41. Chuyến đò tốc hành – Nguyễn Lê Hồng Hưng (Nguyễn Tấn Hưng, 1959- )
42. Mùa đông ấm áp – Nguyễn Thị Thu Huệ (1966- )
43. Chồng nhặt – Nguyễn Thế Duyên
44. Cho em mượn bờ vai – Nguyễn Thế Duyên
45. Giáo đường xuân – Dương Thụy (Dương Thụy Phương Khanh, 1975- )
46. Cạo gió mùa xuân – Dương Thụy (Dương Thụy Phương Khanh, 1975- )
47. Tình lỡ… – Nguyễn Ngọc Tư (1976- )
48. Cuối mùa nhan sắc – Nguyễn Ngọc Tư (1976- )
49. Nụ cười bí ẩn – Trương Anh Quốc (1976- )
50. Ráng chiều rực đỏ – Nguyễn Thị Việt Hà (1978- )
51. Trăng lặng lẽ – Nguyễn Hồng Dung
Chuyến đò tốc hành – Nguyễn Lê Hồng Hưng (Nguyễn Tấn Hưng, 1959- )
Tôi ngồi bó gối trong khoang đò tốc hành Sông Đốc–Cà Mau, nhìn đám người lố nhố bán buôn trên bến và những hành khách lần lượt xuống đò. Yến với Hằng đứng trước mũi, vai mang túi hành trang, đảo mắt ngó quanh quất tìm chỗ ngồi. Chợt thấy tôi, hai đứa cố chen lấn đám hành khách đi vô khoảng giữa để ngồi kế tôi cho bằng được. Cả ba lần gặp Yến và Hằng hoàn toàn do sự ngẫu nhiên, vậy mà hai đứa xem tôi như người quen thân từ lâu lắm.
Đò chật nứt, chen mông ngồi chưa đụng sạp, Hằng mở miệng định hỏi gì đó nhưng Yến đã nhanh miệng hớt lời: “Chú đi đâu vậy?”
“Mỹ Tho.”
“Chừng nào chú dìa bển?”
“Tuần tới.”
Bây giờ Hằng mới được chen vào, hỏi: “Rồi bao lâu chú mới dìa nữa?”
“Có lẽ vài ba năm.”
“Chừng nào dìa chú ghé nhà con chơi.”
Tôi ừ hữ cho qua chuyện, nào ngờ hai đứa cắm cúi ghi địa chỉ đưa cho tôi còn căn đi dặn lại biểu tôi đừng quên.
Khi đò tách bến ra giữa dòng, gã thanh niên ngồi bên cạnh day qua, hỏi: “Tụi mày chừng nào trở xuống nữa?”
Thấy cả hai đứa không trả lời, gã bèn bồi thêm một câu: “Tụi mày mà bỏ đi thì “Hương Biển” sẽ ế!”
Bấy giờ tôi mới nhìn kỹ gã thanh niên. Hắn bận áo sơ mi trắng, hở cổ khoe sợi dây chuyền vàng mặt mỏ neo, quần màu xám tro, tay ôm cặp táp. Có lẽ anh ta là cán bộ huyện hoặc cán bộ xã gì đây. Thấy tôi nhìn, hắn ta nở nụ cười đểu đưa ra ba bốn cái răng vàng như thầm nói với tôi: “Đừng tưởng hai con nhỏ đó hiền mà lầm!” Yến và Hằng vòng tay bó chưn, càm kê lên đầu gối giống như hai con trút cuốn tròn, mắt long lanh muốn khóc!
Sự yên lặng của Yến và Hằng làm tôi áy náy, tôi lơ đãng ngó mặt ra dòng sông. Chiếc đò lướt nước ào ào qua mặt những chiếc xuồng chèo dọc theo hai bên mé. Những cô thôn nữ áo bà ba đủ màu sắc, quần đen mượt, đầu đội nón lá, hai tay ghì chặt cán chèo đưa đẩy, xuồng nhẹ nhàng lướt nước theo nhịp của mái chèo. Hình ảnh người con trai đứng chèo, chở cô thôn nữ trên chiếc xuồng ba lá làm tôi bồi hồi nhớ lại tuổi đôi mươi.
À, đây là cảnh quê hương thanh bình mà tôi đã mơ ước trong những năm dài lưu lạc! Nhưng khi nhìn qua Yến và Hằng, tôi bỗng nhớ lại trong những ngày về bên dòng sông cũ. Và một ý nghĩ lạ len vào tâm tư. Phải rồi, cái ý nghĩa của sự thanh bình đâu chỉ đơn giản trên một giòng sông!
Đúng ra lần này, tôi trở về Sông Đốc cũng được, hổng về cũng chẳng sao. Vì những việc còn lại sau đám ma của má tôi, anh Bảy và chị Năm tôi ở nhà lo cũng được.
Nhưng hôm chị Sáu sửa soạn về Úc, chỉ có dặn tôi: “Chị có nhờ anh Hai ở Mỹ Tho đặt trên thành phố làm tấm bia, em chịu khó lên trển lấy, gắn xong cho má rồi hả dìa bển.”
Ngày trước vì hoàn cảnh chiến tranh, ba má tôi phiêu bạt xuống miệt này. Mãi đến ngày ba tôi giải ngũ, ông bà mới dắt nhau về xứ sở. Bà con đã tản lạc gần hết và ông bà nội, ngoại tôi đã qua đời. Mang ân hận ở trong lòng, nên mỗi khi nhớ tới, hai người tủi thân sụt sùi rơi nước mắt, nói: “Giàu đặng trung đặng hiếu, nghèo mất thảo mất ngay”. Còn tôi không phải nghèo đến đỗi không có tiền về xứ, mà do tình hình đất nước chưa yên, cộng thêm máu giang hồ vặt, nên tôi còn chần chờ! Nếu không hay tin sớm má tôi qua đời thì tôi cũng chẳng về đây để làm gì. Cũng vì lẽ đó mà anh chị em trong gia đình xem tôi như người con bất hiếu. Sợ tôi mang mặc cảm tội lỗi, hễ có dịp tỏ lòng hiếu thảo thì anh chị em “nhường” cho tôi làm. Theo tôi, chuyện hiếu thảo là chuyện của tấm lòng, màu mè bên ngoài chỉ là hình thức không đáng kể. Tuy nhiên tôi đồng ý đi hàng trăm cây số lấy tấm bia, là vì tôi nhận thấy việc làm này có ẩn chứa một ý nghĩa thiêng liêng nào đó.
Cũng như những tấm bia mộ khác, khắc tên họ, ngày tháng năm sanh và ngày tháng năm từ trần. Cuối cùng có hàng chữ “các con lập mộ”. Đại khái vậy thôi, nhưng ở suối vàng, má tôi mà biết được chắc bà sẽ hài lòng vì khi bà mất, các con tản lạc tứ xứ đã tụ hết về đây cùng góp phần xây mộ cho bà. Thấy chân dung cẩn trên tấm bia hơi mờ, tôi thắc mắc hỏi vì sao.
Anh Hai, người anh bạn dì của tôi ở Mỹ Tho giải thích: “Tuy hình cẩn vô bia không được rõ ràng, nhưng mưa gió, thời gian sẽ không làm phai nhạt.”
Ảnh nói sao tôi nghe vậy, chớ thiệt ra tôi thấy bên Âu Châu những thợ cẩn kiểu nầy đứng ngoài đường phố, chụp ảnh khách hàng rồi cẩn liền tại chỗ vô tách, ly, dĩa… bằng sành, để người ta đem về nhà chưng chơi trong tủ kiếng. Hình ảnh màu sắc rõ ràng, chớ đâu mờ câm như chiếc bóng, mà còn phải đặt tuốt trên Sài Gòn mới làm được. Tuy vậy tôi cũng cẩn thận gói tấm bia lại bỏ vô bao. Đêm hôm đó tôi ngủ lại nhà anh Hai ở Mỹ Tho, rạng sáng hôm sau tôi ra bến xe liên tỉnh đi thẳng một lèo về bến xe Cà Mau. Sau đó tôi đón xe lôi xuống bến đò.
Không quen cách sinh hoạt nơi đây, khi đổi tiền, tôi nhét đầy túi quần túi áo, cho nên chen chúc giữa đám đông, tôi sanh nghi những người chung quanh ai ai cũng là dân chôm chĩa, cứ chốc lát tôi rờ túi thăm chừng. Thật ra chỉ vì ở Âu Châu không khi nào tôi bỏ tiền nhiều trong túi nên bị ấn tượng đó thôi chớ xứ sở này chắc đâu đến đỗi tệ dữ vậy.
Xe lôi vừa đổ tôi xuống bến đò, tức thì cả đạo quân phu đò vây quanh mời la chói lói. Người này hỏi: “Anh dìa Khánh Hưng, Đá Bạc hả? Xuống đây chạy liền”, kẻ nọ hỏi: “Anh dìa Bà Kẹo, Cái Đôi hả? Xuống đây chạy liền”.
Tôi nói: “Tui dìa Sông Đốc vàm”.
Tức thì một anh chồm tới hô lớn: “Sông Đốc hả? Sông Đốc vàm, xuống đây, xuống đây chạy liền!”
Anh ta vừa nói vừa giơ tay chỉ xuống chiếc vỏ lải đậu dưới bến. Những ngày đầu tôi rất khó chịu khi nhìn cảnh giành giựt khách của mấy anh lơ xe, phu đò và sự bán buôn mời mọc, nhưng dần dà tôi cảm thấy vui vui.
Để khỏi lôi thôi mất thời giờ, tôi nói với anh ta: “Được rồi, tui sẽ đi đò anh, nhưng tui chưa xuống bây giờ, tui ngồi ở quán cơm bên kia đường, chừng nào đò anh “chạy liền” anh qua đó kêu tui thì tui xuống liền!”
Có lẽ nhận được sự dí dỏm của tôi nên anh ta cười một cái, rồi ân cần bước theo tiễn tôi một đoạn đường ngắn, xong anh quay lại bến đò. Có một chiếc xe lôi mới đổ người xuống, cũng những giọng ban nãy: “Khánh Hưng, Đá Bạc chạy liền”, “Bà Kẹo, Cái Đôi chạy liền” và có cả tiếng anh phu đò của tôi: “Sông Đốc, Sông Đốc vàm chạy liền”…
Tôi băng qua lộ ghé vô quán cơm, cái quán hôm mới về tôi thấy một cô gái duyên dáng ngồi bán, nhưng bây giờ lại là một bà già và một bé gái trạc tuổi mười ba, mười bốn chạy bàn.
Thấy tôi bước vô, em đi đến miệng tía lia: “Chú chú, mời chú vô trong kia ngồi.”
Tôi theo em đi vô trong góc quán ngồi xuống cái ghế nơi có chiếc bàn trống.
“Chú ăn gì?”
Chưa đợi tôi mở miệng thì cô bé đã kể vanh vách: “Ở đây có cơm sườn, thịt nướng và cháo lòng; nước uống có cà phê đá, nước đá me, nước chanh…”
Cô bé còn muốn kể thêm nhưng tôi chận: “Ở đây có rượu hông?”
“Dạ, dạ có, chú uống rượu đế hả chú?”
“Ừ cho chú một xị và một dĩa sườn nướng.”
“Dạ, chú ăn cơm hông chú?”
“Hông cưng.”
Cô bé đi vô trong tự tay gắp thịt bỏ lên lò nướng. Sẵn than đương đỏ, mỡ sườn nhiểu xuống, lửa phựt xèo xèo, mùi gia vị bốc lên thơm lừng.
Tiếng la ó như ong vỡ tổ bên ngoài làm tôi giựt mình ngó ra. Một chiếc tàu đò vừa cặp bến. Người lên kẻ xuống lao xao, mấy anh khuân vác chuyền nhau những bao bố nặng trịch. Tôi đoán chừng, đó là những bao cá khô đồng được chở ra từ miệt trong U Minh.
Cô bé khệ nệ bưng mâm rượu và thức ăn ra để trên bàn, sắp ngay ngắn, rồi nói: “Mời chú.”
Tôi cám ơn rồi rót rượu ra nhâm nhi và nhấm nháp thức ăn. Những người bán buôn theo bến xe, bến đò lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng. Những phần ăn dành cho khách đường xa thì thiếu vệ sinh. Rượu pha nước nhiều quá nên lạt nhách lạt nhẽo, sườn nướng bủng xì bủng xịt, nước mắm chế biến làm sao mà hương vị như nước muối pha dấm đường. Vậy mà những người ngồi bên kia bàn hì hục vừa ăn vừa húp trông ngon lành. Mấy em nhỏ bận áo quần như tấm lưới rách, đi tới đi lui chờ thực khách ăn xong, chúng bưng thức ăn thừa đổ vô chiếc thau nhôm móp méo, đóng ten, có đứa cúi xuống húp cặn tô nước lèo. Tôi rót rượu uống liền liền, nhưng rượu lạt quá chưa đủ độ ngăn chận nỗi buồn dâng lên cùng khắp.
“Anh ơi anh! Xuống đò, tới giờ chạy rồi!”
Tôi ngó ra, thấy anh phu đò hồi nãy giơ tay ngoắc ngoắc, miệng hối lia hối lịa. Tôi hớp vội hớp rượu cuối cùng, xếp lại đồ đạc, kêu cô gái tính tiền và thưởng cho cô phần tiền dư. Tôi nhìn xuống đồng hồ tay, hơn ba giờ rưỡi. Tính ra từ lúc anh phu đò mời tôi đến khi đò “chạy liền” mất gần hai tiếng đồng hồ.
Tôi là người xuống cuối cùng, nên khi chen ngồi ngay ngắn xuống khoang, thì đò đã de ra khỏi bến. Máy xe hơi được tân trang gắn đuôi tôm, đặt xuống chiếc vỏ lải làm đò tốc hành, chạy xé nước ào ào. Tôi thích thú ngồi ngó lên dãy nhà hai bên bờ sông giựt lùi. Chẳng bao lâu đò đã ra khỏi ngã ba Tắc Thủ và rẽ ra sông Ông Đốc.
Đây dòng sông rộng, hai bên ruộng lúa, chen lẫn vài tán rừng, xa xa vài vườn dừa cao đọt in dưới nền trời xanh xanh, có mây trắng gợn. Sóng chập chờn tạt nước vô khoang. Chủ đò liền buông rèm xuống. Ngắm cảnh không được nữa, tôi mới day người lại dựa vô be đò. Hành khách trong khoang không đông lắm, nên ngồi rất thoải mái. Những người dân quê lên tỉnh trở về trông người nào cũng mệt lả, có vài người lim dim ngủ gà ngủ vịt, một bà mẹ ngồi vạch vú cho con bú rất tự nhiên. Ngồi cạnh bên tôi có hai cô gái trạc mười sáu mười bảy tuổi. Cô bận áo màu xanh lá cây, cổ tròn, quần đen đọc chầm chậm: “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không duyên, đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành…”. Cô bận bộ đồ bông ngồi cắm cúi ghi ghi chép chép bài hát xuống quyển sổ học trò kê trên bắp đùi. Nhìn hai cô gái hồn nhiên với bài hát của tuổi yêu đương, tôi cũng vui lây và nhớ lại mình hồi thời mới lớn.
Đợi cô bận áo xanh đọc hết câu, tôi hỏi: “Cô tên gì dậy?”
Cô bé lễ phép trả lời: “Dạ con tên Yến chú.”
“Còn cô kia?”
Nghe tôi hỏi cô bận bộ đồ bông đương đọc rà lại bài hát ngưng ngang, ngước lên trả lời: “Dạ, con tên Hằng.”
“Hai cô ở Sông Đốc vàm hả?”
Yến đáp: “Dạ hổng phải chú, tụi con quê ở Long An, xuống thăm bà chị ở Sông Đốc.”
Bắt được chuyện, tôi bèn hỏi tiếp: “Chị cô mần gì ở dưới?”
“Dạ, bán quán cà phê.”
“Quán nằm khu nào?”
“Dạ, tụi con mới xuống đây lần đầu nên cũng hổng biết nữa, nhưng bà chị có dặn khi tới Sông Đốc vàm hỏi quán Hương Biển thì nhiều người biết.”
“Hương Biển… tên nghe hay quá hén!”
Hằng chen vô, hỏi: “Mà chú biết hôn chú?”
“Rất tiếc, chú đi mần ăn xa, lâu lắm rồi chú mới dìa nên chú hổng biết.”
Chuyện vãn trời trăng mây nước một hồi, đò đã tới bến huyện. Chúng tôi mua bánh mì thịt, nước đá chanh chia nhau ăn uống. Nhờ trên đò có bạn đồng hành, tôi cảm thấy đường sông rút ngắn lại. Chẳng bao lâu đò đã đến Sông Đốc vàm, tôi từ giã suông hai đứa, bước lên bến và không nghĩ sẽ gặp lại dầu bất cứ ở nơi nào.
Xong chuyện mồ mả, tính ra tôi còn lưu lại Sông Đốc được hơn hai tuần lễ. Trong thời gian này tôi có thể thăm bạn bè và viếng cảnh quê hương. Nhưng sau những ngày tang chế, đi tới đi lui mệt mỏi, trước tiên tôi cần nghỉ ngơi cho khoẻ cái đã. Chiều hôm đó tắm rửa, cơm nước xong tôi lên giường đánh một giấc thẳng cẳng…
Đương mê man trong giấc ngủ chợt nghe như có tiếng sấm sét nổ vang. Phản ứng tự nhiên, tôi ngồi bật dậy bước nhanh xuống giường. Cùng lúc tôi nhận ra, cái quán cà phê cạnh bên nhà mở máy hát gì mà nghe như tiếng pháo kích. Dòm đồng hồ tay mới có năm giờ sáng, có lẽ người trong nhà đã quen với cảnh nầy nên còn ngon giấc. Tôi nằm xuống định ngủ lại, nhưng máy cứ hát hết liên khúc này tới liên khúc khác, làm tôi không sao chợp mắt.
Trời vừa sáng, thằng Hiếu với thằng Chiến vô nhà rủ tôi ra phố uống cà phê. Uống chưa hết tách cà phê thì thằng Hân tới, như đã hẹn trước, tụi nó đứng dậy trả tiền cà phê, rồi kéo tôi xuống bến sông kêu đò đi qua vàm xẻo Quau.
Tôi thắc mắc, hỏi: “Mởi tảng sáng mà tụi mày qua xẻo mần gì? Bộ muốn bắt ba khía hả?”
Thằng Hân giọng có vẻ hãnh diện, nói: “Xẻo Quau bây giờ hổng có rừng rú như hồi trước nữa đâu nghe mậy.”
“Có gì ở bển?”
“Thì qua bển đi rồi sẽ biết.”
Xẻo Quau ngày trước là một thẻo đất với rừng cây dà, cây dá, cây mắm, cây dẹt mọc tạp nhạp. Hai bên rạch xẻo ô rô, cóc kèn đan chằng chịt với nhau. Nhờ rừng rú âm u rất thuận tiện cho cá tôm sanh sôi nẩy nở, nâng đỡ rất nhiều dân nghèo còn chưn ướt, chưn ráo tới đây lập nghiệp. Gia đình tôi cũng có một thời gian sống nhờ tài nguyên của con xẻo nầy.
Bây giờ thì khác hơn xưa nhiều lắm, nhà cửa mọc lên như nấm. Dọc theo bờ sông nhà sàn dựng lên lổm chổm. Đò cặp vô một căn nhà sàn rộng, lúc chưa bước lên tôi ngỡ đây là một vựa cá tôm khô gì đó. Nhưng sao không nghe mùi khăn khẳn quen thuộc? Sự thắc mắc nầy chưa được hỏi, thì sự ngạc nhiên kia liền tràn tới.
Vừa bước lên bến cầu, một chị phấn son lòe loẹt từ trong buồng đi ra vồn vã chào mời: “Lâu rồi mới thấy mấy anh qua chơi.”
Đoạn chị ta day qua tôi, nói: “Mấy anh nầy thì quen quá rồi, còn anh tui ngờ ngợ đã gặp ở đâu rồi.”
Cái kiểu nói dóc một cách “lịch sự” trơn tru như vầy tôi không mấy gì ngạc nhiên. Tôi gượng cười và nói: “Ờ, gặp nhau hồi mười mấy năm trước ở đâu đó.”
Chị ta cười một cái: “Mấy anh chờ chút.”
Có lẽ mấy thằng bạn của tôi đã quen sinh hoạt với quán. Tụi nó tự động rinh bàn ghế trong góc nhà sắp ra một khoảng trống. Cạnh bên có một căn buồng che bốn phía bằng những tấm màn bông, tôi đoán chừng có một nhóm người đương ăn nhậu ở trỏng vì có tiếng cười nói lào xào. Như thể xác định sự thắc mắc của tôi, một người đàn ông đứng tuổi, bận quân phục, vai mang quân hàm đỏ tươi, từ trong vẹt màn đi ra. Mặt ông ta đanh cứng, không ngó ai, ông đi thẳng ra sàn cầu, đứng vạch quần đái lỏn tỏn xuống dòng sông.
Sau khi sắp xong bàn ghế, các bạn kêu tôi cùng ngồi. Cái chị hồi nãy, tôi đoán là chủ quán, từ trong đi ra, chị ta kéo rẹt rẹt bốn tấm màn bông treo bốn bên lại. Trong nháy mắt chúng tôi ngồi trọn lỏn trong căn buồng dã chiến. Tôi hơi sửng sốt, không ngờ ở nơi mà lòng tôi luôn nghĩ là khỉ ho cò gáy lại có chuyện lạ như vầy. Liền đó Yến cùng với ba cô gái khác ăn bận hở hang, lòe loẹt, mặt trét phấn, môi thoa son như sắp sửa ra tuồng, mỗi cô cầm một chai bia khui sẵn và một cái ly. Cái chị hồi nãy bưng ra một dĩa đậu phộng để lên bàn, rồi phân chia mỗi cô ngồi cạnh một chàng. Tôi từ xa mới về được các bạn nhường cho cô trẻ nhứt là Yến. Chị chủ coi như xong nhiệm vụ, chị ta lịch sự rút lui ra ngoài, nhưng không quên chúc chúng tôi ăn chơi vui vẻ.
Mọi chuyện diễn biến quá nhanh làm tôi cứng mình không kịp phản ứng gì hết. Bạn bè đặt đâu tôi ngồi đó, rủ uống tôi uống, mời ăn tôi ăn. Thằng Chiến nhướng mắt ra hiệu biểu tôi “làm gì” với Yến đi… Đời tôi phiêu bạt đã nhiều và nhớ quê nhà cũng lung lắm. Nhưng hôm nay tôi trở về đây đâu phải vì nhớ nhung ba cái chuyện tầm bậy tầm bạ nầy. Cho nên tâm trí tôi lúc nào cũng quay về người xưa cảnh cũ. Giả dụ bây giờ là một đêm đầy trăng, dưới dòng sông ngập ánh lung linh, hiện tại đều biến mất, còn lại một chòi lá xác xơ, mơ màng bên khu rừng tạp nhạp. Tôi sẵn sàng đóng vai chú Bảy Chài, bác Tư Cua hay ông Ba Đặt Lợp… rồi tôi sẽ kể cho con Yến nghe những câu chuyện về người dân trước đây với hai bàn tay trắng, nhờ sự tương ái với nhau mỗi khi tắt lửa tối đèn, họ khai hoang rừng rậm lập nên làng xã. Cũng từ đó, dòng sông mới có tiếng hát hò của những gái trai miệt nầy cất lên giữa đêm khuya thanh vắng…
Có lẽ thấy tôi không bộp chộp nên Yến mới rụt rè, bưng ly lên, nói: “Mời chú.”
Bất chợt thằng Chiến nổi quạu móc tiền chìa qua cho Yến rồi quát: “Nè, cầm lấy rồi đi ra ngoài!”
Tôi ngạc nhiên day qua hỏi: “Cái gì vậy mậy?”
Nó trả lời với vẻ bất bình: “Bộ mầy hổng thấy nó kêu mầy bằng chú hả?”
Tôi nói: “Tưởng chuyện gì, chớ tao thấy Yến cũng cỡ tuổi cháu tao ở nhà.”
“Nhưng mà chỗ này thì khác, mày ở ngoải mới dìa hổng biết chớ chơi với mấy đứa này mà thiệt thà quá nó lờn mặt.”
Tôi cười. Bạn bè rủ mình đi chơi vậy mà uống chưa hết ly bia đã muốn gây lộn với người ta rồi. Tôi định nói ý mình cho nó nghe, nhưng thấy không tiện nên mới xoa dịu: “Thôi, tao biết rồi, cho tao xin, đương vui vẻ mà.”
Đoạn tôi day qua Yến, nói: “Cháu cứ tự nhiên, thằng bạn chú nó hơi khó tánh.”
Nói xong tôi mới bưng ly lên mời bà con vô một cái. Có như vậy thằng Chiến mới im cái miệng và nhét tiền vô túi. Thằng Hiếu không biết nghĩ gì cứ nhìn tôi cười cười, lâu lâu hớp một ngụm bia, nuốt ực rồi day qua con nhỏ ngồi bên hun cái chụt. Còn thằng Hân vô mấy chai sần sần, nổi hứng ôm con nhỏ kế bên, vừa hun vừa bóp vú như thể chết thèm đâu từ đời kiếp nào vậy.
Tôi kiếm chuyện dả lả với Yến để cho mấy thằng bạn ăn chơi “miệt biển” của tôi khỏi bận tâm rầy rà. Tôi hỏi: “Yến bao nhiêu tuổi?”
“Dạ, mười bảy.”
“Mười bảy bẻ gãy sừng trâu.”
Yến cười duyên rồi ngả đầu lên vai tôi. Nhìn con nhỏ mà lòng tôi đầy ắp nỗi buồn. Mấy đứa cháu tôi ở nhà cũng cùng trang lứa, tuy không giàu có nhưng chúng nó may mắn đủ cơm ăn áo mặc, có cha mẹ lo lắng đàng hoàng. Còn Yến cha mẹ ra sao mà mới tuổi này đã lao vào cuộc sống trụy lạc như vầy? Tôi muốn hỏi về gia cảnh của Yến nhưng ngại. Bạn bè bày tiệc đãi tôi với mục đích giới thiệu cảnh quê hương đổi mới. Nhưng tôi cứ lo hỏi chuyện đâu đâu, chỉ tổ gây khó chịu bạn bè.
Thấy tôi cứ mãi trầm ngâm nên Yến mới gợi chuyện: Bộ chú là Việt kiều hả chú?”
“Ừa.”
“Dậy mà hồi gặp chú con hổng biết.”
“Dậy hả?”
Tôi không muốn đem chuyện Việt kiều ra bàn nên hỏi trớ: “Còn cô gì đi chung với Yến đâu rồi?”
“Con Hằng hả?, nó đang ngồi hát bên kia kìa.”
Tôi lắng tai nghe phía buồng bên kia, có tiếng đũa gõ vô chén dĩa lóc cóc leng keng nhịp theo tiếng hát, điệu dân ca: “Trèo lên… lên trèo lên.. lên em cởi cởi nút quần…” Tiếng hát dứt ngang, tiếp theo tiếng ai ái của người con gái và tiếng cười rộ của mấy gã đàn ông…
Âm thanh bên kia buồng như gợi hứng cho mấy thằng bạn của tôi. Bây giờ tụi nó không còn ra vẻ sành sỏi để lưu ý tôi nữa, mạnh đứa nào đứa nấy vạch vú của mấy con nhỏ vừa bóp vừa hun. Bên trong kia có một cái buồng kín, cứ một lát lại nghe dội nước rào rào. Chưa đầy mười một giờ sáng nắng đã tỏa vàng trên mặt sông và gió đồng hiu hiu thổi, vậy mà không khí trong phòng ngột ngạt làm sao. Tôi đứng dậy, móc túi giơ cho Yến tờ giấy bạc, Yến cầm lấy nói lời cám ơn trong cổ họng. Mấy bạn tôi giựt mình, buông mấy cái “vú” ra và hỏi tôi tại sao chưa “chơi” gì hết mà định bỏ đi đâu. Tôi viện cớ, cần về nhà bàn với anh tôi chút chuyện. Hiếu đề nghị Chiến và Hân ở lại tiếp tục chơi, rồi câu vai tôi ra bến gọi đò.
Khi đò vừa de ra khỏi bến, tôi ngó lên thấy trên vách có tấm bảng nền xanh đề chữ màu đỏ: “Cà Phê Hương Biển”. Tôi đã sống lăn lộn đó đây, dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh bất cứ ở nơi nào, vậy mà về lại quê hương tôi phải cố gắng hòa hợp với mọi người như đến một xứ lạ. Tôi bị lạc loài ngay trên chính quê quán ngỡ còn mộc mạc của mình. Đò ra giữa dòng, mà tôi vẫn còn như mộng.
Chợt Hiếu hỏi tôi: “Mầy còn nhớ Lệ Hương không?”
“Nhớ chớ.”
Một kỷ niệm đẹp thoáng hiện về trong trí, tôi liên tưởng ngay đến một cô hàng quán, duyên dáng, khuôn mặt tròn trịa, mắt đen, chưn mày rậm, không thoa son nhưng môi lúc nào cũng đỏ. Tóc Lệ Hương dài tới mông, nàng thường bận áo cổ rộng, đeo dây chuyền vàng mặt cẩm thạch kiểu trái tim ôm vừa cổ trắng nõn trắng nà. Tôi và Hiếu có thể đến nhậu bất cứ lúc nào và ký sổ bao nhiêu cũng được. Hai đứa đều mê Lệ Hương, nhưng nàng thương thằng Hiếu vì nó đẹp trai hơn tôi rất nhiều.
Tôi hỏi: “Lệ Hương dạo này ra sao?”
Hiếu trả lời một cách bình thản: “Cô ta bây giờ làm “chị đĩ” ở ngoài đê, mầy muốn hông? Tao dẫn mầy đi!”
Như bị tát thêm ly nước lạnh vô mặt, tôi nói một câu không cần phải dè dặt nữa: “Đủ rồi, chắc tao hổng còn gì để thăm và cũng chẳng còn gì để lưu luyến…”
“Mày nói sao?”
“…”
Những gương mặt hiền lành, những tên gọi chất phác tôi giữ ở trong lòng trong những năm lưu lạc xứ người, giờ đây đã tan biến. Làm sao những địa danh mộc mạc như rạch Ruộng, rạch Bần, xẻo Quau… lại có thể ăn nhập với những từ hoa mỹ như Hương Biển, quán Trầm, quán Gió, khiêu gợi hơn nữa có quán Ba Cô? Chợt nhiên tôi thấy lòng mình trống trải, không là nỗi trống trải của dòng sông dài và rộng trước mặt, mà là sự trống vắng của biển đêm đen đặc, mênh mông.
