâu. Lúc soạn cái va li này, nàng đã không cầm được nước mắt, mỗi món đồ của mẹ đều gợi lại những kỷ niệm. Nhìn chiếc ghế đu mẹ thường ngồi, Phượng tưởng như được nghe tiếng ru của mẹ. Trên cái ghế ấy, bà đã ru cháu, lúc còn bé thơ, Thái và Uyên không chịu ngủ nếu không có tiếng ru của bà. Ngày xưa, cũng những tiếng ru “ ầu ơ, ví dầu “ đó đã đưa Phượng vào giấc ngủ êm đềm, bây giờ thì đến các cháu… Những buổi sáng tinh mơ, khi các con cháu còn nằm trong chăn ấm, bà đã thức dậy, lui cui nấu nướng, lo bữa sáng ngon lành cho cả nhà. Những buổi tối mùa đông rét mướt, bà thức rất khuya, ngồi bên lò sưởi đan áo ấm. Những khi trái nắng, trở trời, bà không quản ngại thức suốt đêm, trông chừng, dỗ cho cháu ngủ yên giấc… Bà đã nuôi con, nuôi cháu lớn lên bằng tất cả tình thương của bà. Tình mẹ bao la như một dòng sông, nước chảy miên man, vô tận. Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, mẹ lúc nào cũng sát cánh bên đàn con, tận tụy hy sinh, bảo vệ, che chở, giúp đỡ… Gia đình lúc nào cũng đầm ấm, yên vui, mọi người quây quần đông đủ dưới một mái nhà. Thế mà lúc cuối đời, mẹ lại phải đơn độc một mình. Ôi chặng đường cuối cùng bao giờ cũng là một chặng đường buồn thảm.
Phượng hiểu nỗi cô đơn của mẹ trong những ngày sắp tới, nàng thấy lòng xót xa, nhưng chẳng còn cách nào khác. Ý định đưa mẹ vô viện dưỡng lão thật ra đã manh nha có từ lâu, kể từ khi bà Trình có triệu chứng lú lẫn và có những hành động có thể gây nguy hiểm. Nhưng Phượng còn nấn ná chưa chịu thi hành, tại thương mẹ nên không nỡ. Cho tới mấy tháng gần đây, tình trạng trở nên tồi tệ, khi bà Trình hay mặc quần áo ngủ đi lang thang ra phố một mình và không biết đường về, hàng xóm phải đi tìm dùm. Một lần, bà suýt bị đụng xe lúc băng qua đường, may người tài xế thắng xe lại kịp, bà chỉ bị trầy trụa sơ sài. Bà mỉm cười ngu ngơ lúc được cảnh sát đưa về, mọi người hỏi bà đi đâu, bà nói bà đi đón ông. Tội nghiệp, ngày nào bà cũng đi đón ông, nhiều lần bà thức dậy từ hai, ba giờ sáng, vô phòng đánh thức mấy đứa cháu, biểu sửa soạn đi đón ông ngoại. Từ đó, sợ các con mất ngủ, mỗi buổi tối, sau khi đưa mẹ vô phòng riêng, Phượng phải khoá cửa lại. Có đêm nàng nghe tiếng đập cửa thình thình, mẹ đòi mở cửa cho bà đi chợ…
Bà Trình thích nấu nướng lắm, phải công nhận ngày trước, bà nấu ăn rất ngon, nhưng từ dạo bị mất trí nhớ, bà chẳng bao giờ tắt bếp. Mấy lần, bà suýt làm cháy nhà vì cái tật hay quên đó, vì vậy, trước khi đi làm, Phượng đã phải tắt ống gas và khoá cửa, sợ mẹ ra ngoài rồi gặp nạn. Như vẫn chưa yên tâm, nàng khoá cả ống dẫn nước vì mẹ hay mở vòi nước mà không tắt, làm nước chảy lênh láng khắp nhà, ướt cả thảm, may sao bà chưa trợt chân té ngã. Phượng đi làm mà trong bụng cứ phập phồng, không yên…
Tình trạng này không thể kéo dài, không thể để bà cụ ở nhà một mình được nũa. Một cuộc họp gia đình đã diễn ra giữa Phượng và hai người em trai ở tiểu bang khác. Vì sinh kế, không ai có thể bỏ việc để ở nhà săn sóc mẹ, nên tất cả đều đi đến quyết định là phải cho mẹ vào nhà dưỡng lão, nơi đó bà cụ sẽ được chăm sóc tử tế. Phượng đã đi thăm dò nhiều nơi, sau cùng nàng chọn cho mẹ một nhà dưỡng lão có người Việt Nam để mẹ đỡ cô đơn. Cuộc hẹn đưa mẹ vô viện sẽ là 11 giờ sáng nay.
Phượng vô phòng đánh thức hai đứa con để chúng ăn sáng và sửa soạn đi học, xong nàng bước vô phòng ngủ của hai vợ chồng. Dũng đã thức và đang cạo râu, chàng nhìn vợ qua gương và hỏi:
– Nãy giờ em ở dưới nhà à?
Phượng gật đầu, kể cho chồng nghe về nồi cháo, và nói má đòi thay tã cho con Uyên, khiến Dũng bật lên cười. Thường ngày Phượng không bao giờ cảm thấy khó chịu vì những tiếng cười vô tư của chồng khi chứng kiến những hành động ngây ngô, nhiều khi rất con nít của mẹ, nàng biết chồng không có ý châm biếm, chàng cười chỉ vì buồn cười mà thôi. Dũng mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, chàng thiếu tình mẫu tử nên rất quí mẹ vợ. Phượng cho là mình may mắn và vẫn thầm cám ơn chồng, nhưng không hiểu sao hôm nay Phượng lại thấy bực mình vì tiếng cười vô tư của chồng mà nàng thấy là không đúng lúc.
Phượng có cảm tưởng như chàng là người ngoại cuộc, nàng cau mày trách:
– Anh có im đi không? Em đang rối ruột đây!
Dũng ngạc nhiên ngó vợ, nhưng rồi chợt nhớ ra hôm nay là ngày gì, chàng lập tức ngưng ngay tiếng cười vô ý thức của mình. Im lặng một lúc, chàng mới nói, giọng băn khoăn:
– Hôm nay anh không thể nghỉ làm để đưa má đi được.
– Không sao, tự em sẽ đưa má đi, như vậy tốt hơn. Anh đưa hai đứa nhỏ tới trường và đón về dùm em, vì không biết em sẽ phải ở lại với má bao lâu…
– Được, được, em cứ thong thả lo cho má. Xong việc, nhớ điện thoại vào sở ngay cho anh, cho biết tình hình ra sao.
Phượng đứng trên đầu cầu thang, nhìn hai đứa nhỏ ôm hôn bà ngoại trước khi đi học, có cảm tưởng như đó là những cái hôn vĩnh biệt, lòng nàng đau như dao cắt.
Đợi cho chồng và hai con đã ra khỏi nhà, Phượng mới xuống bếp sửa soạn bữa ăn sáng cho mẹ. Ý nghĩ đây là bữa ăn cuối cùng của mẹ ở nhà, khiến Phượng thấy tim se lại, nàng nhớ tới một đoạn phim được xem đã lâu, nói về bữa ăn cuối cùng của người tử tội, nàng bỗng thấy lòng rưng rưng. Phượng tự nhủ thôi đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, cứ để việc gì phải tới, sẽ tới. Vừa làm nàng vừa hát nho nhỏ, cố tìm hiểu ý nghĩa của lời ca, nhưng không thể. Dọn bàn xong, nàng mời mẹ ra ăn.
Bà Trình nhìn mặt bàn ê hề những thức ăn, hỏi con:
– Sao con làm nhiều đồ ăn thế?
Phượng nhìn đi chỗ khác, nói:
– Má ăn đi, thay cho bữa trưa luôn thể.
– Con cũng cùng ăn với má chứ?
Phượng gật đầu, nàng ngồi vào bàn, nhưng không tài nào nuốt được. Nhìn mẹ ăn ngon lành, nàng có mặc cảm phạm tội vì đang đánh lừa mẹ.
Đợi bà ăn xong bữa, Phượng ngập ngừng mãi mới mở miệng nói dối:
– Má có muốn đi phố một lúc không? Vô phòng thay đồ đi, con chở má đi chơi.
– Đi chơi thiệt sao? Thích quá!
Mắt bà mẹ sáng lên với vẻ vui mừng, được đi ra ngoài, bà sung suớng lắm. Thường ngày cứ bị nhốt ở nhà, bà thấy bực bội, năm thì mười họa mới được con chở đi chơi, những dịp ấy đối với bà vui như một ngày hội. Thấy Phượng xách theo va li, bà hỏi:
– Đi du lịch à?
Vừa nói bà vừa nhìn quanh khắp căn nhà như để kiểm soát một lần cuối cùng, theo thói quen trước khi đi xa. Không hiểu sao Phượng có cảm tưởng những tia nhìn của mẹ có vẻ lưu luyến rất tội nghiệp, chắc bà có linh cảm sẽ không được trở về đây nữa? Không muốn kéo dài giây phút đau lòng, nàng vội vã đưa mẹ ra xe. Phượng ngồi vào tay lái, tâm trạng bất an nên Phượng lái xe mà đầu óc để tận đâu đâu, mấy lần bị xe khác bấm còi inh ỏi.
Bà mẹ bất chợt lên tiếng:
– Dũng lái xe giỏi hơn con, sao không để cho nó lái?
Rồi như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi giọng lo lắng:
– Đi du lịch mà sao không có Dũng và hai đứa nhỏ?
Phượng ậm ừ, tránh không trả lời, nàng cho xe ra khỏi xa lộ và tìm hướng vào thành phố. Viện dưỡng lão kia rồi, từ xa đã thấy một toà nhà đồ sộ sơn màu vàng nhạt, trông như một cái bệnh viện. Khi quẹo xe vô cổng, Phượng nhìn đồng hồ, 11 giờ 15, trễ mất mười lăm phút. Nàng hoảng lên, trời! làm thế nào nếu họ không tiếp và cho một cái hẹn khác? chắc nàng không có can đảm…
Đậu xe xong, Phượng kéo mẹ đi như chạy tới phòng hướng dẫn, nơi đó người ta chỉ cho nàng phải đi lối nào. Viện dưỡng lão có ba dãy nhà bao quanh một khu vườn rộng có trồng hoa, và nhiều cây lớn cho bóng mát. Nơi đây có nhiều cụ già chống gậy đi thơ thẩn một mình, hoặc túm năm tụm ba ngồi trò chuyện trên những băng đá, đó là các cụ tương đối còn mạnh khoẻ. Cũng có những cụ già ngồi trên xe lăn, đang được những người khán hộ đẩy đi quanh vườn để sưởi nắng.
Khi hai mẹ con sắp bước tới cái cửa tự động để vô tòa buyn đinh chính giữa, bà mẹ bỗng chùn lại không chịu đi nữa, bà hỏi với một giọng lo lắng:
– Đây là đâu? trông không có giống khách sạn tí nào. Má không muốn vô, con đưa má về đi, má không muốn đi du lịch nữa.
Phượng dỗ:
– Vô một chút thôi má, vô làm giấy tờ xong rồi về.
Tới phòng nhận bệnh, Phượng trình giấy tờ và được mời vào, cửa được đóng lại ngay sau lưng. Bà y tá người da trắng, trông có vẻ hiền lành tử tế, mời hai mẹ con ngồi, rồi tự giới thiệu:
– Tôi là Ingrid, y tá trưởng ở đây. Còn đây là…
Phượng vội đỡ lời:
– Bà Nguyễn Thị Trình, mẹ tôi. Xin lỗi cô Ingrid, mẹ tôi không nói được tiếng Anh…
– Không sao cả, ở đây có bốn y tá là người Việt và cũng có một số bệnh nhân là Việt Nam, mẹ cô sẽ không cô đơn đâu.
– Được vậy tôi rất mừng.
Sau khi chờ cho Phượng điền một lô những giấy tờ liên quan đến bảo hiểm y tế, tên tuổi, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật và những thuốc men mẹ nàng đang dùng, cô Ingrid cầm xem sơ qua một lượt rồi nói:
– Sáng mai chúng tôi sẽ đưa bà cụ đi khám bác sĩ để lập hồ sơ bệnh lý. Bây giờ tôi cho người đưa bà cụ đi nhận phòng.
Cô Ingrid bấm chuông, và một người tá mới xuất hiện. Phượng gật đầu chào và hỏi:
– Tôi đi theo được chứ?
– Dĩ nhiên! mời hai người theo tôi.
Cô y tá đi trước dẫn đường, hai mẹ con lúp xúp theo sau, bà mẹ đi sát vào con gái như tìm sự che chở, bà chỉ yên tâm khi có con ở bên cạnh. Họ đi thang máy lên lầu hai, tới trước căn phòng sơn màu xanh, có đề bảng số 204 B, cô y tá dừng lại, gõ nhẹ vào cửa hai tiếng, rồi mở toang cửa phòng:
– Đây là phòng của mẹ cô, ở chung với một bà cụ cũng người Việt Nam.
Rồi cô quay đi, sau khi chỉ cho Phượng chỗ để quần áo, cô ghé sát vào tận tai nàng thì thầm:
– Hai mẹ con từ giã nhau đi nhé, lát nữa tôi sẽ quay lại.
Phượng thấy tim nhói lên một cái, nàng đưa mắt nhìn mẹ, bà Trình đang nhìn theo cô y tá với một vẻ sợ sệt. Đợi cô ta đi khỏi, Phượng mới đưa mắt quan sát, căn phòng tương đối sáng sủa, tường sơn màu xanh dịu mắt, có một cái cửa sổ trông xuống vườn hoa. Ngoài một cái TV ở chính giữa, treo ở trên cao, và một cái bàn hình vuông có bốn cái ghế kê ở cuối phòng – chắc dùng làm chỗ tiếp khách – những đồ đạc còn lại, thứ nào cũng có hai cái: hai tủ đựng quần áo, hai bàn đêm và hai cái giường, một cái để trống dành cho mẹ nàng, và trên cái giường kia có một bà cụ đang nằm xây mặt vào tường.
Thấy có tiếng động, bà ta quay lại, nở một nụ cười méo mó:
– Người mới hả? Ở đây tụi tui kêu là… con so. Tui tên Năm, ở đây trên ba năm rồi. Không sao đâu bà cụ! Vô đây làm bạn với tui cho vui, nằm một mình buồn lắm. Cái giường kia bỏ trống cả tháng nay, người nằm đó chết rồi, chết vì chứng ung thư máu…
Bà Trình rùng mình, kéo tay con gái:
– Ở đây toàn người bịnh, sợ quá, má muốn về nhà. Đi về lẹ lên đi con! Mình ở đây khá lâu rồi đó, đã tới giờ con đi rước mấy đứa nhỏ, còn má phải sửa soạn bữa cơm chiều…
Phượng thở dài, lòng cô chùng xuống, tội nghiệp mẹ luôn luôn nhớ bữa cơm chiều… Đối với bà, bữa cơm chiều là quan trọng nhất, vì là giờ phút xum họp của tất cả mọi người trong gia đình trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Bằng tất cả thương yêu, trìu mến, mẹ chăm sóc miếng ngon cho cả nhà, hạnh phúc của mẹ là được nhìn thấy các con cháu sung sướng. Nếu mẹ biết sẽ chẳng bao giờ còn có những bữa cơm gia đình, sẽ chẳng bao giờ mẹ còn được tựa cửa ngóng trông con, cháu trở về? Phượng thấy lòng bất nhẫn quá, nhưng nàng biết sẽ phải cuơng quyết, nếu không, sẽ không còn cơ hội nào nữa. Tim đập nhanh trong lồng ngực, Phượng dìu mẹ ngồi xuống giường…
Đây là giây phút quan trọng nhất, Phượng ngập ngừng mãi, không biết phải mở đầu như thế nào. Sau cùng, nàng hít vô một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm, rồi bằng tất cả cố gắng, nàng nắm lấy tay mẹ, giọng run run:
– Má nghe con nói! Đây là phòng của má, má hãy ở đây đêm nay, ngày mai con và Dũng sẽ đưa mấy đứa nhỏ vô thăm má…
– Ồ không… con ơi! – Mẹ nàng kêu lên thảng thốt, vùng ôm chặt lấy con gái như sợ cô chạy mất, – Má không muốn ở đây, má chỉ thích cái phòng riêng của má, cái giường của má. Má nhớ hai đứa nhỏ, nhớ cái bàn thờ có hình của ba con…
Phượng ứa nước mắt, nàng cũng ôm mẹ thật chặt:
– Má hiểu cho con, con cũng đâu có muốn xa má. Nhưng tình thế bắt buộc, má cần người săn sóc, mà con thì không thể… Má ở đây con yên tâm hơn, vì luôn luôn có các bác sĩ, y tá thường trực ngày đêm, chăm lo sức khoẻ cho tất cả mọi người.
Bà mẹ vừa khóc vừa nói:
– Má không cần bác sĩ, má chỉ cần các con cháu. Giọng bà bỗng dưng tỉnh táo một cách lạ lùng, má biết dạo này má già cả, lẫm cẫm, không còn giúp ích gì cho mọi người, má vô dụng rồi. Chắc con giận má hay sơ ý, mấy lần suýt làm cháy nhà? Má cũng ân hận lắm, hãy cho má thêm một cơ hội nữa, má hứa sẽ không gây phiền phức cho con nữa đâu. Má hứa sẽ nhớ tắt bếp, má cũng sẽ không đi lang thang ra đường một mình, má sẽ ở nhà suốt ngày đợi con, cháu về…
Tới đây thì Phượng không thể chịu đựng nổi nữa, nàng cũng bật khóc lên thành tiếng, nước mắt chảy ròng ròng:
– Ồ không phải vậy đâu má, nhưng mà…
Phượng nghẹn ngào, không biết sẽ phải tiếp tục ra sao, hai mẹ con ôm nhau, cùng nức nở…
Bỗng cánh cửa bật mở, cô y tá hồi nãy trở lại, thấy cảnh đó thì thở dài, làm việc ở đây đã lâu, những cảnh này đối với cô quen thuộc quá, nhưng mỗi khi phải chứng kiến, lòng cô không khỏi se lại. Chờ cho hai mẹ con bịn rịn thêm một lúc nữa, cô mới nhẹ nhàng an ủi:
– Mới đầu thì ai cũng vậy, nhưng chỉ dăm bữa, nửa tháng nữa thôi, mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy cả.
Rồi cô quay qua, nói riêng với Phượng:
– Sáng mai sẽ có y tá người Việt Nam, hy vọng bà cụ sẽ thấy thoải mái. Cô yên tâm, chúng tôi sẽ săn sóc mẹ cô tử tế. Bây giờ cô nên về đi, như thế sẽ dễ cho chúng tôi hơn.
Bà cụ nằm giường bên bỗng lên tiếng:
– Dùng dằng mãi cũng chỉ đến thế, chẳng ích gì. Cô cứ về đi, không sao đâu, tôi sẽ an ủi mẹ cô dùm cho.
– Vâng cháu xin nhờ cụ.
Bà mẹ nghe thấy thế, thì vội vàng níu chặt lấy áo con gái. Phượng nhẹ nhàng gỡ tay mẹ ra, dỗ dành:
– Má thấy chưa? Bác Năm tốt lắm, các cô y tá cũng vậy, ở đây ai cũng chỉ muốn giúp đỡ má thôi mà. Má yên tâm đi, chẳng việc gì phải sợ hãi cả. Bây giờ con phải về đón mấy đứa nhỏ nghen má.
– Thế con có trở lại không?
– Có chứ, nếu má đừng gây lộn xộn, chiều mai con sẽ đưa các cháu vô thăm má.
Phượng dịu dàng đặt một cái hôn lên trán mẹ, nàng ôm xiết mẹ một lúc rồi buông ra:
– Má! con phải đi, mai con sẽ trở lại.
– Con sẽ không bỏ má ở lại đây một mình chứ?
– Con sẽ vô thăm má thường xuyên mà. Phượng nói với mẹ mà như một lời nhắc nhở với chính mình, con hứa mỗi cuối tuần sẽ đến đón má về. Thôi bây giờ má đi nghỉ đi, con phải về lo cho các cháu.
Nói xong, Phượng đứng dậy, cô y tá lẹ làng đứng chen vào giữa hai mẹ con, và đẩy nhẹ lưng Phượng:
– Cô đi ngay đi, lẹ lên!
Cô ta nắm lấy cánh tay bà mẹ, nhưng bà dằng ra, run rẩy chạy theo con ra cửa:
– Con ơi! đừng bỏ má, van con đừng bỏ má!
Phượng ngập ngừng, quay lại, nhưng cánh cửa đã được khép lại sau lưng nàng, như một bức tường ngăn cách giữa hai mẹ con, ngăn cách những con người già nua, bệnh tật khốn khổ ở bên trong với thế giới vui tươi, sinh động ở bên ngoài. Phượng nghe tiếng mẹ gào lớn:
– Con ơi! con ơi…
Phượng rùng mình, có cảm tưởng như vừa nghe tiếng kêu cứu của người tử tội trước khi bị lên máy chém. Nàng bịt tai lại, vùng bỏ chạy, nhưng những tiếng gọi của mẹ vẫn đuổi theo. Phượng biết suốt đời nàng sẽ không bao giờ quên được tiếng gọi “con ơi“ ai oán của mẹ.
Bất chợt một buổi chiều – Quan Dương (Dương Công Quan)
Chai rượu ngã chúi nhào vô đáy cốc
Dập tím bầm khuôn mặt gã đàn ông
Đáy cốc nhỏ chở lòng chai quá chật
Một giọt thừa tràn lên mắt rưng rưng
Nàng là người đàn bà không đẹp, khuôn mặt trông phách lối. Còn gã chỉ là một tên làm công trong một tiệm grocery nhỏ. Nàng có thói quen mỗi chiều đều ghé lại để mua một xâu Budweizer 6 lon 12 oz. Mỗi lúc nàng đến, gã thường lẳng lặng đứng nhìn. Chưa bao giờ nàng nở một nụ cười, dù chỉ một nụ cười dùng để xã giao giả tạo. Chắc có lẽ nàng nhận thấy gã quá tầm thường. Trái lại gã rất chú ý đến nàng, bởi vì nàng có một bản mặt khó ưa, nếu không nói là dễ ghét.
Cứ thế, ngày tháng lẳng lặng đi qua, sự ghét trong gã âm thầm tăng dần tỷ lệ thuận với thời gian. Gã có thể cảm nhận biết nàng khinh khi mình, nhưng không làm gì được, vì xét ra gã còn tầm thường hơn mức nàng nghĩ. Đôi lúc gã cũng buồn tủi với vị thế quá hèn mọn của mình, vì dù gì gã cũng từng có học, dẫu không nhiều lắm nhưng cũng vừa đủ làm cho gã mỗi lúc tiếc nuối về bao ước vọng tuổi trẻ không thành trong quá khứ để ấm ức cho một hiện tại không giống ai.
Đồng lương nhận hàng tháng là đồng lương thấp nhất, chẳng dư dả, nhưng gã cũng tạm lây lất mà không cần phải bon chen này nọ. Đôi khi gã tự xem đời mình kể như kết thúc. Sống để chờ ngày tháng trôi qua mỏi mòn… và chết. Thế thôi. Chuyện thế sự trần gian không còn màng đến, nếu không nói gã quá chán ba chuyện dài tị nạn lắm rồi. Cũng chỉ là những mị ngữ hô hào để che đậy những thê thảm trong tận cùng tâm ức thối rữa từ sự no đủ vật chất trên đất nước tạm bợ này thành những viên sáp hóa trang cho từng khuôn mặt. Lúc mới đến, gã có quá nhiều kỳ vọng một sự đổi thay đến nỗi dư thừa thành mòn mỏi và thất vọng. Cuối cùng, tự khoanh cuộc sống vào mảnh đời rách nát, gã cầu xin tâm linh chỉ lối đưa đường để mai kia mốt nọ có về với cát bụi cũng đừng nên vương lại một chút gì có thể làm ô nhiễm thêm bầu không khí mà loài người vì cần sống đã phải hít vào thở ra hàng ngày.
Trong lúc gã yên chí đời mình như thế đó thì nàng lại xuất hiện, dễ ghét đến nỗi khuấy động sự yên lành trong tâm tư. Gã đâu còn trẻ để nôn nao bồi hồi, cũng chưa đến nỗi già để mất đi cảm giác trần tục của một con đực động tình trước một con cái do bản năng tự nhiên Thượng Đế ban phát. Nàng là người Việt họa hoằn đi lạc vào cái tiệm bán bia rượu vốn phần đông khách hàng người Mỹ. Nàng là người Việt, nhưng chưa bao giờ gã nghe nàng nói tiếng cha sanh mẹ đẻ ngay cả lúc đứng ở quày cashier tính tiền với thằng chủ cũng là người Việt một trăm phần trăm. Gã rất gai tính, gai đến nỗi hằn học tự nhủ: “Con quỷ cái này phách lối, khinh mạn không đáng cho ta để ý.”
Tự nhủ chỉ là tự nhủ vậy thôi, chứ con mắt trần tục của gã không thể nào không khẽ liếc vào cái vóc dáng thon thả với bộ ngực, cái mông quá tiêu chuẩn của một phụ nữ Á Đông. Nàng thường mặc loại áo pull thun, sát nách thành thử những gì chứa bên trong làn áo đó gọi là che đậy bị lớp vải thun bó chặt cứ lồ lộ hiện ra, lắc lư, lắc lư. Tóm lại, ghét nhưng lại thèm, dù gì gã cũng chỉ ngoài 40, còn sung sức chán. Đâu ở cái tuổi 20, gã nhớ, cũng đã có một vài lần biết mùi vị đàn bà, rồi thôi. Cuộc chiến tranh cuốn hút vào nhu cầu đòi hỏi chiến trường quá ư bận rộn, gã chưa kịp chuẩn bị xả láng đời trai một ngày thiệt đúng nghĩa… Ở tuổi nào bước vào đời, gã không còn nhớ. Bước vào đời hay bước ra đời nhỉ? Đằng nào thì cũng thê thảm chừng ấy thôi.
Cái mốc thời gian để gã cảm nhận chắc có lẽ ngày vứt áo thư sinh lên đường. Gã là một sinh vật có cảm giác như trăm ngàn sinh vật khác. Tuổi chớm lớn làm sao tránh khỏi những nhu cầu rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của con người. Gã cũng đã từng mơ ước một bàn tay, một làn môi dịu ngọt để điểm trang cho ngày tháng khô cằn. Chiến tranh, sau 9 tháng quân trường tằn mằn cùng súng đạn, học cách bắn giết, gã bị vứt ra chiến trường khi sương nắng thời gian chưa kịp cháy đen làn da thư sinh trắng trẻo. Gã giữ chức trung đội trưởng tác chiến của một đại đội biệt lập trực thuộc Tiểu Khu Darlac. Đại đội có nhiệm vụ trấn giữ buôn M Rê, tiền đồn tỉnh lỵ về hướng Nam, cách Ban Mê Thuột 14 cây số.
Ngày thứ ba, tính từ lúc về đơn vị, đang nửa đêm, đại đội bị một tiểu đoàn tấn công biển người. Thằng lính mang máy PRC 25 lãnh nguyên một quả 82 ly biến mất ngay trước mắt gã trong những giây phút đầu tiên. Chỉ cần giây phút đó thôi, gã bỗng lớn bằng 20 năm gom lại. Hoa bướm thuở nào cho phút thăng hoa đã nhuộm đỏ trang giấy trắng học trò. Lòng gã bỗng dưng biết hận thù cho cuộc chiến mà trước khi bước vào gã cứ ngỡ là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi lý. Gã nhớ, lúc đó cảm giác mình nôn nao khó tả. Sương đêm lẫn vào khói súng mờ mịt cuồn cuộn. Dưới ánh hỏa châu soi sáng từ Tiểu Khu Darlac bắn lên yểm trợ, gã ngơ ngác kiếm tìm một cái gì còn sót lại để chứng minh chỉ vừa mới đây thôi thằng lính mang máy còn đứng trước mặt mình. Nếu không chứng kiến vùng lửa sáng lóe ụp lên một sinh vật biết khóc cười, thì gã cứ ngỡ thằng mang máy ba gai bỏ trốn đi đâu thôi.
Vậy mà chớp mắt lại thêm 20 năm nữa trôi qua kể từ đêm lớn lên đó. Gã bước vô trại tập trung năm 22 tuổi. Ở tù vào cái tuổi tràn đầy sức sống. Tám năm sau gã bị vứt ra lề, trẻ không ra trẻ, già không ra già, ngơ ngơ ngác ngác không biết mình đang sống hay đang chết. Lẩn thẩn tính sổ cuộc đời thấy thật phi lý. Qui luật tạo hóa ban cho loài người, trước khi già, ai cũng phải đều trẻ. Thế mà gã không có, gã thảm thương đến nỗi không có tuổi trẻ để đánh rơi. Hoặc giả, tuổi trẻ bỏ quên gã trên niềm đau không tưởng, hoặc giả bởi gã hăm hở kỳ vọng vào lẽ tất nhiên quy luật điều thiện ác quên cả thanh xuân. Con quỉ thời gian từ lâu ẩn mình trong bộ nhớ đưa tay gõ nhẹ vào một sợi dây nào đó trong hệ thần kinh não tủy, gã đau đến nổ đom đóm, nước mắt chạy ngược vào trong, gã càng thấm thía nỗi phũ phàng. Tình yêu tổ quốc thực sự… cứ muôn trùng. Muôn trùng vời vợi.
Thế là gã đâm ra ươn hèn, co đầu rút cổ biến mình thành loài gỗ mục nép bên lề cuộc đời. Gã sắp trở thành tro bụi thì nàng lại xuất hiện.
Một hôm, sau khi nàng rời khỏi quày cashier bước ra cửa, bắt gặp đôi mắt ngây dại của gã dán theo cái mông, thằng chủ cười cười gọi lại: “Anh Việt, anh thấy con đó thế nào?”
Gã làm bộ ngơ ngác: “Con nào?”
“Thôi đừng làm bộ. Con mẹ vừa bước ra đó. Băm mấy mà vẫn còn ngọt nước quá hén? Chửa chồng con gì, hết xẩy.”
Đưa tay ngoắc ngoắc gã: “Anh đến đây nói nhỏ cho mà nghe.”
Thằng chủ liếc xung quanh làm ra vẻ xem có ai nghe lén không. Thật ra trong cái tiệm này, ngoài thằng chủ với gã là người Việt Nam, tất cả đều là người Mỹ. Cho dù thằng chủ có bắc loa hét lên cũng chẳng ai hiểu hai người nói gì. Tuy thế, tiếng nói chỉ nhỏ vừa đủ: “Con mẹ đó chê người mình nhỏ con yếu sức nên ở vậy. Nó đang đợi thằng Mỹ nào vừa to vừa sung sức để thử.”
“Bôi bác vừa phải thôi ông!”
“Anh không tin? Cô ta vẫn thường nói với tôi như thế.”
“Ông giỏi phịa, nhưng mà tôi thấy con mẹ đó ngạo mạn thấy mồ! Ông biết đó, vào đây hằng ngày có bao giờ thèm chào tôi được một tiếng.”
“Không thèm chào nhưng mà kết anh mới chết.”
“Ông căn cứ vào đâu bảo con mẹ đó kết tôi?”
“Thì cô ta thường bình phẩm anh với tôi hoài.”
“Bình phẩm thế nào?”
“Cô ta bảo ông giống con gà nuốt giây thun.”
“Bình phẩm vậy mà ông bảo kết?”
“Chứ sao! Đàn bà kết đàn ông thường nói điều ngược lại.”
“Còn gì nữa?”
“Cô ả nói cái mặt ông lịt lịt, nhưng coi chừng địt chết voi.”
“Tôi mà địt chết nổi ai, thân cu ly lây lất qua ngày lo giữ mình chưa chắc đã nổi. Nhưng mà bỗng dưng nói chuyện thiên hạ làm gì không biết nữa!”
“Thì thấy cặp mắt anh cứ dán vào đôi mông cô nàng muốn lọt tròng nên tôi nói cho vui vậy mà.”
Gã đỏ mặt hơi ngượng, thầm công nhận thằng chủ thuộc loại không phải tay vừa: “Hay suy bụng ta ra bụng người đó ông?”
“Cho kẹo tôi cũng không dám. Con vợ tôi dữ như cọp cái, tôi đâu dám léng phéng. Ở cái xứ đàn bà ưu tiên một này, lạng quạng có ngày bạch bu ra đường không còn một cắc. Mà tôi, như anh biết, giờ no đủ quá đâm ra hèn, thủ phận. Tôi rất sợ bất cứ rủi ro nào xẩy đến có thể thay đổi cuộc sống ngày hôm nay.”
Tự nhiên gã thấy thương thằng chủ. Dù sao hắn cũng thật tình ở một điều mà hầu hết những người qua hơn 20 năm trước đây đều không dám nhận. Gã nhìn lại mình, thầm nghĩ vài ba năm, sau khi quen nước quen cái ở đây rồi có bằng một nửa “thật tình” của hắn hay không về cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần? Cũng có thể do tính tình thằng chủ như thế, nên suốt hai năm rồi gã vẫn bám vào làm công cho hắn, mặc bạn bè đôi lúc trà dư tửu hậu nhắc nhở nên tìm một cái job Mỹ nào thủ chắc tương lai. Người Việt Nam nói riêng, người Á Đông nói chung vừa bủn xỉn vừa bóc lột tham công tiếc việc, không tình không nghĩa. Gã hiểu điều đó bởi cũng từng thấm đòn với thứ tình nghĩa giả tạo ban phát mà người ban vì lý do thừa mứa cần phải ngụy trang để khỏi mang tiếng là người mất gốc. Riêng thằng chủ này thì gã không nghĩ như vậy, ít nhất là trong lúc này.
Chiều chủ nhật, gã định nằm nhà đọc sách thì thằng chủ ào đến như ăn cướp, lôi đầu gã dậy để dẫn đi uống cà phê. Gã định từ chối nhưng bản tính vị nể nhút nhát khiến cho gã khó mở miệng. Thế là gã mặc áo quần, giao hồn lẫn xác mặc thằng chủ đưa đi đâu thì đi. Nơi hai người đến là một quán cà phê nhỏ nằm trên đường Manhattan, chung quanh cửa kính. Ngồi bên trong có thể nhìn được mọi sinh hoạt bên ngoài. Chẳng có gì thơ mộng để thả hồn từ quán cà phê trên đất khách. Gã nhìn xe cộ qua lại như mắc cửi, chỉ bấy nhiêu thôi. Chả bù những quán cà phê xa xưa tại quê nhà ngồi đốt hết nửa gói Capstan để qua làn khói mờ lãng đãng phất phơ những tà áo dài của người dưng khác họ qua đường cũng đủ làm ngây ngất. Bỏ cả buổi chiều ngày cuối tuần đâm đầu vào đây thiệt là uổng phí. Gã chẳng hiểu tại sao thằng chủ của mình khùng điên như vậy. Tất cả sẽ không còn gì đáng nhớ, đáng bận tâm nếu phải ngồi tán dóc cho qua hết những giờ vàng ngọc rồi lặng lẽ ra về. Ở đời, bởi những gì xẩy ra đều mắc míu vào chữ “nếu” đầy oái oăm, nên chỉ năm phút sau gã chợt hiểu tại sao một người kinh nghiệm như thằng chủ của gã lại chọn quán cà phê nhỏ này để không uổng phí buổi chiều cuối tuần.