Chiếc vỏ lải cứ lướt nước ào ào. Sông Đốc vàm từ từ biến khuất vào con doi thứ nhứt. Quê hương tôi chỉ còn lố nhố những ngọn ăng-ten. Tôi day lại, thấy Yến và Hằng vẫn ngồi co ro gục mặt lên đầu gối. Gã thanh niên bây giờ chọc ghẹo hai đứa bằng những lời thô tục… Trong những hành khách ngồi chung quanh, có người thản nhiên, có kẻ mỉm cười khinh bỉ. Tôi muốn nói vài câu chận lời gã để Yến và Hằng còn có thể ngước mặt lên nói chuyện bình thường như mọi người. Nhưng quai hàm tê cứng, tôi ngồi đó ấm ức như một người câm.
Mùa đông ấm áp – Nguyễn Thị Thu Huệ (1966- )
Tôi đứng trên phà vừa rời bến từ bãi cháy sang Hồng Gai. Thành phố trên sông huyền ảo và lung linh lạ thường. Đèn sáng lóe trên các con tàu ra khơi đánh cá, trên những chiếc tàu lớn ghé vào cảng ăn than. Đèn từ các ngôi nhà cao thấp lô nhô trên lưng chừng núi, kéo cao đến đỉnh núi cũng còn lấp lóe. Mặt sông loang loáng nước. Sóng ầm oạp và gió từ sông đưa lên làm tôi ớn lạnh. Tôi bỗng thấy mình bé tí teo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng. Mọi thứ chợt ùa về trong tôi, dù nó là những kỷ niệm xa tít tắp. Tôi không có ý định ngày nào cũng phải nhớ về nó, khi cuộc sống của tôi bây giờ đã khác lắm rồi. Nhưng cũng không bao giờ quên. Nó là một phần đời của tôi, là ngưỡng cửa đầu tiên tôi đập mặt mình vào khi tôi hơn hai mươi tuổi.
o O o
Năm tôi hai mươi hai tuổi. Một buổi sáng tỉnh dậy. Tôi nhận được phong thư. Nét chữ của anh. Người đàn ông hơn tôi mười hai tuổi “Đến với bọn anh đi. Rừng núi và sông nước sẽ đón em. Bé tí ơi, đi một ngày ra khỏi nhà là bé có bao nhiêu thứ để sống có ích. Bọn anh ở đây có hôm quên cả ngủ vì cuộc sống tuyệt vời quá, ngủ thấy tiếc lắm. Em đừng mang nhiều thứ lỉnh kỉnh, nhảy xe hàng và xuống nhé. Hôn cô bé tí ti và yêu em nhiều. Anh”.
Tôi đọc đến thuộc lòng từng chữ, chỗ xuống dòng hay ngắt đoạn. Mối tình đầu tiên. Thoáng va chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh. Dù anh đã một lần sang sông. Anh bảo: số anh phải thế. Ai cũng có số cả, việc anh lấy vợ và bỏ vợ là hợp cách. Nếu cứ cố chống, nó sẽ hại đường khác, tốt nhất là kệ. Tôi tin anh bởi anh có cái gì vừa gặp tôi đã tin ngay. Mắt anh thăm thẳm buồn. Đôi môi cũng buồn, và cả dáng người cũng buồn rười rượi như thể lần đắm đò thứ nhất đã đè nặng sự cay đắng lên người anh.
Hai ngày sau. Buổi chiều. Tôi đã đến bến phà và chuẩn bị sang sông. Phà đông nghẹt người, xe cộ và hàng hóa. Nắng đã tắt. Trên sông tràn lan một mầu đỏ ối của hoàng hôn. Mầu đỏ lịm hắt từ đâu đó loang dài trên mặt sông, ánh trên khuôn mặt những người cùng chuyến với tôi. Chắc mặt tôi cũng có cái màu đỏ. Tôi yêu cuộc sống, yêu tất cả những gì xung quanh tôi, những người đàn bà lầm lụi, những người đàn ông đen sạm vì gió biển. Tôi là người đang sung sướng. Thế mới biết, bà bao giờ cũng đúng tuy có lúc bà nói hơi nhiều. Nước mắt chảy xuôi. Bố mẹ có thể chết thay con, còn con thì phần lớn chết vì người khác, ví dụ như người yêu chẳng hạn. Tôi bỏ nhà để đến với anh thế này chỉ được bà đồng ý. Còn bố mẹ thì cấm triệt để. Ngày ấy, con gái mới lớn lại đi xa một mình, đến chỗ người đàn ông mới bỏ vợ, liệu có ai dám to gan mà cho đi chưa? Nhưng tôi thì quyết tâm, đi bằng được. Tôi đã thắng.
Phà chậm chạp trôi qua sông. Tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi tôi nhìn chúng bằng ánh mắt kẻ đang yêu. Một người đàn ông ngồi bên một cái lồng chim. Ông ta hình như ngồi sẵn trên phà từ lâu dù phà bao lần cập bến và lại sang bờ bên kia. Ông đang chăm chú vào việc của mình là vặt lông chim. Những cái lông chim bé bé, mềm mại bay quẩn trong không gian và rắc đầy trên mặt sông, chỗ con phà đi qua. Trong ráng chiều, trong tiếng xịch xịch của động cơ, những tiếng lít chít của những con chim trong lồng, những con chim non tròn xoe đỏ bầm máu như những quả sim to đang trơn trụi quẫy đạp dưới đất. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Tôi hoa mắt. Phần vì đi đường xa. Phần vì những cái mắt chim bé tí, đen nhánh như hai giọt mực nhìn tôi. Tôi thấy thương chúng quá. Người ta ăn những con này, may ra mỗi con được một phần tư miếng. Tôi đến bên ông, ngồi thụp xuống và giữ lấy tay ông:
– Cháu xin ông. Ông đừng thịt chúng. Có ai mua đâu mà ông thì cứ vặt lông chúng mãi thế?
Ông già ngẩng nhìn tôi. Đôi môi khô nứt nhệch ra đầy vẻ quái ác. Hai mắt đục lờ như mắt cá ươn. Một khuôn mặt dị dạng. Tôi bỗng chùn lại. Ông ta cúi xuống, tiếp tục túm lấy những con chim bé bỏng và miết lông chúng nhanh như máy.
Tôi thò tay vào túi, chỗ tiền ít ỏi bà dúi cho tôi chắc đủ trả cho ông ta chỗ chim còn sống trong lồng.
– Cháu muốn mua chỗ chim còn sống.
Ông ngẩng nhìn tôi, hơi nhệch nhệch một bên mép, giọng khản đặc:
– Năm trăm.
Chỗ tiền tôi có, có thể mua được gấp bốn lần chỗ chim đó. Tôi mở nắp lồng. Lũ chim chao đảo sấp ngửa đè lên nhau. Tôi nhẹ nhàng lôi từng con ra và thả chúng. Tuổi trẻ thật ngu xuẩn và hiếu thắng. Gần hết bọn chim tôi thả không bay lên được vì chúng đều bị thương không nặng thì nhẹ.
Tôi, lúc ấy, trước mắt mọi người chắc là một con bé thừa tiền và ngu ngốc. Một vài con chim đập đập cánh lập bập bay lên. Thật tiếc cho số chúng. Con nào yếu thì rơi ngay xuống phà. Vài con khỏe mạnh thì bay vù lên, trên nó là bầu trời, dưới nó là mặt nước mênh mông. Tôi nhìn theo, xót xa vì biết thế nào nó cũng bị rơi. Sóng và gió ầm ào, sức chúng làm sao sống nổi. Tôi cúi xuống và tìm kiếm những con bị rơi, nhặt chúng bỏ vào lồng. Thương nó, tốt nhất là để nó yên thân trong lồng còn hơn thả tự do cho chúng. Chúng không thể bay bởi sức tàn lực kiệt.
Phà cập bến. Tôi bắt đầu phải nghĩ đến tình cảnh của mình.
Không ai đón tôi cả. Anh không đến. Hàng quán lưa thưa. Mọi người ai vào đó, chẳng ai còn sức mà nhìn tôi cùng chiếc lồng chim nữa, ngoài mấy đứa trẻ con. Làm gì bây giờ. Tôi tẩn ngẩn đứng lại. Việc đầu tiên phải giải quyết là chiếc lồng chim và những con chim không có khả năng bay. Chúng đáng để thịt. Thật mua dây buộc mình. Tôi đưa chiếc lồng chim vào tay một ông già bán nước “Cụ mang lũ chim này về thịt đi, chúng cũng sắp chết rồi”. Tôi đặt chiếc lồng chim xuống chân và chào cụ rồi quay đi ngay. Cụ già ngây ra nhìn tôi, rồi nhìn những con chim bé bé đen đen đang loạch xoạch quẫy đạp.
Anh không đón tôi.
Mắt tôi bắt đầu cay xè. Đây là nơi nhiều người qua lại tôi cố nhịn chứ phải chỗ vắng vẻ, có lẽ tôi khóc từ lâu rồi. Tôi là người kém bản lĩnh. Sai cũng khóc, tranh luận để đúng về mình xong cũng khóc. Tức bực cũng khóc. Tôi không hề biết mình phải đi đâu vì tôi không còn nhớ lắm cái địa chỉ anh viết thư cho tôi. Một bà cụ già nghe tôi trình bày, cụ cũng trình bày lại một cách rất rắc rối. Tôi không hiểu gì cả ngoài việc là đường sá ở đây lòng vòng lắm. Lần đầu tiên đi xa không cùng bố mẹ. Xung quanh tôi toàn là người xa lạ và bận bịu. Bây giờ đang là giờ cơm nước. Sau lưng tôi, phà đã đầy khách và chuẩn bị sang sông. Tiếng máy nổ xịch xịch. Những người cùng chuyến phà với tôi biến đi đâu như thể họ tan vào đất tự lúc nào. Tôi chỉ nhìn thấy ông lão bán chim. Ông ta đang ngồi xuống uống rượu với quả khế xanh, và hút thuốc lào.
o O o
Tám năm trôi qua nhanh như chớp mắt nhưng cũng chậm như sên. Khi hạnh phúc, thời gian qua mau. Khi đau khổ, thời gian dừng lại. Tôi bây giờ là một thiếu phụ, dù mới bằng tuổi anh ngày ấy. Có khi chưa bằng. Đẫy đà và uy nghi, tôi béo và mỡ màng chứ không nhí nhảnh như năm nào đến đây. Và bây giờ đi đâu đã có kẻ đưa người rước. Tốt nghiệp đại học ngoại giao, nhưng tôi không làm cố định ở đâu cả. Có cơ quan ở đó vài năm, có nơi hai tháng. Tôi chuyển đi phiên dịch hay làm ở văn phòng đại diện cho các cơ quan nước ngoài ở Việt Nam. Chồng tôi cũng là một nhà doanh nghiệp. Con gái tôi lên bốn tuổi. Nó xinh hơn bố và mẹ. Người ta bảo tôi có phúc, nhất là bố mẹ tôi. Mẹ bảo: “Lắm khi đang ngủ, tao lại giật mình đánh đùng không hiểu mày có lấy được chồng hay không? Nằm ngẩn ngơ một lúc, nhớ ra là mày có chồng mà có con rồi, tao mừng không thể tả được. May thế không biết”.
o O o
Ngày ấy. Lúc cho xong cái lồng chim, và sau khi ngơ ngơ nhìn ngó một lúc tôi bắt đầu đi bộ. Đường bụi lầm và đen đúa vì đất và than. Những chiếc xe Ben bò ì ạch trên đường với những tấn than như con bọ hung. Nhà cửa, cây cối, tất cả nhuốm một màu xám xịt. Nước mắt tràn ra khỏi mi, tôi không giữ nó trong người được nữa rồi. Tôi dừng lại. Hà Nội của tôi bây giờ xa lắc. Bố mẹ đang ngồi bàn về tôi trong sự đau khổ bởi tôi là đứa con không vâng lời. Tôi thèm được về, trong căn nhà với ba con người đó. Tôi bắt đầu ân hận.
– Trúc, Trúc, có phải Trúc không?
Tim tôi khua loạn xạ trong lồng ngực vì đã có ai đó gọi tên tôi. Nhưng không phải tiếng của anh. Một người thanh niên đang lao xe tới chỗ tôi đứng.
– Em là Trúc?
– Vâng ạ. – Tôi ngây người nhìn anh. Anh đen hay bẩn? Mũi anh ta hin hin.
– Anh Hoạt nhờ anh đón em.
– Thế anh ấy đâu ạ?
– Anh ấy phải ở nhà thu xếp để em đến. Hậu phương bao giờ cũng phải vững chắc thì mới thắng lợi được! – Anh ta cười, nụ cười hồn hậu.
Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe anh đèo tôi giống y chiếc xe thồ, chỉ khác là không có hai cái sọt thôi. Anh ấy và tôi ngả nghiêng trên con đường lầm bụi. Tôi thấy mình vui lên vì đã bắt được tín hiệu của anh, người đàn ông tôi có đầu tiên trong đời. Anh đưa tôi đến trước một dãy nhà ngói chênh vênh bên sườn núi, có mấy cái cây con con đen đúa vì bụi. Cửa sổ mở ra núi, nhìn hút lên cao là cây cỏ hoang dại. Mọi vật khô khốc. Những chiếc giường cá nhân, những chiếc chiếu đen đen, sơ sài và tạm bợ. Tôi nhìn quanh. Trong góc phòng, chỗ tối nhất đang phát ra tiếng khầng khậc.
Anh đưa đường mủm mỉm cười:
– Anh Hoạt đấy. Thôi, coi như anh xong nhiệm vụ với anh Hoạt. Anh phải đi về đội đây. Bọn anh còn phải tiếp tục khảo sát thực địa. Lúc nào rỗi, em và anh Hoạt sang bọn anh chơi.
Tôi nhìn chăm chăm vào phía góc phòng nơi đang nhịp nhàng phát ra những âm thanh quái đản. Anh đấy ư? Một khuôn mặt phì phì, ung ủng với một cái mồm há ra thở nặng nhọc như kéo cưa. Hai tay thả thõng thượt như người hết sinh lực. Hai bàn chân đen nhẻm thò ra ngoài chiếc chăn rách. Trông anh, từ cổ xuống giống như một xác chết.
– Anh Hoạt, anh Hoạt ơi! – Tôi lay người anh khe khẽ.
– Hừm… – Anh hù tôi một cái rồi trở mình, xoay lưng vào mặt tôi. Ngủ tiếp. Căn phòng thoáng yên tĩnh.
Nước mắt tôi lại thánh thót rơi. Bố mẹ có yêu thương tôi và các cụ ngày ngày có dạy dỗ tôi trăm nghìn sự thì chắc cũng chưa bao giờ nghĩ sẽ dạy tôi phải xử lý với tình huống này như thế nào.
Bóng tối ập xuống. Trong không khí có mùi ngai ngái của khói củi. Tôi tựa cửa ngóng vu vơ ai đó mà tôi chẳng biết. Thế còn sướng hơn là ngắm một người đang ngủ li bì, quanh người nồng nàn mùi chua chua của rượu, một thứ rượu rẻ tiền và chóng say.
Bây giờ, sau nhiều năm, tôi mới hiểu ra những gì xảy ra với anh và tôi ngày ấy là hợp quy luật. Nhưng ngày ấy, tôi và mọi người thì nghĩ rằng anh là một lão đàn ông đàng điếm, trai lơ và ích kỷ. Một con người không có tình yêu. Bố mẹ tôi thì cho anh là kẻ lọc lừa.
Lúc ấy, khoảng bảy giờ tối thì anh dậy. Khuôn mặt anh mờ mịt như người vừa ở trong hàng thế kỷ chui ra. Sau hơn hai trăm cây số và mấy lần phà, tôi được nghe anh đón tôi bằng câu đầu tiên “Anh khát quá. Anh thèm ăn một bát canh rau gì đó man mát. Hoặc là uống một gáo nước lã cũng được. Nước mưa ngọt lắm”.
Những người cùng phòng ái ngại nhìn tôi và lặng lẽ tản đi hết. Tôi lại khóc rấm rứt.
Anh thì trố mắt ra nhìn tôi, vẻ không hiểu gì cả. “Sao thế em? Chúng mình gặp nhau thế này vui quá còn gì. Hay em đang gặp chuyện gì buồn. Thế em đến lúc nào đấy, ăn gì chưa?”
Tôi khóc vì anh nhưng anh thì nghĩ là tôi khóc vì một cái gì đó. Nói ra chẳng giải quyết được cái gì cả. Và anh ôm lấy tôi. Thế là mọi nỗi uất hờn tan đi hết. Tôi yêu anh. Một tình yêu đầu tiên, thánh thiện và trong sáng vô cùng. Tôi yêu tất cả những gì có ở nơi anh. Và anh là người đẹp nhất trong tất cả những chàng trai xung quanh tôi. Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông, thường bị xúc động ghê gớm và không bao giờ quên.
Đêm đến. Hai chúng tôi đi bộ ra rừng. Tôi vui vẻ trở lại và không thấy mệt mỏi. Đêm ở rừng âm u, huyền bí. Xa xa, tiếng sóng biển ầm ĩ. Tôi và anh ôm lấy nhau. Rồi anh bỏ tôi ra, thao thao kể về những công việc của anh dưới này. Đi khảo sát địa hình của những mỏ than. Lập đề án khai thác than và đưa chúng vào sử dụng. Có bao nhiêu cách khai thác. Và đủ mọi chuyện đã xảy ra trong những ngày anh ở đây. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến đi săn đêm. Rồi biển động thì con sóng to ra sao, tiếng nó va vào kè đá thế nào. Anh hào hứng kể với tôi mọi chuyện, cả chuyện anh trêu các cô gái mỏ thế nào, như thể tôi là một thằng bạn lâu ngày anh gặp lại.
Đến một thảm cỏ khô khô, tôi và anh cùng ngồi xuống. Anh hôn tôi. Một nụ hôn loang loáng chạy qua môi tôi, môi anh mềm, mát lạnh. Môi tôi nóng run rẩy. Anh chạm vào tôi như gió thoảng rồi buông ra ngay, khi tôi chưa kịp trấn tĩnh. Tôi ngây người nhìn anh và tự hỏi: anh chán tôi rồi hay sao?
Anh vẫn tiếp tục kể mọi chuyện. Còn tôi thì bắt đầu nghi ngờ anh.
Rồi anh thì thào “Về ngủ đi. Em đi xa chắc mệt lắm”.
Tôi trả lời “Em có thể ngồi đây với anh đến sáng. Em lặn lội xuống đây với anh không phải để ngủ”.
Anh cười “Vớ vẩn. Sương xuống sẽ làm em quay lơ ra. Mà anh thì ngày mai cũng phải đi làm. Hôm nay đã say cả ngày rồi. Vì em đấy. Chúng nó bảo anh là người hạnh phúc nhất nên phải khao rượu. Mà tính anh đã uống phải say xỉn thì thôi. Uống lởm khởm súc miệng khó chịu lắm”.
Tôi im lặng. Trên trời, những chùm sao nhay nháy một cách yếu ớt. Hóa ra tôi chẳng quan trọng gì với cuộc sống của anh cả. Anh chồm người lên tôi. Tôi im lặng và chờ đợi. Người tôi run lên vì anh gần gũi tôi quá.
Anh hỏi: “Yêu anh không, bé con?”
Tôi gật, người nóng bừng.
“Trước anh, bé đã yêu ai chưa?”
Tôi lắc.
“Sao bé có vẻ từng trải và bạo dạn lắm. Anh nghĩ là em đã có một ai?”
Tôi tiếp tục lắc. “Em yêu anh và tin anh nên em không sợ anh”.
Anh ngồi thẳng dậy, cười: “Con gái chết vì cái sự tin đó. Hết đời như chơi đấy bé ạ, nếu không biết giữ mình. Bạ ai cũng tin thì nguy. Nhỡ anh hại đời con gái của em và bỏ em thì sao?”
Tôi thấy ngần ngại: “Sao lại hại em? Chúng mình yêu nhau và sẽ lấy nhau”. Tôi nói và ngồi lên, vòng hai tay ôm lấy người anh.
Anh im lìm như pho tượng. “Mọi chuyện xa xôi lắm bé con ạ. Anh vừa thoát cuộc sống gia đình. Thỉnh thoảng đón thằng cu, chăm sóc nó là anh thấy sung sướng. Anh chưa tưởng tượng ra mình sẽ lấy vợ và lại đẻ con. Đó là cả một sự mạo hiểm”.
Tôi nóng mặt: “Thế tại sao anh nói là anh yêu em?”
“Anh yêu em ngay từ khi nhìn thấy lần đầu. Nhưng em còn chíp hôi lắm. Vả lại, chắc gì em sẽ yêu anh mãi? Anh tin là em sẽ chán anh trước. Nhất là anh già rồi, chỉ kém bố mẹ em có vài tuổi thôi”.
“Vậy anh gọi em xuống đây để làm gì?” – Tôi cáu.
“Ơ hay nhỉ. Đi thế này em không thích sao? Em được đến một vùng đất mới mẻ và đáng yêu. Anh thì được đi đây đi đó. Được sống như ý muốn của mình chứ không sống theo ý thích của người khác. Hồi bé thì sống theo ý bố mẹ. Lớn lên một tí, chưa hiểu đời là cái gì và nên xử lý với nó ra sao thì a lê hấp, lấy vợ. Một cô vợ ngày ngày dạo quanh anh như một ông công an mặc váy trong nhà. Trong túi áo của nàng sẵn một cái còi, cần đến là thổi toét toét, ngay cả khi đi ngủ”.
Anh cười và ôm lấy tôi. Môi anh lại lướt nhanh trên môi tôi. Mát mẻ dịu dàng như miếng lê. “Cài khuy áo ngực lại, cô bé. Ngực em lộ ra hết trước mặt anh rồi”.
Tôi nóng bừng người. Trong bóng tối, có một chút loe loé sáng của một ánh đèn hắt xa xa, ngực tôi lộ ra, trắng như mầu sứ. Anh nhẹ nhàng, chăm chú cài áo cho tôi như tôi là con của anh. Anh phủi nhẹ nhẹ đất ở quần tôi và kéo tôi đứng dậy.
“Về đi. Đừng bao giờ ra chỗ lạ mặc cái áo dễ bật cúc như thế này. Nó sẽ kích thích đàn ông, lúc ấy em sẽ bị vạ lây đấy”.
“Anh không yêu em sao?” – Tôi thảng thốt hỏi.
“Yêu em và thương em lắm chứ, bé con của anh. Nhưng đừng bắt anh phải sống khác mình. Hiểu cho anh nhé!”
Tôi cay đắng, im lặng đi theo anh. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ là lúc ấy, tôi không còn hiểu anh là kiểu người gì nữa. Theo như tôi được biết, trai gái yêu nhau thì phải hôn nhau và ham muốn được sống với nhau. ít nhất là anh phải có những hành động gì đó với tôi, khi chỉ có hai đứa với nhau, giữa núi non và biển cả. Chúng tôi là hai kẻ tự do hoàn toàn cơ mà. Mẹ cũng dạy tôi nhiều. Tôi cũng được nghe nhiều, và cả đọc truyện nữa, hình như chưa có trường hợp nào tương tự thế này. Tôi và anh không nói gì cả và về nhà. Anh nhường phòng cho tôi và sang nhờ một người bạn. Biết tôi sợ ma, anh rủ chị cấp dưỡng bếp ăn tập thể về cùng ở với tôi cho vui.
Đêm đó, với tôi là đêm trắng. Trong khuya. Không gian lành lạnh của một ngày đầu đông. Tôi nghe tiếng gió khua lá cây rừng xào xạc. Thỉnh thoảng có tiếng tu huýt của một giống chim rừng gì đó bay vèo qua. Rồi tĩnh lặng. Loáng thoáng, tiếng ngáy của anh bên kia tấm liếp được gió đưa qua bên tôi. Tôi nghĩ đến bố mẹ, giờ này chắc bố mẹ cũng không ngủ được vì còn phải cùng nhau tưởng tượng ra những cạm bẫy nào mà tôi sẽ mắc phải.
Sáng hôm sau, anh chạy sang phòng tôi. Khuôn mặt anh tràn trề sinh lực chứ không như lúc anh mới tỉnh cơn say rượu. Tôi tin là hôm qua anh ngủ rất ngon. “Chào. Bé ngủ ngon không? Hôm nay bé ở nhà với các chị nhé, anh phải đi làm đây. Bảo các chị ấy dẫn ra chợ nhé. Tham quan chợ một lúc rồi về ghi nhật ký, vài chục năm nữa giở ra đọc, thích lắm bé ạ”.
Anh vô tư trèo lên cái xe đạp mà không cần thấy tôi đang trân trối nhìn anh. Anh nháy mắt với tôi, và phóng vụt đi. Tôi không bao giờ nghĩ hiểu rằng trên đời lại có một cái loại tình yêu quái quỷ như thế này.
Chị cấp dưỡng tay bóp chặt nắm tiền, cười: “Đi chợ mua cua bể và mực. Làm món chả mực và cua rang muối. Em sẽ thích lắm”.
Tôi bèn cáo từ chị và ở nhà một mình. Tôi ngồi im lìm giữa một căn nhà tồi tàn sơ sài như trong khoang thuyền của người ngư dân sống cuộc đời chài lưới. Nằm ra giường và nhìn ra sân. Ngoài trời, nắng đầu đông loang vàng. Gió se se lạnh. Tôi thấy trống trải và hụt hẫng. Như người đứng trước một cuộc chạy thi, trước mặt là vòng hào quang rực rỡ. Chạy mãi, chạy hết hơi đuối sức, trước mặt còn lại một bãi đất hoang, lởm chởm đá.
Một ngày nữa trôi qua. Một sự lặp lại như ngày trước. Anh rất quan tâm chăm sóc đến sức khỏe của tôi. Làm mọi món ăn bằng đồ biển cho tôi thưởng thức. Nhưng anh không hề hôn thêm tôi lần nào nữa. Tối đến, anh để tôi ở nhà và đi câu tôm cùng bạn bè. Anh không cho tôi đi vì sợ tôi bị lạnh sẽ ốm. Và anh không muốn tôi mất ngủ, da sẽ xấu lắm.
Ngày thứ ba. Anh đưa tôi ra bến phà để sang Bãi Cháy. Tôi về. Trước mặt tôi, đó là cả một chặng đường dài tít tắp với ba lần sang sông. Không còn cái đích là tình yêu trước mặt để vẫy gọi nữa. Tôi về với căn nhà be bé như cái tổ chim che chở cho tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu gia đình quan trọng như thế nào. Tôi vừa đi. Hai mắt cay xè, mòng mọng nước và cố gắng kìm nén để đừng khóc trước anh. Phà rùng rùng sang ngang. Anh đứng trên bờ vẫy tôi rối rít. Anh hét lên trong gió là bao giờ xong việc sẽ về thăm tôi. Anh chuyển hẳn công tác về vùng mỏ, nó hợp với nghề và sở thích của anh. Tôi quay đi, hạ cái túi lỉnh kỉnh những tôm, cua, sò, huyết và mực khô anh mua biếu bố mẹ tôi xuống. Bắt đầu khóc. Khóc như mưa giăng qua mắt. Khóc như bị hun khói ngày rằm tháng bảy vào lễ chùa Hà cùng mẹ. Tất cả, tan nát và mịt mờ đau khổ.
Rồi tôi cũng về tới nhà.
Đến bây giờ sau nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ nét mặt của bố mẹ khi nhìn thấy tôi hiện ra ở cửa như một kẻ bại trận, với một ít chiến lợi phẩm lục đục trong túi. Bố mẹ già xọp đi. Cả khuôn mặt toát lên màu xám xịt, như thể hai người vừa chạy thoát được một trận bom. Tôi vào nhà, quăng đám đồ đạc ra đất, ngồi phịch xuống giường. Người khô khốc và nặng trĩu. Bố mẹ nhìn tôi đầy vẻ kinh hãi và không ai bảo ai, chạy thẳng ra đường. Hai người ngó mỗi người một ngả, rồi quay nhìn nhau, và lại ngó nghiêng như tìm ai đó. Rồi, cả hai cùng vào.
Mẹ hỏi: “Nó đâu?”
Tôi ngơ ngác: “Ai cơ ạ?”
“Thằng khốn ấy chứ ai?”
Tôi thấy nhẹ bỗng: “Anh ấy chuyển hẳn về đó công tác. Bao giờ có điều kiện sẽ về Hà Nội chơi thôi ạ”.
“Ai đưa mày về đến đây?” Mặt mẹ đỏ dần lên.
“Con tự về mẹ ạ”.
Mẹ hét lên: “Làm sao đến nông nỗi này con ơi! Thôi thế là xong đời rồi! Nó xơi mày xong nó đi đằng nó rồi mày lại tự bò về chứ gì? Thằng khốn nạn. Nó bỏ vợ con bơ vơ. Nó lại lừa con tôi. Tôi phải giết nó. Thân tàn ma dại rồi con ơi! Sao tôi khổ thế này! Tôi có ác độc gì đâu mà giời phạt tôi!”
Mẹ đau khổ thật sự, lồng lộn lên như con thú bị thương. Trông mẹ già xọp và quằn quại. Ai không biết tưởng như một tai họa gì đó như cơn lốc ào vào nhà tôi. Tôi ra sức thanh minh rằng anh tốt lắm, anh chăm chút tôi bằng tình cảm của một người anh với em gái, rằng tôi chưa hề bị anh xơi một tí nào, rằng anh còn dạy tôi cách sống ra sao giữa những người đàn ông xa lạ. Tôi càng bênh vực anh thì bố mẹ càng gầm rít. Tôi khóc vì nhớ anh và vì cuộc tình của tôi và anh hình như tan vỡ. Còn bố mẹ thì tưởng tôi là kẻ lầm đường lạc lối, bị một thằng Sở Khanh mang cuộc đời con gái đi mất. Và tôi là kẻ thất tình. Bố mẹ đi theo con đường suy nghĩ của bố mẹ trong sự tưởng tượng. Tôi thì lại sống bằng cái dĩ vãng của ba ngày chua chát vừa qua, khi hiểu rằng anh không yêu tôi như tôi tưởng. Tôi là kẻ bỏ đi – trước mắt bố mẹ.
Sau đó, bố mẹ đã bằng khả năng của mình xử lý anh. Nhưng hình như anh cũng không vì thế mà bị làm sao cả. Anh là người có chuyên môn, lại dám xông xáo, hình như anh lên lãnh đạo.
Tôi và anh chia tay nhau. Phần vì tôi tự ái. Phần vì bố mẹ. Phần vì tôi cũng xinh đẹp và có nhiều người mê. Và ba năm sau, tôi lấy chồng. Một người chồng tuyệt vời trước mắt mọi người. Ngày cưới tôi, mẹ tôi khóc hu hu.
Tôi hỏi tại sao, mẹ bảo “Giời thương tao, tao chết cũng nhắm mắt, nó biết mày mất trinh mà vẫn làm đám cưới to thế. Thời mẹ, con gái như con chỉ đáng gọt gáy bôi vôi thôi. Cố sống cho tử tế với nó, lúc nào nó cáu quá, có đánh con thì con cũng cố mà chịu nhé!”
Tôi im lặng nhìn mẹ. Không hiểu mẹ có bị lẩm cẩm không. Hay là tôi phải gào lên với mẹ và mọi người rằng, tôi không bị mất gì cả, chẳng ai trộm cắp gì của tôi cả.
o O o
Những lon bia. Những đĩa thức ăn đặc sản của vùng biển đầy ự trên bàn chờ đón đoàn của tôi về công tác. Họ về đây ký hợp đồng mua than của ta. Tôi có nhiệm vụ giao dịch và là mối dây giữa hai cơ quan. Những lời chúc tụng và những ánh mắt đàn ông nhìn ngắm tôi. Tôi quen với những thứ đó rồi. Chỉ có điều, chưa một người đàn ông nào nhìn tôi như Hoạt ngày ấy. Bây giờ, quay trở lại Hồng Gai, tôi đã thành người khác. Tôi có nhìn thấy một cậu thanh niên xách một túm chim rừng, con mỏ dài, con mỏ ngắn. Màu lông rất đẹp. Anh ta hỏi tôi có mua không, hai ba nghìn một con. Tôi cười lắc đầu chợt nghĩ, ở Hà Nội chim quay mười bảy nghìn một con, đắt thật. Tôi nhớ anh cồn cào, dù tôi rất yêu chồng và con tôi. Hai chuyện đó, theo tôi, hoàn toàn chẳng can dự gì với nhau cả.
Đêm đến. Tôi đi ra biển. Khoảng rừng ngày xưa chúng tôi ngồi với nhau giờ người ta san phẳng và xây nhà rồi. Nhà mọc san sát. Trang trí nội thất đẹp như những khách sạn mini. Trên đầu tôi, vẫn những vì sao lưa thưa, có vì sáng rực, có vì nhạt nhòa, trên biển ánh sáng nhiều và chi chít hơn ngày xưa rất nhiều. Cuộc sống ngày một đi lên, sung túc hơn. Càng sống, càng thấy anh đúng. Những cái gì ngày xưa tôi oán giận anh, ngày nay tôi làm đúng như vậy. Hóa ra, con người, từ lúc sinh ra đến lúc chết đi ai cũng đi chung một con đường. Vừa giống nhau, lại vừa khác nhau. Người may mắn thì ít xa vào ổ gà. Người đen đủi thì hay rơi xuống hố. Những cái sự bắt đầu và kết thúc thì như nhau cả. Tôi im lìm nhìn biển đen thẫm trước mặt. Mùa đông năm nay đi về hướng nào chẳng biết. Tháng mười một nhưng nắng vẫn hoe vàng. Tôi chỉ mặc một chiếc váy thun mà không bị lạnh. Ai đó bảo rằng biển ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè. Biển muôn đời đáng yêu và dễ gần.
Hồi chiều, tôi tìm đến nơi ngày xưa anh công tác. Người ta bảo anh đi khỏi đó lâu rồi. Anh ưa sự khám phá. Hình như anh vào khu mỏ mới nghiên cứu và khai thác than mỏ nhỏ. Những mỏ vô danh và chưa ai đặt chân tới. Có người thì bảo hình như anh và bốn người nữa trong một lần đi thăm dò mỏ mới, hít phải chất titan gì đó trong khe sâu và chết rồi. Có người lại bảo anh chuyển sang Hải quan, chuyên đi tàu trên biển bắt bọn buôn lậu quốc tế. Nói chung, tôi chẳng nhận được những thông tin gì cụ thể về anh, ngoài việc anh là người ưa làm việc, ưa khám phá. Anh vẫn độc thân. Cuộc sống và niềm vui của anh là công việc.
Còn nhớ, ngày ấy, khi chia tay tôi, anh có viết vài dòng cho tôi, đại ý là anh đã trải qua mọi sự rồi. Ngay trong tình yêu cũng vậy, anh yêu tôi nhưng anh không vì tôi mà sống khác. Anh hôn tôi bằng đôi môi của người đàn ông từng trải chứ không thèm khát nhục dục của kẻ mới lớn. Anh, lúc ở rừng với tôi, anh có thể nhịp nhàng mà chiếm đoạt tôi, và biến tôi thành nô lệ của anh vì tôi rất ngây thơ và tin anh. Nhưng anh không muốn bởi vì tôi còn cuộc đời của tôi. Với anh, điều đó không quan trọng, miễn là khi tôi đi lấy chồng, tôi còn nguyên vẹn với chồng.
Tôi không còn nước mắt để khóc nữa. Người đàn ông đã có vợ thường tìm trong tình yêu mới vẻ đẹp tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác. Anh không muốn lấy tôi bởi anh không muốn tôi đau khổ. Anh bảo: “Lấy nhau sẽ phải đẻ con, anh cũng yêu thương con của chúng ta thôi nhưng cái tình yêu đó không thể bằng tình yêu của một chàng trai chưa bao giờ có vợ và con. Anh vẫn phải dành anh cho con của anh với người vợ cũ. Như thế, chúng mình và các con đều đau khổ vì không ai được trọn vẹn cả”.
Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này. Bao nhiêu năm, tôi sống và tôi hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp được người đàn ông nào thay thế được anh trong tâm tính của tôi.
Sương nhè nhẹ buông. Trong gió có mùi tanh nồng nồng của biển. Có mùi mặn mặn của muối. Tôi thấy nóng bừng người vì nhớ anh.
Tôi đang sống trong một năm không có mùa đông.
(Quảng Ninh 2-1992)
Chồng nhặt – Nguyễn Thế Duyên
Mười một giờ đêm, tôi ra khỏi nhà nghỉ. Tôi say. Đầu óc quay cuồng, tôi nhìn quanh cố tìm một chiếc xe ôm nhưng không có. Tôi loạng choạng lần đi trên đường phố vắng ngắt. Đêm cuối thu gió thổi lạnh làm tôi càng choáng váng quay cuồng. Không phân biệt nổi phương hướng nữa, tôi cứ thế lảo đảo bước đi như một kẻ mộng du.
Bỗng toàn thân tôi ớn lạnh. Tôi rùng mình. Một luồng khí nóng thốc lên cổ. Tôi vội vàng vịn vội vào một gốc cây nhưng không được. Tôi khụyu xuống. Bỗng có ai đó đỡ lấy người tôi. Tôi ôm choàng lấy cổ người ấy và cứ thế nôn thốc nôn tháo.
Gần sáng, tôi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên một chiếc giường lạ trong một căn phòng lạ, trên người đắp một chiếc chăn mỏng. Đầu đau như búa bổ. Cổ họng khô đắng. Một mùi hôi không sao chịu nổi từ chiếc chăn mỏng đắp trên người xông lên làm tôi phải tung chăn ngồi dậy. Nhìn xuống bộ váy mình đang mặc. Trời ơi, nó loang lổ những vết bẩn của trận nôn đêm qua. Mặc dù đã được lau sạch nhưng mùi hôi vẫn cứ từ đó thoảng ra. Tôi nhìn ra góc phòng, một chàng trai đang ngủ gục trên bàn, mặt úp lên trên quyển sách đang mở rộng. Tôi hiểu, đêm qua anh ta đã ngồi đọc sách suốt đêm để nhường chiếc giường duy nhất cho mình. Nhìn lên giường, chiếc túi xách của tôi vẫn vứt lăn lóc ở đấy. Tôi vội vàng mở chiếc túi xách ra kiểm tra lại. Hai trăm đô con dê già trả cho tôi vẫn còn. Di động vẫn còn. Tôi chợt thấy ân hận vì mình nghi ngờ một tấm lòng đã cứu giúp mình. Đứng soi mình trước một tấm gương nhỏ treo trên tường, tôi bỗng có một cảm giác kinh tởm chính mình. Son phấn nhòe nhoẹt, sống áo nhàu nát, bẩn thỉu và khi nhìn xuống ngực mình, mặt tôi bỗng đỏ lên. Tôi xấu hổ. Đôi bầu vú tròn căng, mịn màng của tôi hiện lên mờ mờ qua làn vải mỏng. Không xu chiêng. Tôi kéo váy nhìn xuống. Trời ơi! Không quần lót. Tối qua tôi đã nằm ở đây với bộ dạng như thế này sao? Tôi nhìn nhanh về phía người thanh niên. Anh ta vẫn đang ngủ ngon lành. Hoảng sợ, tôi vớ lấy chiếc áo của anh ta vắt trên chiếc gi đông xe đạp cà tàng khoác vội vào người rồi rón rén ra khỏi nhà, khép cửa lại.
Về đến nhà, việc đầu tiên là tôi vào phòng tắm. Dòng nước nóng xối khắp cơ thể làm cho tôi tỉnh táo hẳn. Những sự việc hồi hôm lại hiện về trong đầu như một đoạn phim quay chậm. Cảnh đầu tiên là một bộ mặt bự thịt và mỡ đang rúc mặt vào ngực tôi mà mút, mà liếm, tiếng mút của hắn tòm tọp như tiếng lợn đói đang xục cám. Rồi đến cảnh bàn tay thô bỉ của lão cuồng loạn cào cấu, vần vò khắp cơ thể. Rồi cảnh đôi môi thâm sịt của lão như hai miếng thịt trâu hôn hít khắp cơ thể tôi, Ngực, cổ, má và cuối cùng là áp vào môi tôi. Cái lưỡi dài, trơn ướt như lưỡi rắn lùa sâu vào miệng. Đến đây thì tôi thấy lợm ở cổ họng, thế là tôi lại nôn thốc nôn tháo ra chậu rửa. Tôi cứ thế đứng im dưới vòi hoa sen để mặc cho dòng nước nóng xối vào mình. Đôi bàn tay vô thức cứ kì cọ, kì cọ mãi những chỗ cơ thể tôi bị nhơ bẩn… Tôi muốn rửa sạch. Tôi muốn tẩy sạch. Trời ơi! Tôi có rửa sạch được không? Tôi có tẩy sạch được không? Hai dòng nước mắt bất giác lăn xuống môi mặn đắng.
Tôi đã gặp cảm giác này một lần trong đời. Đó là lần đầu tiên khi tôi đi khách. Lần ấy, sau khi xong việc, cầm tiền, tôi chạy vào buồng tắm cầm lấy cái vòi hoa sen cứ xả mãi nước vào chỗ ấy, vừa xả nước tôi vừa khóc nức nở. Nhưng cái cảm giác ấy đã chết trong tôi từ lâu lắm rồi. Bây giờ, thậm chí sau khi xong việc, có nhiều khi tôi cũng chẳng thèm tắm rửa. Thế mà sao hôm nay cảm giác ấy lại bỗng nhiên sống lại?
Đoạn cuối của cuốn phim quay chậm là một căn phòng nhỏ tồi tàn. Hầu như không có một thứ vật dụng gì. Cảnh một người thanh niên đang bế tôi đặt lên giường. Một bên vai váy của tôi trễ xuống để lộ ra một bầu vú căng tròn, mịn màng với chiếc núm vú hồng tươi, be bé. Lúc đặt tôi lên giường, chiếc váy của tôi bị tốc lên để hiện ra một cặp đùi thon dài, trắng muốt. Và dịch lên một tý nữa. Cảnh ánh mắt của chàng thanh niên hơi dừng lại ở đó. Một chút. Một chút thôi, rồi anh ta lấy tay kéo lại chiếc váy cho tôi. Những cảnh ấy cứ lần lượt hiện ra trong đầu. Tôi cứ đứng im lặng dưới vòi nước kì cọ một cách vô thức cho đến khi tôi thấy người lạnh buốt. Nước nóng trong bình nóng lạnh hết từ lúc nào mà tôi không biết.
Tắm xong, tôi ra giường ngồi. Mắt tôi chạm vào chiếc áo của anh mà tôi vứt ở trên giường lúc về nhà. Cầm lấy cái áo, tôi lục túi thấy một chiếc thẻ sinh viên và một tờ giấy bạc mười nghìn. Chẳng lẽ anh ta chỉ có từng này tiền thôi sao? Tôi băn khuăn tự hỏi. Cầm tấm thẻ sinh viên tôi cứ thế ngắm mãi ảnh anh trên chiếc thẻ. Tôi tắt đèn, mang chiếc áo của anh chui vào chăn đi ngủ. Ôm chiếc áo vào ngực, một mùi đàn ông lạ lẫm nồng nồng, chua chua phảng phất ôm trọn lấy cơ thể tôi. Tôi đã ôm không biết bao nhiêu người đàn ông trong tay, thế mà sao đến tận đêm nay tôi mới biết mùi đàn ông thật là quyến rũ? Tôi cứ thế thiếp đi trong một giấc mơ nhẹ nhàng.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, việc đầu tiên tôi làm là đi giặt chiếc áo của anh. Cũng lạ, đã từ rất lâu rồi, lâu đến mức tôi không thể nhớ lần cuối cùng mình gặt quần áo là khi nào. Quần áo của tôi, tôi đều mang ra hiệu giặt là. Thế mà hôm nay tôi lại tự tay ngồi giặt cái áo cho anh. Ngày xưa khi còn nghèo khổ, chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ rằng được giặt một chiếc áo đàn ông là một hạnh phúc. Thế mà bây giờ, khi đã có tiền, cái giấc mơ nho nhỏ đó lại trở thành mong manh như một chiếc bong bóng xà phòng. Giặt xong, tôi phơi khô rồi là chiếc áo cho phẳng.
Đến chiều, tôi trang điểm cẩn thận, mặc chiếc váy tôi thích nhất. Chiếc váy này tôi chỉ dùng khi đi với những khách quen thật sang trọng. Tôi đứng xoay người trước gương tỉ mẩn sang sửa từng tý một cho đến khi tôi cảm thấy chính mình cũng phải mê mình. Để chiếc áo của anh vào một cái túi nilông, tôi phóng xe đến nhà anh. Khi chỉ còn cách nhà anh vài chục mét, tự nhiên tôi lại thấy ngần ngại. Tôi đỗ xe, vào một quán càphê xê xế trước nhà anh, tìm một chỗ có thể nhìn về phía căn nhà. Một cảm giác lạ lắm ùa đến xâm chiếm lấy tôi. Một cảm giác bâng khuâng, hồi hộp. Một chút gì ngần ngại. Một chút ít thẹn thùng. Chao ôi! Mi sống lại rồi ư? Mi đã chết ba năm nay sao đến hôm nay tự dưng mi lại tỉnh lại, cái cảm giác bâng khuâng của một buổi hẹn hò. Người tôi run lên. Cắn chặt lấy môi, tôi hấp tấp ra khỏi quán bỏ lại cốc cà phê mà tôi chưa hề uống.
Phải đến mấy ngày liền tôi tự đấu tranh với mình. Ngày nào tôi cũng xách cái áo đi nhưng đến nửa đường thì tôi lại quay về. Tôi sợ. Một nỗi sợ vô hình đeo bám lấy tôi. Đã có lúc tôi tự bảo với mình. Thôi, không trả lại cái áo nữa. Mình hãy giữ lại làm một vật kỉ niệm trong cuộc đời. Nhưng còn chiếc thẻ sinh viên? Không thể không trả lại cho anh chiếc thẻ. Đêm nào tôi cũng ôm chiếc áo của anh đi ngủ. Chiếc áo như một cánh bèo cho một chiếc bọt nước là tôi bám vào.
Đến chủ nhật, tôi lại quyết định đến nhà anh. Sau khi trang điểm cẩn thận, tôi xách cái túi ra xe. Vừa đến cửa, tôi lại dừng lại, quay vào nhà, đứng soi mình trước gương một lần nữa. Không được. Tôi tự nhủ. Chắc chắn rằng anh ấy đã biết mình là ai. Đừng để anh ấy có cảm giác xấu về mình hơn nữa. Tôi vội vàng tẩy hết trang điểm, thay chiếc váy đẹp nhất của mình bằng một chiếc váy tôi vẫn mặc ở nhà. Đứng trước gương tôi vẫn thấy mình chưa ổn. Sao đã mặc chiếc váy xấu nhất rồi mà trông mình vẫn như một con điếm thế này? Tôi tự hỏi mà nước mắt tôi trào ra. Mình đích thị là một con điếm chứ còn như gì nữa! Cái từ “con điếm” chưa bao giờ vang lên bên tai tôi. Tôi thuộc diện gái gọi cao cấp. Đến với tôi toàn những đại gia có học thức, có chức vụ và toàn là những người lịch lãm. Họ đua nhau cưng nựng, chiều chuộng tôi. Thậm chí chưa bao giờ những người ấy nói với tôi về vấn đề tiền bạc. Xong việc, họ bí mật nhét tiền vào túi xách của tôi lúc nào tôi cũng chẳng biết, nói gì đến hai từ “con điếm.”
Hôm nay anh đã nói với tôi hai từ đó bằng một ngôn ngữ không lời.
Tôi mở tủ quần áo tìm thử xem mình có chiếc quần nào không. Không thấy một chiếc quần nào cả. Tôi vớ lấy xe phóng ra một cửa hàng thời trang nổi tiếng định mua một bộ quần bò nhưng đến cửa rồi nghĩ thế nào tôi lại quay ra. Tôi phóng xe đến phố Trần Nhân Tông, phố chuyên bán những bộ quần áo may sẵn loại bình dân mua mấy chiếc quần bò, vài chiếc áo sơ mi và hai chiếc áo khoác
Mặc những bộ quần áo bình dân vào, tôi thấy tự tin lên hẳn. Lần này tôi phóng đến thẳng cửa nhà anh. Tôi gõ cửa. Cửa mở, anh nhìn tôi bằng con mặt lạ lùng. Anh không nhận ra tôi.
Mặt tôi nóng bừng. tôi lúng túng tự giới thiệu:
– Em là con bé hôm nọ say rượu được anh giúp đỡ.
Anh à lên một tiếng, tay vỗ lên đầu như thể sực nhớ ra. Anh vui vẻ:
– Anh nhớ ra rồi. Vào đi em.
Tiếng “Em” của anh mới ngọt ngào làm sao. Trước khi đến đây, tôi cứ nghĩ anh sẽ gọi tôi bằng một tiếng “Chị” đầy xã giao, vô hồn. Nhưng như thế cũng vẫn còn là tốt cho tôi lắm. Tôi sợ nhất anh sẽ gọi tôi bằng một tiếng “Cô” đầy khinh bỉ. Tôi vào trong nhà, anh kéo ghế mời tôi ngồi.
Rất tự nhiên anh bảo:
– Em ngồi đây để anh chạy ra ngoài hàng mua mấy chén nước. Nhà anh chẳng có ấm chén gì đâu. Khách đến đều ra quán. Em uống chè chén hay trà đá?
Để có thể kéo dài được cuộc gặp mặt và để cho tự nhiên nên tôi cũng không chối từ:.
– Anh cho em xin một cốc trà đá.
Anh chạy ra ngoài mua nước. Tôi ngồi ngắm căn phòng. Một căn phòng người ta vẫn làm cho những sinh viên nghèo thuê. Đồ đạc chẳng có gì. Thứ đáng giá nhất là một chiếc xe đạp cà tàng. Còn thứ đáng giá nhì đó là sách. Chỗ nào cũng thấy sách, trên giường, trên bàn, trên ghế, trên giá sách và thậm chí còn cả dưới gầm giường. Tôi cúi xuống nhặt một cuốn sách nằm ở dưới gầm giường lên thì anh về. Thấy thế anh cười. Nụ cười cởi mở và đáng mến làm sao. Thực ra những người đàn ông đến với tôi người nào cũng cười. Họ cười để mong lấy được nụ cười từ tôi. Hoặc họ cười vì mong lấy được từ tôi một thứ mà họ vẫn mong muốn. Một sự cuồng nhiệt. Những nụ cười đầy mục đích. Còn anh? Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nhận được một nụ cười không mục đích từ một người đàn ông.
– Em cứ để đấy cho anh − Anh lại cười − Đàn ông mà. Bừa bãi quá phải không?
Tôi lấy chiếc áo của anh ra đưa trả lại cho anh.
– Em gửi lại anh cái áo. Anh cho em xin lỗi đã lấy áo của anh mà không hỏi, lúc đi cũng chẳng có lấy một lời cảm ơn. Tại vì tối hôm ấy trông em nhếch nhác quá!
Tôi lúng túng giải thích. Chúng tôi ngồi nói chuyện một lúc nữa, toàn những chuyện linh tinh không đầu, không đuôi, rồi tôi đứng dậy xin phép ra về. Anh tiễn tôi ra ngoài cửa.
Lúc tôi chào anh lần cuối thì anh mới nói một câu:
– Lần sau em đừng có uống rượu nhiều như thế nữa.
Tôi cúi mặt, cắn chặt môi để khỏi bật khóc. Tôi vội vàng nổ máy phóng vụt đi như một kẻ chạy trốn.
o O o
Sau cái lần đến trả áo cho anh, rất lâu sau tôi không gặp lại anh nữa. Tôi rất muốn đến nhưng lại sợ. Vả lại cũng chẳng có lí do gì.Tôi chôn chặt hình ảnh anh vào trong lòng. Cố xua đuổi một cái gì đó rất mong manh, không rõ hình hài trong tôi nhưng không được. Thật tình cờ tôi lại gặp anh.
Lần ấy, tôi đi với một đại gia. Hai chúng tôi đang ngồi ở một quán cà phê thì anh và mấy người bạn bước vào. Nhìn thấy anh, tôi hoảng hốt vớ lấy một tờ báo đưa lên định giả vờ đọc để che mặt nhưng không kịp. Anh đã nhìn thấy tôi. Tôi thấy anh sững lại. Mắt anh gặp mắt tôi. Một giây thôi, rồi mặt anh lại bình thản trở lại. Anh đi lướt qua chiếc bàn tôi ngồi, Không hề quay lại, đi thẳng ra chỗ mấy người bạn. Con tim tôi nhói buốt. Sao phũ phàng vậy hả ông trời?
Tôi không thể ngồi lại được nữa bèn đứng dậy bảo với người đang đi cùng tôi:
– Ta về thôi anh.
– Sao hôm nay em lạ thế? − Vị đại gia của tôi âu yếm hỏi − Hay em muốn đi đâu để anh đưa em đi.
Tôi lo lắng liếc vội về phía bàn của anh. Quán cà phê nhỏ lại yên tĩnh.Những lời của khách hàng của tôi nghe rõ mồn một. Tôi hạ thấp giọng nói với anh ta:
– Anh cho em xin lỗi. Đêm nay em thấy mệt. Để hôm khác em bù cho anh có được không?
– Chán thật – Khách hàng của tôi thở dài, đứng dậy – Thôi vậy. Nhưng ngày mai em phải bù gấp đôi đấy nhé!
Giời ơi! Sao lão ta nói to vậy? Hai chúng tôi đi ra. Sao gáy tôi nong nóng? Hay anh đang nhìn theo tôi?
Ra đến ngoài đường, khách hàng của tôi muốn đưa tôi về nhà bằng xe ô tô của lão nhưng tôi từ chối. Tôi nói tôi sẽ gọi taxi nhưng lão không chịu. Nhùng nhằng một lúc, cuối cùng lão ôm ghì tôi một cái rồi mới chịu lên xe bỏ đi.
Lão đi rồi, tôi sang ngồi ở một hàng nước bên kia đường đợi anh. Tôi không biết tại sao tôi lại hành động như vậy. Đêm nay, tôi đã bỏ mất hai trăm đô la để đợi một cái gì mà chính tôi cũng không biết. Rất lâu sau bọn anh mới ra. Thấy anh ra, tôi đứng lên. Anh nhìn thấy tôi. Tôi nghe thấy anh nói với các bạn:
– Thôi! Chúng mày về trước đi. Tao có việc phải đi đằng này một lúc.
Anh đợi cho lũ bạn đi khuất mới dắt xe sang bên đường gặp tôi. Tôi đứng im, cúi mặt không dám nhìn anh, tay mân mê quai chiếc túi xách. Phải một lúc sau tôi mới nghe thấy tiếng anh hỏi nhỏ:
– Em bỏ khách để đợi anh à?
– Vâng.
Tôi đáp nhỏ và không thể nhận ra giọng của mình. Một thanh âm run rẩy đầy lo sợ. Tôi chắc anh nhận ra điều ấy nên tay anh nhẹ nắm lấy tay tôi.
Chúng tôi dắt xe im lặng đi bên nhau chẳng biết nói gì. Mà tôi cũng chẳng cần anh nói. Tôi chỉ cần anh nắm lấy tay tôi là tôi có thể đi với anh đến cùng trời cuối đất. Đi ngang qua công viên, anh bảo tôi:
– Ta vào trong này ngồi chơi một lúc nhé?
– Vâng.
Tôi lại vâng rồi im lặng theo anh đi vào công viên. Trong giới gái gọi cao cấp, tôi là người rất nổi tiếng. Tôi nổi tiếng không chỉ vì nhan sắc mà còn nổi tiếng vì sự lịch thiệp trong giao tiếp. Sự tinh tế trong nói chuyện. Rất nhiều lần các đại gia thuê tôi đi không phải vì mục đích tình dục mà vì mục đích xã giao với các bạn hàng, và lần nào họ cũng rất hãnh diện khi được đối tác khen ngợi:
– Trời ơi! Ông anh kiếm đâu ra một cô bồ vừa xinh đẹp lại vừa tinh tế đến thế!
Vậy mà sao hôm nay tự nhiên tôi lại ngậm hột thị? Chúng tôi dựa xe vào gốc cây, ngồi xuống một chiếc ghế đá. Anh nhìn ra ngoài hồ rồi bỗng hỏi tôi:
– Đêm nay để đợi anh, em mất bao nhiêu?
– Dạ, khoảng hai, ba trăm đô gì đó.
– Hai ba trăm đô? – anh kêu lên kinh ngạc. Anh xoay hẳn người lại, nhìn sâu vào mắt tôi — Liệu có đáng không hả em?
Người tôi run bắn lên. Không thể tự chủ được nữa, tôi ôm choàng lấy anh. Nước mắt trào ra, tôi run rẩy:
– Đáng! Đáng lắm anh ạ.
Anh ôm lấy tôi rồi lặng lẽ thở dài. Chúng tôi cứ thế ngồi ôm nhau. Tôi riết chặt lấy anh như sợ anh bay mất. Còn anh, tay anh vòng ôm lấy lưng tôi. Bất động.
Sau đêm ấy, Thỉnh thoảng chúng tôi lại đi chơi với nhau. Không bao giờ anh hỏi về công việc của tôi. Tôi biết, anh sợ tôi đau lòng và mặc cảm. Còn về phần tôi, mỗi lần đến nhà anh tôi luôn ăn mặc giản dị, không son phấn. Từ khi yêu anh, anh đã cho tôi những niềm vui nho nhỏ mà trước đó tôi không hề có. Đó là được chăm sóc anh.Tôi luôn được đàn ông chăm sócvà lấy làm thích thú về điều đó. Nhưng bây giờ tôi mới biết rằng được chăm sóc đàn ông còn thích thú hơn nhiều
Một buổi chiều, tôi đang ở nhà anh lúi húi nấu cơm thì có điện thoại gọi đến. Tôi mở máy ra nghe rồi lo lắng liếc vội về phía anh đang ngồi đọc sách bên bàn. Bất chợt tôi gặp mắt anh cũng đang nhìn về phía tôi. Anh đứng dậy đi ra ngoài đường. Tôi vội vàng nắm tay giữ anh lại rồi nói to vào điện thoại.
– Ngay bây giờ ạ? Không được rồi. Tối nay em đã có hẹn.
Nói xong, tôi tắt ngay máy. Anh im lặng một lúc rồi hỏi tôi giọng khó nhọc:
– Em có khách hẹn à?
– Vâng.
Tôi nói lí nhí. Anh quay mặt đi. Lúc anh quay lại tôi thấy nước mắt anh lưng tròng. Tôi ôm chặt lấy anh. Giọng anh đầy giận dữ:
– Anh là một thằng vô dụng. Anh đúng là một kẻ khốn nạn – Hai tay anh ôm lấy đầu – Là một thằng đàn ông mà không lo được cho người yêu của mình.
Tôi quỳ sụp xuống ôm lấy chân anh. Vùi sâu mặt mình vào lòng anh. Vai tôi rung lên. Khi tôi ngước lên nhìn anh thì mặt tôi cũng đẫm nước mắt. Anh cúi xuống nhìn tôi. Bất giác, một giọt nước mắt của anh nhỏ xuống mặt tôi nóng hổi.
Ôi! Giọt nước mắt đàn ông.
– Anh! – Tôi kêu lên – Nếu bây giờ anh bảo em thôi. Em sẽ thôi ngay.
Anh đỡ tôi đứng dậy. Đau đớn.
– Anh bảo em thôi ư? Vậy em lấy gì để sống đây? Anh có nuôi nổi em không?
Anh gỡ tay tôi ra, đẩy tôi ra cửa:
– Thôi em hãy đi đi. Xong việc nhớ quay về đây, anh đợi.
Tôi lên xe đi. Rất muộn tôi mới trở về nhà anh. Anh vẫn đang đợi tôi. Nhìn mâm cơm còn nguyên trên bàn tôi lại muốn khóc. Mâm cơm đã nguội tanh. Tôi dịu dàng nói với anh:
– Anh để em hâm nóng lại các thứ rồi chúng mình cùng ăn.