Người xuất hiện để tiếp hai người chính là nàng, mụ đàn bà gã ghét nhất trên đời. Nàng nhoẻn miệng cười, không biết cười với ai, nhưng gã vẫn cảm thấy mình ngầy ngật vô cớ. Nàng chào thằng chủ chưa chắc gã có phần, thế mà gã vẫn lớ ngớ, tay chân vụng về thừa thãi.
Thằng chủ nói: “Đâu cần phải lính quýnh lên như vậy, hồi hộp lắm à?”
Gã chữa thẹn: “Không ngờ ông ghê thiệt!”
“Ghê gì mà ghê! Bình tĩnh đi. Hà cớ gì phải lính quýnh, nước Mỹ có nhân quyền, sau những giờ đi cày cho vấn đề cơm áo, tất cả mọi người đều bình đẳng. Lúc này anh là khách, anh phải trưng dụng quyền làm khách của mình.”
Lời nhắc nhở vàng ngọc khiến gã chợt nhớ chiều nay gã là người khách đến uống cà phê chớ không phải tên làm công của tiệm grocery nơi nàng thường ghé lại. Điều đó giúp gã bình tĩnh phần nào.
“Xin lỗi, ông uống gì?”
Nàng hỏi. Lần đầu tiên sau nửa năm đụng mặt. Khi con cóc mở miệng gọi trời mưa, lòng gã bỗng choáng ngợp. Gã lúng túng: “Chị cho uống gì cũng được.”
Nàng lại nhoẻn miệng cười, lần này gã hiểu nụ cười dành cho mình. Chỉ một nụ cười xã giao thôi nhưng không biết sao máu trong cơ thể rần rần dồn lên mặt. Gã ghét nàng lắm mà! Tại sao kỳ vậy? Mùi nước hoa… nhè nhẹ lùa vào khướu giác. Hơn hai mươi năm mới ngửi được mùi đàn bà dù qua không khí vẫn thảm thiết đầy êm ả như thường.
“Cho ảnh một cốc Hennessy.”
Thằng chủ đỡ lời, gã hơi thắc mắc, tại sao quán cà phê lại bán rượu?
“Có gì đâu ngạc nhiên, ở đây bán cà phê cho Mỹ và rượu cho người Việt Nam, đặc biệt cho anh.”
Cái mặt thằng chủ trông điếm đàng sao sao ấy! Hình như giữa hắn với nàng có một sự toa rập.
“Uống rượu nhé?”
Nàng hỏi, không cần gã trả lời, bước vào trong quày đem ra cho gã một ly. Rất tự nhiên nàng kéo ghế ngồi vào bàn hai người.
“Anh có vẻ hiền ít nói quá nhỉ? Ở đây hiền lắm chỉ thiệt vào thân. Anh phải tự cải tạo mình mới được.”
Gã ngu ngơ: “Tôi đã từng cải tạo.”
“Không, không phải cải tạo kiểu đó đâu. Ý tôi muốn nói, anh phải tự cởi bỏ quan điểm tự ti trong đầu để thực tế hội nhập vào chốn bình yên đầy hỗn loạn này.”
Văn hoa gớm! Không ngờ con mụ đàn bà khinh khỉnh cái mặt dễ ghét xài toàn tiếng Mỹ, khi nói chuyện trực diện với kẻ cùng đinh như gã lại dùng từ bóng bẩy mà giản dị, sâu sắc. À, thì ra nàng là người có học, còn yêu tha thiết tiếng cha sanh mẹ đẻ thiêng liêng đó. Nàng còn dùng trôi chẩy thứ ngôn ngữ đã sắp trở thành xa xí phẩm giữa những tầng lớp mặc nhiên tôn ti trật tự sau cuộc đổi đời. Sự tôn ti lớp lang rạch ròi, kẻ trên người dưới. Kẻ trên bao gồm những ai có tiền của, địa vị, xài ngôn ngữ nước ngoài như một mốt thời thượng. Người dưới thuộc loại ương ương, dở dở như gã, khi thưa thốt, khi dựa cột lắng nghe, phải uyển mình trong mọi tình huống lý lẽ không thì dễ trở thành kẻ phá hoại gây chia rẽ cộng đồng.
Ôi, gã tự biết lòng mình thèm muốn vô bờ, tất cả dù ác độc, hiền lành, dù giàu sang hay nghèo khó, lúc nào cũng nhớ canh cánh bên lòng thân phận con người…, chín bỏ làm mười, nhường nhịn thương yêu nhau cùng hướng về một phía. Điều mơ ước đó chỉ là không tưởng. Gã chỉ là người dưới, còn lâu kẻ trên thống hiểu một cách thật lòng.
Ly rượu nàng đưa, đủ thấm sự can đảm, gã nóng mặt: “Tại sao chị biết tôi tự ti?”
“Gặp anh hoài tôi biết chứ! Nếu không thì tôi đâu có sắp đặt để chiều nay gặp anh.”
Thì ra cuộc gặp gỡ này, nàng đã nắm thế chủ động. Hèn chi thằng chủ bắt cóc gã một cách cương quyết.
“Tôi có đáng cho chị sắp đặt hay không?”
“Đáng chớ!”
“Tại sao?”
“Tại vì anh thù ghét tôi.”
“Tại sao chị nghĩ tôi thù ghét chị?”
“Hai con mắt anh đầy ‘thù hận’ như thế làm sao tôi không biết!”
“Vậy mà tôi nghĩ chị không biết.”
Nàng hỏi ngược lại: “Tại sao?”
“Tại vì chị không được thông minh cho lắm.”
“Chứ không phải tại đầu óc anh u ám chưa có người khai thông?”
Nàng thông minh hơn gã tưởng.
“Nhưng sao chị lại muốn gặp tôi chiều nay?”
“Tại vì anh giống một người đàn ông tôi từng gặp trong đời.”
“Thì ra vậy. Người đàn ông đó giờ ở đâu?”
“Bỏ tôi rồi. Anh ta sau khi leo lên được chức giám đốc một công ty Mỹ chê tôi là một con mẹ nhà quê, không xứng đáng nên chia tay. Cũng may tôi chưa kịp cưới anh ta làm chồng.”
“Chị có hận anh ta không?”
“Ban đầu thì có. Sau đó thấy anh ta tự mãn với sự thành công quên cả cội nguồn, suy gẫm lại triết lý sống ở đời, ăn để ỉa, sống để rồi chết, đời người rốt cuộc chẳng còn gì. Cái còn chăng là nỗi nhục thiên thu. Tôi thấy anh ta quá nhỏ bé nên không thèm hận, đôi lúc muốn lấy đại một thằng Mỹ trắng hay đen nào đó để trả thù, nhưng niềm tự ái dân tộc vẫn còn tiềm tàng trong máu nên thôi.”
“Hèn chi thấy mặt chị khinh khỉnh, đến nỗi dù muốn, tôi cũng không dám hạ mình làm quen.”
“Tại anh mụ mẫm nên tự bế tắc mình. Anh nên nhớ mình muốn làm điều gì cứ làm. Ở đời tất cả mọi chuyện đều có thể xẩy ra kể cả những chuyện không tưởng. Lúc trước tâm trạng tôi giống như anh bây giờ, hy vọng chút ít kinh nghiệm trải qua khai thông cho anh một lối thoát.”
“Cám ơn.”
“Anh khỏi phải cám ơn. Tôi làm việc này cũng chỉ là để kiếm thêm cho tôi một người bạn còn chất phác. Sự thật thà chất phác ở một con người là thứ xa xí phẩm cao cấp không phải có tiền là mua được.”
“Chắc lúc bị ruồng rẫy chị đau khổ lắm?”
“Tức tối nhiều hơn là đau khổ. Còn anh đã từng đau khổ chưa?”
“Làm gì tôi được diễm phúc đó!”
“Sao vậy?”
“Có ai rảnh rỗi thì giờ để yêu rồi ‘đá’ tôi một phát để tôi được nếm mùi đau khổ! Nhưng mà tôi từng có cảm giác đau đớn.”
Với một giọng điệu kể lể nỉ non của một chính khách hoạt đầu đang bán buôn thiện nguyện từ tâm mà vẫn bị mọi người ruồng rẫy, gã lẩm bẩm tâm sự với nàng: “Cảm giác đau đớn một phần phát nguồn do cuộc chiến đã ném tôi vào cơn xoáy quê hương quá sớm. Đâu từ ở cái tuổi chưa kịp đón nhận lòng ưu ái của một bóng hồng thì trái tim bị bức tử. Chắc chị cũng hiểu khi trái tim đã chết thì đâu còn đau khổ nữa, phải không?”
“Nghe anh nói thảm thương, tôi có cảm tưởng dường như anh chưa từng là lính, chưa từng bị tù tội hành hạ để thấu hiểu hơn, ngoài sự đau đớn nhỏ bé của một sinh vật trót sinh lầm thế kỷ, chúng ta còn có nỗi đau đớn lớn hơn phải chia xẻ, đó là nỗi đau ly tan mà hàng triệu người Việt Nam đang gánh chịu.”
Gã chỉ biết trố mắt nhìn nàng. Con mụ đàn bà gã từng ghét cay ghét đắng càng lúc càng đưa gã vào mê hồn trận. Hèn chi thằng chủ tiệm grocery thường nói nàng trông vậy mà không phải vậy. Lòng ghét nàng không vì thế mà giảm, tuy nhiên lúc này gã bắt đầu cảm thấy thích thú. Mạnh dạn, gã đứng dậy vào trong quày hàng lấy nguyên chai Hennessy mời nàng.
“Tôi phải mời chị uống cùng tôi mới được. Có gì gây trở ngại cho chị không?”
“Không có gì, đêm nào trước khi ngủ tôi phải uống đủ 6 lon Budweizer mới chợp mắt được. Hôm nay phá lệ thử uống rượu xem sao.”
Gã nhìn quanh quẩn tìm thằng chủ của mình; hắn biết điều lặn mất tự lúc nào. Chỉ còn gã với nàng trong quán cà phê vắng khách. Khung cảnh thật tuyệt vời cho một cuộc tấn công. Lòng gã nôn nao. Bỗng nhiên gã có cảm giác bồi hồi như lúc mới biết dậy thì. Thật là trái khoáy, gã tự sỉ vả mình, giữa lúc này lại loay hoay cùng dĩ vãng thiệt là không hợp thời, hợp cảnh. Gã nhắm mắt hít một hơi dài nhìn thẳng vào làn vải thun bó sát, tưởng tượng đó là con mẹ đàn bà lắc lư lắc lư chọc tức gã hằng ngày. Cuộc dằn co giữa thú và người trong nội tâm gã thật là dữ dội.
Thoảng trong vô cùng gã nghe tiếng kiểng báo thức từ trại tập trung cải tạo boong… boong vang lên ngân nga dài vô tận. Tiếng kẻng ngộ trong gã đôi điều, gã buông nhẹ tiếng thở dài: “Ước gì được trẻ lại, tôi sẽ cua chị.”
“Sao bây giờ anh không cua?”
“Vì tôi đã già.”
“Nhưng tôi đâu còn trẻ. Năm nay tôi đã ngoài 30. Hay là anh mong trẻ lại để gọi tôi là chị hai?”
“Chị quá trẻ so với tuổi, còn tôi thì ngược lại.”
“Đó là lý do anh chùn bước?”
“Có lẽ.”
“Anh lại khiếp nhược không thực tế. Anh đang sống trên một đất nước chủ nghĩa thực dụng, cơ hội đến hãy bám chặt. Anh muốn cua tôi thì cứ cua. Còn vấn đề chịu hay không là vấn đề của tôi.”
“Nhưng mà tôi đã từng ghét chị.”
“Bây giờ còn ghét không?”
“Còn, có lẽ ghét hơn lúc trước.”
Nàng chợt hỏi gã một câu gần như lạc đề: “Anh có biết trong toán học, trừ với trừ thành cộng?”
“Biết.”
“Biết là tốt, anh có muốn nghe tôi đọc thơ không?”
“Đọc thử xem.”
Ghét là thương, thương thương là ghét.
Thương là ghét, ghét ghét là thương.
“Ai là tác giả?”
“Tôi chứ ai?”
“Chị? Hèn gì!”
“Hèn gì… sao?”
“Hèn gì… hay quá!”
“Chê tôi không biết làm thơ phải không?”
Đôi mắt nàng thoáng lẳng lơ rất dễ chết người. Trong cơn say loáng choáng của hương vị Hennessy, gã nhìn nàng bằng đôi mắt thật của thằng con trai chưa thấm đòn đời. Nàng không đẹp, Thượng Đế khi tạo hình hài đã ban cho vóc dáng nàng quá hấp dẫn để bù lại phần nào nét đẹp sắc sảo thiếu trên khuôn mặt.
Gã lẩm bẩm như thằng điên: “Nếu bây giờ tôi nói với chị một điều rất thật, chị có tin hay không?”
“Hôm qua thì không tin, ngày mai còn xét lại. Còn hiện tại thì tin. Anh nói đi.”
“Chị…”
Thấy gã ấp úng hoài, nàng bèn mớm lời: “Nếu không đủ can đảm thì đưa bàn tay đây tôi nắm để lấy bình tĩnh.”
Bàn xì phé gần như nàng xuống núi xả láng, thiếu điều lật con bài tẩy cho gã xem. Vậy mà thay vì đưa tay cho nàng nắm, gã lại đứng bằng đôi chân… run lẩy bẩy. Giờ phút này nếu hình ảnh trong quán được thu vào video, khán giả có cảm tưởng như sắp sửa được xem một đoạn phim tình cảm Hồng Kông đến đoạn mùi nhất. Một gã đàn ông ngây dại chuẩn bị sụm đầu gối xuống để thú nhận nỗi lòng. Nàng cũng tưởng thế nên sẵn sàng đón nhận điều đó như một lẽ tất nhiên.
Trong lúc tất cả đều nghĩ như vậy thì gã lại nhoẻn miệng cười: “Cái điều rất thật tôi muốn nói là chị đã ban cho tôi niềm tin.”
Tiếp theo câu nói lãng xẹt đó, gã thòng thêm: “Ngay từ bây giờ và mãi mãi.”
Bây giờ và mãi mãi. Bây giờ và mãi mãi. Năm tháng bé thơ ngờ nghệch, tuổi trẻ bỏ quên trong chiến tranh tù ngục có phải đến lúc lãng quên? Với hai mươi năm ruồng rẫy tình người, bao đắng cay cằn cỗi đã ngọt ngào trở lại. Lòng tự ti mặc cảm được che giấu vỗ về bằng sự tự tôn không còn nữa. Kẻ đến trước, người đến sau, tất cả cuối cùng đều đã đến. Chỉ còn sự đi từ nơi đã đến, dù mù mịt xa vời vợi, nhưng mọi chuyện trên đời, như nàng đã nói có gì mà không thể xẩy ra. Hãy trang bị nồng nàn khi còn sung sức, bỏ mặc ngoài tai những mị ngữ, ganh ghét nhỏ nhoi. Gã phải lấy lại những gì mà gã đã mất, đó là tuổi trẻ. Tuổi trẻ già nua, cứ xem cuộc đời mình không có hai mươi năm trôi tấp. Hai mươi năm dư thừa, xin mi hãy là vết sẹo.
Gã nói với nàng: “Bắt đầu từ lúc này tôi sẽ gọi chị bằng Em.”
“OK.”
Nàng trả lời bằng tiếng Mỹ thay vì tiếng Việt Nam. Nhưng bây giờ điều đó chẳng sao.
Mẹ chồng tôi – Nguyễn Minh Chính
Bây giờ thì mẹ chồng tôi đã về cõi vĩnh hằng.
Từ ngày bà mất, không ngày nào là tôi không nhớ bà, không đêm nào là tôi không gọi: Mẹ ơi…! Song sự chết bao giờ cũng khốc liệt, cũng sâu thăm thẳm và cũng rất đỗi linh thiêng, rất mênh mông vời vợi và cũng rất thấm nỗi buồn man mác. Những đêm thao thức, tôi như thấy đang được trò chuyện với bà…
Tôi về làm dâu khi vừa 20 tuổi, còn chồng tôi – anh Hòa – năm ấy ở độ tuổi 22. Chồng tôi là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, đã học hết cấp III hai năm về trước, có giấy báo đi đại học thì địa phương giữ lại, nói là “để đào tạo lâu dài cho xã.” Anh đang làm kế toán phụ cho hợp tác xã nông nghiệp. Nhà chúng tôi ở gần nhau, hai gia đình đã có ước vọng từ khi chúng tôi còn nhỏ, mong sao khi lớn lên chúng tôi nên vợ nên chồng. Ở tuổi thành niên chúng tôi đã thương nhau và đã dẫn đến cuộc hôn nhân tốt lành của chúng tôi.
Nhà Hòa chỉ có hai mẹ con; có thêm tôi, đứa con mới trong nhà, mẹ chồng tôi vui lắm. Bà âu yếm thân tình chỉ cho tôi từng cách làm ăn, cách sống, cách đối xử với chồng và những điều cần kiêng kỵ, cách ăn ở với bà con họ hàng, làng xóm. Tôi sáng ý, vâng theo bà và do đó bà tỏ ra rất hài lòng. Ðược chồng yêu, mẹ chồng quý, dân làng mến nể, tôi sống những ngày tràn đầy hạnh phúc.
Ở bên nhau được gần ba tháng thì anh Hòa trúng tuyển bộ đội và lên đường vào đầu tháng giêng năm ấy. Vợ chồng mới cưới xa nhau thật là một sự thử thách lớn: lúc anh sắp đi, tôi cứ ngỡ là anh đi rồi. Lúc anh đi rồi, tôi cứ tưởng anh hãy còn ở bên cạnh. Nhưng sau đó, những đêm mưa lạnh mới thấy thấm thía làm sao! Tháng 10, anh Hòa có lệnh đi B, anh được nghỉ phép và may quá, anh về đúng dịp kỷ niệm lần đầu ngày cưới của chúng tôi. Với sự say nồng của những ngày sắp xa, chúng tôi sống bên nhau thật hạnh phúc, đậm đà.
Từ khi anh đi, mẹ chồng tôi càng thương tôi hơn. Ðêm đến bà thường bảo: “Bu nằm một mình ở ngoài lạnh lắm, cái Thuận ra nằm với bu cho ấm.” Tôi hiểu ý mẹ tôi muốn cho tôi khỏi buồn nên gọi tôi ra nằm bên cho vui. Mẹ tôi rất tâm lý, nếu biết tôi hôm sau phải đi cày bừa hoặc làm việc nặng là bà giục đi ngủ sớm. Còn khi mùa màng thư thái, ban đêm bà kể cho tôi nghe nhiều mẩu chuyện, trong đó có chuyện đời tư của bà.
o O o
Bà lấy chồng từ năm 13 tuổi, lúc ấy bố chồng tôi 17. Bà bảo: “Ban đầu xấu hổ bỏ mẹ, nhưng sau đó nó quen đi.” Bà nói lấy chồng sáu tháng rồi mà bà chẳng hiểu cái cuộc sống vợ chồng “như thế, như thế” để làm gì, mà làm sao lại phải làm như vậy. Mãi đến khi bố chồng tôi đi làm xa, bà mới thấy nhớ, thấy thương, mới hiểu vợ chồng “là vậy, là vậy.” Rồi năm 18 tuổi bà sinh chồng tôi, sau lại sinh hai em nữa nhưng đều chết bệnh năm đói. Năm sau, bố chồng tôi đi bộ đội rồi “nam tiến”, cuộc chia tay đầy nước mắt, và bố chồng tôi ra đi biền biệt không về. Mãi đến giữa năm 1956, gia đình mới nhận được giấy báo tử, lúc ấy mẹ tôi vừa 34 tuổi. Từ đó, năm nào bà cũng làm giỗ vào đúng ngày cưới của hai người, để kỷ niệm những ngày thơ ngây, đẹp đẽ của cuộc sống vợ chồng buổi xa xưa.
Mẹ tôi kể: bà nội chồng tôi rất thương bà, khi biết tin con trai đã chết, bà nội đã nhiều lần gợi ý mẹ tôi đi bước nữa, để đỡ khổ cái tuổi xuân, nhưng mẹ chồng tôi không đi. Chứ thuở ấy thiếu gì các ông bộ đội phục viên chưa vợ, thiếu gì ông bần cố vì nghèo chưa lập gia đình, lại một số ông vợ đã quá cố, cũng đến ngỏ lời nhưng mẹ chồng tôi đều cảm ơn và từ chối hết.
Có lần thân ái quá, tôi hỏi mẹ tôi, rồi mới giật mình vì tôi là con dâu:
– Làm sao bu không đi bước nữa?
– Vì bu thương bà nội lắm. Những ai có con trai nên vợ nên chồng, mà con mình chết sớm thì thường mất cả con dâu. Mất một đứa con đã chết điếng người, lại mất con dâu, biết mất trờ trờ ra, mà không níu lại được, thì nỗi đau đớn của người mẹ tăng lên gấp bội phần. Bà nội đã mất bố mày, lại mất cả tao nữa thì khổ lắm. Vả lại bu rất thương thằng Hòa, nó côi cút rất cần có bu, và dù nhỏ nó cũng chẳng muốn ai chiếm đoạt mẹ của nó.
Hết hạn, anh Hòa trả phép để đi B, mẹ tôi quay vào nhà khóc, còn tôi tiễn anh ra tận bến sông Hồng. Ði được 10 ngày, anh Hòa viết thư về báo tin anh đã hành quân đến Quảng Bình. Ôi! Ðọc thư anh, càng thấy thấm thía, càng thấy nhớ anh như cào cấu ruột gan.
Mẹ chồng tôi có tính cẩn thận, quần áo của bà, của tôi khi khô bà đều gấp gọn gàng bỏ vào trong rương. Một hôm vào khoảng nửa tháng sau khi anh Hòa đi B, tôi đi làm về, thấy bà đang gấp mấy miếng vải màn của tôi. Tôi thấy rất rõ vẻ buồn trên khuôn mặt bà, và hình như bà khóc nữa. Bà xếp quần áo vào rương, tôi quay ra và lúc ấy tôi mới hiểu, là chồng tôi ra đi, không để lại một giọt máu thiêng liêng trong tôi, tôi cũng cảm thấy buồn xao xuyến.
Khoảng 20 ngày khi chồng tôi đi B, hợp tác xã điều tôi đi dân công tỉnh một tháng nhưng làm thủy lợi ở ngay địa bàn huyện. Chồng tôi có người cậu họ là ông Thảo, làm phó phòng thủy lợi, được chỉ định làm trưởng ban chỉ huy công trường. Ông Thảo ghé thăm mẹ tôi, thấy mẹ tôi nói tôi sắp đi dân công, ông Thảo liền nảy ra một ý kiến:
– Cháu nó đi dân công à? Thế thì thế này, tôi sẽ cắt định suất đất của xã cho cháu. Nó hát hay, giọng nói lại trong trẻo, tôi cho nó lên chỗ tôi để phục vụ thông tin văn nghệ, công việc vừa đỡ vất vả mà lại có tiền tiêu, mỗi tháng tôi phụ cấp cho cháu 36 đồng, công trường có thể kéo dài ba, bốn tháng, chị có đồng ý không?
– Cám ơn cậu, tôi chẳng biết thế nào, cậu thử hỏi cháu xem.
Ông quay lại nói với tôi:
– Huyện mới mua máy phóng thanh, công trường trải dài hai cây số, ngày ngày cháu cứ cầm ống nói hát hoặc đọc tin, có loa phát to lắm. Công việc chỉ có thế, được chứ?
– Vâng, cháu đồng ý.
– Nhưng phải đi trước 5 ngày, đến đúng ngày một để dễ tính lương.
Thế là đúng ngày quy định tôi lên đường, đến ban chỉ huy công trường cách nhà tôi hơn hai chục cây số. Ðến nơi, tôi đã thấy lán của ban chỉ huy làm xong. Tối ngủ lại lán đó, có hai chị cán bộ trong ban chỉ huy, tôi và một nhân viên phụ trách kỹ thuật và điều khiển máy phóng thanh, tên anh là Lực. Ngày công trường ra quân, ông Thảo giới thiệu trên loa là: “Có cô Bích Thuận là người chuyên phục vụ văn nghệ và thông tin của công trường.”
Và sau đó tôi say sưa với công việc được giao, nhưng kẹt nhất là cái máy phóng thanh hay trục trặc, anh Lực đi vắng là tôi chịu, không biết xoay xở ra sao. Vì thế độ hai ba ngày, các đơn vị phản ảnh về là hát hay lắm nhưng tắc luôn, nghe dở dang như “xem kịch ngắt quãng.” Trước tình hình như vậy, ông Thảo liền phân công anh Lực ở nhà vừa trực và điều khiển máy phóng thanh. Từ đó, ban ngày nhiều khi chỉ có tôi và anh Lực ở lán.
Lực là chàng trai khỏe, ít nói nhưng giọng nói dịu dàng; anh cũng vào loại điển trai. Anh thi trượt tốt nghiệp phổ thông đã hai năm, được ông bác làm chủ tịch huyện xin cho vào làm nhân viên phòng thủy lợi. Khi huyện mua máy phóng thanh, anh được cử đi học vài ngày để sử dụng.
Làm ở công trường đã bốn tuần, một hôm ông Thảo cho tôi về thăm nhà. Thấy tôi về, mẹ chồng tôi mừng lắm, nhưng về tới nhà thì tôi thấy váng đầu chóng mặt lại hay buồn nôn. Mẹ tôi bảo: “Ðúng con bé phải cảm rồi.” Bà vội vàng lấy gừng giã ra xào với rượu, đổ lẫn vào búi tóc cho vào khăn để đánh cảm cho tôi. Bà bảo tôi cởi áo rồi làm từ đầu, mặt, vùng lưng, sau đến vùng ngực. Tôi thấy bà làm ở vùng ngực rất kỹ lưỡng; tự nhiên mặt bà biến sắc, mồ hôi toát ra, tay chân run rẩy.
Rồi bà nhìn tôi rất nghiêm, bà bảo:
– Thuận, con có mang rồi đấy!
Tôi giật bắn người, chưa biết nói ra sao thì bà đã tiếp: “Thâm cà thì khú, thâm vú thì chửa, hai đầu vú của con bắt đầu nở và núm vú bắt đầu thâm rồi.”
Nói xong bà thở dài, bà xuống ngồi ở cửa bếp, bà khóc. Tháng qua không thấy kinh, nhưng không có kinh nghiệm nên tôi coi thường, giờ nghe mẹ chồng phát giác tôi thấy rợn tóc gáy. Tôi đi xuống bếp với bà, bà nhìn tôi vừa khóc vừa hỏi:
– Con đi lại với ai mà đến cơ sự này?
Tôi thấy sự trầm trọng của câu chuyện, nhưng đã có ý chuẩn bị lơ mơ, tôi thưa rằng:
– Một buổi tối con vào trong làng để tắm, con đi đường tắt qua cánh đồng, khi tắm về đến gần một gò đất bỗng có người đi sau bịt mồm con, bắt con vào sau gò làm cái chuyện ấy, hắn khỏe như vâm, con không kháng cự lại được nên mới đến cơ sự này.
– Thế da hắn trắng hay đen? Tóc hắn dài hay ngắn?
– Trời tối lắm, con không nhìn rõ được.
Mẹ chồng tôi chưa tin, nhưng bà cũng không hỏi nữa. Bà lên nhà, nằm vật ra giường bà khóc, bà kêu:
– Hòa ơi! Con ơi!
Trước cảnh tình ấy, tôi càng bối rối vì tối đó và hai ngày hôm sau bà nằm liệt, không ăn, chỉ uống chút nước lại đi nằm. Tôi càng lo lắng hơn và tôi rất sợ. Ở làng này tôi có một con bạn, nó lấy chồng trước tôi hai năm, chồng đi B, nó bị chàng phó chủ nhiệm hợp tác xã mua bán xơi liền, vài lần vụng trộm, nó có thai. Mẹ chồng nó biết nhưng cứ phớt lờ, vẫn tỏ ra vui vẻ bình thường với con dâu và thông gia. Bà tìm thấy lá thư của chồng nó gởi về sau một tuần lên đường và bà cất kỹ. Khi con bạn tôi có thai được bảy tháng, thấy mẹ chồng không để ý, làng xóm không ai nói gì, cả gã phó chủ nhiệm cũng cho bà vào loại đần độn. Rồi một hôm bà được mời sang nhà thông gia ăn giỗ, bà sang vẫn bình tĩnh thắp nhang, cười cười, nói nói, uống chén rượu chơi.
Giữa chừng, trong lúc mọi người đang vui ăn uống, bà gọi cô dâu lại bên, cầm tay cô dâu ra chiều âu yếm, bà đứng lên thưa:
– Trình họ nhà, họ nhà sắp có cháu bế rồi đây.
Bà móc túi lấy lá thư và tiếp:
– Cháu nhà tôi đi B gởi về lá thư sau một tuần, tính đến nay đã được 9 tháng rưỡi. Cháu của quý họ mới có mang độ bảy tám tháng thôi, vậy tôi sang cáo với tổ tiên bên này và tặng họ nhà cái trống để đánh chơi.
Nói rồi bà vỗ đít ra về, cả họ sa sầm tái mặt. Ba ngày sau con bạn tôi và gã phó chủ nhiệm bỏ nhà trốn biệt tăm, nghe nói họ lên miền ngược. Vợ gã phó chủ nhiệm càng cay sè, ngày nào chị ta cũng réo chửi cha mẹ đẻ con bạn tôi, chị ta chửi đủ ba tháng rưỡi mới ngừng. Thật khiếp quá! Chỉ một việc chửa không phải với chồng mà tổ tiên cũng bị động, ba bốn kẻ đau đầu, nhiều kẻ long tóc gáy. Nghĩ đến thế tôi càng thấy sợ hơn.
Sang ngày thứ ba, mẹ tôi dậy sớm, bà gọi tôi lại bên, tôi vừa lo, vừa sợ, vừa thẹn. Bà kéo tôi lại gần và nói.
– Chuyện xảy ra với con thực đáng buồn. Bu thương thằng Hòa lắm, bu cũng thương mày. Bu chỉ mong cái thằng của nợ đừng vác mặt đến đây. Nó mà bén mảng đến đây thì bu sẽ kiện nó ra tòa cho nó mọt gông; đời đã có tiếng “lỗi lầm” thì có sự “lỗi lầm” nên bu không lạ. Mày muốn bu cứu chữa thì phải giữ mồm giữ miệng, chớ hé răng cho ai biết, kể cả ông bà bên nhà. Ðiều quan trọng là phải chấm dứt quan hệ với thằng khốn nạn đó khi nó xuất hiện bất cứ dưới dạng nào. Mày không nghe thì bu sẽ chết, chết trước cho mày xem. Bu thương lắm, cứ an tâm đi làm. Giả như nếu câu chuyện vỡ lở, sau này thằng Hòa nó về bu sẽ liệu. Nó thông cảm thì là vợ chồng, nó chia tay thì mày là con nuôi, con gái của bu. Ráng sống cho tử tế để cho thiên hạ khỏi chê cười.
Tuy vẫn lo nhưng tôi cảm động trước những lời chân tình của mẹ chồng. Tôi biết mẹ tôi vẫn không tin câu chuyện mà tôi đã bịa đặt ra, nhưng bà đã nhìn tôi với con mắt thương hại thực sự.
Còn cái thai là của ai?
Vụ việc như thế này: khi ông Thảo cử Lực ở nhà trực và điều khiển máy phóng thanh, những ngày đầu quan hệ giữa tôi và anh ta không có gì đặc biệt. Lúc rỗi anh đọc sách, tôi thấy cái rương của anh có đến hơn chục quyển sách, tôi ngỏ ý mượn, anh đồng ý để tôi chọn tùy ý. Phần nhiều sách anh có ở rương, tôi đã đọc rồi. Riêng quyển Giông tố là tôi chưa xem, tôi mượn anh để đọc. Là con gái mới lấy chồng, đọc nhiều trang tôi thấy người nóng ran, mặt đỏ nhừ, những biểu hiện ấy Lực biết. Công trường đã mở trọn tuần, bước đầu đã ổn định về nhiều mặt, chiều thứ bẩy mọi người tranh thủ về qua nhà, sáng mai có mặt sớm. Phân công ở lại lán chỉ huy có tôi và một chị cán bộ nữa ở lại đêm ấy, nhưng nhà chị cán bộ kia có chuyện, nên chị rỉ tai tôi để chị về nhà sáng mai chị đến sớm. Tôi định bụng gần tối sẽ vào nơi xã tôi đóng quân, rủ mấy đứa bạn đến ngủ cho vui. Chưa kịp đi thì mưa gió ập đến, tôi lại không có áo mưa thì đi làm sao được, vả lại tôi không sợ ma tà, nên tối đến cứ thắp đèn đọc sách.
Hình như lúc chúng tôi rỉ tai nhau về việc chị cán bộ kia về thì Lực nghe thấy. Đêm ấy mưa rét lắm, khoảng 9 giờ tối Lực trở lại, anh ta nói lý do quay lại vì sợ mất máy. Anh lại cởi áo mưa, ủng rồi lên giường nằm. Tôi vẫn say mê đọc. Xa chồng thời con gái, tôi đọc tiếp thấy rạo rực, tôi thở dài, mắt lim dim để tưởng tượng những hình ảnh trong sách. Nào ngờ Lực đến bên tôi lúc nào tôi không biết. Anh ta đặt tay lên vai tôi và hỏi:
– Em sao thế?
– Em… Em rét.
– Thế thì lên giường nằm cho ấm.
Ngoài trời mưa gió càng mạnh và lạnh thấu xương, nhanh như cắt Lực thổi phụt ngọn đèn rồi ôm tôi kéo lên giường.
Tôi sực tỉnh táo, biết chuyện gì sắp xảy ra, tôi chống cự kịch liệt, tôi tát vào mặt Lực mấy cái, mắng nhiếc thậm tệ. Lực vẫn không buông tôi ra, tiếp tục cuộc vật lộn. Hồi lâu tôi thấy đuối sức không còn khả năng kháng cự. Lực đã thắng cuộc. Trái với sự mạnh mẽ quyết liệt khi tấn công, khi gần làm chủ, giọng anh ta run run: “Tha thứ cho anh, anh yêu em ngay từ khi mới gặp, em là người con gái đầu tiên trong đời anh…” Thắng cuộc mà anh ta lúng túng, vụng về, lập cập, mãi mới biết cách xoay xở. Nhưng sau thì quen, anh ta tò mò, nghiến ngấu, thức suốt đêm, không bỏ phí một phút thời gian nào. Ðộ 4 giờ sáng anh ta bảo tôi: “Em nằm một mình vậy, anh đi độ gần 7 giờ anh đến, nằm lỳ ở đây lộ mất.” Anh ta vùng dậy, lấy áo mưa, đi ủng, dắt xe đạp đi, ngoài trời mưa gió vẫn lạnh. Lúc ấy sợ anh đi đường bị ngã vì trời tối quá, tôi gọi đưa cho anh ta cái đèn pin ở đầu giường tôi mà đêm qua anh đã nhiều lần sử dụng.
Anh ta đi rồi, mình tôi trên giường tôi thấy lạnh, lúc ấy tôi mới hoàn toàn tỉnh táo, lướt lại những gì đã diễn ra trong đêm, tôi thấy mình tội lỗi, nhuốc nhơ, dơ dáng và bệ rạc. Tôi khóc.
Cái thai có từ đó và tôi căm thù Lực.
o O o
Sau mấy ngày ở nhà, tôi xuống công trường. Công việc vẫn làm như mọi khi. Tôi buồn bực và căm giận nên không nói chuyện với Lực. Chắc hiểu ý tôi nên Lực cũng chẳng nói năng gì, thấy thái độ anh ta thờ ơ, tôi càng giận.
Một buổi sáng khi mọi người đã ra công trường rồi, nghĩ đến hậu quả mà Lực gây ra sẽ làm cho đời tôi khốn đốn, lòng căm thù dâng cao, tôi tiến lại phía Lực:
– Anh có biết anh làm hại đời tôi không?
Lực im lặng, tôi nói nhỏ nhưng giọng đầy đay nghiến:
– Anh cưỡng tôi để bây giờ tôi mang thai rồi đây.
Lực vẫn im lặng, lại còn cúi cúi viết viết gì đó, tôi điên lên:
– Ðồ đểu cáng, đồ khốn nạn!
Thấy căng, Lực đứng lên định đi, tôi liền rút dép cao su quật vào mặt anh ta ba, bốn cái liền, máu mũi anh ta trào ra. Giữa lúc đó thì ông Thảo về, Lực đang phủi đất và lấy khăn lau máu ở mặt. Tôi sợ.
Ông Thảo đảo mắt một lần, ông giận dữ:
– Thế này thì quá quắt lắm!
Ông gọi tôi và Lực ngồi lại. Ông hỏi, cả hai đều im, mãi sau ông ra lệnh:
– Lực, cậu viết kiểm điểm, thành thật hối lỗi thì được chiếu cố, nếu không tôi cho cậu đi tù vì đã động vào vợ bộ đội. Còn Thuận viết tường trình lại. Hai ngày nữa đưa tôi.
Ông ta nhìn Lực có vẻ căm tức rồi bỏ đi. Lực ngồi đó vẻ mặt lạnh lùng, song lại tỏ ra rất bình tĩnh, anh đứng lên lấy gương soi.
– Thuận, em đánh anh đau quá, mặt tím bầm lại rồi.
Tôi tái mặt, nhìn anh thấy máu mũi vẫn rỉ ra, tôi thấy mình cũng động lòng trắc ẩn và bối rối. Lực lại lấy khăn lau mặt, anh quay sang tôi:
– Anh viết như thế nào đây?
– Viết thế nào thì tùy anh.
– Thuận định viết như thế nào?
– Tôi viết thế nào thì tùy tôi.
Lúc đó Lực tỏ ra bình tĩnh và minh mẫn, anh nói:
– Nếu em tường thuật đầy đủ mọi chi tiết thì có nghĩa là em đeo cái thòng lọng vào cổ anh và cổ em. Viết cũng chẳng cứu được chúng ta đâu. Chi bằng ta không viết gì cả.
– Thế thì giải thích như thế nào với ông Thảo về chuyện xảy ra mà ông ta nom thấy?
– Anh đã làm với ông ta hai năm, biết ông này là loại người luồn trên nạt dưới và cũng chẳng phải là người đứng đắn gì. Lãnh đạo chỉ “hừm” một cái là mặt ông ta đã tái mét, chỉ “hừ” một cái là ông ta run cầm cập. Bác anh làm chủ tịch huyện, anh đến nói thật với ông, nhờ ông bịt mồm ông Thảo lại.
Lực suy nghĩ một lát, anh ta nói tiếp:
– Còn chuyện vừa xảy ra, ta dàn dựng thế này: do phải bê cái bao gạo mà ông Thảo khoét của công trường mang về cho vợ, để ở giữa lối đi, nên mấy cái cúc áo ở cổ em bật ra, nhìn thấy anh đưa tay gần để chỉ em cài lại, chưa kịp nói thì em đã tưởng anh “chộp” nên chửi rủa và tặng anh mấy cái dép vào mặt.
Thấy sự trầm trọng rắc rối của câu chuyện, lại nghe Lực nói có lý, tôi đồng ý với cách của anh. Tôi hỏi:
– Nhưng còn cái mặt tím bầm của anh thì giải thích với mọi người thế nào?
– Em đánh anh đau quá, nhưng cái mặt đau anh sẽ giải thích. Ở công trường thủy lợi thì lắm kiểu ngã lắm, nào do trơn, do trượt chân, do ngã xe đạp, có đến x lý do.
Lực lấy xe đi về huyện cách đó chừng hai cây số, hơn tiếng sau anh trở lại, mang về bức thư của ông chủ tịch. Anh bảo tôi:
– Ông Thảo có hỏi ai đưa lá thư, thì nói là một cô nào đó, đưa rồi đi ngay.
Tôi mở lá thư để ngỏ đọc thấy: “Anh lãnh đạo tồi quá. Anh đưa người ‘của anh’ đến trước mũi mọi người, sinh ra rắc rối, tôi sẽ báo lại với thường trực ủy ban cho anh nghỉ việc ở công trường. Tối nay anh về gặp tôi.”
Trưa ấy ông Thảo về, thấy cái thư trên bàn, ông đọc vội, tôi thấy mặt ông ta đỏ rồi biến thành xám xịt, miệng ông há hốc, mắt lờ đờ… Quả là ông đã trúng cái mưu của Lực.
Tối ấy ông về huyện, sáng mai trở lại lán chỉ huy, lúc vắng người ông bảo tôi và Lực:
– Hai đứa không phải viết gì nữa, nhưng sau không được làm thế. Thằng Lực ra quán mua tao lạng trà Bắc Thái, đi mau về.
Lực đi ngay. Lúc còn mình tôi, ông Thảo hỏi chuyện, tôi trình với ông như Lực đã chỉ. Ông nghe có lý, ông bảo:
– Ðẹp gái thế này thì đến bố thằng Lực cũng mê, cũng muốn “cài cúc áo” chứ chẳng riêng gì thằng Lực.
Ông ta đi đi lại lại, tưởng ông ta làm gì, bất ngờ ông ôm tôi hôn lấy hôn để, tay ông khua trên mấy cái cúc áo ở ngực tôi. Tôi đẩy mạnh ông ta ra. Cũng vừa sau đó thì Lực về, thấy tôi đỏ mặt, anh ta đoán rằng ông Thảo vừa tra tôi chuyện hôm qua.
Sau những chuyện xảy ra như vậy, tôi và Lực hầu như không nói chuyện với nhau, mãi đến hôm chỉ có hai đứa ở lán, Lực tự nhiên hỏi:
– Con chúng ta em định thế nào?
– Tôi đi nạo thai – Tôi thăm dò ý anh.
Nghe vậy Lực buồn, mắt anh ta rưng rưng:
– Tội nghiệp! Cứ để nuôi có được không?
– Lấy gì mà nuôi, còn chồng tôi, mẹ chồng tôi, hạnh phúc của tôi. Anh đã đẩy tôi vào con đường chết.
Lực thở dài:
– Ở đời chẳng bao giờ được hết mọi thứ cả, được cái này thì mất cái kia. Nhưng anh van em đừng phá thai, làm thế tội nghiệp con chúng ta.
Lại có người đến, câu chuyện dừng ở đó.
Những ngày tiếp tôi thấy anh có vẻ suy tư tính toán, còn cái mặt của anh nửa tháng sau mới khỏi. Ðến lúc ấy tôi cũng chưa hiểu về con người đã có một đêm chăn gối.
Một lần, tôi hỏi anh:
– Cha mẹ anh còn không?
Câu hỏi đột ngột của tôi làm Lực xúc động, anh khóc. Sau anh kể với tôi: bố anh chết bệnh bốn năm nay rồi. Mẹ anh cũng mất cách đây gần ba năm. Bà bị bệnh tai biến mạch máu não đúng vào học kỳ năm cuối cấp III nên anh phải dành nhiều thời gian chăm sóc mẹ. Mẹ anh mất đúng ba hôm trước ngày thi tốt nghiệp. Học hành do thiếu sự tập trung, mẹ lại mất đúng vào dịp thi, nên anh đã trượt tốt nghiệp. Nhà anh có ba anh em trai thì hai người đều học hết phổ thông, đi bộ đội và đã ra tiền tuyến, còn một mình anh nên buồn lắm. Anh cho biết đã xin nghỉ việc vào đầu năm tới để ôn tập lại chương trình cấp III, xin thi tốt nghiệp và nộp đơn thi vào đại học, vì nhà có ba anh em thì hai anh đã đi B, nên anh xin thi đại học chắc sẽ không có gì trở ngại. Anh nói thêm: ở đời không mấy người hiểu và thông cảm với anh, anh cô quạnh…
Chà, nghe Lực kể về hoàn cảnh gia đình, về anh, về hướng đi tới, tôi thấy bùi ngùi.
Tôi quyết định làm trọn hai tháng sẽ nghỉ. Biết tôi chỉ còn ở công trường hai ba ngày nữa, tôi thấy vẻ mặt anh vừa buồn vừa có vẻ toan tính một việc nào đó.
Rồi anh xin phép nghỉ một ngày, sáng hôm sau anh lên, chờ lúc vắng người, với vẻ thành thật anh nói với tôi:
– Cuộc đời éo le trắc trở, anh đã gây nhiều phiền hà rắc rối cho em, hãy tha thứ cho anh. Bằng tấm lòng thành và trách nhiệm, em hãy vui lòng nhận món quà nhỏ của anh.
Anh đưa cho tôi một gói nhỏ bọc trong giấy báo, tôi hỏi:
– Thứ gì thế này?
– Tiền, đây là tiền mẹ anh tiết kiệm, tiền anh góp hai năm qua, tiền của hai anh đi B, anh đưa em 1.500 đồng để phòng lúc ốm đau hoặc là thêm vào chút đỉnh để tăng dòng sữa cho con.
– Không, tôi không nhận đâu, anh cũng cần chi tiêu sau này, cầm về mà lo cho anh.
– Anh còn để lại 1.000 đồng (lúc ấy vàng 30 đồng/chỉ) cũng đủ dùng vào những năm tới, hãy cầm lấy đi em.
– Cảm ơn anh, tôi không nhận. Tôi chỉ xin anh một điều: là sau này xin anh để cho tôi yên, đừng gặp tôi, đừng gặp con, đừng “triển lãm” chuyện chúng ta ra với mọi người.
– Việc ấy thì được, nhưng cũng tùy điều kiện.
Lực thẫn thờ, nhìn ra phía chân trời xa xôi.
Gói tiền vẫn để trên bàn, tôi ép anh:
– Nếu anh muốn nói chuyện nữa thì anh phải cất tiền đi.
Lực tần ngần, bất đắc dĩ anh làm theo ý tôi. Anh cất tiền đi, rồi ra nói chuyện tiếp.
Tôi hỏi anh:
– Anh có người yêu chưa?
– Ðã có nhưng lại chưa có…
Ðôi mắt anh nhìn tôi rất sâu, anh tiếp:
– Chiến tranh không thể ngăn được yêu đương, nhưng với tuổi trẻ, yêu đương trong chiến tranh nhiều khi là sự đánh đố trước số phận cuộc đời.
– Thế bao giờ anh lấy vợ?
Ðôi mắt anh đang nhìn về phía chân trời vô định, rồi anh quay lại tôi:
– Chắc không bao giờ. Nhưng nếu có chuyện ấy thì chỉ có em là người đứng lên tổ chức hoặc là em trở thành người giới thiệu mà thôi.
Tôi vụt nghĩ đến cô em gái đang học cuối cấp III của tôi.
Ngày tôi rời công trường, Lực chào tôi, rồi đi về huyện có việc. Lúc sắp về chỉ còn ông Thảo và tôi ở lán, ông Thảo hỏi tôi còn quên gì nữa không, ông ta kiểm giúp, bước lại sát bên tôi. Bỗng ông ta ôm chầm lấy tôi, một tay ông ghì chặt vai, còn tay kia ông tranh thủ lần mò. Tôi cố giãy mãi mới buột khỏi tay ông.
Bằng điệu cười hô hố của một người ngoại tứ tuần, ông nhăn nhở, trơ trẽn bảo tôi:
– Mẩy đấy nhỉ!, về nhé, hôm nào cậu đến.
Thật là quỷ sứ!
o O o
Tôi về nhà, mẹ chồng tôi bảo: “Về là phải vì thai nghén, đi lại vất vả, ảnh hưởng đến đứa trẻ.”
Những ngày tôi mang thai, bà bắt tôi tránh làm những việc nặng, mỗi tuần bà mua cho tôi hai ba con cá chép, mỗi con độ hai ba lạng, bà đem nấu cháo mỗi lần một con, trông cho tôi ăn hết bà mới chịu. Bà nói theo kinh nghiệm dân gian, ăn cá chép dễ sinh và da đứa trẻ thêm đẹp. Bà còn dặn thêm: “Khi có mang phải gạt bỏ cái xó xỉnh ‘bờ đê gốc dứa’ ấy đi, hãy nhớ thằng Hòa, làm được việc ấy, đứa trẻ sẽ giống người mình yêu.”
Những đêm không ngủ, tôi giận Lực, giận mình. Tôi căm thù quân xâm lược. Không biết ở đất nước này có bao nhiêu người lính vào cảnh bất hạnh như Hòa của tôi, có bao nhiêu người vợ lỡ lầm và đau khổ như tôi, có bao nhiêu bà mẹ ở vào cảnh ngộ như mẹ chồng tôi. Qua nhiều đêm thao thức mỗi khi đặt tay lên bụng, cái thai càng ngày càng lớn, tôi càng thấy thương Hòa của tôi.
Có lần, tôi hỏi mẹ chồng:
– Bu ơi, gia đình ta là gia đình liệt sĩ, anh Hòa lại là con độc nhất, nếu ngày ấy bu xin ở lại thì chắc chắn anh Hòa không phải đi, tại sao bu không xin?
Câu hỏi của tôi vừa thành thật, nhưng cũng hàm ý trách khéo mẹ chồng. Mẹ tôi kéo tôi nằm sát lại, bà nói:
– Bu biết chứ, nhưng bu không làm thế, chẳng phải là vì vinh dự hay sĩ diện gì. Việc tuyển bộ đội đã có chỉ tiêu cho từng xã, con mình không đi thì phải thế con người khác vào cho đủ. Mình xa con đã thấy lo lắng, thương nhớ như cào cấu ruột gan, biết thế mà mình cứ đẩy cho người khác phải chịu thì ác quá. Mặt khác cha ông mình có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”; bu già rồi, thằng Hòa đi đánh giặc là rất phải đạo.
Nghe mẹ chồng tôi giải thích, lúc ấy tôi nghĩ cũng chỉ là một cách nói. Sau này càng ngày tôi càng hiểu, một người bình thường ở nơi thôn dã như mẹ tôi, đã từng nếm vị cay đắng của chiến tranh, nhưng ý thức về đạo lý làm người, ý thức về việc nước thật trong sáng, rõ ràng, mạch lạc.
Sau khi tôi sinh con trai, mẹ tôi đặt tên cho nó là cu Hoài. Có điều lạ là nó rất giống anh Hòa của tôi. Khi cu Hoài đã cứng cáp, qua thời kỳ kiêng khem nghiêm ngặt theo sự hướng dẫn của mẹ chồng, tôi mới được làm việc đồng áng.
Mẹ tôi bảo: “Cháu khỏe, mau lớn, ngoài việc đồng ruộng mẹ mày còn phải tham gia công tác cho vui, đừng dựa vào có con mà bê trễ công việc được giao.”
Có điều lạ, là mỗi lần tôi nhắc đến việc làm khai sinh cho cháu, thì mẹ tôi lờ đi, bà nói: “Việc ấy để bu lo.”
Khi cu Hoài được 7 tháng, mẹ tôi mới đi làm giấy khai sinh cho cháu. Thì ra bà làm chậm phần vì để xem “mặt thằng của nợ ấy” có xoay sở gì không, mặt khác để mọi người không tò mò, lãng quên không để ý tới.
Làm giấy khai sinh rồi, bà đem về bảo tôi:
– Thằng Hòa đi 1-10-1963, mẹ khai sinh cho cu Hoài vào 18-7-1964, tức là tính 9 tháng 10 ngày thì đúng vào dịp thằng Hòa nghỉ phép. Cầm lấy cất đi cho cẩn thận. Cha mày, lần khác nữa thì mày lo lấy và bu không để yên đâu!
– Con cảm ơn bu.
Nói rồi tôi ôm lấy bà, tôi khóc.
o O o
Cháu Hoài được 2 tuổi, tôi được bầu làm bí thư xã đoàn. Một hôm họp giao ban ở cụm, có ông bí thư huyện ủy đến dự. Lúc tôi phản ánh tình hình và đề xuất công việc tới, ông bí thư rất chú ý nghe, ông nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Cuối năm đó đại hội huyện đoàn, trước đại hội độ hơn một tuần, ông bí thư huyện ủy và anh bí thư huyện đoàn về xã làm việc có ghé thăm mẹ tôi.
Thế rồi một điều bất ngờ đã đến với tôi: tôi đã được đại hội bầu vào ban chấp hành huyện đoàn với số phiếu cao nhất; khi họp chấp hành để phân công, tôi được cử làm phó bí thư huyện đoàn. Hôm đó ông bí thư huyện ủy tỏ ra rất vui, ông chúc mừng tôi và động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Hai hôm sau tôi có quyết định điều lên huyện công tác, mẹ tôi vui lắm, bà giết mấy con gà mời bố mẹ tôi và vài bà con đến ăn bữa cơm vui.
Theo ý mẹ tôi, cu Hoài ở nhà với bà. Khi đi mẹ tôi dặn: “Ra đời phức tạp lắm con, đừng sai lầm lần thứ hai nữa nhé!”
Tôi hứa với mẹ tôi: mong bà an tâm, tôi không dám làm điều gì thêm để bà buồn.
Công tác của tôi thuận lợi, làm phó bí thư huyện đoàn hai năm, đến năm thứ ba tôi được cử làm bí thư huyện đoàn, được bầu vào ban chấp hành huyện ủy. Lúc này tôi đã học xong chương trình cấp III bổ túc văn hóa. Làm bí thư huyện đoàn được một năm, tôi được cử đi học chính trị ở trường Nguyễn Ái Quốc, vừa về tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện, được Hội đồng nhân dân cử làm phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp. Do khiêm tốn, học hỏi, tôi được tiếng là làm việc nhanh nhạy, sâu sát, có tín nhiệm với các ban ngành của huyện và cơ sở. Khi sang ủy ban huyện, tôi đón mẹ tôi lên ở một gian tập thể để có điều kiện gần gũi chăm sóc mẹ tôi và cu Hoài.
Ðã là năm 1971.
o O o
Sang ủy ban huyện công tác, tôi hay chạm trán với hai nhân vật cũ là ông Thảo và anh Lực. Ông Thảo hay làm việc với tôi, mỗi lần làm việc ông ta luôn lắp bắp: “Báo cáo chị… báo cáo chị.” Có lần ông ta nheo mắt nhìn tôi với giọng cười hô hố, ông ta nói: “Báo cáo chị… so với dịp ở công trường thì bây giờ chị mập mạp hơn nhiều…” Ông ta đưa mắt lướt một lượt toàn thân của tôi. Thật là láu cá! Sau ông ta được cử làm trưởng phòng thủy lợi, tôi không phản đối.
Còn Lực – người mà em gái tôi gọi là “người không có trái tim”, tôi đã chạm trán trong hai năm ở ủy ban. Anh đã vào đại học kinh tế tài chính năm 1964 cùng cô em gái tôi. Em tôi kể rằng: Lực rất chịu khó học, anh tốt nghiệp loại giỏi, do chăm học, ra trường anh có thể tự dịch và nói được tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Anh không có bạn gái, thường lẩn tránh mỗi khi bạn gái mời đi chơi.
Em tôi bảo: “Nếu anh ta có trái tim thì em đã là vợ anh ấy rồi, hay là anh ta ‘ái nam ái nữ’.”
Nghe nói, tôi quay đi và trả lời: “Không biết…”
Sau khi tốt nghiệp, Lực về huyện công tác đến năm tôi sang ủy ban thì anh ta được cử làm phó phòng lao động. Lực làm việc tốt, có uy tín, đấu tranh thẳng thắn. Bất đắc dĩ anh ta mới làm việc với tôi, anh gọi tôi bằng “chị”, xong việc anh ta đứng lên đi ngay, vội vàng. Tuy nhiên đôi lúc ở xa xôi tôi vẫn nhìn anh bằng con mắt thiện cảm. Anh chẳng bao giờ đến chỗ tôi ở. Cả huyện này đặt cho anh cái tên “Lực lim”, tức là tình cảm của anh khô khan như gỗ lim.
Rồi một hôm sau nửa tháng, tôi đi tập huấn lớp củng cố cải tiến quản lý hợp tác xã ở trên tỉnh về thì Lực đến nơi tôi ở. Mẹ tôi nghĩ anh đến bàn công tác nên bà không để ý, bà đi sang nhà hàng xóm thăm mẹ con bạn tôi mới đến chơi. Lực cho biết sáng mai anh ta sẽ lên đường đi dân công hỏa tuyến, đoàn quân của huyện có trên sáu trăm người, huyện cử anh làm đoàn trưởng. Tôi nghe tin này đột ngột quá, vì sao họ lại cử anh đi? Theo bình diện các gia đình ở hậu phương thì gia đình anh đóng góp như thế là đã quá đủ rồi.
Tôi đang suy nghĩ thì Lực nói là đến chào tôi. Anh xin lỗi vì những gì đã xảy ra 9 năm về trước, và anh xin phép tôi cho anh được hôn cháu Hoài một lần. Cu Hoài vừa đi học chiều về, chờ nó chào hỏi xong, anh gọi nó lại gần, anh ôm nó vào lòng và hôn lên trán, lên má nó.
Tôi thấy anh rưng rưng nước mắt, anh nói với nó: “Chịu khó học và ngoan nghe con.”
Sau vài phút anh đứng lên về, chúc tôi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Anh nói nhỏ câu cuối cùng: “Mong Thuận hiểu anh.”
Ði được vài bước anh vụt quay lại, ôm chầm lấy cu Hoài lần nữa, nước mắt anh dàn dụa.
Khi Lực đi rồi, cu Hoài hỏi tôi: “Sao chú ấy khóc hở mẹ?”
Tôi trả lời: “Vì chú ấy đi Nam.”
Sáng hôm sau Lực lên đường, cùng lãnh đạo của huyện tôi cũng có mặt để tiễn quân, tiễn anh. Khi bắt tay tôi, Lực nói nhỏ: “Ðừng buồn anh nghe em!”
Tôi khẽ gật đầu. Sau ngày Lực lên đường, tôi đến ông chủ tịch ủy ban chất vấn về việc cử Lực đi. Ông cho biết vì Lực là cháu ông, ông đấu tranh để Lực ở nhà không tiện.
Tôi lại sang ông bí thư huyện ủy, ông trả lời: “Khối kẻ đánh giặc mồm thì mạnh lắm, nhưng khi cử đi tiền tuyến thì nhiều lý, lắm lẽ. Chú đã bàn với tổ chức tính để Lực đi một năm gọi là thử thách, sau nó về sẽ đưa vào cấp ủy và ý định giao cho nó làm chủ tịch huyện. Hôm nay cũng như lâu dài, phải có những người chủ chốt ở huyện nhà có đạo đức, có trình độ, có năng lực. Những yêu cầu ấy xem ra Lực có khả năng đáp ứng được.”
Nghe sự giải thích của ông bí thư huyện ủy, tôi an tâm và mừng với anh.
Lực ra tiền tuyến được hơn ba tháng, một hôm tự nhiên tôi thấy ông chủ tịch vẻ mặt đau buồn, vào phòng làm việc của tôi, ông nói: “Thuận ơi! Thằng Lực hy sinh rồi, nó bị trúng bom trên đường làm nhiệm vụ.”
Tôi bủn rủn chân tay, mắt tôi nhòa lệ. Ông chủ tịch bảo tôi: “Bác hiểu!”
Ðây là lần đầu tiên ông xưng hô với tôi như vậy.
Hai tháng sau có giấy báo tử của Lực. Lễ truy điệu anh được quyết định tổ chức ở dưới quê. Biết tin này, tôi thấy sự thương tiếc anh thể hiện ở nhiều người trong các ban ngành. Mấy chị, mấy cô ở phòng thủy lợi, phòng lao động và văn phòng ủy ban khóc sưng cả mắt. Mọi người đều khen anh: chịu học, chịu khó làm việc, khiêm tốn, đứng đắn và chân thành.
Tôi buồn, cái buồn vừa có lý trí, vừa có tình cảm, cái buồn đó có sự đúng, sự sai…
Ðêm ấy tôi thao thức, thở dài, thương nhớ Lực. Lực không phải của tôi, nhưng dẫu sao anh vẫn là người cha bí mật của cu Hoài. Càng nghĩ tôi càng thấy rối bời không sao chợp mắt được.
Mẹ tôi hình như có linh tính, tự nhiên bà hỏi tôi:
– Thuận, con có thể nói cho bu nghe bố cu Hoài là ai không?
Tôi suy nghĩ hồi lâu mới dám trả lời:
– Con thưa thực với bu, bố cu Hoài là anh Lực, mà mai là ngày truy điệu của anh.
Mẹ tôi lặng thinh, đến hơn tiếng sau thấy tôi vẫn chưa ngủ, bà dậy vặn đèn lên cho sáng, bà gọi:
– Cái Thuận, dậy bu bảo.
Lúc này tôi mới thấy lo, vì khi biết đích xác bố cu Hoài bà có thể nổi lòng tự ái, có thể sáng mai bà sẽ bỏ mẹ con tôi ở lại để về quê, lại có thể bà làm ầm lên thì bất tiện. Tôi lo đến không thở nổi, nhưng vẫn phải dậy để nghe bà phán quyết.
Bằng một giọng ôn tồn, bà hỏi tôi:
– Con định thế nào trong lễ truy điệu anh Lực?
– Con không đi bu ạ.
– Nghe tao, điều ấy không nên, ở đời chuyện nào ra chuyện ấy, không nên giằng chuyện nọ xọ chuyện kia. Thằng Lực nó hy sinh vì nước, tao cũng thương nó đây (mẹ tôi khóc thật). Một ngày là nghĩa, tao cho phép con về thắp cho nó nén nhang để nó yên nghỉ dưới suối vàng. Phải cho cả cu Hoài đi nữa.
– Nếu bu cho con đi thì con cũng không cho cu Hoài đến đó, bu hiểu cho con.
– Không xử như vậy được con ạ. Xử như thế là trẻ con. Ngay cả bu nếu ngăn cản nó thắp hương cho bố nó là tàn ác lắm, thất đức lắm. Phải cho nó về, dù là chẳng cho ai biết mục đích, nhưng phải để nó thắp nén nhang cho bố nó. Ðược thế, hẳn bố nó ở dưới suối vàng cũng vui lòng. Biết đâu bố nó sẽ phù hộ cho gia đình mình may mắn.
Ðã khuya, mẹ tôi đi nằm, còn tôi thao thức đến sáng.
Hôm sau, mẹ tôi dậy rất sớm. Bà bảo tôi chờ bà về rồi hãy đi làm, bà đi có việc. Ðợi mãi 7 giờ mới thấy mẹ tôi về mang theo hai chục huệ, ba thẻ nhang.
Mẹ tôi bảo: “Hai chục huệ với hai thẻ nhang là của mẹ con mày. Cho bu gởi một thẻ nhang để viếng thằng Lực.”
Chiều đó, tôi và cu Hoài đến trước. Tôi đi với danh nghĩa là đại diện ủy ban huyện vì hai đồng chí phó chủ tịch khác đi vắng. Tôi và cu Hoài vào nhà Lực, căn nhà mà anh đã từng gắn bó, từng lớn lên ở đây. Thấy tôi, mọi người ra đón, trong đó có ông bác anh là thủ trưởng của tôi. Trên bàn thờ có ảnh anh Lực, khói hương nghi ngút. Sau lời chia buồn, tôi xin phép được thắp nhang cho anh. Lúc ấy cu Hoài tự nhiên rút ra một băng tang bằng vải đen đeo vào cánh tay phải, thì ra mẹ tôi đã chuẩn bị và dạy nó cách dâng hương, cách lạy.
Làm xong thủ tục, tự nhiên nó tiến lại bàn thờ hai tay nâng tấm ảnh anh Lực lên, miệng nó mếu máo: “Chú Lực ơi! Hôm đi chú còn hôn cháu cơ mà!”
Tôi lặng người. Ông bác anh rút khăn lau nước mắt…
Lễ truy điệu anh Lực được tổ chức trọng thể tại sân đình làng, có tới mấy trăm người dự. Hôm đó tôi được ủy ban phân công đọc điếu văn. Tôi duyệt lại một lần trước khi đến sân đình.
Câu cuối cùng của bài điếu văn ghi: “Với tấm lòng thương nhớ vô hạn, chúng tôi xin vĩnh biệt anh.” Tôi ghi thêm vào: “Xin vĩnh biệt anh, xin vĩnh biệt” để nói thêm cho tôi và cho cu Hoài.
Tới đó đọc xong bài điếu, tôi thấy hoa mắt lên, tôi lảo đảo đi về hàng ghế quan khách.
Sau ngày truy điệu anh Lực, cu Hoài thỉnh thoảng lại hỏi tôi:
– Mẹ ơi! Bao giờ bố về?
Mỗi lần nghe con hỏi, trước cảnh đời éo le, trắc ẩn, tôi rơm rớm nước mắt. Tôi bảo cháu:
– Bao giờ giải phóng miền Nam thì bố về!
o O o
Tháng 6-1975 anh Hòa có thư về, cả nhà đều vui, và tháng 8 năm ấy anh được về thăm nhà với quân hàm thiếu tá. Mẹ tôi, tôi và cu Hoài mừng rỡ hết chỗ nói vì thấm thoắt mà chúng tôi xa nhau đã tới hơn 12 năm trời. Những ngày đầu gặp lại, lúc vắng anh tôi khóc.
Tôi nói với mẹ tôi:
– Con thực không xứng đáng với anh Hòa, xin bu hãy nói thực với anh, nếu anh chia tay, con cũng không dám phàn nàn gì.
Mẹ tôi an ủi:
– Ðời có éo le thật đấy, nhưng “nước đã đánh phèn, đừng cho bùn lại vẩn lên mấy lần.” Ðời còn dài, hãy ăn ở với nhau cho tốt, bu mong ngoài cu Hoài rồi đây có một hai cháu nữa cho vui. Mày mà lôi thôi là mày giết bu đấy…
Cuối năm ấy chồng tôi chuyển ngành về Sở Thương binh Xã hội. Chúng tôi sống tiếp những ngày êm thắm và có thêm hai cháu trai nữa.
Giữa cuộc sống thanh bình, yên vui của gia đình thì mẹ tôi đột ngột ra đi, để lại một khoảng trống trong gia đình, trong tôi, không thể lấy gì bù đắp.
Con Gấu – Nguyễn Quang Huy
Nàng là một cô gái ngoại thành, con nhà trồng hoa. Từ ngày lên thành phố ở, nàng không trồng hoa nữa, nhưng vẫn rất yêu hoa. Hình như mỗi một loài hoa, đều mang một phần cái hồn trinh nữ của nàng, mong manh, e ấp, mộc mạc, thấm đẫm hương đồng nội. Nàng hay đi chợ và mua hoa lúc chín, mười giờ sáng, lúc ấy mới có hoa tươi vừa cắt ở vườn, chứ còn đi sớm quá, có khi lại là hoa từ chiều qua. Nàng chẳng lầm giữa hoa tươi và hoa cũ, nhưng nàng không muốn nhìn thấy vẻ rầu rĩ của những bông hoa hái qua đêm. Còn những bông hoa mới cắt xong, ngay hít thở cái mùi hương dịu lành của nó, cũng thấy thơm mát vào tận da, và nước từ cuống hoa rịn ra nơi vết dao cắt, cũng thoáng làm nàng chạnh nhớ một thời trinh bạch đã qua…
Nàng đang vừa mải chọn hoa, vừa nghĩ, thì cảm thấy có một cái gì mềm mại cọ cọ dưới chân mình. Nàng nhìn xuống, và mừng rỡ thốt lên:
– Ôi! Gấu! Sao mày lại ở đây hả?
Con chó – Gấu là tên nó – ngước cái mõm đen mượt hít hít tay nàng, và nàng cảm thấy cái lưỡi mềm ấm của nó rụt rè, chứ không vồn vã như mọi khi.
– Sao lâu lắm rồi, mày không đến chỗ chị? Thôi nào, đợi chị chọn mấy bông hoa nữa, rồi thì về…
Nàng vỗ nhẹ mấy cái lên đầu nó, rồi chọn tiếp. Con Gấu quanh quẩn đi theo.
Nó là một con chó Mẹo to, đậm. ức nở, cổ lực lưỡng, vai tròn, xuôi xuống phía lưng. Mõm ngắn, hàm khỏe, với hàm răng sắc, nhọn và đều. Mắt nó mầu đen, giống như mầu cánh của con bọ sừng, có cái nhìn lung linh mầu hổ phách. Ðuôi nó cụt ngủn, toàn thân phù hợp với lớp lông đen dày, vừa cứng vừa mềm mại. Trông nó hệt như một con gấu và có bản lĩnh của một con gấu: những cử động từ tốn và điềm tĩnh, chắc chắn và uyển chuyển.
Nàng đã chọn xong hoa, bảo:
– Về đi, Gấu ơi!
Con chó đi cách nàng vài bước, lững thững chứ không có vẻ tung tẩy, ra chiều đang nghĩ một điều gì đó.
Ðến một tòa nhà to, ở tách biệt, nàng mở cổng, rồi mở cửa bước vào. Con chó đứng ngoài cửa, không vào theo. Nàng lắc đầu, bảo:
– Vào đi, Gấu! Không có ai đâu! Ðây này…
Và nàng mở toang cửa chính, cửa sổ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế bọc đệm nhung mầu mận chín. Con Gấu chậm rãi đi đến cạnh nàng, ngồi xuống, áp cái mõm của nó lên đùi nàng, mắt lim dim.
Nàng đưa bàn tay mềm mại, thơm tho kê dưới mõm nó.
– Chủ mày có khỏe không? Sao lâu nay không thấy mày đến chơi với chị? Chị buồn lắm, Gấu ơi!
Hình như cái giọng nghèn nghẹn của nàng làm con Gấu chợt run rẩy. Nó thè lưỡi liếm lòng tay nàng, ngọ nguậy cái mõm.
– Mày thương chị, phải không, Gấu? Sao dạo này mày gầy vậy? Chắc chủ mày vất vả lắm phải không?
Con Gấu vẫn nhắm mắt, chỉ có cái tai hơi động đậy, và thỉnh thoảng nó lại thoáng rùng mình nhè nhẹ.
– Thôi, để chị đi lấy cái gì cho Gấu ăn nhé! Ngồi đây!
Nàng đứng dậy, xuống bếp, mang lên một cái bát to cơm, canh và mấy miếng thịt quay – cái món mà Gấu thích. Nhưng, Gấu không ăn ngay. Nó cứ ngồi như thế, ngước mắt nhìn nàng.
– Gấu cũng nhớ chị à? Hay muốn nói điều gì với chị? Thôi nào ăn đi đã…
Con Gấu nhởn nha ăn. Hai chỗ hõm ở hông nó phập phùng. Nàng thích cách ăn của con Gấu, biết rằng nó ít khi được ăn ngon. Bàn tay mềm mại của nàng đang vuốt dọc lưng con vật, bỗng dừng lại. Một nỗi buồn cứ từ từ dâng lên, đầy ắp trong nàng, rồi những giọt nước mắt cứ lần lượt ứa ra, nhỏ xuống bát cơm của con Gấu… Con Gấu làm nàng nghĩ đến chủ của nó, và thân phận của mình. Cứ thế, nàng lặng lẽ khóc…
o O o
Chủ của con Gấu, một anh giáo trường làng, mồ côi bố, ở với mẹ bệnh tật. Và nàng, một cô con gái nhà trồng hoa ngoại thành, xinh đẹp nết na, thi không đỗ đại học. Ðã có một thời, họ sống thật hạnh phúc với nhau dưới mái nhà vá víu bằng đủ mọi thứ vật liệu. Chàng dạy học trường làng, nàng trồng hoa. Một mảnh đất nhỏ thôi, nhưng cũng đủ cho một gia đình sống đơn giản và ấm cúng. Sáng sáng, nàng dậy sớm, cắt hoa mang đi chợ bán. Con Gấu đưa chân nàng đến tận đầu làng, mãi khi nàng bảo:
– Thôi Gấu, đi về trông nhà đi!