Tôi vội vàng bắc bếp hâm lại thức ăn. Anh không thể không biết với loại gái gọi tầm cỡ hai ba trăm đô một đêm như tôi, mỗi lần đi khách là một lần tiệc rượu. Sao anh vẫn đợi tôi về cùng ăn? Chúng tôi ngồi cùng ăn với nhau. Mặc dù đã rất no rồi, tôi vẫn cố gắng ăn cùng anh cho anh thấy vui lòng. Anh có hiểu điều ấy không, anh yêu của em?
Ăn xong tôi thu dọn bát đĩa, còn anh mang bộ ấm chén đi rửa để pha trà. Tôi ngăn anh lại:
– Anh để đấy để em rửa cho.
Nói rồi tôi giằng lấy bộ ấm chén, bỏ bát đĩa lại rửa trước ấm chén để đi pha trà cho anh. Tôi thấy anh cắn môi. Anh hiểu. Tôi đang cố gắng bù đắp lại những cái mà đêm nay anh đã phải chịu đựng. Rửa bát xong, tôi đi ra khép cửa lại rồi đến ngồi vào lòng anh. Hơn hai tháng từ ngày tôi yêu anh, chưa bao giờ tôi dám sàm sỡ với anh. Tôi không muốn để hình ảnh một “con đĩ” hằn vào trong tâm trí anh. Ngược lại, anh cũng không bao giờ sàm sỡ với tôi. Có lẽ anh muốn tôi hiểu rằng anh không bao giờ coi tôi là một con đĩ. Thậm chí chúng tôi cũng chưa hề hôn nhau. Hành động thân mật nhất của chúng tôi là ôm lấy nhau nhưng cũng chỉ trong những lúc thật xúc động như buổi chiều nay chẳng hạn. Còn thì chúng tôi thường chỉ nắm lấy tay nhau và im lặng. Nhưng đêm nay thì tôi thương anh quá! Cứ nghĩ đến giọt nước mắt đàn ông bỏng giẫy của anh nhỏ lên mặt tôi là tôi không sao chịu đựng nổi. Anh ơi, anh đau đớn lắm phải không? Còn em. Em cũng đau đớn lắm. Biết lấy gì bù đắp cho anh đây?
Tôi cố nén đau buồn, rót một chén nước, tươi cười nâng lên miệng anh:
– Anh uống đi để cho em uống với. Hai chúng mình uống chung một chén, anh nhé!
Anh nhìn tôi cười cười nhưng đôi mắt anh thì sao mà âm u đến vậy! Đột nhiên, anh bế bổng tôi lên, đặt tôi lên giường. Anh điên cuồng hôn lên khắp cơ thể tôi. Bàn tay anh run rẩy lần mở chiếc cúc áo trên ngực tôi.
Tôi nắm tay anh giữ lại:
– Đừng anh!
Tôi thì thầm van xin. Bàn tay anh lập tức dừng lại. Anh nhìn sâu, rất sâu vào mắt tôi:
– Em không muốn?
Nước mắt tôi trào ra:
– Không phải là em không muốn, mà là chính anh không muốn.
Anh ơi! Nhìn vào mắt anh là em biết anh định dùng cách này để làm dịu đi nỗi đau trong em. Em biết ơn anh nhiều lắm. Trong con mắt âm u kia không có lấy một đốm nhỏ của dục vọng. Không có lấy một tia nhỏ của khát khao. Anh định lừa em để em có được một cảm giác hạnh phúc trong cái tình yêu đau đớn này. Trời ơi! Em đã cố che giấu đi nỗi đau đớn của mình, sao anh vẫn nhận ra? Tôi thầm kêu lên. Anh ơi! Em khao khát lắm. Em thèm muốn lắm. Em chỉ mong có một ngày em được tự tay mình cởi bỏ hết áo quần để khoe tấm thân như ngọc như ngà của em trước mắt anh. Để được nhìn thấy trong mắt anh ngọn lửa đam mê rừng rực cháy. Để được tan vào trong anh cùng với tình yêu của mình. Để được rên lên trong sung sướng và hạnh phúc. Em muốn dâng hiến cho anh chỉ nhân danh tình yêu chứ không phải vì bất cứ một thứ gì khác.
Anh hãy đợi. Ngày ấy nhất định sẽ đến. Hãy tha lỗi cho em.
Hà Nội 18-3-2009
Cho em mượn bờ vai – Nguyễn Thế Duyên
Tám giờ tối, tôi pha một ấm trà ngồi uống một mình. Chán ngắt! Làm sao các cụ nhà ta lại có thể có thú độc ẩm được nhỉ? Tôi lơ đãng nhìn ra phía bờ hồ, những đôi trai gái đang ôm nhau lững thững dạo xung quanh hồ đầy gió. Trong lòng trống trải, tôi bỏ mặc ấm trà vừa pha, mở cửa bước ra ngoài phố. Vượt qua đường, tôi đi sang bờ hồ định kiếm một chiếc ghế đá ngồi hóng mát.
Đi ngang qua một gốc cây, đột nhiên một bóng trắng xuất hiện:
– Anh trai, anh có muốn đi vui vẻ một lúc không?
Cô gái hỏi tôi mà mặt cúi xuống, di di chiếc giày cao gót trên cỏ. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay sờ túi quần. Cô gái nói nhỏ nhưng rất nhanh như sợ tôi sẽ bỏ đi khi mình chưa nói hết câu:
– Anh đừng nhầm, em không phải là gái bán hoa. Em thấy cô đơn và muốn mời ai đó đi chia sẻ. Em sẽ bao toàn bộ.
Tính hiếu kì trong tôi trỗi dậy. Tôi cũng láng máng nghe người ta nói về một lớp người phụ nữ thành đạt nhưng cô đơn ở Hà Nội vẫn đi thuê những chàng trai trẻ qua đêm với mình. Hôm nay tôi mới gặp. Nhưng tôi không hiểu tại sao cô ta lại chọn tôi, một người không còn trẻ trung, tràn đầy sinh khí mà là một anh chàng hơn bốn mươi như tôi.
Tôi đồng ý:
– Được thôi, tôi cũng đang cảm thấy cô đơn. Bây giờ chúng ta đi đâu?
Nghe tôi hỏi, cô gái mừng ra mặt:
– Xe em để bên kia đường, chúng ta đi đâu đó uống một chút.
Vừa nói, cô gái vừa chỉ vào một chiếc xe hơi Toyota bóng lộn ở bên kia đường. Chúng tôi vào xe. Cô gái lái xe đi vòng vèo một đoạn rồi tạt xe vào một phố nhỏ. Đỗ xe lại, cô ta bảo tôi:
– Chúng ta vào quán này anh nhé? Quán này không lịch sự lắm nhưng kín đáo và yên tĩnh.
Tôi hơi mỉm cười bảo cô gái:
– Nhưng nếu tôi muốn vào khách sạn Daiwoo thì em tính sao? Cả đời chưa bao giờ tôi được đặt chân đến đấy cả.
– Cũng được ạ.
Nói xong cô gái nhả phanh tay, nổ máy định phóng đi. Tôi vội vàng nói:
– Tôi đùa đấy. Chúng ta vào đây đi. Tôi cũng chỉ thích những nơi yên tĩnh.
Chúng tôi vào trong quán. Một quán nhỏ, yên tĩnh và kín đáo. Chúng tôi chọn một góc xa lối ra vào. Cô gái hỏi tôi:
– Anh uống gì?
– Em cho tôi cốc cà phê.
Cô gái vẫy cô bé phục vụ lại bảo:
– Cho chị một cà phê nâu, một cốc nước cam và một bao ba số nhé!
Một thoáng, các thứ được bưng ra. Tôi châm một điếu thuốc, định im lặng không nói gì để tìm hiểu về đối tác của mình, nhưng tôi bất chợt nhận ra rằng cô gái hình như cũng không quen việc này lắm. Chính sự im lặng của tôi làm cô ta lúng túng.
Thấy thế tôi đành chủ động gợi chuyện:
– Trước tiên chúng ta hãy có màn làm quen đã. Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là Duy, kĩ sư. Còn em, em tên gì?
Sự chủ động của tôi cộng với nụ cười thân thiện đã làm cho cô gái bớt lúng túng. Mà không hiểu tại sao, lúc ấy tôi lại quên béng mất mình là người được thuê. Tôi sử sự như là người bỏ tiền ra thuê cô gái. Nhưng có lẽ chính điều đó làm cô gái thích thú. Hóa ra phụ nữ đều vậy, họ đều muốn mình là người được che chở. Được yêu thương.
– Em là Lan. Em ở nhà nội trợ.
Tôi nhấp một ngụm cà phê, nhìn cô gái không nói gì. Có lẽ ánh mắt tôi có điều gì đó nên cô gái hỏi lại tôi:
– Hình như anh không tin?
– Không! Tôi không tin – Tôi nhấn mạnh – Em là một người đàn bà thành đạt nhưng lại cô đơn. Đúng thế không?
– Sao anh biết?
Cô gái buột mồm hỏi. Nói xong biết là mình đã lỡ lời, cô ta im bặt. Làm gì mà chẳng biết. Ở miền Bắc này có cô gái nội trợ nào mà lại lái xe vèo vèo như em. Tôi cười, tôi biết có một nguyên tắc cho những cuộc gặp gỡ kiểu này là: Tuyệt đối không hỏi về những thông tin cá nhân của đối tượng nếu không muốn nghe nói dối. Tên em chắc cũng là giả. Đột nhiên tôi cảm thấy hứng thú với cuộc tình nửa ảo nửa thật này.
Tôi không trả lời cô gái mà hỏi lại:
– Tôi có một thắc mắc là tại sao em không bỏ tiền thuê một chàng trai trẻ mà lại đi thuê tôi?
Nghe tôi hỏi, tự nhiên mặt cô gái đỏ hồng lên. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm kĩ cô gái. Em không còn trẻ nữa, khoảng gần bốn mươi gì đó. Không phải là sắc nước hương trời nhưng ưa nhìn. Thoạt nhìn người ta đã có thiện cảm nhất là trong trang phục và cách trang điểm. Tôi biết khá nhiều những người thành đạt ở lứa tuổi em. Họ thường đeo nhiều đồ trang sức. Trang điểm luôn luôn đậm. Không hiểu họ nghĩ rằng những thứ đó sẽ lấy bớt đi cho họ một chút ít thời gian trong cuộc đời hay họ muốn nói với thiên hạ rằng: Tuy tôi nhiều tuổi nhưng tôi giầu? Em thì khác. Trên người em không có một thứ nữ trang nào. Thậm chí ngón tay cũng không đeo nhẫn. Trang điểm rất nhẹ. Nếu không chú ý chắc tôi không nhận ra em có dùng mỹ phẩm.
Cô gái đỏ mặt, nhìn xuống đất tay mân mê mép của tấm khăn trải bàn.
– Tại vì em muốn được xưng là “em” với tất cả tình cảm mà em mong muốn.
Cô gái nói rất nhỏ. Em đang nói với mình hay nói với tôi? Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng thốc thẳng lên đầu. Tôi rùng mình. Bất giác tôi đưa tay ra nắm lấy bàn tay em lúc nào không rõ. Ra vậy, cái em cần không chỉ là cảm giác nhục dục. Cái trước tiên em cần là cảm giác được làm một người đàn bà, được một ai đó che chở, thương yêu. Được xưng một tiếng “em” và cảm thấy mình nhỏ bé. Chao ôi! bây giờ tôi mới hiểu được thế nào là hai từ “Thiên chức.” Bây giờ tôi mới hiểu được cái vĩ đại của Đức Chúa trời khi Người làm ra người Đàn bà cho thế gian này. Người đàn bà vĩ đại hơn cánh mày râu của chúng tôi nhiều quá. Trong họ vừa có cái nhỏ bé, yếu ớt muốn nép vào lồng ngực của một người đàn ông mong muốn sự che chở, thương yêu. Vừa có cái sức mạnh vĩ đại của con đại bàng dang cánh bảo vệ đàn con của mình trước những nguy hiểm. Cái nhỏ bé yếu ớt với cái mạnh mẽ vĩ đại như âm và dương của vũ trụ hòa trộn với nhau đúc nên người đàn bà. Tôi nắm tay em mà run lên vì xúc cảm.
– Tôi có một ý thế này, chúng ta hãy ra phía Hồ Tây đi. Ở đấy, khung cảnh nên thơ, chúng ta sẽ dễ nói chuyện hơn. Em đồng ý chứ?
– Vâng.
Tôi gọi chủ quán:
– Chị ơi, thanh toán.
– Anh để em.
Vừa nói, em vừa mở sắc lấy ra một tờ hai trăm ngàn đưa cho chủ quán.
Tôi nắm tay em giữ lại:
– Em vừa nói gì với tôi nào? Em nói em muốn được xưng là “em” với tất cả tình cảm mà em mong muốn, đúng không? Vậy thì hãy để cho tôi làm điều này. Nếu không, tiếng “em” của em sẽ chẳng còn một chút tình cảm gì nữa đâu.
Tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt em. Em nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng, nhẫn nhịn, vâng lời. Chúng tôi phóng xe ra Hồ Tây. Vào một nhà vườn, chọn một chỗ ngồi sát mép nước. Gió Hồ Tây thoang thoảng đẫm hương đêm. Gió lùa qua mái tóc em, mang những sợi tóc mơn nhẹ lên mặt tôi. Một mùi hương lạ lắm, không phải mùi hương của son phấn, không phải hương của đêm, chầm chậm dâng lên bao phủ khắp người tôi. Tôi choáng ngợp trong làn hương ấy. Tôi khẽ nắm lấy tay em. Cả hai chúng tôi đều im lặng. Tôi đã phải cố gắng lắm để không ôm em, kéo em vào lòng mình, để không vùi mặt mình vào làn suối tóc mượt mà thấm đẫm hương đàn bà kia. Tôi biết, chỉ một hành động sỗ sàng dù chỉ rất nhỏ thôi của tôi cũng khiến những cảm xúc của em tan biến.
– Em thấy Hà Nội đẹp không? Tôi rất thích ngồi bên mép nước Hồ Tây trong khung cảnh tĩnh lặng như thế này. Chắc em ít có dịp đi chơi như thế này lắm?
– Vâng, em rất ít được đi chơi vì không có thời gian. Còn đi chơi với một cảm xúc như thế này thì đây là lần đầu tiên.
– Lần đầu tiên? – Tôi hỏi lại – Chắc tại em kén chọn quá đấy thôi.
– Không phải thế đâu anh. – Em nói giọng trầm hẳn xuống – Anh nhận xét đúng đấy, em là một người đàn bà thành đạt nhưng cái giá của sự thành đạt ấy là cả một cuộc đời. Em chỉ có mỗi một tiêu chuẩn thôi, đó là em sẽ lấy bất kể ai nếu người đó dám yêu em. – Em cười, một nụ cười cay đắng – Nhưng những người dám yêu một người đàn bà bạc tỷ cũng không nhiều đâu anh.
– Thế mà tôi vẫn nghĩ rằng có hàng trăm người quỳ xuống cầu xin tình yêu của em.
– Hàng trăm thì không đến nhưng hàng chục thì cũng đến đấy anh ạ. Chỉ có điều họ không yêu em mà họ chỉ yêu bạc tỷ của em thôi.
Tôi thốt nhiên nhớ đến hai câu thơ Đường:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch công hầu[1]
Chao ôi, người đàn bà thời xưa giục chồng đi kiếm công danh và đã phải trả giá bằng tuổi thanh xuân của mình. Còn em, tự mình đi kiếm công danh thì lại phải trả giá cao hơn. Trả giá bằng cả cuộc đời. Trời có bất công quá không?
– Chẳng lẽ trong số ấy không có ai yêu em mà không phải vì tiền ư?
– Kể ra thì cũng có nhưng chỉ có điều đứng trước bạc tỷ tất cả họ đều biến thành đàn bà. – Nói đến đây, đột nhiên em bóp mạnh tay tôi – Cái em cần là bờ vai của một người đàn ông mạnh mẽ để em có thể gục đầu vào đấy mà khóc mỗi khi em thất bại hay kiệt sức trong đường đời. Bờ vai ấy có thể truyền được cho em sức mạnh để em đi tiếp. Nhưng khó lắm anh ơi! Trước bạc tỷ, các bờ vai ấy đều mềm nhũn. Có lẽ anh, người đàn ông bạc trăm, đầu tiên dám ngăn một người đàn bà bạc tỷ như em trả tiền. Em đi chơi với nhiều người rồi nhưng chưa có ai ngăn em lại khi trả tiền như anh cả.
– Tôi…
Tôi mới thốt lên được tiếng đó thì em đã lấy tay bịt mồm tôi lại:
– Đừng nói gì nữa anh. Anh hãy cho em mượn bờ vai của anh đêm nay. Chỉ một đêm nay thôi. Anh hãy cho em được cảm nhận cái cảm giác của một người đàn bà vẫn mong muốn. Anh hãy ôm em đi.
Tôi ôm lấy em. Người em run lên. Em riết chặt lấy người tôi, hơi thở gấp gáp. Gió từ ngoài hồ lồng lộng thổi vào thoang thoảng hương sen. Đêm loãng ra. Đột nhiên tôi thấy bờ vai tôi ấm nóng. Nước mắt.
– – – – – – – – –
[1] Tản Đà dịch: Nhác trông vẻ liễu bên đường / Phong hầu nghĩ lại, xui chàng kiếm chi! (BT)
Giáo đường xuân – Dương Thụy (Dương Thụy Phương Khanh, 1975- )
Tối thứ sáu cuối tuần, theo thói quen, Phố rời ký túc xá, để mình tự cuốn theo dòng người vào trung tâm thành phố. Trừ lúc mưa to gió lớn hay trời lạnh quá độ, cô chồn chân nhìn qua cửa sổ rồi mở đĩa hát, những bản nhạc pháp trữ tình của thập niên 60. Cuộc sống lẻ loi nơi xứ người tạo cho Phố một thói quen kỳ quặc. Ở Sài Gòn, chưa bao giờ trong đời cô ra khỏi nhà với bước chân vô định. Cuộc đời cô được lên kế hoạch và những mục tiêu liên tục đặt ra…
Tối thứ sáu đầu tiên ở thành phố đại học này, Phố ra khỏi nhà chỉ với mục đích tìm chút khí trời. Những ngày vùi đầu trong nghiên cứu làm cô ngộp thở. Cô không đáp xe bus, chầm chậm rảo qua những con phố. Những chiếc lá đỏ mùa thu được đèn đường sưởi ánh vàng âu yếm. Ra đến trung tâm, Phố đuối chân. Cô ngồi xuống bệ cửa một giáo đường. Gió thốc đến làm cô nảy ý định đẩy cửa vào bên trong. Và, Phố thấy nhớ, người con trai chưa bao giờ nói yêu cô…
Giáng sinh năm đó, Lễ rủ Phố đi nhà thờ. Cô không có đạo, chơi thân với Lễ suốt bao năm đại học, mỗi khi nghe anh nói mình phải đi lễ ngày chủ nhật, Phố thắc mắc: “Có gì thú vị?” Hai người cùng ngồi nghiêm trang, tay đặt ngay ngắn trên đùi. Phố mặc áo dài trắng như Lễ yêu cầu, lòng đầy hồi hộp. Cô hầu như không nhớ hôm đó vị linh mục trẻ giảng gì. Phố cảm nhận sự xúc động mà Lễ trao cho cô. Anh hình như cũng không thể lắng nghe những lời giảng.
Lúc quỳ bên anh cầu nguyện, cô cúi mặt, tim lỗi nhịp: “Xin cho Lễ nói yêu con…”
Cuối buổi lễ, anh hỏi cô muốn nếm bánh thánh không. Hai người xếp hàng đến nhận bánh.
“Cầu nguyện đi – anh thì thầm – cho tới khi bánh tan…”
Lần này Phố chỉ nhìn anh. Trán Lễ cao, mũi thanh, môi đầy đặn. Anh nhắm mắt cầu nguyện với tất cả đức tin. Tan lễ, anh chở cô hòa vào dòng người đổ ra trung tâm Sài Gòn. Hai người vào một quán café ấm cúng.
“Phố thấy đi lễ ra sao?”
Cô cười, thú nhận mình không tập trung. “Nhưng vui lắm, chốc chốc lại hát, rồi cứ đứng lên ngồi xuống. À, bánh thánh chả có mùi vị gì…”
Lễ nhìn vào mắt cô: “Tối nay, để cho Phố ăn bánh thánh như vậy… Lễ mắc tội rồi đó!”
Cô bất ngờ: “Tại sao?”
Lễ chậm rãi: “Vì Phố không có đạo, không có đức tin. Nhưng thôi, chia đôi tội với Lễ nhé!”
Giáng sinh ở Pháp, Phố một mình nằm nghe nhạc của Christophe. Chán chê, cô quyết định ra phố, tìm đến thánh đường mình tình cờ bước vào hôm thứ sáu lang thang đầu tiên ấy. Việt Nam náo nhiệt bao nhiêu, Pháp lại vắng vẻ bấy nhiêu vào đêm Noel. Những cây thông được trang trí bằng vô số ngôi sao tỏa sáng. Khắp nơi, đèn đủ màu giăng trên cao rực rỡ. Những quả chuông nhỏ, cành lá ô rô và những gói quà thắt nơ đỏ đặt trong bí tất được trang hoàng suốt các ngả đường đổ ra trung tâm. Vẻ rực rỡ của những món trang trí càng làm tăng sự hoang vắng trái ngược của phố phường. Đêm nay ai cũng về đoàn tụ cùng gia đình, chỉ mình Phố mãi lang thang. Trời rét! Hai giờ sáng rồi. Giáo đường đã đóng cửa. Cô ngồi xuống bậc thềm. Lần này cô nhìn thấy tên nhà thờ đính bằng một tấm bảng nhỏ kim loại “Toussaints” (Các Thánh). Bất cứ lúc nào nhìn thấy nhà thờ, Phố lại nghĩ đến Lễ. Đêm nay cô càng nhớ da diết.
Một bóng áo choàng đen đột ngột bước ra từ cửa phụ nhà thờ. Phố hốt hoảng thốt lên một tiếng kêu, luống cuống đứng dậy, tháo chạy.
– Tôi làm cô sợ sao?
Giọng trầm ấm đuổi theo sau lưng Phố. Cô dừng lại. Người đàn ông mặc áo choàng đen rảo bước đến bên Phố. Cô vui mừng nhận ra đó là người Châu Á.
– Cô làm gì ngồi ngoài cửa nhà thờ một mình? Cô có cần giúp gì không?
Phố nhìn thấy trên ngực áo choàng đen một thánh giá nhỏ được thêu sắc nét. Cô an tâm, lí nhí:
– Tôi đi dạo.
– Một mình? Vào lúc 2 giờ khuya?
Phố cúi đầu im lặng.
Vẻ lúng túng của cô càng làm người đàn ông lạ quan tâm:
– Cô có muốn giúp đỡ không? Cô người gốc nước nào?
– Việt Nam.
– Việt Nam thật sao? Chúng ta là đồng hương!
Phố ngước nhìn người lạ. Ông ta hãy còn trẻ, trên 30, mắt dịu dàng, khuôn mặt phúc hậu.
– Anh người Việt thiệt hả?
Cô hỏi bằng tiếng mẹ đẻ. Và cô nhận được câu trả lời bằng đúng ngôn ngữ đó. Hai người xa lạ bất giác nhìn nhau thật thiện cảm. Cái cảnh “tha hương ngộ cố tri” làm Phố xúc động khó thốt nên lời. Người đối diện mỉm cười, tia nhìn ấm áp. Phố tự giới thiệu mình là nghiên cứu sinh, sang Pháp được gần 3 tháng nay rồi. Đêm nay vì không gia đình, không bạn bè, cô đành chịu cảnh lang thang một mình nơi phố vắng.
– Tội nghiệp! – Đồng hương thốt lên – Nếu mình quen nhau sớm hơn một ngày, tôi đã có thể mời em cùng ăn réveillon[1]. Đêm Noel mà cô đơn thế này… Tôi ở sát ngay đây, vừa ăn tiệc nửa đêm với các vị trong nhà thờ xong. Tôi tên Vũ, 40 tuổi…
Phố bật cười vì những lời khai báo không cần thiết.
– Anh người Công giáo? Anh đảm nhận việc gì đó của nhà thờ?
– Ừ! – Người lạ ôn tồn – Tôi là linh mục.
– Sao? – Phố la hoảng – Vậy em có phải gọi anh là “cha” không?
Vị linh mục trẻ bật cười nhìn cô bụm miệng thảng thốt:
– Không cần! Cứ gọi thân mật là anh Vũ cũng được.
Anh Vũ quay lại nhà xứ lấy xe hơi đưa Phố về ký túc xá. Hẹn dịp khác nói chuyện tiện hơn. Cô bước vào phòng mình, leo lên giường trùm chăn kín đầu. Tại sao cô “có duyên” với người tu trì đến vậy? Tốt nghiệp đại học, cô chờ đợi một lời tỏ tình thì đột ngột Lễ đến chào từ giã. Anh sang Pháp du học. Cô nói sẽ chờ.
Anh lắc đầu, giọng xúc động: “Đừng! Lễ sẽ là sinh viên trường dòng.”
Phố không hiểu. Cho đến bây giờ cô cũng không hiểu. Anh nói nhiều lắm, cô chẳng nhớ gì, những từ lạ lẫm: đại chủng viện, thần học, khấn trọn đời…
Mãi đến hôm đưa anh ra sân bay, Lễ cầm tay Phố dịu dàng: “Ráng học tiếp nha, Phố có tiền đồ lắm. Lễ sẽ cầu nguyện cho Phố…”, cô mới gật đầu, chấp nhận: Lễ đi tu!
Lễ đi rồi Phố chẳng thiết gì nữa. Nhưng cô vẫn vào tiếp Cao học, đặt ra nhiều mục tiêu cho đời mình. Cô nhận được vài lá thư của anh, theo lệ xã giao. Anh không giải thích vì sao mình chọn con đường này, bởi anh biết, Phố sẽ chẳng bao giờ hiểu. Cô cũng không đòi hỏi Lễ phải phân bua gì, vì cô chắc, mình sẽ nhất định không thèm tin. Mỗi khi bạn bè trong lớp gặp lại nhau, họ vẫn hoài thắc mắc “Lễ và Phố thân nhau vậy. Ai ngờ!”
Rồi họ đoán già đoán non: “Hay Phố làm gì để Lễ thất vọng quá, phải đi tu? Hay Lễ không có khả năng làm một người đàn ông đúng nghĩa?”
Phố cười, buồn: “Lễ nói đó là ơn kêu gọi, là lý tưởng hiến đời mình cho Chúa, là… là điều thiêng liêng hơn tình yêu chỉ dành cho một người.”
Mọi người nhìn Phố ái ngại, rồi họ thì thầm: “Uổng quá! Uổng quá!”
Đường học vấn của Phố ngày càng suôn sẻ. Trước khi sang Pháp tu nghiệp, cô đến nhà ba mẹ Lễ từ giã. Người mẹ ngoan đạo, lúc nào cũng đeo cây thánh giá to bằng bàn tay, hồ hởi khoe thành tích gì đó của con trai mình. Bà nói nhiều lắm, về chặng đường gian nan Lễ để vượt qua để trở thành “người thọ của Chúa.” Lễ vẫn chưa được thụ phong linh mục, nhưng ngày đó rồi sẽ đến. Mẹ anh đã kỳ vọng vào tương lai tu trì của con trai khi anh vừa mới sanh ra. Bởi thế, bà đặt tên anh là Lễ. Phố nhìn khuôn mặt ngời sáng đầy tự hào của bà, cô bỏ ý định hỏi địa chỉ mới của anh.
Anh Vũ gọi vào ký túc xá tìm Phố ít hôm sau lần gặp gỡ tình cờ. Anh mời cô về nhà xứ, giới thiệu với mấy linh mục người Pháp cùng nhà thờ. Cô hơi e ngại vì mình không có đạo. Anh Vũ thân thiện, đối xử với Phố như một người em. Cô thấy anh thật khác với những người tu hành thường gặp ở Việt Nam. Ngày bé, Phố được học Pháp văn với các soeur[2] trường La Providence, lớn lên chút nữa cô học với mấy frère[3] ở Tabert. Họ khá nghiêm khắc, ít cười và ra vẻ đạo mạo. Anh Vũ có thể trao đổi những chuyện rất đời khá thoải mái với Phố: cách ăn mặc không cần đồ lót của tụi đầm, lối sống thử trước hôn nhân, tình yêu giữa những người khác màu da… Có thể vì định cư ở Pháp gần hai mươi năm, tư tưởng của anh giống với người phương Tây – thoáng, không xem trọng hình thức, đề cao sự tự nguyện của cá nhân… Phố thấy mình khá hợp jeux[4] với anh dù tuổi tác chênh lệch.
Đến lần gặp gỡ thứ tư, Phố đã dám hỏi thẳng người bạn vong niên: “Vì sao linh mục cũng có những sinh hoạt như người bình thường: không cạo đầu, không mặc áo thày tu, không ăn chay, không cấm giao du kết bạn với nhiều người… mà vẫn không bị cám dỗ?”
Lần khác, cô lại thắc mắc: “Tại sao đạo Công giáo không cho linh mục lấy vợ như những mục sư Tin Lành, như thế, họ sẽ có đời sống tâm sinh lý quân bình hơn, sẽ hiến dâng đời mình cho mọi người tốt hơn?”
Và có khi, cô thật thà nói với anh bằng một giọng bâng khuâng: “Sau một thời gian làm linh mục, người ta có quyền ra khỏi cuộc sống tu trì để lập gia đình không?!”
Lúc nào anh Vũ cũng từ tốn giải thích cho Phố, anh thường trả lời nửa nghiêm túc, nửa khôi hài. Vì thế, tưởng đã cắt nghĩa thật cặn kẽ, nhưng rốt cục cô cũng chưa nắm được hết cái gọi là “lý tưởng hiến dâng.”
Sang xuân, trời ngày càng ấm lên. Phố giờ đã quen thuộc với những con đường nhỏ lát đá hiền hòa. Cô vẫn giữ thói quen lang thang vào chiều thứ sáu dù việc nghiên cứu bận bịu hơn. Có những sáng chủ nhật cô đi lễ ở nhà thờ Toussaints, dù không mấy hiểu những lời giảng, Phố vẫn thấy lòng bình an. Sau lễ cô thường đợi gặp anh Vũ. Anh chỉ huy ca đoàn và chơi piano rất hay. Những lần anh đứng giảng, Phố tự hào nhìn giáo dân say sưa lắng nghe. Khi xưa người Pháp sang Việt Nam truyền đạo, thế mà nay chính những linh mục Việt lại giảng đạo cho dân Pháp! Cô bớt ray rứt mỗi khi nghĩ về Lễ và cầu mong anh thật sự hạnh phúc với con đường đã chọn.