Con Gấu dừng lại, đứng nhìn theo mãi cái dáng đi mềm mại của cô chủ, đến khi nó chỉ còn là cái bóng mờ mờ, rồi phi một mạch về nhà. Cũng đôi lần, nó lặng lẽ theo nàng đến tận chợ. Nàng mua cho nó mấy miếng dồi lợn, gói bằng một nửa tàu sen. Nó nằm, thong thả nhai từng miếng vẻ khoái trá, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn cô chủ nó đang bán hoa cho khách…
Cuộc sống của nàng, có lẽ cứ lặng lẽ trôi đi, nếu bàn tay của tạo hóa không bày ra những trò cay nghiệt để thử lòng dạ con người. Ðầu tiên, là lấy nhau hai năm rồi, nàng vẫn chưa có một mụn con. Theo lời thầy thuốc ở bệnh viện, thì lỗi ấy do chồng nàng. Họ nội của chàng, ba bốn đời chỉ có một con trai. Thôi thì, có một con trai hay một con gái cũng được! Nàng an ủi chồng vậy. Chút tiền bán hoa ít ỏi, đắp cả vào việc nuôi mẹ chồng và chạy chữa cho chồng, nàng cũng chẳng hề kêu ca. Nhưng, hình như trời không thương nàng, cố tình phụ công nàng. Ðã có lúc, chồng nàng bảo:
– Ở với tôi, mình khổ đã đành, lại uổng một đời con gái. Hay là…
Nàng hốt hoảng:
– Hay là… sao…?
– Hay là… mình kiếm lấy một đứa con để nuôi. Là con của mình… Người ta nói con gái có thì…
– Anh bạc lắm! Nàng khóc.
Nhưng cái thực tế phũ phàng, cay nghiệt kia, nàng đã lờ mờ cảm thấy, song từ lâu, nàng cố coi như không có nó. Nay cả chồng và mẹ chồng đều nhắc đến, thì nó lại hiện diện, rõ rệt, tàn nhẫn, lý trí yếu ớt của nàng làm sao chống lại nổi. Và, nàng mặc cho nó dày vò mình. Nàng sống như một người chết đuối vớ phải một mảng bèo, liền bám lấy nó và để mặc cho dòng nước dữ cuốn đến đâu thì cuốn. Thôi thì, trăm sự nhờ vào may rủi…
Cho đến một hôm, nàng đi chợ bán hoa như mọi sáng…
– Hoa tươi quá… Chỉ tiếc người hơi héo! Có bán cả không em?
Nàng chợt ngẩng lên, toan mắng người ấy, thì nhận ra người làng.
– Tưởng ai, ra anh!
Rồi nàng nhoẻn cười. Một bên má lúm đồng tiền.
– Sao lâu rồi, không thấy anh về làng?
– Còn ai nữa mà về! Còn em, thì em… Dạo này, sao em khác quá!
– Vừa già, vừa xấu…?
– Cũng có gầy đi, trông vất vả hơn. Còn xấu thì… Em vẫn đẹp như trước, có khi còn duyên hơn…
Thoáng chút hồng trên má nàng. Nàng hơi cúi mặt xuống, cắn cắn môi dưới.
– Nhà anh gần đây, em đến chơi! Tiện thể, chọn cho anh một ít hoa và cắm bình hộ anh!
– Em còn phải bán nốt, kẻo héo mất.
– Nhanh thôi mà. Em đến cho biết nhà… Ðưa anh gánh cho.
Nàng không có lý do để lưỡng lự, gánh hoa đi theo người đàn ông ấy. Mà, nàng đã đến cái nhà mà bây giờ nàng đang ở. Còn người đàn ông ấy, chính là chồng nàng bây giờ.
Cho đến bây giờ, nàng cũng không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường như thế nào, mà nàng lại rơi vào cái nhà này, lại chấp nhận làm vợ anh ta. Anh ta không gài bẫy nàng. Anh ta chỉ nói thẳng với nàng những đề nghị của mình, với sự tính toán trần trụi, chính xác và chí lý. Em còn trẻ, lại đẹp, lại nết na. Em lấy anh giáo làng, nghèo kiết xác, lại mẹ già, đau ốm luôn, không hy vọng gì ở đường con cái. Bây giờ, thì em còn có thể chịu đựng được. Nhưng dăm ba năm nữa, ở hoàn cảnh ấy, em sẽ già rất mau. Em sẽ xấu xí, sẽ nhăn nheo như một bà cụ già, người sẽ héo quắt đi. Như vậy, có ích gì cho em, và cũng chẳng ích gì cho mẹ con người ta. Rồi cuộc sống túng quẫn liệu có giữ mãi được cái tươi vui của gia đình hay không? Còn em ở với anh, nhà này là của em, của các con em. Tiền anh kiếm được cũng là của em, em toàn quyền quản lý, chi tiêu. Em sẽ chẳng phải làm gì cả, chỉ đi chợ cơm nước, quán xuyến nhà cửa giúp anh…
Không phải anh ta nói một lúc tất cả những điều ấy trong lần đầu tiên nàng đến nhà anh ta, mà là nói dần dà trong những lần sau, mỗi khi nàng đi chợ bán hoa và anh lại mời nàng đến nhà. Anh ta cứ nhẩn nha, ung dung, tự tin mà đi đến cái đích của mình. Giống như trong đêm tân hôn, người đàn ông cứ từ từ lột từng thứ quần áo trên người đàn bà. Dù người đàn bà có yêu người đàn ông ấy hay không, đều mặc nhiên cam chịu hoặc thích thú. Sự e lệ, trinh bạch lúc ấy chỉ còn là một trò giả vờ cố ý…
Nàng cũng vậy. Những lời nói của anh ta lần lượt tước bỏ dần những cái dằn vặt, băn khoăn của nàng, lần lượt dồn nàng vào cái thế phải chấp nhận. Nó không hẳn là tự nguyện, nhưng nàng lại không thể làm khác. Nó đúng, nhưng tàn nhẫn, khốc liệt và man rợ. Ngay cả khi anh ta ôm nàng, ghì riết thân hình nàng bởi một vòng tay mạnh mẽ, phả vào mặt nàng cái hơi thở hầm hập, gây gây của một giống đực, thì nàng cũng không còn một chút ý chí nào để chống cự. Cả người nàng mềm lả. Nàng nhắm mắt, chấp nhận cuộc hành quyết, để mặc cho cái cảm giác đau đớn, tủi hổ tràn vào, lấp đầy con người nàng với cường độ của những cơn xoáy lũ. Nàng hoàn toàn đầu hàng số phận. Nàng chấp nhận cái chết của kiếp sống này, để đổi lấy một kiếp sống khác, mà cũng chẳng cần biết nó sẽ như thế nào, mà giống như một sự giải thoát nhục nhã.
Nàng đổi kiếp sống mà không gặp phải sự ngăn trở gì nhiều nơi gia đình chồng cũ. Người làng có trách móc, thì nàng có bao giờ về đâu mà nghe! Ðến mẹ anh giáo mất, nàng cũng không dám về, dẫu nàng biết là nghĩa tử là nghĩa tận, và biết nếu vậy thì nàng là một con đàn bà khốn nạn. Nàng không đủ can đảm. Nàng chỉ khóc rấm rích và tự xỉ vả mình suốt những đêm sau đó. Sợi dây duy nhất nối nàng với quá khứ là con Gấu. Những ngày mới lìa bỏ ngôi nhà dột nát của anh giáo, nàng sợ gặp người làng, nhưng vẫn không thể không đi chợ mua hoa. Những đóa hoa tươi làm lòng nàng dịu lại. Nhưng một nỗi đau không tên cứ âm ỉ thiêu đốt nàng, mỗi khi nàng bước chân đến cái chợ quen thuộc.
Rồi sự gặp gỡ với con Gấu. Nó ngạc nhiên lắm, khi nàng là người mua hoa chứ không phải là cô chủ bán hoa của nó. Chắc nó tìm nàng mấy hôm rồi, hôm nay mới gặp. Nàng bảo nó về nhà. Ấy là lần đầu, nó bước vào cái ngôi nhà đồ sộ kia. Chắc nó ngạc nhiên tại sao cô chủ nó lại ở cái nhà này. Nó cứ ngồi im mà quan sát tất cả mọi đồ vật trong ngôi nhà với vẻ cảnh giác, sẵn sàng bỏ chạy hoặc tự vệ. Chỉ có thái độ của cô chủ cũ làm nó hơi yên tâm. Khi cô cho nó ăn xong, đang nói chuyện với nó, thì người chồng mới của cô chủ bước vào.
Anh ta giật mình, lùi lại một bước:
– Con chó nhà ai đấy? Sao lại đưa nó vào nhà? Cẩn thận đấy!
Nàng vỗ vỗ con Gấu:
– Chó nhà em đấy mà! À… nhà trước. Không sao đâu, nó hiền lắm…
Con Gấu yên lặng quan sát anh ta, không tỏ thái độ gì. Nhưng khi anh ta vừa bước một bước đến phía nàng, nó liền nhếch mép, để lộ một khóe hàm răng trắng ởn. Nàng phải đưa tay ôm lấy đầu nó:
– Gấu, ngoan nào…
– Tốt nhất là tống ngay nó đi…!
Nàng nhíu mày, nhưng cũng đứng dậy, kéo con Gấu đi theo. Nàng mở cổng, ngồi xuống, nâng đầu con Gấu lên, nhìn sâu vào mắt nó:
– Thôi, Gấu về đi, về đi! Từ nay đừng tìm chị nữa! Nhớ chưa?
Cái động tác lắc lắc đầu của nàng và ánh mắt nàng chắc con Gấu hiểu. Nó đưa lưỡi liếm liếm, hít hít bàn tay nàng, rồi phóng thật nhanh ra cổng…
Sau cái lần ấy, nàng không mua hoa ở cái chợ ấy nữa, mà đi chợ khác, xa hơn. Và con Gấu cũng không đến nhà tìm nàng. Không hiểu sao, hôm nay, nàng lại trở lại cái chợ cũ, và gặp con Gấu ở đấy…
Con Gấu cọ cọ cái mõm đen mượt của nó vào lòng tay nàng, làm nàng sực tỉnh. Nàng biết, giờ này chồng nàng sắp về. Nàng không muốn để anh ta gặp con Gấu, và chắc con Gấu cũng không muốn gặp anh ta. Nàng lý giải vẻ bồn chồn của con Gấu như vậy. Nó cứ định đứng lên, rồi lại thôi, hết nhìn ra cổng, lại nhìn nàng, và trong đôi mắt nó, cái ngọn lửa mầu hổ phách cứ lung linh, lung linh.
Nàng đứng dậy, lấy một chiếc dép của chồng, đưa vào mũi Gấu, và bảo:
– Nào, về thôi, Gấu! Kẻo họ sắp về rồi đấy!
Con Gấu, sau khi hít hít cái dép, như hiểu, đứng dậy theo nàng ra ngõ. Nó lủi thủi đi sau, cái đầu cúi thấp.
– Ðừng giận chị nhé, đừng trách chị, Gấu nhé!
Và nàng mở cổng. Con Gấu nhìn nàng, tru lên một tiếng, rồi phóng đi.
Nàng đóng cổng, ngồi thừ một lúc trên chiếc ghế bọc nhung, rồi uể oải đứng dậy nấu cơm trưa, vừa làm, nàng vừa nghĩ miên man. Và, cái cảm nhận cuối cùng, là nàng vừa tự trách mình, vừa tự thương thân. Ở với người chồng mới, nàng là một người làm công, một con ở, một kẻ tù giam lỏng hơn là một người vợ. Công việc của nàng: Là quét dọn, giặt giũ, đi chợ, cơm nước, coi nhà và những công việc khác để hầu hạ chồng – ông chủ. Ngay tiền đi chợ, anh ta cũng khoán cho nàng từng ngày, nếu cần thì phải xin, trừ cái dây chuyền hai chỉ và một cái nhẫn một chỉ anh ta mua tặng nàng hôm cưới. Nàng hiểu, ngay cả những thứ đó, cũng không phải của mình, bởi anh ta để mắt đến chúng luôn. Những người giàu có thường ích kỷ và keo kiệt, hay chính vì ích kỷ và keo kiệt mà họ giàu có? Nàng không muốn nghĩ nhiều đến điều này, bởi dẫu sao thì cuộc đời nàng cũng đã như thế rồi…
o O o
Sáng sớm hôm sau, con Gấu lại đến nhà tìm nàng.
Mõm nó tha một chiếc dép đứt quai. Thấy cổng còn đóng, nó lấy hai chân trước giật giật vòng xích khóa. Không có nàng ra mở cửa, nó bỏ chiếc dép xuống, chõ vào trong nhà sủa.
Nghe tiếng con Gấu, nàng vội vã chạy ra, không giấu nổi vẻ mừng rỡ:
– Gấu đấy à? Ðợi chị mở cổng cho mày ngay đây!
Con Gấu tha chiếc dép chạy vào trước. Ðến thềm nhà, nó bỏ chiếc dép xuống, rồi đợi nàng và tru lên mấy tiếng thảm thiết.
Nàng nhận ra chiếc dép nhựa cũ của anh giáo, và chợt hiểu:
– Thì ra vậy đấy! Chủ mày ốm phải không, Gấu?
Nàng vừa nhặt chiếc dép lên, dứ dứ vào mũi con Gấu, vừa nói vậy. Con Gấu lặng lẽ nhìn nàng, như cầu khẩn, rồi đứng dậy, cắn gấu quần nàng, lôi ra phía cổng.
Nàng ngồi xuống đưa hai tay giữ nó lại:
– Không được đâu, Gấu ạ! Chị không đi được!…
Nàng lắc đầu, và kéo con Gấu vào phòng:
– Thôi, phải ngồi đây! Ðể chị đi lấy cái gì cho mà ăn, rồi về…
Con Gấu không động đến bát cơm. Nó cứ quanh quẩn bên nàng, tru từng tiếng ngắn trong cổ họng. Nàng bối rối và bất lực. Chợt nàng “à” một tiếng, và đi xuống bếp. Lần này, con Gấu đi theo nàng. Nàng mở chạn, lấy một cái bánh giò mà nàng mua ăn sáng, một miếng chả to, hai quả cam và nửa cân đường. Nàng gói các thứ vào một túi nilon rồi bỏ vào một cái túi vải có quai.
Xong xuôi, nàng bảo:
– Thế là được rồi! Nào Gấu, chịu khó một tí nhé! Không nặng lắm đâu!
Nàng quàng cái túi vải vào cổ con Gấu, dẫn nó ra cổng:
– Bây giờ, thì Gấu về ngay đi! Ði đi! Mai lại đến nhé!…
Gấu co cẳng một mạch, quên cả từ biệt nàng. Nàng biết là anh giáo đang ốm nặng. Nàng cứ bần thần, bởi một ý nghĩ: anh giáo sẽ biết những thứ con Gấu mang về là của nàng, anh sẽ không thèm động đến. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra, những giọt nước mắt tủi hổ của một người vợ trót bội bạc. Nhưng không, chắc anh ấy sẽ ăn. Anh ấy đang ốm mà. Nếu anh ấy không ăn, thì con Gấu cũng sẽ không ăn. Nó không bao giờ ăn trước chủ. Mà anh ấy thì quý con Gấu, thương con Gấu lắm. Bây giờ anh ấy chỉ có một mình nó…
Sáng hôm sau con Gấu lại đến, tha theo cái túi vải. Nhìn thấy cái túi, nàng mở ra nhẹ nhõm. Anh ấy hiểu mình và anh ấy vẫn còn thương mình. Một nỗi đau cứ thế nhói lên, làm nàng không chịu nổi. Nàng ghì đầu con Gấu vào ngực mình:
– Chủ mày không giận chị à? Chủ mày vẫn còn thương chị à?
Rồi nàng lại vội vã bỏ các thứ vào túi vải, quàng lên cổ con Gấu, những thứ mà sớm nay, nàng đã kịp đi chợ mua.
o O o
Cứ như vậy, con Gấu đến nhà nàng, ba, bốn lần sau đó, đều trót lọt, chồng nàng không hay biết.
Rồi một tối, khi ăn cơm, anh ta hỏi:
– Cái con chó nhà cô nó vẫn đến đây phải không?
Nàng đang gắp thức ăn, dừng đũa, không dám ngẩng lên ngay:
– Ðâu có, chắc anh nhìn nhầm con chó nhà ai đấy!
– Ờ… cũng có thể! Nhưng cô vẫn cứ cẩn thận. Nó thả rông thế, dễ mắc bệnh dại lắm! Nó mà cắn tôi, thì cô cứ liệu!
– Nhưng mà em khóa cổng kia mà…
– Cô mới học đâu cái kiểu cãi vả chồng thế hả! Tôi nói thế thì phải biết im đi mà nghe!
Nàng nín lặng, cố nuốt nốt miếng cơm. Chiều hôm sau, anh ta về sớm, quăng gói giấy báo cái “bịch”:
– Cô không thích ăn thịt quay, nên mua miếng thịt cũng chẳng ra hồn. Từ nay, cô cứ để tôi khi nào thích ăn thì mua…
Nàng lẳng lặng mang gói thịt xuống bếp thái. Miếng thịt to, nàng bớt lại một phần, để sáng mai cho con Gấu mang về. Nàng cất miếng thịt trong chạn, úp một cái bát lên trên, yên tâm vì biết anh ta chẳng bao giờ thèm ngó ngàng đến bếp núc.
Sáng sớm hôm sau, con Gấu đến. Nàng mở chạn, lấy miếng thịt quay gói lại cho vào túi vải, cùng với những thứ khác, vội vã giục nó về ngay. Nàng sợ chồng bắt gặp con Gấu.
Buổi chiều, nàng cảm thấy ruột gan cứ bồn chồn không yên. Cái tâm trạng ấy, khiến nàng như mất hồn, hết đứng lại ngồi, đi ra lại đi vào. Không phải vì chiều nay, chồng nàng ở nhà. Anh ta cũng chẳng quan tâm đến trạng thái ấy của nàng, cứ nửa nằm nửa ngồi trên đi văng, vừa nghe nhạc, vừa đọc chưởng.
Bỗng có tiếng tru thảm thiết của con Gấu ở ngoài cổng. Nàng run bắn người, linh cảm thấy có một tai họa khủng khiếp. Nàng không đủ sức đứng lên mở cổng nữa. Chồng nàng hỏi:
– Cái con chó đen nhà cô phải không? Nó chưa chết à?
Nàng tái mặt lắp bắp:
– Anh… anh… bảo… bảo… ai… Ch… chết?
– Con chó nhà cô ấy. Nó không ăn cái miếng thịt quay ấy à? Tôi đã tẩm thuốc độc vào đấy đấy!
Nàng ngã khuỵu xuống, như một cây chuối thối gốc:
– Giời ơi là giời… Anh giết anh ấy rồi…
Nàng khóc và ngất đi. Chồng nàng hoảng sợ, vội vớ lấy dầu bạc hà xoa cho nàng, lay gọi nàng:
– Cô nói làm sao? Ai chết? Tôi giết ai? Cô điên rồi à?
Nàng dần dần tỉnh lại, cũng với tiếng hờ khóc càng to hơn:
– Giời ơi là giời… Anh giết anh ấy rồi… Anh ấy ốm… Tôi lấy miếng thịt bảo con chó mang về cho anh ấy… Ðồ độc ác… Ðồ dã man!…
Anh ta cho nàng một cái tát, hai cái tát. Nàng choáng váng, nín bặt, nhìn trừng trừng:
– Mày đánh nữa đi! Mày giết nốt tao đi! Tao có cần sống đâu mà… Quân giết người!
Anh ta dằn từng tiếng:
– Này! Cô nghe đây! Tôi định giết là giết con chó. Tôi ghét vì nó cứ lui tới đây tìm cô. Cô tưởng cô giấu tôi cho nó mà lọt à! Tôi biết hết! Nhưng tôi lại không ngờ anh ta lại ăn tranh của chó. Chính cô mới là người giết chết anh ta!
Nàng giận bắn người, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Nàng ghê sợ cái suy nghĩ, cái cách nói trần trụi, tàn nhẫn của con người đó, nàng lảo đảo đứng dậy, xiêu vẹo đi ra phía cổng, nơi con Gấu đang đu người lên mà tru từng hồi.
Anh ta quát to:
– Cô không được mở cổng! Tôi cấm cô!
Nàng không thèm nghe. Nàng đang ở vào cái trạng thái không biết sợ một cái gì – kể cả cái chết. Nàng mở toang cửa, ôm lấy đầu con Gấu mà khóc không thành tiếng. Nước mắt của con Gấu cũng ướt cả tay nàng. Rồi nó toài ra, ngoạm tay nàng kéo đi. Nàng đắn đo giây lát, rồi bảo:
– Gấu, ở đây nhé! Ðợi chị.
Nàng ấn con Gấu ngồi bên góc cổng, rồi rảo bước vào nhà. Nàng nói với chồng, nhỏ nhưng quyết liệt:
– Tôi phải đi! Anh có cấm, tôi cũng đi! Nếu anh cấm tôi, tôi sẽ tố cáo anh. Rồi ra sao thì ra.
Anh ta nhìn vẻ mặt nàng, nhìn ánh mắt điên dại của nàng, nghĩ một lát, rồi gằn giọng:
– Thôi được cô cứ đi, nếu cô thích. Nhưng tôi nói để cô biết, cái mặt cô cũng chẳng đẹp đẽ gì, nên cứ liệu đấy mà phơi ra…
Nàng không thèm trả miếng, hấp tấp quay ra cổng, con Gấu vẫn đứng đấy, vội vã vượt lên trước, cứ một quãng, nó lại đứng đợi, vẻ bồn chồn. Mãi đến khi đi một quãng xa, nàng mới sực nhớ ra mình chẳng có một đồng nào cả. Nàng gọi:
– Gấu lại đây đã!
Và nàng đi đến một tiệm vàng. Nàng tháo chiếc dây chuyền, cái nhẫn, chủ tiệm nhìn vẻ mặt nàng, không hỏi, đem đi cân, thử, và nói giá, tính tiền, đếm tiền. Nàng lặng lẽ cầm bọc tiền và lặng lẽ ra khỏi tiệm.
Trên đường đi, cho đến lúc này, nàng mới nhớ lại tình cảm của mình. Và, những lời nói của chồng, làm nàng phải cân nhắc: “Có nên đến thẳng chỗ anh ấy không?”
Nàng hình dung ra căn nhà tồi tàn không khí lạnh lẽo của nó, vẻ mặt khổ não và ảm đạm của người quá cố, ánh mắt của người làng… Nàng thoáng rùng mình và do dự. Nàng thấy tốt nhất là hãy cứ sang nhà bên cạnh xem sao đã. Hai vợ chồng ông lão hàng xóm vốn phúc hậu, rất quý nàng, khi nàng còn là vợ anh giáo. Vả lại, trời cũng đã nhá nhem, ít người nhận ra nàng…
Ðến gần ngôi nhà cũ, nàng thấy người vào ra thì đông mà tiếng khóc thì thưa thớt, nàng thấy mình có tội với anh ấy, thấy mình chẳng còn mặt mũi nào mà bước vào ngôi nhà đó, nhìn mặt người chồng cũ lần cuối. Nàng vội vã rẽ vào nhà bên cạnh, lén lút như một con ăn cắp. Gặp bà cụ, nàng òa khóc:
– Anh ấy đi rồi à, bà ơi?
– Tội nghiệp… sao chị biết mà về?
– Con Gấu nó đến báo cho cháu…
– Lạy giời Phật! Thảo nào… vừa mới trưa, nó sang nhà tôi. Ông lão nhà tôi đang nghỉ. Nó cứ vừa tru, vừa ngoạm tay ông lão lôi dậy. Sang, thì anh giáo đã đi rồi. Người ta bảo là do ốm sẵn mà ngộ độc thức ăn… Ðồ nóng anh giáo không ăn mà chỉ ăn đồ nguội. À… à… ra con Gấu nó đến báo cho chị đấy…!
Những lời của bà già làm nàng buốt nhói đến tận ruột gan. Nàng muốn nói “Bà ơi! Chính cháu đã giết anh ấy!”, mà không dám. Một cơn ớn lạnh làm nàng rùng mình, nàng vội giở bọc tiền, dúi vào tay bà lão, mếu máo:
– Bà ơi… cháu có lỗi với anh ấy… Cháu chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa. Số tiền này, cháu dành dụm được, nhờ ông bà với hàng xóm láng giềng lo cho anh ấy. Thôi thì, trăm sự nhờ cả ông bà…
Bà lão, thấy nàng như vậy, cũng mủi lòng:
– Chị nghĩ vậy là phải! Ðể tôi đi gọi ông lão về!
Nàng vội níu tay bà cụ:
– Thôi bà ạ! Cháu xin phép bà, cháu phải về ngay đây!
Nàng nấc lên, vội vã đi như chạy ra khỏi cái ngõ hẹp nhà bà cụ. Và cứ thế, nàng lầm lũi đi. Con Gấu không biết nàng về. Nó bỏ nàng ngay từ lúc nàng đến gần nhà. Nó làm thế là đúng thôi. Chỉ có nàng mới là kẻ phụ bạc.
Ðêm! Trăng suông. Con đường vắng. Những ngọn gió hoang thỉnh thoảng lại cồn lên, nàng có cảm giác đó là âm hồn đang đi lang thang…
Có tiếng chân chạy phía sau, làm nàng giật bắn người. Một bóng đen vụt qua, rồi đứng khựng lại. Con Gấu, nàng mừng rỡ, ngồi thụp xuống, ôm lấy đầu nó và cảm thấy trống ngực vẫn đập thình thình.
Con Gấu đi cùng nàng đến đoạn đường sáng đèn phố, thì dừng lại. Nó để yên cho nàng vuốt ve một lúc, rồi vùng chạy ngược về nơi mà nàng đã từ bỏ.
Bầu bí một giàn – Tràm Cà Mau (Nguyễn Thiệp)
Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ.
Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không giấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đỡ buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trễ. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ.
Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nản.
Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi: “Anh là Phàn phải không?”
“Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
“Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” − Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói: “Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận! Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ: “Đây là tên anh. Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
“Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được!”
“Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẳng trả lời?”
“Nghe được cái quái gì đâu!”
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.
Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẻ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không giấu được vẻ quê mùa.
Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary, tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. (Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy.
Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi: “Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời: “Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa.”
Anh Phàn hỏi tôi: “Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
“Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
“Cũng mệt, nhưng chẳng can gì cả.”
“Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn” − Tôi nói.
“Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa ly lớn. Anh nói: “Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.”
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nửa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói: “Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi? Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói: “Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói: “Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm! Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn: “Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẻ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó, vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy: “Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế?”
“Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu.”
“Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
“Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
“Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nữa.”
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ.
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói: “Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng: “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên.”
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành. Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi: “Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục: “Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
“Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa.
Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no”, vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ “thank you.” Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn: “Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
“Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
“Nhưng… anh có đi trên xe nầy không?”
“Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi.”
Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẳng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ.
Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi: “Tôi hỏi thật, anh đừng giấu nhé! Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại: “Anh hỏi làm chi vậy?”
“Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lãnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
“Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
“Tôi không tin.”
“Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi: “Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được! Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài: “Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai. Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì.
Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đỡ. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi.
Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy: “Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.”
Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: “Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó. Đừng dại dột.”
Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: “Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuở nên ba.”
Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: “Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay.
Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bởi thế, nên thường đến trễ. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào. Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói: “Nếu đón tôi, thì đừng đến trễ. Ngồi chờ rất nản.”
“Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trễ, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
“Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cộng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do “Cho biết sau.” Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng.
Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói: “Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ…”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại: “Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng: “Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu! Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu?, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi: “Ai nói với anh điều đó?”
“Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. “Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét: “Chúng tôi đâu có ngu! Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé: “Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa! Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn: “Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên.
Anh Phàn phân trần tiếp: “Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ.
Anh Phàn nói tiếp: “Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói: “Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ! Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lãnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời! Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lãnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhỉ?”
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch: “Để lập thành tích chứ để làm gì? Ai mà không biết!”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp: “Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng!”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ “hứa” của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói: “Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi!”
Vợ tôi nói: “Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lãnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói: “Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói: “Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đỡ. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được!”
“Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của bọn ‘dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng: “Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé! Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được!”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: “Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hải Phòng, Hà Nội, Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đánh đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa.
Anh nói: “Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ!”
Tôi an ủi anh: “Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đỡ được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
“Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao?”
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lãnh được tiền trợ cấp.
Tôi cười bảo anh: “Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngửa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
“Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt.”
Tôi cười, nói đùa: “Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa, thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đỡ. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc.
Anh Phàn lừng khừng đáp: “Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
“Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa?”
“Chưa”
“Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
“Tôi không biết!”
“Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không?”
“Không có vấn đề chi cả.”
“Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
“Chưa muốn. Khoan đã.”
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỹ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thì anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà để trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: “Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”
Trong lòng tôi cũng thấy buồn.
Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.”
Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm, thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật: “Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp: “Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa: “Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng.”
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.
Gió thoảng Tây Hồ – Trần Quang Thiệu
Tôi lom khom trong lòng phi cơ, tìm hàng ghế của mình. 21B đây rồi, không tệ lắm, ngồi ghế ngoài đứng lên đi lại dễ dàng, đường bay 14 tiếng chắc cũng phải đi toilet vài lần, tôi nghĩ thầm. Mà không biết người bạn đồng hành nào ngồi bên cạnh đây. Một anh bụng bự, ra vào vướng víu, thì kể ra cũng phiền.
Khi tôi còn đang loay hoay với giây lưng an toàn thì cô ta làm tôi giật mình. “Excuse me.” Tôi ngước mắt nhìn. ‘Con nhỏ’ chỉ vào chiếc ghế bên cạnh, không nói thêm một lời. Tôi đứng lên, “sure”, chắc là em về Ðài Loan, mẹ kiếp, San Francisco này thiếu gì Tàu. Ví xách tay, backpack trên lưng, lại còn cả laptop nữa. Cũng chẳng còn trẻ lắm mà áo ngắn lòi cả rốn. Trông dễ thương đấy nhưng máy bay lên cao, lạnh chết ‘cái nị’ cho coi!
Cô nàng oằn người tháo chiếc backpack trao cho tôi và chỉ lên chỗ chứa hành lý, “would you mind?” Tôi lắc đầu, con gái Á Châu bé tí, với không tới, thôi thì giúp nó một tay. Cái ‘name tag’ đong đưa, tên gì thế này, à Jackie. Jackie gì chứ?, Jackie Wong hay Jackie Fan?, mà thôi thắc mắc làm cái quái gì!
“Thanks.” Con bé hà tiện cả tiếng nói, mới ngồi xuống mà đã như muốn ngủ.
“You Chinese?”, tôi hỏi. “Nope.” Thế thì lạ nhỉ? “Mít?”, tôi hỏi thêm.
Tiếng cười ròn tan: “Cũng tưởng anh là Ba Tàu. Ðang buồn vì sợ không có người tán gẫu suốt chuyến bay. Vâng, Mít đặc.”
Tôi lắc đầu: “No way! Tên là Jackie thì Mít đặc sao được!”
Cô bé nhe răng cười trừ. Khi máy bay bình phi thì chúng tôi đã thành bạn. Tôi kể cho Jackie nghe về chuyến đi VN năm ngoái, về những xúc động bồi hồi khi trở về thăm làng xưa, trường học cũ, và những ước mơ thời thanh xuân.
“Lần này trở về VN dạy học tôi đã gác bỏ nhiều những lời can gián của bạn bè và gia-đình, nhất là những băn khoăn về chính thể. Tôi đã đi và sống ở nhiều nơi, nhưng dù nơi nào đi nữa tôi vẫn thấy như thiếu một cái gì. Có lẽ là ‘hồn sông núi’, chữ nghĩa chúng ta học và hiểu từ ngày còn thơ nhưng bây giờ mới cảm được bằng tấm lòng thiết tha.”
Jackie mỉm cười: “Anh nói như là viết văn. Anh về đó dạy gì? English?”
Tôi lắc đầu: “Ðiện toán. Nghề của chàng!”
“Ở đâu?”
“Sài Gòn hoặc Ðà-Lạt. Trường của người bạn có cơ sở ở một vài thành phố.”
“Cùng nghề với Jackie.”
“Em cũng về dạy học à?”
Chợt thấy lối xưng hô có phần quá thân mật của mình, tôi đổi giọng: “Xin lỗi. Jackie dạy môn gì?”
“Jackie nói cùng nghề là nghề điện-toán, chứ không phải nghề dạy học. Mà anh gọi Jackie là em cũng được, cần gì phải xin lỗi!”
Nhìn mái tóc muối tiêu của tôi, Jackie nheo mắt nói tiếp: “Gọi bằng cháu cũng được nữa là em!”
Tôi cười trừ. Một đều. Mình chê cái tên Mỹ của nó, còn nó chê mình già. Không ngờ con bé lém vậy. Thế thì vui rồi. Tha hồ mà ‘shop talk’, cùng nghề mà. “Jackie này, em làm cho hãng nào?”
“KPMG International. Họ mới được một hợp đồng với thành phố HCM, à quên, Sài-Gòn, thành lập một hệ-thống điện toán kiểm tra dân số. Jackie nhờ nói được cả hai thứ tiếng nên được chỉ-định làm project manager, liên lạc giữa VN và công-ty ở Mountain View. Ði lại như con thoi, mệt muốn chết. May mà cũng gần xong.”
Con bé liến thoắng kể tiếp: “Em bắt đầu sợ đi xa. Có lần ngồi cạnh một bà, nghe bà ta khoe nhà, khoe con cái mà phát mệt. Mấy anh ‘da đỏ’ cũng chẳng tử tế gì. Mắt trước mắt sau là gạ gẫm. Nhưng khổ nhất là gặp phải một ông Ba Tàu, miệng hôi mà còn hay lắp bắp broken English.”
Tôi đưa tay bịt miệng, quay ra phía khác. Jackie huých vào vai tôi: “Not you. Don’t make me feel guilty.”
Tôi pha trò: “Ði xa hoài như vậy thì chồng con ai trông? Coi chừng… mất chồng!”
Jackie giơ bàn tay trái, ngón tay đeo nhẫn lờ mờ một vòng trắng: “Mất rồi anh, và không phải chỉ một mà… dăm ba cuộc tình.”
Tôi ngỡ ngàng: “Xin lỗi, tôi không ngờ”, nghĩ thầm mình cà chớn, vô ý quá, chắc làm con bé buồn. Tôi thở dài: “Bạn bè tôi cũng nhiều người gặp cảnh ngang trái lắm.” Tôi nghĩ tới Trọng, tới Vĩnh, tới những người bạn thân, tình duyên trắc trở một đời mà xót thương.
Jackie hình như không mấy quan tâm: “It’s OK. Còn anh? Sao chị ấy lại để anh về VN một mình? Bộ không nghe chuyện dài về VN lấy vợ nhỏ hay sao?”
“Nhà tôi là dược-sĩ, có cửa tiệm riêng nên rất bận với công việc, hai cháu đã trưởng thành và đi học xa. Nhà tôi tin-tưởng tôi, vả lại, em nhìn xem. Tuổi tôi cũng đã xế chiều.”
Jackie không trả lời, ánh mắt tinh nghịch như có chút gì không tin. Tôi cũng ngồi yên, suy nghĩ vẩn vơ. Tội nghiệp con bé xinh xắn mà tình duyên long-đong! Biết đâu cái vẻ bề ngoài ngổ ngáo và bất cần đời ấy chả che giấu một nỗi buồn.