Rồi đột nhiên, vào một tối cuối tuần, Phố nhận được điện thoại:
– Phố?
Tim cô nghẹn lại, không muốn tin.
– Phố ơi!
– Lễ!
– Qua đây sao không liên lạc với Lễ? – Giọng anh bình tĩnh, dịu dàng – Tình cờ Lễ nghe tin, phải phone về tận nhà Phố ở Việt Nam để hỏi số cầm tay đó.
– Thôi, để Lễ được yên tĩnh – Phố ngạc nhiên thấy giọng mình không hờn dỗi.
– Ngày mai Lễ có một buổi họp ở chỗ Phố đang học. Từ Paris, Lễ lấy xe lửa xuống. Xong việc mình gặp một chút nhé! Hẹn nhau ở đâu?
– Trước cửa nhà thờ Toussaints – Phố chọn địa điểm ngay, dường như cô đã đợi ngày này lâu lắm.
Khác với thói quen hay mất ngủ thường ngày, đêm ấy Phố chìm vào giấc ngủ thật nhẹ nhàng. Cô đến chỗ hẹn trễ 2 phút. Lễ đứng đó, mặt sáng bừng, áo khoác đen hợp với anh hơn bất cứ trang phục nào.
Phố thật lòng: “Lễ đẹp ra nhiều quá, rất đẹp!”
Anh cười, mắt tinh nghịch: “Nếu trước kia Phố khen thế này, Lễ đã không đi tu!”
Hai người nhìn nhau, thoáng chốc nhận ra một phần đời của mình. Dẫu sao, cũng không thể phủ nhận. Nhưng Phố biết, cô có khen anh bao nhiêu, thậm chí có bày tỏ tình cảm với anh chăng nữa, Lễ vẫn chọn con đường hiện nay.
Hai người vào một nhà hàng nhỏ, Lễ giúp Phố cởi áo khoác. Cô gật đầu hài lòng “có tiến bộ!” làm anh mỉm cười, hồng đôi gò má giá lạnh. Lễ kể cho Phố nghe chương trình học của anh mà hầu như cô chẳng hiểu gì. Song cô vẫn lắng nghe chăm chú.
– Dạo này Phố hay đi lễ lắm – Cô khoe – Nếu rãnh hơn Phố còn đọc Kinh Thánh, để tìm hiểu…
– Muốn vô đạo hay yêu ai có đạo? – Lễ hỏi, giọng tỉnh rụi.
– Không – Phố thành thực – Ở đây cô đơn, buồn và bị nhiều áp lực. Nếu có đức tin và một tôn giáo để dựa vào thì tốt hơn… À! Phố có quen một linh mục người Việt Nam, cũng nhờ anh ta…
Cô hào hứng kể cho Lễ nghe lần tình cờ gặp anh Vũ và mối quan hệ thân thiết của hai anh em.
Lễ làm bộ nghiêm:
– Thì ra! Hèn gì mà ham đi lễ. Thôi đừng cám dỗ người ta!
– Nếu cám dỗ được, Phố đã lựa người trẻ hơn, đẹp trai hơn và chưa trải qua nhiều năm thử thách.
– Ơn Chúa!
Anh vẫn cố tình đùa. Phố cười, lòng thanh thản: “Phố tôn trọng con đường mỗi người đã chọn. Đó thực sự là lý tưởng sống. Còn như Phố, chinh phục con đường học vấn, lấy hết bằng này đến bằng kia. Để rồi, đôi lúc giật mình tự hỏi – ‘Vì lẽ gì?’”
Lễ nhìn cô chăm chú: “Đó cũng là lý tưởng! Có kiến thức để giúp bản thân và người khác sống tốt hơn!”
Phố gục gặc đầu, anh lúc nào cũng hiểu cô hơn chính bản thân mình.
Lễ đặt tay lên vai cô, chậm rãi: “Cảm ơn Phố giờ đã hiểu cho Lễ. Cũng có thể chưa thật hiểu, vì Phố không có đạo, không được sinh ra trong môi trường tràn ngập đức tin, nhưng dù sao Phố cũng thông cảm cho Lễ – anh dừng lại, nhìn cô ấm áp – Thật lòng, Lễ luôn ray rứt vì đã làm Phố hụt hẫng. Dù chọn con đường hiến dâng cho mọi người, Lễ cũng có nhu cầu tình cảm riêng cho cá nhân mình…”
Anh Vũ thắc mắc vì sao Phố nhất định đòi gặp. Cô nói trong điện thoại: “Em cần có người nghe em xưng tội. Không tìm anh còn biết tìm ai?”
Cô chờ anh trước cửa nhà thờ. Lần đầu tiên anh thấy cô mặc váy, khăn choàng màu hồng và mang giày cao.
– Nhìn gì dữ vậy? Trời xuân ấm lên rồi – Phố tươi tắn – Anh cũng nên mặc veste nhẹ thôi…
– Có chuyện gì? – Anh Vũ làm bộ cáu – Anh bận lắm đó! Cho em 10 phút.
– Em muốn xưng tội! – Phố ngồi xuống bậc thềm – Trong cuộc đời linh mục của anh, đã có ai xưng tội “Thưa cha, con yêu người!” chưa?
– Không đến mức sỗ sàng như vậy! – Anh nhìn Phố lạ lẫm, trả lời.
– Vậy anh từng rung động với ai chưa? Thời trẻ, trước khi vào trường dòng, anh cũng biết yêu thương mà…
Anh tiếp tục nhìn cô bằng ánh mắt lạ lùng. Cô nhận ra sự lo ngại anh cố che giấu.
– Dẫu không thể lập gia đình vì muốn cống hiến cả cuộc đời mình cho giáo hội, những linh mục cũng có quyền luyến ái chứ!? – Phố vẫn sôi nổi dù biết người đối diện dần dần không thoải mái – Và dù không thể sống chung, họ cũng có quyền giữ trong tim hình ảnh của người mình yêu chứ!?
Lần đầu tiên Phố nhận ra anh Vũ bối rối. Cô vẫn tiếp tục bộc lộ lòng mình:
– Tình yêu không có tội. Bởi ở đâu có tình yêu, ở đó có sự hiện diện của Chúa…
– Hôm nay em làm sao vậy? – Anh Vũ không kiên nhẫn dù vẫn cố khôi hài – Bộ học nhiều quá nên thần kinh có vấn đề hả?
– Em đang yêu – Phố thành thực – Tại sao những người đàn ông lý tưởng đều trở thành linh mục?
Anh Vũ run run sờ trán cô.
Phố nhẹ nhàng gạt tay anh ra.
– Em rất tỉnh và ý thức được tình cảm của mình – Phố đứng dậy chuẩn bị đi – Em yêu một người không bao giờ có thể cho em cuộc sống lứa đôi. Và, em chấp nhận. Yêu bao giờ cũng thú vị hơn được yêu…
Phố bỏ đi. Sau lưng cô, vị linh mục không còn trẻ nhíu mày hoang mang.
Tiếng giày cao gót gõ xuống những viên đá lót đường, Phố nghe tim mình đều nhịp.
– – – – – – – – –
[1] Bữa ăn khuya của những người đi lễ nhà thờ đêm Giáng sinh trở về nhà. (BT)
[2] Dì phước. (BT)
[3] Cha nhà dòng. (BT)
[4] Tính cách. (BT)
Cạo gió mùa xuân – Dương Thụy (Dương Thụy Phương Khanh, 1975- )
Mùa đông, trời Paris xám xịt, mưa rào rơi rét mướt, những cơn gió từ phương Bắc thi thoảng lại thốc về làm Lệ run lẩy bẩy. Cô cố gắng tự động viên mình sắp đến nhà rồi bám chặt gót xuống nền vỉa hè trơn trợt. Chưa bao giờ Lệ thấy nhớ Việt Nam như thế này. Đã đến nơi, Lệ vui mừng lên cầu thang chạy gấp về phòng mình. Cô lục túi áo khoát tìm chìa khóa và sửng sốt nhận ra nó đã biến mất. Lệ thấy cuộc đời thật tồi tệ, cô ngồi bệch xuống sàn nhà rồi ôm mặt khóc như điên.
“Này! Có chuyện gì à? – Một giọng nói vang lên – Cô có ổn không?”
Lệ ngẩng mặt lên nhìn, một anh chàng da trắng cao lớn đến phải hơn một mét chín có bộ râu quai nón đang ái ngại nhìn cô. Lệ không biết anh ta, chắc là hàng xóm chung tầng lầu nhưng ở đây không ai chào hỏi nhau, không ai bắt chuyện làm quen và càng không có chút quan tâm nào.
Lệ nức nở:
– Tôi làm mất chìa khóa rồi! Giờ này làm sao gọi được thợ sửa khóa?
– Thôi! Vào phòng tôi nghỉ tạm đi, nếu cô không ngại – người hàng xóm rụt rè đề nghị – Tôi tên Jean Marc.
– Cảm ơn anh, tôi mệt muốn chết rồi đây! – Lệ vui mừng đứng dậy theo người lạ vào phòng riêng.
Cô nhanh chóng cởi bỏ chiếc áo khoác ướt sũng rồi lúng túng không biết phải thay đồ gì. Lúc này cô chỉ muốn lăn ra giường rồi thì mặc kệ sự đời ra sao thì ra, nên khi người hàng xóm đưa bộ pyjama của anh ra, cô không ngần ngại vào phòng tắm thay vào rồi trở ra cười méo xệch vì bộ đồ quá khổ dài lệt phệt. Có lẽ nhìn Lệ tái mét muốn xỉu đến nơi nên Jean Marc bảo cô lên giường anh ta nằm. Không quan tâm đến chủ nhà sẽ nằm đâu và bản thân mình có an toàn không khi dám lên giường người lạ, Lệ ngoan ngoãn chui vào chăn rồi nhắm nghiền mắt lại. Trong cơn mê đầy mệt mỏi cô thấy mình đang về Sài Gòn, nắng vàng rực rỡ nhưng sao vẫn rét run như mùa đông Paris.
“Cô gái! Cô gái! – Giọng Jean Marc vang lên. Cô ngồi dậy uống chút sữa nóng cho ấm. Có lẽ cô bị cảm lạnh rồi.”
Lệ tỉnh dậy, cô thấy quả thật mình đã ốm và người đàn ông có râu quai nón cùng ánh mắt dịu dàng lẫn lo âu ngồi nhìn cô với ly sữa bốc khói trên tay. Sau khi uống cạn ly sữa và nuốt những viên thuốc anh ta đưa, Lệ vẫn thấy lạnh run không thể nào kềm chế được hai hàm răng va vào nhau lộp cộp. Jean Marc lại cho cô uống rượu mạnh với hy vọng cơ thể ấm dần lên.
– Cô bệnh nặng quá rồi, tôi gọi bác sĩ nhé!
– Thôi thôi, tôi không sao! – Lệ thấy đã tỉnh người hơn, cô ngại cho chi phí bác sĩ đến tận nhà sẽ ngốn hết cả tháng lương làm thêm vất vả của mình – Lúc này nếu có ai biết “cạo gió” tôi sẽ hết ớn lạnh.
– Cái gì?
Lệ bảo Jean Marc lục trong túi lấy chai dầu gió kim nhỏ tẹo rồi lấy cán muỗng miết vào da lưng cho đến khi nào thấy những lằn đỏ xuất hiện thì cô sẽ ấm dần lên.
o O o
Lệ thức dậy sau một giấc ngủ dài mệt mỏi. Cô nhìn đồng hồ rồi hốt hoảng nhận ra mình đã ngủ trọn mười hai tiếng đồng hồ. Chủ nhà chắc đã đi làm. Lệ tự động nấu nước, pha trà rồi mở tủ tìm mứt phết vào bánh mì để trên bàn. Cô nghĩ hẳn Jean Marc đã đi mua bánh mì nóng vào sáng nay. Căn bếp nhỏ nhưng sạch sẽ và ngăn nắp, cho thấy chủ nhà là người nghiêm túc và giản dị. Lệ giờ mới có thời gian nhìn khắp căn hộ vị ân nhân của mình. Anh ta có một dàn máy vi tính hiện đại với đầy đủ các thiết bị chuyên nghiệp. Căn phòng được bài trí hài hòa, đơn giản nhưng ấm cúng. Cô cảm thấy ngán ngẩm khi nghĩ đến căn phòng của mình thật bầy hầy, mất trật tự và lạnh lẽo làm sao.
Chuông điện thoại vang lên làm Lệ giật bắn mình. Cô không dám bắt điện thoại và vì thế chuông cứ đổ từng hồi rồi tắt và cứ thế lại tiếp tục reo đến ba lần. Khi chuông điện thoại không làm thần kinh Lệ căng thẳng nữa, cô leo lên giường tiếp tục ngủ thì cửa phòng đột ngột mở ra và Jean Marc lao vào như một tia chớp làm cô giật mình kinh hãi hét toáng lên.
– Tôi đây! Cô không sao chứ? Sao cô không bắt điện thoại? Tôi lo cho cô quá nên gọi về xem cô thế nào rồi.
– Anh lo cho tôi sao? – Lệ rưng rưng – Sao anh tốt với tôi quá!
– Bất cứ ai ở vào hoàn cảnh của tôi cũng thế thôi – Jean Marc cười gãi đầu.
Lệ thút thít:
– Không đâu! Một năm nay ở Paris, tôi chẳng được ai quan tâm cả. nếu biết có hàng xóm tốt bụng như vậy tôi đã làm quen lâu rồi. Anh là người tử tế nhất Paris. Tôi cảm ơn anh nhiều lắm!
Jean Marc cười hiền lành, mặt anh ta hồng lên vì thẹn. Lệ không để ý đến và kịp đề nghị tiếp: “Anh cho tôi ở lại đến chiều nhé! Giờ này mà ra đường tìm thợ sửa khóa chắc tôi ốm mất.”
o O o
Sau này cả hai gọi đùa sự kiện “mất chìa khóa” của Lệ là “trò bịp” của cô để tiếp cận đối phương. Thật ra chìa khóa không mất mà lọt vào lớp vải lót bên trong vì áo khoác của cô quá cũ kỹ. Khi ra về Lệ mới phát hiện chìa khóa kêu leng keng và nhận ra tối hôm trước do quá mất bình tĩnh cô đã không chịu tìm cho kỹ. Từ hôm đó, Lệ thường xuyên dọn dẹp phòng mình ngăn nắp và bài trí sinh động hơn. Cô cũng chịu khó đi chợ nấu những món Việt Nam rồi mới Jean Marc sang cùng thưởng thức. Anh rất thích món ăn Việt Nam và bảo cô dạy cho nấu. Hai người thường rủ nhau vào quận Mười Ba đi chợ tàu rồi cùng bày ra nấu nướng rất xôm tụ. Lệ thấy mình khỏe hơn, xinh ra và rất yêu đời. Cô cũng muốn “yêu người” nhưng dường nhưng người còn hơi e dè.
Jean Marc ba mươi ba tuổi, là kỹ sư vi tính, người vùng Bretagne lên Paris làm việc. Dù có bộ râu quai nón nhưng trông anh hiền lành, rụt rè và hay che giấu cảm xúc. Jean Marc rất gắn bó với gia đình nên cuối tuần hay quay về Bretagne thăm cha mẹ. Những ngày đó Lệ thấy dài lê thê và rất ghét cảm giác cô đơn. Chiều chủ nhật nào anh quay lại Paris, cô cũng vui mừng làm một buổi tiệc nhỏ rồi hai người cùng đi dạo công viên gần nhà. Có lần cô rụt rè đề nghị cùng về Bretagne với Jean Marc bởi cô chưa được đến vùng này, nhưng anh ngần ngại từ chối. Anh nói do khá lớn tuổi nên mọi người trong gia đình rất quan tâm đến việc có bạn gái và lập gia đình của mình. Nếu dẫn Lệ về mọi người có thể sẽ hiểu lầm.
Cô buồn rầu nhận ra có thể sống độc thân là con đường anh chọn lựa như phần lớn giới trẻ ngày nay ở Pháp, cũng có thể Lệ chưa phải là một nửa của anh. Cô quyết định học hết bằng thạc sĩ rồi sẽ về Việt Nam, cô không còn sức leo lên tiến sĩ làm gì. Như thế, chỉ còn sáu tháng nữa cô sẽ rời Paris, nơi cô luôn chán ghét dù nhiều người ao ước được một lần đến”kinh thành ánh sáng”.
Khi Lệ thông báo với Jean Marc cô đã bỏ ý định học lên tiến sĩ và sẽ sớm về Việt Nam khi kết thúc khóa Cao học, anh có vẻ buồn. Lệ cay đắng nghĩ anh cũng chỉ xem cô là một người bạn giữa chốn Paris lạnh lùng tình người này. Đôi lần cô bắt gặp anh nhìn trộm mình với ánh mắt yêu thương và chỉ có thế. Lệ thường tự chế giễu mình trước kia cứ nghĩ Tây rất bạo dạn trong quan hệ yêu đương, họ sẽ lao vào nhau ngay trong những phút đầu mới quen rồi cùng nhau sống thử. Thế nhưng Jean Marc lại là người rất nghiêm túc dù biết rằng cô đang trông chờ. Đôi khi thảo luận về vấn đề sống thử trước hôn nhân, Jean Marc cho biết gia đình anh theo đạo Công giáo, bản thân anh cũng rất ngoan đạo và tin vào sự bền vững của hôn nhân nên không thích những cuộc phiêu lưu tình cảm như phần đông giới trẻ phương Tây ngày nay. Sau mỗi buổi tối cùng ăn chung, họ hôn má chào nhau, chúc “ngủ ngon” rồi ai về phòng nấy.
Ngày về Việt Nam của Lệ đã rất gần, cô chuẩn bị thủ tục mua vé máy bay, sắp xếp hành lý. Paris đã vào hè, những ngày đông rét mướt dạo mới quen Jean Marc đã lùi xa. Nắng rực rỡ làm cây cỏ và hoa lá đua nở nhưng thật kỳ lạ, Lệ không thấy yêu mùa hè. Cô ước gì được sống trong cảnh giá buốt mùa đông để một lần nữa cảm lạnh nằm trên chiếc giường ấm cúng của Jean Marc. Cô như thấy lại cảnh anh rụt rè cạo gió cho cô trong mùi dầu bạc hà thơm dễ chịu.
Buổi ăn tối cuối cùng của hai người, khi Lệ thú nhận điều này, Jean Marc nhìn cô thật lạ:
– Cho đến bây giờ tôi vẫn rất thắc mắc. Em có thể giải thích rõ hơn về phương pháp làm ấm người của em không?
– “Cạo gió” đó hả? – Lệ cười – Đó là cách cổ truyền của người Việt Nam. Khi cảm lạnh người ta cho rằng gió đã nhập vào người nên phải tìm cách trục xuất gió ra. Dùng một đồ vật kim loại miết vào lưng cùng với dầu gió sẽ làm nóng người lên. Những lằn đỏ càng đậm, gió càng được trục ra ngoài. Và thế là hết cảm lạnh.
– Thật sao?
– Thật ra em cũng không tin gió nằm trong người nhưng đó là cách em được mẹ làm từ khi còn rất nhỏ mỗi khi bị cảm lạnh.
– Lúc đó tôi thấy em rên lên, tôi sợ em đau nhưng em lại có vẻ rất thích thú.
– Thì càng đau càng thấy ấm người và cũng là một cách massage cơ bắp với dầu bạc hà.
– Thật sao? – Jean Marc lại nhìn Lệ ngỡ ngàng.
Lệ cười nắc nẻ vì vẻ mặt kỳ lạ của anh. Đúng là trò “cạo gió” rất quái dị với dân phương Tây.
Jean Marc đột ngột nắm tay Lệ, mặt anh đỏ hồng lên rất xấu hổ:
– Vậy mà bấy lâu nay tôi cứ nghĩ em bị chứng “bạo dâm”.
– Cái gì?
– “Bạo dâm”, tức là thích tình dục bạo lực. Có người như vậy đó, càng bị đau, bị chảy máu thì càng có khoái cảm. Họ bị cho là bệnh hoạn và có lối sống đáng lên án. Tôi thấy em bắt tôi làm cho em bị trầy lưng, em cứ bảo “Mạnh lên! Mạnh lên!” Lưng đầy vệt đỏ mà còn bôi dầu nóng vào. Càng đau thì em càng rên lên như sung sướng lắm. Sau đó thỏa mãn rồi thì ngủ say như chết!
– Cái gì? – Lệ quá bất ngờ – Anh…anh…
– Tôi xin lỗi – Jean Marc rất khổ sở – Tôi đã hiểu lầm…
Cuối cùng Lệ cười phá lên và nói “chúng ta hãy nghĩ chuyện này theo hướng tích cực. Jean Marc có dịp hiểu thế nào là “cạo gió” của người Việt Nam, còn cô biết rằng trên đời này có người thích khuynh hướng tình dục bạo lực. Như vậy cả hai đều được mở mắt. Tuy nhiên Lệ càng cười, Jean Marc càng tỏ vẻ đau khổ. Anh tự trách mình thiển cận, lại quá rụt rè, nghi mà không chịu hỏi.
Lệ xua tay đuổi Jean Marc ra khỏi phòng: “Thôi đừng nghĩ ngợi nữa. Anh về ngủ sớm đi. Sáng mai chở em ra chợ rồi chiều tối em ra sân bay.”
o O o
Hai người lại vào quận Mười Ba để đi chợ Tàu. Lệ mua sẵn thật nhiều nguyên liệu để Jean Marc nấu món Việt Nam. Anh không ngăn lại nhưng buồn rầu thú nhận cô đi rồi anh cũng không hứng thú nấu nướng gì nữa.
Lệ cười: “Thì anh cũng phải ăn để sống chứ.”
Anh chép miệng: “Tôi sẽ trở lại với bánh mì và thịt nguội như trước kia. Càng nấu món Việt tôi càng nhớ em thêm!”
Lệ cười nắc nẻ: “Đừng sến nữa ông ơi! Thôi anh cứ nấu đi, rồi lên mạng chat và qua webcam em sẽ thấy món anh làm, chúng ta sẽ cùng ăn qua mạng. Chỉ có điều không nghe được mùi nước mắm thôi. Kỹ sư vi tính như anh phải chế ra dụng cụ gì đó để truyền mùi hương qua mạng mới được”.
Lệ càng đùa, Jean Marc càng thảm não.
Buổi tối trước khi chào nhau lần cuối ra sân bay, Jean Marc òa khóc như trẻ con: “Nước mắt ơi! Em bỏ tôi đi thật sao?”
Lệ không khóc, cô thấy vui vì anh còn nhớ có lần cô giải thích ý nghĩa tên của cô là “nước mắt” nhưng cô chỉ cười. Không hiểu sao lần đầu tiên gặp anh cô lại đang khóc nức nở, nhờ thế mới được anh cho vào nhà và từ đó quen nhau.
Lệ đã về Sài Gòn với nắng và sức nóng. Cô và Jean Marc thỉnh thoảng mới chat với nhau do múi giờ hai vùng Âu–Á quá chênh lệch, vì thế việc ăn chung qua mạng chưa bao giờ được thực hiên. Có lần Jean Marc báo tin anh bị cảm lạnh rất nặng. Lúc này Lệ mới nhận ra ở Paris đã cuối mùa đông mà Sài Gòn vẫn luôn là nắng. Những ngày cận tết trời vẫn nóng nên cô không thể hình dùng “đang 0 độ” như Jean Marc báo tin.
Thế rồi đột ngột Lệ nhận được điện thoại, Jean Marc bảo hãy ra phi trường rước anh, anh từ Paris bay sang Sài Gòn chỉ để được cô cạo gió. Lệ cười nắc nẻ trong điện thoại: “Sài Gòn đang chuẩn bị đón xuân, sang đây anh tự động hết bệnh mà chẳng cần em cạo gió đâu.”
Lúc Jean Marc xuất hiện, ôm ghì lấy Lệ và cọ bộ râu quai nón vào má cô, cô biết rằng từ đây không một hiểu lầm văn hóa nào có thể chia cách hai người.
Tình lỡ… – Nguyễn Ngọc Tư (1976- )
Lâu rồi, má tôi có đi coi phim Công lý báo thù người ta chiếu đằng sân xã ủy. Dượng Bảy (lúc chưa phải là dượng Bảy) bữa đó cũng coi chung, ngồi kế bên má, gần cái phông vải lớn. Coi hát thì chỗ này là ngon lành nhất, nhìn đào kép rõ, mụt ruồi giả của họ bị rớt, hoặc áo vua rách mình cũng thấy, nhưng đây là chiếu bóng, cái phim từ đầu tới cuối chỉ ca hát với đánh nhau.
Cứ mỗi lần nhân vật ra đòn là má tôi né, thấy máu má tôi che mắt kêu trời, tới cảnh mấy con trăn rắn lớn bò tới thì khán giả đều sụt lùi ngã rạp sắp lớp lên nhau la ré. Má tôi sợ tới quên trời đất, dúi mặt vô lưng người thanh niên lạ hoắc bên cạnh, tức dượng Bảy. Khi phim gần hết, nam nữ chính múa hát ứ ư thì dượng Bảy đã chính thức chạm vào ngón tay út của má.
Hết phim má tôi để lại một cái lông ngỗng: “Em là cháu ông xã Nghiệp”, rồi chìm mất vào dòng người. Năm bữa sau dượng Bảy (lúc đó sắp là dượng Bảy) nhờ một người bạn của ông ngoại tới nhà. Bữa đó má tôi chở mía đi lò đường để ép, dì Bảy ở nhà nấu cơm.
Bạn già của ông ngoại khều dượng Bảy hỏi: “Mày thương đứa đó hả?” Dượng ngó cái người thấp thoáng trong bếp, thấy cái eo thon, đuôi tóc dài, gương mặt nhỏ nhắn xinh xẻo, môi lúc nào cũng nhoẻn cười, dượng tưởng người quen liền gật đầu. Tới đám ăn trầu uống rượu mới hay dì Bảy có người chị sinh đôi, tức là má tôi.
Hai người giống nhau đến mức khó mà phân biệt được, nên đã nhiều người há hốc: “Ủa, mới thấy con Bảy xách giỏ đi chợ cái độp giờ sao nó làm cỏ ở nhà rồi?”
Dượng Bảy cũng cầm khay rượu há hốc, hết nhìn cô chị rồi tới cô em. Bẽ bàng. Lỡ làng.
– Cô không phải người tôi thương.
Dượng Bảy phũ phàng nói thẳng trong một tối say mèm, say đến nỗi thay vì chỉ thẳng dì Bảy thì dượng dứ dứ vô cái gối. Dì Bảy mắc cười quá, khẽ khều sườn chồng, nhỏ nhẻ: “Em bên này nè anh.” “Tôi nhớ em từ bữa đi coi chiếu bóng tới giờ…”, dượng nói sau khi day lại ôm dì, sau khi cầm ngón út nhỏ nhắn của dì nắn mãi. Dì kệ, để tay mình ở đó, mặt héo lòng hon, phải như bình thường dì đã thanh minh giòn giã: “Đây Bảy à nghen, con Bảy, không phải Sáu…” Nhưng dì biết nói gì cũng muộn, người nhầm lẫn là chồng dì, tối đó đúng tối tân hôn.
Bữa sau ra vườn đắp máy họng đìa, hồn vía để đâu mà dượng xắn lưỡi vá vô chân, máu chảy đầm đìa. Dì Bảy bứt lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng, máu trôi bã chuối này dì đắp lên bã chuối khác, miệng không hay chát. Dượng lắc đầu nói: “Cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy máu trên phim còn không dám nhìn…”
Hôm gặt, dì đẩy xuồng lúa bó trên mương ruộng cạn, mồ hôi này chưa khô mồ hôi kia lại tươm bê bết, lúc ăn cơm dượng ngồi gần nhăn mặt: “Cô không phải người tôi thương, đàn bà gì đâu mà chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…”
Năm sau, vợ chồng cãi nhau, bữa đó chồng có rượu nói ngang, tức quá vợ đá vô ống quyển của dượng rồi té chạy. Chồng rượt sát đằng sau. Lọt qua cây quao che khuất tầm nhìn, vợ liền xõa tóc đủng đỉnh đi ngược lại, hỏi lớn: “Dượng Bảy, cầm chổi chà chạy đâu gấp vậy?” Chồng tưởng chị vợ tới chơi, khựng lại sượng trân: “À, tôi… tôi đuổi mấy con gà…” rồi mời vợ vô nhà, rót nước cho vợ uống, hỏi vợ đói bụng không để chồng nấu cơm. Vợ nằm chờ cơm đòng đưa trên võng, ngó dượng chổng mông thổi lửa, mắc cười nhưng buồn quá, không cười được.
Tối đó chồng chắc lưỡi hít hà xoa dầu gió vô chỗ chân bầm tím, chồng nói: “Cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy đánh nhau trong phim còn sợ…”
Năm sau dì sinh con gái đầu lòng, tóc rụng xơ xác, dượng Bảy ngó lom lom vào đỉnh đầu trống trải nói “cô không phải người tôi thương, người ta kia tóc nắm một vốc, mướt rượt…”
“Cô không phải là người tôi thương”, sau này dượng còn nhắc đi nhắc lại câu này, mỗi khi say. Mà nghề thợ mộc cất nhà của dượng thiếu gì dịp say. Dỡ gỗ, nhậu. Lên đòn dông, nhậu. Lợp nhà, nhậu. Nhưng say nhất là về đám giỗ bên vợ, phải ngượng ngập gặp chị vợ lúc này cũng đã có chồng, phải nhớ lại mùi tóc, làn da, ngón tay nhỏ xíu nóng rẫy năm xưa. Nhưng đáp lại cái câu tạt mặt phũ phàng vô duyên vô dùng là một cái nhoẻn cười, cũng đôi khi dì Bảy hỏi lại: “Chắc không à?”, mà dượng có lần dõng dạc nói chắc, dì vặn ngay: “Vậy sao hồi hôm ôm tui?” Dượng Bảy không biết trả lời sao, đành ngoẹo đầu ngáy o o.
Có lần dượng đi đám giỗ ba bữa chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà mình, vẽ sông Cái Tàu cong cong ẹo ẹo qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm bầu dưới bên, vẽ cái nhà có bàn ông Thiên đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà Hai Hiệp.” Trâm bầu thì dì viết chữ “trâm bầu”, không thôi người ta nói đó là so đũa sao. Xong dì sai con đem tờ giấy cho dượng. Đi te te về, dượng nạt: “Ý cô nói tui đi nhậu không biết đường về nhà hả? Cô sâu cay hết biết. Thiệt là… cô không phải người tôi thương, người ta kia mủ mỉ thật thà…”
Ba mươi năm sau, dượng Bảy đột quỵ. Chân yếu, miệng méo, xãi lai nằm một chỗ, mỗi khi dì dìu đỡ vào nhà tắm, giặt khăn với nước ấm lau khắp người, thay quần áo cho, dượng mắc cỡ quá nói câu gì đó, dì Bảy phiên dịch là: “Cô đâu phải người tôi thương. Người ta kia kín đáo, ý tứ tới cái tên còn không dám nói thẳng ra…” Dượng nghe chảy nước mắt. Dì hết hồn, hớt hải nhắn xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an ủi tinh thần dượng.
Buổi đó nhá nhem, đèn đỏ ối, dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên dượng nói từng chữ lục cà lục cục: “Chị không phải người tôi thương…”
Cuối mùa nhan sắc – Nguyễn Ngọc Tư (1976- )
Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa ghê lắm, vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta (nếu trúng số). Và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường phiêu bạt, ông tìm được cô đào Hồng.
Ông già Chín đi theo gánh chè của đào Hồng qua ba con đường. Già rồi, mắt mũi kèm nhèm, bốn mươi sáu năm, dễ dầu gì mà nhận ra nhau. Lòng cứ nghĩ, hình như lâu lắm rất quen nhau, nhất là cái giọng rao chè như hát, từ đôi môi đã héo queo cất lên, cong vút, ngọt ngào mà nghe mịn màng từng âm từng chữ. Ông Chín bàng hoàng nhận ra đào Hồng dù nhan sắc ngày xưa của bà không còn nữa, mặt nhăn nhúm, nám đen, cái cổ cao ngày trước bây giờ gần như đổ gục vì gánh cái gánh tâm tư mà cuộc đời chồng chất. Ông kêu hai tiếng: “Cô Hồng!” mà nước mắt rớt cái độp. Ông Chín nắm tay bà, biểu đi với ông, hỏi đi đâu, ông nói, về nhà Buổi chiều. Bà nói để bà lấy chút đồ, ông bảo khỏi, thì cuộc đời bà còn gia sản nào ngoài gánh chè oằn nặng trên vai, một cái chòi lá rách te tua cất trên ao bèo cuối hẻm.
Nhà Buổi chiều nằm ở tận cùng con hẻm Cây còng. Hẻm cụt. Nhà toàn người già, là chỗ trú ngụ cho những nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ hát bội một thời vang bóng. Tính ra, chỉ có ông già Chín Vũ là vô danh tiểu tốt. Nhưng ông là một trong những người sáng lập ra nhà Buổi chiều, tự ông còn đặt tên cho nó. Hỏi sao không gọi là Hoàng hôn hay Chạng vạng gì đại loại vậy, ông bảo, buổi chiều còn nắng, người nghệ sĩ còn có ý nghĩa sống trên đời. Nhà Buổi chiều nghèo, chi phí dựa vào kinh phí từ trên quận, từ lòng hảo tâm của bà con gần xa, cơm bữa nhiều ơi là nhiều rau mà ít xịu thịt. Vậy mà ai nấy đều vui, bởi cuộc sống trước đây của họ còn nghèo hơn, nghèo không thể tả, nghèo rớt mồng tơi. Người ở chùa, người bán vé số, người ngủ công viên, người hát rong, ít ai có nhà để về. Sum họp ở Buổi chiều, có khổ một tí mà còn được hát. Nghệ sĩ mà, miễn được hát, miễn hát mà có người nghe là sướng rồi.
Ðể kiếm chút đỉnh tiền phụ thêm thịt cá cho bữa ăn, ông già Chín đi bán vé số, vừa có tiền vừa tìm tung tích của anh chị em đang còn lưu lạc. Ðào Hồng lại gánh chè đi tận hang cùng ngõ ngách. Thấy mọi người ái ngại, đào Hồng bảo: “Cứ để em làm, em với anh Chín còn trẻ, còn sức khỏe…” Nói trẻ là trẻ ở trong nhà Buổi Chiều chớ ông Chín Vũ đã bảy mươi, đào Hồng cũng sáu mươi bốn. Buổi sáng, ông Chín gánh gánh chè đưa đào Hồng ra đầu hẻm, dừng dưới gốc cây còng già cóc già kiết, già tới mức nó hổng thèm trổ hoa nữa. Ông già trao đòn gánh lại cho bà, rồi đứng tần ngần nhìn bóng bà xa dần trên đại lộ, tiếng rao chè buổi sớm nghe ngọt lịm, vút cao. Sau lưng bà, còn thấy mấy tờ giấy gói bánh mì ố màu nước cà bay xà quần trên đường rồi sẵn gió đi tao tác. Ông già tạt vô quán càfê chú Tư Bụng, kêu: “Mấy đứa bưng cho tao năm trăm đồng trà nóng coi.” Có người hỏi, sao bữa nay không uống càfê.
Ông Chín Vũ cười cười, lắc đầu, cười tiếp với cái vẻ không muốn nói mà thèm nói quá trời đi:
– Ðể dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.
Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:
– Già mà còn yêu.
– Mắc yêu thì yêu – ông già cự lại, vẻ mặt sương sương không giận gì ai – Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình.
Cạn bình trà, ông già dằn tờ giấy bạc năm trăm dưới đít ly đứng lên xếp ghế lại ngay ngắn, từ tốn rút trong túi ra xấp vé số dày, trước khi đi ông quay đầu lại:
– Tối nay lại chỗ tao coi cải lương, nghe bây.
– Tối nay tuồng gì, chú Chín?
– Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền.
– Í tuồng đó hát rồi. Hát Nửa đời hương phấn đi.
– Bây nói sao tao chiều vậy, mà tuồng đó tao có nhớ miếng nào đâu.
– Chú cần gì nhớ, chú toàn đóng vai quân sĩ với người hầu không à. Có hát hò gì đâu!
Ông già cười khà khà, quay đi, cái lưng cong cong gù gù từ từ mịt mù.
Người trong hẻm không ai làm nghề viết văn nhưng đã biết mình nhớ cái gì khi đi xa nó, nhiều lắm, nhiều không thể kể, nhưng trong đó, chắc chắn nhớ tiếng hát là đà tỏa ra từ nhà Buổi chiều.
Những con người tính từng ngày qua để lắt lay thêm một tuổi nữa, vậy mà hát coi cũng ngon lành. Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống giành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mè. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Ðào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sải ngựa coi lạ hết biết.
Có bữa bà lỡ ca rớt nhịp, ngồi than: “Kiểu này chắc tui sống hổng thọ quá!”
Bà con trong hẻm cười cái rần, “sống tới cỡ đó còn than hổng thọ nỗi gì.”
Ông già Chín không biết hát hò gì, chạy đi chạy lại, lúc thì nhắc cái ghế cho đào Phỉ, lúc thì trèo lên thay cái đèn đứt bóng tối thui, kêu quân sĩ đâu thì ông dạ, chỉ khi đào Hồng hát, ông mới ngồi nép vào đám bông lồng đèn nào đó lặng người đi, thấy đào Hồng nhớ đào Hồng, thấy đó mà nhớ đó.
Ông già Chín Vũ biết đào Hồng từ năm bà mới hai mươi mốt tuổi. Bây giờ hỏi gia cảnh ông ngày trước như thế nào, ông chỉ cười, không nói. Nụ cười nhẹ nhàng trôi trôi, chừng như ông không luyến tiếc gì. Nghe nói, hồi đó, nhà ông giàu có khét tiếng xứ Bạc Liêu. Ông là cháu nội đích tôn của Hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng. Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người từ tấm bé. Bữa cúng đình, ông mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi. Ông thương đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên. Người đâu mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta!
Ðào Hồng chưa uống cạn ly trà ông đã hỏi thẳng, không cưỡng lòng được: “Vậy chứ cô Hồng có muốn lấy chồng chưa?”
Ðào Hồng cười: “Tôi đã nguyện với Tổ cả đời theo nghiệp hát.”
Chín Vũ nghe vậy, thôi không nói nữa, nhưng vẻ mặt suy tính dữ lắm. Hôm sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi theo. Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không được lên sân khấu. Kêu quân sĩ thì ông dạ, kêu “bây đâu” ông cũng dạ, tối ngày lụi hụi kéo màn, dựng cảnh. Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày được nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát. Ông vẫn thường khì khịt bảo rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vông nem đó, thấy chưa? Có người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô nó nổi! Nghĩ lại, tỷ dụ có cái gọi là kiếp trước, hẳn kiếp trước ông Chín nợ bà Hồng cái gì đó, lớn lắm, nên kiếp này, ông trả hoài, trả không hết.
Ông Chín đã cùng đào Hồng đi qua những năm tháng cơ cực, đắng cay.
Ðào Hồng có thai, ông bầu dọa đuổi, ông Chín đứng ra năn nỉ, biểu: “Em lỡ dại…”
Ông bầu hỏi: “Của mầy à?”
Ông Chín cười: “Dạ, của em chớ của ai!”
“Chắc không?”
Ông bảo chắc mà lòng buồn rượi, đâu phải đứa nhỏ trong bụng đào Hồng là của ông. Ông biết ba đứa nhỏ là ai nhưng không tiện nói. Vì đào Hồng bảo: “Có biết, xin anh Chín cũng đừng nói, tội nghiệp, ảnh còn nhiệm vụ, còn công việc quan trọng phải làm.” Cô hẳn yêu người ta lắm, nên một mực bảo vệ cho người ta. Sau nầy, con đào Hồng một tay ông giữ, ông bồng. Ông dạy nó kêu ông bằng ba, đào Hồng nhìn ông rơi nước mắt. Ðó là sự biểu lộ tấm thịnh tình đầu tiên mà đào Hồng dành cho ông suốt hai năm đi theo đoàn Kim Tiêu.
Không khí Sài Gòn bắt đầu khê đặc mùi chiến tranh, buổi sáng ngồi quán uống càfê mà toàn nghe sặc sụa từ đám quân cảnh mùi thuốc súng. Cũng một buổi sáng, ông Chín bị cảnh sát gô cổ trói đem đi. Cái thời sao mà bất công, tai bay vạ gởi, quân cảnh thấy buồn bắt người chơi cho vui vậy. Tụi nó nghe có người tố cáo đoàn Kim Tiêu có Việt Cộng nằm vùng, coi đi coi lại không thấy ai có lý do vô đoàn lạ như ông.
Tụi nó hỏi: “Vậy đang sống giàu có, đi theo đoàn làm gì?”
Ông mắc cười thiếu điều nhỉ nước đái, cái tụi nầy, mình nói mình lưu lạc tại vì mình thương đào Hồng chắc gì tụi nó tin, tụi nó có biết tình người là gì đâu. Mười ngày sau, ông được thả. Chỉ mười ngày thôi nhưng phải đợi đến nửa đời sau ông mới gặp lại đào Hồng.
Gánh hát rã nhanh, đào Hồng không đợi ông về. Nghe bà con bán đậu phộng, thuốc lá trong rạp kể lại, kép Thường Khanh bị quân cảnh bắt, đào Hồng ôm con bỏ trốn, ở lại, chỉ sợ vướng cô rồi lòng người cô yêu lung lạc. Ông Chín quay quắt đi tìm, mà người thì tản lạc đâu đâu. Nhiều lúc ông Chín tự hỏi, làm sao đào Hồng có thể sống nổi đến từng ấy năm mà không có ông đỡ đần một vai gánh mỏi?
Sau nầy, về nhà buổi chiều, có đêm trăng sáng, ngồi bên rổ khoai lang luộc, đào Hồng có kể chuyện mình. Mọi người chung quanh đều sụt sùi, sao mà hoàn cảnh của nó y hệt mình vậy cà, hổng lẽ đời đào hát là phải vậy! Có người không lấy chồng cho thỏa nghiệp, có người như đào Hồng có con rồi, vì mê hát, vì chiến tranh mà gởi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa.
Ông Chín Vũ ngồi rầu rầu, hậm hực. “Biết vậy hồi đó tui bóp mũi nó cho rồi.”
Ðào Hồng bảo: “Anh Chín đừng nói vậy, em thương nó không hết chớ có trách nó bao giờ. Có lúc em nghĩ, con nó có nhìn em cũng không chịu, mình nghèo quá làm gì lo cho nó nổi hả anh?”
Bà không bao giờ nhắc tới Thường Khanh, như chưa từng quen biết con người đó trong cuộc đời. Nhưng những nỗi nhớ niềm thương chắc còn day dứt trong lòng làm cho bà quắt queo, tàn héo. Ông Chín giật mình, cái nhan sắc ngày xưa đã đi đâu mất biệt rồi, rồi tự nhủ lòng, mình nhớ cổ đâu chỉ vì nhan sắc, vậy thì thắc mắc, đau lòng làm chi.
Ðào Hồng là người duy nhất trong mấy chị em ở nhà buổi chiều không bao giờ lên sân khấu mà chưa hóa trang, chưa son phấn. Những ngày mới về đây, biểu bà hát, bà lắc đầu. Ai tra gạn, bà không nói, bảy chị em ai cũng nghèo, có người có son phấn cũng không dám hỏi. Ông già Chín đi theo hỏi hoài, bà nói thiệt. Ông đập con heo đất, đi chợ mua cho bà thỏi son với hộp phấn bông mai. Xong còn kêu cô bán hàng gói lại, chít bông cho cẩn thận.
Bà cảm động, nhưng vẻ mặt buồn hiu, “Anh tốt với tôi chi mà tốt hoài vậy?”, làm cho ông Chín cũng buồn.
Ông nghĩ: “Mình sống làm gì tới từng tuổi nầy mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là Hồng!”
Trách thì oan, lắm khi ông cũng đâu hiểu được bà. Hồng vẫn thường soi cái gương cũ viền đồng có cán để cầm, mặt gương đã ố lấm tấm. Ông Chín thấy thương lắm, ông lén mua về tráo gương mới vào chỗ bệ cửa sổ rồi lấy cái cũ cất đi.
Bà biết ngay là ông, bà giận lắm, mặt lạnh tanh: “Anh tài khôn làm gì, tui đâu có cần gương mới.”
Ông cố cãi: “Nhưng cái cũ nó mờ lắm…”
“Mờ mờ tui mới thích”, bà nạt ngang. Không biết tại sao bà lại có ý thích kỳ cục vậy.
Lần đó, ông già Chín buồn, buổi chiều thôi không còn đón bà ở đầu hẻm để gánh giúp gánh chè về nhà, mà ông vẫn thường nói, dù ngắn, ông cũng muốn đỡ đần cho bà một đoạn đời. Ông biết bà còn chờ một cái gì đó, mơ hồ lắm, tiếc là bà không tâm sự với ông. Nghĩ cho cạn, bây giờ đào Hồng cũng như ngày xưa thôi, người ta có khác gì đâu mà mình giận. Sống khép kín, ít nói, ít cười, ít biểu lộ nỗi lòng lên mặt. Chỉ trên sân khấu, đào Hồng mới thỏa thuê khóc, thỏa thuê cười, mà cười sang sảng như Thái hậu Dương Vân Nga vậy nghen. Cái cười mở lòng mở dạ người ta ra.
Cái bữa cả nhà buổi chiều được xe hơi đón đi giỗ Tổ ở nhà hát thành phố, ông Chín giữ nhà. Hôm đó có ông già lại tìm đào Hồng. Ông già tóc trắng như mây, dáng thong thả, chậm rãi, cốt cách sang trọng thấy mà ham.
Ông Chín hỏi ông già kia quen sao với đào Hồng, nghe trả lời cũng như không: “Tôi với cổ là người quen cũ. Không biết ngày xưa ông đã từng quen biết đào Hồng? Có à? Ừ, thì tôi hỏi ông nè, cái nhan sắc đó làm sao mà người ta quên được, ha? Vừa rồi tôi đọc báo, thấy người ta viết về nhà Buổi chiều, tôi mừng như vừa sống dậy, thể nào cũng gặp được cố nhân.”
Ông Chín ngồi tần ngần, day day cái chung trà trên tay, lòng bối rối nên nói chuyện trớ he: “Ừ, tụi tui thấy vậy mà được lên báo hoài thôi.”
Ðến lúc khách từ giã về, ông Chín cũng không có biểu hiện gì là mình đã nhận ra người quen cũ. Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. Sương gió cuộc đời không làm gì được ông khi ông đã sống khác cuộc sống của những người nghệ sĩ ở đây, một cuộc sống không chia ly, khổ đau, dằn vặt. Ông Chín chờ hoài, sao không nghe ông Khanh nhắc tới chuyện ngày xưa ông và Hồng từng có một đứa con, người ta dễ quên vậy sao?
Khách chờ không được, từ giã về rồi, ông Chín ngồi chèm bẹp ngoài cửa rào, nghĩ, rồi mình sẽ mất cô Hồng một lần nữa, từng tuổi nầy còn để mất nhau mà coi được sao. Ông tự nhủ lòng, thôi, bà Hồng về ông không thèm nói lại đâu.
Không nói nhưng thèm nói, lương tâm biểu phải nói, ông Chín bảo: “Không biết cô Hồng còn nhớ Thường Khanh? Ảnh mới lại đây kiếm cô.”
Ðào Hồng vừa xổ mái tóc cỗi cằn xơ xác ra, lặng người, tay cầm rưng rưng cái đầu tóc mượn.
Lâu lắm, bà mới lơ láo ngó lên, đôi mắt ráo khô “tôi đi giặt bộ đồ.” Ra tới lu nước bà tựa người vào đó, mặt soi xuống nước bật khóc. Ước gì nước đừng trong như vậy để khỏi phải hiện lên một nhan sắc tàn phai. Không nhìn đằng sau mình nhưng bà biết, ông Chín đang chạy theo nhìn mình, bà nói khẽ: “Mai người ta tới đừng nói tôi ở đây nghen, tôi… tôi không muốn gặp.”
Ông Chín đứng đó, trong lòng vừa mừng (tại cô Hồng không muốn gặp chớ không phải tại tôi ích kỷ à nghen) vừa thắt thẻo thương bà, ông bảo: “Không tránh được hoài đâu, cô à, mà có gì phải tránh né nhau, người ta, sống ở đời cốt là ở tấm lòng.”
Tránh làm sao được khi kịch bản cuộc đời đã bày ra một cảnh gặp nhau. Ông Khanh gặp bà Hồng ở đầu hẻm, lúc trời chạng vạng, khi bà quang gánh trở về. Nhìn thấy ông, bà mỉm cười, giở nón, bà hỏi: “Nghe nói ông tìm tôi?” Ông Khanh đứng chết lặng, ngẩn người ra, lòng ông đau đớn. Ðó không phải là cái nhan sắc mà ông nhớ thương, chờ đợi. Không phải đào Hồng, dứt khoát không phải đào Hồng mà ông đã ôm trong tay ấp trong lòng, đã từng che chở, bao bọc cho ông những ngày xưa cũ.
Có những vẻ đẹp không phải ai cũng nhìn thấy được. Ông Chín nói với bà Hồng như vậy, ông biểu bà đừng buồn, bà cười bảo: “Tôi có buồn gì đâu”, nhưng nước mắt bà nhỏ xuống trong khe. Người ở hẻm Cây còng không thấy ông già sang trọng đi xe hơi tìm vào nhà Buổi chiều nữa.
Bắt đầu những cơn mưa mùa ràn rạt trên mái nhà, đập ầm ầm vào hai bên vách đóng bằng thiếc cũ. Không thấy bà Hồng gánh chè ra ngõ, không còn nghe tiếng rao ngọt ngào thánh thót mà buồn thiệt là buồn của bà, cũng không thấy ông già Chín Vũ ghé quán chú Tư Bụng uống năm trăm đồng nước trà.
Ðào Hồng bệnh nặng. Ông Chín thắt lòng khi biết trong người bà nhiều bệnh như vậy. Bà như trái bầu khô chỉ còn nhờ vào chút chờ đợi mỏng manh của tình yêu thời son trẻ làm cái vỏ cứng cáp ở bên ngoài. Rồi cũng từ ngày sự thất vọng xui cái vỏ thấm mưa nắng mục ruỗng đi. Bà nhắc tới cái chết hoài, đào Phỉ nạt, “tao sống tới từng tuổi nầy mà còn không chết, bây mà chết chóc gì”; Rằm tháng ba, như thường lệ là cữ hát của nhà Buổi chiều. Ðào Hồng ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Ông Chín vẽ chân mày, tô phấn thoa son cho bà rồi dìu bà ra ghế. Bà ngồi ghế mà hát. Bà hát cho Thái hậu Dương Vân Nga trước ngổn ngang nợ nước tình nhà, hát cho nàng Quỳnh Nga bên cầu dệt lụa, cho nàng Thoại Khanh hiếu thảo róc thịt nuôi mẹ chồng, cho nàng Châu Long tảo tần nuôi Dương Lễ, Lưu Bình ăn học và cho Tô Thị trông chồng hóa đá vọng phu…
Ðào Hồng hát đến lịm tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu gục đầu. Cái gánh nặng tâm tư này, không mang nổi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giường, bà đã hôn mê. Người ta hát vở cuối cho bà, cho một người nghệ sĩ chân chính. Ðào Hồng đã gặp lại rất nhiều người thân thuộc cũ, bà nghe con trai bà gọi má, nghe ba má bà nói lên lời tha thứ vì đứa con gái đã bỏ nhà theo nghiệp xướng ca, lời tha thứ bà chờ đợi ngót năm mươi năm ròng rã. Bà sung sướng trở về nhà thơ ấu, đi bắt chuồn chuồn đậu trên hàng bông bụt, cạnh mé mương…
Bông trang rụng ngoài sân.
o O o
Có lần, ghé quán càfê chú Tư Bụng, tôi quen với ông Chín Vũ. Ông Chín người gầy nhom, nhỏ thó, nhưng tốt bụng, xởi lởi. Ông nói với tôi rằng bỏ cả đời đi theo đoàn hát cũng không uổng, bởi vì đời ông thực có ý nghĩa. Lần đầu tiên ông đóng được vai chính, người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng, phút lâm chung của người đàn bà suốt đời ông yêu thương, ông gọi: “Má ơi!” và thấy bà mỉm cười. Chỉ vậy thôi à? Ừ chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn…
Nụ cười bí ẩn – Trương Anh Quốc (1976- )
Tôi đang ngắm những con đò ngược xuôi trên sông Hàn thì điện thoại reo. Đầu bên kia, giọng nói trong vắt:
– Anh đang làm chi đấy?
– Đi dạo trên bờ sông Hàn nè!
– Anh đi với ai thế?
– Một mình chứ với ai!
– Thế cho em đi cùng với được không?
– Em nói giỡn hoài, em ở xa cả trăm cây số!
– Không đâu, em đến ngã ba Huế rồi nè. Anh đón em nhé!
Tôi định hỏi thêm vài câu nhưng Thủy Nguyên đã cúp máy. Mà cô bé ra đây làm gì? Chẳng lẽ đi công tác, hôm nay cuối tuần mà. Thôi, thắc mắc làm gì! Tôi lại chỗ gửi xe, lấy xe máy đi đón.
o O o
Tôi gặp Thủy Nguyên khi đi thăm Hòn Kẽm Đá Dừng. Chúng tôi cùng đi trên một chuyến ghe phiên chở đến mấy chục người. Vui không thể tả. Lúc đi, mọi người mang xuống ghe bao nhiêu là trái cây mua ở chợ Trung Phước. Trái cây chợ Trung Phước được lấy từ làng Đại Bình, mà trái cây của làng Đại Bình thì ngon hết biết.
Dù là đất miền Trung nắng lửa nhưng Đại Bình trồng được đủ loại cây trái của Nam bộ, cả xứ lạnh Đà Lạt hay Sa Pa. Chôm chôm, sầu riêng, măng cụt… đủ cả. Nhưng ngon nhất vẫn là đặc sản vùng núi miền Trung: bòn bon. Trái bòn bon Đại Bình chua chua ngọt ngọt ăn quên thôi. Cả đoàn vừa ăn trái cây vừa đàn hát vang cả một khúc sông rộng.
Thích ngắm cảnh sông nước hơn, tôi ra mũi ghe, bắt chéo chân ngồi nhìn những rặng tre xanh ngút ngàn hai bên bờ sông Thu Bồn. Ghe chui qua cầu Nông Sơn, cây cầu do tình thương của người dân khắp nơi đóng góp. Phía xa xa là ngọn núi Cà Tang cao vút.
Kia là bãi bồi Đông An cát cao ngất, còn đây Tí lở Tí bồi. Tí lở là sườn núi, Tí bồi là bãi cát vàng mênh mông. Giữa miền trung du nhưng có những làng sống trên sông nước. Những đứa trẻ chạy nhảy, nô đùa trên cát. Chiều xuống, người ta cặp ghe vào bãi bồi để nấu nướng. Có bà cụ chỉ tấp ghe vào chỗ khuất tránh gió thổi lửa nấu cơm. Cảnh nghèo đơn sơ trông đến se lòng. Nhưng nghèo mà yên bình quá! Những cô gái gánh nước tưới bắp, rồi gánh nước về nhà. Trước lúc về bao giờ các cô cũng tắm ngoài sông, cứ để quần áo mỏng ướt dính da, dấu chân in trên cát, bóng đổ dài trên cát.
Hai bên bờ sông, những triền bắp xanh mát mắt đang mùa trổ bông, hương bắp ngây ngất. Tôi nhớ câu hát ru em của mấy đứa nhỏ hàng xóm thuở nào:
Chèo ghe bẻ bắp bên sông
Bắp chưa có trái bẻ bông đem về…
– Sao anh ngồi có một mình?
– Anh ngắm cảnh. Mấy khi được ngắm cảnh đẹp như thế này.
– Anh lãng mạn quá ha! Anh ở xa tới phải không?
– Cũng không xa lắm đâu. Qua bên kia đèo là tới làng anh – tôi chỉ tay về hướng đèo phía đông – Em có biết làng Gia Cát không?
– Gia Cát? Em cũng ở làng ấy!
Tôi tròn xoe mắt. Cô bé cũng ở làng mình? Sao mình không biết ta? Tôi cố vắt óc. Chịu. Tôi nhìn cô bé một lượt. Ở làng mình có cô gái đẹp thế mà mình lại không biết, tệ hết sức tệ!
Nhưng tôi liền chống chế. Vì mình đi xa, lâu lâu mới về quê chơi vài ngày, khi về đi thăm lại bạn bè cũ và bà con cũng không hết, nói chi biết thêm ai. Mà tôi chỉ biết lớp lớn hơn mình thôi. Lớp nhỏ hơn một vài năm còn biết chứ hơn nữa thì chịu thua.
– Anh xin lỗi, nhà em ở xóm nào?
– Em là con út của chú Năm xóm Cây Khế đó anh!
Tôi nhớ ra rồi. Xóm này trái đường nên tôi cũng ít khi qua lại. Nhưng ai chứ chú Năm thì tôi không sao quên được. Chú ấy thường cắt tóc cho tôi lúc nhỏ. Nhà chú xa nhưng chú hớt tóc đẹp nên con nít xóm tôi rủ nhau qua nhà chú hớt. Tôi nhớ khi qua nhà chú Năm có thấy đứa con gái tóc lơ thơ và vàng hoe như râu bắp, duy chỉ có đôi mắt sáng và đen như hai hột nhãn. Chắc là cô bé này chứ ai vô nữa. Ai dè bây giờ đã trở thành một thiếu nữ đẹp mặn mà thế này!
o O o
Chiều tà, tôi cùng đoàn người vượt đèo. Thủy Nguyên không đi bằng ôtô của cơ quan nữa mà cùng đi xe máy với tôi để ngắm cảnh. Tôi đi sau cùng và đi chậm. Mọi người lao vút lên đèo rồi biến mất, chỉ còn hai đứa tôi. Thật vắng vẻ. Đến đỉnh, xe đang chạy ngon ơ, tôi cho xe chạy chậm rồi dừng lại.
– Vụ gì á? Vụ gì á?
Tôi không trả lời. Sao cứ nghĩ xấu cho con trai hoài! Tôi chống chân đứng im ngắm cảnh từ đỉnh đèo Le thơ mộng, rất chi là thú vị. Tiếng chim kêu ríu rít. Núi rừng xanh bạt ngàn. Cũng thật lạ, hai con suối cùng xuất phát từ đỉnh Hòn Tàu nhưng một dòng đổ về hướng tây là suối nước nóng Tây Viên, còn đổ về phía đông là dòng nước mát hiền hòa.
Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng liếm trên lưng sườn núi, tắt dần trên những cánh đồng với con đường quanh co đẹp như bức tranh thủy mặc. Cảnh đẹp mà ngày xưa nhà thơ Khương Hữu Dụng đã từng dừng chân mở quán nước lưng đèo để nuôi hồn thơ.
Nắng tắt, tiếng chim núi gọi bầy, sương là là đỉnh đèo. Thủy Nguyên ngồi sau không nói gì, hình như là mắc cỡ với câu nói ban nãy. Đèo lộng gió. Cái gió se lạnh trong sương chiều. Tóc Thủy Nguyên cứ cứa vào mặt khiến tôi không cầm được lòng mình.
– Cho anh mượn cái tay.
– Mượn làm chi?
– Cầm!
– Lạ lắc mà cầm!
Tôi thò tay ra sau, nắm lấy tay Thủy Nguyên. Bàn tay trong gió lạnh ngắt. Thủy Nguyên giật tay lại nhưng không rút khỏi được bàn tay khỏe mạnh của tôi nên cứ để yên. Bàn tay ấm dần lên rồi nóng bừng. Má Thủy Nguyên áp vào vai tôi cũng nóng bừng.
– Anh cầm lái hai tay đi, đến khúc cua rồi kìa!
– Té thì té chung, lo gì!
Tôi vẫn cầm tay Thủy Nguyên nhưng cho xe chạy thật chậm, thật chậm. Chậm thế mà Thủy Nguyên cũng sợ, cứ ôm eo tôi cứng ngắc… Ở phố tấp nập, Thủy Nguyên đâu dám ôm tôi như vậy.