Bên ngoài trời đã tối, máy bay êm ru. Jackie ngả ghế, kéo chăn đắp ngang ngực: “Jackie ngủ đây.” Ừ ngủ đi, mà cười gì nữa đây? “Nếu Jackie có dựa đầu vào vai anh, anh để yên nhé! Bao giờ đến lượt anh ngủ, anh cũng có thể dựa đầu vào vai Jackie. Vai không thôi, not lower.”
“Deal.” Vú bằng quả cau thế này, dựa vào đâu?, tôi nghĩ thầm. “Good night, Jackie.”
Ðêm Cali bây giờ cũng đã khuya, giờ này chắc Trinh cũng đã ngủ yên, tháng Ba trời còn lạnh, không có mình kéo chăn đắp cho lúc về sáng chắc lại co người như con tôm. Ngủ dậy kêu đau cổ, ai bóp vai cho bây giờ? Mới đi có nửa đoạn đường mà đã nhớ. Mình muốn về đóng góp một chút gì cho quê hương, cho tuổi trẻ và cho giấc mơ thời niên thiếu nên đành phải hy-sinh một chút tình riêng. Thôi ngủ đi, đã quyết định thì đừng buồn.
Jackie đã ngủ, tay khoanh trước ngực, đầu tựa vào vai tôi, hơi thở nhẹ tưởng chừng như không có. Trinh cũng thường dựa đầu vào vai tôi mà ngủ trên máy bay. Lại còn ôm chặt cánh tay nữa chứ. Như thế mới yên tâm. Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy Jackie phảng phất như Trinh. Không, giống Jennie con gái tôi hơn. Tôi muốn hôn lên trán con bé, nhưng mà thôi, để cho em ngủ yên.
Tới Ðài Loan, chúng tôi phải đổi máy bay để về Sài-Gòn. Jackie qua lại phi trường này nhiều lần nên biết hết đường đi. Cô bé kéo tôi đi phăng phăng qua những hành lang hun hút, đến chỗ ngồi chờ. “Giá anh ngồi xe lăn, Jackie đẩy còn nhanh hơn.” Lại đía rồi, nếu leo dốc là biết nhau ngay. Giầy cao gót 5 inches thế này thì đi ‘đếch’ thế nào được.
Tôi chỉ mỉm cười: “Sao Jackie giống Trinh quá vậy? Mà cũng tốt thôi. Bây giờ em chỉ đâu tôi ngồi đó.”
“Ngồi đây. Mà Trinh là ai?”
“My house! Nhà tôi.”
Jackie nhìn vào mắt tôi. Cô bé cười khúc khích: “Well. Bây giờ thì Jackie biết tên vợ anh là gì rồi, nhưng mà Jackie vẫn chưa biết tên anh!”
“Bond, James Bond.”
Jackie bật cười: “You wish!”
Tôi phân trần: “Nhiều năm trước đây ở Ngũ Giác Ðài người ta gọi tôi là ‘Commander Trần’. Bà nội tôi gọi tôi là ‘thằng Ðài’, có lẽ hồi nhỏ tại tôi kén ăn. Bạn bè gọi tôi là ‘Duy còm’ để phân biệt với ‘Duy lù’. Bây giờ Jackie biết hết đời tư của tôi rồi đó. How about yours? Dăm ba cuộc tình có gì vui buồn?”
Jackie nhìn tôi, như có chút đắn đo. “Không được cười nhé!… Nói anh nghe, em gặp và yêu Lâm ở Pulau Bidong. Hai đứa côi cút trở thành vợ chồng khi tới Cali. Em bán Mc Donald ban ngày và đi học buổi tối. Lâm đi bỏ báo khi trời còn khuya trước khi tới trường. Căn apartment một phòng ngủ trên đường số 4 là thiên đường của riêng chúng em. Em học dốt lắm. Lâm thường phải làm home-work cho em, may mà cả hai đều tốt nghiệp sau 5 năm, và vui hơn cả là cả hai đều có việc làm ngay sau khi ra trường. Lâm làm programmer cho City of San Jose, còn em may mắn hơn được KPMG tuyển dụng.”
Tôi ngắt lời: “Như thế là nhất trên cõi đời ô trọc này rồi còn gì!”
Jackie thở dài: “Vâng, nhưng chỉ được vài năm. Trong khi Lâm cặm cụi với mấy cái servers và databases ở trung-tâm điện toán thì em được huấn luyện thành consultant, đi đây đi đó tiếp xúc với khách hàng. New York, Washington D.C., Âu Châu và cả Nam Mỹ, nơi nào em cũng đã đi qua. Lâm ghen, nhất là khi thấy em đi công tác xa với các nam đồng nghiệp. Lâm muốn em có con. Em không chịu vì không muốn trở ngại trên con đường sự nghiệp. Thế là tan vỡ. Lâm đã có gia đình khác, có con để yêu thương, còn em có dăm ba cuộc tình nhưng cũng chẳng ra cái gì.”
Gịong Jackie có chút buồn. Tôi quàng tay, vỗ nhẹ bờ vai cô bé, nói như dỗ dành: “Cái đó là duyên phận. Em còn trẻ. Một ngày nào, vâng biết đâu một ngày nào…”
Tôi nghĩ tới một số bạn bè tình duyên thiếu may mắn, và thấy bùi ngùi.
Jackie tìm trong túi xách bao thuốc lá, em ra dấu mời tôi. Tôi lắc đầu: “Tôi bỏ thuốc lá lâu rồi. Jackie cũng nên cẩn thận. Dễ bị ung-thư phổi lắm!” Và bỗng dưng tôi thiết tha: “Em đau rồi ai chăm sóc em?”
Jackie ngước mắt nhìn tôi. Ðôi mắt long lanh như mờ sương, em vân vê chiếc hộp quẹt gas trên tay nhưng không châm lửa điếu thuốc gắn hờ hững trên đôi môi nhạt son hồng.
Chúng tôi không nói gì thêm với nhau cho khi về đến Sài-Gòn. “Jackie ở khách sạn Continental. Anh về đâu?”
Tôi bông đùa: “20 năm trước đây thì tôi đã theo em về. Tiếc là bây giờ chân đã mỏi. Tôi ở khách sạn Palace ít lâu, làm thủ tục giấy tờ dạy học rồi sẽ lên Ðà-Lạt. Gia-đình tôi còn một căn nhà cổ gần chùa Trại Hầm. Sẽ tìm em đi ăn trưa trước khi rời Sài-Gòn.”
“Nhớ nhé!”
Tôi nắm bàn tay Jackie: “Nhớ. See you soon.”
Có người đứng chờ ngoài hành lang sân bay, giơ cao tấm bảng carton viết chữ ‘Ms Jackie Nuwens’. Em rút bàn tay nhỏ và mềm khỏi tay tôi: “Bye anh”, mắt em long lanh, như muốn gửi gấm điều gì trước khi hoà mình vào đám đông.
o O o
Một tuần sau tôi mới gặp lại Jackie. Thủ tục giấy tờ phiền phức làm tôi bực bội, hơn thế nữa thời tiết tháng ba Sài-Gòn vẫn nóng như thiêu, tôi không muốn ra khỏi phòng nếu không có việc cần. Với lại tôi không thích Continental. Nơi đó ‘Tây’ quá, mà tôi lại không thích Tây từ bé, nên vẫn nhìn nơi sang trọng đó với con mắt mặc cảm ngại ngùng. Sáng thứ Bảy, khi bước vào hành lang nhà hàng tôi đã thấy Jackie ngồi với một người đàn ông còn trẻ. Tôi chọn một bàn xa xa nhưng Jackie cũng đã nhìn thấy tôi. Em chạy vù lại. “Hi anh Duy. Chờ anh mãi.”
“Hi Jackie.” Tôi hất hàm về phía bàn của em: “Bồ nhí hả?”
Jackie lắc đầu, ghé tai tôi thì thầm: “Client. Không thể làm mất lòng. Thằng chả dai như đỉa đói, cứ đòi đưa em đi ‘tham-quan’ cái biệt-thự mới xây. Anh lại đó, em giới thiệu là… chú ruột, tới đón em về nhà ăn giỗ ông nội. OK?”
Khi chúng tôi ra khỏi Continental, Jackie đi sát vào tôi hơn và hỏi nhỏ: “Ði đâu anh”?
Tôi nói: “Không biết. Chỉ muốn gặp ‘cháu’ thôi.”
Jackie đập vào vai tôi. Con mắt liếc xéo, có đuôi. Chúng tôi đi về hướng bờ sông. Jackie mặc chemise vàng và váy nâu. Tôi hỏi: “Áo T-shirt ngắn em mặc trên máy bay đâu?”
“Trong phòng khách sạn. Something wrong?”
“Không. Chỉ muốn thấy cái rốn bé xíu. Cute!”
Jackie nghiêng đầu nhìn tôi, giơ cao nắm tay như đe dọa. Tôi mỉm cười, nắm bàn tay Jackie và chúng tôi đi sát vào nhau dưới hàng me. Buổi trưa, nhà hàng nổi vắng người. Chúng tôi chọn một bàn kề mé sông. Tôi chỉ cho Jackie những con tàu, nói miên man với em về một đoạn đời cũ. Jackie chống đũa nhìn tôi, nghe say sưa.
“Em ăn đi, đừng sợ mập…” Bỗng tôi giật mình, không nói hết câu. “Lỡ rồi, có mập đi nữa anh cũng vẫn yêu em.” Tôi vẫn thường nói đùa với vợ tôi như thế. Bữa cơm tối nào Trinh chẳng sới cho tôi một bát đầy trong lúc Trinh chỉ đơm một dúm nhỏ vào bát mình. Có gì như vướng mắc nơi cổ họng làm tôi buông đũa, mắt nhìn bâng quơ.
Trên đường trở về, cơn mưa trái mùa bỗng đổ xuống ào ào. Tôi kéo Jackie đứng nép vào một hàng hiên. Bụi nước thấm ướt vai, và Jackie bắt đầu hắt hơi.
Tôi lo ngại: “Jackie, em cảm rồi. Hay là mình chạy nhanh về khách-sạn?”
Jackie ôm cánh tay tôi: “Không, em muốn đứng đây một lát nữa.”
Tôi xoay nghiêng người, kéo Jackie lại gần: “Em đứng sát vào tôi cho bớt gió.”
Jackie ngước mắt nhìn tôi tin cậy trước khi giấu mặt trên vai tôi; và chúng tôi đứng như vậy cho đến khi ngớt cơn mưa. Jackie run rẩy, còn tôi thì thầm: “Ðể anh đưa em về”, và chợt bàng hoàng khi thấy mình vừa đổi cách xưng hô.
Tôi đưa Jackie tới cửa phòng khách sạn. “Em tắm nước nóng rồi lên giường nằm nghỉ. Ðể anh đi mua thuốc cho em. Ðừng khóa cửa nhé!” Jackie gật đầu, bóp nhẹ bàn tay tôi.
Khi tôi trở lại, Jackie đã nằm yên trên giường, môi em đỏ hồng vì cơn sốt và đôi mắt em mở lớn, nhìn xa xôi. Trông Jackie bé bỏng đến tội nghiệp. Tôi đưa cho Jackie ly nước và giúp em uống hai viên thuốc. Jackie ra dấu cho tôi ngồi xuống bên em. Tôi kéo ghế lại gần. Jackie nắm chặt bàn tay tôi, mắt em nhắm nghiền, và em không nói một lời. Khi thuốc đã ngấm, Jackie rơi vào giấc ngủ, tôi gỡ nhẹ bàn tay em, và lặng lẽ ra về. Sau cơn mưa đường xá còn vắng người, tôi cúi đầu đếm bước và không biết mình suy nghĩ gì.
Chuông điện thoại reo vang khi tôi đã lơ mơ ngủ. Giọng Jackie nghe như gió thoảng: “Em bớt rồi. Anh ngủ chưa?”
Tôi chợt thấy vui: “Chưa em. Uống thêm hai viên thuốc nữa đi, rồi mai anh sang xem sao.”
Rất lâu, không có tiếng trả lời. “Em còn nghe anh không?”
Có tiếng nấc nhỏ, giọng Jakie như nghẹn ngào: “Em không uống thuốc nữa đâu. Em không muốn ngủ đêm nay.”
Tôi dỗ dành: “Em nghe anh, khỏi rồi mai chủ-nhật anh đưa em đi chơi Vũng Tàu.”
Ngày còn bé Jennie cũng thường năn nỉ tôi: “Daddy, con khỏi rồi. Ðừng bắt con uống thuốc nữa.”, và tôi cũng thường dỗ dành: “Con uống đi, khỏi hẳn rồi bố đưa con đi Disney Land.” Tôi chợt hoang mang, không hiểu là mình đang đối xử với Jackie như thế nào. Một cô bé dễ thương côi cút trên đường đời cần một bàn tay nâng đỡ, hay một chút cảm tình lãng mạn, mong manh?
Tưởng chừng như lâu lắm mới thấy Jackie nói thêm, nghe xa vắng và ngoan hiền: “Em ngủ đây. Good-night anh.”
Tôi thẫn thờ buông điện thoại. Hàng đêm ở Cali, Trinh cũng thì thầm: “Em ngủ đây. Good night anh.”
o O o
Jackie đến tìm tôi khi tôi còn nằm dài trên giường, suy nghĩ vẩn vơ. Mắt Jackie như có quầng. Tôi thấy nao nao: “Còn đau không? Trông em yếu lắm.”
Jackie lắc đầu: “Em gần như khỏi hẳn rồi.”
Tôi nắm tay Jackie: “Ðêm qua em khóc phải không? Sao vậy em?”
Jackie nhìn tôi đăm đăm trước khi cúi đầu nói rất nhẹ: “Tại em không thấy anh khi thức dậy. Em nhớ tới anh, và tủi thân.”
Tôi nghe tim đập mạnh trong lồng ngực, và một chút bối rối, nhưng cố làm như thản nhiên: “Để anh đưa em đi Vũng Tàu. Gió biển, và biết đâu có anh Vọi nào đó đang chờ, sẽ làm em vui.”
Jackie lắc đầu: “Em không đi Vũng Tàu được. Chiều nay em phải ra Hà-Nội. Có một ít giấy tờ cần được Trung-Ương duyệt xét thứ Hai này. Nếu em không ra, họ sẽ không ký.”
Tôi lo lắng: “Em còn yếu lắm, không nên đi xa. Đau nữa rồi ai săn sóc em?” Và bỗng nhiên lời nói như từ trong tiềm thức: “Hay là để anh đi với em?”
Jackie khóc òa. Em ôm lấy tôi, gục mặt trên vai: “Em muốn anh đi với em lắm mà không dám mở lời. Chỉ sợ anh coi em chẳng ra gì.”
Nước mắt Jackie thấm qua làn áo mỏng. Tôi vuốt tóc Jackie, ngậm ngùi: “It’s all right, it’s all right…” Tôi không biết là tôi nói với Jackie hay là nói với chính mình.
Jackie hôn nhẹ lên môi tôi: “Để em lo vé máy bay cho anh rồi chúng mình đi ăn sáng với nhau. Em chưa ăn gì từ trưa hôm qua. Chiều mình ra phi-trường.”
Tôi tìm ly nước uống để cố giữ cho lòng bình thản. Jackie bây giờ khác hẳn, em dịu dàng và trìu mến, không còn ngổ ngáo, bất cần đời như khi tôi mới gặp em trên phi cơ. Tiếng Jackie trong veo: “Thu ơi, Jackie đây. Em lấy cho chị một chỗ trên chuyến bay ra Hà Nội chiều nay… đúng rồi, cùng một chuyến em đã dành chỗ cho chị… tên hả, Trần Quang Duy… đừng dùng account của company, charge vào account riêng của chị… không, không cần phòng khách sạn, anh ấy sẽ ở với người thân.”
Jackie bỏ điện thọai, vòng tay ôm lấy tôi. Tôi hôn nhẹ bờ môi Jackie, thì thầm: “Bây giờ mình ra phố nhé?” Tiếng Jackie còn nhỏ hơn: “Yes, dear.”
o O o
Hà-Nội bây giờ mới là mùa xuân. Trời không còn lạnh lắm và cơn gió từ Hồ Tây chỉ như vuốt ve da thịt người. Phòng ăn của khách-sạn Sheraton ở trên cao, từ đó chúng tôi có thể nhìn thấy những ngọn đèn mờ ảo của những con thuyền nhỏ trên hồ. Cảnh đẹp như một bức tranh nhưng Jackie không nhìn ra ngoài, em cũng không ăn, dù tôi nhắc nhở em nhiều lần mà chỉ nhìn tôi rồi lại cúi xuống mỉm cười vu-vơ.
Tôi hỏi Jackie: “Bộ anh trông lạ lùng lắm sao?”
Jackie lắc đầu: “Tóc anh có nhiều sợi bạc lắm rồi. Tối nay em nhổ tóc sâu cho anh.”
Tôi cười: “Không phải tóc sâu đâu. Mà em có nhổ cả đời cũng không hết.”
Bàn tay Jackie run lên, tiếng em trầm xuống không còn rõ ràng: “Vâng, cả đời. Ước gì cả đời!”
Tôi chợt hiểu, và lòng tôi xót xa. Tôi muốn ôm lấy Jackie mà dỗ dành, muốn hôn lên đôi mắt u-buồn đó, nhưng chỉ ngồi bất động nhìn em tha thiết. Chúng tôi rất gần mà như cũng rất xa. Tình cảm này rồi sẽ ra sao?, thoảng như gió Tây Hồ hay ấm nồng như ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi cuối phòng ăn? Tôi không biết, và cũng không muốn nghĩ xa hơn.
Tôi hỏi Jackie: “Chúng mình đi dạo một vòng nhé?”
Jackie lắc đầu: “Không, anh đưa em về phòng. Em muốn, em muốn…”
Jackie nghẹn lời. Tôi đứng lên, kéo ghế cho Jackie, và em lả người trong tay tôi. Tôi dìu Jackie, vừa đi vừa hôn nhẹ lên mái tóc em. Tôi cũng nghẹn lời. Và dù có nói gì cũng bằng thừa.
Ánh đèn trong căn phòng khách sạn sang trọng mờ ảo, đủ để thấy Jackie đẹp như gái liêu-trai. Jackie bắt tôi ngồi xuống ghế và em quỳ xuống cởi giầy cho tôi. “Cho em giúp anh một lần, dù chỉ một lần.”
Hình như Jackie khóc. Tôi cũng thấy xót xa bồi hồi. Jackie hôn tôi: “Anh lên giường trước đi. Chờ em tắm chút nhé!”
Khi Jackie bước ra khỏi phòng tắm, em hoàn toàn không có mảnh vải che thân. Jackie chui vào chăn ôm chặt lấy tôi, gục đầu vào cổ tôi mà hít những hơi dài. Tôi vuốt ve bờ vai em: “Jackie, anh thấy mình như trẻ lại. Cám ơn em.”
Jackie thì thào: “Em yêu anh.”
Tôi gục mặt xuống vùng núi đồi. Hơi thở Jackie nặng nề hơn, và trong cơn mê đắm chúng tôi gọi tên nhau nhiều lần.
Khi hơi thở đã trở lại bình thường, Jackie nằm nghiêng, gối đầu trên cánh tay, vân vê vành tai tôi: “Anh.”
“Yes?”
“Tên em là Thùy Trâm. Nguyễn Vũ Thùy Trâm. Từ nay đừng gọi em là Jackie nữa. Tên đó là để cho mọi người. Thùy Trâm là của riêng anh. Nhớ chưa?”
Tôi hôn Jackie: “Nhớ rồi. Thùy Trâm, tên đẹp quá. Cám ơn em.”, và tôi hát nho nhỏ: “Ngủ đi giấc mộng bình thường… Anh ru Trâm ngủ nhé!”
Tôi nghe tiếng Jackie mơ hồ: “Cám ơn anh, cám ơn anh nhiều lắm”, và chỉ trong giây phút tôi chìm vào giấc mơ.
Khi tôi thức dậy, Jackie không còn trên giường. Dấu vết tình yêu hãy còn phảng phất đâu đây. Chắc là Jackie ở trong phòng tắm. Nhưng tôi chợt thấy chiếc hộp quẹt gas của Jackie dằn trên mấy tờ giấy viết tay trên bàn ngủ. Bỗng dưng tôi hồi hộp, linh cảm như là có việc gì trọng đại đã xảy ra. Giờ này chưa có cơ quan nào mở cửa. Jackie đâu rồi?
Anh yêu dấu,
Khi anh đọc thư này thì Trâm đã trên đường ra khỏi V.N. Xin anh tha lỗi cho em. Trâm không thể nào đánh thức anh dậy để nói lời giã từ, vì em biết như thế em sẽ không còn cam đảm xa anh. Anh biết là Trâm yêu anh đến như thế nào rồi. Dù chỉ biết nhau vài ngày mà em thấy đã như từ tiền kiếp. Trâm yêu anh vì ánh mắt nụ cười, vì những lời anh nói khiến em vui, nhưng nhất là vì tấm lòng bao dung và nhân hậu của anh.
Anh nhớ không, khi chúng mình ngồi chờ máy bay ở phi trường Đài Bắc, em đã muốn khóc khi nghe anh dỗ dành “Nếu em đau rồi ai săn sóc em?” Ước gì ngày xưa Lâm cũng nói được với em như vậy thay vì dằn vặt em mỗi lần em chuẩn bị đi xa. Vâng, chỉ một lời nói chí tình như vậy thôi là em đã bỏ hết ‘sự nghiệp’, để có một gia đình yên ấm như anh với chị Trinh. Nhưng thôi, với Lâm thì đã trễ, và với anh thì đã quá muộn màng.
Em nhìn anh ngủ và lặng lẽ khóc suốt đêm qua. Em biết anh thương xót em, và biết đâu nếu có cơ hội, chúng mình sẽ chẳng có với nhau một mối tình. Trong cơn ngủ say em nghe anh gọi tên chị, như đang vỗ về. Dù đã biết là em không thể nào có anh cho riêng mình mà sao em vẫn thấy xót xa.
Thực ra thì em đã quyết định xa anh từ lúc chúng mình trên đường ra Hà Nội. Em chỉ muốn sống với anh một đêm, trả anh một chút ân tình, chăm sóc anh, yêu chiều anh một lần, một lần không bao giờ quên. Uớc gì Trâm còn trong trắng để mà dùng chữ ‘hiến-dâng’. Em không mong mỏi gì cả, nhưng anh biết không, chỉ vì anh quá ân cần, chỉ vì lúc nào anh cũng chỉ biết lo cho người khác mà thân xác em đã có phút giây xúc động đến bàng hoàng. Chưa bao giờ em sung sướng như đêm qua.
Anh ơi, Trâm long đong ‘dăm ba cuộc tình’, nhưng ngoài Lâm ra em không yêu ai, cho đến lúc này. Khi chia tay với Lâm em chỉ thấy buồn phiền, chia tay với anh em đau đớn vô vàn. Em biết là em không thể nào sống gần anh. Hôm qua ở Sài-Gòn, khi anh ở trong phòng tắm chuẩn bị cho chuyến bay ra Hà-Nội, em đã lục tìm trong ví anh, mong có được một tấm hình để nhớ thương. Anh tha lỗi cho em. Em đã vô tình đọc được mấy dòng chị Trinh viết cho anh dặn dò ‘Anh nhớ uống thuốc cao máu hàng ngày, ống thuốc mầu vàng trong túi nhỏ bên trái suitcase. Nhớ ăn uống cẩn thận. Nhỡ nổi ngứa rồi ở xa thế làm sao em xoa lưng cho anh?’ Trâm cũng thấy hình anh và Jimmy khi còn nhỏ. Jimmy ngồi trên lòng anh, cố dành ống pipe của anh, trong lúc anh giơ cao lon bia, cười bằng mắt. Gia đình anh êm ấm như thế, làm sao Trâm có chỗ chen chân, mà Trâm làm thế sao đành.
Anh nói ‘Một ngày nào, vâng biết đâu một ngày nào…’ Trâm biết là anh muốn an ủi em. ‘Dăm ba cuộc tình’, rồi biết đâu chẳng có một ngày nào. Ngày nào đó đã đến rồi anh, vừa êm đềm, vừa xót xa. Nếu anh thương em, xin anh đừng đi xa nữa. Nơi xa không phải là chỗ cho anh. Lòng anh bao la như thế, trước sau gì rồi anh cũng sẽ lại ‘đong đưa cuộc tình’. Chữ nghĩa của anh đó, không phải Trâm ghen đâu. Em yêu anh, và dù em chưa gặp, nhưng em cũng thương chị Trinh như em thương mình.
Thôi Trâm đi đây. Em trở về Cali nhưng không về lại KPMG. Em sẽ giã từ nếp sống này, sẽ tìm một nơi yên tĩnh, giữ cho em một mảnh đời. Em sẽ không hút thuốc nữa đâu, và dù biết anh cũng đã bỏ hút thuốc lâu ngày, em vẫn để lại cho anh chiếc hộp quẹt gas, một chút kỷ niệm để anh lâu lâu nhớ tới em, thoảng như gió Tây Hồ vuốt ve chúng mình đêm qua. Anh cũng đừng uống bia nhiều nữa, trời ơi em viết thế nào đây, ‘anh say rồi ai chăm sóc anh?’ Trâm bắt chước những gì anh nói rồi đó. Em nhớ anh. Em lại khóc nữa đây này.
Yêu anh và hôn anh, my dear, my love.
Thùy-Trâm.
Những trang giấy có nhiều chỗ nhạt nhòa, chữ viết xiêu vẹo, không rõ nét. Có lẽ Trâm vừa viết vừa khóc. “Khổ thân em tôi.” Mắt tôi mờ đi. “Làm thế nào bây giờ?”
Tôi đọc lại lá thư thêm một lần, ngồi bất động nhìn ra ngoài cửa sổ. Bầu trời trong và xanh. Một chiếc phi cơ bay ngang trên cao. Tôi nghĩ thầm, biết đâu chẳng có Trâm trên đó. Có bờ vai nào cho Trâm nương tựa không hay là em co mình trên ghế, khóc thầm cho số phận mình? Bỗng dưng tôi quyết định là phải đi tìm Trâm. Tôi không biết tìm Trâm để làm gì, nhưng ăn thua gì, mấy ngày nay tôi có suy nghĩ gì đâu.
Làm thủ tục check-out một cách vội vàng, tôi gọi taxi ra phi trường Nội Bài dù biết rằng còn lâu mới tới giờ chuyến bay của tôi trở về Sài-Gòn. Phi trường thưa thớt người, tôi đi loanh quanh tìm Trâm. Trâm không còn đó. Trâm đã đi thật rồi. Tôi tìm một chỗ khuất, lấy lá thư đã nhầu nát đọc thêm lần nữa. Trâm đã đi thật rồi. Nước mắt tôi rưng rưng. Hà-Nội, buồn ơi chào mi! Năm ngoái tôi về, nhớ kỷ niệm thời thơ-ấu, buồn đến nghẹn ngào. Năm nay tôi trở lại, mang chút đam mê để rồi buồn đến xót xa. Tôi nghĩ thầm có lẽ là không bao giờ tôi trở lại nơi này. Hà-Nội ơi, giã từ!
Thùy Trâm ơi, vĩnh biệt! Một thời đã qua!
Tiên bay về trời – Nguyễn Đông Thức (1951- )
Nguyễn chạy xe vào trụ sở hội khi đã gần trưa. Lúc anh dựng xe trước can-tin định bước vào tìm độ bida thì Vũ ngồi uống cà phê gần đó vội lên tiếng:
– Có bà khách vào tìm ông nãy giờ, đang ngồi trong văn phòng kia.
Nguyễn nhìn qua khoảng sân. Khách ngồi quay mặt ra ngoài, là người hoàn toàn xa lạ. Một phụ nữ khoảng trên 40 tuổi, ăn mặc rất thanh lịch. Có thể bà là gương mặt mới trong giới làm băng nhạc, đang muốn thực hiện một chương trình nào đó, hoặc một “nhà thơ đột xuất” đã ngoại tứ tuần mới sáng tác và có tham vọng được phổ nhạc các bài thơ của mình? Hay bà là người mà đến nửa đời mới nhận ra mình có năng khiếu âm nhạc giờ muốn làm quen với các nhạc sĩ để nhờ hướng dẫn thêm? Thời buổi này chuyện gì cũng có thể xảy ra.
Nguyễn bốn mươi tư cộng thêm cuộc đời nhiều thăng trầm đã khiến anh hầu như không còn ngạc nhiên trước bất cứ điều gì. Bạn bè thường khen về thái độ luôn ung dung tự tại của Nguyễn.
Còn Mai thì ngược lại, lúc chia tay đã một lần cuối khuyên Nguyễn nên thay đổi cái tính khí dửng dưng, nguội lạnh mà Mai gọi là “một thứ siêu ích kỷ” ấy. Sống mà không còn biết xúc động thì có gì thú nữa? Yêu ghét rõ ràng, luôn quan tâm đến mọi người chung quanh và mọi sự kiện đang xảy ra, cuối cùng Mai đã đầu hàng trước tính phớt đời của Nguyễn.
Về phía Nguyễn, không rõ nguyên nhân nhưng từ lâu anh đã thấy có hay không có mình thì cuộc sống vẫn vậy. Mình “chẳng là cây đinh gỉ”, thì sống bon chen và quan tâm đến quá nhiều thứ để làm gì, nhất là khi đã theo nghiệp sáng tác này?
Nguyễn đi qua văn phòng. Người khách ngồi chờ đầy vẻ bồn chồn, hai bàn tay đan vào nhau còn gương mặt thì đầy vẻ mệt mỏi và buồn bã, với đôi mắt quầng thâm. Thấy Nguyễn bước vào, bà đứng dậy chào.
Nguyễn vội nói:
– Xin chị cứ ngồi.
Người phụ nữ ngập ngừng:
– Xin lỗi… Anh là nhạc sĩ Nguyễn?
– Vâng.
– Gia đình tôi xin anh giúp cho một việc…
Khách chợt nghẹn lời, mắt rớm lệ. Nguyễn nhắc bà:
– Xin chị cứ nói.
– Vâng, thưa anh… Cháu Tiên…
Câu chuyện sau đó đã làm Nguyễn phải lặng người. Tiên, một cô gái 16 tuổi, con út của bà Tâm – tên người khách, bất ngờ bị suy thận cấp. Bệnh đã phát từ trước Tết với dấu hiệu phù mà ban đầu cả nhà cứ ngỡ Tiên bệnh trở nặng qua giai đoạn vô niệu, thì một bác sĩ ở đấy lại chẩn đoán và điều trị sai, làm cho nó càng trầm trọng hơn. Tiên được đưa về thành phố nhập viện khi ống thận đã bị hoại tử, phải chạy thận nhân tạo, nhưng theo các bác sĩ thì không thể qua khỏi vì đã bị biến chứng nhiễm trùng máu, chỉ có thể cầm cự vài ngày nữa. Ba lẫn mẹ đều sẵn sàng cho Tiên mỗi người một quả thận của mình, nhưng ở Việt Nam chưa làm được việc ghép thận này. Ba Tiên đang đăng báo bán nhà, bán xe và vận động đưa Tiên ra nước ngoài chữa trị, dù các bác sĩ đều nói sẽ không kịp…
Gia đình cố giấu, nhưng dường như Tiên vẫn biết. Cô bé buồn rũ người, nằm chết cứng suốt một ngày trời. Rồi thấy bà mẹ cứ khóc mãi. Tiên cố gượng dậy, trò chuyện tươi tỉnh với cả nhà, xin được đọc báo Mực tím, nghe nhạc Michael Learns To Rock, xem lại những tập phim Tom và Jerry từng làm cô bé mê mẩn hồi nhỏ. Tiên vốn rất yêu văn nghệ, hát hay, đàn giỏi, lại thích văn chương.
Ông bà Tâm khẩn khoản Tiên muốn gì cứ nói, ông bà cũng chịu. Thế rồi Tiên chợt nói muốn được gặp các thần tượng của mình, và trong danh sách ấy, có tên Nguyễn. Đã có nhà văn Đoàn, cặp ca sĩ Ngọc-Phương, nhà thơ Bùi, diễn viên kịch nói Thành và diễn viên điện ảnh Ngọc, trong hai ngày qua đến với Tiên.
Bà Tâm áy náy nói là bà biết các văn nghệ sĩ nổi tiếng thường rất bận, nhưng bà không thể từ chối các yêu cầu cuối cùng của con. Bà rất mang ơn nếu Nguyễn đến được với Tiên dù chỉ năm, mười phút. Nhưng nếu không được thì cũng chẳng sao.
Làm sao Nguyễn có thể nói không? Anh hỏi số phòng của Tiên và hẹn chiều hôm ấy sẽ đến.
Thật tình thì Nguyễn rất ngại mỗi khi phải đi thăm bệnh hoặc phân ưu. Không khí bệnh viện và tang lễ bao giờ cũng gây trong Nguyễn một cảm giác rõ rệt về sự quá phù du của kiếp người. Vẫn biết sinh-lão-bệnh-tử là vòng quay không ai có thể cản, nhưng Nguyễn cứ thấy có một cái gì đó thật vô lý khi con người được sinh ra, vất vả học hành rồi quần quật làm việc, để lại chết đi…
Mới tuần trước, ở đám tang nhạc sĩ Minh ra, Nguyễn chợt ngạc nhiên khi thấy đường phố vẫn rộn rịp hối hả, trời vẫn xanh và nắng vẫn vàng, mọi thứ vẫn như thế, dường như đời không hề biết gì về một mất mát đau lòng vừa xảy ra. Dừng xe ở ngã tư, Nguyễn nhìn chung quanh, bỗng có ý nghĩ rằng tất cả những gương mặt vô cảm mình đang thấy đấy, cũng như tất cả những gương mặt mình đã biết, thân quen hoặc xa lạ, đều sẽ lần lượt biến mất trên mặt đất này, không chừa một ai. Biến mất, với bao nhiêu sự nghiệp dở dang, mộng ước không thành. Biến mất, sau cả một đời mà cộng lại hết những lúc sung sướng chưa chắc đã được vài ngày. Sao mọi người không nghĩ đến điều đó để bớt đối xử nghiệt ngã với nhau hơn? Để giúp nhau làm nhẹ hơn được phần nào cái gánh đời nặng chịch đang phải gánh trần thân?
Hôm Minh ở bệnh viện, Nguyễn vào thăm, thấy tình thế đã tuyệt vọng. Trong đôi mắt Minh, Nguyễn đọc được đầy nỗi uất ức vì phải chết. Minh còn biết bao dự định để làm, vậy mà… Nhưng dầu sao Minh vẫn đã vào tuổi “tri thiên mệnh”, công thành danh toại, nhà cửa, vợ con đầy đủ, gian khổ và vinh quang đều nếm trải. Còn với cô bé 16 tuổi đang đầy sức sống lại bị đứt ngang này, cảm giác về cái chết sắp đến hẳn phải rất khủng khiếp.
Thế nhưng khi vào thăm Tiên chiều hôm ấy, Nguyễn đã không hề nhìn thấy một nét tuyệt vọng nào trên gương mặt cô bé.
Tiên nhận ra Nguyễn ngay, “Cháu chào chú Nguyễn”, và đôi mắt sáng lên khi nhìn thấy bó lan tím trong tay anh.
Nguyễn đưa bó hoa cho Tiên:
– Chú chào Tiên. Sao cháu lại biết chú?
– Siêu sao như chú, ai mà không biết?
– Tiên còn biết gì về chú nữa nào?