Qua hết đèo, tôi đưa Thủy Nguyên đi ăn nghêu sò ốc hến ở bờ sông Hàn. Sau đó chúng tôi đi dạo. Nghe nói bên bán đảo Sơn Trà đẹp lắm, tôi hỏi đường rồi chở Thủy Nguyên ra đó. Lượn quanh bờ biển một vòng, gió biển mát rượi, đến bãi cát trắng chúng tôi dừng lại, ngồi uống nước dừa ngắm biển mà chẳng nói gì với nhau, đến khi sóng biển cao dần, bọt nước bắn lên tận chỗ ngồi mới giật mình nhìn đồng hồ.
10 giờ rưỡi phải về vì Thủy Nguyên còn phải đến nhà cô bạn trên tận Hòa Khánh. Xe mới qua cầu Sông Hàn một đoạn thì nổ lụp thụp như hụt hơi rồi từ từ dừng lại. Xuống kiểm tra, hết xăng. Cây kim xăng xe thằng bạn bị kẹt, xăng cạn mà kim vẫn báo đầy. Tôi dắt, Thủy Nguyên đẩy một đoạn khá xa mới có chỗ bán xăng lẻ.
Đến ngã ba Huế đã 12 giờ kém. Thủy Nguyên gọi điện mấy lần cho bạn đều không có tín hiệu. Có lẽ cô bạn đã khóa máy và ngủ mất rồi. Bây giờ thì biết ngủ nơi đâu? Con trai lăn lóc đâu cũng được, con gái tìm chỗ ngủ thật khó quá. Không còn cách nào khác, tôi phải chở Thủy Nguyên tìm khách sạn cho cô nghỉ qua đêm.
Trúng mấy hôm hội chợ hàng Việt Nam–Lào–Thái Lan, đi đến gần chục khách sạn mới có một phòng trống. Gửi xe rồi mang giỏ xách lên tận lầu 4, chân tôi mỏi rã rời, lại quá buồn ngủ. Nhưng tôi còn phải đi gần chục cây số nữa mới đến nhà thằng bạn để ngủ nhờ. Tôi gọi trước cho nó. Chuông réo hoài mà không ai bắt máy. Thôi rồi, nó cài chế độ rung chứ không để chuông. Giờ này chắc nó cũng ngủ co giò từ lâu, cuối tuần uống vô mấy chai, ngủ say có sóng thần đổ vô nó cũng không hay.
– Thôi cho anh ngủ lại đây sáng mai anh đi sớm, được không?
– Được, nhưng chỉ có một chiếc giường, anh phải nằm dưới đất!
Dưới đất cũng được, miễn có chỗ ngủ. Trời lạnh, tôi lấy tấm chăn đắp rồi nằm thẳng cẳng. Thủy Nguyên tắm rửa xong, lên chiếc giường nệm dày trải vải trắng muốt. Cô nằm được một lát thì kéo chiếc chăn tôi đang đắp:
– Lạnh quá, không có mền em ngủ không được!
– Có một chiếc thì làm thế nào? Hay là chúng mình đắp chung? Thôi chúng mình đắp chung nhé!
Tôi lên giường nằm. Thủy Nguyên lấy vội chiếc gối để giữa và cấm tôi không được quay mặt vào trong. Hai chiếc lưng cũng không được chạm nhau. Ai vi phạm sẽ bị phạt. Tôi chưa nghe Thủy Nguyên nói sẽ phạt gì thì mắt đã díp lại, không còn biết trời trăng mây gió gì nữa.
Đang ngủ ngon thì có gì đó chạm vào hông khiến tôi tỉnh giấc. Quay lại, môi tôi chạm đôi môi mềm mại. Lòng rạo rực, tôi hôn Thủy Nguyên một nụ hôn thật ngọt. Thủy Nguyên cũng đáp lại bằng một nụ hôn thật ngọt. Bản năng đàn ông trỗi dậy, bàn tay tôi vụng về vuốt ve đôi gò má, mân mê cái cổ thon dài rồi nong dần xuống, mở cái cúc áo. Tôi trườn qua khỏi cái gối lúc nào không hay. Đôi vòng tay tôi ghì chặt, tôi cũng được ghì chặt, hơi thở cả hai càng lúc càng gấp.
Bàn tay tôi đang chu du thì Thủy Nguyên kêu lên:
– Dừng lại!
– Sao vậy?
– Anh có… yêu em không?
Câu hỏi làm tôi giật thót. Tôi lấy lại bình tĩnh bằng cách hít thật sâu rồi thở chậm, đều. Tôi mở mắt nhìn Thủy Nguyên. Cô cũng từ từ mở mắt nhìn tôi. Nếu trả lời không thì tôi sẽ làm cho Thủy Nguyên buồn. Nhất định là vậy. Nếu trả lời có là tôi dối lòng mình. Tôi đã yêu một người, một người tôi chưa được cầm tay, mấy năm rồi cũng chưa gặp mặt nhưng tôi cứ nhớ cứ thương, cứ chờ đợi và tin tưởng dù rằng chưa hứa hẹn gì với nhau.
Mà sao tôi lại hôn một người con gái tôi chưa yêu thế này? Tôi vừa hôn một cô gái mà mình chỉ mới thinh thích bởi vẻ đẹp đằm thắm, cách nói chuyện thông minh và hài hước. Tôi luôn dặn với lòng mình là sẽ dành nụ hôn đầu đời cho người mình yêu kia mà. Tôi thấy mình có lỗi với chính mình, với người mình yêu. Tôi nhớ lại lời cô ấy: “Nếu chỉ một việc nhỏ anh làm cho em buồn thì coi như những gì từ trước đến nay anh có làm cho em vui đến mấy cũng bằng không…”
Tôi không muốn mất người tôi yêu, tôi không thể làm cho người tôi yêu buồn. Tôi không muốn người tôi yêu giận. Tôi tự hỏi có phải Thủy Nguyên dễ dãi quá hay không? Tôi lại không ưa người dễ dãi. Dễ dãi với mình thì cũng dễ dãi với người khác thôi. Nhưng với sức mạnh của một người con trai thì liệu cô gái chân yếu tay mềm kia không dễ dãi có được không?
Câu hỏi ấy càng gợi thêm trí tò mò và kích thích sự khám phá nơi tôi. Thế mà giờ đây chỉ có tôi và Thủy Nguyên trên chiếc nệm trắng muốt và êm ái trong một căn phòng đã khóa cửa trong, không thể có người thứ ba nào biết được. Và tôi cũng là một đứa con trai bình thường, cũng đầy tò mò và khao khát!
Sáng sớm mai tôi lại đi rồi và sẽ đi rất xa, chắc gì sau này có dịp gặp lại Thủy Nguyên, càng không thể có cơ hội bằng vàng nằm cùng với cô trên chiếc giường nệm trắng muốt như thế này một lần nữa. Ngón tay tôi đưa lên môi lúc nào không hay. Tôi dằn lòng, không thể, nhất định không thể! Tôi nghiến hai hàm răng, cắn phải ngón tay đau điếng, một lúc sau nghe người mình dần dần hạ nhiệt.
Rồi tôi thì thầm:
– Nếu là có?
– Thì em sẽ là… của anh!
– Nếu là không?
– Không yêu mà như thế này hả?
Thủy Nguyên giận dỗi đẩy tôi một cái thật mạnh làm tôi lăn tròn. Đột ngột tự ái của tôi bùng lên, sức mạnh của đứa con trai trỗi dậy. Tôi chồm lên cô như hổ vồ mồi. Nhưng tôi lại kịp đưa ngón tay lên miệng cắn thật đau một lần nữa. Thật trớ trêu. Sao người nằm đây không phải là người tôi yêu để tôi nói lời yêu thương ngàn lần, để tôi không phải kìm nén sức trai, để rồi tới đâu thì tới! Sao lại không phải chứ? Sao lại không phải chứ? Tôi càng nhớ người yêu quay quắt. Tôi cắn tay thật mạnh một lần nữa rồi nằm yên cho cơn đau lan tỏa khắp cơ thể.
Khá lâu, chợt có ngón tay mềm mại gãi gãi vào lưng tôi.
– Bộ nhớ người yêu à?
Tôi không quay lại mà chỉ gật gật đầu.
– Chứ người yêu anh ở đâu, xa lắm hả?
– Xa lắm. Xa mà anh không bao giờ gặp được. Anh xin lỗi em. Anh không muốn lừa dối em (tôi biết rằng trước một người con gái mà nói về một người con gái khác là thằng ngu nhất trần đời nhưng không hiểu sao miệng tôi cứ nói, không dừng lại được), anh càng không muốn dối người anh yêu. Người ấy đã lâu rồi anh chưa gặp mặt, anh cũng chưa được cầm tay, chưa một lần hẹn ước nhưng anh luôn nhớ luôn thương và anh sẽ chờ cô ấy suốt đời…
– Hoang đường, thật là hoang đường!
Tôi cũng nghĩ là hoang đường. Tôi ước là hoang đường. Tôi cũng muốn quên đi lời dặn của cô ấy để bây giờ khỏi phải cắn mãi ngón tay đau! Nhưng biết làm sao bởi tình yêu bắt nguồn từ nhiều thứ, trong đó có cả niềm tin.
o O o
Sáng ra khi xuống trả phòng, cô nhân viên khách sạn nhìn chúng tôi cười cười đầy tình ý. Chúng tôi nhìn nhau cũng cười cười. Không ai biết chúng tôi cười gì. Chỉ có ánh đèn trần phòng 404 mới biết.
(Nghi Sơn, tháng 4-2006)
Ráng chiều rực đỏ – Nguyễn Thị Việt Hà (1978- )
Ả quyệt mồ hôi vương trên trán, cái bụng vượt mặt nặng nề.
– Ai bánh còng, bánh cam hôn?
Không một thanh âm vọng lại. Vài đứa trẻ lem luốc nhìn xịa bánh thèm thuồng. Bóng ả hắt xuống đường. Tiếng rao của ả bị nuốt chửng và trôi tuột xuống dòng sông nước lờ nhờ. Mùi mặn ngai ngái của muối biển, mùi tanh của cá phân phơi ngoài bãi xộc lên làm ả muốn ói.
Ả mệt nhọc bưng bụng chậm từng bước dưới nắng chiều. Bà chủ quán bún mắm réo:
– Vô đây tí coi!
– Tui không ăn bún.
– Bụng tụt vầy chắc sắp sanh ta ơi!
Ả e dè ngồi sát mép băng ghế gỗ. Đó là cái quán bún mắm dựng lên bằng chòi lá sơ sài cuối thẻo đất xóm đảo. Mùi nước lèo thơm lựng, ả lần mấy đồng bạc lẻ nhăn nheo, có cả thẩy là tám ngàn đồng, không đủ tô bún. Ả tần ngần xếp phẳng phiu mấy tờ tiền rồi ấn sâu vào túi. Nước miếng tứa ra, ruột gan cồn cào. Ả đói…Người đàn bà nhỏ thó, cũ kĩ trong bộ bà ba nhàu nát y như cái quán của mụ dòm ả, chép miệng hỏi:
– Đói hôn? Ăn tô bún nghe bây?
– Tui nói rồi, tui không ăn bún. Sáng giờ bán được có 8 cái bánh cam hà.
– Ai bắt bây trả tiền? Tao làm cho tô nghen!
– Thôi, tui đi à – Ảvội đứng dậy bưng xịa bánh.
Người đàn bà ấn ả xuống, dịu giọng:
– Tao thấy bây bụng mang dạ chửa, tao thương. Bây sợ mắc ơn thì tao đổi tô bún lấy mấy cái bánh cam. Tao ngán bún, ăn bánh cam trừ bữa. Bây cứ ngồi.
Khác với vẻ nhếch nhác khi nẫy, người đàn bà nhanh nhẹn cời lửa cho nước lèo sôi ngùn ngụt rồi chan vào tô bún cho ngập nước. Sau đó xếp cá thêm lát thịt ba rọi, vài con tép bạc, kèm theo rau thơm, giá sống, bắp chuối, rau muống chẻ nhỏ, nước mắm ớt nguyên chất, vắt thêm tí chanh. Sau đó mụ chan nước lèo lần hai.
Ả rưng rưng dòm tô bún, dễ cả năm ả chưa được ăn ngon như vầy. Ả nói nhỏ nhí:
– Tui ăn à. Mơi bán có tiền tui trở lại trả chị.
– Tiền bạc gì bây ơi. Tao đổi bánh ăn chớ đãi đằng chi! Ăn đi cho nóng.
Ả đói ăn không kịp ngửa mặt. Ráng chiều đỏ rực hắt xiên ngang quán, ả húp cạn đến muỗng nước lèo sau cùng, đưa tay quyệt ngang mặt lau mồ hôi túa ra tròn như hột đậu khắp mặt. Ả nhìn mụ chủ quán hàm ơn. Người đàn bà cười hềnh hệch xuề xòa.
– Chị bán đỡ hôn?
– Hên xui bây.
– Sao cho tui ăn bún. Lỡ tui giựt…
– Tao thấy bây qua đây từ sớm, giác giờ bánh chưa hết chắc đói, tao kêu. Đàn bà chửa mau đói lắm, tao biết.
– Ờ, chị lấy thêm mấy cái bánh ăn nhen! Tui đi bán cho hết.
Ả gói mấy cái bánh đưa mụ chủ quán tốt bụng rồi bưng xịa bánh rao, tiếng rao có vẻ phấn chấn hơn lúc trước. Ráng chiều đỏ rực như cố thu tất cả rực rỡ nắng của ngày trước khi lụi tàn để màn đêm xâm lấn hắt lên người ả.
Phía sau, người đàn bà thở dài đánh sượt nói trỏng:
– Cái thân vậy đó mà thằng ác nhơn nào hiếp con nhỏ tới mang bầu.
Ả là con cái nhà ai, từ đâu đến, ả bao nhiêu tuổi? Không ai biết! Chỉ biết ả có cái tên cũng phiêu du: Phấn. Chỉ biết ả đã lớn lên cùng với cây cối xung quanh, những con vật thân thuộc và dễ nuôi như con gà, con chó và cả mấy con chuột thậm thụt dưới ruộng. Người ta thấy ả làm đủ thứ hết: bán xôi, bán nước ở cổng trường học, tìm mua ve chai, làm bánh cam bán dạo khắp thôn cùng ngõ hẻm…
Phấn có khuôn mặt đẹp, da trắng sứ, tóc đen tuyền, môi mọng đỏ. Khốn nạn thay, khuôn mặt đẹp ấy lại đậu trên đôi chân cong vòng teo tóp như hai nhánh cây khô, muốn di chuyển ả như con tôm cong người bật về phía trước. Ai nhìn thấy ả cũng cũng ám ảnh, buông thỏng một câu “Trời đày!” Nhà ả ở mẩu đất thừa cuối chợ, kế bãi rác. Nói là nhà cho sang chứ đó là một cái chòi được quây bằng mấy miếng tôn thiếc tạm bợ chừng 10m2, mái lợp lá dừa. Cũng chẳng biết đâu là cửa ra vào, chỉ có một khoảng trống phía trước để có thể phân biệt ngoài trời và trong nhà được che bằng tấm liếp đan bằng cây sậy. Cả đời Phấn chưa bao giờ được sống trong ánh đèn điện, chỉ nhìn thấy ánh sáng bừng lên trong những căn nhà của hàng xóm. Tài sản ả có là chiếc nồi nấu ăn, hai cái chảo, vài cái thau, cái cối xay bột, mấy cái bát đũa đã sứt mẻ và tấm ván ngựa mỏng tang kê cao thay cái giường nằm.
Không bạn bè, không người thân, Phấn cứ tồn tại như một trò đùa của tạo hóa. Cuộc sống của ả cứ lặng lẽ trôi đi, hệt như con thuyền cứ hàng ngày từ lạch sông ra quãng vắng. Dù vậy, ả cũng không được yên ổn. Chẳng là chòi của ả tận dụng thẻo đất thừa cuối chợ tự phát để dựng nhờ chứ chẳng phải đất của ả, nửa cục đất chọi chim ả còn không có nói chi đến đất dựng nhà. Ngặt nỗi cái chợ ở gần nhà văn hóa của xã nên người ta lấy đó làm chướng mắt. Ả không có cái hộ khẩu nên không được xét cấp sổ hộ nghèo. Mà biết đâu chừng có cái sổ ấy người ta thương tình xét cất cho Phấn cái nhà, ả không phải lăn lóc ở cái chòi chật chội này, cũng không lo ngày nào chính quyền cũng đến động viên ả dỡ cái chòi đi cho đỡ bầy hầy, dù cảnh quan ấy được đống rác nằm chình ình đầy ruồi nhặng chuột, mèo chết, chó chết được quăng ra đấy, bốc mùi tanh thối áng ngữ. Đêm nằm mơ, Phấn không dám mơ gì nhiều, ả chỉ mơ mình có cái sổ hộ nghèo… Phấn nhiều lần phát hoảng và thương hại cho cuộc đời mình, nghèo đói đến thế là cùng. Phấn không bao giờ biết đến lễ tết, giỗ chạp. Nhưng điều đó không làm ả khổ sở bằng sự cô đơn.
Phấn không nhớ mình đã bao nhiêu lần nghẹt thở, quằn quại như chính ả bị đẩy vào giữa những câm lặng đau đớn miên man. Ban đầu ả dẩu mỏ nhổ toẹt ra vẻ kinh tởm cái cảnh trần tục, bản năng hoan lạc của những cặp tình nhân, nhưng ả nằm không yên, nghiêng đầu ngó vào lỗ đinh đóng tuột của miếng tol dòm người ta tình tự nhau như thế nào. Xóm biển không thiếu những quán nước nhưng có lẽ do cái nghèo bó lấy hoặc cái u uất, tối tăm ở góc chợ hợp hơn với tình yêu người nghèo chăng? Hay tại bãi đất trống được tận dụng làm cái chợ nhóm này vắng vẻ? Phấn vô thức lần giở từng nút áo, trong tiếng rên rỉ của đôi trai gái đang cuộn vào nhau, rất nhỏ nhưng đánh động mọi cảm giác của ả. Phấn ưỡn ngực bóp chặt vào hai bầu vú tròn căng, mắt nhắm nghiền, lăn tròn trên sạp. Đôi chân ả quẫy đạp trên đám giẻ rách mà ả cố vá víu thành áo quần. Nhói. Một cây đinh đứt đầu lòi trên tấm sạp đâm vào chân. Phấn lần đến đôi chân, giật thót mình như vừa chạm phải vật gì ghê tởm lắm. Đôi chân khèo, khô quắt, cong vòng một cách kì dị, những ngón chân không thành hình thù của bàn chân mà như móng vuốt của loài mãnh thú. Phấn giật mình. Phấn xé tung quần áo và bật khóc thương cho cái thân của ả. Mọi thứ bung tỏa, vụn vỡ. Nỗi cô đơn hành hạ ả thống khổ cả tinh thần và thể xác. Những tiếng vọng hoan lạc của đôi thể xác từ cuối góc chợ ẩm ướt, hôi bẩn, tăm tối không hề gợn cho ả cái cảm giác nhầy nhụa mà như những âm thanh diệu kì nhất, hay ho đẹp đẽ nhất mà ả thèm khát.
Xóm chợ có thêm một cư dân mới. Đó là một gã trai vạm vỡ, đầu tóc gọn gàng, hắn làm nghề bốc vác. Hắn hay cười, hở hàm răng vàng xỉn do hút thuốc lá nhiều. Mấy cô bán đồ tươi thích ghẹo hắn, thích mướn hắn vác hàng, ngoài tiền công còn “bo” thêm ly café hoặc bao thuốc lá. Mấy người già thích bởi hắn thiệt dạ, có việc gì cũng nhiệt tình phụ giúp. Tuyệt nhiên hắn không bao giờ lớn tiếng dù có bức xúc đến đâu đi chăng nữa hắn cũng chỉ cười trừ. Ban đầu người ta tưởng hắn ít nói, hóa ra hắn câm. Nên người ta gọi hắn là “Câm” riết thành cái tên luôn.
Ban ngày hắn làm lụng siêng năng, ban đêm hắn về chải cái chiếu trên thớt thịt ở chợ nằm ngủ. Hắn um mấy miếng vỏ dừa xua muỗi. “Nhà” ả ở cuối chợ. “Phòng” hắn là cái thớt thịt của bà Ba Quân giữa chợ. Kể ra thì cũng gần gũi, ấy thế mà hắn và ả giáp mặt chớ có hề gật đầu chào nhau một tiếng mà chỉ đưa mắt dòm qua rồi thôi. Nhưng lòng hắn chộn rộn mỗi khi gặp ả. Hắn thương đôi mắt ngơ ngác dưới hàng mi cong, hắn ngẩn ngơ mỗi khi Phấn cười, hắn yêu cái tướng đi khó nhọc của Phấn. Với hắn, dáng ấy chẳng phải của một người tàn tật mà trở nên uyển chuyển, dịu dàng. Mỗi khi ả bật cong người để di chuyển khuôn ngực thách thức nhô ra phía trước, cặp mông tròn lẳn trồi lên trụt xuống sau mỗi bước chân, cánh tay trần no nưỡng, trắng trẻo phất đều. Phấn đẹp lõa lồ như một con cá hô cái quậy ổ, tìm cách phới cái bụng trứng, giữa những đường lượn của những con cá Hô đực vào một ngày mưa đầu nguồn sông Bảy Háp mà Câm đã từng thấy. Với hắn đó là chuyển động quyến rũ, gợi tình. Hắn cười thầm mãn nguyện, xem đó là hạnh phúc riêng gã cho cái phát hiện quan trọng đó. Dân xóm chợ bắt đầu xì xào, chọc ghẹo khi bắt gặp hắn lén lợp lại mái nhà cho Phấn, đổ cho đầy cái kiệu nước, gom củi vụn cho ả chụm bếp. Mà hắn làm việc ấy thầm lặng lắm, khi ả vắng nhà. Ả đi bán bánh cam, hắn mới len lén đỡ đần, hắn lo lo, thương thương… Đích thị là hắn tương tư.
Hắn nghiện cái món bánh cam của Phấn làm. Có lẽ, Câm nghĩ, cô Phấn đã vô tình nêm bột bằng một thứ gia vị đặc biệt: mồ hôi trinh nguyên ở khe ngực cô rớt xuống nên không bánh cam phương nào hấp dẫn hơn bánh cam cô Phấn. Cả đời hắn chưa thấy ai làm bánh cam khéo như Phấn. Phấn trộn bột nếp và bột gạo mỗi thứ một lượng bằng nhau cộng với một ít đường, muối đem nhào đều, sau đó đem ủ. Đậu xanh cho vào nồi rồi đổ ít nước vào, nấu cho sôi vào khuấy đều đến khi nào nhừ thì cho đường và chút muối. Sau đó lấy bột bánh nắn mỏng cho nhân đậu xanh vào rồi nắn dẹt dẹt cho vào chảo dầu sôi. Bánh chín nhanh tay cho nước mè đường tráng lên mặt bánh. Hắn say mê dòm ả làm bánh quên cả công việc chính của mình là bửa cho chú Hai Sếch 2 thước củi, đặng mai nhà chú có đám cưới.
Hắn suy nghĩ lung lắm. Hắn trở mình liên hồi khiến cái thớt thịt cũng rên lên theo nhịp trở mình. Mấy hôm nay nhà bà Lành không gánh bánh canh bán đầu chợ nữa, nghe đâu thiếu đói, mấy đứa con ăn đến cụt vốn, dù gánh bánh canh mặn của bả chưa đến một trăm ngàn. Cái xe hũ tiếu gõ của ông Tư thời sự cũng không còn đẩy qua đây mỗi đêm. Tiếng thanh tre gõ vào nhau của thằng Cu Lì con ông Tư sinh động như một bản nhạc đường phố giờ tắt ngúm. Nghe nói thằng lớn nhà ổng đánh bạc thua, đến cái xe hũ tiếu chủ nợ cũng đến xiết. Mà nói cũng tội, thằng con làm thợ hồ nghe người ta rủ rê đánh bạc mau giàu, gã nghe bùi tai nhào vô…Giá mà hắn trúng số, trước nhứt hắn sẽ mua thêm mấy cái xoong, chảo, lò thiệt lớn đặng “người tình trong mộng” của hắn chiên bánh cam cho thoải mái; thứ nữa hắn cho người vài trăm, ai hắn cũng cho đều trân.
Hắn lại nghĩ có khi vài trăm ít quá, hay là người vài triệu để xoay sở mần ăn. Nhất định chuộc cái xe hủ tiếu cho ông Tư. Còn một việc trọng đại nữa là hắn sẽ mua đất, cất nhà, hỏi cưới Phấn, đám cưới hai người sẽ đường hoàng, rỡ ràng. Hắn hết nằm nghiêng, lại nằm ngửa, ngó mặt lên trời cười mình ênh. Nhưng mà “của thiên trả địa”, trúng vé số lớn có khi lại mất đi cái gì đó lớn hơn. Mà biết đâu chừng lúc có tiền hắn lại trở thành con người khác, lúc ấy (lại) biết đâu chừng người trong mộng của hắn không phải là ả? Nghĩ thế hắn lại đâm ra sợ. Hắn quyết rồi, cả đời hắn chỉ sẽ yêu Phấn… hay là thôi, cứ nghèo như vầy cũng được, để hàng ngày hắn được dòm Phấn, canh me ả sắp đi bán bánh cam để mua mở hàng và chiều tối về nếu bánh cam ế hắn sẽ mua hết cho ả. Để mỗi ngày hắn được nhìn thấy ả cười ỏn ẻn, ngắm cái tướng con cá Hô quậy ổ của ả là hắn cảm thấy vui không kể xiết. Hắn thôi không nghĩ nữa quấn tấm mền cũ từ hồi năm nẳm gáy đều. Trong mơ, hắn thấy ả mặc áo cô dâu trắng tinh đi bên hắn.
– Dậy đi, mưa lớn không biết lạnh sao?
Hắn ú ớ tỉnh giấc, giật thót nhận ra người con gái hắn mới thì chiêm bao trước khi nhận ra mưa hắt ướt một nửa cái thớt thịt.
– Thôi, vô chỗ tui đục mưa. Tui ngó tội, tui kêu anh vô đó.
Hắn gãi gãi đầu, áng chừng hắn thấy kì, cảnh nam, nữ đơn chiếc trong đêm cô quạnh ở chung cái chòi, chòm xóm người ta dị nghị. Phấn nói một lèo:
– Anh mắc cỡ heng? Tui để anh ướt luôn. Tui nhớ cái ơn anh lợp cái chòi, kê cao tấm ván ngựa, nên tui thấy trời mưa gió kêu anh vô chòi chớ có ham hố chi. Cao su nè quàng vô hay không tùy anh á. Tui vô, đặng ướt bệnh ai mà lo.
Nói rồi ả ngoăn ngoắt dáng con tôm bật đi về phía cuối chợ. Hắn cảm động quàng nhanh tấm cao su tẻn tò theo sau.
– Anh lên bộ ván nằm ngủ tự nhiên nghen. Tui mắc làm, mơi tui bán khoai môn luộc.
Hắn hươ tay có ý gấp gáp hỏi sao ả không bán bánh cam. Ả nín thinh không nói gì, lát sau nói trỏng:
– Nếp, đậu, đường… thứ gì cũng tăng giá. Làm bánh nhỏ đi thì kì mà thêm giá thì coi cũng hổng được. Làm y rang cũ thì không có lời. Sống sao nổi!
Hắn chưng hửng, mai mốt hắn biết ăn bánh cam ở đâu? Hắn dòm ả rửa khoai rồi dòm cái xịa hàng ngày ả vẫn xếp bánh cam lên đó tự nhiên lòng thấy sao sao. Phấn chụm cái bếp củi bắc nồi khoai lên rồi nói:
– Anh có ăn bánh cam của tui cả đời được đâu mà tiếc chi? Anh ngủ tiếp đi, mưa lớn lắm. Sắp tới mùa mưa rồi, anh tính sao chớ ngủ thớt thịt hoài đâu có được.
Hắn ra hiệu liên hồi, biểu ả cứ làm bánh cam đi, mắc bao nhiêu hắn cũng ăn, hắn ăn cả đời được. Hắn không quan tâm cái thớt thịt, mưa kệ nó. Hắn chỉ quan tâm đến ả. Hắn bước xuống, lấy tấm bạt kéo ngang chòi, che mấy lỗ dột. Phấn nói bâng quơ:
– Mưa hoài…
Hắn nhìn ả, dưới ánh lửa bập bùng, ả đẹp lạ. Phấn đưa củi vào bếp, ngồi buồn so. Sao mà lúc nào hắn cũng thấy ả buồn, kể cả những lúc ả cười. Cái chòi của ả rung lật bật lên trong gió, mấy miếng tol va nghiến vào nhau. Cái nền thấp trũng mưa lớn chút là nước tràn vô nhớm nhúa. Mấy cái cột gầy đét giỏi lắm chỉ trụ được đến giữa mùa mưa. Nhìn vô đâu hắn cũng thấy chỗ này cần sửa, chỗ kia cần sửa. Phấn dòm hắn, ý chừng đọc được điều lo lắng của hắn, nói:
– Anh lo cho tui chi! Cũng khỏi sửa, mơi mốt chính quyền người ta hốt cái chòi của tui rồi.
Hắn ngồi xuống gần ả. Tự nhiên run bắn, lần đầu tiên hắn được gần ả như thế. Khoảng cách chừng nửa sải tay. Phấn cũng tự nhiên run bắn, lần đầu tiên có người đàn ông dòm ả âu yếm đến thế. Lâu nay người ta chỉ dòm ả theo cái kiểu của lòng thương hại hoặc khinh sợ. Có lần khi đi bán bánh cam về muộn, ả ngồi trên bờ ruộng nghỉ mệt có thằng khốn nạn dâm đãng miệng nồng nặc mùi rượu lẫn lộn mùi tanh tưởi của cá, các loại cua còng toát ra từ mồ hôi xấn tới, tóc bù xù bết lại che nửa khuôn mặt cháy đỏ nắng gió biển khơi, ngự trên khuôn mặt đó là đôi mắt hoang dại, cái mũi sần sùi, cặp môi màu thịt trâu thiu, hắn dùng đôi tay cuộn bắp thịt lực lưỡng kéo ả đến gốc dừa mặc ả van xin, kêu khóc. Đến khi hắn lột quần ả, hắn khựng lại nhìn đôi chân teo tóp, những mảng da dúm dó kì dị hắn giơ tay tát ả, nhổ nước bọt gằn lên:
– Đ… mẹ. Dòm cái mặt đẹp mà dòm chân mắc ói. Hết ham.
Thằng say tỏ vẻ ghê tởm, phát cười hô hố ngật ngưỡng bỏ đi để lại phía sau lưng một người đàn bà tật nguyền trần trụi. Khuôn mặt thằng say, cái mùi tanh tưởi lợm giọng đó ám ảnh ả, xoáy vào suy nghĩ của ả rằng: thân thể ả không phải là thân thể của một con người.
Không nhìn hắn, Phấn đưa củ khoai vừa chín tới cho gã:
– Ăn đi cho nóng. Còn mưa tới sáng.
Hắn nhận lấy củ khoai rồi chụp luôn bàn tay của Phấn. Phấn giựt mình theo phản xạ kéo tay lại nhưng hắn đã nắm chặt.
Mưa vẫn rơi trên mấy tàu lá dừa lộp độp. Rơi xuống cả mặt đất cằn đanh lại. Tiếng sóng vỗ oàm oạp bờ kè từ ngoài sông vọng vào. Lửa vẫn cháy bập bùng trong cái chòi tạm bợ như chẳng thể tạm bợ hơn. Có hai bóng người cứ nhích lại, nhích lại…
Xó biển bỗng nhiên có những cơn chấn động nho nhỏ. Từ xóm trên xóm dưới ai cũng bàn tán không dứt. Vài tháng trước, người ta xôn xao kể nhau nghe chuyện ông Trưởng ấp trong lúc rượt mấy thằng ăn cắp bị chúng đập cho vài gậy bể đầu chảy máu phải nhập viện. Ai cũng khen ông Trưởng ấp gan dạ, dám nhận lãnh nguy hiểm để bảo vệ trật tự an ninh xóm làng. Mấy tháng sau, người ta xôn xao cái tin giật gân chuyện cô Phấn có bầu. Ai cũng cố tìm hiểu, phân tích xem Phấn chửa với ai. Chị Hồng bán thịt heo quả quyết:
– Tui chắc con Phấn nó có bầu với thằng Câm!
– Thiệt hôn? – Bà Lành bánh canh xáp vô hỏi.
– Chắc mà. Dòm mặt tưởng hiền, dè đâu cũng thứ dữ.
Bà Ba Quân vừa vung dao chặt cái sọ heo vừa bô bô:
– Có ai hiền cái vụ đó đâu mấy bà ơi. Ờ héng, mà thằng chả đi đâu biệt? Hay bỏ của chạy lấy người?
Mấy người đàn bà phá lên cười.
– Mấy bà này lạ, biết có phải của thằng Câm không mà nói nó chi cho tội? – Ông Tư hũ tíu ngừng tay dọn dẹp mấy cái tô lên tiếng.
– Còn ai vô đây nữa mà hỏi? Hổng nó thì ai? Hổng lẽ ông? – Đám đàn bà phá lên cười.
Ông Tư lắc đầu đẩy tiếp cái xe hũ tiếu đi về.
Bước vào nhà, ông Tư ngồi nghỉ chút rồi cuốn điếu thuốc băn khoăn nghĩ. Thằng Câm bỏ cái xóm này đi mấy tháng ngay cái lúc con Phấn có bầu thì bà con tránh sao nghi ngờ. Cái thằng tệ, để lại cái bụng bầu cho con nhỏ… mà thân nó vậy xoay xở sao? Cô Phấn áng chừng cũng bằng tuổi thằng con lớn của ông. Phải chi cái chân cô Phấn không có tật thì cũng nhiều đám dòm ngó, hỏi cưới chớ đâu…
Ông Tư réo:
– Cu Lì, theo ba đến chợ thăm cô Phấn con.
– Dạ – Cu Lì nhảy phóc từ đống cát xuống theo ông Tư.
Ông Tư ghé tạp hóa mua lon sữa, kí đường. Nghĩ tới nghĩ lui thấy tội, ngày trước thằng Câm tốt bụng, gặp ai cũng tiếp giúp, cả xóm này thích nó. Nó hay tới lui nhà ông Tư nhất là kể từ sau ngày ông Tư bị xiết cái xe hủ tiếu. Có nó ông cũng đỡ buồn. Bà Tư mất sớm, mình ông Tư gà trống nuôi con cực nhọc. Thằng Câm thấy vậy mà thứ gì cũng biết. Nó đóng cho ông cái chuồng nuôi trăn lại cho ông mượn số tiền dành dụm đặng ông chuộc cái xe hủ tiếu đẩy đi bán cho đỡ cực. Tới cái chòi của Phấn, cu Lì gọi:
– Cô Phấn ơi, có nhà hôn? – Miệng nói tay tới, cu Lì đẩy miếng liếp ngó vô.
Phấn đang ngồi dựa lưng vào tấm phản, da nhợt nhạt, cái bụng tròn nhô lên. Thấy ông Tư vô, Phấn đứng lên mời ông với thằng cu Lì ngồi lên phản. Ông Tư ngó quanh cái chòi, xem chừng nó cũng rệu rã. Ông thấy lo, dòm cái bụng này chắc gần tháng sanh.
– Sắp sanh mà ở trong cái chòi này tao thấy không ổn nghe bay.
Ả lấy cái bánh cam đưa cho cu Lì, thằng nhỏ toét miệng cười cầm lấy liền miệng nhai rổn rảng.
– Không sao đâu chú Tư. Thấy vậy chớ chòi của con chắc lắm. Hôm bữa anh Câm lấy dây chì cột hết chơn rồi. Ảnh còn thay giúp con mấy cái cột.
Vậy là đích thị cái bụng bầu này của thằng Câm rồi, người ta nói chớ có sai, ông Tư nghĩ. Ông không thể nghĩ thằng Câm nó tệ đến vậy, lỡ gây cho con người ta chuyện động trời đó thì phải có trách nhiệm chớ sao để con nhỏ nó thế này, rồi mai mốt sanh nở…
– Hay bây qua tao ở tạm. Tao coi thằng Câm với bây như con tao. Thằng này nó bậy quá, nó để bây như vầy…
Phấn khựng lại, đưa tay bưng mặt, vai run lên, đôi chân tật nguyền khụm xuống, xịa bánh cam mới làm ụp xuống đất. Ả khóc hu hu như đứa con nít:
– Trời ơi, có khổ nào bằng khổ này không con…
Ông già Tư cúi xuống nâng ả dậy, thằng cu Lì nãy giờ nghe thủng câu chuyện mắt nó cũng đỏ hoe. Một đứa con nít như nó chưa hiểu hết thế nào là căm hận, nhục nhã nhưng nó biết thương cái thân thể tật nguyền của cô Phấn kia không biết làm thế nào để nuôi con, nó thương mấy cái bánh cam mới làm ngon lành thế mà đổ ập xuống lấm lem đất cát. Cu Lì quyệt nước mắt, đưa tay lượm mấy cái bánh cam… Ngoài trời gió bỗng rít lên, cái chòi xơ xác run lên bần bật. Trong chòi một già một trẻ đang nâng nhau đứng dậy…
Mấy ngày nay, xóm biển lại xôn xao bàn tán. Không ai biết cô Phấn bỏ cái chòi ở xó chợ đi đâu. Người ta chỉ thấy cái chòi trống huơ trống hoác lăn lóc mấy cái xoong méo mó mốc meo. Có người nói cô Phấn sanh thiếu tháng, đứa trẻ chưa biết khóc đã ngừng thở. Có người nói cô Phấn đau khổ quá nhẩy xuống biển tự tử. Cho nên nước biển khi đó nghe mấy người đi câu mực kể có mùi tanh như mùi máu. Có người lại nói có khi cô Phấn bê bụng đi tìm ba đứa bé – thằng Câm. Bà bán bún mắm còn đồn thổi cái chuyện khó tin là vào một buổi chiều, nắng đỏ rực một cách quái gở bà nhìn thấy một con cá lạ ưỡn cái bụng chửa trắng tởn quẩy đuôi hụp lặn đầu nguồn sông Bảy Háp thì bà thấy rõ mồn một cái đuôi của nó chẻ ra làm hai, một bên quặt lại dúm dó y chang đôi chân cô Phấn… Bà quả quyết cô Phấn hóa thành con cá lạ đó.
Chẳng ai bén mảng đến cái chòi của cô Phấn, dù nó rệu rã như răng bà già. Chính quyền địa phương cũng không dẹp nó đi cho đẹp vẻ mỹ quan. Chỉ có tay trưởng ấp, trên trán có vết thẹo dài đỏ ửng hay giật giật lên, thỉnh thoảng từ cái nhà văn hóa mắt láo liên ngó sang dòm chừng – ấy là thằng Cu Lì hay chơi chọi lon gần đó phát hiện ra.
Duy chỉ có ông già Tư là biết rõ sự thực. Cái ngày cô Phấn sắp chuyển dạ, thằng Câm bất thình lình xuất hiện. Nó về mang cô Phấn đi. Cô Phấn mắt ầng ậc nước, quỳ xuống lậy tạ ông già Tư đã cưu mang cô những ngày tháng nghiệt ngã và cho ông biết cái sự thật đắng nghét, sững sờ. Vào cái đêm mưa gió, khi thằng Câm quyết đi thành phố mần ăn đặng kiếm tiền về cưới cô Phấn sau khi nắm được tay cổ, thì một đêm mưa gió khác, khi hắn không còn ở xóm biển, nước tràn vô cái chòi cô Phấn phải di cư lên cái nhà văn hóa trú tạm. Cái đêm mưa gió bão bùng ấy, tay trưởng ấp mò đến nhà văn hóa, gã choáng khi nhìn thấy da thịt cô Phấn in rõ mồn một trên nền áo ướt. Máu nóng dồn lên mặt, gã chăm chăm nhìn vào khuôn ngực phập phồng, cái mông hẩy lên, nhấp nhô sau những bước di chuyển… Như một con thú đang cơn động đực, gã vồ lấy Phấn, đè nghiến lấy… Gã đã làm cái chuyện đồi bại trước khi cô Phấn dùng hết sức căm phẫn đạp y bật ngửa đầu va vào cái ghế dài dùng để bà con ngồi sinh hoạt… Gã đàn ông nồng nỗng rú lên ôm lấy trán…
Ông già Tư mỗi ngày đều bán hũ tíu gõ. Cứ chiều xuống, ông già Tư nổi lửa nấu nồi nước súp, còn cu Lì lóc cóc thanh tre gỗ khắp các hẻm nhỏ. Lâu dần cái xóm ở xó biển không ai còn nhắc đến chuyện mất tích cô Phấn với thằng Câm dù cái chòi vẫn còn đó, dù chỉ là một đống vụn vỡ cả tol và mấy cây đước. Chỉ có ông già Tư còn nhớ, chỉ có ông già Tư biết thằng Câm quyết dắt cô Phấn đi vì tình yêu, vì quyết định hoàn toàn bản năng, theo linh tính như những con thú đánh hơi thấy sự nguy hiểm.
Ông Tư cần mẫn đẩy xe hủ tiếu, cái bóng cao gầy của ông xuống đường quê. Dòng sông cạnh con đường nhuộm ráng chiều đỏ rực, nắng xế tạt nắng lên tán cây, nhuộm vàng tóc cu Lì. Xóm xó biển đẹp lạ lùng…
Trăng lặng lẽ – Nguyễn Hồng Dung
Chiếc xe Min cũ kỹ, nước sơn tróc loang lổ, máy nổ phành phành chói tai. Người đàn ông cầm lái mặc chiếc áo bộ đội cáu ghét, tỏa ra mùi mồ hôi chua nồng. Anh ta cho xe chạy như điên, lách qua những ổ gà ổ voi trên con đường lổn nhổn đá như làm xiếc.
“Chậm thôi!”, Viên hét.
“Đừng sợ. Tôi có mười năm thâm niên chạy đường núi rồi! Chưa làm ai sứt một tẹo da!”, anh gào to đáp lại.
“Cô về đây nhận công tác? Bác sĩ hay cô giáo?”
“Đại loại thế.” Cô đáp hờ hững.
Rừng núi lao qua họ. Lác đác những mái rạ mốc thếch nép vào sườn núi. Viên nhắm mắt mệt mỏi, bồng bềnh lạc vào cơn mơ ngay trong thực tại.
Khịch. Chiếc xe dừng lại.
“Gì thế?”, Viên mở choàng mắt.
Họ đứng trước một chân dốc dựng đứng, lởm chởm đá.
“Phải xuống đi bộ một đoạn. Bên kia đèo là làng rồi.”
Chiếc ba lô trên vai nặng trĩu. Đi được vài bước, xoạch, chiếc dép cao gót lật tỏi, cô ngã chỏng chơ. Tuyệt vọng ném chiếc dép bung quai xuống vệ đường, Viên cố lên tới đỉnh dốc. Dưới chân cô là khe suối reo vui, nước trong vắt. Phía xa, một thung lũng nghèo nàn nằm phơi mình trong ánh nắng thu. Dòng nước ấm nóng ứa ra từ hai hốc mắt mệt mỏi đờ đẫn, cô nằm vật ra tảng đá trên đỉnh đèo. Trên đầu là bầu trời xanh ngắt, những đụn mây xốp nhởn nhơ. Một thứ tự do không hạn định. Mãi rồi những tiếng nức nở mới bật thoát ra khỏi lồng ngực. Mây trời nhòe đi. Một nỗi đau tê dại lan ra toàn cơ thể. Ý nghĩ rằng ngôi làng nghèo nàn kia là mồ chôn tuổi trẻ với những mối tình lãng mạn bay bổng một thời của mình khiến Viên cảm thấy tuyệt vọng.
Giật mình, Viên choàng dậy. Trước mặt cô lố nhố những gương mặt thơ trẻ, mắt đen to thô lố nhìn cô, tò mò cực độ.
“Có phải cô là cô giáo mới không ạ?” Đứa lớn nhất lên tiếng.
Cô gật đầu, lau vội ước mắt. Thì ra lũ trẻ đi đón cô giáo mới. Một đoàn rồng rắn hò hét xách túi đồ cho Viên chạy rầm rập trên đường làng, bụi tung mù mịt. Cái tin cô giáo mới về được truyền từ người này sang người kia, lan ra khắp thung lũng.
Ngôi trường nằm dưới chân một dãy núi. Nói là trường cho oai, thực ra đó chỉ là một dãy nhà ngói thấp tè, tường tróc nham nhở từng mảng lớn. Những gò đụn lô nhô trên sân chơi. Dãy nhà nhỏ, lợp tranh phía sau trường là nơi cho các thầy cô giáo ở đang vắng tanh vắng ngắt. Chỉ có một đàn gà nhởn nhơ kiếm ăn trong sân.
Đám trẻ đưa Viên vào một căn phòng nhỏ rồi lát sau tản đi hết. Cô đi ra giếng múc nước rửa mặt. Nước giếng mát lịm khiến cô tỉnh người. Cùng lúc dạ dày báo tín hiệu về cái đói. Trong căn phòng dành cho Viên có một mâm cơm còn nóng. Cô ăn ngon lành. Trên tường dán những họa báo màu, những bài thơ chép tay và chi chít những câu vô nghĩa. Chắc được ai đó viết ra trong những ngày dài buồn chán.
Buổi chiều, Viên lên đầu dốc, ngồi bó gối nhìn ra xa, giữa trùng điệp núi đồi. Màu cỏ tranh bắt nắng rộm vàng, như cháy lên một nỗi buồn man mác. Thỉnh thoảng mới thấy một bóng người lướt qua trên con đường mòn dẫn từ phía đồi xuống. Viên nhớ cồn cào cái thành phố ồn ào giờ đã cách hàng trăm cây số. Nhớ ánh điện lung linh luôn làm cháy lên khát vọng đổi đời. Ra trường, ba bốn năm loạng choạng trên thành phố, chẳng đến nỗi đói bữa nào nhưng chưa khi nào cô cảm thấy hạnh phúc. Mãi vẫn không thoát khỏi căn phòng trọ tồi tàn, tiếng cắn chửi nhau của hàng xóm như những bài tình ca cũ mèm lặp đi lặp lại bất kể sáng chiều. Công việc phập phù, luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tuyệt vọng. Những ái ân nhàu nát trên tấm nệm mốc meo. Nhiều lúc Viên cảm giác cô và Thanh yêu đương ân ái chỉ vì muốn chạy trốn nỗi cô đơn chán chường và trốn chạy chính mình. Nhưng sao bây giờ nơi đó lại tấy lên trong cô cảm giác tiếc nhớ và đau xót?
Một người đàn ông đang đi lên đỉnh đồi, hướng cái nhìn điềm tĩnh và ân cần về phía cô. Một ống tay áo của anh thõng xuống, đung đưa theo nhịp bước. Khuôn mặt sạm nắng, đôi mắt sâu ẩn chứa những tia sáng vui vẻ.
“Chắc cô là Viên phải không? Tên tôi là Nam. Xin lỗi vì tôi không đi đón cô được.”
Anh hỏi xem cô đã ăn uống gì chưa, rồi lấy thêm một số đồ đạc, nói phải đi thăm bệnh nhân ngay.
Người đàn ông đi những bước nhanh vội vã.
Viên vụt đứng dậy: “Này, anh ơi! Bao giờ thì thầy hiệu trưởng về ạ?”
Quay lại, anh bật cười: “Trường đến giờ này chỉ có hai chúng ta thôi.”
“Anh kiêm cả thầy thuốc?”
“Biết nói sao nhỉ… Việc gì trong làng này tôi cũng dính vào một tí ti.”
“Cho tôi đi theo được không?”
Anh hơi ngần ngại: “Cô sẽ mệt đấy.”
“Tôi muốn xem cuộc sống ở đây thế nào.”
“Bệnh nhân bị sao?” Viên hỏi trong khi đi như chạy theo sau anh hiệu trưởng trẻ.
“Đây là một ca đỡ đẻ.”
“Ối!” Viên kêu lên và bưng miệng, kìm lại nỗi kinh ngạc. “Anh… hành nghề này lâu chưa?”
“Nghề nào? Đỡ đẻ ấy à? Trẻ con nửa làng này là do tôi đón ra đời!”
o O o
Nơi họ đến là một túp lều nằm dưới chân một quả đồi. Đám trẻ con ba bốn đứa lau tau đứng ở sân, thập thò ngó đầu vào.
Một bà đứng ở bậc thềm, quát: “Xéo ra ngoài kia chơi đi!”
Đám trẻ thụt vào sau chái nhà.
Rồi bà đon đả ra đón họ, trên mặt đầy vẻ lo lắng: “Dạ, mời thầy vào! Em nó kêu la dữ lắm!”
Viên tần ngần đứng ở bậc thềm. Những tiếng động viên rất dịu dàng của Nam lẫn với tiếng người đàn bà kêu rên thảm thiết.
“Chị ấy sinh lần đầu à bác?”
Bà gật đầu. Đã lâu lắm rồi Viên mới gặp một phụ nữ ăn trầu nhuộm răng đen.
Bà ngồi bệt xuống sàn, lo lắng: “Nó đau đã hai ngày nay. Cầu trời cầu phật phù hộ…”
Nam bước ra sân. Anh vừa lau tay vào chiếc khăn bông vừa thông báo: “Cô ấy sắp sinh. Bác vào bên cạnh cô ấy đi, hướng dẫn cho thở đều, dưỡng sức.”
Nam lôi thuốc ra hút, khuôn mặt hơi đăm chiêu. “Có gì bất bình thường không?”
Anh lắc đầu, thở ra một hơi khói dài đặc sánh. “Nhưng cô ấy yếu quá.”
Tiếng chị ta nghiến răng ken két để kìm nén cơn đau khiến Viên sợ nổi da gà. Trên chiếc ổ rơm ở góc nhà, một người đàn bà nhỏ thó, cởi truồng để lộ ra cái bụng kềnh càng đang lăn lộn, gồng mình lên bởi cơn đau. Người chị ta xanh tái, gân nổi lên chằng chịt trên tay, trên cổ. Mồ hôi vã ra, ướt đẫm chiếc áo thun xanh. Mỗi cơn đau khiến cho cổ chị ta vươn dài ra phía trước. Đột nhiên, hai cánh tay của chị làm Viên chú ý: đôi tay rất nhỏ, hai bàn tay khòng quặp vào phía lòng. Trong cơn đau đớn, chị gọi tên thầy Nam, van lạy anh cứu chị. Rồi bất ngờ chị quay ra rủa xả anh một cách thậm tệ.
“Anh thấy thế nào?”
Anh cười, thổi phù điếu thuốc đang cháy khiến tàn lửa đỏ rơi lả tả xuống áo. “Cô nào lần đầu đẻ mà lại không chửi tôi? Họ cứ nghĩ rằng trong cái túi này – anh vỗ bồm bộp vào cái túi đựng dụng cụ đeo kè kè bên mình – có những liều thuốc giúp họ hết đau hay sao ấy.”
“Anh phải làm gì cho chị ấy đi chứ?” Viên nôn nóng.
“Tôi biết lúc nào cần làm gì. Đừng lo.”
Những tiếng thở dốc, rên la quằn quại. Viên sốt ruột lo lắng. Có tiếng đồ vật đổ vỡ. Chị ta đã đạp xô khúc gỗ chắn ngang làm chỗ tì chân, khiến đám thau chậu rơi loảng xoảng. Cơn đau đã cho chị một sức mạnh kinh người.
Bà mẹ xuống bếp. Hai tay bà run rẩy khi cầm siêu nước.
Viên đỡ lấy, rót vào phích. “Người nhà đi đâu cả rồi hả bác?”
Bà thở dài, hàng nước mắt lặng lẽ bò trên gò má khô khốc. “Số con bé nhà tôi khổ lắm! Nó từ nhỏ đã tật nguyền. Rồi chẳng biết nghe lời đứa nào xúi dại, mang thai… Mãi tới gần đây tôi mới biết. Nó thắt bụng chặt lắm. Ông nhà tôi nhục quá, uống thuốc tự vẫn suýt chết. Rồi ông đuổi nó đi. Thầy giáo đứng lên dàn xếp, cho nó dọn ra ở ngoài núi này…”
“Ai đó phụ tôi với!”
Nghe giọng thầy, hai người như bị điện giật, đứng phắt dậy tất tả chạy vào buồng. Nhưng một cái gì đó giữ chân cô lại. Cô sợ.
Nam đang hướng dẫn thai phụ thở và rặn. Những lời động viên khích lệ khiến chính Viên cũng có cảm giác yên tâm. “Cố lên! Một chút nữa thôi!”
Khi Viên đủ can đảm chạy vào buồng cũng là lúc người đàn ông lôi đứa bé ra khỏi lòng người mẹ, tiếng khóc to vang cả nhà phá tan bầu không khí căng thẳng. Một cảnh tượng vô cùng kinh hoàng và cảm động. Người đàn bà nằm trong vũng máu của chính mình, cố nhìn đứa con mới chào đời. “Con trai!” Nam cắt rốn, rồi đặt nó vào trong một tấm khăn. Bà già mừng rỡ đón đứa bé. Người mẹ trẻ gương mặt đẫm mồ hôi cũng nở một nụ cười mệt mỏi, rồi nhắm nghiền mắt lại.
Đứa bé nhanh chóng được tắm rửa, thay tã lót. Người đàn ông chỉ có một cánh tay lành lặn nhưng tiến hành mọi việc thật thuần thục. Viên chìa tay đón đứa bé. Nâng niu một sinh thể trên tay, tự nhiên Viên xúc động, suýt trào nước mắt.
o O o
Đã hơn mười giờ đêm. Cả làng chìm trong giấc ngủ. Bầu trời thu đầy sao. Dải ngân hà vắt ngang bầu trời, chói sáng. Sương xuống hơi lạnh, khiến vô tình họ đi sát vào nhau hơn. Thỉnh thoảng nghe đâu đó có tiếng chó sủa. Một con chó đứng ở đầu cổng một ngôi nhà nào đó, thấy họ đi qua, sủa toáng, nhưng khi hai người đến gần, nó cụp đuôi ve vẫy mừng.
– Tôi đi đêm nhiều đến nỗi chó quen mặt.
Viên bật cười. Bóng tối phủ xuống làm mềm đi những đường nét khắc khổ trên gương mặt người đàn ông.
– Anh về đây lâu chưa?
– Đủ thời gian để chứng kiến không dưới vài mươi cuộc ra đi của các đồng nghiệp.
Họ dừng lại nơi đỉnh đồi, chọn một phiến đá phẳng ngồi xuống. Những cơn gió nhẹ mang theo mùi ngai ngái của cây lá, cái lạnh của sương đêm vùng núi đồi.
– Thật là lạ lùng và tuyệt vời – Bỗng Viên thốt lên.
– Cái gì cơ?
– Lần đầu tiên tôi được xem một con người chào đời…
Nam kể, cách đây một tháng, cô ấy suýt bị ông bố giết chết. Ông ấy phi thẳng một con dao vào mặt cô, may mà cô ấy kịp ngồi thụp xuống tránh được. Con dao rựa cắm phập vào cột nhà. Nam dàn hòa mãi, cuối cùng cô ấy mới được cho ra rìa làng dựng tạm một cái chòi.
– Nhưng cô ấy đã có cái mà cô mong ước. Với phụ nữ, làm mẹ là một hạnh phúc không gì thay thế được. Cô ấy đã dám làm.
Nam liếc nhìn vào mắt cô, hơi mỉm cười. Trong đêm tối, nụ cười của anh dịu dàng và thật đẹp.
– Người dân ở đây sống đơn giản, nhiều khi đến mức nực cười. Nhiều hủ tục còn tồn tại. Nhưng họ chất phác và có một tấm lòng rộng mở. Bọn trẻ thì dễ thương lắm. Rồi cô sẽ thấy.
Viên hình dung những khuôn mặt lem luốc lúc chiều và thoáng cười.
Cô quay hẳn về phía anh khi nghe giọng nói đầy dịu dàng:
– Có thể Viên sẽ yêu nơi này hoặc là không. Đơn giản hãy coi đây là một miền đất mà cô được đi qua trong cuộc đời. Nhiều cô giáo đã đến đây rồi bỏ về ngay sau vài ngày đầu tiên. Có người vì không chịu nổi cái nhà vệ sinh ở đây. Có người phát điên vì buồn chán…
– …
– Trước kia tôi cũng đã không tìm thấy ý nghĩa tồn tại của chính bản thân mình. Nhưng bây giờ tôi thấy mình cần có mặt ở đây. Khi nào cảm thấy mình có ích cho một ai đó là ta đang hạnh phúc.
Viên lắng nghe anh nói và cảm thấy ngạc nhiên. Đúng là lâu lắm rồi cô không cảm thấy mình có ích cho ai cả. Những tháng năm loạng choạng trên thành phố cũng chỉ vì cuộc mưu sinh của riêng bản thân cô mà thôi.
– Khi mới được phân công về đây ngày nào tôi cũng uống rượu. Một niêu cơm ăn cả ngày. Hằng tháng đi 300 cây số đường bộ về thăm vợ. Đến khi được trở về thành phố thì hai đứa chia tay nhau… Mấy tháng sau tôi lại xách ba lô ngược lên đây. Thú thực, lúc đó tôi mới nhận ra mình yêu và nhớ nơi này.
Bầu không khí tinh khiết và se lạnh. Hơi ấm từ người đàn ông xa lạ lan tỏa sang cô. Viên nhắm mắt, một ước muốn điên rồ lướt qua đầu – muốn được ngả đầu trên vai con người từng trải ấy. Không hiểu sao cô cảm nhận được ở anh sự mạnh mẽ và sự chở che… Nơi đâu cũng có những con người tuyệt vời, cô thầm nghĩ.
– Này, tôi quên mất, phải ăn một chút chứ nhỉ?
Anh nhanh nhẹn vặt một chiếc lá chuối trải rộng ra phiến đá rồi lấy đồ ăn mà bà mẹ nhét vào trong chiếc túi rết, đem bày lên đó. Nửa con gà, một gói xôi, cút rượu, mấy trái cam.
– Xôi nếp ở làng này ngon lắm. Khi về thành phố tôi nhớ nó gần chết!
Thỉnh thoảng có tiếng cú rúc đâu đó trong đêm. Bỗng Viên ngừng nhai, cô thốt lên đầy vui sướng:
– Trăng kìa!
Một vầng trăng rạng rỡ đang lặng lẽ nhô lên phía đường chân trời. Ánh sáng dịu dàng, mong manh và trong suốt. Bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa. Thung lũng hiện ra trong ánh trăng bạc lung linh, diễm kiều và như đang say ngủ. Dưới ánh trăng những mái rạ cũ kỹ trở nên đẹp lạ thường. Dòng suối bạc lung linh hình như đang ca hát… Nhiều năm qua cô không được nhìn thấy cảnh trăng lên, cả đời cô chưa từng trông thấy quang cảnh nào tuyệt vời đến vậy. Phút giây này bỗng nhiên cô muốn khóc. Hạnh phúc đôi khi giản dị đến mức khó mà định nghĩa nổi.
– Tuyệt vời! – Viên thì thào.
– Hết buồn chưa?
– Anh muốn làm em vui sao?
– Không hẳn. Tôi chỉ muốn nói rằng biết cách thưởng thức cuộc sống ta sẽ thấy hài lòng và hạnh phúc.
Anh chuyển cút rượu cho cô. Mở nút lá chuối, cô ngửa cổ tu một ngụm. Hương thơm dịu và chất đắng nồng nàn xộc vào cổ.
– Ngon lắm! Nhưng anh chống lại nỗi cô đơn bằng cách nào?
Người đàn ông không trả lời, ngửa mặt nhìn trăng cười mơ mộng. Viên nói, và hốt hoảng nhận ra giọng mình giống như tiếng thở dài:
– Anh thật may mắn và hạnh phúc!
– Cũng chưa hẳn đã được như những gì Viên nghĩ. Tình yêu luôn cho tôi cảm giác như những làn gió hay là hương hoa. Đẹp mà khó nắm giữ lâu dài.
Hình như Viên đã uống sang ngụm thứ ba. Một luồng khí chạy trên sống lưng lành lạnh. Một nỗi niềm không thể diễn tả thành lời. Có thể bi kịch của Viên rồi sẽ ngoặt theo một hướng khác. Nhưng không sao, ở tuổi 28 dường như cô vừa học được cách bình thản đón nhận tất cả những vang động đến trong cuộc đời. Sống, là khám phá.
– Rượu ngon và trăng sáng quá! – Viên nói, như với chính mình.