Vừa hỏi Nguyễn vừa ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Tiên. Anh đau lòng nhận ra căn bệnh đang tàn phá cô bé như thế nào: khuôn mặt Tiên trương phù, chỉ còn đôi mắt là còn sức sống. Một đôi mắt chỉ cần nhìn vào là biết ngay chủ nhân rất thông minh. Bà Tâm đã cho Nguyễn biết từ bé đến giờ Tiên luôn là học sinh giỏi nhất nhì lớp. Nguyễn xót xa nghĩ chỉ còn vài ngày nữa là đôi mắt này sẽ mãi mãi nhắm lại. Mãi mãi.
Tiên nói:
– Cháu biết chú chuyên viết nhạc cho giới trẻ, nhưng nghề chính lại là làm báo, đúng không?
Nguyễn cười, gật đầu:
– Còn gì nữa?
– Chú còn độc thân, nếu đúng như những gì chú đã phát biểu.
– Phát biểu ở đâu nào?
– Trong một cuộc giao lưu với khán giả ở Câu lạc bộ Nhạc sĩ, chú nhớ chưa?
Thấy Nguyễn ngạc nhiên, Tiên hạ giọng, vẻ bí mật:
– Chú biết tại sao cháu nhớ không?
– Làm sao chú biết được!
– Tại vì người viết câu hỏi đó là dì út của cháu. Dì mới tốt nghiệp đại học, ái mộ chú lắm đó. Chú ráng ngồi lại với cháu chút nữa, dì út vô đây, cháu giới thiệu cho.
Bà Tâm đã cho Nguyễn biết mấy hôm nay, Tiên bỗng nói rất nhiều. Cô bé luôn cần có người ngồi bên cạnh để trò chuyện, và chỉ khi rất mệt mỏi mới thiếp ngủ. Nguyễn hiểu ngay nguyên nhân: Tiên đang ý thức mình không còn bao nhiêu thời gian. Cuộc gặp gỡ này, ngay từ những phút đầu, càng làm Nguyễn thấy thương Tiên hơn.
Tiên lại hỏi:
– Nhưng dì út thì cứ nói theo sách vở, rằng đừng bao giờ nên chơi với nghệ sĩ, vì sẽ thất vọng trước những mặt trái của họ. Có đúng không chú?
Câu hỏi như một viên đạn ném xuống mặt hồ ký ức đang yên tĩnh trong Nguyễn.
Những dòng chữ trong lá thư cuối cùng của Mai lại xuất hiện ra mồn một trước mắt anh:
Tất cả nghệ sĩ các anh đều như người cõi trên, ai cũng nghĩ mình chính là trung tâm của vũ trụ, nói gì làm gì cũng đúng, còn mọi người phải có nhiệm vụ chiều chuộng và cung phụng, có gì không vừa ý là lập tức tự ái, sĩ diện, đau khổ. Nếu các anh có quan tâm đến ai thì cũng chỉ là một kiểu cảm xúc tùy hứng, hoặc do chính mình đã được quan tâm trước. Em đã tự xét kỹ, em chỉ là người phàm, sống với anh thì sẽ vướng phải tình cảm như trong một câu danh ngôn: Hoặc là em tự phá hoại đời mình, hoặc là đi làm hỏng đời anh. Anh nên sống một mình với những hào quang và vòng nguyệt quế, cho đến khi gặp một bà điên nào đó chịu hy sinh. Còn em, xin được rút lui…
Đã sáu năm, vẫn chưa có một bà điên nào thay được chỗ của Mai. Mai từng nói Nguyễn ích kỷ đến mức không thể yêu ai hơn chính mình, còn Nguyễn chỉ thấy anh không thể yêu ai được ngoài Mai. Ai mà không yêu chính mình nhất? Mai bỏ Nguyễn lẽ nào không phải vì tự lo cho thân cô, rút lui khỏi cuộc phiêu lưu đầy bất trắc để chọn một bến bờ yên ổn hơn?
Nguyễn gượng nói với Tiên:
– Đúng đó. Nghệ sĩ, nghĩ cũng xệ mà… Cười gì? Chú nói đùa thôi, chứ nghệ sĩ thì cũng chỉ là con người, với đầy đủ tính tốt xấu. Tốt nhất là từ nay Tiên đừng nên thần tượng hóa ai hết…
Nguyễn khựng lại vì chợt nghĩ mình nói với Tiên những điều này thật vô ích. Tiên nhìn sững Nguyễn và chỉ trong tích tắc Nguyễn hiểu ngay Tiên đã biết anh vừa nghĩ gì. Thật nhẹ nhàng, Nguyễn đưa tay cầm lấy tay Tiên. Bàn tay của cô bé se sẽ run trong tay anh.
Mãi một lúc sau, Tiên mới nói:
– Có cái gì bất tử không chú?
Nguyễn ngẫm nghĩ rồi trả lời:
– Chú không biết. Hình như không có gì tồn tại mãi được với thời gian. Nhưng, như nhiều người vẫn nói, có thể đó là tình yêu.
– Nhưng tình yêu vẫn có thể thay đổi mà chú!
– Nếu có thể thay đổi thì đó không phải là tình yêu.
Nguyễn trả lời Tiên mà lại cứ nghĩ đến Mai. Có lúc Mai đã rất yêu anh và luôn than phiền anh không hề yêu Mai gì hết, nhưng nói… Giờ đây Mai đã có chồng con, trong khi Nguyễn vẫn không quên được cô. Vậy thì ai yêu hơn ai? Tại sao Mai cứ ương bướng muốn Nguyễn phải thay đổi theo Mai, trong khi Nguyễn không hề có yêu cầu ngược lại? Tình yêu là phải hòa tan vào nhau hay mỗi người vẫn có thể là chính mình?
Tiên vẫn bướng bỉnh:
– Thí dụ tình yêu không thay đổi đi, thì khi những người yêu nhau chết đi, tình yêu ấy cũng đâu còn?
Nguyễn định nói với Tiên là còn chứ, khi tình yêu ấy đã đơm hoa kết trái, những người yêu nhau chết đi thì con cái của họ sẽ chính là cuộc đời của họ được nối dài ra, và chúng sẽ lại tiếp tục yêu thương. Nhưng sợ điều đó lại làm Tiên buồn. Nguyễn quyết định chuyển đề tài:
– Nói như Tiên thì còn nói làm gì… Ờ, cho chú hỏi lại nghe! Bí mật. Tiên có bồ chưa?
– Cháu mới mười sáu mà!
– Nhưng bây giờ hình như ở tuổi cháu cũng có đứa có bồ rồi đó.
– … À, hồi đầu năm lớp 10 này, có đứa trong lớp viết thư đòi làm boy friend của cháu đó.
– Đứa nào vậy?
– Thằng Hoàng.
– Rồi Tiên trả lời sao?
– Cháu không thèm trả lời, đem thư trả lại cho nó, nói nó học dở ẹt còn bày đặt lộn xộn. Nó không chịu cầm. Cháu dọa sẽ dán thư của nó lên bảng, nó mới chịu.
Hai chú cháu nhìn nhau cười. Mặt Tiên hơi hồng lên một chút.
– Rồi hổm rầy Hoàng có tới thăm Tiên không?
– Dạ có.
– Nó nói gì?
– Tụi nó đi một đám. Thằng Hoàng không nói gì, chỉ đứng núp phía sau khóc. Đúng là đồ con trai thúi…
Hôm ấy, Nguyễn đã ngồi với Tiên đến tận tám giờ tối. Dường như anh và Tiên đã quen nhau từ lâu lắm, và trước mắt anh không hề là một cô bé đang biết mình sắp chết. Nguyễn hứa ngày mai sẽ lại vào, và quyết định trong lòng là sẽ dành hết thời gian cho Tiên, nếu cô bé muốn.
Những bó hoa được Nguyễn thay đổi mỗi ngày. Hồng bạch, huệ tây, cúc trắng. Nguyễn còn mang cả guitar vào để đàn hát cho Tiên nghe những bài mà cô bé thích. Anh đau đớn khi thấy mỗi ngày Tiên mỗi suy kiệt hơn.
Ngày thứ tư, cô bé chợt cầm tay anh, thì thầm:
– Cháu sợ chết quá…
Giọng Nguyễn khản đặc:
– Chú cũng vậy!
Rồi anh tìm cách giúp Tiên.
– Đó là điều mà không ai có thể tránh khỏi hết Tiên à! Nó như một cái bến cuối mà ai cũng phải tới. Mình tới sớm thì đỡ vất vả hơn thôi.
Tiên cười héo hắt:
– Chú nói không đúng. Sống vui hơn chứ…
Rồi lại hỏi:
– Có một thế giới khác sau khi mình chết không?
Lần đầu tiên Nguyễn trả lời Tiên không đúng với điều anh vẫn nghĩ:
– Có, Tiên ạ.
– Nó như thế nào chú?
– Nó rất đẹp. Và vĩnh viễn. Ở đó, cháu sẽ được gặp lại tất cả những người thân đã mất.
Mắt Tiên sáng lên:
– Vậy cháu sẽ được gặp lại bà ngoại. Bà ngoại thương cháu lắm!
– Rồi Tiên sẽ gặp lại chú nữa. Có quên chú không?
– Không… cháu sẽ không bao giờ quên chú đâu. Chú tốt với cháu quá…
Nguyễn quay mặt đi để gạt vội mấy giọt nước mắt vừa trào ra. Anh nghẹn ngào:
– Tiên ơi, cháu có ước muốn gì cứ nói, chú sẽ làm cho.
– Chú không làm được đâu.
– Tiên cứ nói đi.
Tiên suy nghĩ một chút rồi nói:
– Chú làm sao để từ nay đừng có bệnh nhân nào phải chết vì bị bác sĩ chẩn đoán sai nữa.
Nguyễn nín lặng trước yêu cầu ấy. Anh lại nhớ đến cái chết của Trí vào cuối năm 1978. Trí dẫm phải một quả mìn cỏ, nát hết một chân. Nếu trạm phẫu dã chiến có đủ thuốc thì Trí đã không bị chết vì hoại thư, chân cứ bị cưa dần lên. Cũng là dân thành phố, cùng nhập ngũ một ngày, lại về cùng đơn vị, Nguyễn đã ngồi bên cạnh cho đến lúc Trí trút hơi thở cuối cùng. Vẫn là ánh mắt tuyệt vọng như của Minh. Sau này Nguyễn mới biết người phụ trách trạm phẫu đã đem bán hết những loại thuốc quý được cấp. Anh ta bị lãnh án nặng, nhưng Trí, hai mươi tuổi, cao lớn, đẹp trai, gia đình cách mạng, sắp vào đại học thì tình nguyện đi bộ đội khi có chiến tranh biên giới Tây Nam, đã vĩnh viễn không trở về…
Tiên còn nhỏ quá và giờ đây có ích gì nếu Nguyễn nói với cô bé rằng sự dốt nát và thói tham lam vô trách nhiệm sẽ còn hành hạ con người dài dài?
– Cháu biết chú không làm được mà! Thôi, cho chú chuyện này dễ hơn. Chú sẽ làm một bài hát tặng cháu. Được không?
– Rồi, chú hứa.
– Thật hay à nha!
– Ừ, thật hay.
– Hay nhứt của chú từ trước tới giờ.
Tiên siết chặt tay Nguyễn:
– Cảm ơn chú.
Rồi cô bé lòn tay xuống dưới gối lấy ra một cái bao thư:
– Cháu còn nhờ chú việc này nữa.
– Việc gì?
– Tết vừa rồi cháu được lì xì nhiều lắm, chưa kịp xài. Chú tìm đứa bé nào nhà nghèo sắp bỏ học, cho cháu gởi tặng nó. Một đứa thôi, mà gia đình đàng hoàng, chịu khó, biết thương con, vậy mới có ích. Chú tìm được không?
– Chú sẽ tìm được.
Nguyễn đã nghe bà Tâm nói về những ý muốn cuối cùng khác của Tiên. Cô bé muốn ba mẹ đem hết quần áo, đồ dùng học tập của mình cho người nghèo, đồng bào bão lụt… nhưng lại yêu cầu hãy chôn cùng với cô tất cả những con búp bê và bọn thú nhồi bông mà mười sáu tuổi cô vẫn còn mê. Sau nhiều năm, chúng đã chiếm cả một tủ kính lớn trong phòng riêng của Tiên. Nguyễn còn thấy ngày nào bà Tâm cũng mang vào một con búp bê để thay ca ở bên Tiên.
Những con búp bê đẹp lộng lẫy…
Trong những cố gắng của Mai nhằm thay đổi con người của Nguyễn, cô từng đưa anh đến các cô nhi viện, với những món quà mà cô luôn chu đáo chuẩn bị sẵn. Nguyễn đã thấy ánh mắt của những đứa bé bất hạnh sáng rực lên như thế nào trước những con búp bê nhựa rẻ tiền được Mai trao cho.
Anh chợt buột miệng nói với Tiên:
– Những đứa trẻ ở cô nhi viện mà được có búp bê của Tiên thì chắc chắn chúng sẽ vui lắm…
Nói xong, Nguyễn hối hận ngay. Tại sao anh lại muốn tước đi niềm vui nhỏ nhoi cuối cùng mà Tiên hy vọng có được dưới nấm mồ lạnh lẽo? Anh còn muốn thử xem lòng tốt của cô bé bạc phận này đến mức nào hay sao?
Tiên nhìn sững Nguyễn. Cuối cùng, cô bé nói:
– Được rồi, cháu sẽ cho hết, chỉ đem theo một con búp bê mù thôi. Hồi còn nhỏ cháu đã móc mắt nó, bây giờ có cho cũng không ai thương nó đâu. Tội nghiệp nó. Chú giúp cháu đem cho hết đi, nói của chị Tiên cho đó. Chị Tiên chết rồi…
Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Nguyễn và Tiên.
Sáng hôm sau, Nguyễn vào thì Tiên đã gần như hôn mê. Nguyễn cùng gia đình đưa Tiên lên xe về nhà, mọi người đều nước mắt giàn giụa. Vì Tiên có dặn trước là hãy cho xe chạy ngang trường để Tiên nhìn nó lần cuối, nên ba của Tiên đã đỡ đầu cô bé dậy lúc xe sắp chạy đến. Lúc đó vừa tan trường. Tiên gắng gượng mở đôi mắt lờ đờ nhìn các cô học trò cùng lứa tuổi với mình đang ùa ra như một đàn bướm trắng, rồi lại thiếp ngay. Mẹ và dì của Tiên òa khóc, trong khi những người đàn ông cố cắn chặt răng.
Ba giờ chiều hôm đó, Tiên mất, hai tay ôm chặt con búp bê mù cũ mèm.
Không, Tiên không chết. Cô bé chỉ bay về trời sau cuộc dạo chơi ngắn ngủi xuống cõi trần, Nguyễn tin vậy. Nhưng không hiểu sao anh vẫn cứ để cho nước mắt mình mặc sức tuôn rơi…
Giang – Bảo Ninh (Hoàng Ấu Phương, 1952- )
Năm ấy tôi mười bảy tuổi, binh nhì, chiến sĩ của tiểu đoàn 5 tân binh.
Tiểu đoàn chúng tôi luyện quân ở Bãi Nai. Bấy giờ đã là vào cuối khoá huấn luyện ba tháng, kiểm tra xạ kích, đạt điểm cao nhất đại đội, tôi được thưởng hai ngày phép. Đại đội trưởng linh động cho tôi miễn bình tuần tối thứ Sáu. “Đã được lãi một tối càng phải liệu mà về cho kịp giờ điểm danh đấy nhá!” Anh dặn tôi thế, ra ý đe.
Chuyến về nhờ bám được xe quân sự chạy trên đường 6 nên phi cái vù đã tới nhà. Chuyến trở lại phải chen xe khách. Chín giờ tối chủ nhật mới điểm danh mà chỉ dám nấn ná cố cùng tới 12 giờ trưa là phải bứt khỏi nhà chạy nhào ra bến Kim Mã. Chen lên được một chuyến xe vào thời buổi gian khó ấy khổ sở đến thế nào, khỏi bàn. Thêm nữa lại ngày giáp Tết. Do may mắn và cũng là do ẩu tả ngồi lèn nhau trên nóc xe nên đến nhập nhoạng tối thì tôi nhảy được xuống thị trấn Lương Sơn. Đói mèm, rét run, lại lớ quớ trượt chân ngã, tuột tung quai dép và lấm be bét.
Trật trưỡng tôi dò tới cái giếng xây ở đầu trấn để rửa ráy qua loa tý chút và xâu lại dép. Chỉ có một người đang múc nước ở giếng. Trời mưa nhưng rất mỏng, như sương, và chưa tối hẳn nên từ khá xa tôi đã nhận ra một cái dáng con gái. Khi tôi tới bên giếng, hai thùng tôn của gánh nước đã được đổ đầy, cô gái cuộn dây gầu, tra đòn gánh vào hai móc xích, và trước khi lên gánh, cô đội lại chiếc nón mà lúc cúi múc nước cô đã bỏ ra để ngửa bên thành giếng. Với con mắt lính 17 tuổi nhanh như chớp, tôi lườm ngay thấy tên cô nàng viết bằng mực tím ở trong vành nón, cả tên, cả họ, cả đệm, và cả lớp học của cô nữa. Phạm Nhật Giang. 10 B.
Không để ý đến tôi, cô đặt gánh lên vai. Tôi nói, vội vã, nhưng thản nhiên, như thật:
– Kìa, Giang. Cho anh mượn cái gầu đã nào.
Cô gái hạ gánh, nhìn tôi.
– Chào anh, anh bộ đội… – Cô nói, ngập ngừng, nhưng có lẽ chưa kịp ngạc nhiên – Gầu đây anh.
Tôi xòe hai bàn tay bê bết bùn ra.
– Ôi anh bị lấm hết rồi. − Cô gái khẽ thốt lên – Thôi, để em.
– Ừ. Nhờ Giang vậy, chứ không thì bẩn hết cả dây.
Cô gái múc lên một gầu, hai gầu, xối từ từ cho tôi rửa kỹ hai bàn tay.
Khi tôi định đón lấy chiếc gầu, cô bảo:
– Cái gầu này khó múc lắm. Để em giúp anh.
Cô lại thòng nhanh sợi chão xuống bóng tối sâu hút bên dưới rồi thoăn thoắt, mềm mại, kéo gầu nước lên. Nhưng sự ân cần của cô còn hơn thế. Mỗi gầu nước múc lên, cô không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống, một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở bàn chân, ngón chân, bắp chân tôi. Ngây ra, tôi đứng yên, sững lặng cảm nhận cái ân tình hồn nhiên và bất ngờ ấy. Rất lâu, hai đứa chẳng nói gì, cô gái lặng lẽ gột rửa cho tôi, tôi thì bất động. Cô cọ kỹ cho tôi cả đôi dép đúc.
– Tươm rồi đấy, anh – Cô gái nói trong bóng tối.
– Cám ơn nhé, Nhật Giang!
Cô gái trở lại với nỗi ngạc nhiên:
– Ô kìa! Ừ nhỉ, sao anh biết tên em?
Tôi cười, không đáp.
– À, em biết rồi. Anh tọa độ chứ gì mà! Các anh bộ đội chuyên thế. Cứ gọi: Lan, Hằng, Liên, Oanh thế nào cũng trúng, chứ gì?
– Nhưng Giang, lại Nhật Giang nữa, chắc không có hai người tên như thế đâu, đoán mò sao được?
– Chắc anh đóng ở gần đây?
– Chả gần lắm, tận xóm Đượm.
– Bao xa anh?
– Giang không phải người đây à?
– Vâng, em mới Hà Nội lên – Giang đáp, và chợt cô rủ tôi:
– Nhà em đang trọ ở ngay kia, anh vào nghỉ một lát.
Tôi do dự:
– Chín giờ, đơn vị điểm danh rồi… mà còn non chục cây.
– Còn sớm, mới sáu giờ kém mà, anh.
Tôi muốn hộ Giang gánh nước, nhưng cô không chịu. Tôi theo sau cô vào sâu một cái ngõ tối. Một mình Giang một túp nhà nhỏ, mái gianh vách đất. Không có đồ đạc gì. Một chiếc giường đơn, một ngọn đèn hoa kỳ trên chiếc chõng tre, bộ ấm tích, điếu bát. Một chiếc xe đạp Phượng Hoàng dựng ở gần cửa.
Tôi mở túi phòng hóa đeo bên hông lấy gói bít cốt mẹ dúi cho hồi trưa, và rót chè tươi trong ấm tích ra bát. Bít cốt chiêu với chè tươi, định thế. Thấy vậy đang lúi húi xâu lại quai dép cho tôi, Giang vội kêu lên:
– Ôi em quên. Có cơm mà, để em dọn mời anh.
Tôi gạt đi, nhưng Giang nài tôi chịu khó chờ cô xuống bếp hâm lại cơm canh mà ăn uống cho chắc dạ và nóng sốt.
Trong lúc chờ Giang, tôi ngả phứa ra giường cô, châm thuốc hút và lim dim mắt, thả khói. Chợt cửa ra vào mở. Một người đàn ông cao lớn bước mạnh vào. Tôi giật bắn mình, bật chồm dậy. Ông nọ vận đại cán vải dạ xanh sẫm, giầy da Cô-xư-ghin, quân hàm ve áo hai sao hai vạch.
– Cậu là ai? Đâu chui vào đây? – Nghiêm sắc mặt, ông trung tá hỏi, chằm chằm nhìn.
Tôi dập gót:
– Báo cáo, tôi…
Vừa khi đó Giang bưng mâm cơm đi từ sân sau vào.
– Bố về rồi đấy ạ? – Cô vội vã nói – Bố ơi, đây là Hùng, bạn học lớp 10 với con. Anh ấy đóng quân gần đây. Chúng con tình cờ gặp nhau vừa nãy.
Ông trung tá dịu nét mặt, nhưng giọng vẫn nghiêm:
– Đóng gần đây à? Đồng chí đơn vị nào?
– Báo cáo thủ trưởng, tôi ở C7 K5 đoàn 91.
– Thế đồng chí đi đâu, sao giờ này còn tụt tạt ngoài đây?
– Báo cáo thủ trưởng, tôi về phép lên. Đơn vị chín giờ mới điểm danh.
– Thế đồng chí định để đúng điểm danh mới có mặt à? Phải về đơn vị sớm hơn chứ!
– Kìa bố! – Giang kêu lên – Bố để cho anh ấy ăn cơm đã. Bố cũng ăn luôn với bọn con đi.
– Không đâu, tớ không ăn đâu! – Tôi hoảng lên – Tớ phải chào đây, Giang!
Ông bố Giang mỉm cười, vỗ nhẹ vai tôi, bảo:
– Từ đây về xóm Đượm sáu cây, còn kịp. Cậu ăn cơm đi, ngồi chơi với Giang. Bạn học lâu ngày gặp nhau. Nhưng rồi phải ráo chân lên. Vẫn phải về kịp trước điểm danh, rõ chưa?
– Thì bố xin hộ cho anh ấy, bố! – Giang nói, nũng nịu – Bố gọi cho cấp chỉ huy của anh ấy. Chúng con học cùng từng ấy năm, gặp nhau chuyện tới khuya chẳng hết.
– Không được, – ông bố cười, lắc đầu – Bạn hữu gặp gỡ thế này là quí, nhưng con không có được nhũng nhẵng con cà con kê giữ bạn lại quá lâu. Đừng có để bạn phạm kỷ luật.
Ông nhìn đồng hồ.
– Sáu rưỡi rồi, – ông nói – Hai đứa khẩn trương cơm nước đi. Tối nay bố không ăn với con được. Bố phải qua đơn vị. Phải họp khuya đấy. Con một mình ở nhà cửa giả cho cẩn thận.
Ông bước tới bên cửa, cầm lấy ghi đông chiếc xe đạp, và nhìn tôi, ông nói:
– Hùng ngồi chơi nhá! Nhưng nhớ giờ giấc đấy.
– Kìa bố, bố lấy xe đạp à? – Giang kêu lên – Con định đưa anh ấy về đơn vị cơ mà, bố! Bố chịu khó đi bộ, bố nhá? Chỗ bố gần ngay đây mà!
– Không! Đừng mà… – Tôi hãi quá – Giang đừng vậy…
Ông trung tá cười, bảo:
– Con gái con đứa thế đấy! Chiều bạn hơn bố! Nhưng bố nhất trí, bố để xe cho hai đứa. Chứ mà cuốc bộ thì con làm Hùng chậm giờ mất. Có điều đường đồi ban đêm hai đứa lai nhau cho cẩn thận, đừng có phóng nhanh kẻo ngã. Đưa Hùng tới đơn vị rồi lúc quay về một mình con cứ đạp từ từ, nhìn đường. Nhưng cũng gắng đừng có thong dong quá đấy. Trời lạnh thế này. Với lại con về khuya, bố không yên tâm đâu.
Tối ấy, tôi lai Giang vào sâu trong Bãi Nai. Đồng rừng tối câm, lạnh lẽo. Con đường đồi quạnh vắng, không ngừng uốn lượn và gấp khúc. Gió bấc lúc thuận lúc ngược, nhưng mà tôi không thấy mệt, tôi đạp mải miết. Tôi chưa khi nào đèo con gái. Cả hồi năm ngoái học lớp 10, được bố mẹ ưu tiên sắm riêng cho hẳn một cái Mi-pha tha hồ tung hoành phá phách, tôi cũng chỉ đạp xe rong phố với những thằng bạn. Chưa từng bao giờ có một nữ nhi ngồi sau xe tôi, áp mình tin cậy vào tôi như thế này. Đây là lần đầu. Chiếc Phượng Hoàng nặng chịch mà chẳng nặng một chút nào. Tôi guồng cẳng đạp, bám theo vệt trắng mập mờ của con đường, lên dốc, xuống dốc, quành rẽ, lạng tránh, lao rất nhanh và phanh giật cục. Giang ngồi vững và thật êm sau tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi mới nói chuyện, mà chỉ Giang nói. Giang là học trò Trưng Vương, vừa tốt nghiệp lớp 10 trong năm, hiện giờ đã là sinh viên của trường Tổng hợp. Nhà cô trong ngõ Chợ phố Khâm Thiên. Túp nhà ban nãy là bố cô mượn của một người quen ở thị trấn để đón cô lên ăn Tết cùng ông. Mẹ cô mất năm ngoái, anh trai thì mới vừa đi Bê tháng trước.
– Tết ra chơi với bố con em, anh nhé! Nhà chỉ hai bố con mà cái thị trấn khỉ ho cò gáy này thì buồn ơi là buồn. Em sẽ nói khó để bố vào hẳn đơn vị đón anh. Rồi chúng mình xin phép bố lỉnh về Hà thành vài hôm. Bố em chiều em lắm, sẽ đồng ý thôi. Mà bố đã thuận thì nhất định thủ trưởng đơn vị anh cũng nhất trí.
Chúng tôi chia tay ở chân đồi Gừng, đầu con đường mòn dẫn vào xóm Đượm nơi đơn vị tôi trú quân.
– Hay là Tết em trốn vào đây với anh?
Giang hỏi, và không hiểu sao lại thở dài.
Tôi cứ đứng mãi ở ven đồi. Mặc dù không thể nhìn thấy gì trong màn đen dày đặc đêm cuối năm, tôi vẫn cứ nhìn mãi theo Giang. Chia tay, tôi đã không nói được một điều gì cả, đã không kịp ngỏ một lời nào. Cả địa chỉ của Giang nữa cũng không hỏi rõ. Chỉ biết Khâm Thiên, ngõ Chợ.
Hai hôm sau, tối ngày 27 Tết, tiểu đoàn tôi nhổ neo rời Bãi Nai. Hành quân qua Thường Tín, lên tàu ngay, không có 15 ngày phép thông lệ của lính Bê dài. Đây là một đợt tăng cường rất lớn cho chiến trường. Cả một Sư cùng lúc lên đường, gấp gáp tiến quân, vượt ngàn dặm Trường Sơn vào Nam. Vừa đặt chân lên đất Tây Nguyên đã vào ngay chiến dịch. Các đơn vị của Sư đoàn phiên hiệu khác đi nhưng vẫn giữ nguyên đội hình từ ngoài Bắc. Tiểu đoàn của tôi đánh trận mở màn, và đại đội của tôi là mũi chủ công.
Trước giờ nổ súng, đích thân tham mưu trưởng sư xuống kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của chúng tôi. Mặc dù ông xuống “kiềng” cùng với một nhóm khá đông trợ lý và trinh sát, mặc dù ông cũng trang bị và nai nịt như mọi người, tiểu liên AK, dép đúc, mũ cối, áo lính tô châu, nhưng trong bóng rừng nhập nhoạng tôi vẫn nhận ra ông ngay. Ông chính là “ông bô” của Giang!
Tôi toan lỉnh, song ông trông thấy tôi tức thì. “Kìa, Hùng, Hùng đấy hả Hùng?” Giọng ông ngạc nhiên, mừng vui. Ông thân thiết xiết chặt tay tôi và không nén được, ông cảm động ôm lấy tôi. “Giang nó cứ nhắc cậu mãi, Hùng ạ. Nó cứ buồn vì không gặp lại được cậu trước khi chúng ta lên đường.” Ông bảo: “Giờ đây Giang nó ở lại ngoài đó có một mình.”
Gặp gỡ trước giờ nổ súng tất nhiên là chỉ thoáng nhanh, chỉ kịp nói mấy câu thế thôi. Tôi thì không nói được gì cả. Tôi chỉ ấp úng. Cả cái tên Hùng do con gái ông phịa vội ra, tôi cũng không thể cải chính.
Thời khắc gấp gáp không thể nấn ná, nhưng trước lúc đi, tham mưu trưởng sực nhớ một điều và vội vội ông nói với tôi: “Giang nó có gởi cháu tấm ảnh của nó, nhưng tiếc quá, lại không mang theo đây. Để bữa sau vậy, Hùng nhé!…”
Không có “bữa sau” ấy. Tôi không còn có dịp được gặp lại tham mưu trưởng. Cả tới mùa khô sau, được điều lên trinh sát sư đoàn, tôi vẫn không thể nào gặp lại được ông. Tham mưu trưởng của chúng tôi đã hy sinh vào cuối mùa khô năm đầu tiên sư đoàn chúng tôi lâm trận.
o O o
Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Thoảng nhanh nhưng không tắt lịm. Chỉ thế thôi nhưng để rồi sau này cứ nhớ mãi. Trở thành nỗi đau. Những nỗi đau mất mát âm thầm.
Chắc là bây giờ Nhật Giang vẫn còn nhớ đến tôi, người lính trẻ vô danh hơn ba chục năm về trước. Tôi thì không bao giờ quên cô ấy, mặc dù thực ra là có gì đâu một tình cờ như thế, một gặp gỡ vẩn vơ, lưu luyến mơ hồ gần như không có thật mà năm tháng cuộc đời cứ mãi chồng chất lên muốn xóa nhòa.
Hoa oải hương – Phạm Thị Ngọc Liên (1952- )
Còn mười tám ngày nữa là đám cưới của anh.
Thế rồi, bỗng nhiên anh gặp lại cô. Đã ba năm kể từ ngày anh tiễn cô ra sân bay, lòng mênh mang buồn giùm một mối tình tan vỡ. Hôm ấy, cô ra đi, mắt sưng đỏ và không nói một lời nào. Anh tưởng sẽ chẳng bao giờ còn gặp được cô.
Đã ba năm. Một người bạn gọi điện thoại cho anh trước buổi trưa, nói vắn tắt về sự có mặt của cô và cho anh địa chỉ. Mười lăm phút sau, anh đã đứng trước căn phòng khách sạn nơi cô ở. Cô đi đâu vắng, dòng phấn viết trên cánh cửa ghi vắn tắt – Tám giờ về.
Tám giờ ba mươi, anh trở lại. Cửa phòng cô mở rộng, vài tiếng cười vẳng ra, cô đang có khách. Anh hơi ngập ngừng chưa biết nên bước vào hay ngừng lại thì giống như có linh tính mách bảo, cô quay đầu ra phía cửa, ngước mắt nhìn.
Cô kêu lên một tiếng, bật đứng dậy, ánh mắt ngạc nhiên và mừng rỡ, cô chạy xô ra cửa phòng. – Sao anh biết em ở đây? Anh mỉm cười, cô lúc nào cũng rối rít như thế, vui vẻ như thế, hồn nhiên và trẻ trung. Lòng anh ấm áp kỳ lạ, anh choàng qua vai cô, bước vào phòng. Cô giới thiệu anh với bạn bè, họ chào hỏi anh một vài câu rồi tự ý rút lui trong khi cô nháy mắt hóm hỉnh – Kệ, hơi đâu mà giữ, chút nữa lại gõ cửa ầm lên bây giờ.
Cô giúi vào tay anh quả táo, mở va li lấy ra một gói thuốc lá đặt lên bàn, rồi bó gối ngồi trên giường, hai tay chống cằm, nhìn anh. Cô nhìn anh như thể nhìn một món đồ yêu quí đã mất đi từ lâu bỗng nhiên tìm lại được. Cô nói nói, cười cười, hỏi anh rối rít hết chuyện này sang chuyện kia, khen anh mập… rồi bỗng cô thở phào một cái – Em mừng quá. Nước mắt cô nhỏ xuống.
Anh nhai táo, hút thuốc và cũng nhìn cô, không đến nỗi chăm chú để cô phải ngượng, nhưng đủ để thấy rõ những thay đổi của cô, từ thể chất đến tinh thần. Cái vẻ mà anh nhìn thấy lúc vừa bước chân đến cửa phòng, dường như chỉ còn sót lại một chút nào đó, làm anh chợt bâng khuâng. Đã ba năm. Và cô chẳng còn như xưa nữa, sự vui vẻ, hồn nhiên của cô vẫn ở đó, trong cách cư xử thân mật và nũng nịu, nhưng cái thoáng ưu tư trong đôi mắt ấy thì anh mới thấy lần đầu, và ngay cả nét mặt nhìn xuống, giọt nước mắt lặng lẽ trên gương mặt cười kia, cũng làm anh đau nhói cho cô. Anh rủ – Đi tìm gì nong nóng ăn đi, anh đói quá. Anh biết lời rủ rê như thế cô sẽ không từ chối, cô vẫn lo cho người khác hơn mình. Cô chớp mắt một cái rồi mỉm cười – Ừ, đi.
Anh chở cô qua những con đường lấp loáng ánh điện, dưới hai hàng cây lá rậm đen. Cô ngồi phía sau, ngoan ngoãn và bé nhỏ, cô đã lấy lại được vẻ sôi nổi bên vai anh. Cô cười khanh khách – Trời ơi, em mê quá, táo nhiều ơi là nhiều.
Anh chở cô đi lung tung qua các phố, quên mất dự định đi ăn, anh muốn đưa cô đi và nghe lại giọng nói của cô, cái giọng nói ngọt ngào, trong trẻo, lúc nào cũng có vẻ ngạc nhiên và ngây thơ ngộ nghĩnh, đã làm anh quí mến từ khi cô còn là…
Trái tim anh chợt nhói buốt, anh hơi giật mình. Cô không để ý. Cô bận nhìn phố xá. Miệng cô vẫn nói cười, Anh thở ra nhè nhẹ, rồi như để trấn áp những cảm giác đang làm anh tê tái, anh quay lại dặn cô giữ cho chặt và rồ ga phóng xe thật nhanh. Cô hốt hoảng túm chặt lưng áo anh, tóc cô bay toán loạn, nhưng cô vẫn cứ cười…
Gần nửa đêm, anh mới đưa cô về khách sạn. Cô đứng trước cửa phòng, ngước mắt nhìn anh – Anh nhớ đến chỗ em nhiều một chút nhé. Cô nhìn bâng quơ qua vai anh rồi khẽ cúi đầu, giọng cô như nghẹn lại – Em ở đây chỉ có một mình…
Anh vỗ nhẹ vào đôi gò má lạnh ngắt của cô, cố vui vẻ – Tất nhiên, anh sẽ đến bất cứ lúc nào rảnh, chỉ sợ em đi vắng. Cô cười – Không, buổi tối em luôn có ở nhà. Anh cầm bàn tay nhỏ của cô – Được rồi, tối mai anh lại đến. Ngủ ngon nhé!
Cô đóng cửa phòng lại và anh quay đi.
Tối hôm sau anh đến muộn. Một vài công việc đã giữ chân anh đến quá chín giờ. Cô mở cửa phòng, có vẻ như đang chuẩn bị đi ngủ. Anh nói ngay, không để cho cô kịp giận dỗi – Anh vừa xong công việc, em thay quần áo, đi ra ngoài một tí nhé. Cô leo lên giường uể oải như một con mèo – Ôi, em lười quá! Anh thúc giục – Đừng lười, ở ngoài kia hay lắm. Cô che mặt bằng chiếc gối, im lặng một chút rồi bỗng quăng chiếc gối đi, ngồi phắt dậy, lườm anh – Nào thì đi, anh làm em chờ muốn chết…
Anh đưa cô tới một quán cà phê tuyệt đẹp với cây cối, hòn non bộ và nhà sàn theo kiểu Tây Nguyên. Cô bước lên sàn nứa, đôi mắt hiếu kỳ của cô nhìn khắp mọi nơi, ngón tay cô nghịch ngợm chiếc rèm trúc chỗ hai người ngồi, làm bật ra những tiếng lách tách. Cô kêu lên, khoan khoái – Chỗ này hay thật đấy. Anh nhấp ngụm cà phê, mỉm cười nhìn cô rồi chợt buột miệng – Anh tưởng Nguyễn đã từng đưa em đến đây? Bàn tay cầm ly sữa của cô bỗng khựng lại nửa chừng. Cô ngưng cười, bậm môi nhìn xuống, giọng cô cứng lại – Chưa…
Anh có vẻ ân hận, chạm vào tay cô…
– Xin lỗi, anh không cố tình… Cô ngửa đầu hít một hơi thật mạnh, cô nói, không nhìn anh – Không sao, em quên rồi…
Im lặng. Khoảng không gian nặng nề làm anh hối tiếc. Anh đốt một điếu thuốc, rít một hơi ngắn, trầm tư một chút rồi quay lại phía cô. Cô vẫn nhìn chăm chăm vào ly sữa. Anh nhẹ nhàng nắm bàn tay cô. – Nếu em quên được thì tốt. Anh không muốn nói xấu bạn anh, nhưng quả thật là nó không xứng đáng với tình yêu của em. Quên nó đi thì hơn… Cô ngồi im không nhúc nhích, giọng cô thì thào, khổ sở – Em đã nói là em quên rồi. Im lặng một chút, rồi anh lại nói – Đúng ra thì không phải quên, mà hãy coi đó là chuyện bình thường, em sẽ nhẹ nhõm hơn – Vâng… – Em phải nghĩ đến em chứ, đừng ngu ngốc… – Em sẽ cố, anh yên tâm…
Kéo cô đứng dậy ra khỏi quán, anh lấy xe và thực thi ý định của mình, anh đưa cô đi trở lại những con đường, qua những vỉa hè, góc phố, những quá ăn… nơi cô và Nguyễn đã từng đi qua, ba năm về trước. Anh nhắc nhở và cô giống như bị tra tấn, cô mất cả thần sắc, mặt cô xanh nhợt… Nhưng cuối cùng, khi trở về khách sạn, cô lấy lại được vẻ quân bình. Cô ngồi co chân lên ghế, uống ly nước mà anh rót từ trong chai ở tủ lạnh. Cô vui vẻ nhìn anh gọt táo, đôi má cô đã ửng hồng. Vói tay qua thành ghế, cô nắm lấy bàn tay anh. Anh ngước đầu nhìn cô, mắt anh ấm áp, anh hiểu cô muốn nói điều gì…
Anh đến với cô đều đặn mỗi ngày. Có lúc anh dậy thật sớm để đưa cô đi ăn sáng trước khi mỗi người đi một việc, có khi anh ghé đón cô về ăn trưa, hoặc xin nghỉ vài giờ để đưa cô đi một vài nơi mà cô muốn đến, nhưng thường thì tối nào anh cũng ghé lại, hoặc cùng đi ra phố, hoặc ngồi nói chuyện đến khuya. Thời gian cô đi công tác không còn bao lâu nữa, anh không muốn cô phải trống trải bất cứ giây phút nào cô còn ở đây. Anh cũng đã có thói quen phải nhìn thấy cô cười nói mỗi ngày.
Một buổi tối, trong khi chờ cô sửa soạn để đi ra phố, anh ngồi gọt táo và đọc một vài trang trong cuốn truyện cô để trên bàn. Tựa đề một truyện ngắn trong đó là Quà cưới. Bỗng nhiên anh buột miệng – Này, anh cũng sắp cưới đấy. Cô đang loay hoay chải tóc, cô vẫn tưởng anh đùa như mọi lần, cô vừa chải tóc, vừa cười – Thế à! Bao giờ? – Mười ngày nữa. Cô lại cười. Thế này thì là anh đùa chắc rồi. Cô quay lưng về phía anh, vừa mở tủ lấy áo vừa nói – Sao mà gấp thế, đợi em đi khỏi đã rồi hãy tính. Chớ bỏ rơi em trong lúc này!
Cô bước vào buồng tắm, vừa thay áo quần vừa hát. Miếng táo anh đang nhai trong miệng bỗng trở nên nhạt nhẽo. Anh không biết phải nói với cô như thế nào. Cô vẫn đối đãi với anh thân thiết như cũ, càng có vẻ thân hơn sau buổi tối ở quán cà phê. Hình như cô không nhớ là đã có khoảng cách ba năm giữa cô với mọi người. Và bởi vì mọi người lúc nào cũng chiều chuộng chăm sóc cô chẳng có gì thay đổi, cô yên chí mọi việc đều đơn giản với cô như đã từ bao giờ.
Cô đã ra khỏi buồng tắm. Anh bước đến bên tủ lạnh rót nước và nuốt ực miếng táo còn nghẹn ở cổ. Cô vui vẻ ngước nhìn anh – Nào, mình đi đi anh. Gót giày cô gõ lách cách, ríu rít. Anh đút hai tay vào túi quần đi theo cô, bất chợt miệng anh cũng huýt lên một điệu nhạc bâng quơ, anh muốn giấu đi nỗi bối rối đang quẩn ở trong lòng.
Bốn ngày nữa thì cô lên đường. Cô nửa muốn ra đi, nửa còn ngoái lại. Trái tim cô nhộn nhịp một điều gì khó tả. Cô gần như bình thản trước những kỷ niệm cũ, những dấu tích tình yêu của ngày xưa giữa cô và Nguyễn. Một lần tình cờ cô gặp lại Nguyễn ở nhà một người bạn cũ, và người bối rối hụt hẫng không phải là cô, mà là Nguyễn. Cô đã giữ được sự tự chủ của mình. Nhưng dù sao, lúc Nguyễn đã ra về, cô vẫn bị một cảm giác trống trải lan tỏa khắp trái tim, lòng cô man mác buồn. Cho đến lúc anh đến và hai người lại cùng đi ra phố. Ngồi sau lưng anh, trên chiếc xe dong ruổi giữa đường đêm, cô kể cho anh nghe những cảm giác của mình. Anh nói những câu ngắn và cô lại thấy lòng mình yên tĩnh, êm ái đến kỳ lạ. Cô áp mặt vào lưng anh, khép mắt lại…
Suốt một tiếng đồng hồ trong quán cà phê, cô chỉ chăm chú nhìn ly nước, và sau đó cô mỉm cười. Vẻ mặt của cô làm trái tim anh đập mạnh. Anh hút thuốc liên tục, cố che dấu những cảm giác đang dồn dập trong lòng. Đã ba năm trôi qua. Trước kia cô là người yêu của bạn anh. Tính nết và cả con người cô được cả nhóm bạn hữu yêu mến, họ xem cô như đứa em gái bé bỏng cần được chở che, một vài người cũng đã âm thầm yêu cô bằng một tình cảm khác mà họ sẽ giữ kín trong lòng vì quan hệ giữa cô và Nguyễn, trong số đó có anh. Cô không biết được điều này. Ngay cả khi Nguyễn phản bội và cô gục khóc trong vòng tay của họ, cương quyết ra đi. Anh đã dỗ dành, an ủi và chăm sóc cho đến lúc đưa cô ra sân bay, mắt cô sưng đỏ và không nói với anh dù một lời giã từ. Cô bay đi và mất hút giống như một cánh chim vô định, không có bất cứ một tin tức nào. Thế rồi bỗng nhiên cô trở lại, đằm thắm, dịu dàng, ngoan ngoãn… như xưa. Nhưng, đã ba năm trôi qua và anh sắp lập gia đình. Không thể nào thay đổi được…
Cô dựa lưng vào ghế ngồi, dịu dàng nói với anh điều gì đó. Anh khẽ nghiêng đầu lắng tai nghe và cô chồm về phía vai anh. Nhạc trong quán cà phê êm đềm một bản đàn Chopin, mái tóc thơm ngát của cô xoà trên vai anh nhột nhạt. Anh nghiêng sát lại cô thêm chút nữa, và bất thần cô áp gương mặt mát rượi của cô vào gương mặt nóng bừng của anh. Cô hôn anh, bẽn lẽn, dịu dàng…
Anh nhắm mắt lại, ghì chặt cô trong tay, trái tim anh đau nhói, anh không nói được một câu nào, anh đang rơi, rơi, rơi mãi…
Cô cũng không nói một câu nào, cô dựa vào vai anh, tin cậy. Cảm giác hạnh phúc đầy ứ trong trái tim cô. Nhạc Chopin trong quán vẫn êm êm trôi xuôi. Nụ cười trên môi cô dường như bất tận…
Cô vịn vào cánh tay anh. Họ đi như hai người đang bềnh bồng trong cơn say trên đường từ bãi đậu xe của khách sạn trở về phòng. Ánh đèn hồng từ phòng cô tỏa ra những tia sáng ấm áp, cô đến bên tủ lạnh lấy ra một chai nước, rót ra ly và đặt trong tay anh. Mắt cô long lanh, bừng sáng, mãn nguyện. Cô ngồi bệt xuống gạch dưới chân ghế ngồi của anh và mỉm cười, gương mặt cô rạng rỡ…
Trái tim anh thắt lại, anh không thể thốt ra một câu nào, bất chợt anh đưa tay vuốt ve mái tóc cô.
Cô sà vào lòng anh như một con chim vừa tìm được tổ. Cánh tay cô quấn quanh cổ anh thơm ngát. Anh cúi xuống và không cưỡng nổi cái hôn khao khát mà anh cố nén bao ngày. Cô áp mặt vào ngực anh, thì thào – Đừng về nữa, ở lại đây với em…
Anh ghì chặt cô vào lòng…
o O o
Anh đi từ sớm. Tờ giấy anh để trên gối, viết:
– Em ngủ ngon, anh phải đi công tác cách đây một trăm cây số. Em ở nhà ngoan, chờ anh. Anh sẽ cố để ngày mai trở về. Hôn em.
Cô mỉm cười, ra khỏi giường vươn vai tập thể dục. Cô hát suốt thời gian ở trong phòng tắm. Cô nhăn mặt, nhíu mày với chiếc gương soi. Cô cầm chiếc bao thuốc lá rỗng của anh săm soi rồi cất vào túi xách. Cô nhảy từng bậc cầu thang trên đôi giày gót nhỏ gõ lách cách vui vẻ. Cô nhìn mọi người chung quanh bằng ánh mắt tươi tỉnh ngọt ngào.
Ngồi trên xích lô, cô lục tìm bao thuốc rỗng của anh rồi đưa lên mũi hít mạnh. Dường như hơi hướm của anh vẫn còn tồn đọng quanh người, cô cắn chặt đôi môi, cố nén để khỏi bật kêu lên nỗi sung sướng đang vỡ oà trong lòng. Hình như tất cả mọi người, mọi vật chung quanh cô cũng thông cảm với cô điều đó. Cô đọc lại không biết bao nhiêu lần lá thư ngắn ngủi của anh, rồi cô thì thào một mình – Em sẽ chờ, hãy mau về với em.
Cô đến nhà một người bạn khác của Nguyễn, cũng là bạn của anh và cô. Cô muốn thổ lộ, muốn được chia sẻ, muốn được nhìn thấy những ánh mắt hoặc ngạc nhiên hoặc đồng tình của mọi người. Gót giày cô reo vui ngoài cửa.
Người thanh niên đang hí hoáy gói một gói lớn bọc giấy xanh đỏ. Trông thấy cô, anh reo lên – Hay quá, giúp anh một tay. Cô buông túi xách, ngồi thụp xuống, bàn tay nhỏ nhắn của cô gói nhanh thoăn thoắt, cô cột chiếc nơ hồng ở giữa, ngắm nghía với một nụ cười tươi tỉnh, xong cô đẩy về phía anh – Quà tặng cho ai mà gói kỹ vậy anh? Người thanh niên trả lời thản nhiên, nhưng cô nghe như tiếng sấm nổ, cô sững sờ, tưởng mình nghe nhầm. Cô hỏi lại và được xác nhận một lần nữa. Cô ngồi lặng đi…
– Ngày cưới của anh ấy cũng phải có em chứ? Người bạn trai vô tư hỏi, không để ý đến gương mặt trắng nhợt của cô. Cô cắn môi, nhìn lơ đãng ra ngoài đường – Vâng, tất nhiên rồi… Cô cầm lấy túi xách, viện một lý do nhỏ rồi bước ra khỏi nhà anh.
Cô đi lang thang qua nhiều con đường, cúi đầu nhìn bóng mình đổ dài dưới nắng. Cô nhớ những lời anh đã nói, những cử chỉ kiềm chế của anh mà cô không hiểu rõ. Cô nhớ sự bối rối của anh, nhịp tim đập gấp, cô nhớ ánh mắt âu yếm và nụ hôn cháy bỏng của anh đêm qua. Chỉ vừa mới đêm qua thôi, số phận sao mà khắc nghiệt?…
Nước mắt cô chảy xuống, nhiều người qua đường ngoái lại nhìn, nhưng cô chẳng buồn để ý, cũng chẳng buồn lau nước mắt, cô cứ đi, rồi bỗng nhiên cô thấy mình đứng trước cửa phòng bán vé máy bay từ lúc nào…
o O o
Anh đến chỗ cô sau giờ ăn sáng một chút. Quần áo anh còn đầy bụi bậm của chuyến hành trình xa, anh không kịp về nhà, anh nhớ cô. Suốt một ngày xa cô, anh đã không làm được việc gì cho ra hồn. Ban đêm anh mất ngủ, anh nằm suy nghĩ về anh, về cô, về mối tình bất ngờ nóng bỏng của hai người, anh lại nghĩ đến người vợ sắp cưới của anh, anh bị giày vò, cắn rứt ghê gớm. Anh tự nguyền rủa mình, anh nắm tay đấm vào giường đến bật máu. Vô ích. Trước mắt anh vẫn hiển hiện gương mặt dịu dàng ngọt ngào của cô, ánh mắt say đắm tin cậy và nụ cười chứa chan hạnh phúc. Anh như thấy được cùng với tiếng pháo đám cưới của anh, là đôi mắt sưng đỏ câm lặng, nỗi đau đớn chết người mà cô phải trải. Anh nghiến răng, vùi đầu vào gối, rên rỉ kêu Trời. Anh hút thuốc liên tục, và đến sáng anh tìm ra được một giải pháp. Anh phóng xe như bay biến, hồi hộp và mong ngóng được gặp cô. Anh yêu cô và sẵn sàng đánh đổi tất cả để được sống bên cô suốt đời. Sẽ không có một đám cưới nào hết, ngoài cô. Đời người nhiều khi cũng cần có một lần liều lĩnh đúng lúc. Anh thở phào, cảm thấy tâm hồn nhẹ lại. Tất nhiên anh sẽ gặp không ít rắc rối, không ít lời chửi bới, nhưng chuyện đó có nghĩa gì khi anh có được cô? Ngừng xe ở bãi đậu của khách sạn, anh giống như chạy qua suốt dãy hành lang, anh tưởng tượng ra khuôn mặt sáng rỡ và vòng tay quấn chặt của cô. Môi anh nở một nụ cười.
Cửa phòng cô mở rộng. Một người tạp vụ đang quét dọn lau chùi. Anh đứng ở cửa phòng hơi ngỡ ngàng. Không còn một dấu vết gì chứng tỏ cô đang ở đây. Chiếc va li, những đôi giày, mấy thỏi son và chai nước hoa cô vẫn để trên bàn, cũng không còn ở chỗ cũ nữa. Anh chưng hửng, không hiểu điều gì đã xảy ra.
Người tạp vụ ngửng đầu nhìn anh. Chị ta nhíu mày nhìn bộ quần áo bụi bậm, vẻ ngơ ngẩn trong đôi mắt của anh. – Xin lỗi, có phải anh tên là…? – Vâng. Anh hơi giật mình. Người đàn bà vui vẻ hẳn lên – À, ra anh đấy. Cô ấy có gửi cho tôi cái này, bảo giao lại cho anh. – Cô ấy đi đâu? – Đi máy bay sáng nay rồi, cô ấy về gấp, chỉ mới lấy vé hôm qua. Đây này, cô ấy gửi cho anh.
Bàn tay anh run lẩy bẩy khi anh cầm lấy từ tay người tạp vụ những món mà cô để lại. Đi những bước lảo đảo ra phía ngoài khách sạn, ngồi phịch xuống chiếc ghế đá gần nhất, anh mở chiếc phong bì.
Lá thư của cô chỉ có một hàng. Dòng chữ viết run rẩy “Anh không có lỗi trong bất cứ mọi điều. Mong anh hạnh phúc. Em yêu anh”.
Anh nhắm mắt lại, chết lặng…
Từ từ, anh đưa bó hoa lên ngang tầm mắt, sững sờ nhìn. Hoa cúc dại – Oải hương. Cô vẫn thường ví mình là loài hoa ấy, bé nhỏ, dịu dàng và hay lỡ duyên. Cô gửi nó cho anh như một lời giã từ nghẹn ngào làm trái tim anh đau nhói… Ôi, em làm như thế đúng hay sai? Anh bỗng nhìn đồng hồ tay và bật dậy. Anh chạy ra bãi để xe, mở công tắc và chạy như điên trên quãng đường ra sân bay. Anh vừa chạy xe vừa âm thầm cầu nguyện cho anh được gặp cô, dù chỉ là lần cuối cùng.
Hoa oải hương dịu dàng tỏa hương thơm sau lần áo còn đầy bụi của anh….
Điều chưa nói với tình yêu – Khuê Việt Trường (1952- )
Tôi nói với Hải, người tài xế đang chở tôi băng qua khu rừng ngập tràn cây cỏ, con đường sau một mùa mưa bão đã trở nên khó đi với không biết cơ man nào là ổ gà, ổ voi:
– Anh Hải, liệu có bác sĩ Bình tại trạm y tế xã không?
Hải không nhìn tôi, gương mặt vẫn nhìn thẳng về phía trước con đường, như anh sợ chỉ cần một cái chớp mắt là anh có thể lái chiếc xe lạc hướng.
– Chắc chắn mà, lúc nào bác sĩ Bình cũng đi cơ sở. Chẳng bù lại với các bác sĩ khác, chiều thứ bảy chưa hết giờ làm việc đã vội vàng phóng xe về thành phố. Tôi chẳng hiểu tại sao cô lại có thể ‘trèo đèo lội suối’ để đi tìm bác sĩ Bình thế? Mọi người gọi đó là “Bình hâm”!
– Tại sao gọi là Bình hâm?
– Đơn giản thôi, bởi bác sĩ Bình ra trường đậu cao mà lại chẳng chọn bệnh viện thành phố mà làm, cứ chăm chăm vào Trung tâm y tế huyện, ở nơi toàn là người dân tộc…
Tôi không hỏi thêm gì Hải nữa, nhưng tôi biết là Bình đã tạo nên một huyền thoại giữa cuộc sống đang dày đặc những ham muốn danh lợi này. Cuộc sống đã chứng minh rằng một cộng với một chưa chắc bằng hai và mỗi người đều biết rõ ràng là tại sao mình chọn con đường này mà lại không chọn con đường khác? Còn nếu cứ hình dung ra con đường băng qua rừng và chật hẹp, nhấp nhô biết bao nhiêu ổ gà, cả tiếng muỗi mòng bay vo ve này thì đủ biết cuộc sống của một bác sĩ như Bình chẳng phải là một cuộc sống lý tưởng với chiếc áo khoác trắng sang trọng, cặp kính cận trễ xuống mắt với bộ ống nghe đẹp đẽ trong căn phòng khám bệnh có trang bị máy lạnh.
Đã bao nhiêu lần tôi khuyên ngăn Bình hãy trở về, nếu không thích thì hãy mở một phòng mạch tư, bên cạnh đó với tấm bằng dược sĩ của tôi chỉ việc mở thêm phòng bán thuốc. Chồng khám bệnh, vợ bán thuốc giống như bác sĩ H đang được những người bệnh của thành phố này tin tưởng, mỗi buổi sáng mọi người phải tới phòng khám trước nhà ông ghi tên, đợi tới phiên mình.
Ba năm trời dài dằng dặc Bình vẫn không chịu về thành phố, bởi thời hạn lên miền núi của một bác sĩ như anh cũng đã là quá đủ. Những lần anh phóng chiếc xe dính đầy bụi đỏ về tìm tôi vào chiều thứ bảy, tôi thấy anh ốm hơn một chút, anh đen hơn một chút. Có khi làm việc quá sức, chẳng có thì giờ rảnh anh lại “trình diện” trước mặt tôi một đầu tóc quá lứa, một chiếc cằm lởm chởm râu chưa kịp cạo. Gặp nhau, anh lại kéo tôi ra quán bún bò. Đó là quán bún bò vỉa hè với khoanh giò heo mầm ngon mà anh vẫn thích. Bình bỏ ớt thật nhiều vào tô, anh vẫn giảng giải về chuyện ăn uống của mình: “Ăn miếng ớt cay xè, mới tận hưởng vị ngon của tô bún bò.” Tôi thì chịu cách ăn như thế, nhưng rồi tôi cũng cắn miếng ớt tê môi bởi đơn giản là mai sau, khi hai đứa về ở chung trong một mái nhà, tôi phải nấu cho anh những món ăn có nhiều ớt cay.
Cuối cùng thì chiếc xe cũng đi đến đích của nó, hay nói đúng hơn là đã đưa tôi tới đích mà tôi mong muốn. Trạm y tế xã chỉ là một ngôi nhà cấp 4 nhưng cũng đã xuống cấp. Từng mảng tường vôi vỡ ra vì lâu ngày bị mưa ngấm, còn cánh cửa sổ lại lắc la lắc lẻo dính vào vách, chỉ muốn rơi ra. Bệnh nhân của Bình cứ ngồi sắp lớp trước sân trạm xá, có người bồng cả con theo. Bình chẳng nhìn thấy tôi, ánh nắng hắt vào gương mặt anh đã bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Anh đang khám bệnh cho một cậu bé người dân tộc.
Bình nhìn thấy tôi, anh đưa tay ra chào tôi như chào một người lính: “Em tìm bóng mát ngồi đợi anh một tí!” Một cô y tá trong đoàn kiếm cho tôi chiếc ghế, tôi kê chiếc ghế dưới bóng mát của một cây điều, nhìn anh làm việc. Dễ chừng tôi và Bình đã có trọn đủ mười năm quen nhau và yêu nhau. Thời gian đôi khi làm tan vỡ đi những mối tình, bởi thói quen sẽ làm xơ cứng đi những rung động. Nhưng với Bình, tôi cảm thấy dường như trong con người anh toát ra tính quả quyết của một người đàn ông. Nhưng nghĩ lui nghĩ tới thì có người phụ nữ nào lại không thích có bên cạnh mình một người đàn ông biết quyết định dùm mình những vấn đề mà mình còn đang lưỡng lự.
Hôm anh ra trường, thay vì sa vào buổi tiệc nhậu với bạn bè cho đến khuya tại một nhà hàng 3, 4 sao gì đó có khung cửa kính nhìn xuống bến Bạch Đằng nhấp nháy ánh đèn, anh dặn tôi trước: “Ăn mặc đẹp vào, đúng 6 giờ anh tới đón.” Sáu giờ anh đã dừng xe bóp còi kêu tin tin trước nhà. Rồi hai đứa ra ngay quảng trường nhà thờ Đức Bà ngồi ăn bò bía, uống nước mía. Sau đó thì anh chở tôi vòng đến hồ Con Rùa. Bàn tay chào kiểu lính của anh thật vui: “Giã từ sinh viên. Giã từ sinh viên.” Đêm hôm đó, tôi và anh cứ thế mà đi, đôi khi xe lạc vào một con đường không tên nào đó. Hơi ấm trong thân người của anh truyền qua tôi sao mà kỳ diệu.
Bình nói trong tiếng xe cộ ồn ào:
– Anh sẽ làm bác sĩ tình nguyện? Em có sợ không?
Tôi hỏi anh:
– Sợ gì?
– Sợ anh sẽ trở thành người dân tộc. Anh chẳng mở phòng khám bệnh tư nên chẳng xây cho em nhà lầu được.
– Anh là người dân tộc thì em làm cô dân tộc. Còn xây nhà lầu thì em chẳng lau chùi nổi đâu! Em lười lắm.
Thế là Bình tình nguyện thật. Một năm, tôi chịu đựng nổi. Hai năm, tôi chịu đựng nổi. Dường như chiếc điện thoại ở vùng sâu, vùng xa nơi anh ở cũng thường xuyên trục trặc cho nên có khi nhớ anh quá, tôi gọi điện thì chỉ nhận lại những tín hiệu như tiếng gió gào. Có khi ngày chủ nhật tôi ôm gối xem hết chương trình này đến chương trình khác trên tivi. Xem xong tôi lại lục lọi kho sách cũ ra mà đọc. Người ta đi chơi với người yêu trong ngày chủ nhật, còn người yêu tôi thì lại bận khám bệnh, phát thuốc cho người nghèo.
Ở Công ty dược phẩm tôi làm việc, mọi người rất ngạc nhiên khi chẳng thấy ai đưa đón tôi. Tôi đi làm một mình, tôi đi về một mình. Đến độ chị Thư làm chung tổ với tôi phải buột miệng hỏi:
– Đám dược sĩ ở công ty này nhiều đứa được lắm. Em không chấm được đứa nào sao Lệ?
Tôi cười với chị Thư:
– Có ai tán em đâu!
Chị Thư bĩu môi:
– Không dám đâu. Tên Phấn kìa, nhìn tướng cũng được, cha lại đang làm ở cơ quan bộ tại Hà Nội. Làm dâu nhà đó có tương lai lắm đó!
– Em cho hắn ta hai điểm.
Chị Thư gật gù:
– Cũng phải. Hôm nó rủ em đi ăn hải sản, em nói nếu nó tình nguyện lên miền núi thì em đi ăn, nó nói em chạm dây. Còn tên Thích cứ nhìn lén em hoài, dù sao nó cũng chịu khó hơn mấy đứa khác, chỉ tội gia cảnh hơi nghèo, muốn mở tiệm thuốc tư nhân làm ăn mà không mở được.
– Con gái chưa chồng thì có biết bao nhiêu người theo đuổi!
Đến khi tôi hỏi Bình: “Anh có sợ mất em không?”
Mắt Bình nhìn thẳng vào mắt tôi: “Sợ chứ! Nhưng anh biết em rất yêu anh.”
Ai nói Bình của tôi không biết galăng?
Rồi Bình đến đón tôi vào một buổi trưa giữa xuân. Sự xuất hiện của anh làm cho cả công ty lao xao vì anh rất nổi danh bởi có một lần anh đã từ chối nhận số thuốc quá hạn bên kho Sở chuyển lên. Anh đã bất kể trời mưa, quay về thành phố với lô thuốc còn nguyên kiện. Rồi chính anh nhận lại lô thuốc mới đem lên lại miền núi.
Hôm sau cả công ty to to nhỏ nhỏ tôi tình cờ nghe được: “Té ra bà Lệ có người yêu là Bình hâm.”
Tình yêu hoàn toàn không có bản sao, hạnh phúc cũng chẳng có bản sao. Tôi quen hít hà trái ớt cay vì Bình. Tôi vượt rừng tìm đến anh vì tôi yêu anh, thế thôi. Nhà tôi trong năm mới có những giò phong lan rừng đích thân anh đem về. Anh hẹn đám cưới hai đứa sẽ tổ chức bằng… rượu cần và dàn nhạc là cồng chiêng, mã la. Tôi đợi anh đôi lúc thấm mệt: có khi tôi thì thầm một mình: “Bình ơi, em mỏi lắm rồi!”
Chắc Bình cũng biết ròng rã mười năm yêu nhau tôi sắp quỵ té, nhưng trong thẳm sâu lòng mình anh chẳng hề nói ra được. Bởi chúng tôi có nhau rồi, bên cạnh chúng tôi còn có bao nhiêu người cần anh? Tôi dành anh ra khỏi tay họ liệu tôi có yên lòng? Chính vì vậy mà tôi lên đường, tôi phải tìm tới anh.
Dưới bóng mát của những cây điều, bữa cơm trưa dọn ra. Không xa bên kia là tiếng suối chảy róc rách như là một bản nhạc ru trưa.
Bữa cơm có măng rừng, có cá lóc nướng trui. Bình xẻ cho tôi từng miếng cá. Bữa cơm ngon miệng cũng xong. Bình nói:
– Qua Tết anh sẽ chuyển về bệnh viện thành phố. Nhưng anh muốn mình làm đám cưới tại đây.
Tôi nhìn anh chăm chú. Rồi tôi rút trong túi xách của mình ra tấm giấy chuyển nhiệm sở. Tôi xin lên đây cùng anh.
Mặc kệ mọi người quanh mình. Bình ôm chặt lấy tôi vào lòng. Anh hôn tôi: “Em là người vợ tuyệt vời nhất của anh!” Tôi nhìn thấy một giò phong lan nằm nép mình nơi hiên trạm xá. Có thể đó là giò phong lan anh dự định tặng tôi mùa xuân này.
Thương nhớ Hoàng Lan – Trần Thùy Mai (1954- )
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?”
Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.”
Trở về, thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.
Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy.
Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúnh sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?”
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều.
Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: “Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H?” Rồi bà cười ha hả: “Đi tu mà chẳng trót đời, làm thân con ếch cho người lột da.”
Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm…
Cô ruột tôi giận lắm, bảo: “Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.”
Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói “Đừng.” Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. “Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.”
Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn…
Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia.
Cha tôi bảo: “Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?”
Tôi chỉ lắc đầu…
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính.
Sư huynh hạch tôi: “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.”
Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ.
Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?”
Thầy hỏi: “Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.”
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.
Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ.
Cô hỏi tôi tên hoa.
Tôi giảng: “Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng.”
Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương.
Tôi cau mày: “Này, đừng nghịch.”
Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi: “Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.”
Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé.
Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: “Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy.”
Tôi tủm tỉm cười.
Sư huynh tôi cáu kỉnh: “Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm! Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?”
Tôi cự: “Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ!”
Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò.
Lan phụng phịu: “Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có!”
Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. “Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.”
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: “Không can gì.”
“Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?”
Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó.”
Tôi động lòng, hỏi: “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói? Ngày xưa, Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.”
Thầy cười: “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi, mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây.”
Tôi vái thầy mà thưa: “Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.”
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
“Anh không thích phong lan nữa sao?”
“Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan.”
Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất.
Lan bảo: “Thích ghê, em chưa thấy bao giờ!”
Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương…
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
“Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.”
Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan.
Ông chủ tịch âu yếm bảo: “Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.”
Tôi hãi hồn, vội nói: “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.”
Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: “Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.”
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt…
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
“Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được; nó tránh như tránh tà.”
“Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều; thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.”
“Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.”
Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: “Khó tin!”
“Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra – bạn tôi nói, vẻ ông cụ non – Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.”
Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp.
Mẹ Lan hỏi: “Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.”
Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: “Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu…”
Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu, Quắn cố nài.
Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: “Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi!”
Quay sang Lan, tôi nạt: “Đi về!”
Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi…
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?”
Tôi cau mặt: “Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?”
“Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.”
“Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.”
Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi.
“Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?”
Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa…
“Em có thích nghe chuyện cổ tích không?”
“Thích.”
Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt.
Lan nghi ngờ: “Sao có người làm được như thế?”
Tôi gật đầu: “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: ‘Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua’.”
Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng.
“Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?”
Tôi bảo: “Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con!”
Lan cười… Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa.
Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá!
“Thôi, về đi em!”
Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật…
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay.
Tôi bảo: “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.”
“Không có lửa làm sao có khói? Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.”
Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười.
Cô bực tức: “Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?”
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.
‘Con ma nữ’ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu.
Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: “Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.”
Tôi cuống quýt: “Bác bảo con làm sao được?”
“Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.”
Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng?”
Tôi thở dài: “Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám.”
Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi…
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu.
Thầy hỏi: “Sao con bỏ học?”
Tôi nói: “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.”
Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú.
Tôi hốt hoảng vùng dậy: “Bạch thầy!”
Thầy tôi bảo: “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.”
Tôi nói: “Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.”
Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: “Tâm không an, có cầu cũng vô ích.”
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ; nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.
“Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?”
Thầy nhìn vào mắt tôi: “Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.”
Tôi lắc đầu: “Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.”
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy, nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: “Chú Ninh!”
Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an…” Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:
Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu? Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan…
Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi…
Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng.
“Cứ khóc đi con” – Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt – “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.”
Tôi nức nở: “Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?”
Thầy bảo: “Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?”
Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
Biển đời người – Trần Thùy Mai (1954- )
Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên.
Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: “Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó.”
Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim.
Mẹ tôi bảo: “Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó.”
Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lên: “Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử.”
Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo.
Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xóa. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong.
“Bim ơi! Bim ơi!” Tôi gào to át tiếng mưa.
Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dỡ ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi.
“Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp, sợ quá! Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở.”
Tôi lội đến gần Bim: “Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt.”
“Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi?”
“Mẹ không quay lại giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành.”
“Sao anh vào được?”
“Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo.”
Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc.
“Trèo lên gác thôi em!”
Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: “Bám chặt lấy, anh cõng.” Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước…
Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai.
May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ áo thấy khô, lại mặc vào cho Bim; trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.
Mãi đến trưa mai nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: “Con ơi là con.” Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man.
Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. “Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim!”
Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo.
Nằm trên giường, Bim bảo: “Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền.”
Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân.
o O o
Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần.
Mẹ tôi bảo: “Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lạt xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu!”
Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân mầu xanh, Bim lo lắng: “Rồi ai chở em đi học?”
Tôi dỗ dành: “Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng.”
Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: “Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?”
Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: “Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?”
Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: “Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra.” Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.
Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình, vắng ngắt.
“Bạn em đâu cả?”
“Tụi nó rủ nhau đi ăn chè.”
“Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được.”
Bim cười ngúc ngắc hai đuôi sam: “Ai lại thế! Anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?”
Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác tôi ôm Bim vào lòng.
Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra.
“Sao thế?”
“Người ta cười.”
“Đồ sợ chết.”
Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay… Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng hồng sát ngực tôi, lắng nghe tiếng tim đập.
“Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đau cả người.”
“Bim ơi!”
“Gì anh?”
Tôi bồi hồi nhớ cái đêm trời lụt: “Cho anh cõng Bim đi xem suối.”
Chân tôi đi qua những mỏm đá. Tôi giữ chặt Bim sau lưng.
“Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời.”
Bim cười, tiếng cười như tiếng suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở.
“Anh Tuấn ơi! Con muỗi!”
Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi: “Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ.” Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng.
Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: “Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy…”
Cô Hạnh than thở với tôi: “Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?”
Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về.
Bữa đầu, Bim khóc mếu: “Tuấn độc tài.”
Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy.
Tôi hỏi Bim: “Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho.”
Bim lắc đầu quầy quậy: “Mắc cỡ lắm!”
Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi.
o O o
Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: “Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban Tổ chức phải chịu.”
Tôi cười: “Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất.”
“Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ!”
Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng.
Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soirée. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại, ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soirée mầu lam óng ánh, vải dịu và mềm.
Bim giãy nảy: “Cái này cũ rồi.”
“Nhìn ban ngày, cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng, nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết cỡ, rồi em xem.”
Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói “độc tài.”
“Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây?”
Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp, vân vân và vân vân…
Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu.
“Vũ Túy Diễm, nữ sinh lớp 10 trường…”
Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn.
“Vũ Túy Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn…”
Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi. Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soirée mầu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao ôm rất khéo, làm dáng người đài các thướt tha. Bim đang cười… đôi môi tô son mầu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền.
Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: “Đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút thôi là ăn đứt… ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?”
Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong số những câu tôi đã tủ cho cô bé.
Ban Giám khảo hỏi: “Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?”
Bim đứng ngẩn một lúc: “Em nghĩ… 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp…”
Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng.
Sau này, Bim bảo: “Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái.”
Cô Hạnh cứ tiếc mãi: “Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế.”
Bim được danh hiệu á khôi thứ nhất. Với tôi thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên dáng Cố đô.
o O o
“Ngày nhộn nhịp” đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho.
“Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi.”
Tôi lắp bộ xà sứ trên đỉnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở. Làm xong, áo quần còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa.
Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: “Cô nào may mắn mới gặp anh này.”
Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại.
Cô Hạnh hể hả: “Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa.”
Tôi ngồi yên, rầu rầu.
Bim từ trong phòng đi ra: “Hoa 8 tháng 3 của em đâu?”
Thấy vẻ mặt tôi như thiển ý, Bim giải thích: “Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp…”
Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo.
Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má “Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim.”
“Ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua.”
Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: “Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này.”
Tôi trêu: “Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ.”
Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu.
Cô Hạnh khoe: “Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được.”
o O o
Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: “Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thủy. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn mầu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi.”
Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút rồi phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: “Tuấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi.”
Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: “Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế…”
Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ.
Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Tôi thì mừng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên Dáng Cố Đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật.
“Vào trong mà ngủ, không được nằm đây.”
“Trong kia nóng lắm.”
“Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?”
Bim ấm ức: “Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!”
Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Thạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi…
Bim chỉ bảo: “Thế à?”
Hai đứa đi men theo con suối.
“Tuấn cõng Bim nhé?”
“Thôi. Lớn rồi, cõng như con nít, kỳ lắm!”
Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi… Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời…
o O o
Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào, Bim chào, ngượng ngùng.
Cô Hạnh bảo: “Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó.”
Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà: “Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt.”
Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút.
Mẹ tôi hỏi: “Măng, con sao vậy?”
“Có gì đâu?”
“Sao con ngậm ngược điếu thuốc?”
Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm.
Mẹ tôi đỏ mắt: “Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn…”
Bà nổi tam bành: “Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu!”
Tôi quờ tay, ngăn lại:
– Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc.
Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng?
Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu.
Anh Thạp nhìn tôi thẫn thờ quấn băng vào vết thương, cười: “Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi.”
Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: “Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta…”
Tôi trừng mắt: “Chó chết. Câm!”
Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi…
Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm.
Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói:
– Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm.
– …
– Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ.
– …
– Đi ba năm về mà không có được một món quà cho ra hồn…
– …
– Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy?
– Thì có gì đâu mà nói. – Tôi ư hử.
Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng. Nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa.
Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi.
– Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm!
Lâu lắm mới nghe Bim nói – giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì? Lâu quá tôi lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có.
Mãi mới kiếm được một câu để nói:
– Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. Ở có một mình mà năm nào cũng vất vả.
Bim ấp úng: “Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu…”
Tôi thở dài: “Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước?”
“Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa…”
Hai tiếng “hồi xưa” nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy.
“Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh…”
Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi giàn ra không giữ nổi. “Bim ơi, lớn rồi sao còn nói ngơ ngơ?”
Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người!
Ốc mượn hồn – Nguyễn Đức Thọ (1955- 2001)
Tôi kém anh Đạt mười tám tuổi đời, mười tám năm tuổi lính, tức là kém anh một kháng chiến chống Pháp, nhưng giữa chúng tôi đã có một tình thâm giao hơn hai mươi năm trời. Tôi là lính của anh, là em kết nghĩa và lâu nay anh vẫn nói với vài người bằng một giọng tự hào: “Thằng Thụ là thằng em vong niên của tôi.”
Khi tôi là thằng lính mới tò te, anh Đạt là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai, trung đoàn pháo binh Bến Hải. Sau chiến dịch Khe Sanh, trung đoàn chỉ còn vỏn vẹn hai mươi bốn người rút ra bờ bắc giới tuyến lập một bộ khung mới để nhập vũ khí, nhận thêm tân binh.
Anh Đạt phát hiện ra tôi ở nhà bếp tiểu đoàn:
– Này, thằng vo gạo dưới suối ơi, mày tên là Thụ phải không?
– Dạ đúng.
– Mày là học sinh chuyên toán?
– Vâng.
Mặt anh Đạt hớn hở hẳn lên, chìa tay ra bắt tay tôi:
– Mày lên đây. Mẹ! cái thằng quân lực gà mờ. Thằng giỏi toán phân đi làm bếp, thằng thủ kho phân đạm hợp tác xã đưa lên làm kế toán. Mai mốt đánh nhau tính không ra phần tử có mà bắn cái cục cứt! Chiều nay mày lên trung đội chỉ huy nhận nhiệm vụ mới nghe chửa?
Thủ trưởng Đạt là thần tượng của tôi. Ở gần một con người tuyệt vời là may mắn nhưng đôi khi cũng phát mệt. Đơn vị nhận pháo mới tận Phú Thọ, hành quân bằng tàu hỏa xuôi về phương Nam. Đến ga Khoa Trường, tàu dừng chờ thông đường. Đã hơn mười giờ khuya, sương xuống lạnh đầm đìa vai áo, hình như mấy khẩu pháo và mấy chiếc xe xích cũng cảm thấy lạnh nên co lại sau lần vải bạt phủ kín nặng nề. Nhà ga cho biết khoảng năm giờ sáng tàu mới có thể chuyển bánh.
Anh Đạt lay vai tôi:
– Từ đây về làng còn mười cây số. Đánh nhau bao năm trong Nam không thấy nhớ mấy, lúc này về đến đây bỗng nhớ mẹ đĩ và chúng nó ghê quá mày ạ!
– Hay là… − tôi bàn nho nhỏ − Thủ trưởng bàn giao cho anh Sơn rồi tạt về nhà thăm chị và các cháu một lát.
Anh Đạt thoáng lặng yên rồi đi hội ý với tiểu đoàn phó. Tôi vào phòng trưởng ga ngỏ ý mượn chiếc xe đạp Phượng Hoàng. Tay trưởng ga lắc đầu nguây nguẩy.
Tôi gay gắt:
– Người ta đi chiến đấu không tiếc xương tiếc máu, mượn cái xe đạp mấy tiếng đồng hồ ông lại tiếc. Thật không biết xấu hổ!
– Mày lên lớp tao đấy hở thằng lính nhóc bọ? − Tay trưởng ga vạc lại tôi. − Mày tưởng làm ở cái ga xép này không tốn xương máu hay sao?
Anh Đạt phải can ra, nếu không tôi đã gây sự với thằng keo kiệt một trận.
Tiểu đoàn phó bảo tôi đi cùng anh Đạt, đề phòng bất trắc:
– Nếu ông ấy trúng phong cũng mặc, bằng mọi giá mày phải cõng lên đây trước giờ tàu chạy, rõ chưa?
Anh Đạt vẫn hồn nhiên nói:
– Rất hay, mày về nhà tao coi thử cái gái lớn có vừa mắt không, mai mốt tao gả cho.
Gà gáy nửa đêm, chúng tôi về tới nhà. Anh Đạt bồi hồi bấm đèn bin soi mặt, ngắm từng đứa con đang ngủ quay lơ trong ổ rơm. Chị Đạt bối rối nhìn chồng, chân tay cứ như thừa ra lóng ngóng chẳng biết làm gì. Tôi ý tứ mắc võng ngoài hiên, vừa đặt mình là ngủ thiếp.
Gần sáng tôi nghe tiếng người rì rầm:
– Bố nó ạ, con Hoe cứ đòi bỏ học. Thằng Tý anh ở lại lớp bốn thêm năm nữa. Thằng Tý em học lớp hai nhưng chỉ viết được mỗi cái tên nó.
Anh Đạt ho khan, mỗi khi nén cười anh thường hay ho khan:
– Mẹ nó lo cho chúng nó ăn no là tốt rồi. Đứa nào học dốt, sau tôi cho vào bộ binh. Chiến tranh còn dài lắm.
– Nói như bố nó, thà đừng cho con đi học!
– Quân đội là trường đại học chính quy nhất, mẹ nó yên tâm, vào đó dốt cũng thành giỏi.
Cuộc hội ngộ của vợ chồng anh Đạt diễn ra khi mình ngủ nên lúc chia tay tôi vẫn chưa nhìn rõ mặt chị. Chúng tôi lại lên đường, chỉ nghe tiếng chị chào:
– Hai anh em đi chân cứng đá mềm.
Ra ngõ, anh Đạt bảo:
– Mày đi trước cho tao bám càng. Cha mẹ ơi, buồn ngủ ríu cả mắt!
Tôi đi như chạy về phía ga Khoa Trường, băng đồng mà đi. Anh Đạt theo sau thở hồng hộc coi bộ mệt tợn. Phải đi nhanh vì còn rất ít thời gian.
Thế nhưng anh Đạt vẫn cố nói đùa:
– Mất sức chiến đấu quá mày ạ! Leo lên bụng bà ấy còn mệt hơn đánh căn cứ Mỹ!
– Thủ trưởng có làm ăn được chút nào không?
– Phải có chứ. Hai phát rưỡi!
– Sao lại hai phát rưỡi mà không tính ba?
– Mày chưa vợ nên không biết. Dân pháo binh, tầm hướng để đâu? Phát đầu chưa quen, sai mục tiêu nên chỉ tính phân nửa, hai phát sau thì tốt.
Tay trưởng ga keo kiệt đứng chờ ngay cửa vào. Tôi lạnh mặt đi qua.
Hắn níu vai anh Đạt, nói nhỏ:
– Xin lỗi đồng chí, tôi rất ân hận. Tôi đã sửa chữa khuyết điểm bằng cách chờ đồng chí có mặt mới báo tín hiệu thông đường và cho tàu chuyển bánh.
Anh Đạt bắt tay hắn:
– Xin cảm ơn, cảm ơn nhiều. Tôi không giận đồng hương đâu. Dân Thanh Hóa quê ta có mượn vợ thì cho mượn chứ không thể cho mượn xe đạp. Hầy…
Tàu kéo còi rời ga, mặt trưởng ga méo xẹo như đang ăn phải ớt. Anh Đạt ngồi dựa lưng vào bánh pháo nhìn xa xăm về phía biển, hừng đông đang rạng dần những tia rẻ quạt. Ngôi sao Mai vẫn sáng lấp lánh đợi chờ.
– Làng tao ở phía ấy.
– Ơ hay, thủ trưởng quên là em cũng mới vừa ở phía ấy lên à?
Cuộc sống người lính đã đưa chúng tôi đi nhiều chiến trường khác nhau. Quảng Trị, Nam Lào và Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ rồi vào tận Sài Gòn mùa xuân năm 1975. Thủ trưởng Đạt coi tôi như một đứa em thân tình. Khi tôi sốt anh chăm sóc tôi, tự tay nấu cháo. Tôi nghịch ngợm có tiếng, đến đâu thấy gái là tán như chảo chớp. Anh hăm he:
– Mày đừng cậy đẹp mã. Tán cho vui đời, tán để thò đuôi chuột vào con người ta là không xong với tao đâu.
Thứ tài sản quý giá nhất của anh là chiếc kèn Acmonica luôn mang theo bên bao khẩu súng ngắn. Không ai có thể mó tay vào chiếc kèn. Còn mọi thứ quần áo, lương khô, bột trứng, đường sữa tiêu chuẩn anh cho lính dùng ít khi giữ lại để dành. Mỗi tối liên hoan văn nghệ, tiết mục thổi kèn của thủ trưởng Đạt có hai bài kèn “Vì nhân dân quên mình” và “Tiểu đoàn 307.” Hình như anh chỉ biết thổi hai bài ấy. Tiếng kèn của anh theo chúng tôi từ những đồi cọ miền trung du vào tận thành phố Sài Gòn hoa lệ. Hôm anh em kêu mệt, anh lại lôi kèn ra thổi say sưa.
Ngày đại thắng ngồi trên xe diễu binh, anh ngẩn người ra ngắm đội quân nhạc mặc quân phục trắng chỉnh tề cử những bản hành khúc hùng tráng.
– Mẹ kiếp! Đời chúng nó thích thật! Nếu cho tao trẻ lại tao xin đi làm lính thổi kèn. Nhạc như thế mới gọi là nhạc, hay đến mức tóc muốn dựng ngược!
Anh hỏi tôi:
– Mày biết tên các kèn loại không?
– Em chịu.
– Tao chỉ biết hai loại. Cái to kềnh xoắn ruột ốc là Ô-boa, cái kia là Trom-pet. Ngày xưa, xứ đạo quê tao có hai cái kèn ấy. Hai thằng hòa với nhau nghe sướng tai lắm!
Hôm tôi đi phép ra Bắc, anh lội chợ cả ngày lùng mua mấy bộ đồ thun gửi ra làm quà cho con. Tôi đưa tận nhà, con anh chẳng đứa nào mặc vừa. Anh không thể ngờ các cháu đã lớn đến mức nào. Chị đành đem ra chợ Còng bán, mua gà đãi tôi, mua nếp, thịt nạc làm ruốc bông gửi vào cho anh. Anh không hiểu hoàn cảnh quê nghèo luôn thiếu ăn. Chị cũng không hiểu anh ở trong Nam cuộc sống vật chất đâu đến nỗi không được miếng ngon.
Nhận quà gửi vào, anh cứ lẩm bẩm:
– Thương mẹ đĩ chu đáo. Nhớ tao lắm rồi đây! Biết ngay thế nào cũng gửi quà quê vào. Cảm ơn mày Thụ ạ! Nếu mày chê không cầm cho tao là vợ chồng tình cảm sứt mẻ. Mẹ nó hay ghen lắm!
Tôi chỉ cười thầm trong bụng: bố mày lẩn thẩn bỏ mẹ!
Mỗi đợt đơn vị chọn người đi học đào tạo sĩ quan, tên tôi luôn đứng đầu danh sách nhưng anh Đạt gạt ra.
– Mày tướng mạo thư sinh, khỏi chết chỗ bom đạn là may rồi. Đừng theo đường binh nghiệp như anh. Cố gắng ôn thi đại học chuyển ra ngoài làm quan văn hay hơn.
Tôi chỉ biết cảm ơn anh. Vâng, tôi không thể làm chỉ huy như anh: Khi cần anh có thể hét ra lửa. Khi vui anh vẫn biết giáo dục lính theo cách nửa đùa nửa thật:
– Mẹ chúng mày. Bộ đội đếch gì ăn nói tục như dom!
Tất cả cười. Cười để biết bỏ tật xấu. Nếu lần sau lỡ mồm coi chừng ăn bạt tai. Tôi là thằng láu lỉnh hay cãi lý nhưng chưa bao giờ dám cãi anh. Không phải tôi sợ tính nóng Trương Phi, mà tôi nể bụng dạ thẳng thắn nhân hậu trong cách sống của anh.
Lúc tôi chuyển ngành đi học đại học báo chí, anh buồn vì phải chia tay nhưng làm bộ giấu khéo: Mày nhớ về đơn vị chơi với anh em nhé! Trong học tập phải khiêm tốn mới mau tiến bộ. Đừng hứng lên là nói linh tinh. Ở với anh chín bỏ làm mười, ở trường phải dè mồm kẻo vạ miệng. Làm báo vui nhưng khó đấy! Viết dối thì dễ, viết cho hay cho đúng không phải dễ đâu!
Trong thâm tâm chưa bao giờ tôi muốn rời xa anh Đạt. Đã quen có người bao bọc, thời gian đầu mặc áo sinh viên tôi không khỏi cảm thấy bơ vơ…
Mùa khô năm 1986, anh Đạt được phong đại tá, tôi mừng hơn khi anh nhắn sang Kông Pông Thom theo sư đoàn để viết bài phản ánh cuộc sống chiến đấu của người lính tình nguyện. Anh cưng tôi hơn con cái, đi đâu cũng cho xe chở và lính bảo vệ cẩn thận. Làm như tôi là lãnh tụ không bằng.
Hôm ngày lễ thành lập quân đội, thấy tôi mặc đồ dân sự mang máy ảnh đi dạo phố, anh tức tối, mặt sa sầm:
– Này Thụ, mày có còn là thằng lính không?
– Thủ trưởng hỏi em chả hiểu. Thì em vẫn là thằng lính, em mới mò theo anh sang tận đây viết về lính.
– Thế hôm nay là ngày gì? Tại sao mày không mặc quân phục?
Tôi ngớ ra. Anh đưa cho tôi chiếc áo sĩ quan còn thơm mùi vải.
– Mày phải mặc vào không tao tống cổ đi bây giờ.
Chiến trường Campuchia lúc đó căng thẳng và rất phức tạp. Anh nghêm khắc khét tiếng, hơi tí là ký quyết định kỷ luật những người vi phạm quy chế quân tình nguyện. Tôi quen trung úy Lân, người thành phố Hồ Chí Minh, chuyên gia dân vận ở huyện xa mới bị gọi về nhà khách làm kiểm điểm. Lân đẹp trai, giỏi tiếng Khơmer nên dân địa phương rất quý, gọi là Lục thum. Điều đáng lưu ý là Lân yêu một Mémai[1]. Chị ta tên là Sao Phia, chồng bị Pôn Pốt giết, hiện là Hội trưởng phụ nữ huyện. Lân bị quy tội quan hệ nam nữ bất chính với bà góa, mặt mũi bơ phờ vì thiếu ngủ vì lo lắng. Đã vậy tuần nào Sao Phia cũng lên tận nhà khách thăm. Họ gặp nhau, ôm nhau khóc rồi bịn rịn chia tay. Sợi dây tình đã trói chặt hai người rồi, có trời mới bắt họ xa nhau được. Tôi nghĩ thế.
Có lần Sao Phia rủ thêm cả bí thư huyện ủy, chủ tịch huyện, huyện đội trưởng lên thăm Lân, đòi vào sở chỉ huy yêu cầu đại tá Đạt trả Lân về lại địa bàn. Gương mặt Sao Phia có vẻ đẹp mặn mòi, dáng đi duyên dáng hơi khép nép. Anh chàng Lân đã chết mê chết mệt đôi mắt to đen thẳm có cái nhìn hiền dịu thoang thoảng nỗi buồn xa vắng của chị. Sao Phia bàn với Lân rủ anh bỏ trốn về quê chị, hai đứa sống với nhau làm dân cũng được. Lân thở dài lắc đầu nhưng vẫn khẳng định sẽ lấy chị làm vợ dù bị kỷ luật nặng đến mức nào. Hình như Sao Phia đã có thai được vài tháng, thỉnh thoảng lại thì thầm vào tai Lân rồi kéo tay anh đặt vào bụng mình. Mặt Lân bỗng ngời lên rạng rỡ…
Tôi rất thông cảm hoàn cảnh nên âm thầm nghĩ cách cứu Lân. Nói thế nào để anh Đạt chịu nghe là điều cực khó khăn. Hồi đơn vị ở bên Lào, các cô gái hiền lành xinh tươi như trong mộng rất thích múa Lăm vông với bộ đội Việt Nam quanh đống lửa đêm trăng. Tất nhiên lính tráng chúng tôi khoái hơn mèo thấy mỡ, nhưng thằng nào cũng sợ anh Đạt.
– Các đồng chí cứ vui thật thoải mái, múa thật đẹp vào. Cấm chỉ không được sờ vú đấy. Sờ là tao chặt tay. Còn táy máy cái kia mời ra tòa án binh nhận án tử hình. Điều đó không cần bàn cãi.
Tôi nghe mấy sĩ quan kháo nhau có thể Lân sẽ bị tước quân tịch áp giải về nước. Đến mức này mình can thiệp làm sao xoay chuyển nổi cơ sự? Chần chừ mãi, nhân hôm liên hoan chia tay, chỉ còn hai anh em ngồi ôn lại chuyện đời bên chai rượu Bayon, tôi nhắc anh Đạt, xin xóa án kỷ luật cho trung úy Lân.
Anh trợn mắt lên:
– Không được. Mày tưởng tao không thương nó ư? Nó là một thằng tao còn mê huống chi mấy bà Mê mai Campuchia. Tao cần có nhiều sĩ quan giỏi như nó, nhưng tha cho nó tức là tạo cơ hội cho bọn phản động nói xấu quân tình nguyện, nói xấu chính quyền bạn.
– Chấp gì luận điệu của địch, thủ trưởng ơi. Mình sẽ có cách giải thích thấu tình đạt lý.
– Tao hiểu cái tình của thằng Lân là tình yêu đích thực. Cái lý trong bản kiểm điểm cũng là tình yêu đích thực. Nhưng không thể đem tình yêu nam nữ thường tình ra để thanh minh cho sự nghiệp của quân tình nguyện. Không thể đem một mối tình không biên giới để giải thích với Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Xương máu bao đồng đội đổ xuống để cứu dân tộc này… Trời ơi, mày đừng cho tao là thằng quân phiệt.
Có lẽ do hơi rượu hay một sức mạnh tinh thần nào giúp sức tôi đứng dậy vung tay nói oang oang như đang đứng trên diễn đàn quan trọng:
– Em chưa bao giờ cãi lại anh. Em xin lỗi. Anh vừa nói quân đội ta đã cứu dân tộc này thoát khỏi họa diệt chủng, đem lại hạnh phúc cho họ. Em đồng ý một dân tộc bắt đầu từ những con người cụ thể, như Mê mai, như chị Sao Phia. Quân tình nguyện giúp nhiều người, trung úy Lân góp phần đem lại hạnh phúc cho một người bằng tình yêu của mình. Làm cho một người đàn bà góa có chồng, cho chị ta những đứa con, tại sao lại gọi là có tội? Nếu cần anh lập tòa án binh để xử thằng Lân, em xin nán lại, đứng ra bào chữa cho nó.
Đại tá Đạt ngồi yên lặng. Lát sau anh ôm vai tôi, mỉm cười thân thiết:
– Gớm thật. Cái lý của mày hay đấy. Thôi ngày mai em cứ về nước. Anh sẽ gác chuyện thằng Lân lại. Cho nó quá giang xe chở em về lại địa bàn. Hừ hừ… mày đã cản trở được tao, cái thằng lỏi đáng yêu của anh.
– Anh phải hứa tha cho trung úy Lân đấy.
– Thì hứa. Tiên sư mày. Đi ngủ đi, lấy sức mai còn lên đường.
o O o
Khá lâu sau, nhận được thư tôi mới biết cuộc sống của anh Đạt đã thay đổi.
… Rút quân ở Campuchia về, anh chuyển ngành ra dân sự. Anh đã được cấp nhà, cũng coi được, có trệt, có lầu, có khoảng sân nhỏ treo phong lan đặt bể cá kiểng. Anh thấy mình già thật rồi Thụ ơi. Anh đã đón chị vào. Đứa gái lớn lấy chồng, ba thằng sau không thằng nào có nghề nghiệp ra hồn, vào đây đi làm thuê làm mướn lung tung. May là ngoan, chẳng đứa nào hư. Địa phương quý anh lắm, họ phân vào ban viết sử chiến tranh. Chắc chú ngạc nhiên phải không? Một đời thấm đẫm chất Militaire giờ ngồi làm quan thái sư tỉnh lẻ. Thu xếp lên anh chơi nhé! Lúc rỗi rãi đem cái kèn Acmonica ra thổi dỗ thằng cháu ngoại, bỗng nhớ đơn vị ghê gớm.
Tôi cứ nghĩ anh đã yên thân lúc cuối đời.
Cũng tình cờ, tôi gặp lại anh chàng Lân đa tình ngày trước. Lân to béo đến phát sợ, chở vợ con bằng xe hơi đời mới đến chào tôi. Chị Sao Phia nói tiếng Việt khá sõi nhưng vẫn ăn mặc theo lối Khơmer. Trông hai người thật hạnh phúc và khá giả.
– Anh là ân nhân của vợ chồng tôi. Khi ta rút quân, tôi giải ngũ, hai đứa đưa nhau về PhnômPênh mở một tiệm vàng. Đáng buôn bán làm ăn phát đạt thì bị cái họa kỳ thị. Tôi đã nhập quốc tịch, có thẻ căn cước hẳn hoi, đóng thuế đầy đủ nhưng mấy ông UNTAC đến làm phiền hoài. Họ cho là tôi được cài lại. Sau mấy vụ thảm sát Việt kiều, chúng tôi hoảng quá thu vén trở về thành phố Hồ Chí Minh. Hiện đang ở nhờ nhà má ruột.
Tôi chúc mừng vợ chồng Lân rồi nhắc khéo:
– Anh chị nên đến thăm đại tá Đạt, ông mới đúng là ân nhân. Tôi chỉ là người chứng kiến thôi.
Lân không nói gì, xin tôi địa chỉ anh Đạt rồi ra về. Vợ chồng con cái thò tay ra cửa xe vẫy mãi.
Đi quần đảo Trường Sa về, tôi mang theo một món quà của lính đảo tặng đến thăm anh Đạt. Đó là một chiếc vỏ ốc xà cừ lấp lánh khá to. Theo tài liệu nghiên cứu đây là loại ốc hiếm thời xa xưa. Nó đã chết nhưng bên trong có một loài còng gió tá túc. Con còng lớn lên rồi mắc kẹt luôn không ra được, phải mang trên mình một vỏ ốc quá tải, thỉnh thoảng nó lại thò mấy chiếc chân như những que tăm ra cố xoay xở. Chiếc vỏ ốc rung rinh, ánh xà cừ phản quang lấp lánh.
Anh Đạt lấy làm thú vị, ngồi ngắm rồi bật cười ha hả:
– Chí lý. Thật chí lý. Tao bây giờ cũng giống như con còng trong vỏ ốc. Cả đời tung hoành ngang dọc. Về đây có cái nhà thành con ốc mượn hồn. Muốn đi đâu cũng đành chịu.
Chị Đạt, mái tóc đã bạc trắng, có vẻ không vui khi nghe anh nói.
Tôi vội gạt đi:
– Tặng anh thả trên hòn non bộ làm cảnh cho vui mắt. Anh còn thèm chiến trận thì xin mời sang Nam Tư đánh thuê. Đúng là người hiếu chiến. Hòa bình, sum họp vợ con dưới một mái nhà ấm cúng thế này anh còn chưa ưng sao?
Thằng út, đứa con của đêm gặp nhau vội vàng khi tàu dừng ở ga Khoa Trường, giống anh như lột xác, lên tiếng góp vào lời tôi:
– Bố cháu lo những vấn đề mang tính toàn cầu, chú ạ. Hiện nay thế giới có bao nhiêu điểm nóng bố đều theo dõi rất sát.
Anh Đạt lườm yêu nó:
– Mẹ mày, chú mày với cả mày nữa chẳng thông cảm cho tao. Có thể đó là bệnh nghề nghiệp của người viết sử chiến tranh. Ai mà thích đổ máu vì súng đạn, có họa thằng điên!
Tôi biết anh Đạt khó thích ứng với hoàn cảnh cuộc sống dân sự. Ở quân đoàn ai cũng nói anh dại. Thà về hưu, đơn vị cấp đất, nhờ anh em mỗi người một tay làm nhà rồi nghỉ ngơi có hơn không. Chui đầu về tỉnh lẻ, một vị đại tá chiến công lẫy lừng nhưng ra đường vào công sở có ai biết là ai. Nếu không nhờ mấy anh em lính cũ sư đoàn chạy chọt các cửa dùm, chưa chắc anh đã có căn nhà này mà ở. Máu cục bộ địa phương thì nơi nào chẳng có, nên rất khó hòa nhập thoải mái.
Suốt bữa rượu, anh Đạt trầm ngâm nhìn tôi ăn uống rồi cuối cùng thốt ra một câu đầy dư vị cay đắng:
– Mình đi khắp xứ Đông Dương, khắp nước Việt Nam, bây giờ mới thấm thía thế nào là dân ngụ cư. Tự nhiên nhớ làng quê, nhớ phiên chợ Còng loe ngoe hàng quán, nhớ bến cá gió lùa lẫn khuất mùi nước mắm…
o O o
Thằng út đến nhà tôi lúc mờ sáng, nó òa òa khóc như mưa gió:
– Chú ơi, bố cháu chết rồi!
Tôi bàng hoàng tưởng muốn ngã sụp xuống.
Anh khoẻ mạnh hăm hở với đời thế, sao vội đi hở anh? Anh hẹn hôm nào ra Bắc chơi một chuyến cho ra chơi. Xuống chợ Còng uống rượu ăn cua nướng, theo thuyền đánh cá ra đảo Hòn Mê bắt hải sâm nhúng tái làm gỏi, đi vào xuống xe Đông Hà lang thang dọc đường số 9 vào nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn mắc võng nghỉ lại thăm mộ cho bằng hết những người trung đoàn cũ nằm lại đó. Hết tiền à, không lo tao thổi kèn, tao đeo kính đen giả làm xẩm ngả mũ cối xin, mày làm cò mồi chìa tiền ra cho thế nào chẳng có người cho theo… ha… ha.
Anh hẹn sao anh không chờ? Sao anh lỡ hẹn? Có bao giờ anh lỡ hẹn với ai đâu…
Nghe kể lại mới biết anh chết vì chuyện hóa giá căn nhà đang ở. Giá sáu mươi triệu, từng ấy năm công tác anh được giảm mười một triệu, còn lại bốn chín triệu. Khổ thế, cứ nghe triệu triệu mà kinh cả người. Anh hoảng, tìm đâu ra từng ấy tiền. Có người nói nếu có bằng liệt sĩ, có thẻ thương binh thì được tiêu chuẩn nhà tình nghĩa. Anh đi các nơi xin xác nhận. Bây giờ mới biết vì sao anh xin về đây: ông cụ thân sinh là liệt sĩ thời Nam tiến, hiện còn mộ nằm ở nghĩa trang tỉnh. Hội đồng hóa giá cho anh giảm 12 triệu, chạy mờ mắt bở hơi tai lôi cả ông bố thời Nam tiến dậy, kết quả chỉ thêm một triệu đồng, chỉ xấp xỉ một chai rượu ngoại, chưa đủ một bữa đi bia ôm nhà hàng.
Tay cán bộ tiếp nhận hồ sơ giải thích rất nhã nhặn:
– Qui định chung không được giảm quá mười hai triệu, bác ạ.
Anh Đạt nổi khùng:
– Người ta liệt sĩ mười hai triệu. Bố tao cũng liệt sĩ có một triệu thôi à?
– Bác đừng nóng, nếu tính tiêu chuẩn con liệt sĩ thì bác phải thôi tiêu chuẩn Đại tá. Cơ chế thị trường mà! Bác phải thương Nhà nước với chứ! Cộng thành tích cống hiến của cả nước lại thì lấy đâu ra nhà mà cấp hở bác?
– Cơ chế cái con c…
Anh Đạt văng tục rồi bỏ về nằm ốm liệt giường.
Lúc ấy Lân đến thăm. Lân lo lắng đưa anh đi viện, phụ thêm tiền thuốc men chu đáo. Cả nhà rất cảm động trước tình nghĩa người thuộc cấp cũ. Thằng út chủ động đề nghị Lân mua căn nhà làm chỗ ở và buôn bán. Như thế anh Đạt sẽ có tiền nộp hội đồng hóa giá, số dôi ra mua một mảnh vườn có ngôi nhà nhỏ ngoại ô để anh chị dưỡng già.
Không ngờ anh Đạt đồng ý:
– Anh biết chú tốt. Chú mua tức là chú giúp anh. Anh không muốn để nợ nần lại cho con cháu trả. Anh cũng chẳng ham hố cái nhà to…
Lân trả tiền sòng phẳng theo giá thị trường, đưa vợ con về ở làm ăn. Bất ngờ thuế nhà đất tăng vọt. Bên mua chịu thuế thì Lân hết vốn. Bên bán chịu thuế thì coi như anh Đạt chẳng còn gì. Cái bí nảy ra cách gỡ bí. Chính chỗ này làm anh Đạt phát bệnh trọng. Luật quy định người thừa kế được miễn giảm thuế. Anh Đạt phải viết giấy làm sao để Lân được sở hữu căn nhà một cách hợp pháp.
Anh buồn suốt một tuần, cả ngày không nói câu nào, bữa ăn chỉ húp lưng chén cháo trắng. Ăn miếng ngon nào là nôn ra thông thốc. Anh không chịu đi nằm viện. Nửa đêm anh lồm cồm bò dậy tìm giấy bút ngồi vào bàn viết…
Tôi đã đọc nhiều bản di chúc. Nói chung người sắp chết thường sáng suốt. Chữ anh viết chân phương rõ ràng trên giấy trắng có hàng kẽ… Nhưng anh Đạt ơi, có lẽ đây là bản di chúc lạ lùng nhất trên cõi đời.
Tôi có bốn con đẻ và một con nuôi. Các con đẻ đã được ăn học có nghề nghiệp, tôi tin các con sẽ vươn tới tương lai bằng nghị lực và hai bàn tay của chính mình. Riêng con nuôi là Nguyễn Lân chưa có nhà. Tôi quyết định cho cháu được thừa kế căn nhà được hóa giá, kính mong cơ quan hữu trách xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của cháu.
Hơn bốn mươi năm theo Đảng phục vụ quân đội, tôi luôn coi mình là người cộng sản. Tôi yên tâm và tự tin với suy nghĩ ấy. Giờ chết đi, tôi hoàn toàn thanh thản. Không băn khoăn oán trách một điều gì với bất cứ ai.
Phần tang lễ nhờ đơn vị cũ cho tôi được hưởng theo quy cách người lính. Phiền đội quân nhạc cử hai người một đồng chí Ô-boa, một đồng chí Trom-pet đến thổi hai bài. Bài Tiểu đoàn 307 thổi lúc truy điệu, bài Vì nhân dân quên mình thổi lúc hạ huyệt. Thế là tôi mãn nguyện.
Các con. Bố là lính, coi như bố hy sinh ở chiến trường. Đừng nhận tiền phúng điếu. Lẽ đời có lúc phải biết từ chối, mong các con hiểu lòng bố. Chiếc kèn Acmonica bố gửi tặng phòng truyền thống sư đoàn. Chú Thụ sẽ thay mặt mẹ và các con làm chủ tang. Bố tin chú hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi đã tiễn đưa nhiều đồng đội hy sinh nhưng tôi gan lì ít khóc. Đọc xong những dòng di chúc của anh Đạt, tôi khóc lả người, khóc hết nước mắt một đời lính gom góp lại.
Ôi anh Đạt ơi, anh sẽ được thỏa lòng. Cầu chúc anh yên giấc ngàn thu.
– – – – – – – – –
[1] Mémai: phiên âm từ tiếng Khmer, có nghĩa phụ nữ góa chồng. (BT)